• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 28/08/2012 in Bài viết

  1. Kính Thầy, Vừa nghe tin sốc Thầy quyết định chấm dứt TTNC LHDP, VinhL rất là buồn như sẻ mất đi một mái trường thân yêu. VinhL hiểu rằng do môi trường và hoàn cảnh không thuận lợi đã dẫn đến sử quyết định này của Thầy. Mấy năm qua VinhL đã sưu tầm, nghiên cứu, và thu thập kiến thức của rất nhiều trường phái phong thủy, để hy vọng có dịp cùng Thầy và các huynh đệ tỷ muội đàm luận, e rằng sau này khó mà có cơ hội đó. Củng nhờ trao dồi Hán ngữ trong vài năm qua, nên VinhL đã có thể vào các trang web Hán để mà thu thập thông tin liên quan đến Việt Sử 5000 năm văn hiến, này xin tặng Thầy hai đường link này: Phố Tân Hội 新會 http://zh-yue.wikipedia.org/wiki/%E6%96%B0%E6%9C%83 Đây là một phố cổ của tỉnh Quảng Đông, trong trang wikipedia Hán, họ củng công nhận phố này 5000 năm trước là vùng sinh hoạt của người Việt Cổ!!! Trích: 喺5000幾年前嘅新石器時代,新會重係珠江口上嘅一個海灣,之後西江泥沙長期淤積成陸。嗰陣時就有古越族人喺度漁獵、生活。近呢幾十年來,喺新會發現咗好多新石器時代嘅古人生活遺址,包括有都會貝丘遺址、梅閣炮台山沙丘遺址等,挖掘出一批有拍印紋飾嘅陶器碎片、粗陶器等文物。 Động Đình Hồ - 洞庭湖 Kinh Vĩ độ Google: 28.892779, 112.560425 http://zh.wikipedia.org/wiki/%E6%B4%9E%E5%BA%AD%E6%B9%96 http://zh.wikipedia.org/wiki/File:Lake_Dongting.GIF Theo tấm hình phía trên, Hồ Động Đình nằm trong tỉnh Hồ Nam (湖南省) chính là phía nam của dòng Trường Giang (Dương Tử)!!!
    7 likes
  2. Chào VinhL Lâu lắm mới thấy VinhL quay trở lại diễn đàn. Anh em hiện tại do nhiều việc liên quan đến cuộc sống nên chưa tập trung vào nghiên cứu chuyên sâu. Mọi người vẫn dõi theo bước chân của VinhL dù ở bất cứ nơi đâu. Chúc VinhL đạt được thành công trong nghiên cứu Thân Hạt gạo làng
    6 likes
  3. Cảm ơn ATN chia sẻ.TTNC LHDP là một tổ chức phi chính phủ,của Việt Nam. Nó do tư nhân - cụ thể là cá nhân tôi xúc tiến thành lập dưới sự chủ quản của Hội Đông Nam Á. Nó tương tự như việc thành lập một Cty nào đó. Lúc đầu cũng có mấy người góp tiền vào thành lập TT - coi như hội đồng sáng lập. Nhưng sau đó thì chính ông giám đốc rút lui, còn lại chỉ những người có "trách nhiệm" tham gia. Tiền của những người có "trách nhiệm" này là của cá nhân họ, hay từ một quỹ nào đó, tôi không quan tâm. "Quân tử thì không trái lý" - đấy là Lý học phát biểu như vậy. Tóm lại TTNC LHDP - với tôi chỉ là phương tiện để tôi chứng minh luận điểm của mình - khi mà trước đây cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" đã bị ngót 20 Nxb từ chối cấp giấy phép. Và khi nó được xuất bản thì hầu hết các bộ phận phát hành đều từ chối. Khiến sách ế đến tận ....năm ngoái 2011, trong khi nó được xuất bản từ năm 2001. Cụ thể là bà Lan, trưởng phòng phát hành sách của Cty phát hành sách Phương Nam, phát biểu: "Sách của anh lập luận không chặt chẽ, nên chúng tôi từ chối phát hành". Bà ấy nói cứ như giáo sư viện sĩ Phan Huy Lê, với thẩm quyền học thuật. Bởi vậy, phương tiện chuẩn nhất chính là mạng internet và đó là lý do để TT hoạt động chủ yếu trên mạng. Tôi luôn tôn trọng tính chính danh. Bởi vậy, tôi cố gắng tuân thủ tuyệt đối những gì giấy phép cấp cho TT vốn là một tổ chức phi chính phủ - tức là phi chính trị. Đồng thời tuân thủ tính khoa học khi phản biện học thuật với đám tư duy "ở trần đóng khố" phủ nhận văn hóa sử truyền thống trải gần 5000 năm văn hiến. Phương tiện minh chứng của tôi về học thuật chính là những giá trị văn hóa phi vật thể, trong con mắt tha nhân(*) và tính khoa học thật sự của khái niệm này. Nhưng thật không may cho tôi, cho đến nay, thế nào là "cơ sở khoa học" thì tất cả cộng đồng khoa học thế giới thật sự - chứ không phải mấy tay ma cô học thuật nước ngoài được đám phủ nhận văn hóa sử Việt lăng xê lên là "cộng đồng khoa học quốc tế" - cũng chưa định nghĩa được thế nào là khái niệm "khoa học", chứ chưa nói đến "cơ sở khoa học" mà ông Phan Huy Lê, Giáo sư Viện sĩ, Hội trưởng Hội sử học Việt Nam nhiều lần nhắc đến. Bởi vậy, cho nên một con mẹ bán sách có cửa hàng như bà trưởng phòng phát hành sách Cty Phương Nam cũng lên giọng thẩm định được. Điều thứ hai là những di sản văn hóa phi vật thể thì khi tôi sử dụng nó vào năm 1998 thì mãi đến năm 2002, chính cơ quan văn hóa Liên Hợp Quốc mới thừa nhận là những bằng chứng trong những luận cứ khoa học. Cho nên tôi có thể thông cảm với những nhận xét của thế nhân cho những luận cứ của tôi. Chưa nói đến việc từ hơn 2000 năm qua, cả cái thế giới này tin như sấm - Lý học Đông phương của người Hán. Chỉ nội việc lật lại vấn đề này còn khó hơn cả Galile chứng minh trái Đất tròn vào thời điểm lịch sử của ông ta. Bởi vì, trái Đất là một vật hữu hình, chỉ bằng nhận xét trực quan là có thể xác định được. Vấn đề là phương tiện quan sát có đủ khả năng hỗ trợ cho các giác quan không. Bây giờ thì hỏi thằng bé con cũng thừa nhận trái Đất tròn. Còn thằng nào, con nào bảo trái đất vuông thì tôi tin chắc họ sẽ coi như tinh thần thiểu năng. Còn Lý học là một sự tồn tại phi vật thể, do nó là một lý thuyết - khốn nạn ở chỗ nó lại là một lý thuyết vượt trội lên tất cả mọi lý thuyết khoa học hiện nay. Cho nên mặc dù kiến thức khoa học hiện đại rất phát triển so với thời cách đây 50 năm - đến giai đoạn xuất hiện những lý thuyết khoa học. Cũng chưa dễ gì thẩm định được tôi nói đúng hay sai. Xin lỗi các nhà khoa học khả kính trên toàn thế giới - tôi vốn lấy hết tất cả tinh thần khiêm tốn trong tôi để nói câu này. Nhưng chính vì sự phát triển của một số lý thuyết khoa học rời rạc, nên nó hình thành một cách mơ hồ những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Nên chỉ những nhà khoa học thật sự uyên bác mới cảm nhận được rằng: Hình như, có vẻ tôi đã đúng. Tôi biết chắc chắn rằng: Sự chia sẻ với tôi của những nhà khoa học thật sự mới chỉ dừng ở đây. Tôi đang nói những nhà khoa học thực sự tầm cỡ quốc tế. Bởi vậy tôi phải đưa ra một vài thí dụ trực quan, như: 1) "Không có hạt của Chúa" từ năm 2008. Và cho đến bây giờ cả cộng đồng khoa học thế giới thực sự vẫn chưa xác định một cách chắc chắn rằng: Họ đã tìm ra hạt này. Chắc chẳng con ma nào hiểu được ý nghĩa của việc xácđịnh này. Mặc dù đó là công trình mũi nhọn, kết tinh cuối cùng của tất cả mọi lý thuyết khoa học hiện nay. Kết quả của cuộc thì nghiệm này sẽ quyết định tương lai văn minh của cả nhân loại. Vậy việc xác định "không có Hạt của Chúa" nhân danh nền văn hiến Việt có ý nghĩa gì? Đây không phải là câu trả lời của đám láo nháo với tư duy "ở trần đóng khố", vác cái mặt bằng cấp, học zdị, lên giọng chê bai. 2) "Không có người ngoài hành tinh". Nếu như không có thành tựu mới nhất của Hoa Kỳ đưa con tàu lên thám hiểm sao Hỏa thì có lẽ chẳng thể kiếm chứng được sự xác định của lý thuyết này. Hai năm sau, con tàu này sẽ hết nhiệm vụ. Lúc đó sẽ là hạn cuối cùng để xác nhận tôi đúng hay sai. Hoặc ngay ngày mai. Vâng! Tôi đang nói đến thành tựu khoa học mới nhất của Hoa Kỳ và đang diễn biến, chứ không phải thứ "cơ sở khoa học" của đám tư duy "Ở trần đóng khố", có từ 50 năm trược. Ý nghĩa của vấn đề có hay không sự sống ngoài trái Đất cũng không phải tầm để đám láo nháo đó đủ tư cách trả lời. Đấy cũng mới chỉ là những thí dụ trực quan, vào hàng dễ hiểu cho những nhà khoa học hàng đầu thế giới. Chứ không phải cho đám "ve chai. lông vịt", bày đặt phản biện vớ vẩn. Qua vài ví dụ đó, để ATN thấy được chỉ nội vấn đê học thuật không, nó đủ khó khăn như thế nào mà tôi phải xác định. Họ bảo tôi kiêu ngạo. Vâng! Đúng như vậy so với đám tư duy "ở trần đóng khố" phủ nhận văn hóa Việt. Sự kiêu ngạo của tôi vì tôi khinh bỉ đám dốt nát, tự vả vào mặt tổ tiên của chính họ. Không giải quyết được về mặt lý luận, nhân danh khoa học mà đám này rêu rao. Vậy, cái thế lực nào để cho một con mẹ hàng xén đến giữa văn phòng TT tại Hanoi chụp cái mũ chính trị cho tôi? Họ nhằm mục đích gì? Ngay cả những luận điểm của những web "lề trái" cũng chưa được hân hạnh chụp cái mũ này! Tôi không ngai những khó khăn về học thuật đích thực - mà nó cũng đã đủ cực kỳ khó khăn , như tôi đã nói ở trên - nhưng những khó khăn về điều kiện nghiên cứu của bản thân cũng đủ tôi đôi lúc tưởng như không thể vượt qua được. Nếu như không có mấy bà nhà quê răng đen, mắt toét "mê tín dị đoan", đến coi vài quẻ bói về tình duyên gia đạo, để vợ tôi có tiền đi chợ. Nay lại thêm một khó khăn nữa. Khó khăn vì bị chụp cái mũ "chính trị" cho bản thân. Cứ làm như nếu tôi là phản động thì mọi luận cứ của tôi sẽ không có "cơ sở khoa học" vậy! Bởi vậy, tôi không cần thanh minh gì về vấn đề này. Phải chăng, tôi là "phản động", "kiêu ngạo", "cờ bạc, gái gú" là "cơ sở khoa học" để chứng minh luận điểm Việt sử 5000 năm vắn hiến là sai? Cái tráo trở đến bỉ ổi của hành vi này là con mẹ hàng xén đó không nói câu đó ngay tại địa điểm Vườn hoa Lý Thái Tổ vào ngày 1/ 10. Mà để đến bây giờ mới nói! Còn lúc đó thì tôi được hân hạnh là người trong "ban tổ chức", cũng do chính con mẹ này đưa cho tôi? Việc tôi xác định 10 ngày không mưa trong Đại lễ "chẳng may đúng" - tức là chưa phải thực hiện phương án II - không phải để được công nhận, hay phủ nhận. Họ không đủ trình độ để xác định vấn đề, như tôi đã phân tích ở trên. Sự kiện này chẳng qua là để gây chú ý đến những luận điểm của tôi thôi. Còn để xác định vấn đề với trình độ khoa học hiện nay tương đối có thể cảm nhận được - thông qua phương tiện trực quan - vẫn là khi họ xác định "không có Hạt của Chúa"; hoặc "không có sự sống trên Sao Hỏa". Còn cái việc xác định 10 ngày không mưa thì quên đi cho nó nhanh. Thế giới này có thái bình và con người sống tương đối tử tế với nhau thì cũng đợi 200 năm nữa hãy bàn lại vấn đề này. Nhưng rất tiếc! Nó không được hoàn hảo như vậy! Nếu như bạn chỉ là một người lao động phổ thông - không cần phải động não nhiều - mà bạn bị quấy rầy, chắc cũng không thể làm việc được. Huống chỉ bạn nghiên cứu bất cứ một cái con khỉ gió gì và cần tập trung tư tưởng, mà bị quấy rầy thì chắc chắn bạn không thể làm việc được. Do đó, nói như giáo sư Ngô Bảo Châu - hẳn được các báo lề phải không phản động - đăng tải: "Khoa học phải có tự do". Tôi không dám mơ tưởng đến điều đó, vì chỉ nội sự quản chế chặt chẽ của bà xã tôi cũng đủ tôi sẽ thành một người có tư tưởng lãng mạn, nếu mơ ước điều này. Nên tôi thấy quan điểm của giáo sư Ngô Bảo Châu sai - tôi phản biện. Mà chỉ cần: 'Xin đừng làm phiền".
    6 likes
  4. Cảm ơn ATN chia sẻ.TTNC LHDP là một tổ chức phi chính phủ,của Việt Nam. Nó do tư nhân - cụ thể là cá nhân tôi xúc tiến thành lập dưới sự chủ quản của Hội Đông Nam Á. Nó tương tự như việc thành lập một Cty nào đó. Lúc đầu cũng có mấy người góp tiền vào thành lập TT - coi như hội đồng sáng lập. Nhưng sau đó thì chính ông giám đốc rút lui, còn lại chỉ những người có "trách nhiệm" tham gia. Tiền của những người có "trách nhiệm" này là của cá nhân họ, hay từ một quỹ nào đó, tôi không quan tâm. "Quân tử thì không trái lý" - đấy là Lý học phát biểu như vậy. Tóm lại TTNC LHDP - với tôi chỉ là phương tiện để tôi chứng minh luận điểm của mình - khi mà trước đây cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" đã bị ngót 20 Nxb từ chối cấp giấy phép. Và khi nó được xuất bản thì hầu hết các bộ phận phát hành đều từ chối. Khiến sách ế đến tận ....năm ngoái 2011, trong khi nó được xuất bản từ năm 2001. Cụ thể là bà Lan, trưởng phòng phát hành sách của Cty phát hành sách Phương Nam, phát biểu: "Sách của anh lập luận không chặt chẽ, nên chúng tôi từ chối phát hành". Bà ấy nói cứ như giáo sư viện sĩ Phan Huy Lê, với thẩm quyền học thuật. Bởi vậy, phương tiện chuẩn nhất chính là mạng internet và đó là lý do để TT hoạt động chủ yếu trên mạng. Tôi luôn tôn trọng tính chính danh. Bởi vậy, tôi cố gắng tuân thủ tuyệt đối những gì giấy phép cấp cho TT vốn là một tổ chức phi chính phủ - tức là phi chính trị. Đồng thời tuân thủ tính khoa học khi phản biện học thuật với đám tư duy "ở trần đóng khố" phủ nhận văn hóa sử truyền thống trải gần 5000 năm văn hiến. Phương tiện minh chứng của tôi về học thuật chính là những giá trị văn hóa phi vật thể, trong con mắt tha nhân(*) và tính khoa học thật sự của khái niệm này. Nhưng thật không may cho tôi, cho đến nay, thế nào là "cơ sở khoa học" thì tất cả cộng đồng khoa học thế giới thật sự - chứ không phải mấy tay ma cô học thuật nước ngoài được đám phủ nhận văn hóa sử Việt lăng xê lên là "cộng đồng khoa học quốc tế" - cũng chưa định nghĩa được thế nào là khái niệm "khoa học", chứ chưa nói đến "cơ sở khoa học" mà ông Phan Huy Lê, Giáo sư Viện sĩ, Hội trưởng Hội sử học Việt Nam nhiều lần nhắc đến. Bởi vậy, cho nên một con mẹ bán sách có cửa hàng như bà trưởng phòng phát hành sách Cty Phương Nam cũng lên giọng thẩm định được. Điều thứ hai là những di sản văn hóa phi vật thể thì khi tôi sử dụng nó vào năm 1998 thì mãi đến năm 2002, chính cơ quan văn hóa Liên Hợp Quốc mới thừa nhận là những bằng chứng trong những luận cứ khoa học. Cho nên tôi có thể thông cảm với những nhận xét của thế nhân cho những luận cứ của tôi. Chưa nói đến việc từ hơn 2000 năm qua, cả cái thế giới này tin như sấm - Lý học Đông phương của người Hán. Chỉ nội việc lật lại vấn đề này còn khó hơn cả Galile chứng minh trái Đất tròn vào thời điểm lịch sử của ông ta. Bởi vì, trái Đất là một vật hữu hình, chỉ bằng nhận xét trực quan là có thể xác định được. Vấn đề là phương tiện quan sát có đủ khả năng hỗ trợ cho các giác quan không. Bây giờ thì hỏi thằng bé con cũng thừa nhận trái Đất tròn. Còn thằng nào, con nào bảo trái đất vuông thì tôi tin chắc họ sẽ coi như tinh thần thiểu năng. Còn Lý học là một sự tồn tại phi vật thể, do nó là một lý thuyết - khốn nạn ở chỗ nó lại là một lý thuyết vượt trội lên tất cả mọi lý thuyết khoa học hiện nay. Cho nên mặc dù kiến thức khoa học hiện đại rất phát triển so với thời cách đây 50 năm - đến giai đoạn xuất hiện những lý thuyết khoa học. Cũng chưa dễ gì thẩm định được tôi nói đúng hay sai. Xin lỗi các nhà khoa học khả kính trên toàn thế giới - tôi vốn lấy hết tất cả tinh thần khiêm tốn trong tôi để nói câu này. Nhưng chính vì sự phát triển của một số lý thuyết khoa học rời rạc, nên nó hình thành một cách mơ hồ những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Nên chỉ những nhà khoa học thật sự uyên bác mới cảm nhận được rằng: Hình như, có vẻ tôi đã đúng. Tôi biết chắc chắn rằng: Sự chia sẻ với tôi của những nhà khoa học thật sự mới chỉ dừng ở đây. Tôi đang nói những nhà khoa học thực sự tầm cỡ quốc tế. Bởi vậy tôi phải đưa ra một vài thí dụ trực quan, như: 1) "Không có hạt của Chúa" từ năm 2008. Và cho đến bây giờ cả cộng đồng khoa học thế giới thực sự vẫn chưa xác định một cách chắc chắn rằng: Họ đã tìm ra hạt này. Chắc chẳng con ma nào hiểu được ý nghĩa của việc xácđịnh này. Mặc dù đó là công trình mũi nhọn, kết tinh cuối cùng của tất cả mọi lý thuyết khoa học hiện nay. Kết quả của cuộc thì nghiệm này sẽ quyết định tương lai văn minh của cả nhân loại. Vậy việc xác định "không có Hạt của Chúa" nhân danh nền văn hiến Việt có ý nghĩa gì? Đây không phải là câu trả lời của đám láo nháo với tư duy "ở trần đóng khố", vác cái mặt bằng cấp, học zdị, lên giọng chê bai. 2) "Không có người ngoài hành tinh". Nếu như không có thành tựu mới nhất của Hoa Kỳ đưa con tàu lên thám hiểm sao Hỏa thì có lẽ chẳng thể kiếm chứng được sự xác định của lý thuyết này. Hai năm sau, con tàu này sẽ hết nhiệm vụ. Lúc đó sẽ là hạn cuối cùng để xác nhận tôi đúng hay sai. Hoặc ngay ngày mai. Vâng! Tôi đang nói đến thành tựu khoa học mới nhất của Hoa Kỳ và đang diễn biến, chứ không phải thứ "cơ sở khoa học" của đám tư duy "Ở trần đóng khố", có từ 50 năm trược. Ý nghĩa của vấn đề có hay không sự sống ngoài trái Đất cũng không phải tầm để đám láo nháo đó đủ tư cách trả lời. Đấy cũng mới chỉ là những thí dụ trực quan, vào hàng dễ hiểu cho những nhà khoa học hàng đầu thế giới. Chứ không phải cho đám "ve chai. lông vịt", bày đặt phản biện vớ vẩn. Qua vài ví dụ đó, để ATN thấy được chỉ nội vấn đê học thuật không, nó đủ khó khăn như thế nào mà tôi phải xác định. Họ bảo tôi kiêu ngạo. Vâng! Đúng như vậy so với đám tư duy "ở trần đóng khố" phủ nhận văn hóa Việt. Sự kiêu ngạo của tôi vì tôi khinh bỉ đám dốt nát, tự vả vào mặt tổ tiên của chính họ. Không giải quyết được về mặt lý luận, nhân danh khoa học mà đám này rêu rao. Vậy, cái thế lực nào để cho một con mẹ hàng xén đến giữa văn phòng TT tại Hanoi chụp cái mũ chính trị cho tôi? Họ nhằm mục đích gì? Ngay cả những luận điểm của những web "lề trái" cũng chưa được hân hạnh chụp cái mũ này! Tôi không ngai những khó khăn về học thuật đích thực - mà nó cũng đã đủ cực kỳ khó khăn , như tôi đã nói ở trên - nhưng những khó khăn về điều kiện nghiên cứu của bản thân cũng đủ tôi đôi lúc tưởng như không thể vượt qua được. Nếu như không có mấy bà nhà quê răng đen, mắt toét "mê tín dị đoan", đến coi vài quẻ bói về tình duyên gia đạo, để vợ tôi có tiền đi chợ. Nay lại thêm một khó khăn nữa. Khó khăn vì bị chụp cái mũ "chính trị" cho bản thân. Cứ làm như nếu tôi là phản động thì mọi luận cứ của tôi sẽ không có "cơ sở khoa học" vậy! Bởi vậy, tôi không cần thanh minh gì về vấn đề này. Phải chăng, tôi là "phản động", "kiêu ngạo", "cờ bạc, gái gú" là "cơ sở khoa học" để chứng minh luận điểm Việt sử 5000 năm vắn hiến là sai? Cái tráo trở đến bỉ ổi của hành vi này là con mẹ hàng xén đó không nói câu đó ngay tại địa điểm Vườn hoa Lý Thái Tổ vào ngày 1/ 10. Mà để đến bây giờ mới nói! Còn lúc đó thì tôi được hân hạnh là người trong "ban tổ chức", cũng do chính con mẹ này đưa cho tôi? Việc tôi xác định 10 ngày không mưa trong Đại lễ "chẳng may đúng" - tức là chưa phải thực hiện phương án II - không phải để được công nhận, hay phủ nhận. Họ không đủ trình độ để xác định vấn đề, như tôi đã phân tích ở trên. Sự kiện này chẳng qua là để gây chú ý đến những luận điểm của tôi thôi. Còn để xác định vấn đề với trình độ khoa học hiện nay tương đối có thể cảm nhận được - thông qua phương tiện trực quan - vẫn là khi họ xác định "không có Hạt của Chúa"; hoặc "không có sự sống trên Sao Hỏa". Còn cái việc xác định 10 ngày không mưa thì quên đi cho nó nhanh. Thế giới này có thái bình và con người sống tương đối tử tế với nhau thì cũng đợi 200 năm nữa hãy bàn lại vấn đề này. Nhưng rất tiếc! Nó không được hoàn hảo như vậy! Nếu như bạn chỉ là một người lao động phổ thông - không cần phải động não nhiều - mà bạn bị quấy rầy, chắc cũng không thể làm việc được. Huống chỉ bạn nghiên cứu bất cứ một cái con khỉ gió gì và cần tập trung tư tưởng, mà bị quấy rầy thì chắc chắn bạn không thể làm việc được. Do đó, nói như giáo sư Ngô Bảo Châu - hẳn được các báo lề phải không phản động - đăng tải: "Khoa học phải có tự do". Tôi không dám mơ tưởng đến điều đó, vì chỉ nội sự quản chế chặt chẽ của bà xã tôi cũng đủ tôi sẽ thành một người có tư tưởng lãng mạn, nếu mơ ước điều này. Nên tôi thấy quan điểm của giáo sư Ngô Bảo Châu sai - tôi phản biện. Mà chỉ cần: 'Xin đừng làm phiền". BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH.
    6 likes
  5. Lâu quá không thấy VinhL vào diễn đàn làm tôi cũng buồn. Nay đúng lúc này VinhL vào đây chia sẻ thật là một điều an ủi cho tôi. Tôi thường dặn anh chị em rằng: Thu thấp tất cả những tài liệu về phong thủy trong cổ thư và còn lưu truyền trong dân gian. Lấy Hà Đồ phối Hậu thiên Lạc Việt để đối chiếu, so sánh, hiệu chỉnh. Tôi rất tin tưởng và hy vọng vào VinhL. Tôi đã quyết định xong về TT. Chúc VinhL vạn sự an lành.
    5 likes
  6. Chào VinhL, Là 1 người thế hệ sau nhưng cũng nghe tiếng anh trên giang hồ đã lâu :). Rất cảm kích tâm huyết và học thuật của anh. Cho dù TT có giải thế thì Sư phụ và anh em vẫn còn, hy vọng anh em sau này sẽ đủ sức luận đàm với anh và tiếp bước Sư phụ! Thân mến!
    5 likes
  7. Còn đúng 1g nữa là sang giờ Tý ngày hôm sau. Tôi bắt đầu ngưng sinh hoạt trên diễn đàn này với số ngày trừ đi số người bấm nút cảm ơn. Cho đến lúc này là 16 ngày. Và sẽ giảm dần cho đến khi số ngày nghỉ bằng số người nhấn nút = 30, tiếp theo. Nhưng nếu có dưới 15 người ngoài TTNC LHDP thì tôi sẽ giải tán TT này. Bởi vậy lúc này tôi còn thời gian để trả lời Văn Lang:Diễn đàn này có hàng ngàn người và hàng trăm hội viên vào mỗi ngày. Họ hỏi hàng trăm thứ và những thành viên trên diễn đàn - trong đó có tôi - đã nhiệt tình tư vấn giúp họ. Họ cũng biết mục tiêu của TTNC LHDP là vinh danh Việt sử 5000 năm văn hiến. Vậy mà không có nổi 30 người click nút cảm ơn. Đủ hiểu sự quan tâm của tha nhân như thế nào với cội nguồn dân tộc, thì trách ai được nữa. Bắt đầu ngày mai tôi sẽ ngưng hoạt động cho đến khi con số click nút cảm ơn tăng lên và trùng khớp với số ngày tôi ngưng sinh hoạt. Nếu số người nhấn nút dưới 15 người sau khi trừ đi số thành viên TT, tôi sẽ thay banne diễn đàn và trở thành diễn đàn cá nhân. Sau đó làm công văn xin giải tán TTNC LHDP.
    5 likes
  8. Vạn sự tùy duyên. BW ở gần SP và chỉ mong SP khỏe mạnh, sáng suốt và suy nghĩ kỹ lưỡng trong quyết định của mình. Cho dù đó là quyết định gì (giải thể trung tâm hay không giải thể) thì SP cũng là người hiểu rõ nhất cần làm gì. BW cũng sẽ ủng hộ quyết định đó. :) Kính!
    4 likes
  9. Em cũng cảm ơn anh Mộc Bản chia sẻ tậm tình và tâm huyết ! Em cũng sợ diễn đàn sắp đóng cửa , nên mạn phép vài dòng tâm sự của bản thân mình : Ý bác Thiên sứ đã quyết định như vậy là rất khó sửa , nhưng nếu nhìn ở 1 khía cạnh khác : Vạn vật trong trời đất này đã định sẵn , Hợp lâu rồi sẽ tan , tan lâu rồi lại hợp , tan để tích lũy về lượng , khi đã tích lũy về lượng sẽ có bước nhảy vọt về chất , nó đem lại sự mới mẻ , tươi mới hơn cho các lý thuyết Lạc Việt cũng như 5000 năm lịch sử Việt tộc Hơn thế nữa , cháu rất biết ơn bác Thiên sứ đã khai sáng ra diễn đàn lyhocdongphuong ,từ khi cháu vào diễn đàn , được giao lưu học hỏi , biết đến nhiều thứ mới lạ bổ ích , cũng như tích lũy đc 1 lượng kiến thức , kinh nghiệm sống cần thiết cho 1 con người Cháu xin chúc bác Thiên sứ và toàn thể anh chị trong diễn đàn hạnh phúc , gặp nhiều may mắn trong cuộc sống .
    4 likes
  10. kính gửi bác thiên sứ! cháu là học viên lớp ptlv-10. sau thời gian học tập chính cháu cũng cảm nhận được sự thống nhất giữa hà đôg và lạc thư, dần hé mở màn bí ẩn của lý học trung quốc. và hà đồ lạc thư là minh chứng cho cội nguồn văn hiến lạc việt. cháu mong chú bình tầm lại cháu nghĩ có lẽ để cho thế hệ sau này tiếp bước nhằm trứng tỏ nền văn minh lạc việt. cháu dọc những dong của chú cháu thấy rất buồn chú ak
    3 likes
  11. Kính gửi bác Thiên Sứ. Con xin tự giới thiệu con đang là học viên lớp Phong Thủy Cơ Bản 10. Đầu tiên hết, con xin chân thành cám ơn bác và tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc tới bác - người sáng lập ra diễn đàn lyhocdongphuong này. Suốt 5 năm qua, cứ hàng đêm con lại vào diễn đàn để xem, học hỏi những kiến thức của các bác tiền bối, anh chị, cũng như các bạn đồng lứa trên diễn đàn này. Để rồi con biết được nhiều những sự thật vĩ đại về tổ tiên & đất nước chúng ta. Con đã đi ra Thế Giới, con hiểu được rằng mỗi công dân Việt Nam muốn tự hào về dân tộc mình, muốn hãnh diện ngẩng cao đầu với năm châu thì phải hiểu và trân trọng được những gì mà cha ông ta đã đổ máu mà gầy dựng nên. Nó gọi là sự tự hào & lòng tự tôn dân tộc. Nếu không có bác, không có diễn đàn này thì chắc tới giờ con vẫn nghĩ dân tộc ta là một dân tộc thiểu số có nguồn gốc từ Trung Quốc. Và với 1 tâm lý nhược tiểu như vậy thì chắc chắn vĩnh viễn chúng ta không bao giờ có thể trở thành cường quốc được. Có thể đã có nhiều người như bác hiểu về lịch sử thực sự của dân tộc như thế nào nhưng gần như họ chưa có những phương tiện tiếp cận gần gũi & bắt kịp thời đại như bác để truyền tải được kiến thức tới những người trẻ tuổi như chúng con. Nhờ bác mà những người trẻ tuổi như bọn con có thể tự hào, ưỡn ngực, ngẩng cao đầu để tự hào về dòng máu Lạc Hồng đang chảy trong người & để hiên ngang bước ra thế giới. Chiều hôm nay, đọc thấy tin bác sẽ cho đóng cửa Trung Tâm. Bỗng một nỗi buồn xâm chiếm tâm can. Con cũng hiểu và thông cảm được với nỗi niềm của bác. Ý người Quân Tử đã quyết thì khó có thể ngăn cản. Con tôn trọng quyết định của bác. Con sợ là website sẽ đóng cửa trong một sớm, một chiều nên tối nay con mới viết bài này để bày tỏ cho bác biết rằng xung quanh bác vẫn còn có những người ủng hộ quan điểm & những luận thuyết của bác. Mong là con sẽ có thể gặp bác ngoài đời và được bắt tay bác một lần. Kính chúc bác & gia đình dồi dào sức khỏe, trí tuệ sáng suốt.
    3 likes
  12. Cảm ơn sự chia sẻ của Mộc Bản. Cảm ơn Mộc Bản chia sẻ.Tôi đã nói rõ mọi vấn đề trong bài viết ở topic Việt sử 5000 năm.
    3 likes
  13. Trước hết xin cảm ơn sự chia sẻ của mọi người.Riêng comment của chipbee tôi xin được trả lời thế này: Tính chất vụ việc của tôi chỉ là - nhân danh khoa học theo đám tư duy "ở trần đóng khố" - chứng minh văn hiến Việt 5000 năm lịch sử và tôi cố gắng tránh đụng chạm đến các vấn đề chính trị, xã hội nhạy cảm. Tôi không chỉ trích, đụng chạm đến quyền lợi của cá nhân hoặc tập thể - đấy là cách gọi cổ điển, mà bây giờ họ gọi là "nhóm lợi ích". Với tôi, thậm chí khái niệm "tham nhũng" cũng chỉ là khái niệm trừu tượng. Một ai đó chỉ bị coi là tham nhũng khi bị tòa kết tội. Nó khác với tính chất vụ việc của các trang mạng lề trái, lề phải và ngoài lề. Nhìn chung, cái nhìn cuộc đời của tôi khá lạc quan. Bởi vậy, tôi rất khó hiểu và khó chịu khi có những thế lực chuyên gây sức ép kiểu tác động tâm lý như vậy. Việc giải tán TTNC LHDP là điều chắc chắn xảy ra. Bởi vì tôi đã công khai công bố như vậy thì tôi không thể mà rút lại. Tôi cũng cẽ không tham gia thành lập bất cứ một pháp nhân nào trong tương lai có chức danh tương tự như TT hoặc Viện. Tôi chỉ hy vọng yên thân nghiên cứu và sống hợp pháp.
    3 likes
  14. "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông". Mọi sự bế tắc đều sẽ có cách giải quyết. Trung tâm LHĐP dù sao cũng là hữu hạn, chỉ có Văn Hiến Việt 5000 năm là bất biến và vẫn sẽ là kim chỉ nam cho hoạt động nghiên cứu của Sư phụ cũng như những thành viên của Trung tâm hiện nay và sau này. Các bạn cũng nên bình tĩnh, trung tâm sẽ có thông báo chính thức trong thời gian sớm nhất. Thân mến.
    3 likes
  15. Kính thưa bác Thiên Sứ, Hôm nay cháu vào topic này http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/26661-viet-su-5000-nam-van-de-bien-dong/page__st__40 . Cháu rất buồn khi nghe tin bác giải tán TT LHDP này. Gần 2 năm trước, khi cháu ra Hà Nội làm việc và được xem Đại Lễ 1000 năm Thăng Long là lúc đó cháu được biết Bác qua báo đài. Rồi khi tìm hiểu thông tin về bác đã cho cháu cơ duyên được biết tới diễn đàn TT LHDP. Thật sự những điều cháu học được diễn đàn mình không được bao nhiu vì cháu biết khả năng của cháu có hạn, nhưng cháu thầm khâm phục con người bác. Một người hết lòng vì đất nước, chiến đấu dai dẳng với cái đám phủ nhận 5000 năm văn hiến Việt tộc. Cháu biết bác làm việc trong điều kiện không thuận lợi, áp lực căng thẳng thì không dễ chút nào nhưng bác ơi! Bác là đầu tàu, bác chỉ đường cho chúng cháu đi theo. Có thể hôm nay kiến thức của chúng cháu không uyên bác, không giúp gì được cho bác nhưng nếu bác tiếp tục duy trì diễn đàn, tiếp truyền dạy kiến thức của bác cho chúng cháu thì cháu tin sẽ có những học trò đủ khả năng cùng bác đi trên con đường chông gai này. Văn chương cháu viết không được tốt lắm, không truyền tải hết ý nghĩa cháu muốn nói. Chỉ có 1 câu mong bác bình tâm lại, tiếp tục duy trì diễn đàn, để thế hệ chúng còn biết lịch sử 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt hào hùng như thế nào. Chúc kính chúc bác luôn luôn khỏe mạnh để tiếp tục công việc gian nan này, P/s: Mọi người có đọc topic của em thì mong mọi người comment kêu gọi bác Thiên Sứ duy trì diễn đàn và tiếp tục sứ mệnh chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến. Em cảm ơn mọi người
    2 likes
  16. RQ kính xin được tặng thầy Thiên Sứ và mọi người trong 4rum bài thơ "lyhocdongphuong Từng Duyên" mà cháu đã viết ra. Có những điều lời nói không thể mô tả chính xác, nay thôi xin chuyển biến thành thơ cho dễ nhớ, dễ nghe, nhiều ý nghĩa.. để bày tỏ rằng cháu đã biết ơn khi đã được hoạt động, làm quen và học hỏi nơi diễn đàn mình. Mong bác và mọi người không chê thơ của cháu, cháu còn nhỏ nếu trong thơ có câu vần nào không đúng mong các bác bỏ qua cho cháu. Lyhocdongphuong Từng Duyên Người đi xa vạn trượng thật không ngoa Người đi xa rồi lòng thiết tha Người sang ngang khi duyên vừa bén Hỡi cây kéo nào nỡ xén duyên ta? Trùng trùng điệp điệp lòng nhung nhớ Tựu tề chiến hữu cùng tâm giao Khoảnh khắc thủa ấy ngồi mạn đạo Nhưng nay chẳng biết ngộ web nao? "Người ra đi hồn chết một nửa Một nửa còn lại bỗng hóa khờ" Tạm mượn vần thơ để bày tỏ Quyết định của Thầy nay đã rõ Học trò con đây luôn ủng hộ Và dõi theo hành trình vĩ đại đó. Cũng vì duyên ta được ngộ Cớ vì vô duyên giờ lại xa Nhờ duyên chi đây biết khi nào phùng? Mong một chữ nợ để tiếp tục nghiệp duyên.
    2 likes
  17. CHƯƠNG BỐN Thời kỳ đồ đồng ởViệt Nam và các vị Vua Hùng Chương cuối cùng mô tả môi trường thểchế, trong đó khảo cổ học ở CHDCVN được thực hiện và cách mà nó đã được cung cấp tin tứcbởi chính sách văn hoá của nhà nước. Đồng thời các cuộc khai quật đầu tiên ởCHDCVN đã được tiến hành, các học giả tại đây đưa ra một bài phê bình sự uyênbác về khảo cổ học trước đó được tạo nên trong thời kỳ thuộc địa. Chương này môtả một trong những khám phá khảo cổ quan trọng nhất ở Việt Nam trong thời kỳsau độc lập - một loạt các nền văn hóa thời đại đồ đồng trước đó và có nguồn gốctừ Đông Sơn. Đó là Phùng Nguyên, Đông Đậu và Gò Mun. Đó là những di vật từ cácnền văn hóa được khai thác để cho các câu chuyện kể về các vị vua Hùng và VănLang trong văn bản thời tiền thuộc địa để ủng hộ cho quan điểm rằng họ là"nguồn gốc của dân tộc". Hiểu biết mới vềthời kỳ đồ đồng ở miền Bắc Việt Nam Trong số các cuộc khai quật đầu tiênđược tiến hành tại CHDCVN là những cuộc khai quật có liên quan tới sự phát hiệncủa cuối thời kỳ đồ đá mới và thời kỳ đồ đồng. Năm 1958, trong khi khai quật mộtkênh thủy lợi, các cư dân của thôn Phùng Nguyên, trước đây được biết đến là CổNhuế, trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, phát hiện ra nhiều mảnh đất nung và một số búađá. Sau đó, một cuộc khai quật được tổ chức tại đây bởi Bảo tàng và tổ chức bảotồn năm 1959.1 Một khác biệt quan trọng giữa khảo cổhọc ở CHDCVN sau độc lập và khảo cổ học trong thời kỳ thuộc địa Pháp là số lượngthông tin cung cấp về vị trí và các điểm đặc trưng của những vị trí và phươngpháp khai quật được sử dụng. Tại Cổ Nhuế, lỗ khoan sơ bộ đã được thực hiện vàsau đó một khu vực có diện tích 150m2 đã được lựa chọn, khu vực được chia thànhsáu hình vuông, mỗi hình vuông cách nhau bởi một thành lũy cao hơn một mét. Cuộckhai quật khám phá ra bốn địa tầng tự nhiên và một lớp văn hóa. Các đồ tạo táckhác nhau được phân loại như rìu đá lớn và nhỏ làm bằng đá vôi, đồ trang sức,vàgốm sứ. Các trục đá bao gồm đá mà không có bằng chứng nổi bật, đá thô, đá đánhbóng và đá được sử dụng để đánh bóng. Các mặt hàng gốm được phân chia theo cácmẫu trang trí trên chúng.2 Sự đa dạng các mặt hàng gốm sứ vàthiết kế trên chúng sau này sẽ chứng minh quan trọng để so sánh về bản chất vớinhững di vật được tìm thấy tại các vị trí khác . Nguyễn Văn Nghĩa, người đã viếtbáo cáo ban đầu về Cổ Nhuế trong NCLS, lưu ý rằng tất cả những trang trí này xuấthiện trên các đồ vật thời kỳ đồ đá mới được tìm thấy ở nơi khác, mặc dù các đồgốm dường như được làm từ các loại đấtkhác nhau. Ông coi các đồ vật bằng đá được đánh bóng đến một "tiêu chuẩnxuất sắc". Trên cơ sở so sánh ông lý luận rằng di vật ở Cổ Nhuế có muộnhơn so với những di vật tìm thấy ở Bắc Sơn, nhưng sớm hơn so với những di vậttìm thấy tại Đông Sơn. Do đó ông xác định niên đại từ khoảng 3.000 đến 4.000năm trước đây.3 Trong số các kết luận của mình, NguyễnVăn Nghĩa tự hỏi liệu có mối quan hệ nào giữa nền văn hóa Cổ Nhuế với lịch sử của"nguồn gốc của dân tộc". Hơn nữa, do vị trí khai quật nằm trong bánkính 5km tính từ đền thờ các vị vua Hùng, ông tự hỏi mối quan hệ nào giữa các vịvua Hùng và nền văn hóa đặc biệt này.4 Mộtthời gian ngắn trước khi câu trả lời cho những câu hỏi này đã được đưa ra trongNCLS. Tháng 11 năm 1960, chín tháng sau khi công bố báo cáo khai quật ban đầu,Văn Tân xuất bản một bài viết về Văn Lang và xã hội Âu Lạc. Trong bài viết ôngđã kết hợp bằng chứng từ các văn bản thời kỳ tiền thuộc địa và các di vật khảocổ học được tìm thấy ở Cổ Nhuế và trước đó tại Đông Sơn, với một giả định ưutiên về sự phát triển lịch sử dựa trên Engels, để mô tả đất nước Văn Lang.5 1 Nguyễn Văn Nghĩa, “Báo cáo về côngtác phát hiện và thăm dò di chỉ tân thạch khí Cổ Nhuế”, NCLS 11 (February1960), pp.27-34. 2Ibid., pp. 30-32. 3Ibid., pp. 32-33. 4Ibid., p. 3 3. 5Văn Tân, “Xã hội nước Văn Lang và xã hội nước Ấu Lạc”, NCLS 20 (November1960),p. 23. VănTân đã sử dụng chủ yếu các văn bản lịch sử VSL và LNCQ, cả hai văn bản đã đượcthảo luận trong Chương Một. Ông lập luận trên cơ sở của VSL rằng lịch sử củaVăn Lang kéo dài từ thế kỷ thứ bảy đến thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, mộtgiai đoạn 400 năm không phải 2000 năm, như TT đã nêu. Ông phân chia lịch sử củanước Văn Lang thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu tiên là cuối "cộng sảnnguyên thủy" và giai đoạn thứ hai là sự khởi đầu của "nắm giữ nô lệ".Năm 1960, các học giả tại Viện Lịch sử tiếp tục lo lắng về lịch sử quá khứ củahọ. ÔngTân cho rằng sự chuyển đổi từ cái này thành cái khác dựa trên một quá trìnhchuyển đổi công nghệ từ công cụ bằng đá sang công cụ bằng đồng và cùng với sựphát triển của nền nông nghiệp ổn định. Ông đã đánh đồng các giai đoạn đầu tiêntrong lịch sử của Văn Lang với các di vật thời kỳ đồ đá mới được khai quật tạiCổ Nhuế và giai đoạn thứ hai với các di vật đồng từ Đông Sơn.Tại thời điểm này,mối quan tâm chính của ông không phải là xác định cụ thể nguồn gốc của dân tộcViệt Nam, mà là để quyết định vị trí của nước Văn Lang trong mô hình lịch sử Cộngsản sáu giai đoạn. Tronggiai đoạn đầu tiên mà ông Tân mô tả, nông nghiệp, ông nghĩ, có thể liên quan đếnviệc sử dụng nương rẫy. Việc sử dụng đồ gốm đã được biết đến và vỏ cây được mặcnhư quần áo. Các vua Hùng có thể là lãnh đạo của một liên minh các bộ lạc. Niềmtin tôn giáo bao gồm "vạn vật hữu linh" và "ma thuật", màsau đó trở thành "tín ngưỡng totem". Trong giai đoạn thứ hai,"bánh xe của thợ gốm" đã được sử dụng trong sản xuất gốm sứ. Đồng đượcchế tác, quần áo đã thay thế cho vỏ cây và con trâu kéo cày bằng đồng. Có sựphân chia tầng lớp, bao gồm cả nô lệ, vì vậy các vua Hùng cai trị một đất nướctrên cơ sở nắm giữ nô lệ. VănTân đưa đến kết luận rằng các rìu đá được tìm thấy ở Cổ Nhuế đã được sử dụng đểchặt cây để xây dựng nhà ở, giải thích rằng các nhà cao được mô tả trên các trốngđồng được tìm thấy ở Đông Sơn. Người sử dụng tàu thuyền, cũng được thể hiệntrên trống, để di chuyển từ nơi này đến nơi khác và để đánh bắt cá. Sự cân bằngcủa các di vật khảo cổ khai quật tại Cổ Nhuế và Đông Sơn với nước Văn Lang từcác văn bản lịch sử tiền thuộc địa đã không bị thách thức. Vào tháng Năm vàtháng 6 năm 1961, Diệp Đình Hoa chỉ trích nhiều kết luận của Văn Tân và đặc biệtlà việc ông sử dụng khảo cổ học. Ông không tin rằng một "mối quan hệ đơngiản" có thể được tạo lập giữa các văn bản như LNCQ và VSL và các đồ tạotác đang được nói tới.6 Ôngnghĩ không có vẻ rằng đã có một sự chuyểntiếp từ thời kỳ đồ đá mới sang kỹ thuật đồng trong khoảng cách chỉ có 400 nămvà không có dấu hiệu của bất kỳ kỹ thuật trung gian nào, chẳng hạn như việc sửdụng đồng. Hơn nữa, thông tin về các di vật được khai quật tại Đông Sơn là kếtquả của công trình "trì trệ" của các nhà khảo cổ thuộc địa. Ông tin rằngcần nhiều công việc khảo cổ học hơn trước khi kết luận chi tiết có thể được đưara. DiệpĐình Hoa chỉ trích Văn Tân vì không chú ý cẩn thận tới các dữ liệu "và ôngđã trình bày những suy đoán như là những kết luận. Theo ông, mối liên hệ giữacác văn bản lịch sử và khảo cổ học vẫn mà Tân đã đưa ra còn thiếu. Việc ôngchia lịch sử của Văn Lang thành hai giai đoạn, mỗi giai đoạn liên kết với một kỹthuật và nền văn hóa riêng, không nhận được sự ủng hộ, kết luận rút ra về xã hộicủa nó do đó không đáng tin cậy. Tháng Bảy sau đó, Văn Tân đã cố gắng bảo vệquan điểm của mình trước đó, phần lớn thông qua việc lặp lại chúng.7 Ông đãkhông giải quyết những lời chỉ trích của Hoa về "mối quan hệ đơn giản"của các giai đoạn trong các văn bản lịch sử và các di vật khảo cổ học và việcthiếu chứng cứ trực tiếp hỗ trợ cho nhiều kết luận của mình. Cáccuộc tranh luận giữa Văn Tân và Diệp Đình Hoa cho thấy rằng, ít nhất từ khi khởiđầu, việc sử dụng các di vật khảo cổ học để củng cố cho những xác nhận trongcác văn bản lịch sử tiền thuộc địa về Vương quốc Văn Lang và các Vua Hùng khôngphải là một quá trình thẳng về tương lai. Nó liên quan đến những tranh luận vàcuộc đấu tranh trên bản chất của hai loại bằng chứng được sử dụng, sự tương đốiđầy đủ của chúng, mối quan hệ của chúng, và các loại kết luận có thể được rútra một cách hợp lý.8 6Diệp Đình Hoa, "Vài ý kiến về bài 'Xã hội nước Văn Lang và xã hội nước ÂuLạc", NCLS 26 (tháng 5-1961), trang 32-42; NCLS27 (tháng 6 năm 1961),pp.35-48,103 7Văn Tân, "Xung quanh vấn đề xã hội nước Văn Lang và xã hội Nước Âu Lạc",NCLS 28 (tháng 7 năm 1961),pp.25-35. 8Patricia Pelley không hoàn toàn chính xác khi bà viết rằng các học giả CHDCVNtránh "các vấn đề phức tạp" hơn về cơ sở mà trên đó "huyền thoạivề nguồn gốc" có thể được "xen kẽ với ... các bằng chứng vật lý các nhà khảo cổ đã khai quật, để chứng minh rằngcác vị vua Hùng, Vương quốc Văn Lang, và triều đại Hồng Bàng nơi thực sự liênquan tới lịch sử ". Xem Patricia Pelley, hậu thuộc địa Việt Nam: lịch sử mớicủa quá khứ Quốc gia (Durham, Bắc Carolina: Duke University Press, 2002), p.65. Cáckhai quật tại Cổ Nhuế, hoặc như nó được biết đến sau này, Phùng Nguyên, là vịtrí khai quật đầu tiên trong loạt các vịtrí đã được thực hiện để đại diện cho "văn hóa Phùng Nguyên", tìm thấychủ yếu ở các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hà Tây. Nền văn hóa Phùng Nguyên đượcxác định niên đại khoảng từ cuối thiên niên kỷ thứ ba cho đến giữa thiên niên kỷthứ hai trước Công nguyên. Các công cụ chính kết hợp với văn hóa là rìu đá, đượcđánh bóng, với một phần ngang hình chữ nhật. Vòng đeo tay và khuyên tai cũng đượctìm thấy, cùng với một loạt các đồ gốm sứ với các hình thức và thiết kế trangtrí khác nhau. Hạt gạo bị đốt cháy đã được tìm thấy trong lớp Phùng Nguyên tạimột vị trí tại Đồng Đậu. Một lượng nhỏ của xỉ đồng đã được khai quật tại một sốvị trí, nhưng không có đồ vật bằng đồng nguyên vẹn. Nền văn hóa Phùng Nguyên đượcmô tả khác nhau bởi các học giả khác nhau như là một trong hai thời kỳ đồ đá mớihoặc từ đầu thời kỳ đồ đồng.9 Ngoàira để làm việc trên nền văn hóa Phùng Nguyên và các vị trí liên quan, các họcgiả độc lập cũng đã hướng sự chú ý của họ vào việc đánh giá lại nền văn hóaĐông Sơn. Lê Văn Lan đã tóm tắt những quan điểm trước đây về thời kỳ của nềnvăn hóa Đông Sơn được thảo luận trong Chương hai.10 Tiếp theo, Lê Văn Lan đã tóm tắt các quan điểmgần đây của các học giả Việt Nam, hầu hết đã được bắt nguồn từ những phát hiệncủa người tiền nhiệm thuộc địa của họ. Đào Duy Anh xác định niên đại của nềnvăn hóa thế kỷ thứ ba hay thứ tư, cũng như Lê Thành Khôi, và lập luận rằng đóhoàn toàn có nguồn gốc Việt.11 TrầnVăn Giáp xác định niên đại từ khoảng thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên. Năm1960, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng trong lịch sử chế độ cộng sản nguyên thủy ởViệt Nam đã xác định niên đại văn hóa đồng Đông Sơn trước thế kỷ thứ hai và cólẽ thế kỷ thứ ba và thứ tư trước Công nguyên. Họ đã viết, "Cần xem xét vănhóa đồng Đông Sơn là một nền văn hóa từ cuối thời kỳ đồ đá mới", thời kỳ"thuộc về thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên và cuối thiên niên kỷ thứnhất trước Công nguyên ...". Văn hóa Đông Sơn "thuộc về giữa thiên niên kỷ đầu tiêntrước Công nguyên và tồn tại cho đến thời kỳ Tây Hán ". Nguồn gốc văn hóaĐông Sơn trong thời kỳ đồ đá mới, các tác giả xem nền văn hóa Đông Sơn chủ yếulà kết quả của phát triển địa phương, chứ không phải là ảnh hưởng bên ngoài nhưcác học giả thực dân đã có. Họ liên hệ nền văn hóa Đông Sơn với các triều đạivua Hùng, có thể công việc đầu tiên phải làm như vậy: Trước sự thống trị của triều đại Triệu,là thời kỳ của nước Âu Lạc của vua An Dương và thời kỳ của Hồng Bàng. Theo truyềnthuyết, gia đình Hồng Bàng cai trị qua 18 "vị vua", tất cả đều được gọilà vua Hùng (hay vua Lạc). Nếu trung bình của mỗi triều đại là 20 năm, sau đóvua Hùng đầu tiên thuộc khoảng thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên ... Khoảng sauđó, giai đoạn kết nối với nền văn hóa đồng Đông Sơn phải được kết nối với thờikỳ thịnh vượng nhất của nền văn hóa đồng, trong thời gian trước khi thứ hai củathế kỷ trước Công nguyên, chủ yếu ở thế kỷ thứ ba và thế kỷ thứ tư trước Côngnguyên và sớm hơn.12 Bảntóm tắt của các niên đại khác nhau của văn hóa Đông Sơn trong tháng 9 năm 1961,là một khúc dạo đầu cho bài viết Lê Văn Lan được công bố vào tháng Mười năm đóthảo luận về phát hiện gần đây của một vị trí mới của khảo cổ học Đông Sơn vàthách thức quan điểm nhận được từ các thời kỳ thuộc địa về văn hóa Đông Sơn. Từtháng 11 năm 1960, Bảo tàng và cơ quan bảo tồn thiết lập một lần khai quật lớntại Đồng Khổ, làng Thiệu Dương, tỉnh Thanh Hóa, khoảng 170 km về phía nam Hà Nội.Các thành viên của Bảo tàng và cơ quan bảo tồn, Viện Lịch sử và Khoa Lịch sử củatrường Đại học Hà Nội đã tham gia. Một diện tích khoảng 2.000 mét vuông đã đượckhai quật. Cácđồ vật bằng đá, đồng, sắt và gốm đã được khai quật và một số ngôi mộ Việt Namvà Trung Quốc. Trên cơ sở của địa tầng khai quật, Lê Văn Lan lập luận rằng vănhóa Đông Sơn có niên đại từ trước thời nhà Hán, nhưng sau cuối thời kỳ đồ đá mới.Ông xác định niên đại của vị trí tại Thiệu Dương khoảng thế kỷ thứ ba hoặc thếkỷ thứ tư trước Công nguyên. Ông lập luận trên cơ sở phân loại các đồ tạo táckhai quật tại Thiệu Dương thuộc về một thời gian sau này trong sự phát triển củavăn hóa Đông Sơn và sau này phát triển hoàn toàn trong thiên niên kỷ đầu tiêntrước Công nguyên. Trong khi, ông bác bỏ một số lượng lớn các kết luận về nhữngniên đại của văn hóa Đông Sơn được xác định bởi các học giả thuộc địa dựa trêncác địa tầng của các vị trí và so sánh bản chất hợp lý. Ông kết luận bằng cáchnói rằng Đông Sơn có lẽ là nền văn hóa của một chế độ nô lệ nắm giữ, nhưng đâylà một vấn đề để tiếp tục nghiên cứu.13 Trongsuốt những năm 1960, các học giả Việt Nam đã xác định thêm hai nền văn hóa đồngkhảo cổ ở miền bắc Việt Nam: Đồng Đậu và Gò Mun. Nó được lập luận trên cơ sở vịtrí địa tầng và phân loại các đồ tạo tác, đặc biệt là các mặt hàng gốm và thiếtkế trên chúng, rằng các nền văn hóa là trung gian giữa Phùng Nguyên và ĐôngSơn. Nền văn hóa Đồng Đậu lấy tên từ một vị trí thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Những vịtrí Đồng Đậu được phân phối trên cùng một khu vực như nền văn hóa PhùngNguyên.14 9Xem Phạm Lý Hương ed, Khảo cổ học Việt Nam Tập II: Thời đại kim khí Việt Nam(Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1999), trang 11-63. Đối với lập luận rằngcác di vật Phùng Nguyên thuộc về thời kỳ đồ đá mới, xem Hoàng Xuân Chính," Vài ý kiến về các giai đoạn phát triển của thời đại đồ đá mới ",trong Một số báo cáo về khảo cổ học Việt Nam (Hà Nội: Đội Khảo cổ, 1966), p. 173; quan điểm các di vật Phùng Nguyênthuộc về thời đại đồ đồng, xem PI Bô-ri-xcốp-ski, " Một số vấn đề nghiên cứu thời đại đồ đá ở ViệtNam", NCLS 24 (tháng 3 năm 1961), p. 193. 10Lê Văn Lan, " Mấy ý kiến về nền văn hóa Đông Sơn ", NCLS30 (1961),pp.13-24. 11Đào Duy Anh, " Văn hóa Đông Sơn hay văn hóa Lạc Việt ", VSĐ 1 (tháng 6 năm 1954), p.25, Lê Thành Khôi, Lê Viêt Nam: Lịch sử và nền văn minh (Paris: Minuit, 1955),p.31. 12Trần Quốc Vương và HàVăn Tấn, Lịch sử Chế độ Cộng sản Nguyên thủy ở Việt Nam(Hà Nội: Nhà xuất bản giáo dục, 1960), p. 170 (cuối thời kỳ đồ đá mới ")và (" Tây Hán "). Các trích dẫn nội dung bài viết này là từ p.171. 13Lê Văn Lan, " Mấy ý kiến về nền văn hóa Đông Sơn ", NCLS 30 (tháng 10 năm 1961), trang 7-19. Lập luận của Lê VănLan rằng các di vật đồng Đồng Khổ thuộc về giai đoạn cuối phát triển của các nềnvăn hóa ĐôngSơn điều mà tuy nhiên được tranh luận trong Hoàng Xuân Chinh,"Nhân đọc bài ‘Mấy ý kiến về nền văn hóa Đông Sơn’", NCLS 44 (Tháng11 năm 1962 ), trang 42-51. Quan điểm cho rằng các ngôi mộ Thiệu Dương đại diệncho giai đoạn đầu trong văn hóa Đông Sơn bây giờ có vẻ được chấp nhận. 14Các cuộc thảo luận trong đoạn này và sau đây về Đông Đậu và Gò Mun có nguồn gốctừ Hương, Khảo cổ học Việt Nam, trang 96-125 và 136-150 tương ứng. Cácđồ gốm khai quật được tại các vị trí Đồng Đậu bao gồm lọ đã được nung, trangtrí với các đường song song thu được bằng cách sử dụng một chiếc lược thường vớibốn hoặc năm răng, kẻ ra những đường sóng, xoắn ốc, con số Tám, hình tròn hoặccác mẫu đường cong. Các nhà khảo cổ học CHDCVN cũng tìm thấy vũ khí, bao gồm cảđầu mũi tên, lưỡi câu, rìu và mũi giáo, làm bằng đồng. Bất đối xứng trục đồng,trước đây được coi là điển hình của văn hóa Đông Sơn, cũng đã được phát hiện tạimột số các địa điểm Đồng Đậu. Khuôn đất sét và đá sa thạch được sử dụng để làmtrục, đục và đầu mũi tên bằng đồng cũng đã được khai quật. Tuy nhiên hầu hếtcác công cụ khai quật tại vị trí Đồng Đậu là công cụ làm việc bằng đá, chủ yếulà rìu và đục. Nềnvăn hóa Gò Mun được đặt tên cho một vị trí khác ở Vĩnh Phú, ba cây số từ vị tríPhùng Nguyên, di vật ở Gò Mun cũng được tìm thấy ở các tỉnh Hà Đông, Hải Phòng,Yên Bái và Thanh Hóa. Các đồ vật bằng gốm mang thiết kế trang trí tìm thấy trênnhững di vật từ những địa điểm ở Đồng và Phùng Nguyên. Một số lượng gia tăng củacác đồ vật bằng đồng được tìm thấy tại các vị trí, đặc biệt là tỷ lệ số lượngcác đồ vật bằng đá. Các đồ vật bằng đồng được trang trí một cách tương tự nhưcác cổ vật gốm sứ, nhưng tinh tế hơn, mang nhiều thiết kế được thực hiện là đặctrưng của văn hóa Đông Sơn. Sựcần thiết nghiên cứu về giai đoạn Hồng Bàng Vàocuối những năm 1960, những điểm đặc biệt quan trọng của thời đại đồ đồng ở ViệtNam đã được thiết lập bởi các thành viên của Viện Lịch sử. Trong một bài báo đượccông bố vào tháng Tư năm 1967, các thành viên của Viện đã được kêu gọi tiếnhành nghiên cứu giai đoạn Hồng Bàng, có nghĩa là thời kỳ các vua Hùng và nướcVăn Lang, trước đó được xác định bởi Trần Huy Liệu là "nguồn gốc của quốcgia ".15 Mặc dù Văn Tân, Hà Văn Tấn và Trần quốc Vượng đã sớm ràng buộc thờikỳ các vua Hùng trong các văn bản lịch sử trước thuộc địa với thời kỳ đồ đồngđược tìm thấy gần đây, đây là ngẫu nhiên vì các mục đích khác; Tuy nhiên, bàiviết 1967 đánh dấu sự khởi đầu của một dự án nghiên cứu tại Viện Lịch sử rõràng đã tìm cách để làm như vậy. Cácvị vua Hùng là "nhân vật quan trọng" trong giai đoạn Hồng Bàng. Các họcgiả tại Viện Lịch sử biết rằng nguồn gốc của gia đình Hồng Bàng mang đầy các đặctính huyền thoại và thần thoại ". Vì lý do đó, theo các tác giả, một số họcgiả Pháp đã cho rằng thời kỳ Hồng Bàng là "huyền thoại" và Kinh DươngVương, Lạc Long Quân và các Vua Hùng là những nhân vật được "xây dựng"để "tô điểm" lịch sử của Việt Nam. Họ trích dẫn Trần Trọng Kim, một họcgiả và Thủ tướng Chính phủ trong chính phủ Bảo Đại vào năm 1945, đã viết trongViệt Nam Sử Lược của ông (Lịch sử Việt Nam) ", câu chuyện của các triều đạiHồng Bàng không thuộc vào một giá trị đáng tin cậy.16 Hơnnữa, các học giả ở miền Nam Việt Nam đều cho rằng thời kỳ Hồng Bàng và các vuaHùng không có giá trị lịch sử.17 Bài báo nhấn mạnh rằng các nhà sử học CHDCVNđã không coi các vua Hùng như là nhân vật "huyền thoại" hoặc "thầnthoại"; đúng hơn, họ có cả "giá trị khoa học" và "giá trịtư tưởng".Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều bị thuyết phục, và dođó cần thiết phải nghiên cứu "sâu hơn" và "hệ thống hơn".18Sự tồn tại của thời kỳ các vua Hùng đòi hỏi sự xác nhận cụ thể và thực chất. Xácnhận này sẽ được cung cấp bởi nhà khảo cổ học. Các học giả tại Viện Lịch sử khẳngđịnh rằng thời đại Hồng Bàng phải được xem như là tương đương với giai đoạn hậukỳ đá mới và thời đại đồ đồng ở Việt Nam, mà dường như cùng khoảng thời gian ítnhất trong ba thiên niên kỷ đầu tiên trước Công nguyên. Cũng cần thiết phải sửdụng cả văn bản của Trung Quốc và Việt Nam liên quan đến các vua Hùng và VănLang, như một nghiên cứu, họ ta tin, sẽ trình bày các giải pháp cho một số vấnđề khác: có hoặc không có chế độ nô lệ ở Việt Nam, làm thế nào quá khứ Việt Namđã được chia thành các giai đoạn, và liệu Văn Lang có nên được coi là một"nhà nước" trong chủ nghĩa Mác.19 Mộtsố môn học khác ngoài khảo cổ học, bao gồm cả ngôn ngữ học và nhân chủng học,đóng một vai trò trong sựu điều tra nghiên cứu về các vị vua Hùng. Các văn bản tiền thuộc địa Quanđiểm của các học giả Việt Nam về những câu chuyện về các vị Vua Hùng trong nhữngvăn bản thời tiền thuộc địa có thể tìm thấy trong những bài viết của Hoàng Hưngvà Đinh Gia Khánh. Vào tháng 6 năm 1969, Hoàng Hưng viết một bài báo về giai đoạncủa các vị Vua Hùng trong đó ông so sánh và đối chiếu số lượng lớn các văn bảnthời kỳ tiền thuộc địa.20 HoàngHưng lưu ý rằng VSL không đồng ý với LNCQ, TT và CM, cũng như các văn bản kháccủa Trung Quốc, vào thời gian xuất hiện của Văn Lang, VSL cũng không đồng ý vớinhững bản văn này về khu vực được cho là của đất nước. LNCQ cung cấp thông tinvề các hoạt động của người dân trong thời kỳ Hùng Vương, chẳng hạn như sống cạnhrừng và sông, đánh bắt cá, sử dụng vỏ cây cho quần áo, tiêu thụ các loại chimvà động vật, vân vân. Theo TT, CM, DVSK và những người khác, nước Văn Lang đãđược chia thành các tầng lớp khác nhau, bao gồm Lạc Tướng, Lạc hầu, quan lang,và Nương mi được mô tả trong Chương Một. Tất cả các văn bản đồng ý rằng các triềuđại các vua Hùng đã kết thúc với cuộc chinh phục An Dương Vương và sự thành lậpcủa quốc gia Âu Lạc.21 HoàngHưng lập luận rằng các tên gọi "Vua Hùng" và "vua Lạc" đềugọi các con số tương tự. Ông ghi nhận sự khác biệt trong các giai đoạn đã đượcđưa ra trong cả TT và VSL, và viết rằng giai đoạn và thời gian trị vì của cácvua Hùng là những vấn đề chưa được giải quyết. Sự lập lờ trong các bản văn vềniên đại của thời kỳ các vị vua Hùng sẽ là một vấn đề không ngừng cố gắng đểliên kết chúng vào nền văn hóa thời đại đồ Đồng mới được phát hiện. Các khu vựccủa Văn Lang, ông tuyên bố tuy nhiên, được khẳng định bởi sự hiện diện của cácvị trí khảo cổ học trong các lĩnh vực được nêu trong các văn bản khác nhau.22 15Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, “Nên nhiên cưú vấn đề thời đại Hồng Bàng”, NCLS 97 (April 1967), p.5. 16Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin,1999), p. 25. The Việt Nam Sử Lược được công bố lần đầu năm 1928. 17Các học giả ở miền Nam Việt Nam là những người đối thoại quan trọng cho nhữngngười ở CHDCVN. Năm 1969, Tô Minh Trung thảo luận về quan điểm của các sử gia ởmiền Nam về các vua Hùng, gỉai quyết chủ yếu những quan điểm trong Bách khoatoàn thư. Xem Tô Minh Trung, " Vấn đề Hùng Vương theo quan điểm của một số người làm công tác sử học ở miền Nam Việt Nam ", NCLS 121 (tháng 4 năm 1969), trang56-59. 18Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử,“Nên nghiên cưú”, p.5. 19Như trên, p. 7. 20Hoàng Hưng, “Thời đại HùngVương trong thư tịch xưa”, NCLS 123 (June 1969), pp. 6-13. 21Như trên, tr. 8-11. 22Như trên, tr. 12-13 Cùngtháng đó, Đinh Gia Khánh kiểm tra giá trị của những huyền thoại trong sự hiểubiết lịch sử thời kỳ các vua Hùng. Ông cho rằng truyền thuyết từ thời các vịvua Hùng được bắt nguồn từ thực tế. Các nhân vật trong những truyền thuyết, chẳnghạn như đứa trẻ từ Phù Đổng, người đã đánh bại một đội quân xâm lược và cuộc cạnhtranh giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, được dựa trên "nguyên mẫu" có thực,và các sự kiện dựa trên các sự kiện thực tế. Theo thời gian, tuy nhiên, ông lậpluận, các nhân vật trong truyền thuyết đã được “thần thoại hóa". Mặcdù những huyền thoại dần dần thay đổi, điểm mấu chốt có thực của cốt truyện vẫncó một "vị trí quyết định" trong truyền thuyết. Đối với ông Khánh vàcác học giả ở CHDCVN, truyền thuyết về cơ bản là lịch sử được chọn ra. Trong việcgiải thích các hành động của đứa trẻ Phù Đổng, ông lập luận rằng không chỉ làcác hành động của một anh hùng, người đã đánh bại các kẻ thù của đất nước,nhưng rất nhiều những nét đặc trưng của truyền thuyết liên quan đến cuộc đấutranh cho sản xuất trong một xã hội nông nghiệp. Sơn Tinh sở hữu nhiều nét đặctrưng của một nhân vật lịch sử đã được "phong thần"23 VănTân, một lần nữa trong một bài viết trong NCLS từ tháng 6 năm 1969, đã viết vềhai truyền thuyết, trong thời gian các vị vua Hùng trong LNCQ và trong TT, đãđược hiểu. Quan điểm của ông khác biệt rõ rệt so với quan điểm của Đinh GiaKhánh. Trường hợp ông Khánh coi là huyền thoại được dựa trên những sự kiện lịchsử, theo Văn Tân, họ không đại diện cho các sự kiện lịch sử nào cả, nhưng thayvào đó họ có một chức năng biểu tượng hay tượng trưng. Các huyền thoại của đứatrẻ Phù Đổng, đại diện cho sự kháng cự với quốc gia "ngoại xâm",trong khi huyền thoại của Sơn Tinh và Thủy Tinh đại diện cho cuộc đấu tranhhàng năm của người Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng chống lại lũ lụt.24 Khảocổ học và những vị vua Hùng Trongbối cảnh của những quan điểm về các vị vua Hùng trong văn bản lịch sử tiền thuộcđịa và những truyền thuyết mà khảo cổ học đã đóng vai trò của nó. Những đónggóp quan trọng nhất của khảo cổ học là xác định niên đại và xác thực quốc giaVăn Lang và các Vua Hùng như là "nguồn gốc của dân tộc".Các dân tộcViệt Nam, theo định nghĩa của Stalin và được thông qua bởi các học giả độc lập ởCHDCVN, được dựa trên lịch sử phát triển của một cộng đồng sở hữu một lãnh thổ,nền kinh tế và văn hóa chung. Quanđiểm về điều tạo nên một quốc gia này trùng hợp với ý tưởng của một "nềnvăn hóa khảo cổ học", như nó đã được hiểu ở Việt Nam. Các vị trí có chứa bộsưu tập của các đồ vật cụ thể, những di vật lao động bằng đá, gốm sứ và các đồvật bằng đồng được đánh đồng với một cộng đồng riêng biệt của người dân và nhàsản xuất, trong trường hợp Việt Nam những cư dân của Văn Lang, như nó phát triểntheo thời gian. Ít nhất trong quá khứ, điều này là một hệ quả của những tiền đềngầm rằng ý nghĩa của các đồ tạo tác là hiển nhiên và các nhà khảo cổ học ởCHDCVN, cũng như các nhà khảo cổ học thuộc địa trước đó, mô tả đơn giản nền vănhóa khảo cổ học mà họ tìm thấy, chứ không phải là tổ chức, phân loại và sắp xếpthông tin một cách chọn lựa mà họ suy ra từ các vị trí và những đồ tạo tác.25Những nét đặc trưng của các nền văn hóa khảo cổ học họ tìm thấy, và chính kháiniệm của một "nền văn hóa khảo cổ học" sử dụng để xác nhận rằng dân tộcViệt Nam là một cộng đồng bắt nguồn từ khu vực , có phạm vi và văn hóa riêng biệtphát triển qua một thời gian dài.26 Khảocổ học đã thiết lập tính xác thực của thời kỳ các vua Hùng và nước Văn Lang,"nguồn gốc của dân tộc", thông qua tính xác thực của nền văn hóa cụthể liên kết với nó. Các di vật khảo cổ khai quật ở miền Bắc Việt Nam đem lạikhông chỉ là ý tưởng của một nền văn hóa cụ thể, giới hạn và khác biệt, nhưngcũng như tính xác thực của nó, điều mà mở rộng ra ngoài những tuyên bố của vănbản lịch sử tiền thuộc địa, những khẳng định đã được đặt nghi vấn và thậm chí bịtừ chối trong thời kỳ thuộc địa. Tính xác thực nên được hiểu bao gồm cảm giáckhác biệt của một dân tộc và văn hóa của họ, tuyên bố về tính chất nguồn gốc vàtác giả hoặc quyền sở hữu duy nhất của các di vật. Những di vật thời đại đồ đồngliên kết với các vua Hùng và nước Văn Lang trong các văn bản lịch sử thời tiềnthuộc địa dùng để xác nhận một cách cụ thể sự hiểu biết hiện tại về nguồn gốcViệt Nam. Các vị trí và di vật khảo cổ học tìm thấy trong các văn bản, tìm thấyở Việt Nam và không nơi nào khác, từ một khoảng thời gian trước khi bản ghi tiếpxúc với bất cứ nhóm nào khác, người Việt Nam là những người "thực sự"được hình thành. 23Đinh Gia Khánh, “Xác định giá trị của truyền thuyết đối với việc tìm hiểu lịch sử thời đại Hùng Vương”, NCLS123(June1969), pp. 25-31, 65. 24VănTân, “Tiêp tục nghiên cứu thời đại Hùng Vương”, NCLS 123 (June 1969), p. 5 25Đối với một lời chỉ trích về phương pháp giải quyết vấn đề mô tả hoặc chữtượng hình trong thời tiền sử Đông Nam Á, xem W. Peterson, "Lịch sử Vănhóa Chủ nghĩa thực dân, và Tiền sử Đông Nam Á", quan điểm châu Á XXV, 1(1982-1983), pp.123-132. 26MargaritaDíaz-Andreu tranh luận về khái niệm văn hóa trong khảo cổ học và Việcxây dựng bản sắc quốc gia và xuyên quốc gia ở châu Âu. Bà kết luận rằng nên từbỏ khái niệm về một "nền văn hóa khảo cổ học". Xem MargaritaDíaz-Andreu, "Xây dựng bản sắc thông qua Văn hóa: quá khứ trong quá trìnhrèn của châu Âu ", trong bản sắc văn hóa và Khảo cổ học: Xây dựng Cộng đồngChâu Âu, eds. Paul Graves-Brown, SiânJones và Clive Gamble (London: Routledge,1996), pp.48-61. Tháng12 năm 1967, Trương Hoàng Châu thảo luận về nền văn hóa khảo cổ học thời đại đồđồng ở Việt Nam và nước Văn Lang được cai trị bởi các vị vua Hùng. Bài luận văngồm hai phần chính: một cuộc thảo luận về khảo cổ học và một cuộc thảo luận vềVăn Lang. Trong phần đầu của bài viết, Châu lập luận rằng những đồ tạo tác khảocổ học phát hiện gần đây được khai quật tại Thiệu Dương, Gò Mun, Đồng Đậu,Hoàng Lý, Cam Thương, Hoàng Ngô và các nơi khác đều mang các đặc tính chungtương tự như những đồ tạo tác khai quật tại Đông Sơn . Trên cơ sở này, ông lậpluận rằng tất cả các di vật được khai quật sở hữu một "sự thống nhất"các đặc điểm văn hóa.27 Sau đó Châu đề nghị rằng nền văn hóa Gò Mun có nguồn gốctừ nền văn hóa Phùng Nguyên và do đó, "nguồn gốc của nền văn hóa đồ đồngkhảo cổ học Việt Nam thuộc cuối thời kỳ đồ đá mới.28 GòMun là nguồn gốc của Đông Sơn, do đó là kết quả sự phát triển của tất cả các nềnvăn hóa thuộc cuối thời kỳ đồ đá mới. Ông cho rằng các mối quan hệ giữa các vịtrí của nền văn hóa đồng và nền văn hóa khảo cổ học thuộc cuối thời kỳ đồ đá mớiở Việt Nam là rất gần và đan chéo nhau. Tầmquan trọng của điểm này không thể bị phóng đại. Trong chương hai, nó đã được chứngminh rằng các học giả trong thời kỳ thực dân Pháp tin rằng nền văn hóa Đông Sơnđã bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa khảo cổ học khác, vị trí tại Trung Quốc trongcác trường hợp của Victor Goloubew và Bernhard Karlgren, và nằm ở châu Âu trongtrường hợp của Robert von Heine-Geldern. Trương Hoàng Châu lập luận, tuy nhiên,dựa trên phân loại và chủ yếu về thiết kế trang trí tìm thấy trên đồ đồng và đồgốm khai quật tại những địa điểm khác nhau ở miền bắc Việt Nam, văn hóa ĐôngSơn hoàn toàn là kết quả của sự phát triển địa phương. Đây là kết quả tuyệt vờikể từ khi nền văn hóa thời đại đồ đồng được ràng buộc với thời kỳ các vua Hùng.Nếu khoảng thời gian sớm nhất trong lịch sử Việt Nam và trước thời kỳ cai trị củaTrung Quốc, điều quan trọng là các nền văn hóa liên kết với nó là nguyên sơ vàkhông có ảnh hưởng bên ngoài. Mộttrong những cách quan trọng nhất mà khảo cổ học góp phần vào việc hình thành củadân tộc Việt Nam là thông qua sự hiểu biết về vùng lãnh thổ bị chiếm đóng bởicác quốc gia trong suốt lịch sử đầu tiên của nó mà nó cung cấp.20 Các văn bản lịchsử khác nhau trước thế kỷ 20 chỉ ra rằng miền Bắc Việt Nam là nơi sinh sốngtrong trọn vẹn hoặc một phần của ba thiên niên kỷ đầu tiên trước Công nguyên.Khảo cổ học đã xác nhận điều này thông qua sự phân bố của các vị trí trong lãnhthổ đó từ thời kỳ đang được nhắc tới, nó bắt nguồn từ những người Việt Nam ở địahình đó, không chỉ đơn giản là tượng trưng, nhưng thông qua việc tìm kiếm nhữngdi vật thực sự của văn hóa vật chất bên dưới trái đất. Điềunày là hiển nhiên khi tháng 2 năm 1968, Lê Văn Lan và Phạm Văn Kĩnh đã chuyểnsang nghiên cứu về Phong Châu, nơi mà các văn bản tiền thuộc địa đặt tênnhư là thủ đô của Văn Lang. Sau khi kiểmtra một loạt các văn bản bao gồm TT, các tác giả đều kết luận rằng Phong Châuđược đặt tại khu vực các làng Bạch Hạc, Vĩnh Tường của thời gian đó. Họ viết rằng: Phong Châu, trong thời kỳ các vua Hùnglà một vùng trung du và đồng bằng giữa núi Ba Vì và núi Tam Đảo, với trung tâmcủa nó nằm trong khu vực giao nhau của sông Hồng [Red], sông Đà, sông Lô vàsông Đáy, đó là khu vực Bạch Hạc-Việt Trí, và khu vực phía Nam của tỉnh Phú Thọ,khu vực phía tây bắc của tỉnh Vĩnh Phúc, và khu vực phía đông bắc của tỉnh HàTây.29 Cáctác giả sau đó đã chuyển sang sự phân bố của các địa điểm khảo cổ được phát hiệngần đây, họ lập luận rằng tất cả địa điểm cơ bản đều từ cùng thời đại đồ đồng -và có cùng một số đặc điểm văn hóa chung. Họ kết luận rằng sự phân bố của các địađiểm khảo cổ này, trên khu vực được mô tả trong đoạn văn trên đây và có niên đạitừ giai đoạn đã được đề cập trong các văn bản, là bằng chứng cho thấy rằng nướcVăn Lang đã tồn tại và kinh đô của nó là tại Phong Châu trong thiên niên kỷ đầutiên trước Công nguyên . Vaitrò của khảo cổ học trong việc xác định lãnh thổ là một vấn đề quan trọng củatháng sau khi Nguyễn Linh và Hoàng Hưng công bố một bài viết về vấn đề các vịvua Hùng và khảo cổ học. Bài viết bắt đầu bằng cách tóm tắt những gì các tác giảcoi là kết luận đã được chứng minh: đầu tiên, thời kỳ các vua Hùng là một khoảngthời gian thực trong lịch sử Việt Nam, thứ hai, các Vua Hùng là nhà lãnh đạo củamột liên bang của 15 bộ tộc khác nhau; thứ ba, thời kỳ các vua Hùng không kéodài 2.622 năm, như TT đưa ra giả thuyết, nhưng đúng hơn, trong 400 năm theoVSL; thứ tư, xã hội của Văn Lang là một xã hội chia thành các tầng lớp. “Kết luận"cuối cùng này là một động thái của các tác giả từ mối quan tâm liệu Văn Lang cóphải là một xã hội trong một nhà nước của "cộng sản nguyên thủy" hoặc"nắm giữ nô lệ".30 27Trương Hoàng Châu, “Nền văn hóa khảo cổ học duy nhất trong thời đại đồng thau Việt Nam và vấn đề nước Văn Lang của Hùng Vương”, NCLS 105 (tháng 12 năm 1967), trang 35-39.Patricia Pelley viết lạc đề trong bài viết này "Trương Hoàng Châu liên kếtcác dấu vết đầu tiên của nền văn hóa đồ đồng ở Việt Nam với các vị vuaHùng". Pelley, hậu thuộc địa Việt Nam, p. 155. Mối liên kết duy nhất giữanền văn hóa đồ đồng Việt Nam và các vị vua Hùng trong bài viết.Trương HoàngChâu thảo luận về hai vấn đề riêng rẽ với nhau. 28Châu, "Nền văn hóa", p. 38,114 29Lê Văn Lan và Phạm Văn Kính, "Di tích khảo cổ trên đất Phong Châu địa bàngốc của các vua Hùng", NCLS 107 (February1968), p. 35. 30Nguyễn Linh và Hoàng Hưng, “Vấn đề Hùng vương và khảo cổ học ", NCLS 108 (1968), p.18. Cóthể thấy quan điểm của các học giả CHDCVN rằng Văn Lang là một liên bang củacác bộ tộc như sự công nhận một thực tế rằng ngay cả ở nguồn gốc dân tộc ViệtNam được dựa trên nhiều nhóm dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, có vẻ như đã không cósự nỗ lực chắc chắn nào để đối phó với thực tế là những câu chuyện về các vịvua Hùng trên cơ sở những câu chuyện của dân tộc thiểu số Việt Nam và qua nhiềuthế kỷ những người Việt Nam định cư dần dần chiếm những gì bây giờ là trung tâmvà miền nam Việt Nam, mang lại những khu vực đó và Chăm, Khmer và các cư dânkhác dưới sự trị vì của nhà nước Việt Nam. Các học giả CHDCVN dường như đã giảđịnh rằng những người không phải dân tộc Việt, tuy nhiên vẫn là người "ViệtNam" trong ý nghĩa quốc gia, điều này tại một thời điểm, như lập luậntrong phần giới thiệu, trước khi dân tộc Việt Nam được thành lập. Do đó nhữngcâu chuyện về các vua Hùng cũng là những câu chuyện về nguồn gốc quốc gia của họ,cho dù họ có khái niệm nào về nguồn gốc của dân tộc và chính trị của họ trướckhi bị nhận chìm bởi "sự Nam tiến" của dân tộc Việt.31 Phầncòn lại trong bài viết của Nguyễn Linh và Hoàng Hưng dành cho hai vấn đề: khu vựccủa Văn Lang và sự hòa hợp giữa các văn bản tiền thuộc địa và các di vật khảo cổhọc trong lịch sử. Trong thảo luận về vấn đề đầu tiên, các tác giả đầu tiên xemxét khu vực của Văn Lang theo các văn bản lịch sử, ghi nhận sự bất đồng giữachúng và ít nhất một văn bản quy định rằng nó bao gồm phía bắc và bắc trung bộcủa Việt Nam và một phần của miền nam Trung Quốc. Kiểm tra việc phân bố của cácvị trí khảo cổ học thời kỳ đồ đá mới và thời đại đồ đồng ở Việt Nam, họ kết luậnrằng khu vực của Văn Lang đã cùng tồn tại với nhiều khu vực phía Bắc Việt Namđương đại. Sau đó, họ hướng vào sự thống nhất giữa những di vật tiền thuộc địavà di vật khảo cổ học. Họ lập luận chủ yếu dựa trên cơ sở của VSL, rằng việcthành lập Văn Lang vào thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên trùng hợp với việc sản xuấtnhững di vật thời kỳ đồ đồng đã được khai quật trong những năm gần đây. Họ chỉra tầm quan trọng của những di vật được khai quật ở Gò Mun, cái đánh dấu một bướcngoặt vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội của các cưdân của nước Văn Lang ".32 Tháng6 năm 1969, Văn Tân đã viết một bài báo nhấn mạnh rằng nghiên cứu thêm về giaiđoạn các vị Vua Hùng là cần thiết và tóm tắt cập nhật các nghiên cứu.33 Đưa rasố lượng lớn được viết về các vị vua Hùng và Văn Lang, đặc biệt là kể từ khi tậptrung vào khoảng thời gian đó tại Viện Lịch sử sau năm 1967, và hai hội nghị vềvấn đề này , được tổ chức bởi Viện Khảo cổ học được thành lập gần đây, những kếtluận thực tế là vô cùng ít ỏi. Đầu tiên, các vua Hùng là những nhân vật thực sựtrong lịch sử của Việt Nam, họ đã xây dựng Văn Lang, quốc gia đầu tiên trong lịchsử của dân tộc Việt Nam. Thứhai, khu vực của Văn Lang bao gồm phía bắc và miền bắc-trung tâm Việt Nam hiệntại. Các khu vực quan trọng nhất của phạm vi hoạt động là vùng trung du và mộtphần đồng bằng sông Hồng miền Bắc Việt Nam. Thứ ba, xã hội của Văn Lang đượcchia thành các tầng lớp, chẳng hạn như các vua Hùng, Lạc hầu, Lạc tướng, và Bồchính. Cuối cùng, thời kỳ các vua Hùng cũng là thời đại đồ đồng ở Việt Nam, bắtđầu với Phùng Nguyên và kết thúc với Đông Sơn.34 Tuy nhiên, còn một số vấn đềphải giải quyết, Văn Tân lưu ý. Đầu tiên, do bất đồng giữa các văn bản lịch sửtiền thuộc địa, không chắc chắn rằng thời kỳ các vua Hùng có kéo dài hơn 2000năm hay chỉ có 400 năm. Thứ hai, cấu trúc xã hội của họ không được biết tới, vàđó là nhà nước "cộng sản nguyên thủy" hay "chế độ nắm giữ nô lệ"vẫn chưa được xác định. Thứ ba, Văn Tân muốn biết rằng liệu có được 18 vị vuaHùng. Cuối cùng, ông nghĩ rằng giai đoạn của An Dương Vương đòi hỏi sự nghiên cứu,vì giai đoạn này đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ các vị vua Hùng.35 LêVăn Lan đã cố gắng trả lời một số vấn đề trong một bài viết về các di chỉ khảocổ học và nghiên cứu về thời kỳ các vua Hùng. Trong số những thứ khác, ông phảnánh những lợi thế và bất lợi của khảo cổ học trong nghiên cứu các vị vua Hùng.Một lợi thế, ông tin rằng, là tính "thuyết phục" của nó. Bằng chứngkhảo cổ học, bạn có thể "thấy tận mắt và sờ tận tay”.36 Khảocổ học đã diễn tả cụ thể các nền văn hóa Văn Lang, "nguồn gốc của dân tộc"thông qua các bằng chứng vật chất. Trường Chinh đã quy định rằng văn hóa ViệtNam là "làm khoa học". Khảo cổ học được hiểu bởi các học giả Việt Namlà khoa học lịch sử ưu tú. Sự trình bày về sự nối tiếp vị trí của các nền vănhóa thời đại đồ đồng cụ thể và giới hạn khu vực xác nhận quan điểm thế giới vềdân tộc Việt Nam được chia thành các quốc gia riêng biệt và độc đáo, chiếm lĩnhlãnh thổ lịch sử, và có chung nền văn hóa và nền kinh tế. Tuynhiên, mục đích chính của Lê Văn Lan trong bài viết là liên kết các nền văn hóakhảo cổ học khác nhau tại Việt Nam với sự phát triển của Văn Lang, được mô tảtrong các văn bản lịch sử tiền thuộc địa. Các địa tầng của các vị trí khác nhauvà những trình tự nghiên cứu có đặc điểm chung được hình thành trên cơ sở củaphong cách và thiết kế trên các di vật gốm và đồng cho phép xác định không chỉcủa các nền văn hóa khảo cổ học kế tiếp , mà còn có những giai đoạn kế tiếptrong lịch sử của dân tộc. Theo Lan, những di vật của văn hóa Phùng Nguyên có niênđại từ cuối thiên niên kỷ thứ hai cho tới thiên niên kỷ thứ nhất: giai đoạn chuẩnbị xây dựng đất nước vào buổi đầu của triều đại các vua Hùng.37 31Đối với giá trị khá thông thường của Nam tiến, xem Nguyễn Thế Anh, “Nam Tiếntrong các văn bản Việt Nam", trong ranh giới của Việt Nam: Lịch sử cácbiên giới của bán đảo Đông Dương (Paris: L'Harmattan ấn hành, 1989), pp..121-127. 32Như trên, tr. 21 (thời kỳ đồ đá mới và thời đại đồ đồng), 22 ("cực kỳ quantrọng"), 23 (sự tồn tại của đồ gốm). 33VănTân, “Tiêp tục nghiên cứu thời đại Hùng Vương”, NCLS 123 (June 1969), pp.4-5, 13. 34Như trên, p. 5. 35Như trên. 36Lê Văn Lan, “Tài liệu khảo cổ học và việc nghiên cưú thời đại các vua Hùng”, NCLS 124 (tháng 7/1969), pp. 54-55. 37Như trên, tr. 57-58. Nhữngdi vật khảo cổ của văn hóa Đông Sơn có niên đại từ thế kỷ thứ ba và thế kỷ thứtư trước Công nguyên. Lan cho rằng những di vật từ giai đoạn đầu và cuối phảnánh sự kết thúc của thời kỳ Văn Lang và chuyển tiếp sang thời kỳ của Âu Lạctrong thời kỳ các vua Hùng tương ứng. Văn hóa Đồng Đậu nằm ở một vị trí nào đógiữa Phùng Nguyên và Gò Mun.38 Lan coi những di vật từ nhóm các vị trí tại GòMun, nơi mà ông xác định niên đại khoảng từ đầu thiên niên kỷ đầu tiên trướcCông nguyên, là nền tảng của nền văn hóa Đông Sơn. Ông coi chúng như là bằng chứngcho thời kỳ khi mà Văn Lang đang phát triển mạnh, và khi một "nhà nước"được xây dựng, có nghĩa là, một hệ thống chính trị dựa trên sự thống trị của mộttầng lớp cầm quyền. Ôngkết luận rằng sự xuất hiện, phát triển, và sự suy tàn của nước Văn Lang kéo dàimột thời gian xấp xỉ 2000 năm, đại diện bởi các nền văn hóa khảo cổ học kế tiếpmà ông mô tả.39 Làm thế nào một số họcgiả đã giới hạn lịch sử của Văn Lang khoảng thời gian giữa thế kỷ thứ bảy và thứba theo VSL, Lê Văn Lan sẵn sàng chấp nhận một lịch sử lâu hơn nữa. Đối vớiông, khảo cổ học mang lại một khuôn khổ thời gian cho lịch sử của Văn Lang,thông qua sự sắp xếp về mặt tính chất của đồ tạo tác và thông qua địa tầng, chophép tổ chức của các nền văn hóa cụ thể tiếp nối liên quan đến các khía cạnh lịchsử của nó. Địa tầng thiết lập sự nối tiếp của chất lắng và vì thế sự tiếp nốivà biến đổi trong các nền văn hóa cụ thể kế tiếp, và do đó, sự phát triển củaVăn Lang, được coi là "nguồn gốc của dân tộc". Haihội nghị tiếp tục được tổ chức bởi Viện Khảo cổ học năm 1970 và vào năm 1971. Đạtđược ít sự đồng thuận hơn trong các trang của NCLS, hoặc KCH, hoặc thực sựtrong bốn tập của Hùng Vương dựng nước, trong đó có các giấy tờ được đưa ra tạibốn hội nghị về các vua Hùng. Sự thiếu đồng thuận rõ ràng trong năm 1971, khi Ủyban Khoa học xã hội Việt Nam cuối cùng đã xuất bản tập đầu tiên của Lịch sử ViệtNam quốc gia lịch sử kinh điển. Chươngđầu tiên của cuốn sách là "Nước Văn Lang". Bắt đầu từ trong thời kỳ đồđá cũ với những khám phá tại núi Đọ và sau đó các nền văn hóa thời kỳ đồ đá giữavà thời kỳ đồ đá mới của Hòa Bình và Bắc Sơn. Sự hình thành và phát triển của đấtnước Văn Lang diễn ra trong thời đại đồ đồng: "Việt Nam bước vào thời đạiđồ đồng cách đây khoảng 4.000 năm. Đây là một bước nhảy vọt, một bước ngoặt vĩđại theo hướng khác bằng xã hội của chúng ta".40 Chính trong cuộc thảo luậnvề thời đại đồ đồng mà khái niệm" tổ tiên của chúng ta" lần đầu tiênđược sử dụng. Thời đại đồ đồng bao gồm bốn giai đoạn khác nhau: Phùng Nguyên (đầuthời đại đồ đồng), Đồng Đậu (khoảng giữa của thời đại đồ đồng), Gò Mun (đỉnhcao của thời đại đồ đồng) và Đông Sơn (sự kết thúc của thời đại đồ đồng và bắtđầu của thời kỳ đồ sắt).41 ĐôngSơn đã được đưa ra như là kết quả của một quá trình phát triển văn hoá, bắt đầuvới Phùng Nguyên. Văn bản chỉ ra rằng "với sự phát triển của thời đại đồ đồng,chúng ta bước vào thời kỳ nước Văn Lang và thời đại của các Vua Hùng trong lịchsử của Việt Nam." Tuy nhiên, không ngày nào được đưa ra cho sự khởi đầu củađất nước. Nền văn hóa và xã hội của Văn Lang được coi như là kết quả của hơn2.000 năm phát triển văn hoá của nền văn minh sông Hồng. Thời đại đồ đồng tồn tạichỉ như là một bối cảnh, "nền văn hóa" thực sự dựa vào các sự kiệntrong văn bản lịch sử trước thuộc địa diễn ra, cung cấp những nguồn tin cậytrong thực tại cho những gì đã từng được coi là một "giai đoạn huyền thoại". Ngườilãnh đạo của một trong số các bộ lạc đã thống nhất các bộ tộc khác ở phía Bắcvà Bắc Trung Bộ Việt Nam và tự gọi mình là vua Hùng, một vị trí được truyền từmột thế hệ cho thế hệ kế tiếp. Xã hội của Văn Lang sở hữu một hệ thống phân cấpxã hội được minh chứng bằng các chức danh trong các văn bản tiền thuộc địa, chẳnghạn như Lạc Hầu, Lạc Tướng, và Bồ Chính. Các công cụ bằng đồng đã khai quật đượcsử dụng trong nông nghiệp và các loại vũ khí chống lại kẻ thù. Chương này kếtluận, "Vì vậy, thời kỳ của Văn Lang, thời kỳ các vua Hùng, là một giai đoạnhoàn toàn cần thiết trong lịch sử của Việt Nam. Chính trong giai đoạn này, nềntảng của dân tộc Việt Nam, nền tảng của văn hóa Việt Nam và truyền thống tâmlinh của Việt Nam được xây dựng "42 38 Như trên, trang 58-59 39 Như trên, trang 60 40 Ủy Ban Khoa Học X. Hội Việt Nam,Lich Sử Việt Nam, tập 1. (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1971), trang37. 41 Như trên, trang 38 42 Như trên, trang 45 (“cùng với sựphát triển”) và trang 66 (“thời kỳ Văn Lang”). Kết luận Các học giả ở CHDCVN coi thời kỳ cácvua Hùng và nước Văn Lang như một giai đoạn thiết yếu trong lịch sử của họ bởivì Văn Lang là chính thể đầu tiên được mô tả trong các văn bản lịch sử tiền thuộcđịa. Họ tin rằng các sự kiện xảy ra sau trong lịch sử Việt Nam, chẳng hạn như sựthành lập nước Âu Lạc của vua An Dương, cuộc chinh phục sau này của Triệu Đà vàtất cả các phần còn lại của lịch sử Việt Nam dựa vào tính xác thực của thời kỳcác vua Hùng. Khảo cổ học khẳng định tính xác thực của nó trong khi nó góp phầnvào việc xây dựng của dân tộc trong quá khứ cổ xưa bằng một số cách. Đầu tiên,các nền văn hóa khảo cổ đồ đồng được khai quật gần đây bởi các nhà khảo cổ họcCHDCVN cung cấp bằng chứng cụ thể về cuộc sống của các cư dân của nước VănLang, thời kỳ các vua Hùng. Do đó, nó không phải là một khoảng thời gian huyềnthoại. Thứ hai, những di vật đó dùng để xác nhận rằng lãnh thổ được cho là củaVăn Lang trong các văn bản tiền thuộc địa đã thực sự bị chiếm đóng trong thiênniên kỷ đầu tiên trước công nguyên, cũng như thủ đô của Phong Châu. Thứ ba, các di vật khảo cổ học khẳngđịnh thời cổ xưa vĩ đại được cho là của người Việt Nam trong các bản văn. Tuynhiên, những thời gian khác nhau được cho là sự khởi đầu của Văn Lang trong cácbản văn gây khó khăn khi xác định chính xác thời điểm đất nước bắt đầu, vì tuổicủa các di vật bằng đồng nối các dãy thời gian hiện có. Do đó, vai trò của khảocổ học trong việc xây dựng dân tộc Việt Nam đôi khi kéo theo cuộc tranh luận vàsự mơ hồ. Cuối cùng, gốm sứ và các công cụ và vũ khí bằng đồng khai quật đượccung cấp bằng chứng các hoạt động của cư dân Văn Lang: họ đã tham gia vào nôngnghiệp ổn định và trong chiến tranh. Năm 1960, Văn Tân là một trong những ngườiđầu tiên kết hợp các nền văn hóa Phùng Nguyên mới được phát hiện với sự khởi đầucủa vương quốc Văn Lang, và nền văn hóa đã được biết tới Đông Sơn với kết thúccủa nó. Tuy nhiên, điều này đã diễn ra trong bối cảnh của cuộc tranh luận về việcphân chia thời gian của lịch sử Việt Nam và cho dù nguồn gốc của nó, nó nên đượccoi là thuộc giai đoạn "cộng sản nguyên thủy" hay "nắm giữ nô lệ". Diệp Đình Hoa nhanh chóng thử thách"mối quan hệ đơn giản" mà Văn Tân đã đưa ra giữa các di vật khảo cổ họcvà các văn bản lịch sử tiền thuộc địa. Tuy nhiên, sau năm 1967 "mối quan hệ đơn giản " này đượccông nhận nhiều hơn nữa bởi các học giả ở CHDCVN, khi họ ủng hộ để tiến hànhnghiên cứu thời kỳ các vua Hùng, "nguồn gốc của dân tộc". Năm 1971,khi Lịch sử Việt Nam, lịch sử kinh điển quốc gia được xuất bản, sự cân bằng giữathời kỳ đồ đồng và thời đại của các vị vua Hùng đã được viết vào lịch sử củadân tộc. KẾT LUẬN Margarita Díaz-Andreu đã lập luận rằng"việc chép sử của khảo cổ học đã được chi phối bởi một quan điểm nội tại –đó là, ai đã nói những gì và khi nào, và những đóng góp của người đó có ý nghĩagì cho sự tiến bộ của khảo cổ học ". Các nghiên cứu về khảo cổ học mà quantâm tới các quốc gia và chủ nghĩa dân tộc thì rất thường xuyên tập trung vàocác vấn đề hoài cổ, di sản và di tích lịch sử. Luận án này, thay vào đó, đã cốgắng đặt việc thực hành của khảo cổ học trong bối cảnh xã hội và chính trị ở ViệtNam. Nó đã chứng minh cách thức mà theo đó nhà nước trong các thời kỳ thuộc địavà sau độc lập đã hỗ trợ việc thực hành khảo cổ học. Sau khi độc lập, khảo cổ họcđi theo hướng chủ nghĩa dân tộc, thể hiện ở sự bác bỏ cả những kết luận của cácnhà khảo cổ học thuộc địa lẫn sự đóng góp của chính nó vào việc hình thành nêndân tộc trong việc cung cấp bằng chứng cho chính thể Việt đầu tiên trong cácvăn bản trước thời kỳ thực dân, một chính thể mà ngày nay được xác định là"nguồn gốc của dân tộc". Ngày 2 tháng Chín, 1945 tại Quảngtrường Ba Đình ở Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập của dân tộc Việt Nam.Trong tuyên bố này ông trực tiếp ám chỉ bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, nóirằng: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đã được sinh ra bình đẳng, mỗi mộttrong số họ có quyền được sống, được hạnh phúc, và được tự do".2 1 Margarita Díaz-Andreu, "kháchcủa biên tập viên Giới thiệu: Chủ nghĩa dân tộc và khảo cổ học", quốc giavà Chủ nghĩa dân tộc 7,4 (2001), p. 429. Nhấn mạnh trong bản gốc. 2 Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, LịchSử Việt Nam, vol. 1. (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1971), p. 9. Trong vòng 20 năm, tuy nhiên, ViệtNam, quốc gia Đông Nam Á nhỏ và nghèo, sẽđược tham gia vào một trong những cuộc xung đột kéo dài và bất công của thế kỷXX với Hoa Kỳ, một quốc gia nó đã từng coi như là một mô hình mẫu. Trong năm1964, Quốc hội Mỹ đã thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ đã dẫn đến sự leo thang củasự tham gia của quân đội Mỹ ở Việt Nam, đồng thời, các nhà khảo cổ học tại ViệnLịch sử ở Bắc Việt đã tham gia vào cuộc khai quật của di chỉ thời đại đồ đồngtrên lãnh thổ của họ. Công việc của họ không dừng lại, thậm chí sau khi bắt đầuOperation Rolling Thunder vào năm 1965, chiến dịch của không quân Mỹ tấn công hầunhư hàng ngày chống lại CHDCVN. Từ đó cho đến tháng 11 năm 1968, Mỹ đã thả khoảng800 tấn bom, tên lửa lên CHDCVN mỗi ngày.3 Năm 1967, Viện Lịch sử đã bắt đầunghiên cứu chuyên sâu của thời đại các vua Hùng, những năm sau, Viện Khảo cổ họcđã được thành lập, nhiệm vụ đầu tiên của nó là để cung cấp bằng chứng của mộtdân tộc Việt Nam cổ đại. Walter Benjamin đã viết rằng "trình bày rõ quá khứlịch sử không có nghĩa là nhận ra cách thức mà nó thực sự là”. Nó có nghĩa là đểnắm bắt giữ bộ nhớ khi nó lóe sáng tại một thời điểm nguy hiểm... Chỉ có sử giasẽ có những món quà của quạt tia sáng của hy vọng trong quá khứ, người tin chắcrằng ngay cả người chết sẽ không được an toàn khỏi kẻ thù nếu ông thắng".4 Các nhà khảo cổ học Việt Nam đượctrang bị kiến thức rằng càng dân tộc Việt Nam càng cổ xưa, càng nhiều chi phí củasự thất bại tiềm năng trong cuộc xung đột với Mỹ. Đó là vì lý do này mà họ vẫntiếp tục tiến hành các cuộc khai quật dưới các điều kiện cực kỳ nguy hiểm và tườngthuật của các vua Hùng họ đóng góp để có một năng lực như vậy. Là Giám đốc củaViện Khảo cổ học Phạm Huy Thông đã từng nói, "lịch sử là một nguồn sức mạnhcho chúng ta".5 3Stanley Karnow, Việt Nam: Một lịch sử (New York: Penguin, 1997), p. 468. 4Walter Benjamin, Illuminations ed. Hannah Arendt, trans. Harry Zohn (Glasgow:Fontana / Collins, 1970), p. 257. Nhấn mạnh trong bản gốc. 5trích dẫn trong John K. Whitmore, "Cộng sản và lịch sử ở Việt Nam", Cộngsản Việt Nam trong quan niệm so sánh, ed. William S. Turley (Boulder: WestviewPress, 1980), p. 11. Khảo cổ học cung cấp một nguồn sức mạnh khôngchỉ thông qua xác nhận mạnh mẽ của bài tường thuật hiện có của bản sắc dân tộc,nhưng thông qua việc biểu hiện lịch sử trong cuộc sống hàng ngày thông qua sựmô tả bằng hình tượng sinh sản của các hài cốt khảo cổ học. Văn hóa Đông Sơn vàđặc biệt là trống đồng liên kết với văn hóa đó đã trở thành biểu tượng quan trọngcủa thời đại các vua Hùng. Pham Huy Thông đã viết: Trongquá trình nghiên cứu buổi bình minh của lịch sử nhân loại, cụ thể là, tuổi củacác vị vua Hùng, vật phẩm đã dần dần xuất hiện như là biểu tượng xứng đáng nhấtcủa nền văn minh vua Hùng là trống đồng. Chính xác hơn, nó là trống loại I giữabốn loại phân loại của Heger vào đầu thế kỷ này.6 Hình ảnh của nhĩ từ trống đồngvà đồ trang trí họ phải chịu là phổ biến trong Việt Nam hiện đại, trên các ápphích, bưu thiếp, bìa sách và các đối tượng thường ngày khác. ViệtNam không còn chiến tranh. Việc sử dụng của khảo cổ học tuy nhiên vẫn tiếp tụctồn tại trong quá trình xây dựng quốc gia. Trong tháng 12 năm 2002, việc xây dựngNhà Quốc hội mới trên một địa điểm đối diện Hồ Chí Minh Lăng ở Hà Nội đã được tạmdừng sau khi phát hiện ra di chỉ khảo cổ học ở đó. Khai quật khác trên địa điểmđó của Viện Khảo cổ học cho thấy một số đồ tạo tác và các cấu trúc quan trọng,có niên đại từ thứ bảy đến thế kỷ thứ mười chín, được mô tả như là khảo cổ họclớn nhất và quan trọng nhất trong lịch sử của Việt Nam. Đầu rồng và lân bằng đácẩm thạch, đất nung con rồng, tượng chim phượng hoàng, đồ dùng làm bằng đá quývà bình đựng di cốt bằng đồng, gốm, đồ trang sức vàng, trang trí thanh kiếm, mộtkhẩu pháo và đất nung đã được khai quật ở đó. 6Phạm Huy Thông, "Trống Đồng", KCH 13 (1974), p. 9. Bản dịch từ HanXiaorong, "Echoes hiện tại của Trống Đồng cổ đại: Chủ nghĩa dân tộc và khảocổ học tại Việt Nam và Trung Quốc hiện đại", khám phá 2,2 (1998), p. 45. Bìnhluận về khai quật, Dương Trung Quốc, tổng thư ký của Hiệp hội các nhà sử học ViệtNam cho biết, "Cuộc khai quật này mang đến cho chúng tôi thông tin có giátrị về lịch sử nền văn minh huy hoàng và của quốc gia ... Nó sẽ mở ra 1 trangquan trọng của lịch sử dân tộc với bằng chứng thực và thuyết phục rằngtrước đâychỉ được biết đến thông qua các cuốn sách lịch sử ".7 Vào đầu thế kỷ 21,sau đó, các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục ghép các di chỉ khảo cổ học với địa điểm và thờigian trong các văn bản thuộc địa trước để đồng thời xác nhận và hoàn thành bàitường thuật của quốc gia trong quá khứ. WilliamCummings đã lập luận thuyết phục rằng "lịch sử không phải chỉ là các bảnghi của quá khứ, nhưng bản thân lực lượng vũ trang hoặc các bộ hạ có ảnh hưởngđến quá trình phát triển. ... Họ không chỉ đơn giản là cấu trúc xã hội, vănhoá, tư tưởng bối cảnh hiện hành, trong đó họ được thực hiện, họ cũng định hìnhnhững bối cảnh ".8 Trong những năm 1960, các di chỉ khảo cổ học đồ đồng đãđược sử dụng để xác nhận việc chiếm đóng lãnh thổ trong thời cổ đại được mô tảtrong văn bản trước thuộc địa. Khảo cổ học tiếp tục đóng một vai trò trong lãnhthổ tự chế tác của Việt Nam. Ngày16 tháng 2, 2001, tờ báo Lao Động Việt Nam (Lao động) báo cáo trong một bài viếttrang nhất mà Viện Khảo cổ học đã phát hiện ra một số đồ tạo tác gốm Việt Nam từthế kỷ 13, 14 và 17, 18 trên đảo Trường Sa Lớn trong cuộc khai quật giữa1996-2.000.9 Bài viết khẳng định rằng những phát hiện này là bằng chứng khảo cổrộng lớn yêu cầu bồi thường của Việt Nam trên các quần đảo, tranh chấp bởiTrung Quốc.10 7Bùi Quỳnh Hoa, "Đào lên các di chỉ của một quá khứ văn minh", Chủ nhậtViệt Nam News (Hà Nội), 30 Tháng 11, 2003, trang 4-5. 8William Cummings, Làm máu trắng: biến đổi lịch sử hiện đại buổi đầu Makassar(Honolulu: University of Hawaii Press, 2002), p. 13. 9Để có thông tin cụ thể hơn về khảo cổ học tìm thấy Nguy en V a n Hà o,"detected Khao cổ learning of Islands field Sa and the Islands Phia nam ViệtNam", KCH 4 (1996), trang 11-15 . 10Về tranh chấp lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc, Ramses Amer, "tranh chấplãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam và tính ổn định khu vực", đương đạiĐông Nam Á 19,1 (1997), trang 86-113 "Điềunày khẳng định sự hiện diện sớm và liên tục của Việt Nam trên quần đảo TrườngSa", bài báo nêu. Nó dẫn lời giám đốc của Viện, Hà Văn Tấn, người đã nói:"Chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng khoa học rõ ràng của hoạt động hàng hảicủa người dân Việt Nam trong thời gian sớm. Đây là bằng chứng rõ ràng góp phầnvào việc bảo vệ và bảo vệ chủ quyền quốc gia trong vùng lãnh thổ đất nước".11 Thực hành khảo cổ học ở Việt Nam đã được định hình bởi các bối cảnhxã hội và chính trị mà nó diễn ra, nó cũng đã định hình những bối cảnh , ít nhấtmột phần, bằng cách góp phần tuyên bố trong lãnh thổ tranh chấp quốc tế. Kểtừ khi đất nước thống nhất vào năm 1975, các nhà khảo cổ học tại Việt Nam đãtìm cách chứng minh mối quan hệ giữa văn hóa Đông Sơn và các nền văn hóa khảo cổhọc khác trong những gì bây giờ là lãnh thổ của Việt Nam, đặc biệt là văn hóaSa Huỳnh trong khu vực Nam Trung, nổi tiếng nhờ các bình chôn của nó.12 Mặc dùmột số trung tâm gia công kim loại được công nhận ở miền Bắc, miền Trung và miềnNam Việt Nam, những điểm tương đồng rút ra giữa các nền văn hóa phát triển ở nhữngtrung tâm này có thể được nhìn thấy để bảo lãnh việc tuyên bố chủ quyền đương đạiđể thống nhất văn hóa của Việt Nam, ngay cả trong quá khứ cổ sử. Nóđược lập luận trong Chương Ba rằng các văn bản của lịch sử dân tộc Việt Nam đãgiả định sự tiến triển của một tập thể thống nhất chủ đề theo thời gian:"dân tộc Việt Nam", dựa trên một nền kinh tế được chia sẻ, lãnh thổvà nền văn hóa. Tuy nhiên, sự uyên bác gần đây đã tiết lộ cách thức mà các quốcgia nói chung như một chủ đề là một cấu trúc được lắp ráp từ các mảnh ghép đa dạng.13Nhà nước đương đại Việt Nam công nhận 54 nhóm dân tộc khác nhau trong phạm vi biêngiới của Việt Nam. 11“Phát hiện dấu tích cư trú của người Việt xuất hiện sớm tại Trường Sa”, Lao Động(16 February 2001), pp. 1 (“xác nhận”) and 2 (“bằng chứng khoa học rõ ràng”). 12Xem, ví dụ, Hà V ăn Tấn and Trịnh Dương, “Khuyên tai hai đầu thú và mối quan hệ Đông Sơn – Sa Huỳnh”, KCH 4 (1977), pp. 62-67. 13Xem, ví dụ, Partha Chatterjee, The Nation and its Fragments (Princeton:Princeton University Press, 1993). Cácdân tộc Việt Nam bao gồm dân tộc Việt và 53 dân tộc thiểu số khác. Đa số dân tộcđã được viết vào thời tiền sử của Việt Nam. Học giả Việt Nam đã lập luận rằngngay cả ở đầu của nó, dân tộc Việt Nam, vương quốc của Văn Lang là một liênbang của các bộ lạc ".14 Gầnđây, các nhà khảo cổ học đã bắt đầu chú ý tới các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyêncủa Việt Nam, trong đó bao gồm các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc và Lâm Đồng.Giữa năm 1993 và 1995 bằng chứng của nền văn hóa Sa Huỳnh được tìm thấy ở đócũng như một nền văn hóa mới được thực hiện để mở rộng vùng Tây Nguyên và đượcgọi Biển Hồ sau khi một trang web ở GiaLai.15 Tại cùng một thời điểm mà các nhà khảo cổ đã viết các dân tộc. TâyNguyên vào lịch sử đầu tiên của Việt Nam và rễ ở các vùng cao thông qua các nềnvăn hóa khảo cổ học phát hiện ra, nhà nước Việt Nam đã được rễ trong lãnh thổtheo đúng nghĩa đen nhiều hơn thông qua chương trình giải quyết buộc gọi làformat canh format củ (nông nghiệp lâu dài và giải quyết).16 Trongcuộc chiến, Hồ Chí Minh đưa ra ý tưởng " đoàn kết dân tộcbằng cách sử dụng1 phép ẩn dụ gia đình, nơi các nhóm dân tộc khác nhau là con cái của Việt Namvà trong gia đình của Việt tộc người cao tuổi anh em có nhiệm vụ của cả hai tôntrọng và phát triển các dân tộc thiểu số.17 Thực hành của nhà nước Việt Nam cóxu hướng phản ánh quan điểm và lợi ích của các dân tộc Việt Nam. 14Nguyễn Linh and Hoàng Hưng, “Vấn đề Hùng vương và khảo cổ học”, NCLS 108 (March1968), p. 18. 15See, for example, Hoàng Xuân Chinh, “Khảo cổ học Tây Nguyên sau ba mùa điền dã(1993-1995)”, KCH 4 (1996), pp. 41-47. 16Xem Oscar Salemink, "Sedenterization và bảo tồn có chọn lọc trong số nhữngngười Thượng ở Tây Nguyên Việt Nam", trong thời hỗn loạn và nhân dân Duytrì: Dân Mountain ở Đông Nam Á Massif ed. Jean Michaud (Richmond, Surrey:Curzon, 2000), trang 125-146. 17giải Oscar Salemink, "Du kich nguyên thủy: Chiến lược Pháp và xây dựng mộtbản sắc dân tộc Tây Nguyên ở Đông Dương", trong Hoàng gia và Chính sáchdân tộc Đông Nam châu Á 1930-1957, eds. Hans Antlöv và của Stein Tønneson(London: Curzon Press / Nias, năm 1995), p. 280. Phầnmở rộng của nhà nước vào Tây Nguyên về tạo dựng kiến thức khảo cổ học về nhữngngười ở đó và định cư bắt buộc của họ có thể được xem như là một phần của dự ánlớn hơn củanhà nước về việc làm cho lãnh thổ "dễ đọc", điều này cónghĩa, để nhớ lại định nghĩa của James Scott, để "tạo ra một mạng lướitiêu chuẩn, theo đó nó [có thể] được ghi lại và giám sát".18 Các cư dân củavùng cao nguyên đã đáp ứng được chương trình giải quyết buộc của nhà nước vớithái độ thù địch và bạo lực sắc tộc, vi phạm nhân quyền và theo dód tội ác kháccủa Nhà nước.19 Trongthời kỳ sau độc lập, khảo cổ học tại Việt Nam được tiến hành trong điều kiệnnguy hiểm và phục vụ như là một "vũ khí tư tưởng" trong một thời gianchiến tranh. Nó phục vụ trong việc huy động sức mạnh của 4000 năm trong cuộckháng chiến cứu quốc chống lại Hoa Kỳ "0,20 Trong một thời gian hòa bình,xây dựng lại quá khứ mà khảo cổ học có thời đã được khai thác để phục vụ yêu cầuquốc tế tranh chấp và đã là một phần của một chiến lược nhà nước lớn hơn để đạtđược kiểm soát lãnh thổ và tài nguyên của quốc gia. Ban đầu giả mạo trong một bốicảnh nguy hiểm, khảo cổ học Việt Nam bây giờ phải đối mặt với mối nguy hiểm mới.Trong văn bản lịch sử, Keith Taylor đã cảnh báo rằng "quá khứ là vaster vàxa lạ hơn là chúng tôi đã được đào tạo để tin, và nó không có ai nhưng nhữngngười sống. Nó là một sự nhầm lẫn đẹp, và nó là đẹp chính bởi vì nó là sự nhầmlẫn, khi nó dừng lại bối rối chúng tôi, chúng tôi có thể chắc chắn rằng chúngtôi đã hiểu nó thành một cái gì đó nguy hiểm ".21 18James C. Scott, Thấy Giống như một Nhà nước: Một số Đề án Cải thiện Điều kiệncon người đã không thành công (New Haven: Yale University Press, 1998), p. 2. 19Xem Assault mới về các quyền tại Tây Nguyên của Việt Nam: đàn áp người Thượng bảnđịa tăng cường (New York: Human Rights Watch, 2003). 20Hà Văn Tấn, “30 năm Viện Khảo cổ học: 1968-1998”, KCH 3 (1998), p. 3. 21Keith Taylor, "Lời nói đầu", trong tiểu luận vào quá khứ Việt Nam,eds. K.W. Taylor và John K. Whitmore (Ithaca: Cornell University Chương trìnhĐông Nam Á năm 1995), p. 6. PHỤ LỤC B Lưu ý tự truyện Trongnhững năm gần đây, các nhà nhân chủng học đã trở nên quan tâm đến nguồn gốc củakiến thức nhân loại học và tình trạng riêng của họ như những người quan sát củaxã hội người nước ngoài. Nó không phải là không phổ biến cho các công trìnhnhân học để bắt đầu với lời giới thiệu tự truyện chi tiết làm thế nào tác giả củahọ bước vào lĩnh vực và với những cam kết cá nhân và trí tuệ mà họ tiếp cận ngườicung cấp thông tin của họ. Kể từ khi công việc của Hayden White, nhà sử học,như các nhà nhân chủng học, đã trở nên ý thức hơn về mối quan hệ giữa văn bảnvà bối cảnh cá nhân, xã hội và chính trị mà họ làm việc. Phụ lục này trình bàylàm thế nào tôi trở thành quan tâm đến lịch sử Việt Nam và một số đặc điểmphông nền của tôi có thể đã mang về học bổng của tôi. Tôilà một nam giới người New Zealand gốc Polynesia và châu Âu hỗn hợp và nguồn gốcxã hội tầng lớp trung lưu thấp hơn. Tôi nhận được một nền giáo dục trung họckhá bảo thủ trong một thành phố thuộc tỉnh ở New Zealand, nơi tôi chuyên về cácngành khoa học chính xác. Thời điểm cuối trong giáo dục trung học của tôi,nó là ý định của tôi để theo đuổi một sự nghiệp nghiên cứu trong vật lý. Lần đầutiên tôi đến Singapore vào tháng Bảy năm 1998, được hỗ trợ bởi một Học bổngSingapore của Quỹ 2000 Châu Á của New Zealand để học toán học và vật lý tại Đạihọc Quốc gia Singapore. Sau một học kỳ không hạnh phúc ở Khoa Khoa học, tôichuyển sang các Khoa Nghệ thuật và Khoa học xã hội. Dườngnhư với tôi lúc đó sinh sống và học tập tại Singapore cung cấp cả hai lý do vàcơ hội để tìm hiểu thêm về Đông Nam Á, nhà nuôi của tôi. Vì vậy, tôi học chuyênngành Đông Nam Châu Á học. Là một sinh viên chưa tốt nghiệp trong Chươngtrình Nghiên cứu Đông Nam Á, tôi bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các lớp tôi đãcùng Phó Giáo sư Geoffrey Benjamin và Tiến sĩ Michael Montesano. Tôi phát triểnlợi ích trong nhân chủng học xã hội và lịch sử xã hội của Đông Nam Á trong cáclớp học tương ứng. Khitôi là chưa tốt nghiệp, những sinh viên đại học có nhu cầu theo chuyênngảnh Đông Nam Châu Á học được yêu cầu để chọn một ngôn ngữ để học tập. Tôi đãchọn học tiếng Việt chủ yếu là bởi vì tôi tin rằng nó là ít khó khăn hơn so vớiThái Lan, nhưng khó khăn hơn so với Indonesia. Tôi đã kể từ khi sửa đổi quan điểmnày. Tronghọc kỳ I năm học 2000/2001, tôi chọn khóa học Quá trình tiến hóa của ViệtNam như một quốc gia với Tiến sĩ Bruce Lockhart. Trong khóa học đó, lịch sử củaViệt Nam đã bắt đầu với thời kỳ các vua Hùng và đất nước của họ Văn Lang. Đánhgiá bằng văn bản đầu tiên mà Tiến sĩ Lockhart yêu cầu liên quan đến một sự lựachọn của câu hỏi, một trong số đó liên quan đến việc có hay không, dựa một phầntrên bằng chứng khảo cổ, đất nước của Văn Lang phải được coi là nguồn gốc củaquốc gia Việt Nam như các học giả trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tranhluận. Tiếnsĩ Lockhart coi là phản ứng đầu tiên của tôi với câu hỏi không đạt yêu cầu. Luậnán này, ít nhất một phần, là một nỗ lực để làm tốt hơn. Kể từ thời gian củatôi như là một sinh viên đại học, tôi đã thay đổi quan điểm của tôi về bản chấtcủa các quốc gia thuyết phục rằng họ có các căn cứ của họ trong các hình thứctrước đó của cộng đồng, chứ không phải là hậu quả nhân tạo hiện đại. Cólẽ một trong những vấn đề quan trọng nhất mà các học trò của lịch sử Việt Namphải đối mặt với liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ. Nghiên cứu của lịch sửhiện đại của Việt Nam đòi hỏi kiến thức của cả Pháp và Việt Nam. Các nghiên cứunghiêm túc của lịch sử hiện đại Việt Nam đòi hỏi kiến thức của Trung Quốc. Điềunày tôi không có. Đối với lịch sử hiện đại thay vì dựa trên văn bản đã được dịchra tiếng Việt hiện đại. Tôi đọc Pháp và Việt Nam, với phụ tá là một từ điển.Có các mục từ vựng và thành ngữ đặc biệt là trong cả hai ngôn ngữ không quenthuộc với tôi. Tôi cũng cảm thấy tự tin hơn các tài liệu đọc vẽ trên từ vựngliên quan đến lịch sử và khảo cổ học. Tôi hy vọng để cải thiện năng lực của tôitrong cả hai ngôn ngữ sau khi dành nhiều thời gian nghiên cứu và sử dụng chúngtại Pháp và Việt Nam, hơn là sử dụng rồi loại bỏ. Phươngpháp tiếp cận của tôi để nghiên cứu lịch sử là khá bảo thủ. Tôi không xấu hổ đểmô tả bản thân mình như một nhà thực chứng. Tôi đi ngược lại với tất cảcác quan điểm đòi hỏi bất kỳ hình thức của thuyết tương đối đạo đức hay nhận thứcluận, chẳng hạn như các phong trào trí tuệ, nếu họ có thể được mô tả như rằng,có nhãn hiệu bản thân, hoặc đã được dán nhãn bởi những người khác, là "hậuhiện đại" hay "hậu thuộc địa". Triết học, quan điểm của riêng tôidẫn đến chủ nghĩa nhân văn tự do, chủ nghĩa hiện thực và nghĩa tự nhiên nhận thứcluận siêu hình. Các nhà sử học mà tôi ngưỡng mộ nhất là C.A. Bayly, Huệ-Tâm HồTài, Sir Keith Thomas và David Washbrook. Trongtương lai, tôi hy vọng nghiên cứu lịch sử của tôn giáo bình dân ở miền bắc ViệtNam và lịch sử xã hội của y học Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh thế kỷ 20.Tôi cũng rất quan tâm đến chủ đề không liên quan của lịch sử quốc tế của cáckhoa học địa vật lý ở Nam Cực.
    2 likes
  18. Hôm nay vào lại Diễn đàn, thấy chú Thiên Sứ quyết định đóng cửa Trung tâm và Diễn đàn, nghe thật buồn! Cháu đến với Diễn đàn qua một người bạn. Sau 1 thời gian tham gia, có duyên được gặp chú Thiên Sứ nên cháu cũng đã đề đạt với chú sau này sẽ xin tham gia khóa Phong thủy cơ bản. Tuy nhiên, chỉ vì sinh kế mà chưa thể tham gia được! Nay thì Diễn đàn và Trung tâm đóng cửa, thôi mượn câu VẠN SỰ TÙY DUYÊN tự an ủi vậy! Cháu có may mắn đi cùng chú trong buổi tổng kết các dự báo năm 2011 và công bố các dự báo cho năm 2012 và cháu ngộ ra được nhiều điều từ đó! Tuy chưa may mắn được trở thành môn đồ của chú nhưng cháu cũng đã tự xác định sẽ luôn đồng hành cùng Trung tâm, cống hiến phần sức lực nhỏ bé của mình vào quá trình phục hồi những giá trị văn hiến Việt và phục hưng lại ánh hào quang của nền văn minh huyền vĩ đó! Vậy mà hôm nay nghe thông tin này, cháu cảm thấy thất vọng thực sự, bởi cháu là người thứ 30 nhấn vào nút cảm ơn bài viết số 39 trong topic đó! Cá nhân cháu, bằng thông tin mình có được và cảm nhận cá nhân thì mọi thứ đang tiến gần đến điểm tới hạn, trùng khớp với các dự đoán ngắn, trung và dài hạn của chú! Nếu đây là bước lùi tạm thời để lấy đà bước tiếp nhiều bước thì cháu nhiệt liệt ủng hộ nhưng nếu không thì thật không phải và không đáng! Từ cuộc họp Trung tâm ở miền Bắc và miền Nam đến nay, cháu chưa tính lại xem đã 100 ngày hay chưa, nhưng rõ ràng tâm huyết của các thành viên Trung tâm như Thế Trung, Hatgaolang ... cũng như những người tâm huyết với Việt sử như Phoenix, một số thành viên khác cháu ko nhớ tên, đang viết cũng ko tiện tra cứu và bao nhiêu người khác vẫn qua lại Diễn đàn. Những tâm huyết ấy không đáng để cố gắng hay sao? Đây đâu phải là lần đầu tiên, và chắc chắn cũng không phải là lần cuối cùng chú gặp trở ngại trên con đường nghiên cứu của mình! Quân tử tùy thời biến dich, cháu không nắm được thông tin, cũng chưa hình dung ra những khó khăn chú gặp phải nhưng cháu tin là mọi câu đố đều có lời giải! Cháu tin là chân lý có cách riêng để chọn người phù hợp tìm ra mình! Chúc chú khỏe mạnh và an lạc!
    2 likes
  19. QUAN ĐIỄM CỦA TÔI / cung di vcd có tuần án ngữ có nghĩa là rất khó khăn hay cơ hội ít có để được xuất ngoại ,nhưng khi có cơ hội sẽ đi được đây là cái lý của ông tuần + vcd ,cũng thường những người như vậy khi xuất ngoại được lại không muốn về cũng vì cái lý của ông Tuần ngăn cản sự trở về đó / nhận xét về cung mệnh có ân quang - thiên -phúc đức ,tức người có nhiều nhân đức tính tốt , biết phân biệt phải trái tốt xấu / trren đường công danh kem may mắn quan lộ không thông ,không nên tham gia vào chính trường để tránh họa tù tội sau nầy vì mệnh có Liêm -tham / không có tay chới bạn đối với người nhỏ hay bằng tuổi thích hợp với những lớn hơn mình nhiều tuổi càng lớn tuổi hơn càng tốt ,những người bạn đồng thời cùng lứa ,đến khi hoạn nạn hay cần nhờ vã họ sẽ thối thác . Có thể đi về các ngành nghề kỷ thuật hay xây dựng thiết kế v.v. thích hợp với các nghề liên quan đến đất đai nhà cửa ,hay môi giới đầu tư về bất động sản , sau nầy tạo sự nghiệp nhà cửa cũng dễ dàng ,nhưng dễ tậu cũng dễ bán ,trong đời chỗ ở hay nhà của thường hay thay đổi nhiều lần ,sau có nhà cũng khá cao ráo đẹp / về tài lộc bước đầu khi lập nghiệp tiền bạc hơi khó tìm nhưng dần về sau tiền tài càng tích tụ hậu vận rất khá giả / quan trọng chỉ chú ý đến vấn đề tù tội trong đời sợ khó thoát khỏi dù ngắn hay dài hạn /bệnh tật ; nên chú ý đến sức khỏe đừng quá háo sắcmà sau có bệnh ED ,nên ăn đò kieng cữ gia vị cay hay rượu đễ tránh bệnh Trĩ .
    2 likes
  20. Khi n/c nhân chủng qua gen phải hiểu một quan niệm khoa học đầu tiên quan trọng là: “Nhiễm sắc thể Y” hàm chứa 78 gen là di truyền từ Bố, công năng chủ yếu của 78 gen này chỉ là khởi động phát dục của Nam tính để chế tạo tinh trùng, sau phát dục thì tính cách Nam, tính khí quan v.v. đều do các nhiễm sắc thể khác (có tới 2-2,5 vạn gen) quyết định, những nhiễm sắc thể này đều đến do Tổ, là sự hỗn hợp của hai bên Bố và Mẹ. [ Ổ là cái chung nhất. Động vật đã tiến hóa từ dưới nước, đến lưỡng cư như Nòng-Nọc, rồi đến sống hẳn trên cạn, rồi mới đến thành chim biết bay. Nôi của các loài có trước chim gọi là Ổ, còn Nôi của loài chim gọi là Tổ, do lướt “Từ Ổ” = Tổ, tức đã đi từ mặt đất rồi mới biết bay thành chim. Do tổ chim thường làm trên Cây = Cao nên Tổ của chim còn được gọi là Sào 巢 và cái que giúp nối dài cánh tay để vói lên Cao cũng gọi là cây Sào. Tổ của chim gọi là Sào đã gợi ý cho người nguyên thủy làm Ổ = Chỗ = Ở = (Ư 於 = Âu 瓯 = Yêu = U = Vu 於, đều chỉ sự Ở như là trong cái để Đựng = Đường 堂) trên chạc cây cao để tránh thú dữ. Cây Sào (thủa ban đầu là một cây đơn có đẽo bậc để dễ bám mà trèo lên) có công năng đầu tiên là dùng để Trào=Trèo=Leo lên Sào mà ở (ngoài tránh thú dữ còn tránh được nước lũ Trào 潮 = Triều 潮 = Tràn lên cao), khi gặp lũ mới biết phát huy công năng thứ sinh của cây Sào là dùng để Trao=Chao==Chèo thuyền. Sào ở của người khác với Sào ở của chim là được làm Dàn=Dang=Ngang rộng ra thành một vuông bằng bặn không dốc, nên gọi lướt là “Sào Dàn” = Sàn. Thổ dân Indonexia gọi nó là “Tan-Ga”, thổ dân Việt gọi nó là “Sàn Nhà”, thổ dân Chăm gọi nó là “Thang-Giơ” và Việt nho viết bằng hai chữ “Đường Gia 堂 家” . Chữ Đường 堂 cụ thể chỉ cái nhà thiên về ý phần trong của nó, về sau Hán nho dùng chữ Đương Huynh Đệ 堂 兄 弟 để chỉ anh em cùng họ đằng nội. Từ đôi Sàn Nhà = Đường Gia là lối ghép từ đôi nguyên thủy, cái Trong có trước thì đứng trước, cái Ngoài có sau thì đứng sau. Khi người ta Dựng nhà bằng cây, tức Dựng cái để Đựng, cho con người, thì bao giờ cũng dựng cột kèo là cái trong trước, rồi mới đến làm mái và phên là cái ngoài, cái thiên ý ngoài gọi là Nhà=Da=Giỏ=Vỏ=Ván=Váy=Quây=Cót=Lót=Lều=Lán, (đều là những cái để Đựng). Thiên ý trong là Sàn=Giàn=Giường=Đường 堂 =(Trướng 帐 = Trong = Trung 中= Phùng 篷). Sau giai đoạn ở Sào làm dựa vào chạc cành có sẵn trên cây thì người nguyên thủy làm Nhà Sàn trên các cọc cắm trên nền đất. Cái Sàn để sinh hoạt trong nhà là làm bằng cách ghép Vỏ cây hoặc cật Nứ a sít lại với nhau gọi là Đan = Nan = “Tan” (trong từ “Tan- Ga” của thổ dân Indonexia) = =Sàn = Ván = Vỉ = Thỉ 屉 = Vì屉 = Vỏ = Giỏ = Giát, giống như những thanh Vì ghép sát nhau đỡ hay đựng cho ngói khi lợp mái nhà. Lúc này công cụ để bước lên Nhà Sàn không còn là một cây Sào nữa mà là cái “Thang” (trong từ “Thang-Giơ” của tiếng Chăm) làm bằng hai cây sào có những thanh ngang để tiện đặt chân bước lên, cái dụng cụ ấy gọi lướt “Thanh Ngang” = =Thang (ngày nay không còn dùng Nan hay Thanh để làm thang nữa nhưng vẫn gọi là Thang Máy). Hàng vạn năm trước khi Việt và Hán chưa gặp nhau, chưa biết nhau, thì do sinh thái phương Nam sông nước và sinh thái phương Bắc đồng cỏ đất khô là khác nhau, người Việt nguyên thủy ở Sào, người Hán nguyên thủy ở Huyệt, là nơi trên đồng cỏ mênh mông bằng phẳng có những rãnh đất khô sâu là vết nứt do động đất từ xa xưa để lại, người Hán nguyên thủy du mục trên đồng cỏ khoét vách rãnh đất khô đó thành hàm ếch làm chỗ ở tránh gió tuyết lạnh, người Việt gọi kiểu ở đó là ở Huyệt. Khi hội nhập hai nền văn hóa Nam với Bắc tại vùng đồng bằng khô Hoàng Hà, lúc đó Việt nho mới có từ đôi Sào Huyệt để nhấn mạnh chỉ chỗ ở của một tổ chức nhiều người (thiên về dùng cho bọn cướp). Gọi là Sào Huyệt 巢 穴 chứ không gọi là Huyệt Sào, vì Tiếng Việt từ Sào có trước, từ Huyệt có sau. Hán nho mượn từ đôi Sào Huyệt 巢 穴và dùng nguyên theo thứ tự ghép như vậy (nếu bạn gõ chữ Hán ngữ đúng thứ tự Sào Huyệt thì sẽ hiện lên hai chữ nho đúng thứ tự Sào Huyệt 巢 穴, còn nếu gõ Huyệt Sào thì máy tính sẽ không hiểu và không hiện lên hai chữ Huyệt Sào). Khi đang còn ở Sào 巢 người nguyên thủy cất xác chết trong hang núi cheo leo chứ chưa có tục đào Huyệt 穴 chôn xuống đất như khi đã chuyển sang sống nghề trồng trọt định cư. Huyệt cũng là cái Ổ, nhưng là Ổ chôn xác chết: Ổ=Hố=Hốc=Hang=Huyệt, “Hố chôn một thây Việt” = Huyệt. Về sau không ở Huyệt nữa thì người Hán nguyên thủy du mục làm nhà ở bằng may các tấm da cừu (về sau lại làm bằng các tấm vải bạt) thành cái lều hình chóp tròn. Việt nho gọi cái lều vải ấy bằng từ đôi theo thiên ý “Trong” là cái Trướng Phùng 帐 篷 (đây là một từ đôi của Việt nho, Hán ngữ hiện đại vẫn dùng y nguyên thứ tự từ đôi Việt này, nếu gõ ngược là Phùng Trướng thì máy sẽ không hiện hai chữ Trướng Phùng 帐 篷 này. Bởi vì từ nguyên của từ “ở Trướng Phùng” chính là từ “ở Trong Phên” của cái nhà tre Việt. Người Việt nguyên thủy đã đem cái từ ở trong nhà tre của Việt là “ở Trong Phên” để gọi cái ở trong lều vải của người Hán nguyên thủy là “ở Trướng Phùng” . Từ này có lẽ xuất hiện sau khi người Việt đã bán Vải cho người Hán, trước khi người Hán học được cách trồng bông dệt vải của kỹ thuật nông nghiệp của người Việt, vải bán theo số lượng từng Bó, từng Bó để dễ chất lên lưng Lừa hay Lạc Đà của người Hán, nên người Hán gọi vải là Bố 布. Và Bố=Bạt. Nhưng thiết kế lều vải hình chóp tròn thì là đúng bản quyền của người Hán, trước đó người Việt chưa từng nhìn thấy kiểu ở như vậy. Người Việt nguyên thủy chỉ biết Nhà Sàn (như ở di chỉ Hà Mẫu Độ thuộc Triết Giang có niên đại một vạn năm đã phục dựng nhà sàn bằng cây , có mái lá cong ) và chỉ biết “Mâu Lô 茅 廬” (lều bằng cỏ lau) mà Lưu Bị ở thủa hàn vi.]
    2 likes
  21. Uh, nhầm 1 tí, nếu vậy thì sinh Ất Mùi 2015 nhé. Ngoài ra cũng hết năm rồi, xa hơi thì mẹ cũng lớn tuổi! Thân mến.
    2 likes
  22. Vâng. Từ chiều nay,khi biết được tin rất sốc rằng Chú sẽ chấm dứt hoạt động của TTNC LHĐP,cháu cứ đau đáu suy nghĩ nhiều về cái quyết định rất bất ngờ đó của Chú và có thể đó cũng là quyết định tập thể của các hội viên ưu tú hoặc tích cực của TT. Cháu xin mạn phép chia sẻ cùng chú vài lời và đây cũng là ý kiến chia sẻ cuối cùng của cháu về việc này .Nếu có điều gì xem là mạo muội,xin Chú bỏ qua cho cháu ạ. Vì tư duy của cháu về lý học có thể gọi là "trang giấy trắng" và cũng mới chỉ biết về lý học qua 09 bài cơ bản về PTLV nên không dám dùng hệ quy chiếu của Lý học Lạc Việt để soi chiếu và nhận định về quyết định rất sốc của Chú khi chia sẻ với Chú .Cháu càng suy luận thì càng thấy quyết định của Chú là rất sốc,quá sốc ạ. Cháu cho rằng có lẽ đây là quyết định rất khó khăn của Chú và toàn thể cán bộ của TT. Cháu chỉ dám chia sẻ với chú theo tư duy về xã hội của cháu rằng có lẽ : Vì " thời thế - thế thời,phải thế "; " người thức thời là người tuấn kiệt " ; "nếu gặp bĩ phải biến thì sẽ sớm có cơ hội thay đổi "; nhưng cũng có cách " dĩ bất biến ứng vạn biến ". Theo cháu,nếu 1 nhà lãnh đạo có tâm đức,có tài và có tầm nhìn mà lại thấm nhuần những lẽ nêu trên thì sẽ gây dựng được một sự nghiệp trường tồn. Vì lẽ đó,cháu hoàn toàn chia sẻ sự cảm thông và xin được ủng hộ quyết định của Chú. Chú đã tuyên bố : Cháu rất hy vọng, tin tưởng rằng thế hệ kế cận và các học trò " tùy duyên " sẽ vẫn cùng Chú làm cho " một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại - nhà tiên tri Vanga " đựợc cả thế giới thừa nhận.Kính chúc Chú mạnh khỏe để tiếp tục khai sáng văn hóa 5000 năm của Lạc Việt,thực hiện được ý nguyện của mình trong đời. Thành kính!
    2 likes
  23. Về việc này tôi đã trả lời trong topic nói trên. Vụ việc của Bầu Kiên đang diễn ra thì còn gì để ...bói nữa. Chẳng ai bói con gà chính là con gà cả.
    2 likes
  24. Nếu ban quản trị cho phép,tôi xin có ý kiến cuối cùng dưới đây liên quan đến topic "Hot...hot...bầu Kiên......."đã khóa đưa sang topic này. A.T.N xin có ý kiến với các thành viên trên diễn đàn này : TTNC LHĐP và diễn đàn này đặt tôn chỉ,mục đích là cùng góp tâm nguyện,công,sức tìm hiểu,nghiên cứu,trao đổi,phát huy và truyền bá học thuật nhằm khai sáng lý học Đông Phương 5000 năm của Lạc Việt mà phi lợi ích kinh tế.Đó là mục đích xuyên suốt của Đại sư phụ Thiên Sứ cùng rất nhiều người có tâm huyết,dày công sáng lập ra TTNC và duy trì diễn đàn này. Vì vậy,chúng ta chỉ nên đứng từ gốc của hệ quy chiếu là Phong thủy Lạc Việt,Lạc Việt Độn toán,Tử vi Lạc Việt ...các môn lý học Đông Phương để soi chiếu,xem xét và thảo luận về những sự kiện "hot" như vụ bầu Kiên hoặc những sự kiện 'hot - sensitive" khác của xã hội trong phạm vi của những hệ quy chiếu này mà thôi. Chứ chúng ta không nên đứng lẫn lộn trong cả hệ quy chiếu của lý học Đông Phưong và cả hệ quy chiếu của Kinh tế,Chính trị,Xã hội Việt nam để bình phẩm những sự kiện "hot" mà còn "sensitive" như vậy. Nếu luôn tâm niệm điều này và nhớ rõ tôn chỉ,mục đích thì một vài thành viên diễn đàn đã không comment vài điều lệch hướng như trong topic mà ban quản trị đã khóa. Thật tiếc và buồn quá !!! Trân trọng. Xin cảm ơn ban quản trị diễn đàn!
    2 likes
  25. Tôi chẳng có ý kiến gì trong lúc này. Tương tự như vụ việc Bầu Kiên, ầm ĩ các trang mạng. lề phải lề trái. Riêng LHDP cũng không bàn. Nhưng cũng phải nói rằng: Nhờ có vụ việc mà Trung Nhân báo lên tôi mới viết nột hoàn thành tiểu luận: "Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề biển Đông".TTNC LHDP chẳng có vị trí hoặc vai trò nào trong xã hội cả. Nó chỉ là một trong ngót trên 50, dưới 100 các TT và Viện của hội Đông Nam Á. Ấy là chưa kể các TT và Viện của các Hội khác. Cũng không ít các TT thuộc Hội Đông Nam Á tự giải thể vì nhiều lý do. Câu chuyện cũng chẳng có gì mà ầm ĩ. Ấy là tôi nghĩ vậy.Còn nếu như nó có thành ầm ĩ hay không đó là chuyện của họ. Nếu không phải là Việt sử 5000 năm văn hiến, thế gian này cũng chẳng còn vấn đề gì tôi quan tâm nữa.
    2 likes
  26. Cháu xin chào bác Thiên Sứ! Cháu làm quen được với diễn đàn mình khi cháu lên google tìm nội dung về " Vụ án nhà báo Hoàng Hùng" phục vụ cho môn học Lý Thuyết trò chơi. Lúc đó cháu đã thấy diễn đàn mình dùng Lạc Việt Độn Toán (LVDT) cho vụ này. LVDT là cái gì mà thực sự cháu chưa bao giờ có khái niệm. Sau đó cháu đã đi mò hết topic này đến topic kia để đọc các bài bác đã viết, những thông tin, những môn học thuật và cháu đã nhấn nút Thanks rất nhiều. Cho đến ngày kia cháu không thể nhn61 nút thanks được nữa (?). Rồi 1 hôm cháu lại nhấn nút Thanks lại được, may thật đó, cháu chưa hiểu nguyên tắc của 4rum khi nhấn nút thanks ? Nhưng cháu chỉ cảm thấy hay, tò mò, kiến thức sâu rộng mà cháu chưa bao giờ biết tới, đọc rồi thấy hay, thấy hay rồi bấm nút cảm ơn. Thậm chí, sự kiện 1000 năm Thăng Long vừa qua cháu đã bỏ lỡ ( phải nói là lúc đó cháu cảm thấy cũng bình thường thôi) vì nghĩ chỉ là 1 ngày lễ kỉ niệm sau 1000 năm tuổi mà cháu không hiểu ý nghĩa của nó to lớn như thế nào cho đến khi biết 4rum mình Kể từ khi tham gia 4rum, biết được cội nguồn văn hiến, văn hóa, truyền thống lịch sử của người dân Lạc Việt vốn bắt nguồn từ bờ sông Dương Tử, nhất là môn Phong Thủy, Lạc Việt Độn Toán, Đổi chỗ Tốn Khôn, Hỏa và Thủy của bác đã chứng minh, cháu cảm thấy thật hạnh phúc vì mình đã biết được điều đó trong khi đó có rất nhiều bạn bè của cháu không biết, đi học hay đi gặp anh chị em họ hàng, cháu đều nói cho mọi người nghe là đừng nghĩ phong thủy là bắt nguồn từ Trung Quốc, chính thống là bắt nguồn từ người dân Lạc Việt sống bên bờ sông Dương Tử. Cháu rất tự hào đó bạc ạ. Bên cạnh đó, cứ mỗi lần cháu có thời gian rảnh cháu dọc các bài lịch sử, cội nguồn văn hiến của Bác, rồi của bác Lãn Miên về sự giống nhau giữa cội nguồn con người của Việt Nam và Hàn Quốc và Nhật Bản, rồi các bài của chú Thiên Đồng chứng minh về trò chơi lò cò là biểu hiện của bánh chưng bánh dày, cũng như liên quan tới thiên can địa chi, và nhiều bài mang tính tâm linh của cô Wild... Cháu đã cảm phục rất nhiều về tài năng học thuật của bác Thiên Sứ trong bài của bác, qua đó, cháu thấy rằng, chỉ có ai đó là 1 con người tâm huyết, yêu tổ quốc, học thuật tinh thông mới có thể viết những cuốn sách quý báu chứa đựng sự chủ quyền, niềm tự hào dân tộc như vậy. Cháu nhiều lần vẫn nghĩ là không biết Trung Tâm có đề bạt môn học thuật phong thủy xuất phát từ Việt Nam lên làm Di sản văn hóa phi vật thể... Mới đầu, đọc các topic trên 4rum càng đọc càng thích, rồi còn có thêm cả mấy box tư vấn nữa, cái mà ai cũng tò mò, vậy là cháu cũng lập topic tư vấn, nhưng rồi cháu cũng cảm thấy ngại lắm, nên cháu không dám tư vấn nhiều, chỉ đọc và học hỏi là chính. Sau đó, cháu tự nhận ra rằng, diễn đàn mình chủ yếu thiên về học thuật và hoạt động để duy trì cái sự thật đã được chứng minh mà không ai có thể chối cãi được đó là nền văn hiến Việt 5000 năm bên bờ sông Dương Tử. Vì thế, bác đừng cảm thấy buồn là rằng không có ai quan tâm đến những di sản dân tộc. Cháu quan tâm lắm, và cháu nghĩ cũng còn nhiều cơn sóng ngầm cũng quan tâm như cháu nhưng chưa có dịp đăng nhập nick vào 4rum để cảm ơn và trò chuyện với bác đó! Dạo gần đây cháu vừa đi học vừa đi làm rồi học thêm lớp ngoại khóa nữa nên quỹ thời gian cũng không có nhiều. Chứ nếu có thời gain thư thả là cháu hay đọc các bài viết lắm! Bài nào cũng rất đáng để đọc, đọc bài nào cũng thấy mình giống như cóc ngồi đáy giếng. Bác ah, việc duy trì diễn đàn là rất nên, để con cháu như tụi cháu có nơi để học tập, nơi để nghe các bô lão nhâm nhi li trà kể chuyện sử Việt, tìm về cội nguồn của mình. Cháu mong bác đọc qua các lời của cháu và lấy làm động viên dù nó không hay nhưng cũng là xuất phát từ tấm lòng cháu, cháu cũng có nhiệt huyết cho diễn đàn mình, rồi bác hãy từ từ cân nhắc về quyết định của mình bác nhé! Chúc Bác Thiên Sứ thật nhiều niềm vui! ^^ RQ
    2 likes
  27. Giỏi! Sư phụ đẻ ra Lạc Việt độn toán, nên hiểu rất rõ quẻ này.
    2 likes
  28. Tặng SP một quẻ cho quyết định của SP , giờ Ngọ: Sinh Tốc Hỷ
    2 likes
  29. Kính thưa quí vị quan tâm.Cho đến giờ này. trong lúc tôi đang gõ những hàng chữ này là 4g42 phút, 27. 8. 2012. là 29 người nhấn nút "cảm ơn". Như vậy, tôi trừ 29 ngày tự kỷ luật. Tôi đã nghỉ đúng một ngày hôm qua. Hôm nay tôi quay trở lại diễn đàn. Riêng vấn đề có giải tán TTNC LHDP hay không đáng nhẽ tôi còn cân nhắc. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không đủ 15 người ngoài TT nhấn nút. Bởi vì chỉ cần 16 người học trò thường xuyên tham gia các hoạt động của TT vào đây click nút "cảm ơn", tôi coi như đủ không đủ 15 người ủng hộ hoạt động của TT. Bởi vì TT này hoạt động hoàn toàn tự nguyện. Vì theo lời hứa của tôi thì: Nếu dưới 15 người ngoài TT tôi sẽ giải tán TT này. Kính thưa quí vị quan tâm. Tôi một lòng vì nền văn hiến Việt và cố gắng chứng minh cho lịch sử dân tộc Việt trải gần 5000 văn hiến. Điều này, tất cả mọi cư dân mạng đều biết. Những luận điểm của tôi, họ có thể công nhận, hay không công nhận. Đó là điều tất yếu cúa một lý thuyết mới, có tính cách mạng trong tư duy của tất cả những con người trên thế gian này. Khi mà từ hàng ngàn năm nay, cả cái thế giới này, đều cho rằng: Lý học Đông phương thuộc về Trung Quốc. Một mặc định từ hàng ngàn năm đó của cả thế giới thì tất yếu họ không thể công nhận được ngay. Ngoại trừ những bậc trí thức cao cấp và thật sự uyên bác. Do đó, việc mà mọi người không công nhận, không phải là điều tôi quan tâm. Tuy nhiên vấn đề không phải chỉ dừng lại ở sự thuyết phục mọi người. Nếu chỉ như thế thì đó không phải là điều trở ngại cho cá nhân tôi, trong quyết tâm phục hồi giá trị 5000 năm văn hiến Việt. Vấn đề còn là môi trường để có thể nghiên cứu và làm việc. Tôi đã làm việc trong một điều kiện xã hội mà việc làm của tôi sẽ gây ra những ấn tượng về chính trị trong mối quan hệ với Trung Quốc. Nếu tôi đúng thì người Trung Quốc chẳng còn gì cả. Bởi vậy, chắc quý vị sẽ tự suy luận ra tôi phải làm việc trong một hoàn cảnh căng thẳng như thế nào với điều kiện như vậy. Chuyện đó tôi cũng coi là lẽ tất nhiên và chia sẻ với những cách hiểu do hoàn cảnh tạo ra, đối với tôi. Và hơn nữa, tôi nghĩ mình thuần túy nghiên cứu khoa học - như đám tư duy "Ở trần đóng khố" phủ nhận Việt sử 5000 năm văn hiến rêu rao - nên chắc sẽ không có vấn đề gì. Mặc dù chỉ vài dòng vậy, những nó không đơn giản. Hơn 10 năm lăn lóc chịu đựng những khó khăn của bản thân và môi trường. Tham gia đã ba diễn đàn, với mục đích vinh danh Việt sử 5000 văn hiến, nhân danh khoa học và phi chính trị. Việc thành lập TTNC LHDP thực chất chỉ là một phương tiện để tôi tiếp tục giới thiệu những luận điểm của mình, mà đôi khi không phải lúc nào cũng thể hiện trên sách vở. Nhưng cho đến nay, phương tiện này tỏ ra không hề có tác dụng như mong muốn. Nó chỉ là một cái xác không hồn. Hoạt động chủ yếu của TTNC LHDP chính là trên diễn đàn này. Tôi cũng biết rõ hoàn cảnh tế nhị của mình và thực tế xã hội hiện nay, nên luôn luôn xác định rằng: Tôi và toàn bộ TTNC LHDP và diễn đàn hoạt động phi chính trị. Điều này quí vị biết rất rõ. Nhưng, có những thế lực vẫn tiếp tục cản phá, có những hành vi đe dọa gây ảnh hưởng cho tôi trong khả năng tư duy, hoàn thiện những hệ thống luận cứ của mình. Tôi muốn giới thiệu với quý vị chỉ một hiện tượng, trong khá nhiều hiện tượng kể cả vật chất và tinh thần, trong hơn 10 năm qua: Cách đây 12 năm tôi có quen một cô tên Nguyễn Thị Thái. Vì tôi sống bằng nghề coi bói, nên tiếp cận và làm quen với tôi không mấy khó khăn. Cô này làm nhiều nghề, nhưng chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vào đúng ngày mùng 1 / 10/ 2010 - là ngày đầu tiên kỷ niệm Đại Lễ 1000 năm Thăng Long Hanoi. Tôi được 1 người bạn cho một vé dự ngày khai mạc này. Và quí vị cũng biết rằng tôi giữ lời hứa bảo vệ 10 ngày Đại Lễ không mưa. Đồng thời tôi cũng coi đây là một dịp minh chứng cho khả năng của một lý thuyết thống nhất vũ trụ, mà tôi đã xác định nhiều lần trên diễn đàn. Tôi bị bảo vệ đưa ra ngoài vị trí mà tôi cần phải đứng đúng vị trí ấy (Nếu xem kỹ trên video trực tiếp về Đại Lễ, quí vị sẽ thấy hình ảnh này, tình cờ được ghi nhận). Lúc ấy, tình cờ tôi gặp cô Thái. Tất nhiên cô ta biết rõ tôi có mặt ở đây để làm gì. Chẳng hiểu cô ta làm cái gì ở đây, nhưng cô ta tặng ngay cho tôi một cái thẻ rất oai "Ban tổ chức". Với cái thẻ này đeo trên cổ, tôi có thể đi vào bất cứ nơi nào tổ chức lễ hội trong Đại Lễ mà không bị ngăn cản. Tuy nhiên, vì tôn trọng tô chức, tôi không lợi dụng cái thẻ này. Và đành phải đứng ở một vị trí khác xa hơn tôi mong muốn. Tuy nhiên, cách đây vài tháng, cô Thái trong một dịp ra Hanoi, đã đến văn phòng đại diện của Trung Tâm. Cô ta đi cùng với một thanh niên và giới thiệu là cháu đền nhờ tôi coi bói. Người cháu này còn nhỏ hơn tuổi con trai lớn của tôi. Nhưng cầu đầu tiên là "Chào anh" và xưng "tôi", khiến tôi có cảm giác tôi đang ở giữa nơi công quyền và làm việc với công chức nhà nước. Còn cô Thái, sau khi mọi việc gọi là xem bói , nhờ vả xong xuôi, cô ta ngang nhiên phát biểu trước nhân viên của tôi và cái người gọi là "thằng cháu" đi cùng: "Anh Tuấn Anh là người rất căm ghét chế độ cộng sản này!". Trước mặt mọi người, tôi phải làm giảm không khí căng thẳng và gây sốc của cô ta. Nhưng tất nhiên tôi rất tức giận. Tôi thừa hiểu rằng cô ta sẽ không bao giờ dám làm chuyện này, nếu như đằng sau cô ta không có một thế lực tác động. Nhưng đây là giọt nước làm tràn ly. Tại sao một người biết rất rõ tôi dự ngày khai mạc Đại lễ để làm gì và nhiệt tình tặng tôi cái thẻ "Ban tổ chức", lại có thể đểu giả với tôi như vậy? Kính thưa quí vị Đây là một trong những lý do mà tôi ủng hộ việc cho những cô gái bán hoa được hoạt động hợp pháp. Họ còn tỏ ra tử tế nhiều hơn những quí bà - mà tôi đã gặp trong cuộc đời - mà cô Thái này là một ví dụ. Sự tráo trở đến bỉ ổi của người này, khiến tôi thấy không thể tiếp tục duy trì TTNC LHDP. Tuy nhiên tôi còn phải cân nhắc. Nhưng cách đây vài ngày, Trung Nhân - một thành viên tích cực của TT - lên báo cho tôi biết là có hai người đã ngồi ở trước của nhà tôi hai ngày liền và chăm chắm nhìn vào trong nhà.Thực ra , tôi chẳng quan tâm gì đến những diễn biến ở dưới sân nhà tôi. Suốt ngày, tôi ở trên lầu làm việc và chẳng quen ai ngay cả hàng xóm. Nên tất nhiên tôi không thể biết có hai người chăm chắm nhìn vào nhà tôi. Hay nói rõ hơn: Nó sẽ chẳng có tác dụng gây áp lực tâm lý gì với tôi, nếu Trung Nhân không lên báo cho tôi biết. Nhưng nó khiến tôi quyết định rằng: Không thể tiếp tục duy trì TTNC LHDP. Tôi có thể thông cảm với mọi công việc của cơ quan chức năng khi giám sát những người họ cần giám sát. Nhưng tôi không thể tiếp tục những công việc nghiên cứu với những áp lực tâm lý phi học thuật này của những thế lực nào đó đang cố tình gây sức ép lên các công việc của tôi. Không phải tôi sợ một thế lực nào đó trên cái cõi trần gian này. Nhưng tôi nhận thấy rằng: - Tôi không thể tiếp tục duy trì TTNC LHDP như là một phương tiện gây phiền hà cho công việc của tôi. - Sức ép tâm lý khiến cho tôi không thể tiếp tục quảng bá việc minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến với những thứ đã xảy ra. Do đó, tôi quyết định giải tán TTNC LHDP và đóng cửa diễn đàn này trước, hoặc trong ngày 25. 7 Việt lịch. Trong thời gian giải quyết nội bộ và làm những thủ tục giải thế, tôi vẫn duy trì diễn đàn như nó vốn có. Sau khi đóng cửa, diễn đàn này vẫn tiếp tục được duy trì để mọi người có thể tham khảo các bài viết ở đây, cho đến khi nó buộc phải gỡ bỏ thực sự khỏi mạng Internet vì nhiều nguyên nhân khách quan. Mọi hoạt động ngoài lề của diễn đàn, như: 1) Hoạt động từ thiện sẽ chấm dứt. Cô Wildlavender có trách nhiệm giao lại cho tôi toàn bộ quỹ Từ Thiện của diễn đàn hoặc trao số tiền đó cho một quỹ từ thiện nào đó thuộc một tổ chức của chính quyền, thí dụ như: Quỹ từ thiện của báo Thanh Niên chẳng hạn, trước ngày 14. 7 Việt lịch. Tất nhiên phải có chứng từ. Tôi không chịu trách nhiệm với những ai tiếp tục gửi tiền góp vào Quĩ từ thiện của TTNC LHDP sau thời điểm này. Tính đến lúc này, tổng quỹ chị Wild còn giữ là: 9. 200. 000 VND. Đã nhận 500,000 đ (năm trăm ngàn đồng) của smooly_girl ủng hộ Quỹ từ thiện .Quỹ hiện có : 8,700,000 đ + 500,000 đ = 9,200,000 đ (chín triệu hai trăm ngàn đồng) 2) Tất cả những học viên các lớp PTLV sẽ được add ních vào những lớp mình đăng ký học ở cấp tương đương trước đó và được quyền chép tất cả các bài viết trong đó, coi như xong chương trình học, cho dù số tiền đóng chỉ 1 tháng. Sau ngày 25/ 7 Nhâm Thìn Việt lịch, ai ko chép kịp tôi sẽ không chịu trách nhiệm.3) Những thành viên đang làm việc ở TTNC LHDP sẽ được trợ cấp tối đa ba triệu đồng vào cuối tháng này, để tìm việc làm khác. Tôi cần xác định một số vấn đề liên quan đến học thuật như sau: - Cá nhân tôi luôn xác định Việt sử 5000 năm văn hiến và Lý học Đông phương chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ. Cho dù tôi còn sống hãy sẽ chết, hay với bất cứ việc gì xảy ra đối với tôi về danh dự cá nhân, hay sự vu cáo chính trị thì không thay đổi quan điểm này. - Tôi chịu trách nhiệm với hệ thống luận điểm mà tôi đã công bố về Việt sử 5000 năm văn hiến và thuyết Âm Dương Ngũ hành. - Bắt đầu từ ngày hôm nay, vào sau thời gian tính theo giờ mà bài viết này được đăng lên mạng, tôi không bảo đảm sự chính xác với tất cả những lời tiên tri đã đăng trên diễn đàn, mà sự kiện tiên tri sẽ xảy ra sau thời gian này. - Tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến và minh chứng thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về Việt tộc và xác định đó chính là Lý thuyết thống nhất vũ trụ. Tuy nhiên tôi chỉ tham gia ở đẳng cấp mang tính quyết định chân lý và có khả năng phổ biến nó, khi chân lý được xác định. Tôi cũng xác định rằng: Tôi sẽ không nhờ vả bất cứ một cá nhân hoặc tổ chức nào giúp tôi thực hiện việc này. Tôi không cần thiết. Mọi việc từ nay sẽ tùy duyên và diễn biến theo tự nhiên của nó. Xin chân thành cảm ơn những con người đã đến với Việt sử 5000 văn hiến và những giá trị đích thực của Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt. Tôi hy vọng mọi người hãy tiếp tục minh chứng điều này trong tương lai. - Tôi không giữ bản quyền cho tất cả những công trình nghiên cứu và các bài viết của tôi trên diễn đàn. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng để dịch thuật, làm tư liệu nghiên cứu. Nếu nhớ đến tôi thì ghi chú: "Theo Nguyễn Vũ Tuấn Anh", còn không thì đó là tùy lương tâm của quí vị.
    2 likes
  30. Có lẽ tôi cần phải nói rõ rằng: Không chỉ biển Đông, mà là cả tương lai của dân tộc Việt cũng sẽ bị đe dọa. Chính vì chân lý Việt sử trải gần 5000 văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam Dương tử bị phủ nhận. Đây không phải tôi lần đầu tiên nói ra. Mà đó chính là phát biểu của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng - Ngài nói đại ý: "Cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến có ý nghĩa đặc biệt với sự sinh tồn và tương lai của dân tộc" .Với bài bình luận chính trị lần đầu tiên của tôi và trên diễn đàn này - có liên quan đến Việt Nam - tôi đã vi phạm nội quy của diễn đàn (Mặc dù không phạm luật pháp). Bởi vậy, tôi tự trừng phạt mình bằng cách ngưng phát biểu trên diễn đàn Lý học Đông phương - 30 ngày. Ngoại trừ có 30 ý kiến cảm ơn trong bài viết này. Mỗi một ý kiến sẽ trừ đi một ngày, tính ngược từ dưới lên. Ngày mai là ngày thứ nhất. Còn nếu ý kiến trong nút cảm ơn này, dưới 15, tôi sẽ giải tán TTNC LHDP và sẽ chẳng bao giờ xuất hiện trên bất cứ một diễn đàn nào (Trong trường hợp này, những ý kiến cảm ơn của các thành viên TTNC LHDP không tính, nhưng có giá trị trong việc tự kỷ luật của tôi).
    2 likes
  31. bác ạ, từ nãy cháu để ý topic của e tướng tùy tâm sinh, cháu thấy bác xem cho em ấy nhiều quá,cháu có hơi một chút ghen tỵ, bác có thể xem cho cháu lần cuối được ko ạ, khi nào cháu có người yêu và khi nào cháu lấy chồng hả bác??? cháu chưa yêu ai bao giờ, ko biết là khi nào sẽ có ny , cháu đang trong giai đoạn ế ẩm bác ak cháu mong bác giúp cháu lần cuối, có lẽ hôm nay là ngày cuối cùng cháu vào diễn đàn, cháu mong được bác giúp ạ http://www.lyhocdong...w=screen&size=2
    1 like
  32. CCB chỉ biết có dơi bay vào nhà là điềm tốt thôi. Vì vậy ngày xưa các cửa gỗ rất hay khắc hình con dơi.
    1 like
  33. "Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông"
    1 like
  34. 1 like
  35. Trong cung tật của cháu khong thấy có bệnh nan y ,nhưng năm nay hạn cháu có nhiều sao sát tinh gây ra bệnh khó trị ,lời khuyên ,cháu nên lên bệnh viện lớn điều trị ,để lâu không tốt .
    1 like
  36. Trả lời chắc 1 câu cho cháu hiểu rằng vận hạn cháu rất xấu là của riêng cháu chứ không phải là do vợ chồng xung khắc ,không tin thì cháu có thể đi các thầy tử vi khác xem có phải hạn cháu năm nay cực kỳ xấu ?Hãy bình tỉnh chửa trị thuốc men ,cầu nguyện làm phước thiện cũng sẽ giúp cháu giải bớt nghiệp phần nào
    1 like
  37. Kính thưa chú ! Cháu trộm nghĩ và bộc phát nên muốn hỏi chú : Một hệ thống ( tập hợp và có sự tương tác ) của trí thức và tri thức Lý học Đông Phương - Lạc Việt rất có thể phải vận động chậm lại hoặc tạm ngưng vận động như tình hình này thì liệu có phải là một điềm báo hoặc là tượng hình nào cho quy luật của sự vận động hay vận mệnh của đất nước Hồng Lạc Việt này trong tương lai gần không ạ ? Thành kính !
    1 like
  38. Ngậm ngùi... "Mọi việc từ nay sẽ tùy duyên và diễn biến theo tự nhiên của nó." "Theo Nguyễn Vũ Tuấn Anh"
    1 like
  39. Kính thưa chú Thiên Sứ ! Cháu thật tiếc và rất buồn khi mới biết được thông tin này ( và thật bất ngờ như tin bầu Kiên bị bắt vậy).Dù vậy nhưng cháu vẫn muốn tin vào quyết định của Chú vì với một nhân cách như Chú thì rất có thể sẽ là quyết định đúng đắn.Có lẽ sự tiếc nuối của Chú và những thành viên khác đã có đóng góp rất nhiều trong TT NC LHPĐ này là vô hạn. Kính mong Chú và các bậc cao nhân khác sẽ vẫn duy trì diễn đàn này để chờ đến ngày TTNC LHPĐ được tái sinh. Cháu xin đề xuất và sẽ sẵn sàng về việc đóng góp chi phí để duy trì diễn đàn này với mục đích chỉ dành cho những ai thực sự quan tâm đến Lý học Phương Đông của Lạc Việt. Kính chúc Chú và các hội viên của TTNC LHPD luôn mạnh khỏe và tiếp tục đóng góp cho Phong thủy - Lý học Lạc Việt để nền văn hiến Lạc Việt sẽ sớm được vinh danh trên cộng đồng Lý học quốc tế. Thành kính ! A.T.N - học viên lớp PTLV cơ bản 10.
    1 like
  40. Thưa Bác Thiên Sứ! Mọi người chắc hẳn rất buồn vì trung tâm nghiên cứu đóng cửa, cháu cũng vậy! Thời buổi này muốn phát biểu, bày tỏ chính kiến của mình thật khó. Việc này cháu lại nhớ đến Viện IDS tự giải thể cách đây vài năm. Tất cả các diễn đàn, báo mạng (lề trái, lề phải, không lề) đều bị kiểm soát. Thậm chí trang blog của một số nhà văn còn bị chặn tường lửa, các trang blog cá nhân k0 thể vào được: blogspot, wordpess, facebook...đúng là quân tử phải ẩn mình chờ thời. Mong Bác Thiên Sứ và các chú bác, anh chị em trung tâm chân cứng đá mềm, tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu để phát huy truyền thống dân tộc hào hùng 5000 năm văn hiến, một thời hùng vĩ....
    1 like
  41. TTNC LHDP giải thể thì chắc chắn rồi. Nhưng diễn đàn có thể duy trì với tư cách cá nhân.
    1 like
  42. Kính thưa quí vị và anh chị em hội viên diễn đàn Lý học Đông phương. Ngày mùng 3. 8. 2012, Ban giám đốc TTNC LHDP vừa nhận được công văn của cơ quan có trách nhiệm là Cục Quản Lý Phát Thanh, Truyền Hình và Thông Tin Điện Tử (Bộ Thông Tin và Truyền Thông) về một bài viết liên quan đến một doanh nghiệp lớn kinh doanh thực phẩm của Việt Nam, đã đăng tải trên một số web. Bài viết này đã được chép lại và đưa lên diễn đàn Lý học Đông phương từ khoảng nửa cuối năm 2011, gây ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp này. Chúng tôi đã vô hiệu hóa tất cả những bài viết trong topic liên quan trên diễn đàn. Bởi vậy, để rút kinh nghiệm và tránh những hiểu lầm sau này, Ban giám đốc TTNC LHDP đề nghị quý hội viên từ nay post những thông tin thời sự, xã hội....không liên quan đến mục đích nghiên cứu của TTNC LHDP và chép từ một trang web khác phải có nguồn gốc từ những trang có đăng ký chính thức với cơ quan nhà nước - cụ thể là có đuôi vn; hoặc những trang web chính thức được cấp phép hoạt động. Ngoài ra với những bài viết có nội dung học thuật và liên quan đến mục đích nghiên cứu của TTNC LHDP thì cần có nguồn gốc rõ ràng. Thông báo này bổ sung cho những nội quy trước đó của diễn đàn. Cảm ơn sự cộng tác của quí vị và anh chị em.
    1 like
  43. TƯ LIỆU THAM KHẢO Thứ Hai, 06/08/2012 - 08:36 Mỹ-Trung căng thẳng vì Biển Đông (Dân trí) - Quan hệ Mỹ-Trung hồi cuối tuần đã trở nên căng thẳng sau khi hai nước lên tiếng chỉ trích lẫn nhau liên quan tới vấn đề Biển Đông. >> Mỹ chỉ trích Trung Quốc thành lập đơn vị đồn trú ở Biển Đông Đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam nhìn từ trên cao. Trung Quốc hôm qua đã triệu tập một nhà ngoại giao cấp cao tại Đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh để phản đối chuyện Washington chỉ trích Trung Quốc thành lập một đơn vị đồn trú quân sự mới ở Biển Đông. Trong một tuyên bố, Bộ ngoại giao Trung Quốc cho biết trợ lý Bộ trưởng ngoại giao Zhang Kunsheng đã triệu tập phó đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Robert Wang hôm 4/8 để phản đối. Động thái trên diễn ra cùng ngày với việc Bắc Kinh công khai chỉ trích Washington sau khi Mỹ nói rằng Trung Quốc đã làm gia tăng căng thẳng trong khu vực bằng những hành động gần đây ở Biển Đông. Trước đó, ngày 3/8, Bộ ngoại giao Mỹ đã ra tuyên bố chỉ trích việc Trung Quốc nâng cấp bộ máy hành chính của cái gọi là “thành phố Tam Sa” và thiết lập một đơn vị đồn trú quân đội mới ở Biển Đông. Phát ngôn viên Bộ ngoại giao Mỹ Patrik Ventrell nói trong một tuyên bố rằng Washington “quan ngại về những căng thẳng đang gia tăng tại Biển Đông và theo dõi chặt chẽ tình hình”. Đồng thời, Mỹ cũng tuyên bố ủng hộ mạnh mẽ các nỗ lực ngoại giao của các nước Đông Nam Á nhằm đàm phán với Trung Quốc về các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Tháng trước, Trung Quốc đã tuyên bố thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, cùng với một đơn vị đồn trú quân sự. Đây là một hành động mang tính chất leo thang xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam. Việt Nam đã lên án “thành phố Tam Sa” là “vi phạm luật pháp quốc tế”, trong khi Philippines mô tả động thái trên của Bắc Kinh là “không thể chấp nhận được”. An Bình Tổng hợp
    1 like
  44. Chân thành xin lỗi - nội dung liên quan đến bài viết này được thực hiện ở phía dưới...
    1 like
  45. Cháu kính chao bác Thiên Sứ va các cô chú, các anh chị em va các bạn trên diễn đàn, Trước tiên, HP gửi lời xin lỗi tới các bác, các cô chú vì trong suốt thời gian qua đã không lên diễn đàn thông báo tình hình chồng HP, phụ sự quan tâm của mọi người. HP rất mong bác Thiên Sứ cùng các anh chị em trên diễn đàn thông cảm. Lý do chính mà HP lâu không lên diễn đàn là vì tuy chồng HP đã được bác Thiên Sứ cứu giúp qua cơn nguy kích nhưng không phải một sớm một chiều có thể bình phục được. Vì vậy, mỗi lần lên diễn đàn mà không có tình hình gì mới để chia sẻ với mọi người bản thân HP cũng thấy rất buồn. Chính vì vậy mà HP muốn để một thời gian khi chồng HP có nhiều tiến triển hơn sẽ lên diễn đàn chia sẻ với mọi người. Trong suốt thời gian qua, cũng có những lúc HP thực sự rất đau khổ và mệt mỏi, nhưng cứ nhớ đến lời bác Thiên Sứ rằng chồng HP sẽ hồi phục, HP lại thấy rằng mình vẫn có quyền hi vọng. Hiện giờ chồng HP đã khá hơn rất nhiều rồi. Trí nhớ của chồng HP đã phục hồi khoảng được 70% (anh ấy thậm chí nhớ được cả số chứng minh thư của mình), đã có thể giao tiếp, trò chuyện với mọi người. Tuy nhiên thì chồng HP nói vẫn rất ngọng, chưa rõ tiếng. Đối với bạn bè, đồng nghiệp, người thân, anh ấy hầu như không quên ai cả. Về vấn đề tâm lý thì hơi không ổn một chút vì anh ấy đã phải nằm bệnh gần 3 năm rồi, vì thế mà dễ cáu, dễ buồn. Điều làm HP thấy an ủi rất nhiều là tình cảm của chồng HP vẫn như xưa, anh ấy vẫn rất yêu và thương HP. Chỉ có điều, hiện giờ HP không thể hàng ngày ở bên cạnh anh ấy được vì do điều kiện kinh tế gia đình có hạn, thời gian cần để chồng HP hồi phục lại quá dài nên HP đã đưa chồng về quê từ 2 tháng nay. HP đã thuê bác sĩ ở quê đến điều trị, cuối tuần làm việc xong HP lại về quê với chồng, sáng thứ 2 lên Hà Nội sớm để đi làm. Tuy biết chồng HP rất buồn nhưng do nhiều lý do và điều kiện kinh tế không cho phép nên HP đành làm vậy. Tuy nhiên, ngôi nhà chồng HP ở quê đã được bác Thiên Sứ về sửa phong thủy rất cẩn thận nên HP cũng thấy yên tâm hơn rất nhiều. Từ ngày về nhà, HP cũng cảm thấy sức khỏe anh ấy cũng có tốt hơn. Hiện tại chồng HP đã tập đứng được rồi. Đây là một tiến bộ vượt bậc của anh ấy vì từ trước tới giờ chỉ có thể nằm một chỗ. Tuy thời gian đứng được của anh ấy mới chỉ gần 2 phút/lần nhưng HP cũng thấy rất mừng rồi. Giờ vấn đề lớn nhất của chồng HP là phải tập vận động phục hồi chức năng. HP cũng vừa đọc thấy trên diễn đàn có đề cập đến thầy Yên trong Bình Dương và ngoài Bắc có sư thấy Nghĩa ở Ứng Hòa, HP sẽ cố gắng đi hỏi thăm thêm. Nếu thầy Yên có ra ngoài Bắc chữa trị xin cô Wild và các anh chị em cho HP được biết. HP xin cám ơn rất nhiều. Như vậy là cũng đã 2 năm rưỡi kể từ khi vợ chồng HP gặp tai nạn, cũng là hơn 2 năm HP may mắn được bác Thiên Sứ giúp đỡ, nhận được sự quan tâm chia sẻ của các cô chú và các anh chị em trên diễn đàn. HP xin một lần nữa được gửi lời cám ơn chân thành tới tất cả các cô chú, các anh chị em trên diễn đàn, những người HP chưa từng gặp mặt, đã luôn động viên, giúp đỡ HP trong suốt thời gian qua. Với bác Thiên Sứ, người mà HP mang ơn suốt đời, HP thực sự không biết nói gì. HP mong một ngày anh ấy có thể bình phục, đi lại được, HP sẽ cùng anh ấy đến gặp bác Thiên Sứ như một lời cám ơn tấm lòng mà bác đã dành cho vợ chồng HP. HP mong bác Thiên Sứ cùng mọi người sẽ giúp đỡ HP trên con đường phía trước. Vì HP biết rằng tuy giai đoạn nguy kịch đã qua đi nhưng một cuộc chiến đấu khác đã lại bắt đầu. HP tự gọi đó là cuộc chiến đấu với số phận. HP cũng không biết đức năng có thắng được số không, nhưng HP chắc chắn sẽ cố gắng. HP chỉ mong mình sẽ có đủ nghị lực và niềm tin và sự kiên trì nữa. Bác Thiên Sứ đã một lần giúp chồng HP giành lại được cuộc sống, đã giúp chồng HP tỉnh lại (trong khi tây y đã kết luận là rất khó nếu không muốn nói là ko có khả năng hồi tỉnh). Vì thế HP sẽ hi vọng... Xin cám ơn tất cả mọi người
    1 like
  46. Cuộc chiến tâm linh? CUỘC TRANH LUẬN NGHI LỄ TRUNG HOA VÀ HỆ QUẢ ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1.2.4.Cuộc tranh luận nghi lễ Trung Hoa và hệ quả đối với Việt Nam 1.2.4.1. Cuộc tranh luận nghi lễ Trung Hoa Xin được tóm lược các ý chính: Trong khi truyền giáo tại Trung Hoa, các linh mục Dòng Tên (SJ) cho phép các giáo hữu tại đây được kính lễ Đức Khổng và người qua đời như nghi thức người Hoa quen thi hành đối với tổ tiên và các triết gia của họ. Năm 1633, khi linh mục Juan Bautista Moralez Dòng Đa Minh (OP) và linh mục Antonio de Santa Maria Caballero Dòng Phanxicô (OFM) vào tỉnh Phước Kiến thời Đại Minh, chứng kiến các nghi lễ đó thì cho là mê tín dị đoan. Hai linh mục đó phản đối mạnh mẽ, làm nhà cầm quyền tức giận vì hai người đó chống lại phong tục văn hóa trong nước, gây nguy hại cho an ninh trật tự xã hội. Vua Minh trục xuất hai linh mục đó ra khỏi nước. Moralez và Caballero về Roma trình bày với Toà thánh. Năm 1645 Đức Giáo hoàng Innocentê X ra sắc lệnh cấm người tín hữu thi hành các nghi lễ cúng bái tổ tiên và Đức Khổng Tử. Năm 1656, (ngày 20-03), Đức Giáo hoàng Alexander VII lại cho phép, dựa theo trình bày của linh mục Martino Martini Dòng Tên. Năm 1707 (ngày 25-01), Đức Giáo hoàng Clêmentê XI cử Giám mục Carlo Tommaso Maillard de Tournon làm Sứ thần Toà thánh đến Nam Kinh công bố sắc lệnh cấm nhiều điều trong đó cấm làm chủ tế hoặc tham dự lễ tế Đức Khổng, hoặc người quá cố, cấm đặt bài vị trong nhà. Ai không tuân theo lệnh, sẽ tức khắc bị vạ tuyệt thông. Năm 1715 (ngày 19-03), Đức Giáo hoàng Clêmentê XI công bố Hiến chế Ex illa die buộc mọi thừa sai ở Trung Hoa và ở các nước lân cận phải thề theo mẫu ở cuối sắc lệnh. Năm 1721 Đức Giáo hoàng Clêmentê XI phái Giám mục Carolo Ambrosio Mezzabarba, Sứ thần Toà thánh, công bố tại Áo môn ngày 4-11 “Tám điều được phép làm (Octo permissiones)”. Năm 1742 (ngày 11-07), Đức Giáo hoàng Bênêđitô XIV công bố Hiến chế Ex quo singulari providentia cấm tuyệt đối mọi hình thức tôn kính người đã mất, đồng thời đưa ra bản mẫu lời tuyên thệ mới (nguyên văn bản mẫu Lời thề, xin xem Đỗ Quang Chính, Hòa mình vào xã hội Việt Nam, tr. 222). Từ đây trở đi, không ai được viện cớ gì để tranh luận nữa. (Chi tiết xin xem Phụ lục 3) Năm 1935 (ngày 5-3) Giám đốc Nha Tôn giáo thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục của Mãn Châu quốc, trả lời cho Giám mục Gaspais, Đại diện tông toà Thẩm Dương (Shenyang), về các câu hỏi của Giám mục liên quan tới nghi lễ tôn kính Đức Khổng Tử: “Đó chỉ là cách bày tỏ ra bên ngoài lòng tôn kính Đức Khổng, không có tính cách gì là tôn giáo”. Ngày 28-5-1935, Bộ Truyền giáo cho phép thực hành các nghi lễ kính Đức Khổng ở Mãn Châu quốc. Năm 1932 ( ngày 22-9) Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nhật Bản khẳng định việc viếng đền Jinja có “mục đích bày tỏ lòng yêu nước và trung thành. ở đây hoàn toàn chỉ mang ý nghĩa dân sự như Bộ Giáo dục đã công bố ngày 3-8-1932”. Ngày 26-5-1936 Bộ Truyền giáo gửi văn thư cho Khâm sứ Toà thánh tại Nhật, chủ yếu nhắc đến nghĩa vụ người Công giáo yêu Tổ quốc, thì phải tôn trọng các nghi lễ đối với Hoàng gia, người qua đời, miễn là những nghi lễ ấy có tích cách dân sự. Năm 1939 (ngày 8-12) Bộ Truyền giáo công bố Huấn thị Plane compertum est cho phép người Công giáo Trung Hoa được tham dự các nghi lễ kính Đức Khổng, các nghi lễ công cộng, mặc dù bên ngoài có thể coi là nhuốm màu dị đoan, miễn là thi hành một cách thụ động với ý tưởng duy nhất là để tôn kính theo nghi lễ hoàn toàn dân sự [6, tr.213-242]. Như thế, vấn đề “nghi lễ Trung Hoa” đã được tháo gỡ cách muộn màng nhưng có kết quả tốt đẹp. Điều này nhất định ảnh hưởng đến Giáo hội Việt Nam mà tôi xin trình bày ở phần tiếp theo. 1.2.4.2. Hệ quả đối với Việt Nam Khi Toà thánh Roma cấm các nghi lễ tôn kính tổ tiên, Khổng Tử và nhiều nghi lễ tương tự ở Trung Hoa, các văn kiện đó cũng cấm luôn các nước chung quanh, vốn chịu ảnh hưởng ít nhiều văn hóa Trung Hoa, như Mãn Châu, Nhật Bản, và cả Việt Nam, mà thời xưa Giáo hội Việt ta quen gọi là cuộc tranh tụng “lễ phép nước Ngô”. Roma không chỉ cấm thờ cúng tổ tiên đã khuất mà cũng giới hạn hình thức hiếu thảo cả khi cha mẹ đang còn sống, vì chỉ tôn thờ duy nhất mỗi Thiên Chúa, còn lại là tôn kính. a) Huấn dụ năm 1659 Khi ba Giám mục tông toà đầu tiên ở Đàng Ngoài, Đàng Trong và Nam Kinh (Trung Quốc) chuẩn bị lên đường nhận nhiệm sở, Thánh bộ Truyền giáo đã ban bố Huấn dụ năm 1659 (triều Giáo hoàng Alexander VII). Tư liệu gồm ba phần: trước khi rời châu Âu, trong khi đi đường, tại chính nơi truyền giáo. Có nhiều đoạn không liên quan đến vấn đề chúng ta đang quan tâm, nên chỉ xin trích dẫn những đoạn cần thiết. Huấn dụ căn dặn: “Chư huynh đừng bao giờ muốn sửa đổi, đừng tìm lý lẽ nào để buộc dân chúng sửa đổi những phép xã giao, tập tục, phong hoá của họ, trừ khi nó hiển nhiên mâu thuẫn với đạo thánh và luân lý. Có gì vô lý bỉ ổi hơn mang theo cả nước Pháp, Tây Ban Nha, nước Ý, hay bất cứ nước nào khác bên trời Âu sang cho dân Á đông chăng? Không phải mang thứ ấy đến cho họ, mà là mang chân lý đức Tin, một chân lý không loại trừ nghi lễ và tập tục của bất cứ một dân tộc nào, cũng không xúc phạm đến những nghi lễ tập tục ấy, miễn là chúng không xấu; ngược lại, chân lý ấy muốn cho người ta gìn giữ và bảo vệ chúng là đàng khác. Có thể nói, [tính] tự nhiên ai ai cũng cho những cái của mình và nhất là của quê hương xứ sở mình là hơn tất cả, và yêu mến những báu vật đó hơn những cái của ngoại lai: nguyên việc sửa chữa những quốc lệ của [một dân tộc] cũng đủ gây lòng oán hận sâu đậm rồi, nhất là những [phong tục] đã có lâu đời nhất, mà các tiền nhân vẫn có thể nhớ tông tích; càng tệ hại hơn nữa nếu chư huynh huỷ bỏ những [phong tục] đó để đem phong tục của quý quốc mà thay thế vào! Vậy đừng bao giờ đem những tục lệ Âu châu đến đối lập với tục lệ của các dân tộc ấy, trái lại hãy mau mắn làm quen với những thói tục địa phương. Điều gì đáng khen, hãy khâm phục và ca tụng. Điều gì không đáng, hãy khôn khéo đừng phê phán, cũng đừng kết án một cách thiếu suy nghĩ và quá đáng. Với những thói tục thực sự xấu, thì nên chống đối bằng thái độ dè dặt và thinh lặng hơn là bằng lời nói; nhưng dĩ nhiên khi tinh thần người ta đã sẵn sàng chấp nhận chân lý, chư huynh sẽ lợi dụng những cơ hội thuận tiện để từ từ và âm thầm nhổ nó đi” [7, tr.118-134]. “Hội nhập văn hóa” là cụm từ chưa có trong nhân loại thời đó, nhưng Huấn dụ đã đưa ra những ý đúng như ngày nay vẫn gọi là thích nghi, hội nhập. Tiếc thay về sau Roma lại cấm nghi lễ tôn kính tổ tiên và nhiều nghi lễ khác, đi ngược lại với chính Huấn dụ 1659 vô cùng sáng suốt như trên! B) Các nhà truyền giáo trước và sau Hiến chế Ex illa die (19-3-1715) Khi các Giáo sĩ Dòng Tên vào truyền giáo ở Việt Nam, các ngài cho phép giáo dân thờ kính Khổng Tử và các tổ tiên đã qua đời, theo phong tục Việt Nam. Năm 1625, các thừa sai ở Hội An nhắn nhủ bổn đạo Kitô hữu Việt: “ Đạo Đức Chúa Blời buộc mọi người phải tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ, nên phải thi hành nghi lễ cúng vái, trừ ít điều mê tín dị đoan, như đốt vàng mã, hay khi cúng lại tin là tổ tiên về ăn của cúng” [9, tr.116]. Thời kỳ đầu tiên truyền giáo ở Việt Nam, các thừa sai đã chú trọng rất nhiều nếp sống văn hóa gia đình Việt Nam, cụ thể là lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Khi giải thích về điều răn thứ bốn cho các dự tòng, linh mục Đắc Lộ đã viết trong quyển Phép giảng tám ngày, xuất bản tại Roma năm 1651: “ấy vậy mà mlời răn thứ bốn trong kinh đức Chúa blời [...] thì dạy ta thảo kính cha mẹ cho nên [...]. Lại sự thảo kính thì hằng có bốn phần, là yêu mến, kính dái, chịu lụy, giúp cho [cha mẹ] mọi sự” [9, tr.115]. Tác giả còn nhấn mạnh tới sự hy sinh cụ thể của cha mẹ đối với con cái trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời đó, nên con cái phải thảo kính cha mẹ: “Ta chịu ơn cha mẹ vì có chịu thai, mà ta ở trong lòng mẹ chín tháng mười ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta, đoạn ba năm bú mớm; có khi thì mẹ cắt [phần ăn] của miệng mình mà cho con ăn; cũng có khi mẹ ăn miếng đắng, mà miếng ngon để dành cho con ăn; lại có khi mẹ nằm chốn ướt, mà chốn ráo để cho con nằm. Cha đẻ con đoạn thì lo việc nuôi nấng [...]. Thật con thảo kính cha mẹ thì thậm phải, ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng vâng phép cha mẹ, thật thì có tội trọng” [6, tr.213-242]. Khi cha mẹ còn sống, ngoài việc tỏ lòng hiếu thảo như thăm viếng, săn sóc, quà bánh... thì ngày mồng Một Tết, người dân, và cả những quan lớn sau khi theo vua chúa đi tế Nam giao về, “ai nếy (nấy) về nhà mà lạy cha mẹ oũ bà oũ vải (ông bà ông vải) bởi vì có mlẽ (lý lẽ) ở tlaõ làõ (trong lòng) mình dẽại (dạy) kính phụ (cha) thứ ba là chức dưới bệy (vậy)”[9, tr.116]. Thầy giảng Bentô Thiện cũng viết bằng chữ quốc ngữ trong tập Lịch sử nước An-nam năm 1659 tại Thăng Long về vấn đề này như sau: “Thói nước Annam, đầu năm, mùng một tháng giêng gọi là ngày Tết, Thiên hạ đi lậy vua đoạn lậy chúa mới lậy ông bà ông vải cha mẹ, cùng Kẻ cả bề trên, quan quyền thì lậy vua chúa, thứ dân thì lậy bụt trước” (ghi theo chính tả ngày nay) [9, tr.116]. Sau Hiến chế Ex illa die năm 1715, tại Đàng Trong, Linh mục G.B. Sanna SJ, giải thích Hiến chế trên một cách rộng rãi, gần như là ngược lại. Ngày 21-2-1717, linh mục công bố tại Huế cho phép giáo hữu được mang cờ gia triệu trong các lễ an táng, chỉ cần viết câu “xin Đức Chúa Trời cứu giúp linh hồn này là X. và dẫn đưa vào thiên đàng”; được lạy cha mẹ sát đất khi các ngài còn sống hay đã qua đời; được giỗ, tức là được dâng cúng, bái lạy cùng các nghi lễ khác quen thi hành trong nước này, vào ngày đầu năm hay những ngày khác [8, tr.197-198]. Còn Giám mục Perez cũng chần chừ công bố Hiến chế. Ngày 10-7-1717, Giám mục Perez ra thư luân lưu buộc giáo hữu tuân theo lệnh Toà Thánh, nhưng ngài không dám đóng mộc vào thư vì sợ chính quyền Đàng Trong cho là đi ngược với phong tục Việt Nam. Thư cũng không đề cập đến việc xử phạt nếu vi phạm. Theo đơn tố cáo của linh mục thừa sai de la Court với Toà thánh thì Giám mục Alexandris (làm Giám mục Đàng Trong từ 1727-1738) đã cho phép cúng Thành hoàng, xem tuồng hát ngoại đạo trong các lễ hội, cúng tiên sư...[8, tr.230]. Roma phải cử Giám mục La Baume làm Kinh lý tông toà đến Đàng Trong để yêu cầu mọi người tuân theo Hiến chế Ex illa die. Giám mục ngã bệnh mất ở Huế (1741). Linh mục Favre, phó Kinh lý tông toà, công bố chín điều ngày 27-5-1741, trong đó có “cấm cúng bái tổ tiên dưới mọi hình thức” [6, tr.495]. Thế nhưng linh mục Martiali, Giám quản Đàng Trong thay thế Giám mục Alexandris, về Roma phản đối. Roma lại phải cử Giám mục Hilario Costa giải quyết. Lúc này đã công bố Hiến chế Ex quo singulari (11-7-1742), cho nên mọi người không còn được phép bàn cãi gì nữa [9, tr.233]. Từ đó trở đi, các thừa sai và linh mục Việt Nam đều tuyên thệ theo bản mẫu Hiến chế. (nguyên văn bản Lời thề ngày 16-8-1750, xin xem Đỗ Quang Chính, Hòa mình vào xã hội Việt Nam, tr. 229). c) Các nhà truyền giáo sau Hiến chế Ex quo singulari (11-7-1742) Nói chung, việc tỏ lòng hiếu thảo “bên ngoài” đối với người quá cố, như cúng vái, nhang hương... đã không thực hiện được kể từ ngày công bố Hiến chế Ex quo singulari. Và cũng từ đó, người Công giáo có sự cách xa với các anh chị em lương dân suốt thời gian dài trong các hình thức tỏ lòng hiếu thảo với người đã khuất, có thể phác hoạ bằng những nét trong thư của cha Lui Huy, Bề trên cả đại diện tông toà coi địa phận Đông gửi cho giáo sĩ và giáo dân địa phận nói về “36 sự rối nước An Nam, Đức Thánh Pha pha đã đoán phi”, trong đó có nhiều “sự rối” về thờ cúng tổ tiên. Điều 6: cấm lạy xác kẻ chết, dù để tượng chịu nạn đấy. Khóc thói vô đạo cũng cấm. Điều 8: các đồ lễ vô đạo lấy mà thờ kẻ chết thì cấm cả như áo trẩm, mũ, gậy ete và cấm đồ lễ trong sách Gia Lễ dạy nữa. Điều 9: cấm đọc văn lễ cùng cắt tóc tang. Điều 32: học trò, đầy tớ, những ngày Tết, mồng năm đến cúng thầy hay Chúa nhà thì lạy ở nơi khác bàn thờ tiên sư, ông bà, ông vải mới nên. Như thế, các nhà truyền giáo dòng Đa Minh nhìn nhận thờ cúng tổ tiên là dối trá, do vậy đã loại tất cả những lễ thức tang ma của người Việt cổ truyền [13, tr.205-207]. Truyền thống khắt khe đó vẫn tiếp tục cho đến trước Huấn thị Plane compertum est (8-12-1939) thể hiện qua Thư chung “ Về các việc dối trá” của Giám mục Phêrô Đông (Pierre Jean Marie Gendreau), đại diện Tông toà coi sóc địa phận Tây Đàng Ngoài (trong thời gian 1892-1935), trong đó cấm nhiều việc mà ngày nay xem là bình thường đối với mọi người dân Việt : cúng Thành hoàng, ăn giỗ với người không có đạo, đi phúng điếu...(xin xem Phụ lục 7). Tuy Toà thánh đã cấm tuyệt đối mọi bàn cãi, giải thích, thực hành trái với Hiến chế, bằng hình thức chế tài là huyền chức, vạ tuyệt thông, nhưng một vài thừa sai, nhờ nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, nên đã mạnh dạn trình bày ý kiến mình. Linh mục Louvet từ năm 1873 ở giáo phận Sài Gòn đã cho việc tôn kính tổ tiên chỉ đơn thuần là cử chỉ lịch sự, tuyệt đối chẳng có tính cách tà thần. Linh mục Boisserand ngày 17-8-1789 viết thư gửi linh mục Boiret kể về việc Chúa Nguyễn Ánh phàn nàn với Giám mục Bá Đa Lộc vì hoàng tử Cảnh từ chối bái lạy trước bàn thờ tổ tiên. Giám mục thành thực nói rằng chính ngài cũng bỡ ngỡ không ít, vì Công giáo luôn coi việc bất hiếu với cha mẹ là tội nặng bậc nhất; nhưng đạo dạy việc tôn kính tổ tiên phải được đặt trên nền tảng chân lý, trong khi người không có đạo tin rằng hồn người chết ăn những gì tinh tuý nhất trong các món thịt dâng cúng, để rồi phù hộ cho họ sống lâu, giàu có. Chúa Nguyễn Ánh ngạc nhiên vì nhà chúa coi nghi lễ tôn kính tổ tiên chỉ là chứng cớ tỏ lòng nhớ đến cha mẹ: “Khi ta cử hành những nghi lễ đó, ta tự bảo: nếu tổ tiên còn sống thì ta muốn làm tất cả những gì ích lợi cho các ngài; để tỏ lòng thành của ta, lúc này ta làm như thể tổ tiên ta còn sống; dù biết rõ các ngài chẳng còn sống, và những gì ta làm đây chẳng còn mang lợi ích gì cho các ngài cũng như cho ta, nhưng vì muốn chứng tỏ cho mọi người thấy, ta đã không thể quên tổ tiên được và ta muốn nêu gương cho toàn dân ta về lòng hiếu thảo” [8, tr.203]. Giám mục Bá Đa Lộc cho biết vị tiền nhiệm của ngài là Giám mục Guillaume Piguel (1764-1771) đã phục tùng Hiến chế Ex quo singulari với lòng e ngại và không ngừng kêu trách. Giám mục Piguel và cha đại diện của ngài, cũng như Giám mục Bá Đa Lộc không hề muốn kết án việc bái lạy cha mẹ, tổ tiên đã qua đời, vì theo người Đàng Trong, không làm điều đó là bất hiếu. Sau đó Giám mục Labartette (cai quản Đàng Trong 1799-1823) cũng gửi thư cho Ban Giám đốc Hội thừa sai Paris để bênh vực nghi lễ lạy xác. Giám mục Labartette còn kể linh mục Halbout đã lên tiếng phản đối những ai là nguyên nhân của việc cấm đoán lạy xác, thì có tội trước mặt Thiên Chúa [8, tr.206-211]. Như thế đã có hai ý kiến đối với việc tôn kính tổ tiên cha mẹ: một cực đoan, một ôn hoà. Bên nào cũng có đủ lý do để bảo vệ ý kiến mình. Điều đáng ngạc nhiên là mặc dầu Hiến chế Ex quo singulari đã cấm tuyệt đối mọi bàn cãi, nhưng vì lương tâm, một số linh mục và Giám mục đã ra sức khẩn khoản xin Toà thánh xét lại. Chỉ đến 1939, việc tôn kính tổ tiên và các nghi lễ khác mới được chấp nhận. d) Sau Huấn thị Plane compertum est (8-12-1939) Sau khi Roma tháo gỡ nghi lễ Trung Hoa bằng Huấn thị Plane compertum est (1939), đất nước Việt Nam đang ở trong tình trạng thuộc địa và chiến tranh nên chưa áp dụng được những cởi mở nghi lễ mà Huấn thị cho phép. Phải đợi Công đồng Vatican II thổi luồng gió mới vào Giáo hội, lúc này Hội đồng Giám mục Việt Nam (miền Nam Việt Nam) mới đề nghị xin áp dụng Huấn thị Plane compertum est. Toà thánh đã chấp thuận ngày 20-10-1964. Ngày 14-6-1965, Hội đồng Giám mục Việt Nam (miền Nam Việt Nam) đã ra thông cáo về việc tôn kính tổ tiên (nguyên văn thông cáo xin xem Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam, niên giám 2004, tr.487-489). Trong phần II đề cập đến Thể thức áp dụng Huấn thị “Plane compertum est”, đã phân biệt tôn giáo tín ngưỡng với phong tục dân tộc tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên, anh hùng dân tộc (xin xem Phụ lục 4). Ngày 14-11-1974, trong Hội nghị ở Nha Trang, bảy Giám mục Việt Nam (Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, Giám mục Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Giám mục Phaolô Huỳnh Đông Các, Giám mục Giuse Trần Văn Thiện, Giám mục Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, Giám mục Phêrô Maria Nguyễn Huy Mai) đã xác định cụ thể hơn vấn đề thờ cúng tổ tiên bằng sáu điểm: - Bàn thờ gia tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện gì mê tín dị đoan như hồn bạch... - Việc đốt hương, nhang, đèn, nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ gia tiên và trước giường thờ tổ tiên là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm. - Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì mê tín dị đoan như đốt vàng mã... và giảm thiểu, canh cải những lễ vật để biểu dương ý nghĩa thành kính biết ơn ông bà như dâng hoa trái, hương đèn... - Trong hôn lễ, dâu rể được làm “lễ tổ, lễ gia tiên trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên” vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với ông bà. - Trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người qua cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng tôn kính đối với người đã khuất, cũng như Giáo hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố. - Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành hoàng quen gọi là “ Phúc thần” tại đình làng để tỏ lòng tôn kính biết ơn những vị mà theo lịch sử, đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”. Trong trường hợp thi hành các điểm trên đây, sợ có điều gì hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm... Đối với giáo dân, cần giải thích cho hiểu việc tôn kính tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc liên quan đến tín ngưỡng, và chính Chúa cũng truyền “phải thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa. [14, tr.490]. Không phải toàn thể Giáo hội Việt Nam áp dụng thông cáo ngay, bởi vì một số người đã quá quen thuộc với cách trước đây, hiểu biết giáo lý chưa đủ, không thông suốt Giáo hội và xã hội, văn hóa Việt Nam v.v...nên một số người, một số nơi chưa quan tâm đúng mức thông cáo này [9, tr.208]. Tuy nhiên, từ nay người Công giáo Việt Nam lại có thể bày tỏ lòng hiếu thảo theo nếp sống văn hóa chung của đồng bào như cách đây mấy trăm năm. Tác giả: Cao Kỳ Hương
    1 like
  47. Năm Nhâm Thìn, hàng ngàn ông bố bà mẹ đua nhau tìm 1 đứa con tuổi Rồng, với bao hy vọng về 1 tương lai xáng lạng cho gia đình... cũng như cho đứa trẻ... Năm Nhâm Thìn, bệnh viện có dấu hiệu quá tải vì quá nhiều bà bầu... ... Một ngày, TL cũng đưa vợ đi kiểm tra ... và nghe được ... ... Một chị gần 4x đi khám bs : thai 6 tuần nhưng tim thai đã mất lúc tuần thứ 5 Người mẹ buồn đi trông thấy, chị phải bỏ thai ... Một cô gái trẻ đi khám... bs : thai 4 tuần, hoàn toàn bình thường, em có chồng chưa? cô gái : chưa! bs : vậy giữ hay bỏ? cô gái : ... bỏ... bs : em kí vào giấy cam kết nhé... ... Vậy đó, người ăn không hết, người lần không ra... Biết rằng mỗi người môi cảnh ... Biết rằng cuộc sống luôn như vậy... Nhưng.... Một nốt trầm thật sự cho cuộc đời nghiệt ngã ... tội nghiệp cho những đứa bé ... từ trong trứng nước... Có lẽ cô gái trẻ đã không nghe, hoặc không cố tình nghe bài hát này được phát liên tục trên tivi quảng cáo gắn đầy bệnh viện phụ sản... http-~~-//www.youtube.com/watch?v=Pjr0SxcK30Y
    1 like
  48. Tìm Kiếm VIỆT NAM: Khảo cổ học và sự ra đời của 1 quốc gia. Haydon LESLIE CHERRY (B.A.(Hons), NUS) LUẬN ÁN TRÌNH CHO BẰNG THẠC SĨ NGHỆ THUẬT Khoa Lịch sử ĐẠI HỌC QUỐC GIA CỦA SINGAPORE 2004 LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu cho luận án này được thực hiện thông qua sự hỗ trợ của Học bổng nghiên cứu sau đại học của đại học quốc gia Singapore (NUS) từ tháng 7 năm 2002 đến tháng bảy Năm 2004 và giải thưởng trợ cấp thêm cho nghiêncứu tại Hà Nội, Việt Nam trongTháng tám và tháng chín năm 2003. Tôi muốn cảm ơn Giáo sư Phan Huy Lê, Giám đốc Trung tâm Việt Nam và Nghiên cứu liên văn hóa tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Nghiên cứu của tôi tại Hà Nội sẽ không thể thực hiện được mà không có sự hỗ trợ của Trung tâm mà ông chỉ đạo. Tôi cũng muốn ghi lòng biết ơn của tôi với các giám đốc và nhân viên của một số tổ chức khác cho phép tô itruy cập vào thư viện của họ: đầu tiên, ông Phạm Thế Khang, Giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam Hà Nội và ông Lê Thùy Dương của Bộ phận quan hệ quốc tế, thứ hai, Tiến sĩ Andrew Hardy, giám đốc của Française Écoled ’Extrême -Orient (EFEO) - Viện Viễn Đông Bác Cổ và sau đó các thư viện của EFEO, và cuối cùng, ông Kesavapany, giám đốc của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS), và nhân viên của thư viện ISEAS Số người mà tôi đã được hưởng lợi về mặt trí tuệ là quá lớn để liệt kê đầy đủ, và không có nghi ngờ có nhiều khoản nợ mà tôi không nhận thức đúng. Tôi đã học được rất nhiều từ cuộc hội thoại hoặc thư từ với cô Claudine Ang, Tiến sĩ Susan Bayly, Tiến sĩ Gregory Clancey, Tiến sĩ Nola Cooke, ông Bradley Davis, Tiến sĩ Mark Frost, Tiến sĩ Andrew Hardy, ôngErik Holmberg, cô Wen Hu, phó Giáo sư Huang Jianli, Tiến sĩ Stephen Keck,ông Didi Kwartanada, Tiến sĩ Li Tana, Tiến sĩ Helmut Loofs-Wissowa, Giáo sư David Marr, Phó Giáo sưJohn Miksic,Giáo sư Anthony Milner, Tiến sĩ Michael Montesano, phó giáo sưMaurizio Peleggi, Phó Giáo sư Patricia Pelley, cô Qian Bo, Giáo sư Anthony Reid, Giáo sư Momoki Shiro, Giáo sư Huệ-Tâm Hồ Tài, Ông Trần Kỳ Phương, Giáo sư Trần Quốc Vượng, ông Kunakorn Vanichviroon và những người khác. Khoa Lịch sử tại NUS đã đồng ý và cung cấp sự hỗ trợ về môi trường để nghiên cứu. Cả hai Phó Giáo sư BrianFarrell và bà Kelly Lau đã làm tất cả mọi thứ có thể để giúp tôi thông qua sự phức tạp và rắc rối quan liêu của NUS. Tôi đặc biệt biết ơn đối với lòng tốt và tình bạn mở rộng đối với tôi củaTiến sĩ Quek Ser Hwee và Tiến sĩ Timothy Barnard. Tôi muốn cảm ơn ông Erik Holmberg và cô Vernie Oliveiro đã đọc dự thảo nghiên cứu này và nhận xét ​​về các tư liệu trong nó. Cuối cùng, lời cảm ơn sâu sắc nhất được dành riêng cho hai giám sát viên của tôi. Thông qua sự giảng dạy của mình và học bổng, Giáo sư Reynaldo Ileto đã cung cấp một ví dụ nổi bật của một người tri thức sáng tạo và phê phán. Thông qua khả năng ngôn ngữ của mình sâu sắc, uyên bác, và trên tất cả, lòng từ bi và sự hiểu biết dành cho Người Việt Nam và sinh viên của mình, Tiến sĩ Bruce Lockhart đã cung cấp một mô hình mà tôi chỉ có thể mong muốn theo đuổi. Ý kiến và phê bình của ông đã cứu thoát các luận án này khỏi vô số lỗi và hướng dẫn và chăm sóc của mình đã cứu tôi khỏi tuyệt vọng nhiều hơn một lần. Tôi nợ ông nhiều nhất trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, trách nhiệm cho những gì được khẳng định trong tài liệu này là của một mình tôi Mục lục Lời cảm ơn Mục lục Sơ lược Lưu ý về phiên dịch Các từ viết tắt Giới thiệu Chương Một Thời của các vị vua Hùng trước thuộc địa....................................... .......... 22 Chương Hai Văn bản và nghiên cứu củacổ sử dưới thời thuộc địa..................... 42 Chương Ba Chính sách văn hoá Nhà nước, tổ chức nghiên cứu và khảo cổ học tại DRV (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) ............... 77 Chương Bốn Thời đại đồ đồng Việt và các vị vua Hùng .................................................... 100 Phụ lục A Bản dịch của Đại Toàn Thư Việt Sử Ký, Ký Ngoại, Quyền I, 1a-5b........................ 145 Phụ lục B tự truyện TÓM TẮT Luận án này là một nghiên cứu khảo cổ học và việc hình thành các dân tộc Việt Nam. Tiền đề cơ bản của nó là các quốc gia hiện đại thường được hình thành trên cơ sở tồn tại từ trước của cộng đồng và thường trong thời gian dài, sử dụng chất liệu văn hoá tìm thấy trong những cộng đồng trước đó. Các nước Văn lang, chính thể đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam và cácnhà lãnh đạo của mình, vua Hùng, phục vụ chức năng chính trị cụ thể, các văn bản thế kỷ 14 và15 trong đó họ lần đầu tiên xuất hiện. sau đó các văn bản lịchsử khẳng định tính hợp pháp chính trị cho cáctriều đại cầm quyền bằng cách truy tìm quy tắc của họ từ các vị vua Hùng. Những văn bản đó cũng thể hiện sự hoài nghi đáng chú ý về những yếu tố kỳ lạ liên quan đến thời gian của các vị vua Hùng trong truyện kể trước đó Dưới sự cai trị thuộc địa, văn bản lịch sử Việt Nam trước thời thuộc địa đã trở thành đối tượng của câu hỏi cho các học giả Pháp tại EFEO, nơi họ đã được phân loại và được tổ chức và xác nhận của họ đôi khi mâu thuẫn. Tiếp tục truyền thống bản xứ hoài nghi đối với cả các vị vua Hùng và đất nước Văn Lang, các học giả Pháp đã đi đến phủ nhận sự tồn tại của nước này và các nhà lãnh đạo của nó. Quan điểm của Pháp về quá khứ ban đầu Việt Nam đã bị ảnh hưởngsâu sắc bởi quan điểm cuối thời tiền thuộc địa của quá khứ đó. Ngoài ra nghiên cứu của quá khứ thông qua văn bản, người Pháp cũng tiến hành đầu tiên khai quật khảo cổ học thời cổ sử ở Việt Nam.Tuy nhiên, Khảo cổ học thời cổ sử, không giống như khảo cổ học các tượng đài, là những lợi ích gần gũi với thuộc địa. Vì thế nhiều người nghiệp dư chịu trách nhiệm thực hiện một vài trong số khai quật thời tiền sử quan trọng nhất ở miền bắc Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa, như thời kỳ đồ đồng tại Đồng Sơn. Do đó, họ đã tạo ra rất nhiều những kết luận không rõ ràng.
    1 like
  49. Gửi Haiphuong, Mình ko biết về LHDP, chỉ biết chia sẻ với bạn. Nắm tay bạn thật chặt, cầu mong bạn và gia đình vững lòng và được nhiều ơn phúc lành. Bạn ơi, cách đây khoảng 12 năm, ba của mình trên đường đi công tác đã bị 1 xe máy chở hàng cồng kềnh vướng vào tay lái và kéo lê ba mình trên 1 đoạn dài. Mình còn nhớ lúc đó là ngay ngày khai giảng năm học mới của mình. Ngay lúc đó, vào đúng giờ phút đó (sau này công an lập biên bản nên mình biết chính xác giờ), mình đang đứng tại sân trường mà thấy rõ ràng cảnh ba mình bị té ngã xuống đường. Mình đã gần như khóc thét lên. Bạn biết ko, mấy tháng trời.....cả nhà mình bàng hoàng và đau đớn. Nhưng rồi khi bác sĩ nói phải thấy dịch trong tủy ở lưng của ba để xét nghiệm tình trạng của ba thế nào...Thì bạn biết ko, kỳ tích đã xãy ra....Thật sự đã xảy ra! Đến cả bác sĩ cũng phải sửng sốt vì tiến triển bệnh của ba mình. Đang còn rất ko ổn mà giờ đã cho kết quả vô cùng bất ngờ....Bác sĩ nói là trong 100 người thì chỉ có 1 trường hợp thức dậy. Nhưng thức dậy có tỉnh táo hay ko còn là 1 chuyện khác nữa. Bạn ơi, trong suốt mấy tháng đó...ko lúc nào mình để niềm tin lạc mất trong lòng. Mình luôn luôn...và luôn luôn tin là ba sẽ qua được khỏi. Dù cho ngay lúc tình trạng tồi tệ nhất, ngay lúc bác sĩ lắc đầu...mình vẫn tin. Mình đã cầu nguyện, cầu nguy6e5n và cầu nguyện. Và cái ngày ba lần đầu mở mắt ra lại, ba đã biết chính xác để nói "con gái của ba" trong từng câu chữ bập bẹ. GIờ đã là 12 năm hơn, trí não ba mình vẫn rất bình thường. Ba vẫn đi làm và sống bình thường. CHỉ thỉnh thoảng vào lúc trời nóng, đầu ba chỉ bị đau đau mà thôi.... Haiphuong ơi, mình kể chuyệ nnày vớ ibạn, chỉ mong có 1 điều. Bạn hãy giữ vững niềm tin, hãy làm hế tmình có thể. Hãy nói chuyện với chồng của bạn. Lúc này là lúc, anh ấy đang phải chiến đấu giữa lằn ranh mong manh. Giữ vững niềm tin và cầu nguyện bạn nhé. CHú Thiên Sứ kính, Qua đây lại thêm 1 lần nữa, cháu nghiêng mình cảm phục Chú. Cảm phục cái tâm vì người của Chú. Xin nguyện cầu cho chú và gia đình luôn được mạnh khỏe và tâm an lành cùng vạn sự như ý. Kính
    1 like
  50. Haiphuong thân mến, có những chuyện biết trước còn đau khổ và lo sợ hơn là không biết...Đó là kinh nghiệm riêng của bản thân mình. Mình đã từng rất đau đớn khi thấy mẹ mình bị hành hạ và đau đớn bởi việc điều trị, mẹ mình không đáp ứng thuốc, bs lúc đó nói mình còn khoảng 3 tháng, mính đã kí giấy và xin bs đánh phác đồ mạnh hơn, thấy mẹ bị hành hạ bởi thuốc, kinh khủng lắm bạn ah, có lúc mình đã từng nghĩ chết có lẽ còn tốt hơn. Sau 6 tháng chiến đấu, giờ thì mẹ mình đã điều trị xong, nhưng tiên lượng lâu dài hay không thì mình không biết, vì hạn của mẹ và mình năm nay rất nặng, hạn còn dài...nhưng qua lúc nào mình hay được lúc đó. Nhập viện cùng lúc với mẹ mình 10 người thì 6 người đã không còn...mình viết ra đây những việc mình đã làm và những kinh nghiệm mình góp nhặt được 1. Đi phóng sinh rất nhiều chim, cá, lươn 2, Viết tên tuổi của mẹ mình dán vào mặt trong của chuông (đi nhiều chùa) 3, Cúng gạo, dầu ăn, muối cho những chùa nghèo 4, Góp tiền xây nhà thờ 5, Xin cúng cầu an 6, Cầu nguyện. Vì nhà lúc đó chỉ có mỗi 2 mẹ con, mình phải túc trực bên mẹ mình 24/24 nên không đi làm nhiều được. Mình còn nghe nói tới Đức Mẹ La Vang, Cha Diệp...để cầu xin. Lúc đầu mình cầu xin cho mẹ mình được sống dài lâu, nhưng mình hiểu bệnh của mẹ, và cũng biết được tiên lượng của nó như thế nào. Càng về sau thấy mẹ đau đớn quá, mình chỉ dám cầu nguyện xin được sự sắp xếp tốt nhất của Bề Trên đối với mẹ mình, và xin cho mẹ đừng quá đau đớn...Giờ thì mình cũng không biết mẹ mình có được dài lâu không, nhưng ít nhất mẹ và mình đã "lết" xong được giai đoạn điều trị (mình nghĩ đó là giai đoạn địa ngục mà mình đã từng trải qua) Và mình thấy việc cầu xin của mình cũng hiệu quả, mẹ mình ở những đợt sau đỡ đau đớn hơn nhiều. Kinh nghiệm của mình không nên "mặc cả" với Bề Trên. Vài hàng chia sẻ cùng bạn.
    1 like