-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 25/08/2012 in all areas
-
Có lẽ tôi cần phải nói rõ rằng: Không chỉ biển Đông, mà là cả tương lai của dân tộc Việt cũng sẽ bị đe dọa. Chính vì chân lý Việt sử trải gần 5000 văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam Dương tử bị phủ nhận. Đây không phải tôi lần đầu tiên nói ra. Mà đó chính là phát biểu của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng - Ngài nói đại ý: "Cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến có ý nghĩa đặc biệt với sự sinh tồn và tương lai của dân tộc" .Với bài bình luận chính trị lần đầu tiên của tôi và trên diễn đàn này - có liên quan đến Việt Nam - tôi đã vi phạm nội quy của diễn đàn (Mặc dù không phạm luật pháp). Bởi vậy, tôi tự trừng phạt mình bằng cách ngưng phát biểu trên diễn đàn Lý học Đông phương - 30 ngày. Ngoại trừ có 30 ý kiến cảm ơn trong bài viết này. Mỗi một ý kiến sẽ trừ đi một ngày, tính ngược từ dưới lên. Ngày mai là ngày thứ nhất. Còn nếu ý kiến trong nút cảm ơn này, dưới 15, tôi sẽ giải tán TTNC LHDP và sẽ chẳng bao giờ xuất hiện trên bất cứ một diễn đàn nào (Trong trường hợp này, những ý kiến cảm ơn của các thành viên TTNC LHDP không tính, nhưng có giá trị trong việc tự kỷ luật của tôi).24 likes
-
Còn đúng 1g nữa là sang giờ Tý ngày hôm sau. Tôi bắt đầu ngưng sinh hoạt trên diễn đàn này với số ngày trừ đi số người bấm nút cảm ơn. Cho đến lúc này là 16 ngày. Và sẽ giảm dần cho đến khi số ngày nghỉ bằng số người nhấn nút = 30, tiếp theo. Nhưng nếu có dưới 15 người ngoài TTNC LHDP thì tôi sẽ giải tán TT này. Bởi vậy lúc này tôi còn thời gian để trả lời Văn Lang:Diễn đàn này có hàng ngàn người và hàng trăm hội viên vào mỗi ngày. Họ hỏi hàng trăm thứ và những thành viên trên diễn đàn - trong đó có tôi - đã nhiệt tình tư vấn giúp họ. Họ cũng biết mục tiêu của TTNC LHDP là vinh danh Việt sử 5000 năm văn hiến. Vậy mà không có nổi 30 người click nút cảm ơn. Đủ hiểu sự quan tâm của tha nhân như thế nào với cội nguồn dân tộc, thì trách ai được nữa. Bắt đầu ngày mai tôi sẽ ngưng hoạt động cho đến khi con số click nút cảm ơn tăng lên và trùng khớp với số ngày tôi ngưng sinh hoạt. Nếu số người nhấn nút dưới 15 người sau khi trừ đi số thành viên TT, tôi sẽ thay banne diễn đàn và trở thành diễn đàn cá nhân. Sau đó làm công văn xin giải tán TTNC LHDP.5 likes
-
Kính thưa Bác Thiên Sứ ! Wild là thành viên kỳ cựu cổ xưa nhất diễn đàn này hay đúng hơn là ở bên cạnh Bác ngay từ khi diễn đàn chưa thai nghén, Wild sẽ là người không sử dụng nút cám ơn Bác trong trường hợp này bởi Wild cảm nhận Bác nghiệt ngã với mình quá! Con số 15 tăng hay giảm chỉ vẫn là một ngày (24h) cho việc Bác thực hiện lời cam kết khẳng khái trên. Wild cho rằng nút cám ơn sử dụng cho việc tâm đắc với bài viết hay đồng tình với đáp án hợp lý hoặc hơn nữa là việc khâm phục 1 kiến thức mà bài viết đem lại chứ không làm thước đo để thẩm định sự quan tâm của tha nhân (như lời bác nói). Wild chỉ muốn nhắc nhở Bác Diễn Đàn được khai sinh bằng tâm huyết của Bác và bao con người đồng hành cùng thăng trầm thì sự tồn tại của nó cũng như những nhà tri học giả lặng lẽ theo dõi nó qua con số khách viếng thăm, không thể sớm chiều bị từ bỏ hay phá vỡ bởi những thương tổn cá nhân được!! Nếu thống kê bài viết hay chất xám để lưu dưỡng diễn đàn đi qua năm tháng Wild nghĩ trong phút nóng vội hay phút tủi hờn, Bác đã quên đi những đóng góp của bao con người để chỉ thể hiện cá tính mạnh mẽ và kiên định của mình, mà cá tính lại thuộc phạm trù đơn tính hay quán tính! Điều này Wild không thể thông cảm được! Mọi việc ở đời đều có nhân duyên hay định tính của số phận chúng ta không nên thách đố sự sống còn 1 một nền văn minh qua số người công nhận hay số lần của nút "cám ơn" Một vài tâm tư chia sẽ sau khi đọc bài của Bác, hy vọng lời lẽ này không để gió thoảng mây bay lòng người vô trách! Chúc Bác thân tâm thường lạc! Bởi "Đã biết lẽ VÔ THƯỜNG không để tâm phiền não"3 likes
-
Đây là một bài báo nói về sư vô cảm trên tờ báo mạng danh tiếng là Vietnamnet.vn. http://tuanvietnam.v...tuong-bau-kien- Nhưng còn cội nguồn Việt sử? Tôi chỉ cần 15 người ko phải thành viên Trung Tâm tỏ ra không vô cảm click vào bài trang trước.3 likes
-
Cụm từ "cơ sở khoa học" giới sử học nói nhiều nhất - khi họ phủ định cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến , xuống còn hơn 2000 năm với thời Hùng Vương chỉ là "Liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố". Vừa qua trong hội thảo "Chữ Việt cổ", giáo sư viện sĩ Phan Huy Lê cũng dùng cụm từ này. Tôi đã đặt vấn đề, đề nghị giáo sư Viện sĩ Phan Huy Lê giải thích thế nào là "cơ sở khoa học" theo cách hiểu của ông ta. Vậy chờ ông ta phát biểu trước. Chứ sư phụ vốn phó thường dân dự khuyết hạng II Nam bộ - chưa được là phó thường dân hạng 1I (vì còn dự khuyết) - để lên phó thường dân chính thức làm sao dám "ăn to, nói nhớn" như các vị hàn nâm, học giả. Đã vậy giáo sư viện sĩ Phan Huy Lê còn được bầu là 1/ công dân xuất sắc của Hà Nội nữa. Sư phụ thì "dạt vòm", bỏ xứ Hanoi đi từ lâu rồi - mặc dù sinh ra và lớn lên tại đây. Do đó, giáo sư viện sĩ Phan Huy Lê chưa phát biểu ý kiến , nàm sao sư phụ dám ăn lói. Cứ đợi ông ta lói trước, núc ấy sư phụ sẽ lói tiếng Lào ra tiếng Ý. Còn riêng vấn đề tính khoa học của quẻ bói là: Tính quy luật - có thuận tự lặp lại; Tính khách quan - bản chất của quẻ không phụ thuộc vào ý chí con người, không phải vì bói cho ông nhà giàu thì quẻ xấu thành tốt; Có dự kiện đầu vào: câu hỏi, dữ kiện thời gian - ngày tháng năm và giờ lên quẻ; Có nội dung dự báo có thể kiểm chứng.3 likes
-
Đoạn kết Với tiêu đề của bài viết này là : “ Vị Bồ Tát hộ trì phong thủy” ngoài đoạn mở đầu có dẫn chuyện của một vị Thầy dạy học trò, cách thức thanh tịnh và làm yên ổn gia đạo bằng pháp tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Thì phần lớn nội dung còn lại là giới theo về Bồ Tát Địa Tạng và Kinh Địa Tạng. Thật ra tôi không có ý giật tít để gây sự chú ý về bài viết, mà chuyện tụng Kinh Địa Tạng để an ổn gia đạo, đất cát trong nhà là có thật. Cách đây vài năm tôi có một người bạn, nhà cửa phong thủy rất hợp lý, làm ăn khá giả, cuộc sống gia đình hạnh phúc và sung túc. Một dịp đầu năm mới, mong muốn để an bình gia trạch anh thiết lễ tụng phẩm kinh : Phật nói Kinh An Trạch thần chú. Sau đó thấy trong nhà rất nóng nảy, có nhiều bất an, người trong nhà hay ốm bệnh…. Sau khi anh vấn an Tôn Sư, bày tỏ câu chuyện và được thầy chỉ dậy như đã nói ở trên. Anh ta thiết lễ tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức như thầy chỉ dạy, và sau đó mọi việc trong gia đình chuyển biến rất tốt đẹp. Từ việc chứng thực cảm ứng đó, tôi đã nhờ Thầy chỉ dạy và tìm hiểu về Công Đức Ngài Địa Tạng Vương. Với những nội dung đã nêu được ít nhiều ở trên, qua những lời Đức Phật chỉ dạy về Thánh Đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng Vương - có thể thấy việc Ngài hộ trì hay gia hộ cho đất đai, phong thủy là chân thực. Tuy nhiên, điều lợi ích đó mới chỉ là một phần nhỏ trong những năng lực hay oai lực của Ngài. Địa Tạng Bồ Tát vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, gia hộ đất đai, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại này. Xin giới thệu một số đường dẫn đến các tài liệu nói về Thánh Đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng Vương, để những ai quan tâm có thể thỉnh về tham khảo thêm. Bồ Tát Địa Tạng vấn đáp. Khuyen hanh gia tinh do kiem tri tung kinh dia tang Kinh Địa Tạng Thâm Mật nghĩa Địa Tạng Mật Nghĩa Những câu chuyện linh ứng về Ngài Địa Tạng Nghi Thức Tụng Kinh Địa Tạng Qua loạt bài này, nếu được một trong những ai đã ghé đọc rồi khởi tâm hoan hỉ niệm 1 câu danh hiệu của Ngài hay trì tụng được 1 lần bộ kinh kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Công Minh xin hồi hướng hết thảy mọi công đức có được trong loại bài này cho bản thân và gia đình người đó gia đạo luôn vạn sự bình an, phú túc, cát tường, may mắn. Con xin hồi hướng Công Đức này đến tất cả pháp giới chúng sanh trong các cõi: âm siêu dương thái, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, giai cộng thành Phật đạo. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến chân linh Cửu Huyền Thất Tổ, hương linh Thân Phụ và Nhạc Phụ là những tấm gương kiên định luôn hướng về Chính Pháp, tại những giai đoạn khó khăn trong việc phát triển Đạo Pháp ở một khoảng thời gian trước đây. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến Thân Mẫu thân tâm thường lạc, Phật sự tinh tấn. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến các bậc Tôn Sư đã bỏ công chỉ dẫn và khuyến khích con trên con đường tầm học. Con xin chân thành hồi hướng mọi Công Đức có được đến các Thầy Thích Quảng Trí, Cư sĩ Huyền Thanh đã bỏ nhiều công phu biên dịch và biên tập bộ Mật Tạng ra tiếng Việt để đem lại lợi lạc cho nhiều hàng Phật tử Việt Nam. Xin chân thành cám ơn đến các các bậc thầy, các tác giả, soạn giả có những bài nghiên cứu, bài giảng giải, cũng như có hình ảnh về Tôn tượng Đức Địa Tạng Vương trên Internet, để Công Minh được tham khảo, trích dẫn hỗ trợ cho phần biên soạn này. Vì điều kiện bố cục của bài viết hạn chế, tránh phân tán nên người biên soạn không thể trích rõ nguồn tài liệu, rất mong chư vị tác giả hoan hỉ thông cảm đại xá. Xin cám ơn người bạn đường CTT và hai “ tiểu đồng chí” của tôi, đã phấn đầu giải quyết nhiều việc thuộc hàng “đại gia sự " để hỗ trợ tôi có được nhiều thời gian, yên tâm tìm hiểu Giáo Pháp. Xin cảm ơn anh hoangnt và mọi người đã quan tâm, ủng hộ cho bài viết trong thời gian qua. Thân mến tặng bài viết này đến anh Thanh phuc ; bạn Hoàng Dung trên trang lyhocdongphuong ( những người có ít nhiều công phu và sự cảm ứng về Thánh linh của Đức Địa Tạng vương Bồ Tát ) - Đặc biệt là qua những tâm sự của anh Thanhphuc, đây cũng là một trong những nguồn động lực cho Công Minh tìm hiểu về Thánh linh của Đức Địa Tạng và điểm đặc biệt của bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Thân mến tặng chị Wild, Chipchip cùng đại gia đình, em Linh và “cô học trò bướng bỉnh ” cùng tất cả thân hữu bè bạn cũ mới, xa gần – do qua những thắc mắc, hỏi đáp của mọi người đã giúp Công Minh giác ngộ thêm nhiều vấn đề trong tu học. Kính chúc mọi người, mọi nhà có một mùa Vu lan viên mãn và thành tựu Nguyện xin Tam Bảo và các vị Hộ Pháp hãy ban rải Thần Lực giúp cho các bậc ân nhân của con với tất cả chúng hữu tình mau chóng tránh được mọi lỗi lầm, thực chứng được Chính Pháp Giải Thoát. Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát tác đại chứng minh. Trân trọng3 likes
-
VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Tiếp theo VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ BIỂN ĐÔNG Còn tiếp Việt sử 5000 văn hiến và Biển Đông. Cho đến hôm nay thì mọi việc đã quá rõ ràng. Dù tôi không viết những bài viết này, mọi người cũng nhìn thấy rõ những gì đã xảy và đang xảy ra. Hoa Kỳ đang chuẩn bị cho mục đích xác định ngôi vị bá chú thế giới ở phía Tây Thái Bình Dương, mà sự bành trường vô lý của Trung Quốc ở biển Đông chỉ là nguyên nhân trực tiếp. Những gì mà tôi xác định trong những bài viết thuộc topic này từ 2008 đã chứng nghiệm. Bới vậy bài viết này chỉ có giá trị khi nó phân tích một cách hợp lý và xác định được những gì sẽ xảy ra với khả năng khắc phục của con người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tôi gắn liền Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề biển Đông. Nếu tôi chỉ thể hiện ở đoạn trích dẫn trên thì sẽ rất khó hiểu vì mối liên hệ giữa Việt sử 5000 năm văn hiến và những diễn biến phức tạp ở vùng lãnh hải này. Nó có vẻ không liên quan đến nhau. Nhưng nó liên quan chặt chẽ đấy. Không có vấn đề này thì không có hiện tượng kia. Đấy là mối liên hệ logic và hoàn toàn khách quan. Nếu như việc gắn liền Việt sử 5000 năm văn hiến với lý thuyết thống nhất vũ trụ là việc có thể giải thích được. Vì không thể có một lý thuyết từ trên trời rơi xuống. Nó phải có lịch sử của nó. Khi diễn đạt và chứng minh một hệ thống lý thuyết thống nhất sẽ thiếu tính logic, nếu không chứng minh được lịch sử của nó. Lịch sử của nó không phải của Trung quốc. Điều này đã quá rõ ràng. Bởi vậy, tôi phải xác định và chứng minh nó của Việt Nam. Đó là mối liên hệ bắt buộc và hoàn toàn khách quan giữa Việt sử 5000 năm văn hiến và lý thuyết thống nhất vũ trụ. Sự phát triển của tri thức khoa học hàng đầu thế giới đã bế tắc. Điều này tôi tin rằng những nhà khoa học hàng đầu, tầm cỡ G.s Trịnh Xuân Thuận trở lên đều có thể nhận thấy điều này. Không có lý thuyết thống nhất thì dù cho thế giới này thống nhất trong một quyền lực toàn cầu dưới bất cứ hình thức nào và sự hội nhập hoàn toàn của nền kinh tế giữa các quốc gia, nó cũng sẽ rối loạn và ...sụp đổ. Điều này giống như trong một quốc gia không có hình thái ý thức xã hội vậy (Luật pháp, đạo đức và những chuẩn mực xã hội khác). Trạng chết Chúa cũng thăng hà. Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn. Việt sử "ở trần đóng khố" thì cái thế giới này cũng te tua, chính bởi mối liên hệ phức tạp của nó. Tôi có thể xác định rằng: Cả một câu chuyện dân gian Việt Nam - Truyện Trạng Quỳnh - chỉ để chuyển tải hai câu ca dao mang màu sắc tiên tri này. Nhưng chuyện này xa xôi quá. Phải đợi đến khi sự hội nhập toàn cầu hoàn tất và xác định nó thống nhất dưới mô hình nào đã. Vậy thì Việt sử 5000 năm văn hiến liên quan gì đến biển Đông? Việt sử và sự liên hệ tới một lý thuyết thống nhất là chuyện mà tôi đã giải thích ở trên. Nó cũng không đụng chạm đến ai. Nó "pha học" và "khách wan". Nói theo ngôn ngữ bình dân hiện đại là nó chẳng làm chết thằng Tây nào. Nhưng việc nó liên quan thế nào đến biển Đông thì là một câu chuyện dễ giải thích hơn nhiều. Nhưng nó lại là cái mà người ta cũng hay nói là "chuyện tế nhị và nhạy cảm". Chẳng phải ngẫu nhiên mà câu truyện cội nguồn Việt sử thời Hùng Vương - chỉ khoảng 300 năm "ở trần đóng khố", nó lại vênh váo lên ngôi vào đúng dịp Liên bang Công Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết sụp đổ và nó manh nha có hệ thống từ sau cuộc nhậu ở Tử Cấm thành. Nó nhân danh "pha học", một thứ pha học "rởm", nhưng nó được PR là "cộng đồng pha học thế giới công nhận". Tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước chính thống và quốc tế đều tung hê lên một bản đồng ca một chiều là "Thời Hùng Vương là một liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố". Chỉ một tý "dân chủ" - dù là hình thức và mang nhãn hiệu khoa học với thông tin hai chiều là có một chỗ cho những bài viết phản biện cũng không có trên các phương tiện thông tin trên cái thế giới khốn khổ này. Nói một cách hình ảnh có phần chua chất là: Không có trên "hầu hết những phương tiện thông tin trong nước" và cả "cộng đồng thông tin quốc tế", chí ít một hai bài phản biện sự phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt - để có một tý gọi là "thông tin hai chiều", một tý gọi là màu mè của tính gọi là "khách wan, pha học". Gần đây, rộ lên những bài viết trên một số blog và mạng gọi là "lề trái" cũng chẳng thấy ma nào nhắc đến Việt sử 5000 năm văn hiến, ngoại trừ những bài viết thể hiện le lói sự phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt với vài gương mặt quen thuộc (Chuyện này đã đưa lên topic nào đó trên diễn đàn). Qua đó, cũng thấy rằng vấn đề Việt sử 5000 năm văn hiến nó tế nhị và nhạy cảm thế nào với các mối liên hệ tương quan. Tất nhiên, khi tôi viết đến đây thì chắc cũng chưa thuyết phục lắm mối liên hệ giữa Việt sử 5000 năm văn hiến với các vấn đề phức tạp ở biển Đông như thế nào. Nhưng tôi hy vọng rằng những ai xem bài viết này, có thể cảm nhận được điều đó. Nhưng một vấn đề rất dễ nhận thấy về mối liên quan giữa Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề biển Đông là; Các nhà lý luận Trung Quốc xác định về mặt lịch sử rằng: "Biển Đông thuộc Trung Quốc vốn có lịch sử từ thời Tần Hán". Và họ cũng ra rả cho rằng: Việt tộc vốn thuộc về Trung Quốc và các quan lại Hán đã từng cai trị dân tộc Việt trải hàng ngàn năm. Điều này tôi không cần phải dẫn chứng. Nó đầy ra ở trên mạng - kể các báo gọi là "lề trái", "lề phải" và "ngoài lề" . Với lập luận này thì chắc chắc các bạn đang đọc bài viết này nhận thấy ngay rằng: Việt Sử 5000 văn hiến sẽ bác bỏ điều này. Bởi vì, khi xác định và công nhận Việt sử 5000 văn hiến, một thời huy hoàng ở bờ Nam sông Dương Tử thì Biển Đông - trước Tần Hán - không thể thuộc về Trung Quốc. Mà chắc chắn nó thuộc về người Việt trong lịch sử, hoặc chí ít nó thuộc vùng ảnh hưởng của người Việt. Tất nhiên - với diễn biến hợp lý của lịch sử - thì khi người Việt hưng quốc vào thế kỷ thứ X sau công nguyên, đương nhiên tất cả các vùng lãnh thổ nào thuộc về người Việt giành lại được sẽ thuộc về người Việt - trong đó có biển Đông. Đương nhiên, chính quyền Trung Quốc và cả Đài Loan sẽ chẳng có cơ sở lịch sử nào để phán "Biển Đông có từ thời Tần Hán" cả. Và cũng đương nhiên, họ cũng chẳng có cơ sở nào để xác định đất Việt ngày xưa là do người Hán cai trị cả. Vì trước đó nó thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến với quốc hiệu Văn Lang, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương tử. Nhưng, nếu thời Hùng Vương với quốc gia Văn Lang chỉ là một "Liên minh gồm 15 bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố" như đám dốt nát , nhưng đầy danh vị học thuật rêu rao - thì - không thể xác định người Việt đã lập quốc (Chẳng ai thừa nhận "liên minh bộ lạc" là một quốc gia cả) . Và tất nhiên hệ quả của luận điểm gọi là "cơ sở khoa học" của đám này (Mặc dù chính họ cũng không định nghĩa được thế nào là "cơ sở khoa học"), sẽ chỉ coi việc giành độc lập của dân tộc Việt thành công vào thế kỷ thứ X, như là một cuộc ly khai khỏi đế chế Hán. Tất nhiên, đám học giả bành trướng Hán , đã dựa trên cơ sở ní nuận của đám dốt này, để vênh váo xác định "Biển Đông có từ thời Tần Hán" và "đất Việt trong lịch sử đã từng là đất Hán với sự cai trị của quan lại người Hán". Nhưng khi Việt sử 5000 năm văn hiến được xác định tính khoa học và chân lý thì đám âm mưu bành trướng Hán - chứ không phải tất cả người Hán - không có "Cơ sở khoa học" để thôn tính dân tộc Việt. Bởi vậy, vấn đề Việt sử 5000 năm văn hiến bị phủ nhận , chính là tiền đề quan trong, một yếu tố cần để thôn tính biển Đông. Cho nên vấn đề phủ nhận chân lý "Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương tử", được cả cái "công đồng khoa học thế giới" ma cô ầm ĩ "tuyên dương" với mục đích sâu xa của nó. Nó căng thẳng đến mức tất cả nhóm liên danh ứng cử lãnh đạo Viện sử học của ông Phạm Huy Thông, người chết, người bị thương, người bị bôi nhọ danh dự bởi bồ nhí, chỉ trong hai tháng trước ngày bầu cử một cách ...."ngẫu nhiên". Đây cũng là lý do tôi nhắc nhở Duyên không nên thần tượng tôi, mà nên cọi trọng chân lý. Biết đâu,một lúc nào đó bản thân tôi cũng có cô bồ nhí đến làm ầm ĩ. Xin nói trước là nếu có tất nhiên tôi dính chưởng liền, không phải suy nghĩ. Tóm lại đủ thứ nguy hiểm rình rập vì sự biến tướng của các trò ma chuột. Chẳng có một chữ nào trên các blog lề trái, lề phải và ngoài lề , nhắc đến vấn đề cội nguồn Việt sử dù chỉ một lần. Sự âm mưu phủ nhận Việt sử 5000 văn hiến, nhằm xóa sổ văn hóa truyền thống của dân tộc Việt - đến từng truyền thuyết huyền thoại, được ủng hộ từ khi các thế lực quốc tế đang đối đầu với Liên Xô. Nhưng đến nay, khi Liện Xô sụp đổ, liên minh lỏng lẻo Trung Quốc và Hoa Kỳ trở giáo đối đầu nhau - thì - phe Hoa Kỳ "há miệng mắc quai", khi Trung Quốc chứng minh cả cái đất Việt này vốn có "bằng chứng lịch sử" thuộc về đế chế Hán trong quá khứ. Tất cả đám khốn nạn từng phủ nhận truyền thống Việt sử câm như hến. Bởi vì đến nước này thì chúng không đủ mặt dày mà tiếp tục chường mặt ra tiếp tục những cái gọi là "nghiên cứu khoa học" phủ nhận Việt sử, khi mà chính những nhân vật có học vị cao nhất của cái gọi là "hầu hết những nhà khoa học trong nước", không thể định nghĩa được điều mà chính họ nói - gọi là "cơ sở khoa học". Nhưng di hại của nó đến vấn đề biển Đông thì đã rõ. Đó là lý do mà tại sao tôi đặt vấn đề một cách khách quan giữa Việt sử với vấn đề biển Đông. Bởi vì - tôi nhắc lại rằng: Nếu chân lý đích thực được tôn vinh (Chứ tôi không cần cái đám hổ lốn gọi là "hầu hết" đó công nhận), tức là Việt sử 5000 văn hiến được thừa nhận thì người Hán không có cơ sở lịch sử cái con khỉ gì để gọi là biển Đông của họ từ thời Tần Hán cả. Nhưng tôi cũng thẳng thắn mà nói rằng: Tôi không gắn vấn đề chính trị với cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến. Ở đây, tôi chỉ phân tích một cách khách quan hiện tượng và vấn đề. "Quân tử thì không trái lý". Đã gọi là nhân danh khoa học thì tôi tuy tài hèn, nhưng đủ để chứng minh đám phủ nhận Việt sử nhân danh khoa học chỉ là một lũ dốt nát. Tôi không cần thiết phải gây sức ép chính trị, chính em cái con khỉ gì với đám này. Xin lỗi! Cả cộng đồng khoa học thế giới thật sự - (chứ không phải là vài ba tay trí thức ma cô nước ngoài được gắn mác "công đồng khoa học thế giới" )- đang tìm kiếm "Hạt của Chúa", mà tôi còn xác định họ sai. Vậy đối với cái đám ngớ ngẩn này, tôi thừa khả năng chỉ ra sự ngu dốt của họ mà không cần chuẩn bị trước tài liệu. Đó là lý do mà tôi không cần phải dùng biển Đông để gây sức ép với cái đám tư duy thuộc loại "ở trần đóng khố" này. Có một vị cán bộ cao cấp về hưu nói với tôi: "Chắc đằng sau lưng chú phải có một thế lực nào lớn lắm chống lưng, chú mới dám la lối lớn tiếng như vậy" - Trong khi tất cả lề phải, lề trái câm như hến. Hôm nay, nhân tiên ở đây, tôi nói thẳng và công khai trên mạng internet này: Tôi chẳng dựa dẫm vào bất cứ một thế lực con khỉ gió nào. Từ cá nhân đến phe nhóm, đảng phái chính tà gì đó, cả quốc tế hay trong nước. Tôi chỉ có một chỗ dựa duy nhất: Đó là tôi đang chứng minh cho một chân lý. Tôi nói thẳng ra vậy để những kẻ nào muốn âm mưu xử lý gì đó với tôi đỡ phải ngần ngại. Nhưng nếu như ai đó quan tâm đến Việt sử 5000 năm văn hiến và Lý thuyết thống nhất vũ trụ thì có thể vào diễn đàn này để tham khảo. Không biết thì hỏi, tôi có thể trả lời. Còn bày đặt phản biện thì tôi đành xin lỗi vì không có thời gian. Còn muốn tranh luận thì công khai tên tuổi chức danh, học vị. Và tôi chỉ tranh luận khi đó là một cuộc tranh luận dứt điểm. Nếu tôi đúng thì Việt sử 5000 văn hiến phải được thừa nhận. Còn không được như vậy thì tôi cũng không có thời gian nhiều. Sở dĩ vậy, vì tôi đã nói nhiều rồi. Đến nay mọi việc trở nên dở hơi với vấn đề biển Đông của Việt Nam và nảy sinh cái vấn đề "lịch sử không thể chối cãi" mà người Hán rêu rao, nó mới lòi cái đuôi vốn được chuẩn bị rất kỹ với âm mưu bành trướng của họ với cội nguồn Việt sử. Nhưng điều đáng buồn cho những âm mưu thâm độc này, chính là một cuộc chiến tranh gần như không tránh khỏi để dứt điểm uy quyền bá chủ thế giới. Nếu cách đây 4 năm - vào năm 2008 - tôi nói ra điều này, chắc chắn tôi không hân hạnh lắm ngồi gõ gõ tương đối thoải mái như thế này. Nhưng bây giờ thì con mẹ ve chai cũng nhận thấy điều đó, tôi có nói ra cũng chỉ là té nước theo mưa. Bởi vậy, truyền thống văn hiến Việt có câu : "Mưu sâu thì họa cũng sâu". Biển Đông chỉ là nguyên nhân trực tiếp cho cuộc đối đầu sắp tới trong một tương lai gần. Có hay không có biển Đông thì nó cũng bục ra với một nguyên nhân trực tiếp khác. Nguyên nhân sâu xa của nó là chủ nghĩa bá quyền. Nó bắt đầu từ sự phủ nhận cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến - để tạo ra cái gọi là bằng chứng lịch sử từ Hán tộc - Tôi chẳng thế yêu người Trung Quốc khi họ ầm ầm kéo xuống xâm chiếm biển Đông của Việt Nam. Nhưng tôi cũng chẳng ghét gì các dân tốc khác trên thế giới. Tôi chỉ trình bày vấn đề một cách khách quan và thực tế những gì đã xảy ra, đang xảy ra và sắp xảy ra để mọi người suy ngẫm. Tôi cần nhắc lại một lần nữa rằng: Cái gì bắt đầu bằng sự phủ nhận truyền thống văn hiến Việt thì nó kết thúc cũng phải bắt đầu từ đó. Nhưng thời gian không còn nhiều. Tân Bình 8. 7 Việt lịch. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh.3 likes
-
"Nhấp nhô dòng sông Vực Buổi sáng dậy tình Xuân Mái chèo tung ngọc ướt Sao rớt nhẹ xuôi dòng Nghe nước rào róc rách Là tiếng nhạc chiều thơ Tre cong mình xỏa tóc Nhìn bóng rũ sông cười Nghe như tình thiếu nữ Vừa chớm nụ đôi mươi Nghe như hồn lãng tử Trôi dạt giữa dòng đời Sông nằm treo bãi cát Mình nạm hạt trân châu Mây lặng lờ phiêu bạt Điểm điểm giọt mưa ngâu Xuân chiều nghe bỡ ngỡ Thuyền lặng ngắm mây mờ Bên kia trời Thiên Ấn Khuất sau lũy tre xanh Bên đây trời Long Phụng Ẩn hiện khóm mây vàng Phượng mào lông sắc tía Điểm điểm cánh mơ giăng Nhìn ra ngoài biển cả Sóng nước dậy tung tăng Hương thơ chừ bốc khói Đẹp tợ mộng thiên thai Xuân tràn lên biển ái Nhạc vàng quyện mây say Ngự thuyền nơi sông Vực Cúi hái mãnh trăng mờ Mơ cảnh Động Đình Hồ Đôi ta chừ Lý Bạch Vỗ tay cười khanh khách Cầm bút trổ hoa thơ. ============================ Tặng Bác Thiên Sứ và các bạn TV quan tâm Topic này thư giãn cho cuộc sống nhẹ nhàng hơn!2 likes
-
không và không ... đó chỉ là những thủ đoạn kiếm tiền dơ bẩn của những nhà bói dạo .2 likes
-
Đừng nên tin vào những thầy bói hay mấy bà đồng cốt đó mà tiền mất tật vẫn mang .2 likes
-
Lời Tiên Tri 2012
lukhach and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Triển khai giải pháp hỗ trợ thị trường chứng khoán sau vụ bầu Kiên 25-08-2012 | 07:41 (Nguoiduatin.vn) - Từ khi bầu Kiên bị bắt, chỉ trong ba ngày giao dịch, thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục lao dốc, nhiều đại gia trên sàn đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chứng khoán vẫn "đỏ ngầu" vì bầu Kiên Chứng khoán Việt Nam rớt giá thê thảm từ vụ của bầu Kiên Sàn chứng khoán sắp "tạm biệt" hàng loạt cổ phiếu Thị trường chứng khoán ngày thứ ba kể từ khi bầu Kiên bị bắt vẫn tiếp tục lao dốc không phanh, xuống mức kịch biên. Màu xanh lơ và đỏ phủ khắp cả hai sàn. Chứng khoán "tuột dốc không phanh" Kết thúc phiên giao dịch ngày 23/8, chỉ số VN-Index giảm 17,41 điểm (-4,24%), xuống 392,82 điểm. Tổng khối lượng giao dịch đạt gần 38,83 triệu đơn vị, tương đương giá trị hơn 679,54 tỷ đồng. Trong đó, giao dịch thỏa thuận đạt hơn 1,75 triệu đơn vị, trị giá 40,44 tỷ đồng. Chỉ trong 3 ngày, các đại gia đã mất hàng nghìn tỷ đồng trên sàn chứng khoán Trong nhóm cổ phiếu ngân hàng, EIB giảm sàn 900 đồng/CP, còn dư bán sàn hơn 2 triệu cổ phiếu, CTG còn dư bán sàn 0,12 triệu cổ phiếu, MBB giảm sàn 600 đồng/CP, xuống 13.300 đồng/CP (tuy nhiên lượng bán sàn đã được vét hết), STB cũng tương tự MBB khi giảm sàn nhưng không còn dư bán sàn, VCB còn dư bán sàn 0,32 triệu cổ phiếu. Không chỉ cổ phiếu ngân hàng, nhiều cổ phiếu lớn, nhỏ khác cũng bị kéo xuống mức sàn khi tình trạng bán tháo vẫn tiếp tục diễn ra, trong khi bên mua tỏ ra lo sợ. Do đó, thanh khoản của phiên hôm nay giảm đáng kể. Trên sàn HNX, chỉ số HNX-Index giảm 3,42 điểm (-5,29%), xuống 61,23 điểm. Tổng khối lượng giao dịch đạt 34,9 triệu đơn vị, trị giá trên 322 tỷ đồng. Trong đó, giao dịch thỏa thuận đạt 2,9 triệu đơn vị, trị giá 38,78 tỷ đồng. Cổ phiếu ACB còn dư bán sàn hơn 1,2 triệu cổ phiếu. Cổ phiếu SHB còn dư bán sàn gần 1,23 triệu cổ phiếu. Tổng vốn hóa thị trường (market cap) theo thống kê của Vietstock đến sáng 23/8 là 687.645,12 tỷ đồng (tương ứng khoảng 32,7 tỷ USD). Như vậy, so với ngày 20/8, vốn hóa thị trường đã bị mất tới 5,62 tỷ USD trong 3 ngày. Không chỉ tác động chung tới toàn thị trường, việc hàng loạt cổ phiếu lao dốc đã khiến khối tài sản trên thị trường chứng khoán của nhiều "đại gia" bị hao hụt đáng kể. Trước đà lao dốc của thị trường, một số chuyên gia cho rằng nên tạm dừng giao dịch để ổn định tâm lý nhà đầu tư. Các chuyên gia cho rằng nên dừng ngay giao dịch trong vòng ít nhất một ngày để thị trường có thể trấn tĩnh tâm lý và có thời gian để điều chỉnh hành vi theo các dòng thông tin phù hợp. Tuy nhiên, ông Nguyễn Sơn - Vụ trưởng Vụ phát triển thị trường Ủy ban Chứng khoán cho biết, hiện tại Ủy ban chưa nghĩ đến phương án tạm ngừng giao dịch, thay vào đó Ủy ban đang họp bàn để tìm giải pháp cho đợt sụt giảm này. Các đại gia mất ngàn tỷ Theo thông báo từ hai ngân hàng Á Châu (ACB) và Xuất Nhập khẩu Việt Nam (EIB), tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của ông Kiên đang lần lượt là 3,75% ứng với 35.167.245 cổ phiếu và 0,2%. Riêng tại ACB, vợ ông Kiên còn nắm 38.512.975 cổ phiếu ngân hàng này. Từ mức đóng cửa 25.900 hôm 20/8, chốt phiên sáng 23/8, ACB chỉ còn 21.000 đồng/cp, mất 4.900 đồng/CP. Như vậy, với tổng lượng cổ phiếu mà ông Kiên và vợ đang sở hữu ở ACB, giá trị nắm giữ của vợ chồng vị đại gia này đã bị "bốc hơi" hơn 361 tỷ đồng chỉ trong 3 ngày. Nhiều đại gia khác cũng chung cảnh "tiền không cánh mà bay". Gia đình ông Đặng Văn Thành (cổ phiếu STB) mất 308 tỷ đồng. Trong đó, ông Thành hiện nắm 42.696.108 cổ phiếu, con trai ông là ông Đặng Hồng Anh thành viên HĐQT Sacombank và là chủ tịch HĐQT CTCP Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (SCR) cũng nắm 37.146.539 cổ phiếu STB và nắm 35.607.000 SCR. Giá đóng cửa phiên 20/8 của STB là 22.800, đến hết phiên sáng 23/8 giảm còn 19.700 đồng, mất 3.100 đồng/CP. Sau 3 ngày, cha con ông Đặng Văn Thành mất 247,5 tỷ đồng do STB sụt giá. Ngoài ra, ông Hồng Anh còn thiệt hại thêm 60,5 tỷ đồng vì giá SCR rớt xuống còn 7.600 đồng/CP từ mức 9.300 đồng/CP vào cuối ngày 20/8. Tổng thiệt hại của hai cha con ông Thành lên đến 308 tỷ đồng. Còn gia đình ông Trầm Bê (phó chủ tịch HĐQT Sacombank) cũng mất tới 223,46 tỷ đồng. Gia đình ông Trầm Bê hiện sở hữu cổ phiếu tại ngân hàng, với lần lượt: Ông Trầm Trọng Ngân (con trai ông Trầm Bê) sở hữu 48.000.000 đơn vị, ông Trầm Khải Hòa (con trai) sở hữu 20.820.000 đơn vị, bà Trầm Thuyết Kiều (con gái) sở hữu 3.148.953 đơn vị. Ông Trầm bê chỉ sở hữu khiêm tốn 115.000 cổ phiếu STB, phần lớn cổ phiếu ông này nằm tại SouthernBank với 33.459.558 đơn vị, chiếm tỉ lệ 10,42% và Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng Bình Chánh - BCI với 2.214.453 đơn vị, chiếm 3,06%. STB giảm giá đã khiến 223,46 tỷ đồng của cha con ông Trầm Bê bốc hơi trong 3 ngày. Ngoài ra, ông Trầm Trọng Ngân còn sở hữu 7.456.653 cổ phiếu SouthernBank, 1.220.000 cổ phiếu PNS. Bà Trầm Thuyết Kiều cũng có 29.420.263 cổ phần tại SouthernBank, 4.950.000 tại NJC. Riêng ông Trần Phát Minh cũng không tránh khỏi "liên lụy" khi nắm 48.123.557 cổ phần tại STB chiếm 4,94%. Do vậy, với diễn biến thị trường trong 3 ngày vừa qua, vị đại gia này cũng mất 149,1 tỷ đồng. Còn bầu Long (Trần Đình Long, chủ tịch HĐQT Cty CP Tập đoàn Hòa Phát (HPG), với sở hữu 84.216.000 cổ phiếu HPG, chiếm tỷ lệ 24,12%. Vợ ông là bà Vũ Thị Hiền cũng nắm tới 25.793.460 cổ phần tại Hòa Phát. Trong 3 ngày, từ mức đóng cửa hôm 20/8 là 22.900 đồng/CP, nay cổ phiếu này chỉ còn 19.900 đồng, đã gây thiệt hại cho vợ chồng Bầu Long 330 tỷ đồng. Cùng đó, gia đình “bầu” Hiển (Đỗ Quang Hiển, chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội - SHB và Cty CP Chứng khoán Sài Gòn Hà Nội - SHS) nắm 25.419.006 cổ phần SHB cũng đành "ngậm ngùi" nhìn 35,6 tỷ đồng "bốc hơi" khi giá SHB giảm từ 7.800 đồng/cp hôm 20/8 xuống còn 6.400 đồng/cp trong sáng nay. Chị gái ông Hiển, bà Đỗ Thị Thu Hà sở hữu 12.838.100 cổ phiếu SHB nên cũng mất gần 18 tỷ đồng. Còn bầu Đức (Đoàn Nguyên Đức - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai - HAG) cũng mất tới 805 tỷ đồng… Ủy ban chứng khoán lên tiếng Trước tình hình chao đảo của thị trường chứng khoán, hôm qua (23/8), trên website chính thức, Ủy ban chứng khoán Nhà nước (SSC) khuyến cáo nhà đầu tư cần bình tĩnh, thận trọng trong giao dịch chứng khoán, tránh bị tác động tâm lý lan truyền từ các thông tin chưa được kiểm chứng từ các nhà đầu cơ, trục lợi, giao dịch nhằm thao túng thị trường. Cần theo dõi sát sao các thông tin từ các nhà chức trách, cơ quan quản lý nhà nước (Ngân hàng Nhà nước; Uãy ban chứng khoán Nhà nước và các Sở Giao dịch chứng khoán) để có quyết định hợp lý, tránh tâm lý bán tháo cổ phiếu. Cũng theo thông tin từ Ủy ban, hiện cơ quan này đang chỉ đạo các Sở Giao dịch và tổ chức niêm yết công bố các thông tin có liên quan ra thị trường để cung cấp cho nhà đầu tư. Mặt khác, Ủy ban cũng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thanh tra để xử lý nghiêm các nhà đầu tư lợi dụng để tung tin đồn thất thiệt để giao dịch đầu cơ, trục lợi trên thị trường. Ủy ban khuyến cáo các công ty chứng khoán cần tuyên truyền để nhà đầu tư hiểu rõ vấn đề và trong các hoạt động giao dịch chính các công ty cũng phải tuân thủ các quy định hiện hành. Để hỗ trợ thị trường, từ nay đến cuối năm, Ủy ban sẽ tập trung triển khai hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp lý Chính phủ mới ban hành (Nghị định 58/CP); đẩy mạnh triển khai việc tái cấu trúc hoạt động các công ty chứng khoán; tổ chức tập huấn các văn bản đã ban hành như thông tư về quản trị công ty, thông tư về công bố thông tin, thông tư về niêm yết chứng khoán... Trong công văn hoả tốc gửi các đơn vị chiều qua, Ủy ban chứng khoán cũng xem xét để triển khai một số các giải pháp kỹ thuật để hỗ trợ thị trường. Trước mắt, từ ngày 4/9, Ủy ban chứng khoán đưa vào áp dụng việc rút ngắn chu kỳ thanh toán chứng khoán từ 15h ngày T+3 xuống 9h ngày T+3. Qua đó, cho phép nhà đầu tư có thể bán chứng khoán vào sáng ngày T+3 (rút ngắn được 1 ngày so với trước đây). Ủy ban cũng sẽ xem xét khi thị trường thuận lợi có thể điều chỉnh biên độ giao dịch trên các Sở Giao dịch chứng khoán để hỗ trợ thanh khoản của thị trường. Đức Kế ================= Ngay từ đầu năm, Thiên Sứ tôi đã xác định: Bất động sản chết lâm sàng, Chứng khoán ngắc ngoải. Có lẽ vì tôi không có kiến thức nhiều về kinh tế và kém hiểu biết cụ thể về CK nên mới phát biểu vậy chăng? Theo tôi hiểu thì CK phản ảnh sự thăng trầm của nền kinh tế. Khi CK xuống tức là nền kinh tế phát triển chậm, còn lên là phát triển mạnh. Vậy cứu là cứu thế nào nhỉ? Đưa tiền vào mua cổ phiếu cho nó lên à? Thế là thế nào nhỉ? Thiên Sứ tui rung cái đầu bò lên bần bật mà chưa thể nghĩ ra!2 likes -
Quán vắng!
Ks.TranNgocHai and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Chính xác là như vậy!Còn tướng Vương Lập Quân, ông này có quý tướng gọi là Giác long cốt. Có hai bờ nổi từ cuối chân (Lông) mày lên đến hai bên thái dương - nhìn rõ qua ảnh. Ánh mắt thần tàng thích hợp với nghề điều tra, theo dõi. Tóm lại cũng thuộc dạng "mặt to , tai lớn". Nhưng phá cách của ông này chính là cái miệng nhỏ đi với cái cằm hơi bạnh. Nếu chỉ cằm bạnh không thì đây là tướng người cương trực, quả quyết. Nhưng vì cái miệng mỏng và nhỏ, nên phối với cằm bạnh, dễ thành phản thần. Nhưng lưu ý là: Tướng pháp rất khó xem. Mấy chiêu sơ sơ đó, không nói lên điều gì. Riêng mắt quỉ u thì không hẳn đã xấu. Phép xem tướng phải biết kết hợp các bộ vị, cũng như Phong Thủy Lạc Việt phải kết hợp các yếu tố vậy. Cốt lõi của mọi vấn đề tướng pháp là thần khí - cái này Châu Thế Vinh đã viết bài gần đây. Nếu chỉ biết xem hình tướng thì cái tượng ông Washington và chính ông Washington không khác gì nhau.2 likes -
Quán vắng!
fansipan and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Thông thường giống người da vàng thì nếu có một đường thẳng biểu kiến ngang đầu mắt và song song với mặt đất - thì đuôi mắt bao giờ cũng cao hơn đầu mắt. Ấy là mắt thông thường của giống da vàng. Người châu Âu thì đầu và đuôi mắt bằng nhau. Tức là so với người da trắng thì dân da vàng thuộc loại mắt xếch. Trong tướng pháp, mắt "quỉ u" là mắt âm tính. "U" là buồn, là mờ mịt; Quỉ là ám chỉ không phải ở trần gian (Có gốc từ chữ "Quí" trong Thiên Can) - cực Âm. Tùy giống dân, mà mắt quỉ u là mắt có đuôi mắt cụp so với từng giống người tương quan với đầu mắt. Người già có mắt quỉ u là bình thường . Vì họ gần đất xa trời. Còn người trẻ mà mắt đã quỉ u thì hỏng. Còn về Ngân hàng, chứng khoán....tôi đã nói từ đầu năm rồi. Vụ Bầu Kiên chỉ là nguyên nhân trực tiếp. Quy luật là muôn đời, Bầu Kiên chỉ là hiện tượng để quy luật phải xảy ra.2 likes -
Quán vắng!
Ks.TranNgocHai and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Đây là hình ông Lương Quang Liệt. Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt. Lạ nhỉ! Đặc điểm đầu tiên xem cả ba ông tướng Tàu đều mắt quỉ u. Theo cơ sở lý luận của Lý học thì làm tướng trăm trận trăm thắng thì một yếu tố quan trọng là vận nước; yếu tố thứ hai là mệnh số của tướng - nói chung là người cầm đầu. Tất nhiên khi vận nước đã đến thì xuất hiện người cầm đầu phải hiên ngang, uy vũ. Tôi đã hân hạnh gặp đến ba vị tướng lừng danh của Việt Nam. Nhìn họ hiên ngang oai vũ. Đặc biệt là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, tuy gần 100 tuổi - vào thời điểm tôi gặp Ngài - thì chỉ có khí hơi lạnh do tuổi già, Nhưng thần khí vẫn rất mạnh mẽ. Thần khí tuy ẩn tàng, có lẽ do Ngài thiền nhiều, nhưng hùng khí bao trùm không gian xung quanh. Hồi Ngài còn tại vị, oai phong lẫm liệt. Bởi vậy, chiến công của Ngài mới hiển hách thế. "Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu" - chỉ với hơn 30 nghĩa binh thuở ban đầu, Ngài tạo dựng nên cả một lực lượng đánh Pháp, đuổi Nhật, ngay cả Hoa Kỳ cũng sất bất, sang bang. Cổ nhân có câu: "Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa nhân gian kiến bạc đầu". Nhưng Ngài đã hơn 100 tuổi vẫn còn trên dương thế. Đúng là Thần tướng. Bởi vậy, cách đây vài năm, nhiều lần Ngài lâm trọng bệnh ở tuổi đã cao, có người hỏi tôi. Tôi vẫn trả lời: "Ngài còn sống lâu...". Còn mấy viên tướng Tàu này thì thật khó mà có chiến công ngoạn mục, nếu chiến tranh xảy ra. Bởi vậy, một lần cuối tôi khuyên người Tàu hãy rút khỏi Trường Sa, Hoàng Sa, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, thừa nhận Việt sử 5000 năm văn hiến (Vì nếu không thừa nhận thì chứng tỏ vẫn có ý tham vọng về lâu dài) Họ nên ẩn tàng nguyên khí thì mới mong tồn tại lâu dài được.2 likes -
Bồ tát Địa Tạng được đặt nhiều nơi trên khắp nước Nhật qua những tuyệt phẩm công phu của Nghệ Nhân Phật Giáo! Tượng Địa Tạng2 likes
-
(*) Mật Giáo của Trung Hoa ghi nhận: Địa Tạng Bồ Tát là Tôn Chủ của Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Mạn Đà La (Garbha-dhàtu-manïdïala), hiển hình Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen , trên hoa có cây phướng báu Như Ý, tay phải cầm viên ngọc báu ngồi trên hoa sen. Trong Kim Cương Giới Mạn Đà La (Vajra-dhàtu-manïdïala) thì Địa Tạng Bồ Tát được ghi nhận qua tên gọi Kim Cương Tràng Bồ Tát (Vajra-ketu) là một trong bốn vị Bồ Tát thân cận của Đức Bảo Sinh Như Lai (Ratna-samïbhava-tathàgata) Căn cứ vào sự đề xuất của Kinh Bát Đại Bồ Tát Man Đồ La thì Địa Tạng Bồ Tát là một trong tám vị Đại Bồ Tát gồm có: Quán Tự Tại (Avalokite’svara), Từ Thị (Maitreya), Hư Không Tạng (Àkà’sa-garbha), Phổ Hiền (Samanta-bhadra), Kim Cương Thủ (Vajra-pànïi), Văn Thù (Mamïju’srì), Trừ Cái Chướng (Sarva-nìvaranïa-visïkambhin), Địa Tạng (Ksitigarbha). Tám vị Bồ Tát này cùng phụ giúp Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn các chúng sinh về Thế Giới Cực Lạc. (*) Do Địa Tạng Bồ Tát dùng sức Bi Nguyện cứu độ chúng sinh, nhất là đối với chúng sinh đang chịu khổ tại cõi Địa Ngục, lại đặc biệt thương xót, thị hiện thân Diêm La Vương (Yàma-ràja-kàya), thân Địa Ngục (Nakara-kàya) rộng vì chúng sinh chịu tội khổ mà nói Pháp để giáo hóa cứu độ. Do điều này mà thân Diêm La Vương thường được xem là một Hóa Thân (Nirmanïa-kàya) của Địa Tạng Bồ Tát. Như Kinh Địa Tạng Bồ Tát Phát Tâm Nhân Duyên Thập Vương đề xuất Bản Địa của Diêm La Vương là Địa Tạng Bồ Tát.Vì chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng này cùng với tư tưởng Địa Ngục (Nakara) trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra) nên dân gian Trung Hoa cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục. Trong động Thiên Phật ở Đôn Hoàng có ghi nhận hình vẽ Địa Tạng Thập Vương tức hội các tượng của Địa Tạng Bồ Tát với mười vị vua Diêm La kèm theo lời văn minh họa. Hình vẽ này được tạo lập trong đời Tống, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, năm thứ tám (983) nhằm nhấn mạnh rằng Ngài là “Đấng giải thoát khỏi cực hình Địa Ngục” Chính tư tưởng bên trên đã khiến cho một số người ngộ nhận, cho rằng Địa Tạng Bồ Tát chỉ ở tại Địa Ngục để cứu độ chúng sinh trong Địa Ngục. Từ đấy trong việc làm tang ma, Thanh Minh tảo mộ qua tiết Trung Nguyên, Pháp Hội Siêu Độ…thường cúng phụng Địa Tạng Bồ Tát để cầu đảo cho vong linh được siêu độ. Ngoài ra tại nghĩa địa, linh tháp hoặc gặp chiến loạn, sự cố, đất đang phát triển mà mọi người đều đi qua…. thường xây dựng Miếu bái tế Địa Tạng với hy vọng Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo vệ người sống, siêu độ vong linh Thật ra ở trong cả sáu nẻo, Ngài đều có năng lực giáo hóa tế độ. Điều đó được biểu thị qua sáu vị Địa Tạng, tức là Địa Tạng độ hóa chúng sinh trong sáu nẻo. Tên của sáu vị Địa Tạng đều y theo Thế Giới Sa Bà (Sàha-dhàtu) có chúng sinh trong sáu nẻo mà nói. Thế Giới ở phương khác hoặc có bảy nẻo, hoặc năm nẻo… chẳng giống nhau thời Địa Tạng cũng y theo nhân duyên của mỗi phương để mỗi mỗi thị hiện ứng hóa. (*) Danh xưng của Địa Tạng trong sáu nẻo thời các Kinh Quỹ ghi chép chẳng giống nhau. Nhưng theo đại thể mà nói thì đều bắt nguồn ở Đại Nhật Kinh Sớ, quyển thứ năm là: Sáu vị Thượng Thủ (Sïadïa-pramukha) trong chín Tôn (Nava-nàtha) của Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới (Garbha-dhàtu) tức là: Địa Tạng (Ksïitigarbha), Bảo Xứ (Ratnakàra), Bảo Chưởng (Ratna-pànïi), Trì Địa (Dharanïi-dhàra), Bảo Aán Thủ (Ratna-mudrà-hasta), Kiên Cố Ý (Drïdïhàdhyàsaya). Trong đó Địa Tạng Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục Bảo Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ Bảo Xứ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo Súc Sinh Bảo Ấn Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo A Tu La Trì Địa Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Người Kiên Cố Ý Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Trời. (*) Kinh Thập Vương ghi nhận rằng: 1_ Dự Thiên Hạ Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Trời, tay trái cầm viên ngọc Như Ý, tay phải kết Thuyết Pháp Ấn 2_ Phóng Quang Vương Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Người, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn 3_ Kim Cương Tràng Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi A Tu La, tay trái cầm cây phướng Kim Cương, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn 4_ Kim Cương Bi Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Súc Sinh, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Tiếp Dẫn Ấn 5_ Kim Cương Mật Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải tác Cam Lộ Ấn 6_ Kim Cương Nguyện Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục, tay trái cầm cây phướng Diêm Ma, tay phải tác Thành Biện Ấn. (*) Kinh Liên Hoa Tam Muội ghi nhận là: 1_ Đàn Đà Địa Tạng hay hóa độ nẻo Địa Ngục, tay cầm cây phướng đầu người [Đàn Đa (danïdïa)ødịch là Nhân Đầu Tràng] 2_ Bảo Châu Địa Tạng hay hóa độ nẻo Ngạ Quỷ, tay cầm viên ngọc báu 3_ Bảo Ấn Địa Tạng hay hóa độ nẻo Súc Sinh, duỗi bàn tay Như Ý Bảo Ấn 4_ Trì Địa Địa Tạng hay hóa độ nẻo Tu La, hay gìn giữa đại địa ủng hộ hàng Tu La 5_ Trừ Cái Chướng Địa Tạng hay hóa độ nẻo người, vì con người trừ sự che chướng của tám khổ 6_ Nhật Quang Địa Tạng hay hóa độ nẻo Trời, soi chiếu năm hiện tượng suy thoái của người Trời để trừ khổ não cho họ. (*) Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức Tân Biên ghi nhận 6 vị Địa Tạng là:Hộ Tán Địa Tạng, Diên Mệnh Địa Tạng, Mâu Ni Địa Tạng, Tán Long Địa Tạng, Phá Thắng Địa Tạng, Bất Hưu Tức Địa Tạng Ngoài ra còn có thuyết ghi nhận là: Địa Tạng Bồ Tát cùng với các vị Bồ Tát Quán âm (Avalokite’svara), Đại Thế Chí (Mahà-sthamapràpta), Long Thọ (Nàgarjuna)…đều là các vị theo hầu Đức Phật A Di Đà (Amitàbha-buddha) và xưng là A Di Đà Ngũ Phật. Cũng còn nói là khi Đức Phật A Di Đà còn là con người thì Bồ Tát Pháp Tạng (Dharmàkara) với Bồ Tát Địa Tạng có cùng một Thể.2 likes
-
(*) Địa Tạng Bồ Tát còn được xem là vị Thần bảo toàn đời sống qua tên gọi là Diên Mệnh Địa Tạng tức Thân Hóa Hiện bởi Thệ Nguyện của Địa Tạng Bồ Tát để khiến cho sống lâu làm lợi ích cho đời, hay tránh khỏi sự chết yểu, đoản mệnh có đủ Đức của Pháp khoẻ mạnh sống lâu. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), quyển Thượng, Phẩm Như Lai Tán Thán ghi chép rằng: “Nếu có người nào mới sinh con trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sinh ra đó mà đọc tụng Kinh Điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ Tát đủ một vạn biến. Được vậy thời đứa trẻ hoặc trai hay gái mới sinh ra đó, nếu đời trước nó đã gây tạo tội vạ chi cũng được thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm được sống lâu. Còn như nó là đứa nương nơi Phước Lực mà thọ sinh, thì đời nó càng được an vui hơn sống lâu hơn”.2 likes
-
_ Khoảng Thế Kỷ thứ 5, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến tại Trung Hoa qua Kinh Đại Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) trong đó nêu lên những Đức Tính của Ngài. (*) Sau đời Tùy (581_618), Đường (618_917) thì Tín Ngưỡng Địa Tạng được sùng mộ hưng thịnh. Ví dụ như Đời Tùy y theo Kinh Địa Tạng Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) mà đề cao thuyết Phổ Phật, Phổ Pháp cùng với Địa Tạng Bồ Tát Lễ Nghi Sám Pháp và xưng là Tam Gia Giáo. (*) Đời Tống, Thường Cẩn có soạn một quyển sách ghi nhận 32 loại sự tích linh nghiệm liên quan đến Địa Tạng Bồ Tát từ đời Lương (502_557) đến đời Tống (960_1279). Do điều này mà Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến rộng rãi, người đời lúc bấy giờ đều lưu truyền, phỏng họa hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng để trong Tự Viện hoặc Phật Đường của tư nhân mà lễ bái cúng dường. Nổi tiếng nhất là hình tượng Địa Tạng Bồ Tát được vẽ trên bức tường phía Đông của chùa Thiện Tịch, huyện Đức Dương, Hán Châu trong Đời Lương. (*) Lại nữa, Phật Giáo Trung Hoa còn xếp Địa Tạng Bồ Tát là một trong bốn vị Đại Bồ Tát (Văn Thù, Phổ Hiền, Quán âm, Địa Tạng) ứng hóa giảng thuyết tại Đạo Tràng ở núi Cửu Hoa thuộc tỉnh An Huy. Điện thờ đức Địa Tạng vương trên đỉnh Cửu Hoa sơn Tống Cao Tăng Truyện, quyển 20 ghi nhận rằng: “ Địa Tạng Bồ Tát sinh hạ vào giòng Vương Tộc ở nước Tân La, tên là Kim Kiều Giác rồi xuất gia. Sau thời Đường Huyền Tôn thì đến Trung Hoa tu Đạo ở núi Cửu Hoa, ở 75 năm đến ngày 30 tháng 7 năm Khai Nguyên thứ 26, đời Đường thì viên tịch, thọ thế 99 tuổi. Vì nhục thân chẳng hư hoại nên đem toàn thân vào Tháp, tức là Nhục Thân Điện tại núi Cửu Hoa, tương truyền tức là nơi Địa Tạng Bồ Tát thành Đạo”. Từ sự tích này nên người dân Trung Hoa chọn ngày 30 tháng 7 âm Lịch làm ngày Thánh Sinh của Địa Tạng Bồ Tát. (*) Đến đời Thanh (1644_1911) thì Địa Tạng Bồ Tát được xem là Bản Tôn chủ quản ngũ cốc phong phú đồng thời cũng chủ về sự kính ái, phù hộ cho gia đình hòa thuận. (*) Ngày nay, đại đa số người dân Trung Hoa đều cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục và xưng tán Ngài là U Minh Giáo Chủ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát cai quản mười điện Diêm Vương, tức là Bản Tôn chuyên cứu độ chúng sinh bị khổ đau trong cõi Địa Ngục. Nguồn gốc của danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát được nói ở trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) là: “An nhẫn chẳng động giống như đại địa, lặng lẽ suy nghĩ ngầm biết kho tàng bí mật (Bí Tạng) cho nên gọi là Địa Tạng” “An nhẫn chẳng động giống như đại địa” là nói Nhẫn Ba La Mật (Ksïànti-pàramità) bậc nhất của Địa Tạng Bồ Tát , giống như đại địa (đất đai) hay chịu đựng chuyên chở mọi loại nghiệp tội của tất cả chúng sinh. “Lặng lẽ suy nghĩ” trong câu “Lặng lẽ suy nghĩ ngầm biết kho tàng bí mật” là hiển rõ sự chẳng thể luận bàn của Trí Tuệ Thiền Định ấy 3 .) Kinh Đại Phương Quảng Thập Luân, quyển một nói rằng:"Địa Tạng có ý nghĩa là ẩn chứa (kho báu bị che dấu trong lòng đất)" tức là nói tất cả kho báu ngầm dấu kín trong lòng đất đều là Địa Tạng (*) Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính Luận, quyển 4 ghi rằng: "Dùng kho tàng ẩn chứa trong lòng đất ví như hiển bày Như Lai Tạng (Tathàgata-garbha). Nhưng kho báu này, một phương diện là đại biểu cho Phật Tính (Buddhatà) trong sạch không nhiễm bẩn của chúng sinh, hay khiến cho chúng sinh thành tựu viên mãn Phật Quả. Một phương diện khác là đại biểu cho Phước Đức, Trí Tuệ, Tài Bảo vô tận của sinh mệnh, cho nên Địa Tạng đại biểu cho tất cả kho tàng ẩn chứa Công Đức chẳng thể nghĩ bàn”. Địa (đất) còn có bảy ý nghĩa đặc trưng là: 1_ Đất hay sinh ra vạn vật 2_ Đất thu nhiếp vạn vật 3_ Đất chuyên chở vạn vật 4_ Đất cất giữ nhiều kho tàng của cải vật chất 5_ Đất hay nuôi dưỡng giúp cho vạn vật tăng trưởng 6_ Đất hay nâng đỡ, là chỗ dựa của vạn vật 7_ Đất bền chắc vững vàng, chẳng động Do đó dùng hình dạng cụ thể của Đất (địa) để biểu thị cho Phước Đức có được của Địa Tạng Bồ Tát là: 1_ Địa Tạng Bồ Tát hay sinh ra mọi Pháp lành 2_ Địa Tạng Bồ Tát hay thâu nhiếp mọi Pháp lành trong Tâm Đại Giác 3_ Địa Tạng Bồ Tát hay gánh vác tất cả chúng sinh, dìu dắt họ tiến dần trên con đường giác ngộ. 4_ Địa Tạng Bồ Tát hay cất giữ mọi Pháp màu nhiệm 5_ Địa Tạng Bồ Tát hay dùng mọi Pháp lành bình đẳng giúp cho mọi chúng sinh tăng trưởng Chính Pháp giải thoát. 6_ Địa Tạng Bồ Tát là chỗ dựa vững chắc của tất cả chúng sinh. 7_ Địa Tạng Bồ Tát hay hiển bày tâm Bồ Đề màu nhiệm, bền chắc như Kim Cương chẳng thể bị phá hoại. Trong Kinh lại ghi rằng: "Địa Tạng Bồ Tát trụ ở Kim Cương Bất Khả Hoại Hạnh Cảnh Giới Tam Muội, giống như Kim Cương Địa Luân rất bền chắc chẳng thể phá hoại, cho nên hay trụ giữ vạn vật khiến cho chẳng lay động. Lại giống như trái đất hay ẩn chứa các loại kho tàng quý báu không có cùng tận, hàm chứa tất cả hạt giống, khiến cho chẳng mục nát, dần dần tươi tốt thêm. Địa Tạng hay khiến cho đầy đủ tất cả Tâm Nguyện của chúng sinh thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian, là thai mẹ (Mẫu Thai) hay sinh ra chúng sinh để thành Phật. Đại Địa ở ý nghĩa hiện tượng cụ thể trên, có đầy đủ tính chất đặc biệt là: Sinh trưởng, bền chắc, trụ giữ vạn vật, chẳng động, rộng lớn, cùng với thai mẹ có đầy đủ khả năng sinh ra tất cả kho báu. Do Địa Tạng Bồ Tát cũng có đầy đủ Phước Đức như vậy, cho nên dùng Địa Tạng để tác làm danh hiệu đó". (*) Phẩm Tựa của Kinh Đại Phương Quảng Thập Luân, quyển 1 và Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quyển 1 ghi rằng: “Địa Tạng Bồ Tát do Thệ Nguyện Đại Bi ở đời quá khứ, nên thị hiện thành thân Đại Phạm Vương, thân Đế Thích, thân Thanh Văn, thân Diêm La Vương, thân sư tử, thân cọp, thân chó sói, thân bò, thân ngựa cho đến thân La Sát, thân Địa Ngục…vô lượng vô số thân khác loài để giáo hóa chúng sinh và đặc biệt là thuận theo niệm của chúng sinh, thọ nhận nỗi khổ đau ở đời ác năm Trược, tương ứng với điều mong cầu của chúng sinh giúp cho họ tiêu Tai tăng Phước. Do thành thục căn lành của chúng sinh mà Địa Tạng Bồ Tát biến hiện vô số Hóa Thân như vậy để cứu độ chúng sinh, nên lại được xưng là Thiên Thể Địa Tạng” (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), Phẩm Phân Thân Tập Hội ghi nhận lời phó chúc của Đức Thích Tôn, ở trong thời đại không có Phật, từ sau khi Đức Phật Thích Ca (‘Sàkyamunïi-buddha) viên tịch cho đến lúc Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) thành Đạo, thời Địa Tạng sẽ làm vị Bồ Tát tự thề độ hết chúng sinh trong sáu nẻo mới thành tựu Nguyện. Do điều này mà Địa Tạng Bồ Tát là vị Bồ Tát có Bi Nguyện (Kàrunïa-pranïidhàna) đặc biệt sâu nặng. Dựa vào Đức đặt biệt này mà Phật Giáo Đồ thường xưng tán Ngài là Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (*) Do trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), có ghi nhận hai tiền thân của Địa Tạng Bồ Tát là: Bà La Môn Nữ và Quang Mục Nữ vì muốn cứu độ mẹ thoát khỏi nỗi khổ đau trong Địa Ngục mà chuyên tâm tu hành, thề cứu giúp mẹ với tất cả chúng sinh. Cho nên Phật Giáo Trung Quốc nhận định Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện là Kinh báo hiếu của nhà Phật nhằm nhấn mạnh việc tu học bắt đầu từ sự hiếu kính cha mẹ, tôn trọng Thầy Tổ cho đến cứu giúp chúng sinh. (*) Địa Tạng Bồ Tát lại được xem như là kho tàng ẩn chứa các Công Đức vi diệu, đầy đủ các trân bảo giải thoát, giống như viên ngọc Như Ý tuôn mưa mọi tài bảo. Tùy theo sự mong cầu chẳng luận là cầu xin ngũ cốc được mùa hoặc là cầu Phước Đức, tiền của, giàu có đều khiến được mãn túc. Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân ghi rằng: "Tùy theo chỗ ở. Nếu quần áo, thức ăn uống, đồ dùng hàng ngày của các hữu tình có chỗ thiếu thốn mà hay chí tâm xưng tên niệm tụng, quy kính cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, thời tất cả đều được như Pháp mong cầu". Lại nói rằng: "Hay thủ hộ cho Hành Giả tu học pháp môn của Địa Tạng Bồ Tát, khiến cho tất cả tiền của, quan vị chẳng thiếu thốn". Do điều này mà Địa Tạng Bồ Tát được xem là Bản Tôn Tài Bảo, hay khiến cho tất cả chúng sinh thỏa mãn mọi mong cầu, chẳng luận là cầu xin ngũ cốc được mùa hoặc cầu Phước Đức, tiền của, giàu có.2 likes
-
Do Tín Ngưỡng Địa Tạng không nhận được sự sùng mộ của dân Ấn Độ, nên đã mất dần các dấu tích. _ Sau này, Tín Ngưỡng Địa Tạng theo bước chân những Tăng Đoàn truyền giáo Phật Giáo du nhập vào vùng Trung Á, trạm dừng chân đầu tiên là Turkestan. Từ đây một hình tượng phổ biến của Địa Tạng Bồ Tát là: “Nhà sư cầm cây gậy hành hương với một viên ngọc Như Ý” được phụng thờ như là vị Bồ Tát bảo vệ người lữ hành thoát khỏi mọi hiểm nguy. Hàng ngàn hình tượng Địa Tạng được tôn thờ trong những hang động tại vùng Lung-Men và Tun-Hoang đã minh họa cho Tín Ngưỡng này. _ Khoảng Thế Kỷ thứ 5, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến tại Trung Hoa qua Kinh Đại Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) trong đó nêu lên những Đức Tính của Ngài. (*) Sau đời Tùy (581_618), Đường (618_917) thì Tín Ngưỡng Địa Tạng được sùng mộ hưng thịnh. Ví dụ như Đời Tùy y theo Kinh Địa Tạng Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) mà đề cao thuyết Phổ Phật, Phổ Pháp cùng với Địa Tạng Bồ Tát Lễ Nghi Sám Pháp và xưng là Tam Gia Giáo. (*) Đời Tống, Thường Cẩn có soạn một quyển sách ghi nhận 32 loại sự tích linh nghiệm liên quan đến Địa Tạng Bồ Tát từ đời Lương (502_557) đến đời Tống (960_1279). Do điều này mà Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến rộng rãi, người đời lúc bấy giờ đều lưu truyền, phỏng họa hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng để trong Tự Viện hoặc Phật Đường của tư nhân mà lễ bái cúng dường. Nổi tiếng nhất là hình tượng Địa Tạng Bồ Tát được vẽ trên bức tường phía Đông của chùa Thiện Tịch, huyện Đức Dương, Hán Châu trong Đời Lương.2 likes
-
Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn. Quán Thế Âm Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà phải hóa hiện vô lượng vô số hóa thân để ứng duyên cứu độ. Địa Tạng Bồ Tát cũng vậy vì duyên trần cảnh khổ nên Ngài cũng không ngại “trục loại tùy hình, ứng hiện sắc thân”. Trong Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo quyển thượng có chép: “Địa Tạng Bồ Tát do tâm đại bi phát đại nguyện lực trong thời quá khứ, cho nên Ngài hiện thân trời Đại Phạm Vương, hiện thân Đế Thích, hiện thân Thanh Văn, hiện thân Diêm La Vương, Ngài còn hiện thân Voi, Sư tử, Hổ, Báo, Trâu, Ngựa, cho đến hiện thân La Sát, Địa Ngục.v.v...vô lượng vô số các thân tướng khác nhau, để giáo hóa chúng sanh...”. (LƯỢC Ý HÌNH TƯỚNG - NGUYỆN LỰC CỦA ĐỨC ĐỊA TẠNG TRONG TINH THẦN HÀNH BỒ TÁT ĐẠO PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN) - Thích Tâm Mãn Tại Việt Nam, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển song hành với sự phát triển của Phật Giáo. Tuy nhiên phần lớn người dân Việt thường chuyên tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện với mục đích cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, con cái, họ hàng thân thuộc… tức chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… chứ không hề biết rằng Địa Tạng Bồ Tát không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại. Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn, Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại-thiên chi giới. Biên trích : Địa Tạng Bồ Tát 地 藏 菩 薩 ( Tài liệu Do cư sĩ Huyền Thanh biên soạn Công Minh bổ sung hình ảnh minh họa và ghi chú ) Địa Tạng Bồ Tát tên Phạn là Ksïitigarbha, dịch âm là Tát Khất Xoa Để Nghiệt Bà. Ksïi là động từ mang nghĩa: chịu đựng, tồn tại, cư trú, ở Ksïiti: nghĩa là trú xứ, nơi đang cư ngụ, căn nhà, đất trồng trọt, đất nước, quê hương, trái đất. Garbha: nghĩa đen là Tử cung, dạ con, có thai, thọ thai, tưởng tượng, hình thành trong trí óc. Nghĩa bóng là cất chứa, ôm giữ. Ksïitigarbha được dịch ý là Địa Tạng, tức là người ôm giữ trái đất hoặc Mẫu Thể của Đại Địa. Do đất hay chuyên chở vạn vật, giúp cho vạn vật sinh sôi nảy nở, hàm chứa vô số nguồn lợi, tiền tài, vật báu…cho nên Địa Tạng là vị Bồ Tát biểu thị cho kho báu tiềm ẩn trong Đại Địa, hay chuyên chở mọi khổ nạn của tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát triển căn lành, được tài bảo vô tận, tròn đủ Phước Đức (Punïya) Trí Tuệ (Prajnõa). Nếu người tu hành theo Pháp của Địa Tạng Bồ Tát thì có thể khiến cho ngũ cốc [Đại Mạch (Yava), Tiểu Mạch (Godhùma), Lúa gié (‘Sàli), Tiểu Đậu (Masùra), mè (Atasì)] đầy kho, kéo dài mạng sống, tránh mọi hiểm nạn, tròn đủ tư lương (Sambhàra) Phước Trí vượt thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi _ Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển rất sớm trong các Tông Phái Đại Thừa (Mahà-yàna) ở Aán Độ (Thế Kỷ thứ 4) Khởi nguyên của Tín Ngưỡng Địa Tạng có thể được khai triển từ Tín Ngưỡng Địa Thiên (Prïthivi), tức là Địa Thần, Kiên Lao Địa Thần, Kiên Lao Địa Thiên, Trì Địa Thần. Đây là vị Thần cai quản Đại Địa, biểu thị cho Thể Tính của đất là bền chắc chẳng động hay giúp cho vạn vật cư trú, lại có tác dụng hay giữ gìn vạn vật. Vị Thần này nguyên là vị Thần Kỳ (Thần đất) được sùng ngưỡng trong thời Ấn Độ cổ đại. Trong Lê Câu Phệ Đà (RÏg-veda), A Thát Bà Phệ Đà (Artha-veda) đều khen ngợi là vị Nữ Thần có đầy đủ Đức tốt đẹp (mỹ đức) như: sự vĩ đại, bền chắc, Tính chẳng bị diệt, nuôi dưỡng quần sinh, đất đai sinh sôi… Hiện tượng Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển từ Tín Ngưỡng Địa Thiên có thể được nhận biết qua hình tượng được ghi nhận trong Phật Giáo đời Thanh ở Trung Quốc là: Đầu đội mão Trời, thân khoác áo lụa mỏng, đeo chuỗi Anh Lạc với các vật báu trang sức, tay trái cầm cây lúa (tượng trưng cho ngũ cốc phong phú), tay phải cầm viên ngọc Như Ý để ngang ngực (tượng trưng cho việc thỏa mãn mọi mong cầu của chúng sinh), ngồi trên tòa sen.2 likes
-
Vị Bồ Tát Hộ Trì Phong Thủy
chipchip and one other liked a post in a topic by hoangnt
Kinh Đại Phương Quảng Thập Luân 18 Tháng 12 2009 Dẫn nhập Theo truyền thống văn hóa Phật giáo Bắc tông, ở các chùa viện thường có những lễ cúng trong tháng (lịch Âm), kỷ niệm về ngày khánh đản, xuất gia, hay thành đạo của chư Phật và các vị Bồ-tát. Đặc biệt trong tháng bảy có những ngày khánh đản Bồ-tát Đại Thế Chí (ngày 13), Địa Tạng (ngày 30), Long Thọ (ngày 24), Tổ sư Phổ Am (ngày 21) và ngày Phật hoan hỷ (ngày 15). Nhưng tại Việt Nam trong tháng 7, lâu nay chỉ thấy ghi chép, tổ chức, hành lễ ba ngày, là ngày Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Địa Tạng và ngày Phật hoan hỷ (Vu-lan thắng hội). Riêng ngày vía Bồ-tát Địa Tạng, nhằm ngày 30 tháng 7, có thể người ta theo truyền thuyết được ghi trong Tống cao tăng truyện quyển 20, tạng Đại chánh 50, số hiệu 2061, trang 838c11: Ngài Thích Địa Tạng, người giòng họ Kim thuộc vương quốc Tân-la (nay là Triều Tiên), tên Kim Kiều Giác (năm Vĩnh Huy thứ 4, ngài 24 tuổi cắt tóc đi tu)… cưỡi thuyền đến đất Giang Nam, ở huyện Thanh Dương, phủ Trì Châu có ngọn Cửu Tử (Cửu Hoa sơn), thích cảnh u tịch, ngài lưu lại đó tọa thiền 75 năm. Đến năm Khai Nguyên thứ 6, đời Đường, đêm 30 tháng 7 thì thành đạo. Năm Trinh Nguyên thứ 19 (803), ngài thị tịch, thọ 99 tuổi. Từ đó vị Địa Tạng họ Kim này được coi là hóa thân của Bồ-tát Địa Tạng. Nhân dịp Tập san Pháp Luân kỳ này hướng đến chủ đề Bồ-tát Địa Tạng, chúng tôi xin giới thiệu đến quí Phật tử một số bản kinh nói về công hạnh, đại nguyện cứu khổ của ngài. Toát yếu nội dung kinh I. Kinh Đại phương quảng thập luân (大方廣十輪經), còn gọi là kinh Phương quảng thập luân, Thập luân, 8 quyển, mất tên người dịch, được dịch vào thời Bắc Lương, tạng Đại Chánh 13, số 410, trang 681. Nội dung kinh này gồm 15 phẩm, kể về công đức của Bồ-tát Địa Tạng, đồng thời nói nếu nương vào 10 Phật luân (10 lực) và 10 y chỉ luân của Tam thừa thì có thể xoay chuyển 10 ác nghiệp luân. Bản dịch khác của kinh này là Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân (xem kinh thứ 2). II. Kinh Địa Tạng thập luân (地藏十輪經), gọi đủ là kinh Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân, 10 quyển, ngài Huyền Trang (600-664) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 411, trang 721. Kinh này tường thuật đức Như Lai nhân lời thưa hỏi của Bồ-tát Địa Tạng mà nói 10 thứ Phật luân (10 lực), có năng lực phá trừ 10 ác luân trong đời mạt pháp, và khen ngợi công đức Bồ-tát Địa Tạng. Mục đích kinh này nhằm dung hợp Tam thừa về Đại thừa, lại nhắm vào các Tỳ-kheo phá giới mà giải thích rõ về công đức “thắng tưởng”, và việc Bồ-tát Địa Tạng hiện tướng Sa-môn để cứu độ chúng sanh trong đời mạt pháp. Nội dung gồm 8 phẩm: 1. Phẩm Tựa; 2. Phẩm Thập luân; 3. Phẩm Vô y hành; 4. Phẩm Hữu y hành; 5. Phẩm Sám hối; 6. Phẩm Thiện nghiệp đạo; 7. Phẩm Phước điền tướng; 8. Phẩm Hoạch ích chúc lụy. III. Kinh Địa Tạng bồ-tát bổn nguyện (地藏菩薩本願經), 2 quyển, ngài Thật-xoa-nan-đà (Śikṣānanda, dịch Hỷ Học, 652-710, người nước Vu-điền) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 412, trang 777. Kinh này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. Người đọc tụng kinh này có thể tiêu trừ vô lượng tội nghiệp và được lợi ích không thể nghĩ bàn. Nội dung 1. Phẩm Đao-lợi thiên cung thần thông (Thần thông tại cung Đao-lợi); 2. Phẩm Phân thân tập hội (Thân phân hoá qui tụ lại); 3. Phẩm Quán chúng sanh nghiệp duyên (Quán sát nghiệp quả chúng sanh); 4. Phẩm Diêm-phù chúng sanh nghiệp cảm (Nghiệp quả của người Diêm-phù); 5. Phẩm Địa ngục danh hiệu (Danh xưng địa ngục); 6. Phẩm Như Lai tán thán (Thế Tôn tuyên dương); 7. Phẩm Lợi ích tồn vong (Lợi ích người còn kẻ mất); 8. Phẩm Diêm-la vương chúng tán thán (Các vua Diêm-la xưng tụng); 9. Phẩm Xưng Phật danh hiệu (Xưng tụng danh hiệu chư Phật); 10. Phẩm Giáo lượng bố thí công đức duyên (trắc lượng công đức bố thí); 11. Phẩm Địa thần hộ pháp (Thần đất hộ trì); 12. Phẩm Kiến văn lợi ích (Ích lợi của sự thấy nghe); 13. Phẩm Chúc lụy nhân thiên (Thế Tôn ký thác). IV. Kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo (占察善惡業報經), còn gọi là kinh Địa Tạng Bồ-tát nghiệp báo, Địa Tạng Bồ-tát, 2 quyển, do ngài Bồ-đề-đăng (người Tây Vực) dịch thời Tuỳ, tạng Đại Chánh 17, số 839, trang 901. Nội dung kinh này nói Bồ-tát Địa Tạng phụng mệnh đức Phật, thuyết pháp cho chúng sanh ở đời mạt pháp nghe về việc cầu pháp lành. Quyển thượng nói rõ pháp xem xét nghiệp báo thiện ác. Quyển hạ thuật nghĩa chân thật của Đại thừa. V. Địa Tạng bồ-tát nghi quĩ (地藏菩薩儀軌), 1 quyển, do ngài Du-bà-ca-la (dịch là Thiện Vô Uý, người nước Ma-già-đà, Ấn Độ) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 20, số 1158, trang 652. Nội dung kinh thuật lại lúc đức Phật ở trên núi Khư-la-đề-da, Bồ-tát Địa Tạng muốn nói thần chú làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, sau khi được đức Phật hứa khả, Bồ-tát Địa Tạng liền nói ba loại thần chú: Đại, trung, tiểu, kế đến nói về cách vẽ tượng, sau đó nói về ấn chú, ấn Phổ cúng dường, Tổng thuyết tổng ấn, Thỉnh tán ấn, cuối cùng nói cách thành tựu 17 pháp hộ ma. VI. Kinh Địa Tạng Bồ-tát đà-la-ni (佛說地藏菩薩陀羅尼經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 20, số 1159B, trang 655. Nội dung kinh này nói về Đà-la-ni, công đức và thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng. Đà-la-ni gồm 63 câu, người trì tụng Đà-la-ni này có thể diệt trừ tất cả khổ não. VII. Địa Tạng Bồ-tát thập trai nhật (地藏菩薩十齋日), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2850, trang 1300. Nội dung kinh này chỉ dạy 10 ngày ăn chay (giữ giới) trong tháng, là ngày: Mồng 1, Đồng tử xuống trần, giữ trai giới, và niệm Định Quang Như Lai thì thoát địa ngục đao thương, trừ tội 40 kiếp. Mồng 8, Thái tử xuống trần, giữ trai giới, và niệm Phật Dược Sư Lưu Ly Quang, thì thoát địa ngục phân uế, trừ tội được 30 kiếp. Ngày 14, Sát mệnh (xem xét tính mạng) xuống trần, giữ trai giới, và niệm nghìn đức Phật của Hiền kiếp, thì thoát địa ngục vạc sôi, trừ tội được một ngàn kiếp. Ngày 15, Ngũ đạo đại tướng quân xuống trần, giữ trai giới, và niệm Phật A-di-đà, thì không đọa địa ngục băng lạnh, trừ tội được 200 kiếp. Ngày 18, Diêm-la vương xuống trần, giữ trai giới, và niệm Bồ-tát Quan Thế Âm, thì không đọa địa ngục rừng kiếm, trừ tội được 90 kiếp. Ngày 23, … niệm Phật Lô-xá-na…; ngày 24, … niệm Bồ-tát Địa Tạng…; ngày 28, … niệm Phật A-di-đà…; ngày 29, … niệm Bồ-tát Dược Sư Thượng…; ngày 30, … niệm Phật Thích-ca Mâu-ni… Mười ngày trai này về sau có sự thay đổi, như nghìn đức Phật của Hiền kiếp trong ngày 14 được thay bằng Bồ-tát Phổ Hiền. Bồ-tát Địa Tạng trong ngày 18 được thay bằng Bồ-tát Quan Thế Âm… Những ngày trai này có thể xuất phát từ phẩm “Như Lai tán thán” của kinh Địa Tạng Bồ-tát bổn nguyện quyển thượng có nói, vào 10 ngày này kết tập các tội, quyết định nặng nhẹ, tất cả cử chỉ động niệm của chúng sanh ở cõi Ta-bà đều là nghiệp, đều là tội, huống chi còn giết hại, trộm cắp, nói dối, v.v… Nếu trong 10 ngày trai, đối trước tượng chư Phật, Bồ-tát, Hiền thánh đọc tụng kinh này… thì xung quanh không xảy ra tai nạn, những người trong nhà xa lìa đường ác. VIII. Kinh Địa Tạng bồ-tát (佛說地藏菩薩經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2909, trang 1455. Nội dung kinh kể về Bồ-tát Địa Tạng ở thế giới Lưu Ly phương Nam, dùng thiên nhãn thanh tịnh quán chúng sanh thọ khổ trong địa ngục, không chịu được cảnh ấy, Ngài mới đến địa ngục cùng vua Diêm-la phán xét, và cũng vì sợ vua Diêm-la đoán xử sai, hoặc chưa đúng tội mà xử chết... Đồng thời, nếu có thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng, biên chép kinh Địa Tạng, vẽ hình tượng, hay niệm danh hiệu ngài, thì khi lâm chung đều được Ngài tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc... IX. Kinh Địa Tạng bồ-tát phát tâm nhân duyên thập vương (佛說地藏菩薩發心因緣十王經), gọi tắt kinh Địa Tạng thập vương, hay Thập vương kinh, 1 quyển, do Sa-môn Tạng Xuyên ở chùa Từ Ân phủ Thành Đô soạn, thuộc Tục tạng (chữ Vạn 卍) tập 1, số 20, trang 404a6. Nội dung kinh này nói việc người chết chịu sự phán xét thiện ác ở điện Thập vương cõi âm phủ, về nhân duyên phát tâm cũng như bản nguyện của Bồ-tát Địa Tạng và chỉ rõ tiền thân vua Diêm-La chính là Bồ-tát Địa Tạng. Cuối cùng dùng bài kệ nói về Phật tính để kết thúc kinh. Lời kết Nói đến kinh Địa Tạng, hay hình ảnh về Ngài, thì không còn mập mờ, mơ hồ trong tâm tưởng của người Phật tử nữa, qua những buổi lễ cầu siêu, người thân quá vãng, ai ai cũng tụng đọc, trì niệm kinh Địa Tạng Bồ-tát bổn nguyện và chiêm ngưỡng tôn tượng Ngài với hình tướng Thanh văn (xuất gia), tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, ngồi trên tòa sen, hay cỡi con linh thú Đế thích. Nhưng đứng về phương diện lịch sử, một số bản kinh trên không thấy ghi chép xuất xứ vào thời điểm nào, ngay cả kinh Địa Tạng bồ-tát bổn nguyện là bản kinh trì tụng thông dụng, được nhiều bậc Trưởng lão, Kỳ túc phiên dịch, chú giải, như Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Trí Quang; Hòa thượng Tuyên Hoá (Tổng hội Phật giáo thế giới ở Vạn Phật Thánh Thành - Hoa Kỳ dịch ra Việt 1 bản, Cố thượng tọa Thích Chánh Lạc - Học viện Hải Đức, Nha Trang dịch 1 bản), cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền, đều không thấy đề cập gì đến giai đoạn lịch sử của kinh. Nhưng hạnh nguyện dấn thân nhập thế, thao thức trách nhiệm cứu khổ nhân sinh của Bồ-tát Địa Tạng là tinh thần Bồ-tát đạo, mà tinh thần Bồ-tát đạo bắt đầu từ thời điểm kinh Pháp hoa xuất hiện, tức khoảng 700 năm sau đức Phật nhập diệt (khoảng cuối thế kỷ thứ II Dương lịch); dựa vào chứng cứ là ngài Long Thọ (Nāgārjuna) tác giả bộ Đại trí độ luận, sống vào cuối thế kỷ thứ II, trong đó có trích dẫn kinh Pháp hoa. Kinh Pháp hoa là đại biểu cho đạo Bồ-tát, ca ngợi hạnh nguyện các vị Bồ-tát: Quan Thế Âm, Trì Địa, Thường Bất Khinh, v.v… và một trong 4 đặc chất của Bồ-tát là nguyện lực “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Vậy thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng: “Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề. Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật”, cũng có thể minh chứng kinh văn viết về Bồ-tát Địa Tạng xuất hiện cùng thời với kinh Pháp hoa hay sau đó? Chúng ta cố gắng tìm hiểu, xác định những bản kia có vào giai đoạn lịch sử nào, để biết thêm ngài Địa Tạng có thật hay núp bóng huyền thoại đều không quan trọng; quan trọng là chúng ta nên hiểu, các vị Bồ-tát dù ở vào thời gian nào cũng luôn luôn gánh vác trách nhiệm cứu độ chúng sanh, hạnh nguyện đó tiếp nối từ kiếp này qua kiếp khác, không bao giờ gián đoạn. Và chúng sanh tu thành Phật hay Phật thị hiện để hóa độ chúng sanh đều nhờ vào nhân cách Bồ-tát mà thực hiện. Do vậy, mà trong phẩm Tựa, kinh Đại phương quảng thập luân quyển 1, kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo quyển thượng, kinh Địa Tạng Bồ-tát bổn nguyện quyển 1, phẩm “Phân thân tập hội” đều nói ngài biến hóa vô lượng thân khác nhau mà thuyết pháp, “hoặc hiện rừng núi, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi… làm lợi ích cho mọi người, ai cũng được độ thoát”. Do đó, trong thế giới hiện nay, biết đâu nơi tối tăm đói khổ, chiến tranh triền miên, dịch bệnh hoành hành, môi trường ô nhiễm… Bồ-tát Địa Tạng, hình ảnh Thanh văn tướng lại ẩn tàng qua một con người khác, bằng mọi phương tiện, Ngài luôn mang lại an lạc cho nhân loại và cứu nguy khắp cõi Ta-bà này. Danh hiệu của Ngài còn nhắc nhở chúng ta một điều mà trong khoa nghi có bài tán: “Khể thủ bản nhiên tịnh tâm địa, vô tận Phật tạng đại từ tôn.” Nghĩa là “Địa Tạng chính là kho tàng tâm linh vô tận, chứa đựng tuệ giác từ bi và sự thanh tịnh sẵn có trong mỗi một chúng sanh mà tất cả đều nên quay về đảnh lễ”. Văn tán ấy là dựa vào định nghĩa trong kinh Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật kinh sớ 5, T39n1796, tr. 635c2: Địa Tạng Bồ-tát là “chủ trì kho báu vô biên công đức phát khởi từ bản tánh của tâm địa”. Vậy, trong mỗi chúng ta đều có đức Địa Tạng Bồ-tát dấn thân, nhập thế, cứu mình cứu người và một ngài Diêm chúa phán xét thiện ác nơi mình, phá vỡ gông cùm chốn địa ngục tâm.■2 likes -
NỘI DUNG BÀI VIẾT NÀY ĐÃ ĐƯỢC THỂ HIỆN LẠI Ở DƯỚI. Bài số 34 của trang này. Còn tiếp Việt sử 5000 văn hiến và Biển Đông. Cho đến hôm nay thì mọi việc đã quá rõ ràng. Dù tôi không viết những bài viết này, mọi người cũng nhìn thấy rõ những gì đã xảy và đang xảy ra. Hoa Kỳ đang chuẩn bị cho mục đích xác định ngôi vị bá chú thế giới ở phía Tây Thái Bình Dương, mà sự bành trường vô lý của Trung Quốc ở biển Đông chỉ là nguyên nhân trực tiếp. Những gì mà tôi xác định trong những bài viết thuộc topic này từ 2008 đã chứng nghiệm. Bới vậy bài viết này chỉ có giá trị khi nó phân tích một cách hợp lý và xác định được những gì sẽ xảy ra với khả năng khắc phục của con người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tôi gắn liền Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề biển Đông. Nếu tôi chỉ thể hiện ở đoạn trích dẫn trên thì sẽ rất khó hiểu vì mối liên hệ giữa Việt sử 5000 năm văn hiến và những diễn biến phức tạp ở vùng lãnh hải này. Nó có vẻ không liên quan đến nhau. Nhưng nó liên quan chặt chẽ đấy. Không có vấn đề này thì không có hiện tượng kia. Đấy là mối liên hệ logic và hoàn toàn khách quan. Nếu như việc gắn liền Việt sử 5000 năm văn hiến với lý thuyết thống nhất vũ trụ là việc có thể giải thích được. Vì không thể có một lý thuyết từ trên trời rơi xuống. Nó phải có lịch sử của nó. Khi diễn đạt và chứng minh một hệ thống lý thuyết thống nhất sẽ thiếu tính logic, nếu không chứng minh được lịch sử của nó. Lịch sử của nó không phải của Trung quốc. Điều này đã quá rõ ràng. Bởi vậy, tôi phải xác định và chứng minh nó của Việt Nam. Đó là mối liên hệ bắt buộc và hoàn toàn khách quan giữa Việt sử 5000 năm văn hiến và lý thuyết thống nhất vũ trụ. Sự phát triển của tri thức khoa học hàng đầu thế giới đã bế tắc. Điều này tôi tin rằng những nhà khoa học hàng đầu, tầm cỡ G.s Trịnh Xuân Thuận trở lên đều có thể nhận thấy điều này. Không có lý thuyết thống nhất thì dù cho thế giới này thống nhất trong một quyền lực toàn cầu dưới bất cứ hình thức nào và sự hội nhập hoàn toàn của nền kinh tế giữa các quốc gia, nó cũng sẽ rối loạn và ...sụp đổ. Điều này giống như trong một quốc gia không có hình thái ý thức xã hội vậy (Luật pháp, đạo đức và những chuẩn mực xã hội khác). Trạng chết Chúa cũng thăng hà. Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn. Việt sử "ở trần đóng khố" thì cái thế giới này cũng te tua, chính bởi mối liên hệ phức tạp của nó. Tôi có thể xác định rằng: Cả một câu chuyện dân gian Việt Nam - Truyện Trạng Quỳnh - chỉ để chuyển tải hai câu ca dao mang màu sắc tiên tri này. Nhưng chuyện này xa xôi quá. Phải đợi đến khi sự hội nhập toàn cầu hoàn tất và xác định nó thống nhất dưới mô hình nào đã. Vậy thì Việt sử 5000 năm văn hiến liên quan gì đến biển Đông? Việt sử và sự liên hệ tới một lý thuyết thống nhất là chuyện mà tôi đã giải thích ở trên. Nó cũng không đụng chạm đến ai. Nó "pha học" và "khách wan". Nói theo ngôn ngữ bình dân hiện đại là nó chẳng làm chết thằng Tây nào. Nhưng việc nó liên quan thế nào đến biển Đông thì là một câu chuyện dễ giải thích hơn nhiều. Nhưng nó lại là cái mà người ta cũng hay nói là "chuyện tế nhị và nhạy cảm". Chẳng phải ngẫu nhiên mà câu truyện cội nguồn Việt sử thời Hùng Vương - chỉ khoảng 300 năm "ở trần đóng khố", nó lại vênh váo lên ngôi vào đúng dịp Liên bang Công Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết sụp đổ và nó manh nha có hệ thống từ sau cuộc nhậu ở Tử Cấm thành. Nó nhân danh "pha học", một thứ pha học "rởm", nhưng nó được PR là "cộng đồng pha học thế giới công nhận". Tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước chính thống và quốc tế đều tung hê lên một bản đồng ca một chiều là "Thời Hùng Vương là một liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố". Chỉ một tý "dân chủ" - dù là hình thức và mang nhãn hiệu khoa học với thông tin hai chiều là có một chỗ cho những bài viết phản biện cũng không có trên các phương tiện thông tin trên cái thế giới khốn khổ này. Nói một cách hình ảnh có phần chua chất là: Không có trên "hầu hết những phương tiện thông tin trong nước" và cả "cộng đồng thông tin quốc tế", chí ít một hai bài phản biện sự phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt - để có một tý gọi là "thông tin hai chiều", một tý gọi là màu mè của tính gọi là "khách wan, pha học". Gần đây, rộ lên những bài viết trên một số blog và mạng gọi là "lề trái" cũng chẳng thấy ma nào nhắc đến Việt sử 5000 năm văn hiến, ngoại trừ những bài viết thể hiện le lói sự phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt với vài gương mặt quen thuộc (Chuyện này đã đưa lên topic nào đó trên diễn đàn). Qua đó, cũng thấy rằng vấn đề Việt sử 5000 năm văn hiến nó tế nhị và nhạy cảm thế nào với các mối liên hệ tương quan. Tất nhiên, khi tôi viết đến đây thì chắc cũng chưa thuyết phục lắm mối liên hệ giữa Việt sử 5000 năm văn hiến với các vấn đề phức tạp ở biển Đông như thế nào. Nhưng tôi hy vọng rằng những ai xem bài viết này, có thể cảm nhận được điều đó. . BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH2 likes
-
Kính thưa quí vị. Bài viết này tôi đã viết từ tháng 9. 2008. Một số thành viên chủ chốt của diễn đàn thời ấy đã xem bài viết này và nó chỉ lưu hành nội bộ. Đáng nhẽ ra tôi sẽ không công khai nội dung của nó lên đây. Nhưng trước tình hình diễn biến phức tạp ở biển Đông hiên nay và nội dung bài viết lúc đó cho thấy những phán đoán của tôi đã chính xác cho đến lúc này. Những diễn tiến tiếp theo sẽ ra sao trước sự phức tạp của sự tranh chấp biển Đông hiện nay đã cho tôi thấy cần phải phân tích sâu hơn và hoàn chỉnh bài viết với sự phân tích có tính khách quan và như một lời tiên tri,nhằm mục đích chia sẻ cảm nghĩ của mình với quí vị và anh chị em. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em. =================== VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG BẮT ĐẦU TỪ MỘT BÀI VIẾT Vào đầu tháng 9 . 2008 trên các phương tiện thông tin đại chúng đểu nói tới một kế hoạc tấn công Việt Nam của Trung Quốc và một số báo mang đăng bài phản đối của Việt Nam. Đây chính là tiền đề cho tôi viết bài này. Nội dung bài viết đó như sau: Ông Dũng nói: “Đây là thông tin không thích hợp, đi ngược lại xu thế hòa bình, hữu nghị và hợp tác vì phát triển trong khu vực và trên thế giới cũng như lợi ích của quan hệ tốt đẹp sẵn có giữa Việt Nam và Trung Quốc.” Ông nói thêm rằng Trung Quốc đã tiếp nhận yêu cầu của Việt Nam và tuyên bố bài viết này “không phản ánh quan điểm của Chính phủ Trung Quốc”. Bài viết về 'Phương án A' hiện vẫn nằm trên Sina.com. Ông Tống Hiểu Quân, một chuyên gia quân sự ở Bắc Kinh được trích lời mô tả kế hoạch xâm lược Việt Nam ‘Phương án A’ là một trò đùa. Ông nói: "Đây chỉ là trò chơi mang tính nghiệp dư và không có giá trị quân sự nào cả”. Tuy nhiên ông Tống cũng nói ở hai nước vẫn còn nhiều người chưa quên được các hiềm khích cũ. "Trung Quốc và Việt Nam có hệ thống chính trị tương đồng và cần đoàn kết để chống lại Hoa Kỳ, là kẻ thù chung của cả hai nước. Rõ ràng Mỹ đang chơi kế ly gián Việt Nam và Trung Quốc”. Đánh Việt Nam? Chuyên gia quân sự Tống Hiểu Quân nhận định: “Người biết suy nghĩ ở cả hai nước đều hiểu rõ rằng Trung Quốc và Việt Nam là đồng minh. Trung Quốc không có lý do gì để nghĩ tới việc xâm lược Việt Nam vì cần làm bạn với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam và Bắc Triều Tiên”. Ông nói chính phủ Bắc Kinh cần rút kinh nghiệm từ việc này và phải có trách nhiệm hướng dẫn dư luận đồng thời giải thích quan điểm chính thức một cách rõ ràng. “Chính quyền không nên để những kẻ gây rối có cơ hội đồn đoán gây hại.” Bài ‘Quân Đội Trung Quốc hãy dùng Phương án A để tấn công VN!’ xuất hiện trên mạng từ đầu tháng Tám trên một số trang mạng bàn về chủ đề quân sự tại cả Trung Hoa lục địa và Hong Kong. Tuy nhiên nó gây sự chú ý nhất từ khi được đăng tải trên trang sina.com có lượng truy cập lớn. Đây là diễn đàn trao đổi không chính thức, tuy về nguyên tắc nhà nước Trung Quốc kiểm duyệt nội dung. Mới đây có tin chừng 280 nghìn người được Bắc Kinh trả tiền để vào các diễn đàn nhằm đăng các ý kiến có lợi cho đảng Cộng sản. Ngoài bài viết kể trên, trong thời gian gần đây, cũng có nhiều bài khác mang nội dung khơi gợi chiến tranh với Việt Nam lưu hành trên các trang mạng và blog của Trung Quốc. Một số bài mang tựa đề khiêu khích như: ‘Chiến tranh với Việt Nam, sự lựa chọn chiến lược’ hay ‘Chúng ta cần gấp chiến tranh’. QUAN HỆ TRUNG QUỐC & HOA KỲ Mục đích cuối cùng của tôi là chứng minh lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm, nhân danh khoa học. Bởi vì, "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học quốc tế", đã tập hợp lại, phủ nhận lịch sử văn hóa Việt. Vũ khí của họ là «Pha học». Tôi đã bước vào cuộc chơi thì phải chấp nhận luật chơi: Tức là cũng nhân danh khoa học thực sự để chỉ ra những sai lầm rất căn bản trong lập luận của họ. Khoa học thì tất yếu phi chính trị. Bởi vậy, trước sau như một – quân tử thì không trái lý – tôi tiếp tục nhân danh khoa học để bảo vệ luận điểm của mình. Đó là lý do tôi không muốn dây dưa về mặt chính trị. Nhưng điều đó, không có nghĩa rằng tôi không có khả năng tư duy chính trị. Thiên Sứ tôi đã chứng minh rằng: «Thuyết Âm Dương Ngũ hành là lý thuyết thống nhất vũ trụ». Tất nhiên nó bao trùm luôn cả chính trị và khả năng tiên tri. Tôi cũng đã thẳng thắn nói rằng: Bản chất của cái trò hề «nhân danh khoa học» phủ nhận giá trị lịch sử văn hiến Việt ấy, chính là một trò chơi chính trị ở tầm mức quốc tế. Những thế lực chính trị quốc tế đã đi đêm với nhau từ 40 năm trước và nạn nhân của nó chính là lịch sử văn hóa Việt trải 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Đến bây giờ, nó nổi lên ở Biển Đông như phần ngọn của tảng băng chìm. Đây chính là bài bình luận chính trị đầu tiên và có thể là duy nhất của tôi về vấn đề Biển Đông với mối quan hệ Trung – Mỹ - trong đó có vấn để lịch sử văn hóa Việt 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Tất nhiên tôi sẽ phân tích như một nhà quan sát khách quan cho mọi diễn biến đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy ra. CUỘC ĐỤNG ĐỘ NGÀY 8 – 3 – 2008 Trước khi cuộc đụng độ xảy ra, người Trung Quốc đã có nhã ý chia sẻ gánh nặng an ninh với Hoa Kỳ ở phần phân nửa phía Tây Thái Bình Dương. Nhưng vị đô đốc Hải Quân Hoa Kỳ đã từ chối không mấy lịch sự. Và sau đó là cuộc đụng độ đã xảy ra. Vụ việc này khiến có thể một số chính phủ đang đòi quyền lợi ở Biển Đông – vốn là đồng minh cũ của Hoa Kỳ - hy vọng Hoa Kỳ đứng ra bảo vệ họ trước sự tranh chấp với một quốc gia hùng mạnh cũng đòi quyền lợi ở đây là Trung Quốc. Thực ra đây chỉ là một trò vụng về của một thủ đoạn chính trị không mấy sắc sảo, hoặc chí ít nó được lợi dụng để thực hiện những âm mưu chính trị. Nhưng sự kiện tiếp theo liên tiếp xảy ra trong thời gian cực ngắn: Đô đốc tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ - vừa mới đến thăm Việt Nam với những phát biểu hùng hồn về những triển vọng hợp tác – sắp sửa chuyển công tác khác hoặc về vườn; Hãng dầu BP rút khỏi Việt Nam vì lý do kỹ thuật ; Tổng thống Hoa Kỳ - Ngài Obama – đã chứng tỏ một nhã ý hòa giải với Trung Hoa, Chủ tịch Trung Quốc – Ngài Hồ Cẩm Đào có nhã ý mời Chủ Tịch nước Việt – Ngài Nguyễn Minh Triết sang thăm Bắc Kinh. Có thể nói trong các quan hệ chính trị quốc tế thì chưa lần nào lại có nhiều hiện tượng liên quan diễn biến nhanh như vậy. Các siêu cường muốn gì ở đây? Tại sao người Trung Quốc lại ngang xương đòi Hoa Kỳ chia đôi Thái Bình Dương. Một chuyện có tầm chiến lược toàn cầu như vậy mà để cho hai người lính với hàm tướng nói chuyên khơi khơi vậy sao ? Để hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề này, Thiên Sứ tôi nhắc lại những sự kiện từ 40 năm trước. RƯỢU MAO ĐÀI NHẬU VỚI LƯỠI CHIM SẺ. Đấy là tin đồn vỉa hè của các chính trị gia cấp phường ở Việt Nam trong các quán trà 5 xu – tụ điểm của dân chơi Hà Thành thời bấy giờ - mô tả về một tiệc nhậu hoành tráng trong Tử Cấm Thành Pekin do ngài Mao Trạch Đông chiêu đãi Tổng thống Hoa Kỳ - ngài Nixon vào năm 1971. Sau cuộc nhậu này, Đài Loan với quốc hiệu là Trung Hoa Dân quốc, thành viên sáng lập Liên Hiệp Quốc với tư cách là một quốc gia, bị tống cổ khỏi Liên Hiệp Quốc. Cuộc chiến Việt Nam chấm dứt. Hai mươi năm sau nữa, Liên bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết – gọi tắt là Liên Xô – cũng sụp đổ. Trước khi chấm dứt cuộc chiến ở Việt Nam, có một hiện tượng ngoạn mục là Tổng Thống Nixon bị hạ bệ vì vụ Water gate. Không lật đổ được tổng thống Nixon thì cuộc chiến Việt Nam sẽ còn dây dưa. Bởi vì, vị tổng thống này đã có quá nhiều cam kết - nhưng chỉ bằng miệng (Xin lưu ý điều này) - nhân danh người đứng đầu đất nước Hoa Kỳ với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo. Nhưng những cam kết này không có văn bản chính thức có tính pháp lý. Việc hạ bệ ông Nixon là thủ pháp chính trị đã quảng cáo cho tinh thần dân chủ và thượng tôn pháp luật tại Hoa Kỳ. Nhưng nguyên nhân sâu xa của nó chính là Hoa Kỳ cần chấm dứt cuộc chiến tốn kém, vô bổ này một cách nhanh chóng , để những chiến lược quốc tế được thực hiện, nhằm xóa sổ đối thủ hàng đầu của Hoa Kỳ - Liên bang Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Việt - mà ngài Nixon lại có quá nhiều ràng buộc bởi những lời hứa công khai cam kết theo đuổi chiến tranh đến cùng với tư cách Tổng thống Hoa Kỳ. Lịch sử sang trang ở Việt Nam. Nước Việt Nam thống nhất với người đồng minh của mình – Liên bang Công Hòa Xã Hội chủ nghĩa Xô Viết – cũng là đối tượng được nhắc nhở đến trong men rượu Mao Đài nhậu với lưỡi chim sẻ. SÁCH TRẮNG CỦA TOÀ ĐẠI SỨ LIÊN XÔ TẠI HANOI. Vài năm trước những sự kiện trên, ở Hanoi ầm ĩ về việc bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc. Đại sứ quán cả hai nước thi nhau bỏ công quĩ của nhà nước – tức của nhân dân - in sách tố cáo nhau không phải là những người cộng sản chân chính. . Hàng sọt sách, nói theo tiếng Bắc – tiếng miền Nam gọi là « cần xé » - được đặt ở Đại Sứ quán hai nước, bằng tiền của nhân dân. Và nó được phát không cho tất cả những người dân Việt có dịp đi ngang qua đây Người Trung Quốc có sáng kiến bọc sách của mình trong một cái bao bìa sách bằng ni lông cứng màu đỏ. Những dân chơi sành điệu ở Hanôi bấy giờ phát hiện ra rằng, chỉ cần bỏ cái ruột thì chính cái vỏ bao nilon đó dùng làm ví đựng tiền rất đẹp. Họ rủ nhau đến tòa Đại sứ Trung Quốc để lấy ví đựng tiền. Thế là sách của tòa Đại sứ Trung Quốc được tiêu thụ như tôm. Ít nhất từ cổng tòa đại sứ ra đến vỉa hè bên kia vườn hoa Canh Nông (Bây giờ gọi là vường hoa Lê Nin). Tất nhiên những lực lượng an ninh của Việt Nam cũng có những biện pháp ngăn chặn một cách kín đáo việc tiếp nhận những cuốn sách này. Nội dung các cuốn sách đó, bây giờ chắc chẳng ai buồn nhớ. Nhưng có một chi tiết đáng chú ý trong một cuốn sách của tòa đại sứ Liên Xô, liên quan đến bài viết này mà tôi được xem vào lúc bấy giờ. Tôi còn nhớ chi tiết đó, vì nó rất ấn tượng. Lâu quá rồi, hơn 40 năm đã trôi qua. Ngày ấy, tôi còn rất trẻ. Tôi có một thói quen dễ ghét là đến chơi nhà bạn bè, sau vài ba câu xã giao thì tôi lục trong tủ sách của nó, xem có cuốn nào hay thì ngồi xem cả buổi. Nếu có đông bạn bè cùng đến chơi thì việc làm của tôi, chúng nó không quan tâm. Thậm chí nó mời tôi ăn cơm là chuyện của nó, còn tôi vừa ăn vừa xem sách là chuyện của tôi. Nhưng nếu chỉ có mình tôi thì cử chỉ lịch sự nhất mà bạn tôi dành cho tôi là – giật lấy cuốn sách không cho tôi xem – «Mày thích tao cho mày mượn đem về. Còn bây giờ mày nói chuyện với tao đã chứ ». Tôi cũng chỉ cười hề hề và vui vẻ cất cuốn sách vào túi, vì bạn tôi đã hứa cho mượn. Nói thế chứ các bạn tôi quí tôi lắm, vì ngoài cái tính xấu ấy ra thì tôi chơi với bạn tôi khá chân tình. Đến bây giờ sau hơn 40 năm xa cách, chúng tôi vẫn dành tình cảm quí mến cho nhau. Cuốn sách của Tòa Đại sứ Liên Xô tôi đã xem trong hoàn cảnh này. Cuốn sách có đoạn viết – tôi không thể nhớ chính xác nguyên văn - nhưng có nội dung như sau : « Các đồng chí Trung Quốc đã đi ngược lại nguyện vọng thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam. Họ đã ủng hộ chủ trương quốc tế hóa Đông Dương với các thế lực tư bản quốc tế ». Việt Nam đã thống nhất và không phải là bị quốc tế hóa, đồng thời là một đồng minh của Liên Xô với hiệp ước quân sự bảo vệ và hỗ trợ nhau. Lịch sử đã diễn ra như vậy. Bởi vậy, sau cơn say máu của cuộc chiến, những quốc gia đồng minh - đối thủ của Liên Xô cũ - đã coi Việt Nam như một đối tượng cần xử trí. Việc xóa sổ 5000 năm văn hiến Việt là một đòn chí mạng, rất thâm độc đánh vào ý chí gan góc, bền bỉ và quật cường của dân tộc Việt. Đó cũng là lý do để Thiên Sứ tôi cảnh báo rằng: Các thế lực chính trị âm mưu toan tính cái gì thì đừng có lấy nền văn hiến Việt làm phương tiện thực hiện thủ đoạn chính trị. Một dân tộc được xác định chính bởi những giá trị văn hóa và lịch sử lập quốc của họ. Nhưng Liên bang Xô Viết đã sụp đổ. Dân tộc Việt đang phải gồng mình để tồn tại với hoàn cảnh lịch sử hiện nay. Đến hôm nay thì một loạt những sự kiện đã xảy ra. Các siêu cường đang muốn gì ở đây? BÁ CHỦ THẾ GIỚI. Liên Xô đã sụp đổ, chiến tranh lạnh chấm dứt. Trung Quốc – một đồng minh rất quan trọng trong việc đối đầu với Liên Xô, nhưng không có một hiệp định có hiệu lực pháp lý trong chiến lược toàn cầu, so với các đồng minh truyền thống khác của Hoa Kỳ - đã mạnh lên về kinh tế vì được hưởng những ưu đãi trong thương mại và nổi lên như một quốc gia siêu cường gây ảnh hướng với thế giới. Đó là lý do mà Trung Quốc muốn chia phần với Hoa Kỳ ở phía Tây Thái Bình Dương. Làm gì có một người lính – dù mang quân hàm cấp tướng – sương sương đòi chia đôi cả một Đại Dương như vậy. Quên nhanh! Nói theo lối hàng chợ của bà bán cá chợ Bắc Qua. Nhưng sự đòi hỏi này có nguyên nhân sâu xa từ những thỏa thuận không chính thức trong một chiến lược toàn cầu từ gần 50 năm trước - Khi Liên Xô còn là một siêu cường đối đầu với Hoa Kỳ. Cũng vào thời điểm của gần 50 năm trước - vào những năm đầu của thập niên 60, tình báo Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng: Những lãnh tụ đảng Cộng Sản Trung Quốc mang nặng tinh thần dân tộc chủ nghĩa, họ không có ý thức quốc tế vô sản. Do đó, mặc dù Hoa Kỳ ký vào hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân với Liên Xô, nhưng Trung Quốc vẫn thành công trong việc thử bom hạt nhân vào năm 1967. Thực ra, Trung Quốc có tham vọng hạt nhân từ lâu và muốn Liên Xô chia sẻ. Nhưng Liên Xô chẳng ngọng gì thân tặng một anh bạn ngay sát nách của mình thứ vũ khí mà đôi khi do trục trặc kỹ thuật, nó có thể rơi xuống điện Cẩm Linh. Họ lấy lý do tôn trọng hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân đã ký với Hoa Kỳ để từ chối. Còn với Hoa Kỳ thì việc Trung Quốc có vũ khí hạt nhân không có vấn đề gì. Bởi Trung Quốc bấy giờ chưa thể đem bom hạt nhận giộng xuống nước Mỹ. Tuy vẫn có thể đánh rơi vào những nước chung quanh như Liên Xô chẳng hạn. Tất nhiên hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân vẫn được tôn trọng, bởi những chính khách rất nghiêm nghị để tỏ ra chín chắn với những quyết định là cứ từ đúng trở lên. Nhưng chắc chắn nó thiếu một điều khoản là : « Không cho phép tình báo các quốc gia khác ăn cắp bí mật hạt nhân ». Và tất nhiên, những quốc gia cần có vũ khí hạt nhân để gọi là « cân bằng sinh thái» trong hoàn cảnh lịch sử nào đó, vẫn lấy được những bí mật này với những trò ma quái, hoặc làm ngơ của các cơ quan an ninh. Một vài tên gián điệp ngớ ngẩn bị bắt – tùy theo quốc gia dân chủ hay độc tài – mà bản án nặng hay nhẹ. Về mặt lý thuyết thì Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân vẫn được các chính khách tôn trọng với một vẻ mặt trang nghiêm và tỏ ra đứng đắn, khi khẳng định hiệu lực của nó đến ngày hôm nay. Nhưng trên thực tế, nó vẫn phổ biến đến mức các tổ chức khủng bố loi nhoi cũng có thể làm ra vài quả bom bẩn. Trung Quốc đã trở thành một siêu cường và tham vọng ảnh hưởng khu vực và thế giới xuất hiện. Nhưng cái siêu cường Đông phương mới nổi này đã quên mất một điều rất quan trong là : Vai trò lịch sử của họ trong chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ đã hết, ngay sau khi Liên Xô sụp đổ. Hoa Kỳ cần thời gian dọn dẹp lại thế giới với tư cách siêu cường số một hành tinh. Nếu những nhà lãnh đạo Trung Quốc khôn ngoan và khiêm tốn hơn thì lịch sử có thể diễn biến khác đi một tý. Thiên Sứ có thể đoán sai. Nhưng rất tiếc, họ đã bộc lộ tham vọng quá sớm. Bởi vậy, đối tượng tiếp theo cần xử lý của Hoa Kỳ chính là nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa vĩ đại. So với mấy nước đang có tham vọng hạt nhân như Bắc Triều Tiên, Iran thì chính Trung Quốc là nguy cơ hơn nhiều trong việc đe dọa vai trò bá chủ của Hoa Kỳ. Mấy nước kia – với sức mạnh của Hoa Kỳ - cái đá thì thừa, mà cái đấm có thể hơi thiếu. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể biết đến điều này. Nhưng qua cách ứng xử của họ với các quốc gia lân bang, Thiên Sứ tôi có cảm giác họ không quan tâm. Hoặc họ đã mắc những sai lầm có tính chiến lược mà họ cứ tưởng là đúng. SAI LẦM CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC. Phàm muốn làm bá chủ việc trước tiên phải có một tiềm lực kinh tế và quân sự đủ mạnh. Cái này Trung Quốc có rồi. Nhưng vấn đề tiếp theo là ảnh hưởng đến đâu thì còn tùy theo tiềm lực kinh tế đến đâu. Mấy bá chủ cơm, loi nhoi vài nước lân bang , nhược tiểu thì chỉ cần ảnh hưởng kinh tế là đủ. Nhưng muốn mần ăn lớn thì phải có bảng hiệu. Đất nước Trung Hoa vĩ đại chưa sắm được cái bảng hiệu đúng với tư cách bá chủ châu Á. Người Nhật muốn làm bá chủ ít nhất cũng đưa được học thuyết Đại Đông Á. Ngay đám giang hồ, muốn tập hợp đàn em cũng phải có khẩu hiệu « Sống chết có nhau », huống chi là những vấn đề quốc tế wan trọng như vậy. Không có bảng hiệu thì muốn làm bá chủ chỉ có cách đấm đá, hoặc mua chuộc những kẻ phản bội lại dân tộc của chính họ. Nói theo lý học Đông phương thì phải chính danh cái đã. Bởi vì đây là thế kỷ 21 với thông tin toàn cầu và các mối quan hệ quốc tế đều có ảnh hướng lẫn nhau. Đây không phải thế kỷ thứ XV để những đội quân viễn chinh như Trương Phụ muốn làm mưa làm gió gì thì làm. Cách đây vài tháng (Tức đầu năm 2008), các trang mạng của Trung Quốc làm ầm ĩ về một kế hoạch tấn công Việt Nam chớp nhoáng. Nếu họ muốn, cũng có thể được trong điều kiên tương quan sức mạnh hai nước. Bước đầu họ có thể chiếm được phần lớn lãnh thổ Việt Nam, cho là như vậy. Nhưng sau đó sẽ ra sao ? Chắc chắn dân tộc này sẽ không chịu thua một cách dễ dàng. Và cũng giả thiết rất thuận lợi cho Trung Quốc là họ chiếm được đất nước này. Nhưng hành động này sẽ đẩy tất các quốc gia Đông Nam Á và vùng chung quanh Trung Quốc thành đối thủ của họ. Cuộc chiến càng man rợ thì hậu quả sẽ càng khốc liệt với Trung Quốc sau này. Nhưng chỉ với thủ pháp chính trị cơm ấu trĩ đó, cũng đủ để các quốc gia liên quan đến biến Đông cảm thấy cần phải liên kết với Hoa Kỳ. Thiên Sứ tôi hy vọng Trung Quốc cần tỉnh táo hơn khi nhìn lại tình trạng của các nước láng giềng quanh họ. Họ không có một đồng minh nào đáng tin cậy. Hoa Kỳ chỉ là một đồng minh tạm thời trong việc đối đầu với Liên Bang Xô Viết. Trung Quốc cần nhớ rằng : Giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc chưa hề có một văn bản chính thức nào liên quan đến việc an ninh của hai nước, ngoại trừ những văn bản chung chung có tính quốc tế. Những hiệp ước an ninh giữa Đài Loan và Hoa Kỳ còn có giá hơn. Thiên Sứ tôi không phải là một chính trị gia, chỉ có tài nói dối vợ để cơm hai bữa, không phải ăn phở. Nên cũng chẳng dám cao giọng với những chính trị gia chuyên nghiệp. Nhưng vì là người Việt, ông cha tổ tiên ăn cơm đất Việt, sống trong lòng dân tộc Việt, « Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách », nên cũng ráng gõ vài chữ trên blog của mình để thành thật khuyên những nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng: Hãy tỏ ra tử tế với Việt Nam và cả các nước láng giếng khác vì quyền lợi lâu dài của chính họ. Có thể còn nhiều giải pháp khác cho quyền lợi liên quan giữa các bên ở Biển Đông và biên giới, nhưng vẫn chứng tỏ được sự tử tế của các quốc gia lân bang với nhau. Vấn đề là phải nghĩ ra điều đó. HOA KỲ TRÊN BIỂN ĐÔNG. Mục đích cuối cùng của Hoa Kỳ là bá chủ thế giới với tư cách là siêu cường số 1. Có thể nói rằng ngay từ khi lập quốc – do tính chất đặc thù của một quốc gia đa văn hóa – nên họ đã hình thành một hình thái ý thức xã hội để liên kết các dân tộc đến từ những nền văn hóa khác nhau trên đất Hoa Kỳ là: Tự do, bình đẳng và bác ái. Trên cơ sở này, pháp luật được coi như cơ sở ràng buộc khách quan với những sinh hoạt xã hội của các thói quen và tập tục từ những nền văn hóa khác nhau. Vị trí địa lý và những sự kiện lịch sử đã đưa Hoa Kỳ thành một siêu cường của thế giới. Nhưng chính hình thái ý thức xã hội, nhằm tập hợp các dân tộc có văn hóa khác nhau trên đất nước Hoa Kỳ lại tạo ra một khuôn mẫu có tính toàn cầu - nếu như các quốc gia muốn chung sống hòa bình với nhau trên hành tinh này. Hoa Kỳ đã có sẵn cái bảng hiệu khá hoàn chỉnh với sức mạnh kinh tế và quân sự, để tạo niềm tin trong việc tập hợp các dân tộc trên thế giới dưới sự lãnh đạo của họ. Vấn đề còn lại là những sách lược chính trị để đạt đến mục đích này. Cho đến lúc này, Hoa Kỳ đã thành công với địa vị siêu cường số một hành tinh và tạm thời chưa có đối thủ. Trong quá trình loại trừ Liên Xô ra khỏi vị trí siêu cường đối đầu với Hoa Kỳ - trở thành một quốc gia Nga, khiếm tốn về kinh tế với những cây thùy dương thơ mộng bên dòng sông Von ga chảy êm đềm có thể gây cảm hứng cho các hồn thơ – thì một đồng minh bất đắc dĩ của Hoa Kỳ đóng vai trò khá quan trong cho việc này. Đó chính là Trung Quốc. Nhưng, ngay từ đầu Hoa Kỳ đã cảnh giác với Trung Quốc, một quốc gia đã đối đầu với Hoa Kỳ ngay từ khi chưa trở thành nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa vĩ đại. Đã hai lần đất nước này có cuộc giao tranh không chính thức với Hoa Kỳ. Lần thứ nhất là loại trừ một đồng minh quan trọng của họ - chính phủ Trung Hoa Dân quốc - ra khỏi lục địa Trung Hoa; lần thứ hai chính là cuộc chiến tranh Triều Tiên. Bởi vậy, quan hệ đồng minh giữa hai quốc gia Trung Mỹ là mối quan hệ của « Dì ghẻ với con chồng ». Đó là lý do để hai quốc gia này chỉ ràng buộc với nhau trên các mối quan hệ có tính quôc tế chung chung, mọi thỏa thuận đều là không chính thức. Chưa hề có một hiệp ước an ninh nào được ký kết giữa hai quốc gia Trung - Mỹ. Liên Xô đã sụp đổ. Nếu như Trung Quốc tiếp tục ủng hộ Hoa Kỳ trong các đối sách quốc tế khi dọn dẹp lại thế giới và khiêm tốn, hoặc khôn khéo hơn trong khi thể hiện tham vọng - như lời khuyên của nhà lãnh đạo vĩ đại Đặng Tiểu Bình - thì lịch sử có thể đổi chiều. Nhưng tiếc thay, trong khi Hoa Kỳ xua quân đánh nhau ở Irak và Afganixtan với tham vọng bình định Trung Đông thì người Trung Quốc cứ tưởng đây là cơ hội vàng để lên ngôi bá chủ châu Á. Hoa Kỳ đã nhắc khéo Trung Quốc bằng một quả tên lửa gọi là bắn nhầm vào tòa Đại Sứ Bắc Kinh ở Baghda. Giá như Trung Quốc xín xái điều này, coi như chỗ quen biết lâu năm, có lỡ tay, xầy da một chút cũng không sao - Vấn đề là quan hệ tử tế, mần ăn lâu dài thì mọi việc sẽ khác đi. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Trung Quốc đã chứng tỏ vị thế của mình – một siêu cường có tham vọng lãnh đạo ở Châu Á – qua việc phản đối kịch liệt hành vi của chàng cao bồi Texas chơi xấu hảo hán Lương Sơn Bạc đang giương cao lá cờ «Thế Thiên hành đạo». Một trong những vị trí chiến lược nền tảng của tham vọng bá chủ này của Trung Quốc chính là Biển Đông. Đây là một ý tưởng chiến lược quân sự cực kỳ cổ điển có từ thế kỷ thứ V BC, mà người Trung Quốc tự hào là một trong nhưng giá trị văn hóa của họ - Binh pháp Tôn Tử - Lợi dụng lúc đối phương không để ý, củng cố lực lượng và phát triển thế lực. Nhưng họ đã quên rằng: Đây là thế kỷ 21. Và Hoa Kỳ đã kịp nhận ra điều này. Không phải ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ lập tức đưa ra kế hoạch rút quân khỏi Irak, tạm thời hòa hoãn với Iran và đang tìm cách rút khỏi Afganixtan. Hoa Kỳ rút quân vì lo củng cố nền kinh tế suy thoái chăng? Quên nhanh! Ấy là con mẹ hàng cá chợ Bắc Qua bảo thế - Nền kinh tế Hoa Kỳ hiện nay có thể nói không ngoa rằng: Chỉ cần đem tặng không những cái xe hơi đã cũ – nhưng còn xịn chán, so với mấy cái xe của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - cũng đủ lũng đoạn một nền kinh tế của một quốc gia đang phát triển. Họ tập trung lực lương để giải quyết một nguy cơ tiềm năng đe dọa ngôi bá chủ thế giới. Ai ở đây nhỉ ? Ai mà ghê thế nhỉ ? Việt Nam à? Hay cả khối Asean? Hay Bắc Triều Tiên? Hỏi điều này thì ngay vợ Chí Phèo cũng lắc đầu bẩu không phải. Một chính trị gia cấp phường, chuyện bình luận tình hình thế giới ở quán cóc bán trà trên vỉa hẻ Hà Nội, cũng nhận ra: Nguy cơ tiềm ẩn chống lại Hoa Kỳ với tham vọng bá chủ trong tương lai chính là Trung Quốc. Biển Đông lúc này là chiến trường chính trị của Trung Quốc và Hoa Kỳ. Hoặc là nó sẽ quyết định một cuộc chiến tranh, hoặc là nó sẽ diễn biến nhân đạo hơn cho sự nhượng bộ của một trong hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chẳng cần phải có một tư duy chính trị sâu sắc lắm, chỉ cần một người có khả năng nói dối vợ đi chơi với bồ nhí cũng đủ thấy rằng : Chuyện tốt đẹp chỉ xảy ra một chiều duy nhất. Đó là chiều khiêm tốn của Trung Hoa vốn có truyền thống lấy như thắng cương. Hoa Kỳ rút quân khỏi Trung Đông và Afganixtan không phải để đến Biển Đông đánh cá với cái tàu thăm dò Đại Dương bị vướng mấy khúc gỗ do Trung Quốc thả xuống cản đường, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái cho đám cá ở đây. LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN VÀ CUỘC BẦU CỬ Ở HOA KỲ Khi mà Ngài Obama chưa xuất hiện với vai trò ứng cử viên tổng thống, thì nhóm Lạc Việt độn toán do Thiên Sứ tôi chủ trì đã xác định rằng: Bà Clinton sẽ không thể trở thành Tổng thống ở Hoa Kỳ. Tổng thống Hoa kỳ trong nhiệm kỳ này sẽ là một người đàn ông cao ráo và đẹp người. Nguyên văn lúc đầu còn có thêm hai chữ « da màu », nhưng sau đó vài ngày Thiên Sứ tôi đã xóa hai từ này, vì lúc đó Thiên Sứ tôi chưa hiểu rõ lắm về Hoa Kỳ. Người đàn ông đó chính là Ngài Obama so với vị ứng cử viên đảng Công Hòa là ông Mc. Cain. Nhưng Thiên Sứ tôi đã khăng khăng Ngài Obama không thể làm tổng thống. Thiên Sứ tôi đã giải thích rằng : Đấy là ý muốn chủ quan của tôi. Nhưng tại sao Hoa Kỳ không chia cho Trung Quốc những chiến lợi phẩm thu được sau thắng lợi trước Liên Xô, chí ít cũng là cái ao cá ở Biển Đông này chứ? CHIA CHÁC CHIẾN LỢI PHẨM. Cuộc đối đầu giữa hai siêu cường chấm dứt với sự sụp đổ của Liên Bang Công hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Trung Quốc được hai mẩu bánh là Hồng Kông và Ma Cao, nằm ngay trên ….đất Trung Hoa và không có Đài Loan. Thế thôi. Kể ra thì chàng cao bồi Texas – mặc dù trông rất đàn ông, nhưng lại tỏ ra khá keo kiết trong việc chia chác trong cái nhìn đầy nghĩa khí và hào hiệp với tinh thần "trọng nghĩa khinh tài"của anh hùng Lương Sơn Bạc. Nhưng ngược lại, với anh chàng cao bồi này thì như thế cũng hơi bị nhiều. Trong cuộc tìm vàng, công lớn nhất chính là những kẻ hùn vốn và bỏ xương máu, chứ không phải người thổ dân dẫn đường đã được trả công sòng phẳng theo thỏa thuận. Luật chơi này đã có từ khi những người da trắng đổ xô đi tìm vàng ở châu Mỹ. Cuộc chiến sinh tử để quyết định sự thắng bại giữa hai siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ không có sự tham gia của nước Công Hòa nhân dân Trung Hoa. Ngay cả Nhật Bản và Cộng Hòa Liên bang Đức là hai đồng minh khá quan trọng cũng không được dự phần. Cuộc chiến sinh tử quyết định lịch sử chính là cuộc chiến tranh Irak 1991. Mà nếu quí vị để ý thì chỉ những Đồng minh cũ của Hoa Kỳ trong thế chiến thứ II tham gia và không có Đức, Ý, Nhật Bản là những đồng minh sau Thế Chiến. Mặc dù ít nhất Nhật Bản thể hiện lòng tốt muốn đưa quân tham gia. NỘI DUNG CUỘC HỌP BÍ MẬT VÀ TỐN KÉM NHẤT TRONG LỊCH SỬ VĂN MINH NHÂN LOẠI Vào những năm 80, tình báo Hoa Kỳ phát hiện ra rằng: Liên Xô đã kiệt quệ về kinh tế và không có khả năng tiếp tục theo đuổi cuộc chạy đua vũ trang. Một trò chơi điện tử cấp quốc tế đã diễn ra: Trò “Chiến tranh giữa các vì sao”. Chỉ có khác là, những người sáng tạo ra trò chơi này không phải các chuyên gia lập trình vi tính và các game thủ loi choi, đam mê đến mức quên cả ăn và bị các bà mẹ khả kính đét mấy roi vào đít. Chẳng ai dám đét đít và xúc phạm đến các game thủ này. Bởi vì họ là những nguyên thủ quốc gia hàng đầu thế giới: Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ - Ngài Bush Cha và Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên Bang Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết – Ngài Goorbachop. Người Mỹ đã chiếm ưu thế trong trò chơi này. Cuối cùng, hai game thủ hàng đầu trong trò chơi điện tử quốc tế đã thỏa thuận gặp nhau để chấm dứt cuộc chơi. Một cuộc họp bí mật và tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại đã diễn ra ở Địa Trung Hải với sự bảo vệ của các hạm đội hàng đầu thế giới. Tất cả các cơ quan tình báo quốc tế với những nhân viên tài ba đi vào lịch sử, đều khóc tiếng Urugoay trong việc tìm kiếm thông tin cuộc họp này. Ngoại trừ trông cậy vào ….thày bói. Tất nhiên phải là những thày bói đẳng cấp. Chứ không phải mấy thầy miệt vườn chuyên xem tình duyên, gia đạo, trúng mấy quẻ cứ làm như nắm hết bí ẩn của vũ trụ. Sau cuộc họp tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại - được tài trợ bằng tiến đóng thuế của người dân khu cu đen Hoa Kỳ và của những người dân đang làm chủ đất nước Liên Xô vĩ đại – là một cuộc chiến đã xảy ra tại Irak giữa Hoa Kỳ và các nước đồng minh chủ chốt với Irak do chính quyền của Tổng thống SD Hussen, có sự hỗ trợ của Liên Xô. Cuộc chiến này, bắt đầu bằng một câu rất bâng quơ của bà phu nhân Đại Sứ Hoa Kỳ khi say xỉn trong một tiệc chiêu đãi. Bà ta đã phát biểu trong men rượu vang xứ Bordeaux nổi tiếng của nước Pháp, rằng thì là: Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào một cuộc chiến tranh giữa Irak và Ả Rập Cooet. Câu nói này đã được các nhân viên tình báo thượng thặng ghi nhận và đến tai người hùng Sadam Hussen. Ông ta xua quân vào Ả Rập Xeut. Ông Hussen dù có nghe nhầm, hoặc hiểu sai câu nói của bà Đại sứ phu nhân thì cũng không thể làm khác đi được. Lịch sử được quyết định từ trước đó. Hoa Kỳ có lý do chính đáng để dẫn đầu quân đồng minh tấn công Irak và đó là cuộc chiến Irak lần thứ nhất, năm 1991. Chính phủ Nhật Bản và Cộng Hòa Liên bang Đức, lúc ấy có nhã ý đem quân tham gia cuộc chiến và câu chuyện đã không xảy ra. Đây là chỗ người lớn nói chuyện. Trung Quốc lúc ấy chỉ tường thuật một cách khách quan cuộc chiến này với vài cuộn băng video, bán chui khá chạy ở Việt Nam cho các chính khách ấp bình luận sôi nổi về vũ khí hiện đại thời bấy giờ. Ngay sau cuộc chiến, toàn bộ khối Vacsava do Liên Xô đứng đầu đã sụp đổ. Đây là kết quả của cuộc thỏa thuận trong cuộc họp bí mật và tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại - tất nhiên là theo quẻ Lạc Việt độn toán, do Thiên Sứ thực hiện và giải mật - tạm thời trong Mật thất này. Trò chơi điện từ “Chiến tranh giữa các vì sao” chấm dứt. Người lớn chơi chán rồi. Bây giờ đến bọn trẻ con đang say sưa bấm, bấm trong các tụ điểm internet. Còn việc chia chác chiến lợi phẩm cuộc chơi vẫn thuộc về người lớn, bởi những chính khách nghiêm túc, uy tín và luôn tỏ ra đứng đắn với phụ nữ. Người Trung Quốc đã muốn biển Đông thuộc phần của mình. Họ đã thể hiện ước mơ bằng cách vẽ ra một đường biên giới trên biển mà dân gian quen gọi là cái lưỡi bò. Nhưng chàng cao bồi quen chăn bò ngày xưa đã thuộc về lịch sử. Theo đà tiến hóa, chàng cao bồi Texas đã biết đến mùi vị của cá thu kho giềng và biết chế biến dầu thô để chay xe hơi thay vì cưỡi ngựa có thể làm thoái hóa cột sống. Bởi vậy, tạm thời anh ta phải rút khỏi Trung Đông để thăm dò luồng cá ở đây. Biển Đông nước Việt không phải là chiến lợi phẩm được chia phần theo thỏa thuận. Ngay cả cho rằng ý tưởng quốc tế hóa cách đây 40 năm trước được thực hiện, thì nó cũng không có nghĩa là của riêng Trung Quốc. Trong cái nhìn của chàng cao bồi Texas thì Trung Quốc chỉ là một quốc gia ủng hộ họ khi phải đối đầu với Liên Xô và sẽ không phải đối tượng cần xử lý tiếp theo, nếu không tỏ ra tham vọng gây ảnh hưởng đến những tài sản kiếm được. Vấn đề cũng không đơn giản chỉ là vài con cá với mấy thùng dầu, mà còn là xác định địa vị bá chủ thế giới với những lợi ích kèm theo. Còn tiếp1 like
-
Thưa các bạn, Là thành viên mới của diễn đàn, tôi mạnh dạn mở topic này với hy vọng có thể giúp các thành viên khác có được những thông tin để tham khảo từ lá số tử vi của mình trước khi đưa ra những quyết định về công danh, sự nghiệp. Những thành viên tham gia topic này xin vui lòng đưa ra các thông tin ngắn gọn, đầy đủ, chính xác và các câu hỏi cũng nên gắn gọn, rõ ràng. Với những kiến thức và kinh nghiệm có được, tôi sẽ cố gắng giải đáp cho các thành viên. Xin cảm ơn sự hưởng ứng tham gia của các thành viên. Xin chúc cho diễn đàn ngày càng phát trỉển mạnh mẽ. Huyencodieuly1 like
-
ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Khi trong nhà thấy có nhiều sự bất ổn liên miên, hoặc chưa hay đã dụng phong thủy để cải thiện mà chưa thấy chuyển, hãy khuyên gia chủ nhất tâm chí thành thiết lễ, tụng niệm Kinh Chú và danh hiệu Đức Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát để hồi hướng đến các vị Thần Linh quản trị tại địa phương và bản gia như Thành Hoàng Bổn Cảnh, Đông Trù tư mệnh đinh phúc táo phủ thần quân, bản đường tiên thánh tiên gia, bản viên thổ công thổ địa phúc đức chính thần , ngũ phương long mạch tài thần, môn gia hộ úy, nhân súc y thần. Hồi hướng cho Gia tiên , cho các Oan gia trái chủ của người trong nhà, cho Tiền hậu thổ chủ, y phụ thảo mộc các hương linh phảng phất trong đất ấy. Rồi sẽ thấy. Kinh Địa Tạng bổ nguyện công đức dạy "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất; ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích. Những gì là mười? Một là đất đai mầu mỡ; Hai là nhà cửa yên ổn mãi mãi; Ba là người đã mất được sanh thiên; Bốn là người hiện còn được tăng tuổi thọ; Năm là mọi mong cầu đều được toại ý; Sáu là không có tai họa về nước và lửa; Bảy là trừ sạch việc hư hao; Tám là dứt hẳn ác mộng; Chín là ra vào đều có thần theo hộ vệ; Mười là thường gặp nhân Thánh." Chiều theo ý anh thì ta nói : Ngài Địa Tạng là vị Bồ Tát hộ trì phong thủy đấy. Nhưng theo ý ta, có nghe nói vậy anh chớ tin là vậy, nghe vậy mà không chỉ có như vậy thôi, Phật pháp oai lực vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Công Đức và Oai lực của Ngài Bồ Tát Địa Tạng cũng không ngoài. Anh hãy đi đi, hãy thử tự tìm, tự học, tự ngẫm suy và hành động trải nghiệm rồi tự anh sẽ thấy còn nhiều điều lớn lao hơn nhiều, nhiều nữa. Chân thần yếu dụng tâm cảm ứng。Tâm thành tắc linh. ( Nhớ lại lời dạy của một Tôn Sư ) (Còn tiếp )1 like
-
cháu cám ơn bác nhiều lắm ạ, cháu sẽ ko đi vay bạn bè cháu làm lễ nữa ạ cháu cám ơn bác nhiều lắm1 like
-
1 like
-
Quán vắng!
fansipan liked a post in a topic by Thiên Sứ
Trí tuệ Việt Nam: Ngủ quên hay "chết lâm sàng"? 20-08-2012 | 14:22 (Nguoiduatin.vn) - Nhiều người nhận định, giáo dục là lĩnh vực cần phải thay đổi trước tiên: "Để giải quyết vấn đề này, chúng ta nên làm từ gốc và điều đầu tiên giải quyết vấn đề tiêu cực trong giáo dục. Có như vậy, Việt Nam mới thoát khỏi cảnh “ngụp lặn” ở nửa dưới của thế giới! Giật mình vì trí tuệ Việt Nam đang lao dốc Thua kém trí tuệ mà cứ dửng dưng thì chẳng khác “chết lâm sàng” GS Hoàng Tụy, nhà toán học nổi tiếng Việt Nam cho rằng: “Chúng ta đứng ở thứ hạng rất thấp trong bảng xếp hạng trí tuệ toàn cầu, báo động đỏ là đúng, không oan. Thực ra chẳng cần phải nghiên cứu kỹ, ai cũng thấy rõ điều này ít nhất từ 20 năm nay rồi. Mọi người làm khoa học kỹ thuật, làm giáo dục ở Việt Nam đều ý thức rõ sự lạc hậu, sự yếu kém của chúng ta so với thế giới. Trừ một số ít người, vì những lý do dễ hiểu cứ cố tình nhắm mắt trước thực trạng đó, còn ai có chút lương tâm với đất nước đều cảm thấy đau xót, tủi hổ. Những số liệu cụ thể càng khiến chúng ta lo lắng hơn. Vì thời nay một đất nước thua kém trí tuệ mà cứ dửng dưng, vô tư thì có nghĩa nó đang chết lâm sàng, như có người đã dùng từ rất xác đáng”. Tiến sỹ xã hội học Trịnh Hòa Bình nhận định: "Việt Nam có bệnh thành tích và ngủ quên trên chiến thắng. Đơn cử như các đợt đi thi quốc tế của Việt Nam. Hàn Quốc năm nay dẫn đầu về Toán học với 6 huy chương vàng, nhưng họ không làm rầm rộ như Việt Nam... Người Việt Nam cứ nói mình giỏi Toán, thông minh. Thử xem Thái Lan họ đâu có khen họ thông minh, giỏi Toán mà vẫn xếp hạng Toán học hơn Việt Nam (năm 2011). Một vài chiếc huy chương không đủ làm nên trí tuệ Việt. Lại thêm, việc dùng người của nước ta còn quá kém, khiến chảy máu chất xám. Khi đi làm thì nạn chạy chức chạy quyền, khiến thui chột và kìm hãm tư duy sáng tạo của người lao động. Đi học thì nạn thành tích, giáo viên chỉ lo dạy thêm nhồi nhét, chép bài còn không đủ thời gian thì sáng tạo sao được?" Nguyễn Vương Linh, huy chương Vàng tại cuộc thi Olympic Tin học quốc tế lần thứ 23 tại Thái Lan (tháng 7/2011) cho biết: “Mặc dù trong các cuộc thi về học vấn như Olympic, đoàn Việt Nam không hề thua kém các nước phát triển, nhưng tổng sắp bảng xếp hạng trí tuệ Việt Nam vẫn rất thấp. Bảng xếp hạng về trí tuệ các quốc gia được tổng hợp, xem xét và điều tra trên nhiều yếu tố chứ không chỉ riêng về mặt trí tuệ cá nhân. Nhưng con số khách quan do Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn cầu (World Intellectual Property Organization - WIPO thuộc LHQ) công bố thực là một lời nhắc nhở với mọi người về quản lý và đầu tư cho vốn con người”. Trí tuệ của một quốc gia không đơn thuần là phép cộng GS.TSKH Trần Xuân Hoài, Viện Vật lý ứng dụng cho rằng: “Khi người cha già yếu vẫn vắt sức làm cửu vạn, còn bà mẹ bệnh tật chạy bới từng thùng rác kiếm từng đồng lẻ, cắn răng để nuôi con ăn học, chỉ với một ước nguyện duy nhất là mong con có được trí tuệ để đổi đời, thì ông bà già tội nghiệp đó hiểu hơn ai hết sức mạnh, sự cần thiết của trí tuệ đối với một con người. Một quốc gia muốn đổi đời cũng cần có trí tuệ. Nhưng trí tuệ của một quốc gia không phải đơn thuần là phép cộng trí tuệ của từng con người, nó là do cả một hệ thống tạo lập nên. Chị Nguyễn Thị Nhẫn (ĐH Nông Nghiệp Hà Nội) nêu quan điểm: “Với nhiều người bảng xếp hạng chỉ là để tham khảo vì họ còn phải lo bữa cơm hàng ngày hơn. Nhưng với những người nghiên cứu và quản lý thì nó lại nói lên nhiều điều. Có thể làm phương pháp loại trừ để tìm ra yếu tố khiến chúng ta ở nửa dưới bảng xếp hạng. Nhìn vào các tiêu chí và điểm của các chỉ tiêu đánh giá đó thì tổ chức nhà nước và vốn con người của Việt Nam gần như bét bảng xếp hạng. Trong khi đó đầu ra sáng tạo lại khả quan hơn rất nhiều. Chính vì thế có thể nói trí tuệ người Việt Nam không thấp nhưng môi trường và sự đầu tư để con người phát triển trí tuệ còn thấp”. Anh Lưu Trọng Nhân (TP.HCM) cho rằng: "Quan trọng nhất là yếu tố con người, được biểu hiện bằng sức sáng tạo và tri thức khoa học đích thực. Một đất nước phát triển kinh tế bằng nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được chứng tỏ tầm nhìn quản lý còn quá hạn hẹp. Người Việt mình, nếu được các động cơ khuyến khích phù hợp, sẽ sáng tạo không kém gì các dân tộc khác. Nhưng để làm được điều này chúng ta phải vượt qua nhiều căn bệnh thâm căn cố đế. Điều này đòi hỏi nhà lãnh đạo phải hy sinh mục tiêu ngắn hạn để đạt mục tiêu dài hạn N.Giang- H.Mai ============= Hì! Các quí vị quả là phát biểu hùng hồn, phân tích chặt chẽ..vv...và ....vv...cho nguyên nhân của vấn đề. Tuy nhiên - chưa thấy ai đưa ra một biện pháo nào "khỉ tha" để vực dậy nền giáo dục Việt Nam. Nhưng tôi nói lại một lần nữa để xác định rằng: Nếu như chân lý Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương tử, tiếp tục bị phủ nhận thì sẽ không bao giờ có một biện pháp nào khả thi để vực dậy nền giáo dục Việt Nam. Có lẽ sự xác định của tôi rất khó hiểu với mọi người, cũng như vấn đề "Việt sử 5000 năm văn hiến và biển Đông" vậy.1 like -
Chứng khoán vẫn "đỏ ngầu" vì bầu Kiên 23-08-2012 | 10:00 (Nguoiduatin.vn) - Sau ba ngày ông Nguyễn Đức Kiên (tức bầu Kiên) bị bắt, những tác động của nó tới thị trường chứng khoán vẫn chưa dừng lại, dù đã được trấn an Chứng khoán Việt Nam rớt giá thê thảm từ vụ của bầu Kiên Sàn chứng khoán sắp "tạm biệt" hàng loạt cổ phiếu Chiều ngày 22/8, ông Nguyễn Thanh Toại - phó tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) cho biết: "Trong ngày 21/8, tại địa bàn TP.Hồ Chí Minh có hiện tượng người dân rút tiền nhiều hơn bình thường ở một số chi nhánh nhưng không phải là phổ biến. Phía ngân hàng cũng đáp ứng nhu cầu rút tiền của người dân một cách bình thường. Lãnh đạo ACB đã lường trước tình huống xấu nhất là ngân hàng gặp rủi ro thanh khoản. Ngân hàng Nhà nước cũng đã hỗ trợ thanh khoản cho ACB, chúng tôi cần bao nhiêu thì NHNN sẽ hỗ trợ bấy nhiêu". Chỉ trong hai ngày, gia đình bầu Kiên đã mất gần 300 tỷ trên sàn chứng khoán Thay "tướng" ACB "Trong ngày 22/8, lượng người rút tiền đã giảm. Tại Hà Nội và các địa phương khác không có báo cáo gì bất thường về hiện tượng rút tiền hàng loạt. Hiện ngân hàng vẫn hoạt động rất bình thường. Trả lời báo chí, ông Nguyễn Thanh Toại cho biết thêm, do ông Lý Xuân Hải, tổng giám đốc ACB đang hợp tác với cơ quan điều tra liên quan đến vụ ông Nguyễn Đức Kiên bị bắt nên ông Đỗ Minh Toàn, phó tổng giám đốc thường trực ACB đang được chỉ định điều hành ngân hàng này thay ông Hải. Được biết, ông Đỗ Minh Toàn sinh năm 1971 tại Phú Yên. Vị phó tổng giám đốc này tốt nghiệp thạc sỹ quản trị kinh doanh trường Đại học Columbia Southern (Mỹ), cử nhân Luật (Đại học Luật TP.HCM), cử nhân kinh tế (Đại học Kinh tế TP.HCM), cử nhân tài chính ngân hàng (Đại học Ngân hàng TP.HCM). Ông Đỗ Minh Toàn có hơn 14 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Theo tìm hiểu của PV Người đưa tin, hệ thống ngân hàng ACB trên toàn quốc vẫn hoạt động bình thường. Ngân hàng ACB vẫn tạo điều kiện tối đa cho các giao dịch tín dụng. Cũng theo ông Toại, ban đầu, ACB quy định hạn mức các khoản vay dưới 2 tỷ đồng, chi nhánh được tự quyết, còn trên 2 tỷ thì phải chuyển về hội sở. Đến chiều, nhận thấy có nhiều người đến rút tiền hơn buổi trưa nên ACB chỉ đạo giới hạn hạn mức là 500 triệu đồng. Tức là các khoản vay 500 triệu đồng vẫn giải ngân bình thường, còn trên 500 triệu thì phải trình hội sở ký duyệt. Mù mờ công ty của bầu Kiên Như tin đã đưa, theo thông chính thức của Cơ quan CSĐT Bộ Công an, bầu Kiên bị bắt vì tội "kinh doanh trái phép" liên quan các hoạt động kinh tế tại ba công ty riêng. Từ nguồn tin của cơ quan điều tra, PV Người đưa tin đã tra cứu và được biết, cả ba công ty của bầu Kiên đều không có website. Trong đó, Công ty CP đầu tư thương mại B&B có trụ sở tại số 63 Lương Sử C (Phường Văn Chương, Quận Đống Đa, Hà Nội). Công ty đăng ký kinh doanh từ ngày 8/12/2008, tham gia hoạt động tại lĩnh vực xây dựng dân dụng công nghiệp, xây dựng nhà ở, kho bãi đỗ xe. Tại công ty này, ông Nguyễn Đức Kiên đóng vai trò giám đốc kiêm người đại diện. Tại Công ty TNHH đầu tư tài chính Á Châu Hà Nội (trụ sở 57B Phan Chu Trinh, Phường Phan Chu Trinh, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), bầu Kiên cũng vừa là giám đốc vừa là người đại diện. Công ty đăng ký kinh doanh từ 21/3/2008, hoạt động tại các lĩnh vực: Kinh doanh khách sạn, nhà hàng ăn uống (không bao gồm kinh doanh quán bar, phòng hát Karaoke, vũ trường), xây dựng và kinh doanh sân golf, xây dựng giao thông, cầu đường, dân dụng và công nghiệp. Còn Công ty cổ phần đầu tư ACB Hà Nội cũng có trụ sở tại 57B Phan Chu Trinh, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, đăng ký kinh doanh từ 10/11/2006. Tuy nhiên, tại công ty này, giám đốc kiêm người đại diện lại không phải là ông Kiên mà là Trần Ngọc Thanh. Nhà băng đồng loạt phủ nhận vai trò "Kiên đầu bạc" Trước thông tin bầu Kiên liên quan mật thiết đến hệ thống tài chính - ngân hàng, lãnh đạo nhiều nhà băng đã chính thức lên tiếng phủ nhận. "Ông Kiên rút khỏi Hội đồng Quản trị Ngân hàng ACB từ 2010 và cũng dần thoái vốn từ đó. Đến nay, ông Kiên không còn liên quan gì tới ACB", phó tổng giám đốc ACB Nguyễn Thanh Toại lên tiếng. Tổng giám đốc Ngân hàng cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) Trương Văn Phước khẳng định, ông Kiên chỉ nắm trên dưới 1% cổ phần tại Eximbank và hoàn toàn không có ảnh hưởng hay giữ chức vụ gì tại nhà băng này. Ông Kiên cũng chỉ là cổ đông thường mua cổ phiếu. Đồng thời, ông Nguyễn Văn Nhân - tổng giám đốc Ngân hàng cổ phần Phương Nam (Southern Bank) cũng phủ nhận mối liên quan của ông Kiên tại SouthernBank. Theo ông Nhân, ông Nguyễn Đức Kiên không nắm cổ phần cũng như không giữ chức vụ gì tại đây. Tổng giám đốc Ngân hàng cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) Phan Huy Khang cũng khẳng định ông Kiên và cả ngân hàng ACB không có mối quan hệ nào về cổ phần với Sacombank. Đặc biệt, trước thông tin ông Kiên từng tuyên bố nắm giữ cổ phần lớn tại Ngân hàng Kiên Long, lãnh đạo nhà băng này cho biết, trong danh sách cổ đông, không có tên ông Nguyễn Đức Kiên và ông cũng không liên quan gì tới hoạt động của ngân hàng này. Gia đình bầu Kiên mất gần 300 tỷ Sau cơn chao đảo ngày 21/8, thị trường chứng khoán trong nước ngày hôm qua tiếp tục đà giảm mạnh. Các cổ phiếu ngân hàng ACB, EIB, STB tiếp tục bị bán ở mức sàn. Sức ảnh hưởng từ thông tin ông Nguyễn Đức Kiên - nguyên phó chủ tịch HĐQT, phó chủ tịch Hội đồng sáng lập Ngân hàng ACB bị bắt vẫn khiến nhiều nhà đầu tư lo lắng, dù trước đó Ngân hàng Nhà nước, Cơ quan CSĐT Bộ Công an và chính Ngân hàng ACB đã lên tiếng trấn an dư luận. Ngay khi mở cửa hôm qua (22/8), chỉ số Vn-Index đã tiếp tục "đỏ ngầu" khi các nhà đầu tư đẩy mạnh bán ra. Theo đánh giá của các chuyên gia, thông tin "bầu Kiên" bị bắt đã gây ảnh hưởng xấu không chỉ tới nhóm cổ phiếu ngân hàng mà có tác động tới toàn thị trường. Đến cuối phiên, tâm lý nhà đầu tư đã dần ổn định. Tính đến cuối phiên, chỉ số VN-Index giảm 6,61 điểm về mức 410,23 điểm (tương đương 1,59% so với thời điểm đóng cửa phiên hôm trước). Mặc dù vậy, số mã chứng khoán giảm giá, nhất là giảm sàn không có dư mua vẫn rất lớn. Tại thời điểm đóng cửa, toàn sàn có 190 mã giảm giá, 55 mã tăng giá, tổng giá trị khớp lệnh sàn HOSE đạt 1.052 tỷ đồng. Nhóm cổ phiếu ngành ngân hàng vẫn chịu tác động khá nặng nề từ thông tin ông Nguyễn Đức Kiên bị bắt, trong đó hai cổ phiếu được cho là có liên quan là STB, EIB được bán ra ồ ạt, nhưng không có cầu. Toàn phiên, EIB khớp được 48.580 cổ phiếu, STB khớp 127.870 cổ phiếu. Trên HNX, chỉ số HNX-Index khi kết thúc vẫn mất 3,44%, giảm về 64,65 điểm, với tổng giá trị khớp lệnh 535 tỷ đồng. Cổ phiếu ACB tiếp tục bị bán ra, với 893.500 cổ phiếu dư bán giá sàn (giảm 1.600 đồng tương đương 6,6% xuống còn 22.500 đồng/cổ phiếu), tổng khối lượng khớp lệnh chỉ đạt 688.900 cổ phiếu. Như vậy, chỉ trong hai ngày, cổ phiếu của ACB đã giảm tới 3.400 đồng/cổ phiếu. Hiện tại, bầu Kiên đang nắm giữ 35.167.245 cổ phiếu ACB và đứng ở vị trí thứ 17 trong danh sách các "đại gia" giàu nhất sàn chứng khoán Việt Nam. Kết thúc phiên giao dịch sáng 22/8, cổ phiếu ACB giảm sàn, giảm 1.600 đồng/cổ phiếu, tương ứng 6,6% xuống 22.500 đồng/cổ phiếu. Như vậy, khối tài sản khổng lồ của bầu Kiên đã "bốc hơi" thêm 56,3 tỷ đồng, giảm xuống còn hơn 791,3 tỷ đồng. Cùng đó, bà Đặng Ngọc Lan - vợ ông Kiên - hiện đang nắm giữ 4,11% cổ phần của ACB, tương đương 38.512.975 cổ phiếu. Sau phiên sáng 22/8, số tổn thất của bà Lan khi mã ACB giảm sàn là 61,6 tỷ đồng, hiện với số cổ phiếu còn nắm giữ chỉ tương đương 866,5 tỷ đồng. Như vậy, trong buổi sáng ngày thứ 2 ông Kiên bị bắt (22/8), gia đình ông Kiên đã mất thêm 117,9 tỷ đồng với mã cổ phiếu ACB. Bên cạnh đó, EIB giảm sàn. Tới sáng 22/8, cổ phiếu EIB (Eximbank) đang "bốc hơi" 900 đồng/cổ phiếu, tương ứng 4,5%. Như vậy, với việc nắm giữ khoảng 1% của Eximbank, trong 2 ngày, bầu Kiên đã mất khoảng 20 tỷ đồng. Vị chi, trong hai ngày qua, hai vợ chồng bầu Kiên đã mất khoảng 270,5 tỷ đồng. Trước đó, trong ngày 21/8, toàn sàn đã mất hơn 19.100 tỷ đồng. Đức Kê – CTV ================== Thành kính phân ưu với Thị Trường chứng khoán Việt Nam. Nếu như chỉ vì bầu Kiên mà nó đỏ ngầu. Cứ làm như bầu Kiên chính là người quyết định cho TTCK Việt Nam vậy! Vậy quy luật thị trường nằm ở đâu? Đây là báo nói chứ không phải tôi!1 like
-
Biển Đông căng thẳng, Mỹ kéo lá chắn tên lửa X-Band 3 sang Đông Nam Á Thứ bảy 25/08/2012 08:57 (GDVN) - Tôi tin rằng hệ thống này chủ yếu nhằm phát hiện tên lửa của Trung Quốc “Kế hoạch triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa tiên tiến trong khu vực Châu Á của Washington lấy Bình Nhưỡng làm mục tiêu, không phải Bắc Kinh”, Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết vào hôm thứ Năm 23/8. Lá chắn tên lửa X-Band Mỹ xây dựng tại Pearl Harbor, Hawaii (ảnh: AFP) Tuy nhiên, các chuyên gia quân sự của Mỹ và Trung Quốc vẫn nghi ngờ về tuyên bố nêu trên của Mỹ, họ cho rằng liệu hệ thống phòng thủ tên lửa X-Band đắt tiền, có công nghệ cao lần này vượt xa khả năng quân sự của Bình Nhưỡng, có nhắm vào Trung Quốc? Bộ Quốc phòng Trung Quốc kêu gọi Mỹ cần xử lý thận trọng trong những vấn đề phòng thủ tên lửa, duy trì sự ổn định của toàn cầu, thúc đẩy lòng tin giữa các quốc gia, “ tránh việc Mỹ đặt sự an toàn quốc gia mình lên trên những nước khác”. Tờ Nhật báo phố Wall đưa tin, Lầu Năm Góc có kế hoạch đặt lá chắn tên lửa X-Band 2 ở miền Nam Nhật Bản và X-Band 3 đặt ở khu vực Đông Nam Á nhằm tạo ra một vòng cung phòng thủ cho phép Mỹ và các nước đồng minh của mình phát hiện, cảnh báo sớm tên lửa đạn đạo phóng từ Bắc Triều Tiên hay Trung Quốc. Một số quan chức quốc phòng Mỹ cho biết, Philippines đang tranh chấp với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông vì vậy có thể xem đây là địa điểm tiềm năng để đặt X-Band 3. Hôm thứ Năm 23/8, Victoria Nuland, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết lá chắn tên lửa không nhằm vào Trung Quốc. Bà nói: “Chúng được thiết kế chống lại mối đe dọa tên lửa từ phía Triều Tiên. Hệ thống phòng thủ tên lửa này Washington đã nói với Bắc Kinh từ trước”. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Ashton B. Carter tiếp Sái Anh Đĩnh Được biết, trong tuần này Phó tổng tham mưa trưởng quân đội Trung Quốc ông Sái Anh Đĩnh đã bất ngờ có chuyến thăm tới Hoa Kỳ, liệu vấn đề hệ thống lá chắn tên lửa của Mỹ có được thảo luận trong chuyến công du của ông Đĩnh? Jonathan Pollack, chuyên gia an ninh khu vực Châu Á-Thái Bình Dương cho biết: “Với lý do đơn phương là ngăn chặn sự leo thang các cuộc canh tranh trong khu vực Đông Á nên Mỹ triển khai lá chắn tên lửa mới, tuy nhiên tôi tin rằng Hoa Kỳ vẫn giành sự ưu tiên hơn cho cuộc bầu cử Tổng thống sắp tới để bắt đầu những cuộc thảo luận với Trung Quốc về vấn đề phòng thử tên lửa”. Trong khi đó, Trung Quốc vẫn lo ngại vòng cung hệ thống lá chắn tên lửa của Mỹ có thể nhắm vào các tên lửa được phóng đi từ khu vực ven biển của nước mình. Phó tổng thư ký Hội đồng Nghiên cứu Chính sách an ninh Quốc gia Trung Quốc cho biết: “Hệ thống radar cảnh báo sớm tên lửa của Mỹ có thể phát hiện, xách định quỹ đạo, mô hình, đánh chặn tên lửa đạn đạo khác. Tôi tin rằng hệ thống này chủ yếu nhằm phát hiện tên lửa của Trung Quốc”. Bấm vào đây để viết bình luận - Bấm xem tất cả bình luận hay Vương Bích (Nguồn China Daily) ========================== Từ lâu, tôi đã xác định rằng: Cuộc chiến cuối cùng sẽ không xảy ra ở biển Đông của Việt Nam. Mà sẽ xảy ra ở Hoàng Hải . Bởi vì, ở đây Hoa Kỳ có lợi thể là một loạt các đảo quốc làm lá chắn cho các hạm đội của Hoa Kỳ, kéo dài từ Nhật Bản đến tận Philipfine (Không tính Đài Loan - sắp bị tống cổ khỏi sự bảo trợ của Hoa Kỳ). Bài viết này một minh chứng cho nhận xét của tôi.1 like
-
Hay lắm..Giọng ngâm tuyệt vời. Xin cảm ơn những lời tự sự và hồn thơ...TRĂNG SAY Gió lạnh đêm buồn mưa tí tách Thả hồn theo những áng thơ xưa Vần thơ năm cũ nhòa năm tháng Sưởi ấm lòng ai giữa đêm mưa mayngan1 like
-
Thành Tâm Niệm Danh Hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương Có Thế Siêu Độ Nghiệp Chướng Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Có một phần công sức thì sẽ được một phần kết quả tương ứng. Khi Địa Tạng Vương Bồ Tát biết quý vị thành tâm niệm danh hiệu Ngài, Ngài sẽ giúp siêu độ nghiệp chướng của quý vị. "Trực tâm là Đạo Tràng". Bất luận quý vị là người xuất gia hay là tại gia, trong bất cứ hoàn cảnh nào đều phải thành thật và ngay thẳng. Không được nói dối, không làm những việc mạo hiểm , cũng không đầu cơ hoặc đánh cá ngựa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào phải dùng tâm chân thật không dùng tâm cầu cạnh dua nịnh. Chúng ta phải có tâm chân thật trong mọi hòan cảnh, cái tâm phải biết dung hòa để hòa hợp với người khác. Để có tâm chân thật có nghĩa là để tu Đạo Bồ Đề, và đừng bao giờ làm trở ngại hay chướng ngại người khác. Nếu chúng ta làm hại hay chướng ngại người khác, chúng ta tạo nhân cho quả báo xấu. Khi quả báo của chúng ta đến, nếu chúng ta không sám hối mà lại cứ tiếp tục lừa dối người càng nhiều thêm, thi chúng ta lại sẽ tạo ra thêm nhiều nghiệp xấu nữa, khó mà tiêu trừ được. Lần này (năm 1982) khi tôi đến Châu Á, tôi có gặp một người phụ nữ là cô họ Vương ở Penang. Trong tiền kiếp cô thích ăn móng gấu và óc khỉ. Cô đập đầu khỉ nứt ra để uống óc khỉ. Cô cũng chặt móng gấu, chiên lên để ăn. Vì những nghiệp chướng trong quá khứ này, kiếp này cô sanh ra làm người phụ nữ. Tuy nhiên, thay vì sửa chữa lỗi lầm và bắt đầu đời mới, cô vẫn tiếp tục tạo nghiệp xấu. Cô đã giết hai nhân mạng bằng cách phá thai hai lần. Hai vong linh thai nhi bị phá thai này cùng kêu gọi những con ma là các chúng sinh mà cô đã làm hại trong tiền kiếp. Vì thế, cô bị ung thư. Trong thời gian thăm tôi viếng Penang, người phụ nữ trẻ này đã phát đại tâm sám hối và bệnh ung thư của cô đã thuyên giảm. Tiếc thay, hai tuần sau cô lại quay trở lại tập quán cũ, tái lập liên hệ với người bạn trai và lại còn làm những hành vi không phù hợp Phật Pháp. Sau đó một thời gian ngắn, bệnh ung thư của cô trở lại. Cô bị bệnh là do nghiệp chướng của cô gây ra. Nếu cô thật tâm sám hối về những lỗi lầm trong quá khứ và sửa đổi lại thì cô đã có một phần vạn cơ hội để khỏi bệnh. Nếu không, không có thuốc nào có thể chữa và ngay cả Phật và Bồ tát cũng chẳng cứu được cô. Có câu nói rằng, "Tội từ tâm khởi, đem tâm sám.". Nếu chúng ta không sám hối và sửa đối với tâm chân thành, thì nghiệp chướng của chúng ta sẽ quay trở lại. Trong trường hợp của cô họ Vương, vì cô không thành tâm sám hối và sửa đổi, nên bệnh ung thư của cô đã trở lại. Đáng lẽ cô phải viết thư cho tôi khi bệnh cô trở lại. Nếu cô ấy nói thật với tôi, có lẽ lúc đó còn có thể làm đuợc cái gì đó. Thay vì làm như vậy, cô đã nói dối với tôi và nói với tôi là cô sắp sang Mỹ. Trước khi tôi rời Mã Lai, tôi có bảo cô rằng sau khi khỏe mạnh hơn và nếu có khả năng mua vé máy bay sang Mỹ, thì cô có thể đến Hoa Kỳ và xuất gia đề tu hành. Nói cách khác, đáng lẽ cô phải sang Mỹ sau khi cô được chữa khỏi bệnh. Nhưng, người phụ nữ trẻ này chỉ sang Mỹ sau khi khí bệnh ung thư tái phát; cô đến để chết ở Vạn Phật Thánh Thành. Chỉ đến lúc khi bệnh của cô đã quá tầm tay của Y khoa thi cô mới lên máy bay một cách rất khó khăn và đến Mỹ vào ngày 24 tháng trước. Với loại xảo quyệt nầy, bệnh của cô càng khó chữa lành. Vì hành vi của cô là hoàn toàn giả dối, không thành thật và thủ đoạn, ngay cả Phật và Bồ Tát cũng không thể giúp được cô. Bây giờ cô đang ở trong bệnh viện, cơ hội sống chỉ còn 0.5 phần vạn. Tối nay chúng ta hãy thành tâm hồi hướng công đức cho cô, mong rằng cô sẽ bình phục. Mặc dù cô lừa dối tôi, lừa dối nơi tỉnh giác này tức cũng có nghĩa là lừa dối mọi người ở đây, nhưng tất cả chúng ta đều có lòng từ bi. Cô ta từ nơi rất xa đến đây, hy vọng cô có thể đuợc cứu sống khỏi tay tử thần. Nếu còn có thể cứu cô ta được, chúng ta nên cố gắng hết sức. Nếu không thể cứu cô ta, chúng ta cũng cố gắng hết sức. Nỗ lực của tập thể rất mạnh, chúng ta thành tâm giúp cô tiêu trừ những nghiệp chướng của cô. Hãy theo tiếng mõ, và vì cô ta mà niệm hồng danh Bồ Tát Địa Tạng Vương . Trong lúc chung ta niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương , những nghiệp chướng của cô đáng lẽ phải được tiêu trừ. Tuy nhiên, khi nghiệp quá khứ của cô được tiêu trừ thì nghiệp mới tích tụ lại cũng nhanh như vậy. Thật ra, chúng ta đang giúp cô ta tiêu trừ những nghiệp chướng vô tận mà lúc sanh ra cô đã có. Tôi nghĩ nếu chúng ta muốn cứu người này, chúng ta cần bắt đầu Thất Địa Tạng vào ngày mai. Hãy thanh tâm niệm danh hiệu Bồ Tát và hồi hướng công đức cho cô, hy vọng cô sẽ bình phục. Khi chúng ta giúp người khác với lòng thành khẩn thì chư Phật và Bồ Tát nhất định cùng sẽ giúp chúng ta ... Hôm nay chúng ta cùng phát tâm để hồi hướng công đức cho người phụ nữ trẻ này. Có phải thân nhân của cô ta yêu cầu chúng ta làm công việc này không? Không, họ không có yêu cầu. Tuy nhiên, dù là họ không biết, chúng ta vẫn hồi hướng công đức cho cô. Là Phật tử, chúng ta không cần được thỉnh cầu mới giúp đỡ người khác. Chúng ta cảm thấy thương xót người phụ nữ trẻ này và cố hết sức mình để giúp cô ta. Chúng ta nương tựa vào uy lực của Bồ Tát Quan Thế Âm và Bồ Tát Địa Tạng Vương. Nếu cô ta tỉnh lại thi thật là tuyệt hảo; nếu không, đó chỉ vì nghiệp chướng của cô quá nặng. Dẫu sao đi nữa, chúng ta hãy cố gắng hết sức mình, tất cả chúng ta nên nỗ lực làm việc! Hiện nay, càng lúc các nhiều tai họa trên thế giới, trong khi đó càng lúc càng ít người tu Đạo Bồ Đề. Thêm nữa, càng lúc càng có nhiều người phá giới. Tại sao thế giới ngày càng trở nên tệ hại? Chúng ta hãy nghiên cứa câu hỏi căn bản này. Nguyên nhân của vấn đề này là con người không giữ năm giới, đặc biệt là giới không tà dâm. Đàn ông và đàn bà đều sai lầm nghĩ rằng thỏa mãn ham muốn tình dục là một loại khoái lạc. Như có câu nói là “quay lưng với giác ngộ, phối hợp với bụi trần (bội giác hợp trần)” và "nhận kẻ giặc làm con”. Họ cho đau khổ là khoái lạc, đen là trắng, và cho sự thật là hão huyền. Họ quá mê lầm đến nỗi họ hành động cẩu thả và không chánh đáng, dường như họ đi ngược đầu thay vì đứng thẳng. Thêm vào đó, thay vì biết giữ gìn tinh lực quý giá, những người nam nữ mỗi ngày làm những việc mà cuối cùng chỉ là thương tổn chính họ. Đàn ông không biết cư xử như người đàn ông chính trực, phụ nữ không biết cư xử như người phụ nữ chính trực; những điều họ biết chỉ là làm cách nào để thỏa mãn ham muốn nhục dục của họ. Ngày nay, nam nữ sinh viên, nhất là những người trong những đại học nổi tiếng, họ sống chung và tham gia những hành vi chung chạ. Những hành động này đưa đến những sự mang thai ngoài ý muốn. Đề tránh những sự mang thai ngoài ý muốn này, các phương tiện ngừa thai được phát minh. Nhiều người nghĩ rằng dùng phương tiện ngừa thai tốt hơn là đối phó với những khó khăn do những sự có thai ngoài ý muốn. Thật ra, dùng biện pháp ngừa thai là không đúng vì nó ngược lại những chức năng sinh học trong việc giao hợp, và đó cũng là một loại nghiệp chướng. Thêm vào đó, những người phát minh ra những phương pháp ngừa thai cuối cùng đã gây hại cho nhiều thanh niên nam nữ , vì những người trẻ sẽ dễ dàng tham gia hành vi tà dâm hơn khi nghĩ rằng họ không phải lo lắng về chuyện có thể mang thai. Ngoài phương pháp ngừa thai, nam nữ còn dùng sự phá thai để đương đầu với những bào thai ngoài ý muốn do những hành vi đồi trụy của họ. Bằng cách phá thai, họ tạo ra một tội nặng nề hơn - tội sát sanh. Nói cho rõ, trong khi dùng biện pháp ngừa thai là một hành động sát sanh gián tiếp; thì phá thai là hành vi sát sanh trực tiếp. Tất cả những việc sát sanh này làm gia tăng lòng oán hận trên thế gian. Những năng lực xấu này cũ chồng chất, kết quả là có những bệnh lạ. Khi quý vị nghiên cứu sâu xa hơn, quý vị sẽ thấy rằng nếu đàn ông, đàn bà không luôn phá luật về hành vi luân lý thì đã chẳng xảy ra quá nhiều những bệnh tật lạ với những triệu chứng khác thường không giải thích được và không chữa được. Bây giờ, ngoài ung thư còn có những bệnh khác cũng khó chữa hoặc không thể chữa được. Những vấn đề này đều đầu tiên bắt nguồn từ phạm giới về tà dâm, rồi thì giới sát sinh. Những hành động không chính đáng này sẽ có tiếp theo sau là sự phạm giới ăn cắp, nói dối và dùng chất say. Năm giới luật này là những luật lệ quan trọng nhất trong đời sống chúng ta. Vì thế, mọi người phải giữ năm giới. Thuở xưa, khi vị Chuyển Luân Thánh Vương còn ở trên thế gian để giáo hóa chúng sanh, mọi người đều giữ năm giới, tuân theo và thực hành mười điều thiện (Thập Thiện) và ăn chay. Vào thời đó, không có thiên tai và mọi người được hưởng rất nhiều phước báo, nhiều người có thần thông và mở ngũ nhãn. Trái lại ngày nay, tiêu chuẩn đạo đức ngày càng suy đồi. Sự suy đổi trong phẩm cách con người cũng làm cho cả thế giới suy đồi. Quý vị có muốn biết tại sao có quá nhiều người bị ung thư? Tình trạng này là do nghiệp sát sanh tạo ra. Quý vị hãy suy nghĩ về việc này, qua sự phá thai, quý vị đã tận diệt những mạng sống ngay trước khi chúng có cơ hội chào đời. Trong hoàn cảnh này, sự oán giận của những bào thai không được sinh ra không thật là kinh khủng hay sao ? Nói tóm lại, thế giới và con người càng ngày càng tệ hại hơn. Tất cả chỉ vì nghiệp sát sinh. Người tại Vạn Phật Thánh Thành, vì biết nhân quả báo ứng tuần hoàn, chúng ta hãy làm giảm nghiệp xấu trên thế giới, như vây thế giới sẽ không có nhiều thiên tai, giúp nhân loại bớt đi một chút đau khổ, và bệnh tật của nhân loại cũng bớt đi một chút. Chúng ta hãy cùng nhau giúp cô họ Vương xem như đây là một cơ hội để nỗ lực và thành tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương . Niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương có thể giúp giảm nghiệp xấu của chúng sinh; và để cho những kẻ thù, thân nhân và những chủ nợ của họ từ vô lượng kiếp về trước được sinh về Tây Phương Cực Lạc. Lần tụng niệm này cũng sẽ giúp tất cả kẻ thù, thân nhân và chủ nợ của chúng ta được được sinh về Tây Phương Cực Lạc. Hãy nhân cơ hội này để niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát với sự nỗ lực và thành tâm. Khi chúng ta giúp những người đang bệnh hay đang đau khổ, chúng ta cũng đang độ cha mẹ, tổ tiên, kẻ thù, thân nhân, và chủ nợ của chúng ta trong những đời quá khứ, và giúp họ lìa khổ được vui, và liễu sanh thoát tử. Có một phần công sức thì sẽ được một phần kết quả tương ứng. Khí quý vị niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát với sự nỗ lực và thành tâm, Ngài sẽ cảm động. Biết rằng quý vị đang niệm danh hiệu Ngài với lòng thành khẩn như vậy, Bồ Tát Địa Tạng Vương sẽ siêu độ tất cả nghiệp chướng của quý vị, Ngài cũng giúp quý vị tu Đạo Bồ Đề, tiến bộ trên đường Đạo này mà không bị ma chướng, sớm tiêu trừ các nghiệp chướng, mau xa lìa đau khổ và vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc. Đó là lý do chính để chúng ta tham dự Thất Địa Tạng. Vì thế, mọi người hãy chân thật và thành tâm để siêu độ cha mẹ, tổ tiên, kẻ thù, thân quyến và chủ nợ của chúng ta trong những kiếp trước. Hãy để cho họ dùng cơ hội này để lia khổ đuoc vui. Đừng để thời gian trôi quá vô ích! Lời Sọan Giả: Dù cô họ Vương đã tạo nhiều nghiệp xấu trong quá khứ, cô đã phát đại tâm sám hối tại Penang. Trước đại chúng hơn hai ngàn người, cô thành thật nói về những hành vi không tốt đẹp của cô, và cầu xin sự gia hộ từ bi của chư Phật, chư Bồ Tát và của Hòa Thượng khi cô quyết tâm sám hối và thay đổi. Khi ấy bệnh ung thư của cô được thuyên giảm. Tuy nhiên, cô trở lại thói quen cũ sau khi phát tâm sám hối, và dùng phương tiện gian dối để đến Vạn Phật Thánh Thành. Vì cô làm thêm nhiều nghiệp chướng, nên khó mà tránh được nghiệp quả không lành. Vì thế, mặc dù bốn chúng đệ tử tại Vạn Phật Thánh Thành đã vì cô mà tổ chức hai Thất Địa Tạng và nhiều bác sĩ đã cố gắng để cứu cô, nhưng cô đã mất vài tuần sau đó. Chúng ta có thể nói rằng cô họ Vương đã hiện thân thuyết Pháp và hãy xem đây là sự cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta. ( trích : Những Vong Linh Thai Nhi Vô Tội )1 like
-
Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản NSGN: Lời người dịch: Phần trích dịch dưới đây nằm trong đoạn đầu của bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương của Yasunari Kawabata, đọc tại Hàn Lâm viện Thụy Điển vào tháng 12 năm 1968, với nhan đề “Japan, the Beautiful and Myself”.(1) Tanka (đoản ca: 短 歌), là thể loại thơ độc đáo của Nhật Bản, gồm 31 âm tiết. Kawabata muốn giới thiệu những bài thơ này để nêu bật tinh thần Nhật Bản về thơ ca trong bài diễn văn của mình. Người dịch những bài thơ này đã mạo muội phóng tác thành những câu thơ mang hơi thở Việt Nam. Rõ ràng đó là việc làm dễ mắc phải sai lầm, một phần, vì qua ngôn ngữ thơ ca, dịch phẩm phải giống như việc tái tạo một sản phẩm mà điều may mắn hy vọng đạt được là tinh thần cốt tủy của sản phẩm cũ không sai lệch là bao, phần khác, người dịch đã chuyển từ bản dịch Anh ngữ chứ không phải từ nguyên ngữ Nhật Bản. Đó là lý do người dịch viết những lời này, với niềm mong mỏi bạn đọc bỏ qua cho những sai lầm lệch lạc, và đón nhận bài viết này nhẹ nhàng như cơn gió nhẹ thoảng qua, không ảnh hưởng gì đến ai cả. Mỗi lần có ai đó nhờ tôi viết vài câu thư pháp, tôi thường viết hai bài thơ sau đây, bài thứ nhất của tu sĩ Dogen (1200-1253), mà ông ta gọi là Bản lai diện mục (Innate Spirit), và bài thứ hai, của tu sĩ Myoe (1173-1232). “In the spring, cherry blossoms, in the summer the cuckoo. In autumn the moon, and in winter the snow, clear, cold”.(2) Mùa xuân đỏ thắm anh đào Tiếng cu bàng bạc điệu chào, hạ ơi! Trăng thu trong sáng gọi mời Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề. “The winter moon comes from the clouds to keep me company. The wind is piercing, the snow is cold”(3). Trăng ngời ngọc sau làn mây hiển hiện Để cùng tôi qua mộng thực đôi bờ Ngọn gió buốt như hòa trong thớ thịt Trắng mênh mang màu tuyết lạnh hoang sơ. Trước bài thứ hai, Myoe ghi thêm những dòng sau, như một lời giải thích cho ý nghĩa chủ đạo của bài: “Vào đêm 12 tháng 12 năm 1224, mặt trăng đang ẩn khuất sau làn mây. Tôi bước vào điện Kakyu để ngồi thiền. Lúc nửa đêm, tôi ngừng thiền định, bước ra ngoài sảnh điện để đi xuống tầng dưới, tôi bắt gặp ánh trăng hiện ra sau màn mây và lan tỏa bàng bạc trên tuyết trắng. Và ánh trăng kia đối với tôi như một bạn đồng hành, đến nỗi, tiếng chó sói tru lên dưới thung lũng cũng chẳng hề làm tôi khiếp sợ. Rồi lúc sau, tôi rời hạ điện bước ra ngoài, ánh trăng lại khuất vào trong mây. Khi tiếng chuông ngân báo hiệu giờ cầu kinh lúc tàn đêm, tôi lại đi lên sảnh điện, ánh trăng đã dõi theo tôi trên con đường tôi bước. Tôi lại ngồi thiền, mặt trăng như đuổi theo mây để sau cùng chìm khuất trong ánh mặt trời đang hồng lên cho ngày mới, mặc dầu vậy, dường như với tôi, ánh trăng kia vẫn còn theo tôi trong tâm tưởng như một bạn đồng hành bí mật”. Sau bài thơ đã dẫn ở trên, là bài thơ sau, mà có thể đoạn cuối những lời dẫn của Myoe đã cho thấy rằng ẩn ngữ một vầng trăng đã khuất dần sau núi kia vẫn còn ngân vang trong lòng tác giả: “I shall go behind the mountain. Go there too, O moon. Night after night we shall keep each other company.”(4) Ta sẽ về bên kia núi, Trăng ơi! Em cũng về theo, mộng song hành Đêm lại rồi đêm ta sánh bước, Em là ta hay ta lại là em? Một lần khác, có thể là sau những thời khắc thiền định, hoặc khi bước đi lúc trời rạng sáng trên đường về chánh điện, Myoe đã viết thế này: “Vừa mở đôi mắt ra sau thời gian thiền định, tôi đã bắt gặp vầng trăng lúc trời tảng sáng, ánh trăng dìu dịu qua cửa sổ. Tôi cảm thấy ánh sáng dường như đang ngập tràn đến cả những góc phần tăm tối nhất của tâm hồn mình, và dường như ánh sáng đó đến từ ánh trăng muôn thuở”. Theo đó, Myoe đã viết bài thơ: “My heart shines, a pure expanse of light; And no doubt the moon will think the light its own.”(5) Sáng cả lòng ta dòng tinh khiết Hay chính là trăng nhập cõi hồn? Myoe thường được mệnh danh là thi sĩ của ánh trăng, bởi những dòng thơ trăng thanh thoát, bởi những dòng thơ như sự thảng thốt diệu kì, như tiếng kêu ngây thơ tự nhiên bật ra tâm hồn, như sự hứng khởi tuôn trào không mục đích: “Bright, bright, and bright, bright, bright, and bright, bright. Bright and bright, bright, and bright, bright moon.”(6) Trong ba bài thơ về ánh trăng, từ nửa khuya đến lúc trời rạ ng sáng, Myoe đã tuân thủ khuynh hướng thi pháp mà Saigyo đã sử dụng. Saigyo cũng là một thiền sư - thi sĩ, người đã tại thế vào khoảng 1118 đến 1190, ông đã nói: “Dù tôi có làm thơ chăng nữa, tôi vẫn không nghĩ về chúng như là những bài thơ tôi đã soạn”.(7) Trong ba mươi mốt âm tiết, ông đã tạo nên một bài thơ, trung thực, trực chỉ vào thực tại sinh động, dường như thể ông với trăng là một, chứ không đơn thuần là “đồng hành với trăng”. Nhìn trăng, ông trở nên trăng, và trăng cũng chính là ông khi nó là đối tượng được ngắm nhìn. Ông chìm vào thiên nhiên, và ông trở thành một cùng nhiên giới. Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng dù ngày lên hửng đỏ một góc trời. Như ta đã thấy trong lời dẫn của Myoe trước bài thơ nói trên, ở đó, ánh trăng mùa đông đã trở thành bạn đồng hành, nó chính là tâm của vị thiền sư, một ánh trăng đã từ sau làn mây tỏa sáng rồi chìm vào bầu trời tôn giáo và triết học, vĩnh viễn, ánh trăng và thiền sư đã lan tỏa vào nhau trong một hòa điệu tuyệt vời, mà bài thơ bất quá chỉ như một bật thốt tình cờ để diễn tả nên điều rất khó diễn bày. Đó cũng là lý do mà tôi nghĩ đến bài này đầu tiên khi có ai nhờ viết cho một bức thư pháp, với tôi, cảm xúc của bài thơ thật nhẹ nhàng phiêu hốt, một niềm đam mê thật bay bổng khinh an. Ánh trăng kia giữa bầu trời đông tuyết, nấp sau mây rồi hé lộ dần, rồi lại núp sau mây và lại hiển bày, tỏa sáng trên mỗi bước chân ta, khiến ta không còn sợ sói dữ. Phải chăng, hỡi trăng ơi, gió chìm vào trong em, gió lạnh mơn man em và tuyết trắng không làm em buốt giá? Tôi chọn bài thơ này, quả thực, tôi đã chọn một bài thơ ấm nồng, sâu lắng, bài thơ của niềm đam mê thanh thoát, trong tĩnh lặng khôn dò, trong thảng thốt suy tư ăm ắp cả một tinh thần Nhật Bản. Tiến sĩ Yashiro Yukio, một nhà nghiên cứu nổi tiếng về nhà danh họa Botticelli(8), một học giả uyên thâm về nghệ thuật từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây, đã đúc kết tinh thần nghệ thuật Nhật Bản đặc trưng qua chỉ một câu thơ: “Ta nghĩ đến bạn bè ta mỗi khi nhìn hoa, ngắm tuyết, ngó trăng thanh”. Mỗi khi nhìn vẻ đẹp tuyệt vời của tuyết, mỗi lần thưởng ngoạn ánh trăng tròn vời vợi, hay say đắm trước vẻ xinh tươi của những khóm anh đào, mỗi khi để lòng chìm trong các bức họa hay bị đánh thức bởi vẻ mỹ miều của bốn mùa thay sắc, ta thường nghĩ đến những người gần ta nhất, những kẻ thương yêu, và trong ta khao khát niềm ước mong chia sẻ cảm giác hoan lạc này. Chính kích thích của mỹ cảm đã đánh thức các cảm xúc trong ta, đánh thức niềm khát khao đồng hành, khát khao những mối chân tình huynh đệ, và khi đó, từ “bằng hữu” (comrade) trở thành đặc trưng đầy ý nghĩa của hai tiếng “con người” (human being). Tuyết, trăng, những khóm hoa, những từ ngữ diễn tả bốn mùa, trong truyền thống Nhật Bản, đó là những từ ngữ hòa quyện vào nhau để nêu bật lên vẻ đẹp muôn thuở của núi, sông, cây cỏ, để diễn đạt thiên nhiên sâu lắng và muôn hồng nghìn tía, cũng như diễn đạt cảm xúc của con người khi chiêm nghiệm. Cái tinh thần đó, cái tinh thần khát khao tình huynh đệ khi đi trong tuyết, khi đứng dưới trăng, khi ngắm nhìn hoa ngàn cỏ nội, cũng chính là tinh thần căn bản trong nghi thức uống trà. Trong cảnh quan tươi đẹp thích hợp nào đó, bằng hữu gặp nhau, ngồi bên tách trà, hòa điệu một niềm giao cảm trước đất trời vạn đại, và động thái thưởng trà kia được nâng lên thành nghi thức, mà như người ta nói, ấy là Trà đạo. Tiện đây, tôi muốn đề cập đến tiểu thuyết Ngàn Cánh Hạc (Thousand Cranes) của mình, một cuốn tiểu thuyết thường được bạn đọc hiểu sai là tôi muốn ngợi ca vẻ đẹp hình thức và tinh thần của nghi thức uống trà đó. Nhưng ngược lại, tôi muốn diễn đạt mối hoài nghi cũng như cảnh báo mọi người về tính thông tục hợm người mà các nghi thức uống trà hiện nay đang sa ngã. “In the spring, cherry blossoms, in the summer the cuckoo. In autumn the full moon, in winter the snow, clear, cold”. Mùa Xuân đỏ thắm anh đào Tiếng cu bàng bạc điệu chào, hạ ơi! Trăng thu trong sáng gọi mời Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề Một ai đó sẽ nghĩ rằng trong bài thơ đó của Dogen, đơn giản chỉ là sự miêu tả thiên nhiên một cách thông thường, xoàng xĩnh, một sự kể lể tầm thường bốn mùa thay nhau nối tiếp. Ai đó cũng có thể nghĩ rằng thơ gì như vậy mà cũng là thơ, chẳng có thơ có mộng gì với những từ bình thường ghép nhau như thế. Tuy nhiên, ta hãy nghe một bài tương tự viết lúc lâm chung của Thiền sư Ryokan (1758-1831): “What shall be my legacy? The blossoms of spring, The cuckoo in the hills, the leaves of autumn”.(9) Em thừa kế giùm tôi ngàn hoa thắm Tiếng chim kêu đồi mộng thuở ban sơ Tôi để lại cho trần gian muôn thuở Lá vàng thu, những khoảnh khắc không ngờ! Ở bài thơ này, cũng tương tự bài của Dogen, những ảnh hình và từ ngữ bình thường nhất đã hòa quyện trong nhau một cách trôi chảy, mà đặc biệt, nó đã truyền cho ta tinh thần cốt tủy của Nhật Bản. Bài thơ vừa trích dẫn trên là bài thơ cuối cùng trong cuộc đời của Thiền sư - Thi sĩ Ryokan. “A long, misty day in spring: I saw it to a close, playing ball with the children. The breeze is fresh, the moon is clear. Together let us dance the night away, in what is left of old age. It is not that I wish to have none of the world, It is that I am better at the pleasure enjoyed alone”.(10) Tôi đang đùa với trẻ con Trời sương trùm phủ lối mòn cỏ xuân Trăng thanh, gió nhẹ thật gần Một trời thân thiết, vang ngân giọng đàn Nhảy đi em, điệu muôn vàn Tiếng lòng kim cổ, nhạc vàng xưa sau Rồi nghe đất chuyển muôn màu Này hương vũ trụ bên cầu cô đơn Vòng tay ôm trọn xuyên sơn Một mình chiêm bái nguồn cơn vĩnh hằng! Yasunari Kawabata- Nguyễn Văn Nho biên dịch (1) Literature 1968-1980, Editor-in-Charge Tore Frängsmyr, Editor Sture Allén, World Scientific Publishing Co., Singapore, 1993. (2) Vào mùa xuân, những khóm anh đào, tiếng cu gù mùa hạ. Mùa thu, ánh trăng trong, và mùa đông, tuyết lạnh. (3) “Trăng mùa đông đến từ sau những đám mây để đồng hành cùng tôi/ Gió thổi buốt, và tuyết lạnh”. (4) “Tôi sẽ về sau núi, em cũng thế trăng ơi./ Rồi từng đêm, ta sẽ giữ bước song hành”. (5) “Tâm hồn tôi tỏa sáng, thứ ánh sáng lan rộng thuần khiết; Và không còn hồ nghi gì nữa, trăng cũng nghĩ rằng đó chính là ánh sáng của chính mình”. (6) “Sáng, sáng, ôi sáng, sáng, sáng, và sáng, sáng/ Sáng, cứ sáng hoài, sáng, sáng và sáng mãi, ánh trăng!”. (7) “Though I compose poetry, I do not think of it as composed poetry”. (8) Botticelli (1445 - 1507), họa sĩ nổi tiếng người Ý. (9) “Di sản của tôi ư? Những khóm hoa mùa Xuân/Chim gù trên đồi vắng, những chiếc lá thu bay”. (10) “Một ngày dài mùa xuân đầy sương: Tôi thấy bầu trời thật gần gũi khi đang chơi cầu cùng con trẻ. Cơn gió nhẹ trong lành, ánh trăng sáng tỏ. Ta hãy cùng nhau khiêu vũ suốt đêm thâu, trong điệu múa lời ca từ xa xưa đọng lại. Chẳng phải tôi ao ước cô độc giữa thế giới này, mà chính bởi khi chỉ còn lại một mình, tôi vui thú biết bao trong niềm cô đơn bất tuyệt”.1 like
-
Thông điệp của Bồ Tát Địa Tạng đến Phật tử qua kinh Địa Tạng Bổn Nguyện Published on Monday, 13 August 2012 16:21 Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là một bộ Kinh nói về công đức, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng thường được các Chùa chiền tự viện tại các quốc gia theo khuynh hướng Đại Thừa khai tụng trong suốt tháng bảy, đặc biệt là vào dịp lễ Vu Lan, tức là mùa báo hiếu cha mẹ, tổ tiên theo truyền thống của người con Phật. Bộ Kinh này đã được Hoà Thượng Trí Tịnh dịch từ Hán Tạng ra tiếng Việt. Lý Do Ra Đời Của Kinh Địa Tạng. Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan: "Ta nghe như vầy", có nghĩa là bộ Kinh này đã được Ngài A Nan ghi nhớ lại lời Phật giảng dạy và sau đó truyền tụng cho đại chúng. Ngay điểm mở đầu này có thể tạo nên một số nghi hoặc đối với đại chúng nhất là những người có một số hiểu biết về lịch sử Phật giáo, vì ai cũng biết rằng Ngài A Nan chỉ đắc quả A La Hán và đạt được thần thông sau khi Phật nhập diệt, chỉ vài giờ trước khi Ngài Ma Ha Ca Diếp triệu tập Đại Hội Tăng già kết tập Kinh điển lần thứ nhất. Như vậy, với tư cách là một phàm Tăng, người ta tự hỏi, làm sao ngài A Nan có thể đi cùng với Phật lên cung trời Đao Lợi để nghe Phật thuyết Pháp? Tuy nhiên, để giải tỏa mối nghi ngờ này, ta nên hiểu rằng, trước khi nhận làm thị giả chính thức cho Đức Phật, Tôn giả A Nan đã ra 8 điều kiện và được Phật chấp nhận, trong đó điều kiện thứ tám nêu rõ: "Nếu Đức Thế Tôn thuyết Pháp trong lúc A Nan vắng mặt, thì ông xin Đức Bổn Sư lặp lại bài Pháp ấy cho ông nghe.” Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện do Đức Phật Thích Ca diễn nói tại cung trời Đao Lợi, tức là từng trời thứ hai trong sáu từng trời của cõi Dục giới nơi mà Thánh Ma Gia, thân mẫu của Đức Phật đã thác sanh về đây sau khi hạ sanh Đức Phật được 7 ngày. Trước khi nhập Niết Bàn, vì cảm ơn đức sanh thành, Đức Phật đã diễn nói Kinh Địa Tạng tại Pháp hội ở cung trời này. Như vậy, Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sanh thành, Ngài đã tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa nên đã lập Pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu. Đây là một Pháp hội vô cùng quan trọng vì có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... cùng các chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cõi. Diễn nói Kinh Địa Tạng trong Pháp hội này vì thế mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha lành trong bốn cõi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế Tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả Pháp giới chúng sanh. Trong Pháp hội này Ngài vì thân mẫu mà thuyết Pháp nhưng động cơ chính vẫn là lòng từ bi lân mẫn đối với chúng sanh ở cõi Ta bà, đặc biệt là đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà Ngài biết chắc chắn là sẽ "bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ", vì thế trong Pháp hội này Ngài đã phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng nhiệm vụ "gắng độ chúng sanh trong cõi Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ ký.” (Quyển Thượng Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội). Như vậy nội dung chính yếu của Kinh Địa Tạng xoay quanh chữ Hiếu, nói lên những bổn phận, nghĩa vụ của người sống đối với người đã quá vãng, cũng như nêu bật những tội phúc quả báo ở kiếp sống bên kia để người Phật tử nương theo Kinh này cùng dựa vào oai lực độ trì, gia hộ của Bồ Tát Địa Tạng để tu tập, hầu độ thoát cho chính mình, cho người thân cũng như tất cả chúng sanh đã quá vãng khỏi rơi vào con đường ác. Hành Trạng Và Đại Nguyện của Bồ Tát Địa Tạng Bồ Tát Địa Tạng là nhân vật như thế nào mà lại được Đức Phật giao phó một trọng trách lớn lao và khó khăn như thế? Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát thường được nhắc nhở đến trong rất nhiều Kinh điển Đại thừa vì công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồn vì ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đã mang một ý nghĩa như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu, chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ý rằng Ngài là đại địa bao la, nơi ẩn chứa những kho tàng quý giá, tức thiện căn. Địa Tạng vì thế như là hình ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đã lên tiếng tán dương: "Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn." Bồ Tát Địa Tạng đã đạt đến quả vị này là do một phát tâm từ bi dõng mãnh muốn cứu vớt tất cả những khổ đau của chúng sanh, đặc biệt là những chúng sanh đang chịu khổ nạn trong địa ngục, được huân tập qua một quá trình tu tập trải qua hằng hà sa số kiếp, trong đó một vài kiếp nổi bật đã được Đức Phật nhắc lại trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện như sau: Vị Trưởng giả dưới thời Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai: Trong kiếp này Ngài là một vị Trưởng giả, đã lập nguyện độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ mới chứng thành Phật đạo. Hiếu nữ Bà La Môn dưới thời Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật: Trong kiếp này Ngài là một thiếu nữ Bà La Môn hết lòng sùng kính Tam Bảo nhưng bà mẹ lại là một người mê tín tà đạo, khinh chê Tam Bảo. Vì ác nghiệp này mà sau khi chết bà đã bị đọa vào địa ngục vô gián. Tuy không biết mẹ mình thác sanh về nơi nào nhưng Thánh nữ biết rằng với những tội lỗi mà bà đã gây ra, chắc chắn sẽ bị đọa vào con đường ác. Là một người con hiếu thảo, đau lòng vì thương nhớ mẹ, Thánh nữ đã tu tạo phước lành và cầu khẩn oai lực của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật giúp đỡ. Nhờ đó mà thân mẫu của bà chẳng bao lâu sau đã được vãng sanh lên cõi trời. Từ đây Thánh nữ lập nguyện: "Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát." Vị tiểu vương dưới thời Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai: Trong kiếp này Ngài là quốc vương của một nước nhỏ, thương yêu dân như con, luôn thực hành mười hạnh lành làm lợi ích cho nhân dân. Tuy nhiên dân chúng của vương quốc này tánh tình rất ngang ngược, hung ác. Do đó Ngài đã phát nguyện rằng: "Nếu chưa độ hết những chúng sanh tội khổ đều đặng an vui chứng quả Bồ đề, thời tôi nguyện chưa thành Phật." Hiếu nữ Quang Mục dưới thời Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai: Cũng như câu chuyện của Thánh nữ Bà La Môn, Quang Mục là một thiếu nữ rất hiếu thảo đối với mẹ. Sau khi mẹ mất, nàng băn khoăn không biết mẹ mình nay đã thác sanh về đâu. Nhờ lòng hiếu thảo và công đức cúng dường một vị La Hán đầy phước đức, Quang Mục biết được mẹ đang chịu khổ nạn tại địa ngục do hai tội ác giết hại sanh vật và chê bai mắng nhiếc người khác gây ra lúc còn tại thế. Do phước lực của nàng và oai lực của Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai, bà mẹ sau đó đã phải trở lại đầu thai vào làm con của người đầy tớ trong nhà Quang Mục chịu kiếp hạ tiện cho đến năm 13 tuổi mới được vãng sanh về cõi trời. Nàng Quang Mục vì thương mẹ mà đã phát nguyện rộng lớn như sau: "Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm ngàn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh, và ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới trở thành bậc Chánh Giác." Đức Thế Tôn đã vì mẹ mà tìm đến cung trời Đao Lợi. Tôn giả Xá Lợi Phất trước khi biết mình sắp nhập Niết Bàn đã quay về mái nhà xưa để độ thoát cho mẹ già. Trong những câu chuyện về tiền kiếp của Bồ Tát Địa Tạng được Đức Phật nhắc lại ở trên, hai hình ảnh nổi bật nhất vẫn là hai thiếu nữ hiếu thảo hết lòng cứu mẹ. Chữ Hiếu như thế, rất quan trọng trong đạo Phật. Biết thương yêu mẹ mới biết thương yêu chúng sanh. Hiểu được những nỗi khổ mà mẹ đang chịu đựng mới có thể hiểu được những nỗi khổ của chúng sanh. Từ đó mới phát đại nguyện cứu vớt chúng sanh. Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng khi đã chia xẻ kiếp người, cũng chia xớt với chúng ta những tình cảm như thế, cho nên chúng ta, những người con Phật, những hiếu tử, có ai nghĩ về mẹ mà không nước mắt rưng rưng? Nhưng làm thế nào để giúp mẹ, để cứu vớt những người thân trong lúc lâm chung hay đã qua đời? Kinh Địa Tạng cùng với công năng, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng sẽ giúp ta thực hiện được điều đó. Công Năng, Oai Lực của Bồ Tát Địa Tạng và Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện Công năng, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng bao trùm khắp ba cõi Trời, Người và cõi âm. Nói theo danh từ nhà Phật, oai lực đó là không thể nghĩ bàn. Riêng trong cõi thế gian này, Đức Thế Tôn qua Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đã cho chúng ta biết rằng bất cứ chúng sanh nào hoặc được nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát rồi chí tâm quy y hoặc cúng dường, chiêm ngưỡng, tô vẽ hình tượng, đảnh lễ Bồ Tát, chắc chắn sẽ đạt được những lợi ích lớn lao sau đây: 1. Lợi ích trong cuộc sống hiện tại: ---------------------------- Những nguyện lớn mau chóng thành tựu: Những ước muốn mong cầu trong đời hiện tại hoặc vị lai, chắc chắn sẽ được thành tựu. Tất cả những ai phát nguyện lớn lao, muốn cứu độ chúng sanh, muốn đạt đạo quả Bồ đề đều được oai lực của Bồ Tát trợ giúp để đạt thành ý nguyện. Được trí huệ lớn: Đối với những người kém trí nhớ, nghe rồi quên, Kinh điển đọc tụng bao nhiêu lần cũng không nhớ nỗi, Phật dạy nên dùng một chén nước trong để trước tượng Bồ Tát một ngày một đêm rồi chí tâm cung kính quay mặt về phương Nam thỉnh nước này để uống, sau đó phải kiêng cử rượu thịt, các thứ hành, hẹ, tỏi... giữ gìn 5 giới trong vòng 7 hoặc 21 ngày sẽ thấy hiệu nghiệm. Tai Nạn Tiêu Trừ: Tất cả những ai luôn bị tai vạ theo đuổi, thân luôn mang tật bệnh, gia đạo không an, người thân ly tán... Nếu chuyên tâm trì tụng danh hiệu của Bồ Tát từ một muôn biến trở lên, tất cả mọi hoạn nạn sẽ dần dần được tiêu trừ. Thoát khỏi hiểm nguy: Nếu gặp cảnh ngộ phải xông pha vào chốn hiểm nguy, trước khi ra đi chuyên tâm niệm danh hiệu của Bồ Tát trên một muôn biến, sẽ thoát khỏi khổ nạn hiểm nguy. Tiêu tội chướng, bệnh tật: Những người bị bệnh thập tử nhất sinh, nằm liệt giường, sống dở chết dở, đó là do nghiệp đạo luận tội chưa đi đến quyết định dứt khoát nên khó chết cũng như khó lành. Trong lúc này người thân nên dùng tài sản, vật qúy của người bệnh tô vẽ hình tượng, cúng dường Bồ Tát rồi báo cho người bệnh biết cũng như trì tụng Kinh này thì người đó vì nghiệp báo mà phải mang lấy bệnh nặng sẽ được hết bệnh, sống lâu, còn như nếu hết nghiệp lúc chết các nghiệp chướng sẽ được tiêu trừ, không còn bị đọa vào ba đường ác mà sẽ được vãng sanh về cõi Trời. Được quỉ thần hộ vệ: Những người cung kính đảnh lễ, dùng các hình thức văn mỹ nghệ ca ngợi Bồ Tát Địa Tạng, khuyến khích những người khác cùng làm theo như thế, trong đời này cũng như ở những kiếp sau, họ sẽ được trăm nghìn quỉ thần luôn theo hộ vệ ở bên mình, không còn bị mắc vào những tai họa nữa. 2. Lợi ích cho kiếp sau: ------------------------- Thoát khỏi nữ thân: Những người nữ nào không muốn mang thân gái ở kiếp sau, hàng ngày thành kính cúng dường, chiêm ngưỡng, đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát sẽ được như ý nguyện. Được thân xinh đẹp: Những người nữ hiện tại mang thân hình xấu xí, hay ốm đau bệnh tật trong những kiếp tới sẽ được thân hình xinh đẹp, sinh vào nơi quyền qúy cao sang nếu cung kính đảnh lễ, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng. Thoát kiếp nô lệ: Những người sinh ra trong kiếp tôi đòi, nô lệ nếu thành tâm trì tụng danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng liên tiếp trong 7 ngày, đủ một muôn biến, kiếp tới sẽ không còn sinh vào nơi hạ tiện nữa. 3. Lợi ích trước phút lâm chung. --------------------------- Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện có thể xem là một quyển Kinh gối đầu giường, một cuốn chỉ Nam cho người Phật Tử khi phải đối diện hoàn cảnh một người thân yêu của mình sắp mạng chung. Đây là giây phút hệ trọng nhất của một linh hồn sắp giã từ cõi thế, khi mà tất cả những ham muốn, dục vọng của cả một đời người tích tụ lại thành một năng lực quyết định cho hướng đến của kiếp tương lai. Giống như sĩ tử trong kỳ thi cuối cùng, đây chính là thời điểm thử thách, cân lường thiện nghiệp, ác nghiệp của một đời người trước khi chuyển kiếp. Trong lúc này, Đức Thế Tôn cho ta biết, "thần thức của người chết đang hôn mê, mờ mịt, những quỉ thần, ma đạo đôi lúc còn biến hình ra cha mẹ, những người thân thuộc để lôi kéo họ vào ác đạo, ngay cả đối với những người đã tạo nghiệp lành trong hiện thế." (Quyển Trung Phẩm Thứ Tám Các Vua Diêm La Khen Ngợi). Cho nên vai trò của người thân lúc này rất quan trọng. Họ phải ở bên cạnh người sắp lâm chung, liên tục trì tụng danh hiệu Phật, Bồ Tát làm sao cho lọt được vào lỗ tai người chết, như vậy các ma quỉ, ác thần mới lui tan đi chỗ khác. Đức Phật cũng cho biết những công việc cần làm của thân nhân trong suốt 49 ngày khi linh hồn người chết đang còn vất vưởng, luôn trông ngóng thân quyến cốt nhục tu tạo phước đức làm hành trang, vốn liếng cho họ được nhẹ bước siêu linh. Nỗ lực chính yếu của thân nhân trong thời gian này nên được thể hiện bằng những hành động tích cực như không được giết hại sinh vật, cúng tế thần linh, ma quỉ. Sau 49 ngày thì người chết sẽ tùy theo nghiệp mà nhận lấy quả báo. Có lẽ quyển "Tạng Thư Sống Chết" của Phật giáo Tây Tạng là quyển sách diễn tả một cách khá rõ ràng về những giai đoạn biến chuyển của thần thức hay thân trung ấm (bardo) con người từ giây phút lâm chung cho đến 49 ngày sau đó, phù hợp với giáo lý mà Đức Phật đã diễn nói trong Kinh Địa Tạng. Trong phần "Các cảnh báo trước nơi tái sanh" tác giả cho biết: "Những người nào phải sanh vào địa ngục sẽ nghe những tiếng như những lời than vãn và sẽ bị bắt buộc phải đi vào một cách không cưỡng lại được. Sẽ hiện ra những khoảng tối mù mịt, những ngôi nhà màu đen và trắng, những lỗ đen ngòm trong đất, những con đường tối om mà người ta sẽ phải đi theo. Bước vào đó là người ta vào địa ngục và sẽ phải đau khổ vì quá nóng, quá lạnh... và sẽ phải chịu đựng lâu dài mới ra khỏi được.” Bởi vậy, đối với người đang hấp hối, sự hiện diện bên cạnh của vị Bổn sư hay của một vị thiện trí thức mà đương thời người hấp hối kính trọng, tin tưởng, đọc tụng cho họ những bổn Kinh hay trì niệm hồng danh chư Phật, chư Bồ Tát, cụ thể là Bồ Tát Quán Thế Âm hay Bồ Tát Địa Tạng hoặc vị Bồ Tát nào mà lúc sinh thời người đó đã chọn thờ kính làm vị Đại sư của mình tương tự như vị Thánh bổn mạng của người Thiên chúa giáo sẽ giúp ích lớn lao cho người chết được mau chóng siêu thăng về cõi Phật. 4. Lợi ích đối với người quá vãng. ------------------------------ Siêu độ vong linh: Tại sao trong giấc ngủ ta nằm mơ thấy ma quỷ, hoặc hình ảnh những người lạ tạo cho ta những ấn tượng lo buồn, hoặc kinh sợ đến đổi phải thở than, khóc lóc hoặc kinh hoảng trong giấc mơ? Đức Phật giải thích cho ta biết đó là do linh hồn những thân quyến của ta đã chết trong kiếp này hay những kiếp trước bị đọa vào ác đạo nên tìm đến ta để mách bảo hy vọng rằng vì tình cốt nhục ta sẽ tìm cách giúp họ thoát ra khỏi con đường ác đạo. Để giúp cho những vong linh này được siêu độ, Phật dạy ta nên chí tâm đảnh lễ trước hình tượng của chư Phật hay Bồ Tát rồi tự mình đọc tụng Kinh này hoặc nhờ người khác đọc tiếp từ 3 đến 7 biến tức thời những linh hồn thân quyến kia sẽ được giải thoát không còn hiện về trong giấc mơ nữa. Gặp lại người thân đã quá vãng: Những người nào gặp cảnh cha mẹ mất sớm từ lúc vừa mới sanh ra cho đến trong vòng mười tuổi, hoặc có anh chị em, quyến thuộc đã qua đời, sau này khi họ lớn lên, nhớ tưởng đến những người đã quá vãng? không biết thác sanh về đâu, trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Phật dạy rằng hễ cứ mỗi lần nghe danh hiệu hoặc chiêm ngưỡng hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng thì cung kính đảnh lễ một lần trong suốt một ngày đến 7 ngày, những thân quyến quá vãng dù có bị đọa vào ác đạo cũng được siêu thăng lên cõi Trời. Nếu thực hiện công hạnh này đủ 21 ngày và trì tụng một muôn biến danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng sẽ được Ngài hiện về trong giấc mơ mách bảo cho biết nơi thác sanh hoặc Ngài sẽ dẫn đến tận nơi để gặp lại người thân đã qua đời. Quan Niệm Về Địa Ngục, Tội Phước Nghiệp Báo Trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện Có thể xem Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là quyển Kinh nói rõ nhất về thế giới bên kia tức cõi âm, về địa ngục và những trừng phạt, về tội phước và nghiệp báo. 1. Về địa ngục: ------------------- Một vấn nạn mà các triết gia Đông Tây thường nêu ra để tìm lời giải đáp là sau khi chết thần thức, tức linh hồn của con người sẽ đi về đâu? Phải chăng có cõi địa ngục hiện diện ở thế giới bên kia và nếu có qua đó những kẻ gây ác nghiệp sẽ bị trừng phạt như thế nào? Câu trả lời của Phật giáo rất rõ ràng. Trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, Đức Phật đã trả lời dứt khoát cho ta biết là có địa ngục và có sự trừng phạt. Ngài chỉ rõ rằng những người sinh ra trong đời này hoặc mang kiếp nghèo hèn, hoặc gia đình quyến thuộc kình chống nhau, hoặc thân hình xấu xí tàn tật, đui, điếc, câm ngọng, không lưỡi, miệng lở, điên cuồng mất trí, chết yểu,... hoặc sinh làm chim chóc, súc sanh... đều là những chúng sanh đã tạo ác nghiệp từ thân khẩu ý từ những kiếp trước, sau khi chịu qủa báo ở đời này, nếu không tu tập, họ sẽ còn tiếp tục bị "đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi.” Ta tin lời Phật dạy là có địa ngục, nhưng địa ngục đó như thế nào? Để trả lời những thắc mắc của Thánh mẫu Ma Gia cũng như Bồ Tát Phổ Hiền nêu ra trong Pháp hội, Bồ Tát Địa Tạng đã tóm lược ra cho ta biết tất cả những loại địa ngục, qua đó nạn nhân phải nhận chịu những hình thức trừng phạt hết sức kinh khủng bởi những khí cụ tra tấn ghê rợn trong từng các loại địa ngục, mà trong đó nặng nề nhất là địa ngục Vô Gián. Đọc đến đoạn Kinh này, những người mang tinh thần duy lý có thể sẽ nêu nghi vấn, đặt vấn đề: Con người chỉ cảm nhận được đau đớn khi có xác thân, nhưng sau khi chết rồi, xác thân tan rả thì những hình phạt, tra tấn đâu có tác dụng gì nữa, như vậy phải chăng địa ngục chỉ là sự hù dọa của Tôn giáo đối với những kẻ yếu bóng vía? Ta hãy xem Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện giải thích như thế nào về vấn đề này. Địa ngục là gì? Trả lời Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài Địa Tạng nêu rõ: "Đó là do chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế" và ngay cả các khí cụ tra tấn cũng được giải thích, "Khí cụ là do các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh mà cảm vời ra." (Quyển Thượng Phẩm Thứ Năm: Danh Hiệu của Địa Ngục). Thiết tưởng câu trả lời trên đây đã diễn tả đầy đủ ý nghĩa về địa ngục. Địa ngục hiện hữu là do nghiệp của mỗi chúng sanh mà CẢM ra. Có lẽ phải cần một cuốn sách hay nhiều cuốn sách mới giải thích một cách đầy đủ quan niệm "tùy nghiệp chiêu cảm", tuy nhiên để có thể hình dung một cách cụ thể thì nếu ta gây nghiệp ác, linh hồn ta sẽ không ngớt bị dày vò, chịu trừng phạt đau đớn sau khi chết giống như ta đang sống trải qua một cơn ác mộng. Trong ác mộng, tuy xác thân ta không bị hành hạ nhưng ta cũng cảm thấy đau đớn, lo lắng, kinh hải, ta cũng rên la than khóc, đổ mồ hôi hột trước những sự khủng khiếp mà ta đang chịu đựng trong giấc mơ; nhưng may mắn cho ta, thần thức ta có chỗ dựa là xác thân, khi sự kinh khủng lên đến cao độ ta tỉnh mộng và tìm được lối thoát. Nhưng sau khi chết, linh hồn ta sẽ không còn chỗ dựa, ta không còn lối thoát nào nữa, cơn ác mộng do đó sẽ kéo dài bất tận do những nghiệp ác gây nên, cho đến khi nào nghiệp ác tự tiêu diệt hoặc ta được những nguyện lực có khả năng cứu rổi ta siêu thoát qua cảnh giới khác. Hiểu Địa ngục như thế để thấy cảm thương cho cha mẹ, thân quyến của ta, của tất cả chúng sanh vì nghiệp ác phải trả trong địa ngục, để hướng từ bi tâm của ta nguyện cầu cho họ mau chóng siêu thoát hoặc tích cực hơn, trì tụng Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện để nhờ oai lực của Bồ Tát cứu vớt họ đến những cảnh giới an lạc. 2. Vấn đề tội phước nghiệp báo: -------------------------------- Khi ta tin có Địa ngục tức là ta tin có vấn đề tội phước nghiệp báo, trong Kinh Địa Tạng bổn nguyện Đức Thế Tôn đã cho ta biết như thế. Mọi việc xảy ra ở trên đời này không có gì là ngẫu nhiên. Ta như thế nào trong kiếp sống hiện tại là kết qủa của nghiệp báo gây ra từ những kiếp trước. Chính nghiệp tốt hay xấu của một người gây ra do thân, khẩu, ý trong đời này lại sẽ là lực quyết định tương lai cho những kiếp tới của cá nhân đó mà không là gì khác. Nghiệp là một nhà phán quan vô tư không sai chạy. Hay ta có thể hình dung ra nghiệp như là một nhà kế toán với phương tiện điện toán hiện đại nhất mà tất cả những hành động tốt xấu của ta xảy ra sẽ được nó lưu trữ vào bộ nhớ (memory) không sót một chi tiết nào. Đến giờ lâm tử, nó mới bắt đầu giở sổ sách ra để tính toán với ta. Từ đó cánh cửa mở ra để ta bước vào cõi Phật, cõi Trời, hoặc đầu thai trở lại làm người, làm súc sanh, hay đi về địa ngục... Vấn đề luân hồi, tái sinh ngày nay không còn là một vấn đề siêu hình, trừu tượng nữa mà đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học thực nghiệm. Hàng ngàn trường hợp đã được kiểm chứng một cách khoa học và được phổ biến qua báo chí, sách vở. Ba nhà tiên phong trong lãnh vực này là Bác sĩ Ian Stevenson nguyên Giáo sư Đại học Y Khoa Louisiana State University, Trưởng khoa Thần Kinh Trường Đại học Y Khoa University of Virginia; Tiến sĩ Bác sĩ Raymond Moody, Jr., thường trú tại bệnh viện Đại học Y Khoa University of Virginia và đặc biệt là Bác sĩ Nha Khoa Bruce Goldberg, hiện có phòng mạch tại Los Angeles, CA đã dùng "Thôi miên trị liệu Pháp" (Hypnotherapy) để cho bệnh nhân nhớ lại tiền kiếp. Trường Đại học Y Khoa Florida, Hoa Kỳ, đã mở hẳn phân khoa "Thôi miên trị liệu Pháp", dùng phương pháp thôi miên để khám phá những căn bệnh mà họ không thể xác định được căn nguyên. Với phương pháp này họ có khả năng làm cho người bệnh nhớ lại tiền kiếp của mình và nhờ đó mà khỏi bệnh. Bản báo cáo của Trường Đại học này có ghi lại là trường hợp của một bệnh nhân bị chứng đau bụng dưới kinh niên. Cơn đau kinh khủng đến độ bệnh nhân tưởng như cơ thể, đất trời phải nổ tung ra, không thể chịu đựng nỗi. Các phương tiện y khoa đều bó tay không tìm ra nguyên nhân căn bệnh, cuối cùng phải nhờ đến phương thức trị liệu mới. Nhờ phương thức này mà các bác sĩ chữa trị đã giúp bệnh nhân nhớ lại một trong những tiền kiếp của mình, khi anh là một cai tù tại một quốc gia Nam Mỹ dưới thời thống trị của đế quốc Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 15. Anh là một cai tù rất hung bạo. Những tù nhân nào qua tay anh đều bị anh mang giày bốt đá vào bụng dưới; những nạn nhân này không bị dập gan, dập ruột thì cũng bể bao tử, đau đớn vô cùng. Thấy được tiền kiếp này anh cảm thấy vô cùng hối hận và lành bệnh. Chính BS. Bruce Goldberg trong tác phẩm của ông, "Past lives, Future lives" cũng đã kể lại trường hợp ông đã chữa lành bệnh mù mắt cho một thiếu nữ khi cho bệnh nhân này thấy lại tiền kiếp của mình. (Sđd, trang 100 - 106). Đức Thế Tôn trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện cũng đã nêu ra một số thí dụ điển hình về tội phước nghiệp báo. Ngài cho biết những hạng Tăng ni giả danh, phá giới, phạm trai, những người chế diễu, phỉ báng những kẻ tu hành thì chắc chắn sẽ bị đọa và ngục Vô Gián, hoặc sanh làm cầm thú đói khát suốt đời; nếu những người chuyên sát sanh hại vật thì kiếp tới sẽ bị chết yểu; những người không bao giờ toại chí, trong cuộc sống làm việc gì cũng thất bại là vì kiếp trước họ hà tiện, bỏn xẻn, chẳng hề giúp người; những người hay chửi bới mắng nhiếc, nói lời thô ác thì bị quả báo không lưỡi, miệng lở, hoặc nội bộ gia đình quyến thuộc không an ổn, kình chống lẫn nhau; những người đời này mang thân xấu xí, tàn tật là do kiếp trước hay nóng giận... Là Phật tử, khi đã hiểu rõ về tội phước nghiệp báo như thế, nếu ta có gặp phải những bất hạnh trong kiếp sống này thì nên nỗ lực tu tập để hy vọng được sanh về những cảnh giới tốt đẹp hơn trong tương lai, còn nếu ta đang tận hưởng tất cả những hạnh phúc, sung sướng, giàu có, uy quyền trong kiếp sống hiện tại thì lại càng phải nỗ lực tu tập hơn nữa để tăng trưởng thiện nghiệp cho những kiếp sắp tới. Đức Thế Tôn vì lòng đại bi, thương yêu chúng sanh như con nên đã chỉ cho ta một con đường sáng tỏ như thế trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Lời dạy của Ngài không cao xa mà rất cụ thể, chỉ cho ta phương pháp thực hành rất dễ dàng để không còn bị rơi vào ác đạo: "Trong mỗi tháng những ngày: Mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi, mười ngày trên đây là ngày mà các nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ... Trong mười ngày trai trên đây, nếu có thể mỗi ngày tụng một biến Kinh này." (Quyển Trung Phẩm Thứ Sáu Như Lai Tán Thán). Tu Tập, Hành Trì Theo Hạnh Nguyện Của Bồ Tát Địa Tạng Đọc tụng Kinh Địa Tạng, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, ta phải thấy được hạnh nguyện cao cả của Ngài: "Nếu trong địa ngục còn một chúng sanh bị đau khổ, tôi thề sẽ không thành Phật", để từ đó những người phát tâm Bồ Tát nỗ lực tu tập, hành trì theo hạnh nguyện của Ngài, theo gót chân Ngài, nương theo oai lực của Ngài đi vào chốn địa ngục để cứu vớt những linh hồn bất hạnh hầu đền trả ơn Tam Bảo, ơn cha mẹ, tổ tiên. Nhưng địa ngục ở đâu? Có lẽ ta không cần phải tìm địa ngục ở đâu xa, bởi vì địa ngục không nhất thiết là ở thế giới bên kia, địa ngục tồn tại ngay trong kiếp sống này, trên thế giới này; bởi vì nơi nào có ngục tù, có giam cầm, tra tấn, có tiếng rên xiết, thở than là ở đó có địa ngục. Phật giáo là Tôn giáo của Từ Bi, ra đời vì những khổ đau của nhân loại, cho nên người Phật tử phải là những nhân tố tích cực có mặt hàng đầu tại những nơi khổ nạn mà chốn ngục tù là một thí dụ điển hình. Chưa hết, còn bao nhiêu oan hồn vất vưởng, nạn nhân của những cuộc chiến kinh hoàng, những phòng hơi ngạt, những trại tập trung, những trại cải tạo, trên Biển Đông, trong những ngục tù oan khuất... đang cần được siêu độ. Đọc tụng Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, được phần công đức nào ta nên hồi hướng đến những chúng sanh bất hạnh này và nguyện cầu cho linh hồn họ mau chóng siêu thoát. Địa ngục cũng có thể ở chung quanh ta, đó là môi trường không thoải mái mà ta phải sống hoặc làm việc. Đó là những người sống bên cạnh ta, là bạn đồng sở, hàng xóm láng giềng, thậm chí ngay cả cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái... những người ta không thích nhưng do nghiệp duyên ta phải gần gũi, chung đụng mà đôi khi họ đã tỏ ra rất độc ác, biến đời sống ta thành cõi địa ngục. Jean Paul Sartre, một triết gia nổi tiếng của Pháp đã từng nói "L”enfer c”est les autres" Địa ngục tức là những người chung quanh cũng trong ý nghĩa này. Địa ngục cũng ở ngay chính trong ta, đó là tham lam, giận dữ, hận thù, đố kỵ si mê, mù quáng... đã hàng ngày không ngớt xâu xé ta, biến ta thành những con người ngập chìm trong vô minh tăm tối, bị chế ngự bởi những thú tính thấp hèn. Tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Địa Tạng vì thế cũng có nghĩa là thể hiện những hành động tích cực biến cải chính con người ta, môi trường sống chung quanh ta từ địa ngục trở thành Tịnh Độ. Từ những công hạnh và nỗ lực tu tập này, người Phật tử thực hành Bồ tát đạo, khi giã từ cõi thế lập tức phát khởi tâm đại từ bi, dâng lời phát nguyện xin bước theo Bồ Tát Địa Tạng đi về chốn địa ngục để lập thêm công đức, cho đến khi nào Đức Phật Di Lặc chuẩn bị ra đời, ta lại xin được trở về cõi Trời Đâu suất, tiếp tục tu học để cùng với Phật Di Lặc trở lại cõi thế trong hội Long Hoa, xây dựng một cõi Tịnh độ mới cho nhân loại. Chắc chắn Ngài sẽ tiếp nhận ta. Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ Tỳ lư, tay cầm Tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật, đặc biệt là trong mùa Vu Lan báo hiếu. Chiếc Thiền trượng của Bồ Tát Địa Tạng đã, đang và sẽ gõ mãi vào cánh cửa địa ngục. Năng lực của tâm đại bi sẽ làm mở tung tất cả những cánh cửa hắc ám, làm tan rả những xiềng xích trói buộc, giải cứu tất cả những ai còn bị đọa đày trong cõi vô minh, tù ngục để từ đó những hạt giống Bồ đề, những hạt giống thương yêu sẽ nẩy mầm mạnh mẽ trong những linh hồn đau khổ của anh, của chị, của chúng ta, của tất cả những thân bằng quyến thuộc, đang sống hay đã qua đời... Đó chính là thông điệp của Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật. (Tâm Hà Lê Công Đa)1 like
-
Tôi đã nhiều lần nói rằng: Tốt xấu là do con người quy định, còn quẻ là một hệ biểu hiện những quy luật của vũ trụ tương tác với trái Đất. Nó phản ánh một thực tại hoàn toàn khách quan - nên có khả năng tiên tri.Thí dụ: Cậu cả con bà nhí đăng quang , vinh quy bái tổ. Làng xóm và gia đình tổ chức ăn mừng. Ngày lành tháng tốt, heo bò gà lần lượt lên mâm vào giờ Hoàng Đạo. Vậy đối với heo, bò gà là tốt hay xấu? Quẻ Khai Đại An khi hỏi có cơn bão lớn tiếp theo không? Thì Khai thuộc thủy thông thoáng, Đại An là lớn. Tiếp theo qủe độn cho thấy hậu quả của nó: Hưu Lưu Niên. Lạy Chúa! Quẻ này thì miễn bàn. Thuần thủy - Thủy trên Khai - Đất dưới Đại An. "tam Thủy tương nhất thổ". Kinh! Hãy chờ xem!1 like
-
Cám ơn chị Wild đã bổ sung hình ảnh cho bài viết. Kính mời Chị cùng mọi người theo dõi tiếp nhé. ============ Nhân qua bài dẫn của anh hoangnt ở trên có câu đầu của bài Kệ thỉnh chuông Hồng chung sơ khấu Bảo kệ cao âm Thượng triệt thiên đường Hạ thông địa phủ. Nam mô U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát! Chợt nhớ, trong dịp đi thăm cơ sở nuôi người bệnh tâm thần Trọng Đức – Đà Lạt, Đại đức Thích Trí Khánh có chỉ dạy : “ Những người bệnh này, nếu được nghe tiếng chuông chùa thường ngày, bệnh tình rồi sẽ thuyên giảm”. TT. Thích Minh Quang , mỗi lần có người đến chùa xin cho người thân nương nhờ cửa chùa để chữa tâm bệnh, thầy đều hỏi vui người bệnh : “ Ở lại chùa với thầy, thày sẽ nuôi ăn, chỉ cần hàng ngày ngồi thỉnh đại hồng chung cho thầy thôi, vậy có có chịu không” - chắc cũng trong ẩn ý đó. Địa Tạng Vương Bồ Tát có nguyện lớn là nơi nào có địa ngục thì nơi đó bồ tát phải có mặt. Danh hiệu của bồ tát là Địa Tạng Vương. Minh tức là cõi u minh, nghĩa là cõi âm, minh này không có nghĩa là sáng. Dương tức là cõi trần thế. Người cứu độ cho cả cõi âm và cõi dương được gọi là Minh Dương Cứu Khổ Địa Tạng Vương. Hình ảnh của bồ tát Địa Tạng Vương là một hình ảnh tiêu biểu, vì chính ở đây sự đối tượng cúng dường, đối tượng của tình thương và của sự thực tập là những người cô hồn. Vì vậy bồ tát Địa Tạng Vương đóng một vai trò quan trọng. Sự đau khổ đó có mặt trong cả cõi dương và cõi âm. Cõi dương nằm trong cõi âm và cõi âm nằm trong cõi dương. Đó là giáo lý tương tức. Cõi dương cũng như cõi âm đều nằm trong cõi dương hết. Trong chùa mỗi khi thỉnh chuông đại hồng chúng ta hay xướng bài kệ: Bài kệ thỉnh chuông Việt dịch : Sơ khấu : (khấu thỉnh đoạn nhứt) Hồng chung khởi thỉnh tiếng ban đầu, Bảo kệ ngâm cao thoát nhiệm mầu, Trên thấu Thiên đàng vui an lạc Dưới thông Địa ngục diệt đau sầu ! (0) ! *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0). Nhị khấu : (khấu thỉnh đoạn hai) Hồng chung khấu thỉnh lần thư hai, Bảo kệ ngâm cao giọng ngân dài, Trên thấu thiên đường trời niệm Phật Dưới thông địa ngục ngục tiêu tai. ! (0). *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0). Tam khấu : (khấu thỉnh đoạn ba) Hồng chung kính thỉnh lần thứ ba, Bảo kệ ngân cao chiếu bảo tòa, Trên thấu thiên đường thông sáu nẻo, Dưới sâu địa ngục độ bao la. ! (0) *Nam Mô U Minh Giáo Chủ, Cứu khổ bổn tôn, Cứu bạt minh đồ, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (0). Cũng chưa có dịp để hỏi thêm thầy Trí Khánh về diệu lực của tiếng chuông chùa nói chung và tiếng chuông trong truyền thống Kim Cang Thừa nói riêng có “hiệu ứng” tác động đến tinh thần của chúng sinh như thế nào. Nhưng có lẽ, phần lớn trong chúng ta đều đã có dịp cảm nhận : Mỗi khi bước chân vô cửa chùa nghe tiếng chuông ngân đều thấy lòng mình thư thái ,dịu lại. Nên phải chăng !? Tiếng chuông chùa đã là phương tiện truyền tải, mang năng lựợng từ bi từ những đại hạnh nguyện cứu độ chúng sinh các cõi của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đến với nhân gian này. Sống trong xã hội đầy ô nhiễm hiện nay, áp lực sinh sống tạo nhiều chần động lên tâm lý con người nhẹ thì stress nặng thì trầm cảm, tâm thần. Nên có lẽ phải “tranh thủ phương tiện” : Khi tinh thần thấy bất ổn không yên. Đến cửa Thiền nghe chuông chùa mươi phút. Thầm niệm Phật, nhìn khói hương nghi ngút. Nỗi ưu phiền theo khói vút thăng thiên.1 like
-
Tại Việt Nam, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển song hành với sự phát triển của Phật Giáo. Tuy nhiên phần lớn người dân Việt thường chuyên tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện với mục đích cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, con cái, họ hàng thân thuộc… tức chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… chứ không hề biết rằng Địa Tạng Bồ Tát không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại. (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), Phẩm 6 Thế tôn tuyên dương ghi rằng : " Phổ quảng, trong thì gian vị lai, mỗi tháng các ngày mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hâm ba, hâm bốn, hâm tám, hâm chín hay ba mươi, là những ngày kê cứu tội ác để phán định nặng nhẹ. Mà người Diêm phù thì cử động (51) hay suy tư toàn là nghiệp, toàn là tội, huống chi lại còn mặc ý sát sinh trộm cướp tà dâm vọng ngữ, nghiệp dữ cả trăm cả ngàn. Trong những ngày thập trai trên đây, nếu kẻ nào biết đối trước tượng Phật đà, tượng Bồ tát hay tượng Hiền thánh mà tụng một biến kinh này, thì khu vức người ấy cư trú, đông tây nam bắc chu vi một trăm do tuần, không có mọi sự tai nạn, và nhà ở của người ấy thì bất cứ lớn nhỏ, từ hiện tại đến vị lai, trong cả trăm cả ngàn năm thoát khỏi đường dữ một cách lâu dài. Mỗi ngày thập trai biết tụng kinh này một biến, việc ấy, ngay trong đời này, đã làm cho cả nhà không có tai họa, bịnh tật, ăn mặc sung túc " Lại thêm " Phổ quảng, trong thì gian vị lai, những kẻ chiêm bao hay ngủ say, thấy các quỉ thần với bao nhiêu biến dạng buồn có, khóc có, rầu có, than có, sợ có, hãi có. Ấy toàn là cha mẹ con cái, anh em chị em, hay vợ chồng bà con, trong quá khứ một đời mười đời hay trăm đời ngàn đời, hiện ở trong đường dữ mà chưa được thoát khỏi, không biết hy vọng vào đâu làm phước cứu vớt, nên họ báo mộng cho những kẻ xương thịt trong quá khứ, trông mong làm phước để cứu họ thoát khỏi đường dữ. Phổ quảng, các người hãy vận dụng thần lực làm cho những kẻ xương thịt ấy biết đối trước tượng Phật đà hay tượng Bồ tát, chí tâm tự tụng kinh này hay cung thỉnh người khác tụng cho, số lượng phải ba biến hay bảy biến. Như vậy, những kẻ bà con còn ở trong đường dữ kia, hễ tiếng tụng kinh đủ biến chấm dứt, thì họ cũng được siêu thoát, mộng mị cũng không bao giờ còn thấy họ nữa." Lại thêm " Đại loại như vậy, Phổ quảng, các người nên biết Địa tạng đại sĩ, xuất từ thần lực vĩ đại, có những sự ích lợi cho người đạt đến số lượng trăm ngàn vạn ức, không thể nói hết. Đối với Địa tạng đại sĩ, người Diêm phù có sự liên hệ lớn lao. Người ở đây nghe danh hiệu hay thấy hình tượng của đại sĩ, cho đến nghe kinh này dầu chỉ được ba chữ hay năm chữ, một bài chỉnh cú hay một câu đủ nghĩa (52) , hiện tại cũng đạt được sự yên vui tuyệt diệu, mà vị lai thì trăm ngàn vạn đời luôn luôn sinh ra trong nhà tôn quí, tướng mạo và tánh tình đều hoàn hảo." (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Ksïitigarbha-pranïidhàna-sùtra), quyển Thượng, Phẩm Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông ghi rằng: “ Vào kiếp lâu xa trong thời quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát là con của một vị Đại Trưởng Giả. Nhân thấy tướng tốt trang nghiêm của Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai mà phát sinh tâm kính ngưỡng, nói rằng để chứng đắc được tướng trang nghiêm này mà phát Nguyện cho đến hết các kiếp chẳng thể tính đếm, ở đời vị lai độ thoát tội khổ của chúng sinh trong sáu nẻo” Lại ghi rằng:”Một trong các kiếp trong a tăng kỳ kiếp chẳng thể nghĩ bàn, Địa Tạng Bồ Tát là người nữ thuộc giòng Bà La Môn, vì cứu độ mẹ thoát khỏi Địa Ngục đã thay mẹ cúng dường tu Phước và phát Nguyện cho đến hết kiếp vị lai đều rộng cứu độ tội khổ của chúng sinh” (*) Trong Phẩm Diêm Phù Chúng Sinh Nghiệp cảm của Kinh trên cũng ghi nhận hai thuyết là: _ “Vào thời lâu xa trong quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát làm vua của một nước. Do thấy người dân trong nước tạo nhiều tội ác, nên đã phát Nguyện độ hết tội của các chúng sinh, đều đến Bồ Đề. Nếu chẳng như vậy thì không thành Phật” _”Ở một kiếp lâu xa trong quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát là một người nữ tên là Quang Mục. Do mẹ của nàng bị đọa vào Địa Ngục nên Quang Mục vì muốn cứu độ mẹ, đã phát Nguyện cứu giúp nhổ bứt tất cả tội khổ của chúng sinh, đợi cho chúng sinh thành Phật rồi, sau đó mình mới thành Chính Giác” Các Thuyết ghi trên đều tùy theo Tín Ngưỡng Địa Tạng mà rộng truyền trong dân gian, cho nên trong Phật Giáo thường dùng các câu: _“Địa Ngục chưa trống rỗng Thề Nguyện chẳng thành Phật Khi độ hết chúng sinh Mới chứng đắc Bồ Đề” _ “Ta chẳng vào Địa Ngục thì ai vào Địa Ngục ?”Để hình dung lời Nguyện rộng lớn thuộc Tâm Từ Bi thương xót của Địa Tạng Bồ Tát. (*) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện, Phẩm Địa Thần Hộ Pháp đề cập đến mười điều lợi ích của việc cúng dường Địa Tạng Bồ Tát. Trong đó hay đắp tượng vẽ tranh, cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt đúc hình tượng Ngài Địa Tạng, đốt hương cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thì nơi người đó ở liền được mười điều lợi ích là: 1_Đất cát tươi tốt. 2_Nhà cửa an ổn. 3_Người đã chết được sinh lên cõi Trời. 4_ Những người hiện còn được tăng thọ. 5_ Cầu nguyện gì cũng được toại ý 6_ Không có tai họa về lửa và nước. 7_ Trừ sạch việc hư hao. 8_ Dứt hẳn mộng ác. 9_ Khi ra lúc vào có Thần theo hộ vệ. 10_ Thường được gặp bậc Thánh Nhân. (*) Trong Phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên nói rằng: “Nếu trong đời sau có kẻ trai lành người nữ thiện nào, nhìn thấy hình tượng Ngài Địa Tạng và nghe Kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, thức ăn uống, quần áo, trân bảo, bố thí cúng dường, ngợi khen chiêm lễ, sẽ được hai mươi tám điều lợi ích là: 1_Trời, Rồng thường hộ niệm. 2_Quả lành ngày càng tăng. 3_ Gom chứa Nhân vô thượng của bậc Thánh. 4_ Chẳng thoái Bồ Đề 5_Ăn mặc được đầy đủ. 6_ Thân không bị vướng những bệnh tật, nạn dịch 7_ Xa lìa tai họa về lửa và nước. 8_ Không bị nạn trộm cướp. 9_ Người khác nhìn thấy đều sinh lòng kính trọng. 10_ Quỷ Thần theo hộ trì. 11_ Đời sau sẽ chuyển thân nữ thành thân nam. 12_ Đời sau sẽ làm con gái của các bậc Vương Giả Đại Thần. 13_ Tướng mạo xinh đẹp. 14_ Phần lớn được sinh về cõi Trời. 15_ Làm bậc vua chúa. 16_ Có Trí sáng biết rõ những việc trong đời trước. 17_ Cầu nguyện gì cũng được toại ý 18_ Quyến thuộc an vui. 19_ Các tai họa đột ngột đều được tiêu diệt. 20_ Các nghiệp về nẻo ác đều dứt hẳn. 21_ Đi đến đâu cũng không bị trở ngại. 22_ Đêm nằm mộng được an ổn vui vẻ. 23_ Những người thân tộc đã chết nếu có tội thời được khỏi khổ. 24_ Nếu đời trước có Phước thì được thọ sinh về cõi vui sướng. 25_ Được các bậc Thánh ngợi khen. 26_ Căn Tính lanh lợi thông minh. 27_ Giàu lòng Từ Tâm thương xót. 28_ Cuối cùng thành Phật. Trong băng đĩa Cửu Hoa Sơn (thuộc Tứ Đại Danh Sơn) có ghi nhận bài Địa Tạng Sám nhằm nhấn mạnh vào Pháp Tu Chính Pháp Giải Thoát qua sự nhiếp hóa của Bồ Tát Địa Tạng như sau: _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con lìa hẳn ba nẻo ác _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau dứt Tham Sân Si _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con siêng tu Giới Định Tuệ _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con thường tùy các Phật Học _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con chẳng thoái Tâm Bồ Đề _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con quyết định sinh An Nhẫn _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau được thọ Thánh Ký _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con phân thân khắp các cõi _Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con rộng độ các chúng sinh1 like
-
Tại Nhật Bản Tại Nhật Bản,Tín Ngưỡng Địa Tạng bắt nguồn trong thời kỳ Bình An (Heian:794_1192) và được phát triển qua từng giai đoạn cho đến ngày nay như sau: (*) Kim Tích Vật Ngữ Tập ghi nhận Địa Tạng là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh trong đời hiện tại và dẫn dắt họ sang Thế Giới Cực Lạc (Sukhàvatì) (*) Bộ Nhật Bản Linh Dị Ký tin rằng Địa Tạng là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh sau khi lâm chung. (*) Người dân Nhật Bản tin tưởng rằng Địa Tạng Bồ Tát chuyên cứu độ linh hồn của trẻ con bị chết yểu nên thường dựng các tượng đá Jizò (Địa Tạng) trong các nghĩa trang và khoác quần áo của trẻ con đã chết ấy lên bức tượng Dần dần Địa Tạng Bồ Tát được đồng hóa với vua Diêm La (Yama-ràja) và được xem là vị chủ tể của cõi U Minh, chuyên cứu độ tất cả chúng sinh trong cõi Địa Ngục. Như quyển Bồ Đề Tâm Luận của ngài Trân Hải cho rằng Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện thành thân Phật hoặc thân Diêm La Vương để vào Địa Ngục cứu độ chúng sinh Biểu tượng thường thấy nhất là tượng Địa Tạng Bồ Tát được tạo dựng trong các nghĩa trang của Phật Giáo hoặc các tranh tượng Địa Tạng qua hình nhà sư đi vào lửa ngục để giải cứu những linh hồn chịu khổ nạn. (*) Ngày nay tại Nhật Bản, Địa Tạng Bồ Tát được thờ phượng qua hình dáng nhà sư đầu trần chân đất, đi vào xã hội cứu độ chúng sinh ngay trong đời này chứ không phải ở chốn Địa Ngục. Trong Thế Kỷ thứ 9, Tín Ngưỡng Địa Tạng được Thiên Đài Tông và Chân Ngôn Tông phổ biến qua hình tướng của sáu vị Địa Tạng. Giác Thiền Sao ghi rằng: 1_ Đại Kiên Cố Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Trời, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải cầm quyển Kinh 2_ Đại Thanh Tịnh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Người, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải kết Thí Vô Úy Ấn 3_ Thanh Tịnh Vô Cấu Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi A Tu La, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải cầm rương Kinh Phạn 4_ Đại Quang Minh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Súc Sinh, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải cầm Như Ý 5_ Đại Đức Thanh Tịnh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn. 6_ Đại Định Trí Bi Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải cầm viên ngọc báu. Hoặc sáu hình tượng Địa Tạng là sáu Hóa Tôn của sáu nẻo đã được ghi nhận trong Đại Nhật Kinh Sớ Ngoài sáu hình tướng trên, Nhật Bản còn lưu truyền nhiều hình tướng Địa Tạng khác là: _ Pháp Tính Địa Tạng: Còn gọi là Bất Hưu Tức Địa Tạng _ Địa Trì Địa Tạng (Jiji Jizò): Còn gọi là Hộ Tán Địa Tạng _ Bảo Tính Địa Tạng: Còn gọi là Phá Thắng Địa Tạng _ Pháp Ấn Địa Tạng: Còn gọi là Tán Long Địa Tạng _ Đà La Ni Địa Tạng: Còn gọi là Biện Ni Địa Tạng _ Long Quy Địa Tạng: Còn gọi là Diên Mệnh Địa Tạng hay Quang Vị Địa Tạng _ Dự Thiên Địa Tạng (Yotenga Jizò):Tay trái cầm viên ngọc Như Ý, tay phải tác Thuyết Pháp Ấn, cứu độ nẻo Trời Người. _ Phóng Quang Vương Địa Tạng (Hòkò- ò- Jizò):Tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn, giúp cho Ngũ Cốc được mùa _ Kim Cương Tràng Địa Tạng (Kongòtò Jizò):Tay trái cây phướng Kim Cương, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn, cứu độ nẻo Tu La _ Kim Cương Bi Địa Tạng (Kongòhi Jizò):Tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải tác Dẫn Tiếp Ấn, cứu độ nẻo Súc Sinh _ Kim Cương Bảo Địa Tạng (Kongòhò Jizò):Tay trái cầm viên ngọc báu, tay phái tác Cam Lộ Ấn, cứu độ nẻo Quỷ đói _ Kim Cương Nguyện Địa Tạng (Kongògan Jizò):Tay trái cầm cây phướng Diễm Ma, tay phải tác Thành Biện Ấn, vàu Địa Ngục cứu khổ _ Khỏa Địa Tạng: (Hadaka Jizò: Địa Tạng lõa thể) Trường hợp đặc biệt, Địa Tạng Bồ Tát cũng có thể mang hình tướng một bà già qua tên gọi Mẫu Địa Tạng (Uba Jizò) Hadaka Jizō Hoặc mang hình tướng của người nữ với tên gọi là Tử Dục Địa Tạng (Kosodate Jizò) được kêu cầu như vị Thần bảo vệ và nuôi lớn trẻ con _ Tử An Địa Tạng (Koyasu Jizò): giúp cho phụ nữ sinh đẻ và nuôi con dễ dàng. Tín Ngưỡng này đã thâm nhập vào Tín Ngưỡng Dân Gian từ sau thời đại Khiếm Thương (Kamakura: 1192_1336) tức lấy sự thị hiện của Bồ Tát Địa Tạng ở vùng Tắc Hà là vị cứu hộ trẻ con, giúp phụ nữ sinh đẻ dễ dàng… và có vẽ hình, ca vịnh tán tụng. Tại Kiyomizu ở Kyoto có dựng tượng Jizò (Địa Tạng) là nơi dùng để tưởng niệm những đứa trẻ bị chết yểu. _ Thủy Tử Địa Tạng hay Ấu Thủy Địa Tạng (Mizuko Jizò): Giúp cho những vong linh trẻ con chết yểu hoặc chết trong thai mẹ…được an lành. Do điều này mà tượng Địa Tạng Bồ Tát thường được đặt dọc theo bờ sông Sai-no-Kawara nhằm giúp cho những vong linh chết trẻ, thoát khỏi mọi hình phạt, sớm được siêu thoát. Hoặc thiết lập các nghi lễ cầu siêu cho trẻ con bị chết khi người mẹ bị sẩy thai hay phá thai…. Người dân Nhật Bản tin tưởng rằng Địa Tạng Bồ Tát có rất nhiều quyền năng như di chuyển, bay, nói hoặc nhổ gai khỏi chân những kẻ lữ hành… Từ đó vô số Tín Ngưỡng Dân Gian đã gắn liền với Địa Tạng như: _ Thích Phi Địa Tạng (Togenuki Jizò): hay giúp cho người lữ hành nhổ gai góc đâm vào chân Togenuki Jizò _ Thường Thí Địa Tạng (Ajimi Jizo): hay giúp cho các vị tu sĩ chuẩn bị các món ăn đặc biệt ở nhà bếp Ajimi Jizō at Koyasan _ Cốc Đoàn Bính Địa Tạng (Botamochi Jizò): hay giúp cho nhà nông có các cái bánh hình tròn để ăn trong thời gian gieo trồng lúa mạ. Botamochi Jizō _ Tỵ Thủ Địa Tạng (Hanatori Jizò): chăm sóc ngựa và gia súc _ Hỏa Tiêu Địa Tạng (Hikeshi Jizò) hay Hỏa Phần Địa Tạng (Hitaki Jizò): bảo vệ nhà cửa, ruộng vườn tránh khỏi hỏa hoạn _ Thủy Dẫn Địa Tạng (Mizuhiki Jizò): mang nước đến giúp cho lúa mạ, cây cối tăng trưởng _ Vũ Khất Kỳ Địa Tạng (Amagoi Jizò): Cầu đảo xin trời mưa _ Lập Sơn Địa Tạng (Tachiyama Jizò): tạo làm nơi chốn cho phụ nữ nông dân nghỉ ngơi _ Điền Thực Địa Tạng (Taue Jizò): giúp cho ngũ cốc được mùa _ An Sản Địa Tạng (Anzan-Jizò): giúp cho phụ nữ sinh đẻ dễ dàng Anzan-Jizò _ Nhật Hạn Địa Tạng (Higiri Jizò): giúp cho con người tránh khỏi Thiên Tai _ Tâm Bình Địa Tạng (Shinpei Jizò): giúp cho linh hồn của con người được an bình _ Đạo Dẫn Địa Tạng (Michibiki Jizò): bảo vệ, chỉ đường cho những người đi trong vùng hoang vắng hiểm trở _ Thắng Quân Địa Tạng (Shokògun Jizò): Giúp cho chiến thắng và bình an trong trận mạc Shokògun Jizò _ Diên Mệnh Địa Tạng (Enmei Jizò): giúp cho con người mạnh khỏe sống lâu, không bị bệnh tật _ Du Huyền Địa Tạng (Aburakake Jizò): chữa trị bệnh tật cho con người Aburakake Jizò _ Bảo Ấn Địa Tạng ((Hòin Jizò): Cứu độ súc sinh _ Phóng Quang Vương Địa Tạng (Hòkò- ò- Jizò) hoặc Kiên Cố Ý Địa Tạng (Kenko-i Jizò) hoặc Nhật Quang Địa Tạng (Nikkò Jizò): Cứu độ hàng Trời _ Bảo Xứ Địa Tạng (Hòsho Jizò): Cứu độ A Tu La _Bảo Chưởng Địa Tạng (Hòshò Jizò): Cứu độ Quỷ đói _Trì Địa Địa Tạng (Jiji Jizo) hoặc Trừ Cái Chướng Địa Tạng (Jogaishò Jizò): Cứu độ loài người _ Bảo Châu Địa Tạng (Hòju Jizò): Cứu độ nẻo Địa Ngục _ Hỏa Phục Địa Tạng (Hifuse Jizò): ngăn chận nạn núi lửa. Điển hình là các Tượng Địa Tạng được dựng gần núi lửa Chasudake tại Nhật Ngoài ra Địa Tạng Bồ Tát còn được thờ phụng qua nhiều tên gọi như sau: _ Đàn Đà Địa Tạng (Danda Jizò) _ Nê Túc Địa Tạng (Doroashi Jizò) _ Phúc Đới Địa Tạng (Hara-Obi Jizò) _ Bị Mạo Địa Tạng (Hibò Jizò) _ Hắc Địa Tạng (Kuro Jizò) _ Không Thủ Địa Tạng (Karate Jizò) _ Lạp Địa Tạng (Kasa Jizò) _ Khái Chỉ Địa Tạng (Sekidome Jizò) _ Thúc Tử Địa Tạng (Tawashi Jizò) _ Lung Địa Tạng (Tsunbo Jizò) _ Thỉ Điền Địa Tạng (Yata Jizò) _ Thủ Chấn Địa Tạng (Kubifuri Jizò) Người dân Nhật thường khắc hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát trên đá hoặc dùng đá tảng, cắt xẻ đục đẽo đơn sơ rồi dựng hình tượng của Ngài trên các bệ đá dựng ở ven đường, cổng ra vào của làng mạc, nơi hoang vắng nguy hiểm… nhằm bảo vệ cho làng mạc và khách lữ hành. Riêng ở Tokyo có hơn 500 bức tượng Jizò (Địa Tạng) được dựng dọc theo nhiều tuyến đường Do người Nhật tin tưởng Địa Tạng là vị Bồ Tát giám hộ trẻ thơ, nên thường cho trẻ con chơi đùa loanh quanh, gần một bức tượng Địa Tạng với niềm tin là Ngài sẽ trông coi và bảo vệ cho lũ trẻ [1] Phật Giáo Nhật Bản chọn ngày 24 tháng bảy theo Lịch của Nhật Bản là ngày vía của Địa Tạng Bồ Tát và chọn ngày 23, 24 tháng tám làm ngày lễ hội Địa Tạng Bồn (còn gọi là ngày truyền thống của trẻ thơ), nhằm nhắc nhở đến sự mệnh thiêng liêng của Ngài là bảo vệ trẻ thơ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của đời người. Nhiều chùa ở Nhật Bản có dựng một dãy tượng Địa Tạng bằng đá đẽo thô mộc, gọi là Sentai Jizò (ngàn thân Địa Tạng) Do Bản Tính khoan hòa, từ ái của Địa Tạng Bồ Tát kèm với hình tướng nhà sư, khiến Ngài có vẻ gần gũi với dân gian hơn là vị Thần khác. Ngài được gắn liền với Đức Phật A Di Đà cùng với Bồ Tát Quán Âm thì được xưng tán là “Nhất Phật Nhị Bồ Tát”. Đôi khi, Địa Tạng Bồ Tát còn được biểu thị như là một chiến binh của Thần Đạo Nhật Bản được đồng hóa với Atago Gongen (vị Thần bảo vệ khỏi bị lửa đốt, là một Nhập Thể tạm thời của Jizị được thờ phụng trên núi Atago thuộc tỉnh Kyoto) với hình dáng một chiến tướng ngồi trên lưng ngựa, tay cầm cây gậy hành hương và viên ngọc ước. Thần Thú của Thần Atago Gongen là con lợn rừng, biểu tượng cho sức mạnh, lòng dũng cảm và ý chí kiên cường….nhằm giải cứu cho những chiến binh thoát khỏi mọi tình huống khó khăn nguy cấp hoặc tránh sự gây hại của lợn rừng. [1] Xem thêm : Vị Bồ Tát bảo vệ trẻ em1 like
-
Sáu vị Sứ Giả của Địa Tạng: Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ nói : “ Sáu vị Sứ Giả của Địa Tạng Tôn là: 1_ Diễm Ma Sứ Giả (Yàma-cetïa): hóa độ Địa Ngục 2_ Trì Bảo Đồng Tử (Ratna-dhàra-kumàra): hóa độ Ngạ Quỷ 3_ Đại Lực Sứ Giả (Mahà-bala-cetïa): hóa độ súc sinh 4_ Đại Từ Thiên Nữ (Mahà-maitreya-devì): hóa độ Tu La 5_ Bảo Tạng Thiên Nữ (Ratna-garbha-devì): hóa độ loài người 6_ Nhiếp Thiên Sứ Giả (Pratigrahadeva-cetïa): hóa độ chư Thiên Nghi Quỹ niệm tụng này, tuy chẳng do ngài Bất Không dịch. Xong cùng với nhóm Diên Mệnh Địa Tạng Kinh, Liên Hoa Tam Muội Kinh đều là Bản thuộc Nghi Tự Bộ. Tại Tây Tạng, khoảng Thế Kỷ thứ 8, do sự phát triển của Mật Giáo nên Địa Tạng Bồ Tát được minh họa trong các bức tranh và các Mạn Đà La (Manïdïala) như là một trong tám vị Bồ Tát vây quanh Đức Phật, biểu thị cho ý nguyện Từ Bi vĩ đại là: “Địa Ngục chưa trống rỗng Thề Nguyện chẳng thành Phật Khi độ hết chúng sinh Mới chứng đắc Bồ Đề” Ngoài ra Phật Giáo Tây Tạng cũng nhận định Địa Tạng Bồ Tát là một trong các Bản Tôn Tài Bảo1 like
-
Người dân Việt Nam; Trung Hoa thờ phụng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng với Tầm Thanh Cứu Khổ Quán Thế âm Bồ Tát, Thệ Nguyện Độ Tận Chúng Sinh Địa Tạng Bồ Tát và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh ( Ta Bà Tam Thánh ) Một cách bài trí chánh điện tiểu biểu của chùa Việt Nam (khu vực Trung và Nam bộ) theo truyền thống Phật giáo Đại thừa Bắc truyền. Chính giữa là tượng Ta bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Bên tay trái Ngài là Địa Tạng Bồ Tát Bên tay phải Ngài là Quàn âm Bồ Tát (Hai vị trí Bồ Tát có thể hoán đổi ) Một ban thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát - một hình thức tiêu biểu trong bài trí hệ thống tượng thờ chùa Việt Nam (khu vực Trung và Nam bộ) Một ban thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát - một hình thức tiêu biểu trong bài trí hệ thống tượng thờ chùa Việt Nam (khu vực Trung và Nam bộ)===== Chú thích : Truyền thống Phật giáo Đại thừa tại Việt Nam, chúng ta thường được gặp 3 thế giới : 1 - Tây Phương Cực Lạc Thế Giới : Ở đó cò Đức Phật A Di Đà là giáo chủ, với 2 vị Bồ Tát Quan Thế Âm và Đại Thế hộ trì, gọi là Tây Phương Tam Thánh Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. 2 - Đông Phương Tịnh Lưu Ly Thế Giới : Ở đó Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật làm giáo chủ, với 2 vị Bồ Tát Nhật Quang thường chiếu và Nguyệt Quang Thường Chiếu hộ trì, gọi là Đông Phương Tam Thánh. Nam mô Đông Phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Nhật Quang thường chiếu Bồ Tát, Nguyệt Quang Thường Chiếu Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát. 3- Trung Thiên Thế Giới (hay còn gọi là cõi ta bà này ): ở đây Đức Phật Thích Ca làm giáo chủ,với 2 vị Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát hộ trì. Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát Do Đức Thích Ca Mâu Ni Ngài đang là giáo chủ cõi Ta Bà thời hiện tại, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát vì có hạng nguyện lớn lao và rất cần thiết cho con người trong xã hội - cõi ta bà này, nên các Ngài đã có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn.Quán Thế Âm Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà phải hóa hiện vô lượng vô số hóa thân để ứng duyên cứu độ. Địa Tạng Bồ Tát cũng vậy vì duyên trần cảnh khổ nên Ngài cũng không ngại “trục loại tùy hình, ứng hiện sắc thân”. Tôn Thiết tượng thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng với Tầm Thanh Cứu Khổ Quán Thế âm Bồ Tát, Thệ Nguyện Độ Tận Chúng Sinh Địa Tạng Bồ Tát và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh ( Sa Bà Tam Thánh )- Là như vậy.1 like
-
1 like
-
Lý tưởng Bồ-tát qua hình tượng ngài Địa Tạng 18 Tháng 12 2009 Hồng chung sơ khấu Bảo kệ cao âm Thượng thông thiên đường Hạ Triệt địa phủ Nam-mô U minh giáo chủ, cứu khổ bổn tôn, cứu bạt minh đồ, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát ma-ha-tát.[1] Có lẽ suốt cuộc đời tôi sẽ không sao quên được bài kệ và danh hiệu của vị Bồ-tát ấy, bởi bài kệ và danh hiệu ấy đã đánh dấu một thời hành điệu của tôi. Làm sao quên được những kỉ niệm và hình ảnh của một chú tiểu nhỏ bé với cái chỏm trên đầu, mới ba giờ rưỡi sáng, trong cái lạnh giá buốt của miền cao nguyên trung phần Pleiku, tay cầm chùy đại hồng chung, miệng đọc bài kệ và niệm danh hiệu của Bồ-tát Địa Tạng và đánh lên những tiếng chuông thanh thoát giữa đêm tàn cô tịch, nhất tâm cầu nguyện cho những chúng sanh đang chịu những cực hình khổ đau trong địa ngục và thức tỉnh cả nhân loại đang say giữa giấc mộng miên trường. Tiếng chuông, danh hiệu của Bồ-tát và bài kệ ấy đã theo tôi từ thời hành điệu như thế, và tôi cũng biết rằng đó là bài kệ nằm lòng của những người con Phật, bởi bài kệ niệm chung ấy ngày nào cũng được ngân vang trước hai thời công phu (công phu khuya và tối). Âm thanh, ý nghĩa bài kệ và danh hiệu Bồ-tát ấy cao huyền làm sao, và tôi chắc rằng không có một bài kệ nào hay hơn và ý nghĩa hơn có thể thay thế được. Hình vẽ Địa Tạng Bồ Tát ở Goryeo,Hàn quốc vào cuối thế kỉ 14 Chúng ta chưa bàn về ý nghĩa cao xa của kinh Địa Tạng hay hạnh nguyện, hình tượng… của ngài Địa Tạng, chỉ cần qua bài kệ ngắn 16 chữ và danh hiệu ấy, cũng đủ cho chúng ta thấy được tầm quan trọng về lý tưởng Bồ-tát qua hình tượng ngài Địa Tạng trong lòng người con Phật rồi. Tinh thần Đại thừa nói chung hay lý tưởng Bồ-tát nói riêng đã đưa Phật giáo vượt thoát những không gian hạn hẹp, vượt qua những giới hạn của nhà chùa hay tinh xá “cửa đóng then cài” hay “thiền môn u tịch”… để đưa Phật giáo đi vào cuộc đời, thể hiện lý tưởng độ sanh hay tinh thần cứu khổ của người con Phật. Đó chính là lý tưởng và tinh thần của các vị Bồ-tát. Cho đến ngày nay, nói theo ngôn ngữ của người xưa “sáu mươi năm cuộc đời” thì tôi đã đi hơn một nửa rồi. Trong suốt những năm dài học Phật, tôi chợt giật mình nhìn lại tinh thần siêu việt của Đại thừa hay lý tưởng Bồ-tát mà chư Phật, chư Tổ đã dạy cho người xuất gia ngay từ lúc bước chân vào đạo. Tôi nhớ ngày ấy, ngày đầu tiên mới xuất gia vào cửa chùa, chưa thuộc một bài kinh cơ bản nào, ngay cả chú Đại Bi, Sư phụ tôi đã dạy tôi học sáu chữ “Tỳ ni nhật dụng thiết yếu” (Luật dùng cần thiết hằng ngày). Người còn dạy “Nghi tiên học luật, hậu học tu-đa-la” (trước tiên phải học luật, sau đó mới học kinh). Giờ nghiệm lại những dòng kệ ấy, tôi chợt nhận ra lý tưởng siêu việt của Bồ-tát đã ẩn tàng bao la trong những dòng kệ Tỳ-ni ban đầu ấy. Năm mươi mốt câu kệ trong bộ luật này[2] đã dạy cho người xuất gia sơ cơ mới vào cổng chùa, từ những lúc gà gáy canh khuya, khi vừa thức dậy bước chân xuống giường cho đến khi đi ngủ, phải thiết lập chánh niệm trong mỗi một việc làm của mình và thực hiện lý tưởng Bồ-tát của người con Phật là phải cầu nguyện và hồi hướng công đức đến với tất cả chúng sanh “đương nguyện chúng sanh”. Phật giáo Đại thừa, hay lý tưởng Bồ-tát đã được thiết lập và truyền dạy cho những vị xuất gia sơ cơ, ngay khi phát nguyện ra khỏi nhà thế tục bước chân vào cửa đạo qua những bài kệ của luật Tỳ-ni hay bài kệ hô chung với hình ảnh của ngài Địa Tạng mà các chú tiểu đã đọc tụng và đánh lên những tiếng đại hồng chung thức tỉnh cả thiên hà, u cảnh “Thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ.” Kinh Tạp A-hàm (Samyutta Nikaya) kể rằng: Có một hôm, tại xứ Kosambi, đức Phật từ trong rừng đi ra, trên tay Ngài cầm một nắm lá Simsapa và hỏi các vị Tỳ-kheo rằng lá trong rừng nhiều hay lá trên tay Ngài nhiều. Các Tỳ-kheo đều trả lời, lá trong rừng rất nhiều, lá trên tay rất ít. Đức Phật dạy, những gì Ngài dạy cho các Tỳ-kheo chỉ như lá trong tay của Ngài, còn những gì Ngài biết thì như lá trong rừng. Với tinh thần siêu việt của Đại thừa, chúng ta có thể hiểu rằng các vị Bồ-tát thuở xưa như ngài Mã Minh (Asvagosa), Long Thọ (Nagarjuna), Vô Trước (Asanga), Thế Thân (Vasubandhu), v.v… đã nương theo nắm lá Simsapa trong bàn tay của đức Phật và hướng đến rừng lá Simsapa vô tận trong rừng. Có lẽ trên tinh thần siêu việt ấy mà giáo lý Đại thừa đã được thành lập, lý tưởng Bồ-tát cao siêu đã xuất hiện ngay từ thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, để thay thế cho chủ nghĩa bộ phái sắp suy tàn và đưa Phật giáo phát triển một cách rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. Đó chính là sự xuất hiện những tư tưởng siêu việt qua các bộ kinh như Bát-nhã (Prajna Paramita sutra), Pháp Hoa (Saddharmapundarika), Hoa Nghiêm (Avatamsaka), Duy-ma-cật (Vimalakirtinidesa), kinh Địa Tạng, Vu Lan Báo Hiếu, v.v… Lý tưởng Đại thừa của Phật giáo được thể hiện cụ thể qua những lý tưởng và hạnh nguyện của các vị Bồ-tát. Trong vô lượng Bồ-tát được đề cập trong các kinh điển Đại thừa, có bốn vị đại Bồ-tát nổi bật nhất: Văn Thù Sư Lợi (Manjuri), Phổ Hiền (Samantabhadra), Quán Âm (Avalokitesvara) và Địa Tạng (Kstigarbha). Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu về Bồ-tát Địa Tạng. Công hạnh, hình tướng cũng như sự tu chứng của vị Bồ-tát này được đức Phật mô tả cụ thể trong kinh Địa Tạng. Có thể khẳng định rằng, kinh Địa Tạng là một trong những kinh nổi bật của kinh điển Đại thừa và được người con Phật thọ trì đọc tụng rất nhiều tại các nước như Trung Hoa, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam… Một số học giả cho rằng kinh này được biên soạn tại Trung Hoa. Tuy nhiên, theo lịch sử truyền bá và dịch thuật kinh điển, bộ kinh này có nguồn gốc từ Ấn Độ, nguyên bản tiếng Phạn của kinh này tên là: Ksitigarbhaprani Dhana Sutra.[3] Kinh này được ngài Thật-xoa-nan-đà (Siksanada) dịch đầu tiên sang tiếng Hán vào thời đại nhà Đường, bản tiếng Hán là: 地 藏 菩薩 本 願 經 (Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện kinh). Sau đó bản kinh này được dịch ra rất nhiều thứ tiếng khác như tiếng: Hàn, Nhật, Việt… Ngày nay bản kinh này cũng được lưu hành, nghiên cứu và thọ trì tại các nước phương Tây với tựa đề là “Sutra of the Past Vows of the Earth Store Bodhisattva), do hội nghiên cứu dịch thuật của HT. Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành, Mỹ quốc dịch và phổ biến. Bộ kinh này được đức Phật thuyết giảng tại cung trời Đao Lợi[4], nhân dịp Ngài lên cung trời này thuyết pháp độ thân mẫu của Ngài là hoàng hậu Maya, qua sự thưa thỉnh của đức Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi. Tông chỉ bộ kinh này được HT. Tuyên Hóa tóm tắt trong tám chữ:[5] “Hiếu đạo, Ðộ sanh, Bạt khổ, Báo ân”, do vậy kinh này cũng được gọi là Hiếu kinh của Phật giáo. Nội dung bộ kinh này đức Phật thuyết giảng về công hạnh cao cả của ngài Địa Tạng qua những tiền kiếp của Ngài, đặc biệt là hiếu hạnh và sự độ sanh của Ngài. Lý tưởng Bồ-tát và công hạnh của ngài Địa Tạng được đức Phật mô tả rất nhiều qua các kinh điển Đại thừa như: Phật Thuyết Đại Phương Quảng Thập Luân kinh, Ðại Thừa Ðại Tập Ðịa Tạng Thập Luân kinh, Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo kinh, Phật thuyết La Ma Già kinh, Hoa Nghiêm kinh, Hoa Nghiêm kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Hoa Nghiêm Thập Ðịa kinh, Ðại Thừa Bổn Sanh Tâm Ðịa Quán kinh, Phật Thuyết Bát Ðại Bồ-tát kinh, v.v…[6] Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, đức Phật có dạy về bốn tiền thân, với bốn đại nguyện của ngài Địa Tạng: 1. Trong vô lượng kiếp về trước, ngài Địa Tạng là một vị trưởng giả, nhờ phước duyên được chiêm ngưỡng, đảnh lễ và được sự chỉ dạy của đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, vị trưởng giả này đã phát đại nguyện: “Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo.”[7] 2. Vào thời quá khứ vô số kiếp trước, thuở đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tiền thân của Ngài là một người nữ dòng dõi Bà-la-môn có nhiều phước đức và oai lực; nhưng mẹ của cô không tin vào nhân quả tội phước, tạo rất nhiều ác nghiệp, sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Là người con chí hiếu, cô rất thương nhớ mẹ, và đã làm vô lượng điều lành, đem công đức ấy hồi hướng cho mẹ, và cầu nguyện đức Phật cứu giúp. Nhờ các công đức chí thành ấy, đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại đã cho cô biết là mẹ của Cô đã được thoát khỏi cảnh địa ngục và vãng sanh về cõi trời. Vô cùng hoan hỉ trước tin ấy, cô đã đối trước đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát.”[8] 3. Trong hằng hà sa số kiếp về trước, thuở đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, ngài Địa Tạng là một vị vua rất đức độ, thương dân… nhưng chúng sanh lúc ấy tạo rất nhiều ác nghiệp, vị vua hiền đức này đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật.”[9] 4. Vô lượng kiếp về thuở quá khứ, thời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài Địa Tạng là một hiếu nữ tên Quang Mục có nhiều phước đức. Nhưng mẹ của Quang Mục lại là người rất ác, tạo vô số ác nghiệp. Khi mạng chung, bà bị đọa vào địa ngục. Quang Mục tạo nhiều công đức hồi hướng cho mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán, vị Thánh này đã cho biết rằng, mẹ của cô đã thoát khỏi cảnh địa ngục sanh vào cõi người, nhưng vẫn còn chịu quả báo sinh vào nhà nghèo hèn, hạ tiện, lại bị chết yểu… vì lòng thương mẹ và chúng sanh, Quang Mục đã đối trước đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai phát nguyện: “Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng sanh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác.”[10] Có lẽ chính nhờ những tư tưởng hiếu đạo cao cả của đức Thế Tôn lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp độ thân mẫu Maya, về quê hương hóa độ thân phụ Tịnh Phạn Vương, hay các hạnh hiếu cao cả của tôn giả Mục Kiền Liên qua kinh Vu Lan Bao Hiếu và những hạnh hiếu cao cả của ngài Địa Tạng qua kinh Địa Tạng này… mà Phật giáo đã cảm hóa được tính độc tôn của Nho giáo từng thống trị ở đại lục Trung Hoa, đồng thời góp phần to lớn vào việc xây dựng nền đạo đức Đông phương. Tinh thần vô uý cao cả phát nguyện vào các địa ngục kinh khiếp để cứu độ những chúng sanh đầy tội lỗi ấy của đức Địa Tạng luôn là biểu tượng tôn quí để người con Phật hướng về đảnh lễ chí thành: “Chúng sanh độ tận Phương chứng Bồ-đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật, đại bi đại nguyện đại thánh, đại từ, bổn tôn địa tạng Bồ-tát Ma ha tát.”[11] Chính lý tưởng Bồ-tát siêu việt và cao cả ấy, hình tượng ngài Địa Tạng đã trở thành lý tưởng sống vị tha cao thượng qua một thành ngữ nổi danh: “Nếu ta không vào địa ngục thì ai sẽ vào?” (If I do not go to hell, who else will go?) Nếu quê hương của Phật giáo có Tứ Động Tâm[12] hay Bốn Thánh Tích thiêng liêng của người con Phật, thì Phật giáo Trung Hoa có Tứ Đại Danh Sơn. Tứ Đại Danh Sơn là bốn thánh cảnh nổi danh, gắn liền với những huyền thoại nhiệm mầu về hóa thân tu tập của bốn vị Bồ-tát nổi danh trong Phật giáo, đó là: Bồ-tát Quán Thế Âm tại Phổ Đà Sơn còn gọi là Hải Thiên Phật Quốc ở tỉnh Triết Giang, Bồ-tát Phổ Hiền tại Nga Mi Sơn còn gọi là Tây Nam Phật Quốc ở tỉnh Tứ Xuyên, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi tại Ngũ Đài Sơn còn gọi là Thanh Lương Thế Giới ở tỉnh Sơn Tây và Bồ-tát Địa Tạng tại Cửu Hoa Sơn còn gọi là Liên Hoa Phật Quốc ở tỉnh An Huy.[13] Theo các sách như Thần Tăng Truyện, Cửu Hoa Sơn Chí… thì lịch sử của Cửu Hoa Sơn, thánh địa đạo tràng của ngài Địa Tạng được kể như sau: Vào năm 695 Tây lịch, vua nước Tân La (Hàn Quốc ngày nay) hạ sanh thái tử Kim Kiều Giác, lớn lên Thái tử có lòng mến mộ Phật pháp rất sâu. Năm 24 tuổi, ông từ bỏ hoàng cung quyết chí xuất gia, lấy hiệu là Địa Tạng. Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo Địa Tạng nghe danh của ngài Huyền Trang sang Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh và trở về Trung Hoa, giúp Phật giáo đời Đường phát triển đến đỉnh cao, hơn nữa Phật giáo Tân La được truyền từ Trung Hoa vào… Tỳ-kheo Địa Tạng phát nguyện vượt đại dương mênh mông đến Trung Hoa tu tập, hóa độ chúng sanh. Sau những năm vân du tham học nhiều nơi, cuối cùng Tỳ-kheo Địa Tạng đến núi Cửu Hoa, thấy cảnh núi non hùng vĩ, phong cảnh thanh nhàn thoát tục, Ngài dừng lại ở ngọn núi này lập một thảo am quyết tâm khổ hạnh tu đạo. Trong vùng lân cận của núi Cửu Hoa có một vị phú thương tên là Văn Các Lão, là một Phật tử có tâm hộ trì Phật pháp, từng phát tâm cúng dường và xây dựng rất nhiều chùa viện. Nhân một lần đi ngoạn cảnh tại núi Cửu Hoa, Văn Các Lão diện kiến được sự tinh tấn tu hành, cũng như đạo hạnh cao thâm của Tỳ-kheo Địa Tạng, ông liền thưa Tỳ-kheo Địa Tạng muốn dâng cúng Ngài một khu đất và lập một tự viện để Ngài tu hành. Tỳ-kheo Địa Tạng nói chỉ cần một khu đất che phủ bởi tấm áo Cà sa của Ngài, nhưng khi Ngài giũ áo lên thì tấm Cà sa phủ cả ngọn núi Cửu Hoa. Văn Các Lão vừa kính phục vừa vui mừng, liền mua cả ngọn núi Cửu Hoa cúng dường Ngài, ông còn phát tâm theo ủng hộ Ngài và cho người con trai của mình tên là Đạo Minh xuất gia theo Ngài học đạo. Từ ấy dân làng các vùng lân cận và các nơi đều kéo nhau về núi Cửu Hoa học Phật dưới sự hướng dẫn của Tỳ-kheo Địa Tạng, cũng trong thời gian ấy rất nhiều huyền thoại mầu nhiệm về sự cứu độ chúng sanh được kể về Ngài. Đến năm 99 tuổi, Tỳ-kheo Địa Tạng gọi đồ chúng đến dặn dò mọi việc rồi ngồi kiết già an nhiên thị tịch, lúc ấy là ngày 30 tháng 7 âm lịch. Theo lời dặn của Ngài các đệ tử đóng một cái quan bằng gỗ và tôn thờ tại núi Cửu Hoa, ba năm sau khai quan ra thì thấy nhục thân Ngài vẫn nguyên vẹn, sắc diện hồng hào, tỏa mùi thơm… các đệ tử liền xây một bảo tháp cao ba tầng trên núi Cửu Hoa để tôn thờ nhục thân Ngài, gọi là “Nhục thân bảo tháp”. Cũng trong năm ấy, năm 797, Hoàng đế nhà Đường lúc ấy là Đường Đức Tông nghe việc hy hữu nhiệm mầu, liền ban chiếu chỉ xây một bảo điện to lớn bao lên trên bảo tháp để bảo vệ nhục thân của ngài, gọi là “Nhục thân bảo điện” để tỏ lòng kính ngưỡng phụng thờ. Và nhục thân của Ngài đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Ngọn núi Cửu Hoa còn gắn liền với nhiều huyền thoại linh ứng về sự cứu độ chúng sanh của Bồ-tát Địa Tạng[14] và ngay từ thời ấy đến tận bây giờ, thánh địa Cửu Hoa Sơn trở thành một trong bốn thánh cảnh thiêng liêng nhất của Phật giáo Trung Hoa. Hàng năm, thánh địa Cửu Hoa sơn thu hút hàng vạn Phật tử và du khách tại Trung Hoa cũng như trên thế giới đến chiêm bái và viếng thăm. Theo lịch sử của Cửu Hoa Sơn, Tỳ-kheo Địa Tạng thị tịch vào ngày 30 tháng 7 âm lịch, Phật giáo đã chọn ngày này làm ngày lễ vía hằng năm của Bồ-tát Địa Tạng. Cũng trên tinh thần ấy, sau lễ Vu Lan, các chùa thường khai kinh Địa Tạng và thọ trì, đọc tụng hết tháng này. Và các pháp hội về Bồ-tát Địa Tạng cũng thường được tổ chức trong những ngày này. Trong các tranh tượng của chư đại Bồ-tát, chúng ta có thể thấy rằng, hình tượng của Bồ-tát Địa Tạng là tiêu biểu cho hình dáng và lý tưởng của người xuất gia hơn là những hình tượng của các vị Bồ-tát khác. Nếu hình tượng của Bồ-tát Quán Thế Âm có hình dáng của người mẹ hiền, với bình cam lộ, giọt nước, cành dương xoa dịu những nỗi khổ đau nơi trần thế; hình tượng của Bồ-tát Văn Thù như một nhà thông thái tự tại trên lưng sư tử oai hùng, với thanh gươm trí tuệ chặt đứt những sợi dây phiền não vô minh; hình tượng của Bồ-tát Phổ Hiền an nhiên trên con bạch tượng với cành hoa sen trên tay, tiêu biểu cho thập hạnh chuyên cần tiến bước trên đường giác ngộ; thì hình tượng của Bồ-tát Địa Tạng với đầu tròn đội mũ Tỳ lư, mình đắp Cà sa, tay cầm tích trượng tiêu biểu cho hình tượng của chư Tăng, thực hiện lý tưởng cứu khổ độ sanh. Đó là hình tượng của ngài Địa Tạng mà chúng ta thường gặp nhất trong các chùa. Trong chánh điện các chùa, tôn tượng của Ngài thường được tôn thờ bên phải đức Thế Tôn hay đức Phật Di Đà, bên trái là Bồ-tát Quán Thế Âm. Đôi khi hình tượng Ngài còn được mô tả bên phải có hộ pháp Văn Các Lão, bên trái là Tỳ-kheo Đạo Minh, dưới chân Ngài là con Linh khuyển.[15] Một hình tượng của Ngài mà chúng ta thường trông thấy trong các buổi đại trai đàn chẩn tế là, Ngài ngồi tự tại trên một con kì lân hung tợn một sừng, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm viên minh châu tỏa sáng quang minh để cứu độ chúng sanh trong cảnh giới địa ngục kinh hoàng. Dù là hình tượng nào thì ngài Địa Tạng vẫn là hình tượng trang nghiêm tiêu biểu cho ‘đầu tròn áo vuông’, đầu đội mũ Tỳ lư, tay cầm tích trượng, mình mặc áo Cà sa… đó chính là hình ảnh của một vị Tăng xuất thế. Tuy nhiên, bước sang tinh thần của Phật giáo Nhật Bản thì lý tưởng, hạnh nguyện và hình tượng của ngài Địa Tạng rất đặc biệt, có đôi phần khác so với các nước Trung Hoa, Đài Loan, Việt Nam[16]… như đã miêu tả ở trên. Khi kinh Địa Tạng được truyền sang Nhật, người Phật tử Nhật có lẽ chú trọng và phát huy về sự cứu độ của ngài Địa Tạng qua hạnh nguyện cứu độ và bảo vệ những trẻ em bị yểu mạng, hay bất hạnh chết trong bào thai (sẩy thai) hay chết yểu lúc tuổi còn rất nhỏ; chính vì vậy mà hình tượng của Bồ-tát Địa Tạng thường được mô tả theo truyền thống Nhật là tay phải cầm tích trượng, tay trái bồng một em bé, đôi khi là hình tượng tay phải buông xuống cứu độ các trẻ em, tay trái bồng một em bé, dưới chân Ngài có 3 em bé đang vói tay đòi Ngài bồng, hay hình tượng của Ngài trong hình tượng là một em bé tay phải cầm gậy, tích trượng để đánh đuổi bọn quỷ hung ác, tay trái cầm một toà nhà, hay hình tháp nhỏ để hòa đồng và giúp những em bé bất hạnh, bơ vơ tích tạo công đức vượt qua dòng sông Nại Hà…[17] Chúng sanh với đa căn, đa bệnh, để thích ứng từng căn cơ, từng hoàn cảnh, Bồ-tát Địa Tạng cũng tùy theo đó mà thị hiện những hình tướng tương ưng để hóa độ. Hình ảnh của đức Thế Tôn cũng tùy theo những quốc gia mà có những nét khác biệt, và giáo lý của Phật giáo cũng vậy, có Nam truyền, Bắc truyền, hay Nam tông, Bắc tông; có Nguyên thủy Phật giáo, Tiểu thừa Phật giáo và Đại thừa Phật giáo, v.v… tuy muôn màu muôn vẻ, đa dạng như thế nhưng đó chỉ là sự khác biệt trên hình tướng, danh tự… để thích hợp với từng thời đại, quốc độ, địa phương, hay từng căn cơ, lý tưởng của chúng sanh… còn về mặt bản thể, hay mục đích thì vẫn là một; đó là để tu tập giác ngộ, hoá độ chúng sanh và hướng đến sự toàn giác (tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn). Lý tưởng Bồ-tát qua hình tượng của ngài Địa Tạng tuy được phác họa qua những nội dung đơn giản trên, nhưng đó cũng chính là lý tưởng cao đẹp của chư Bồ-tát nói riêng hay của những người con Phật nói chung. Lý tưởng và hình tướng cao cả của Bồ-tát Địa Tạng luôn đại diện cho hình ảnh của những bậc tu hành xuất thế; đó cũng chính là hình ảnh và ý nghĩa của một trong Ba ngôi báu, với tinh thần vô uý, với thần lực vô ngại, với lý tưởng vị tha luôn dấn thân để cứu độ chúng sanh thoát khỏi cảnh Nhà lửa tam giới, hay những khổ cảnh trong những địa ngục kinh hoàng.■ -------------------------------------------------------------------------------- [1]. Kệ hô chung, kinh Nhật Tụng, NXB TP. HCM, PL. 2544, Tr.457. [2]. Sa-di Giới và Sa-di-ni Giới, Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải, 51 là tính đầy đủ, nếu tính các bài kệ bốn câu thì chỉ có 45 bài kệ. [3]. Bản tiếng Phạn này ngày nay chưa tìm thấy. [4]. Trời Đao Lợi, còn gọi là cõi trời Tam Thập Tam, đây là cõi trời thứ hai tính từ dưới lên trong 6 cõi trời dục giới: Tứ thiên vương, Đao-lợi, Dạ-ma, Đâu- suất- đà, Hoá lạc và Tha hoá tự tại [5]. Hiếu Kinh của Phật giáo, http://www.thuvienho...hdiatang-00.htm [6]. http://www.tangthuph...hducdaiquan.htm [7]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ nhất, Trưởng giả tử phát nguyện [8]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ nhất, Bà-la-môn nữ cứu mẹ [9]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ tư, Ông vua nước lân cận [10]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ tư, Quang Mục Cứu Mẹ [11]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ nhất, Thần thông trên cung trời Đao lợi[12]. Nơi đức Phật Đản sanh ở Lumbini, nơi đức Phật thành đạo tại Bodhagaya, nơi đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên ở vườn Lộc Uyển (Sanarth) và nơi đức Phật nhập Niết-bàn ở Kushinaga [13]. Xem Tứ Đại Danh Sơn, http://www.quangduc....214danhson.html [14]. Xem Tháng bảy với đức Bồ-tát Địa Tạng, http://daitangkinhvi...-tng-b-tat.html [15]. Xem Linh khuyển Thiện thính, http://www.quangduc....linhkhuyen.html [16]. Xem Bồ-tát Địa Tạng, vị Bồ-tát bảo vệ trẻ em, http://www.quangduc....tatdiatang.html 17]. Xem Earth Store Bodhisattva (or Jizo Bosatsu in Japanese), http://www.onmarkpro...tml/jizo1.shtml Huynh Công Minh có thể diễn giải Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới theo truyền thống Đông Mật??? Thanks1 like
-
III – Mấy điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Như đã dẫn ở trên một trong những nội dung của một bộ kinh Phật là nói về Thánh Đức và linh ứng của một vị Phật hay Bồ Tát. - Kinh Dược Sư ca ngợi Thành Đức của Đức Đông Phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh A Di Đà ca ngợi Thánh Đức của Đức Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh Pháp hoa ca ngợi hạnh nguyện các vị Bồ-tát: Quan Thế Âm, Trì Địa, Thường Bất Khinh, v.v… - Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. 1- Điểm đặc biệt thứ nhất là nơi chốn giảng kinh : Khởi đầu một bộ kinh Đại Thừa là giới thiệu địa điểm giảng bộ kinh đó, thường thì các địa điểm đó là những nơi địa linh thuộc về “ mặt đất “ này ví dụ : - Kinh Hoa Nghiêm : Như vậy tôi nghe, một lúc Phật ở nước Ma Kiệt Ðề, trong Đạo Tràng Bồ Đề, ban đầu thành Vô thượng Chánh giác. Nơi đó đất cứng chắc, bằng Kim Cang. - Kinh Thủ Lăng nghiêm : Tôi nghe như vầy, một thời, Phật ở tại Tinh xá Kỳ-hoàn trong thành Thất-la-phiệt. - Kinh Dược Sư : Tôi nghe như vầy, Một thời, đức Thế tôn du hóa các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc…. - Kinh A Di Đà : Tôi nghe như vầy,một thủa nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ… - Kinh Pháp Hoa : Tôi nghe như vầy, một thời, Ðức Phật ở tại thành Vương Xá, trên núi Kì Xà Quật Tại kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao Lợi (1) …. ( Trời Đao Lợi: là từng trời thứ hai trong 6 từng trời ở cõi Dục. Đao lợi là tiếng Phạn, dịch là “tam thập tam” nghĩa là ba mươi ba, từng trời này ở tại núi Tu di nơi đó chia ra làm 33 nước trời, 32 nước ở bốn phương xung quanh, mỗi phương 8 nước; chính giữa là Thiện Kiến thành, cung của trời Đế Thích, vị trời này quyền thống nhiếp cả 33 nước trời.) Như vậy một điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ Kinh được giảng ở trên cõi Trời Theo truyền thống Phật Giáp Tây Tạng ( Kim Cương Thừa ) trong 1 niên lịch ( lịch Tạng) có nhiều ngày công đức tăng trưởng, nghĩa là vào những ngày đó làm một việc tốt nào đó thì công đức được tăng trưởng lên nhiều lần. Trong những ngày công đức tăng trường có 4 ngày công đức gấp 10 triệu lần : - Ngày Đức Phật Thích Ca phô diễn thần thông - Những ngày trong tháng tam hợp : Đức Phật Đản Sinh, Đức Phật thành đạo và Đức Phật nhập Niết bàn. - Ngày Đức Phật chuyển pháp luân - Và ngày Đức Phật hạ thế từ cõi trời Đế thích (2) ======================== Chú thích : (1) xem thêm : THIÊN THỨ MƯỜI MỘT THUYẾT PHÁP ÐỘ PHẬT MẪU Ở CÕI TRỜI ÐẠO LỢI Sau khi dùng thần thông thắng ngoại đạo xong. Ðức Thế Tôn dùng trí tuệ quan sát coi: Thường khi chư Phật lúc quá khứ làm những gì, ngự đi đâu sau khi thắng ngoại đạo? Ðức Thế Tôn thấy chư Phật quá khứ sau khi thắng ngoại đạo xong, Ngài liền ngự lên cõi trời Ðạo Lợi nhập hạ và thuyết pháp độ Phật mẫu. Pháp mà chư Phật quá khứ thuyết ở cõi Ðạo Lợi như trào lưu chảy rất mạnh giữa chư Thiên. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm Maha Thongkham Medhivongs) (2) Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất là một ngày cát tường nhất trong năm. Cung trời Đâu Suất Thiên được phân làm hai Viện: 1. Đâu Suất Thiên Ngoại Viện và. Đâu Suất Thiên Nội Viện. + Tại Đâu Suất Thiên Ngoại Viện, chư thiên hưởng cảnh an vui nhàn nhã với nhiều lạc thú, những vị đã tạo nhiều công đức thường tái sinh lên cõi trời này và thọ báo công đức cho đến khi hết mới phải chết và đi tái sinh. Nhưng chúng ta không nên cầu xin tái sinh vào Đâu Suất Thiên Ngoại Viện vì tại đây chỉ có lạc thú mà không có Phật pháp. + Ngược lại, Đâu Suất Thiên Nội Viện thì có Phật pháp, và hiện giờ đang có Đức Phật Di Lặc đang thuyết pháp tại đó. Chư vị nào đã tạo nhiều công đức do tu hành nhập thiền định thường được tái sinh lên cõi trời này để tiếp tục hành trì đạo pháp cho đến khi đạt Giác Ngộ (theo kinh Đâu Suất Thiên , thì 400 năm ở nhân gian dài bằng một ngày một đêm tại cung trời Đâu Suất). Theo lịch sử Phật Giáo thì sau khi thành đạo, trong 41 năm đức Thích Ca thường nhập thiền định vào mùa mưa và thời an cư kiết ha. Chư đệ tử chỉ thấy Ngài ngồi thiền định, nhưng thực ra trong lúc đó có khi Ngài phân thân đi nơi khác hoằng đạo. Tương truyền là Ngài đã thi triển thần thông đi lên trên cung trời Đâu Suất Thiên và ở tại đó 3 tháng (tính theo thời giờ của nhân gian) để thuyêt pháp cho Hoàng Hậu Ma Gia (Phạn ngữ là Mayadevi, tức là mẹ sinh ra Ngài vì bà đã tạ thế bảy ngày sau khi Ngài hạ sinh, và tái sinh vào thân của một vị Thiên Nam trên cung trời Đâu Suất). Tương truyền là 7 ngày trước khi Đức Thích Ca hạ thế từ Đâu Suất, Ngài ngưng tàng hình và nhờ đó mà đại đệ tử của Ngài là A Nậu Lâu Đà mới có thể dùng thiên nhãn để thấy được Ngài. Do đó A Nậu Lâu Đà đã thỉnh vị đệ tử Đệ Nhất Thần Thông Mục Kiền Liên bay lên cung trời Đâu Suất để đón Ngài hạ thế. Mục Kiền Liên tuân lời A Nậu Lâu Đà và bay lên Đâu Suất để thỉnh Đức Thích Ca hạ thế và bạch Ngài là chư đệ tử rất nhớ Ngài và xin thỉnh Ngài trở về lại cõi nhân gian để thuyết pháp cho tăng đoàn. Ngài trả lời là sẽ trở về trong 7 ngày. Khoảng thời gian này là lúc đang dựng tượng của vua Ba Tư Nặc Ngày Đức Thích Ca hạ thế, một đoàn thể lớn của chư tăng, các vua chúa và dân chúng của 8 nước lân cận họp nhau tề tựu đón mừng. Khi Đức Thích Ca hạ thế, một cái cầu thang bằng vàng bay từ trời xuất hiện trước theo mỗi bước Ngài đi xuống. Bên phải Ngài là vị trời Phạm Thiên, tay cầm phất trần màu trắng và đi xuống trên một cầu thang bằng pha lê trong suốt. Bên trái Ngài là vị trời Đế Thích đi xuống trên một cầu thang bằng bạc, tay cầm lọng che làm bằng châu bảo. Một doàn thể chư thiên đi theo sau để tiễn đưa Ngài về cõi nhân gian. Đức Phật tắm ngay sau khi hạ thế, sau này tại đó có xây một ngôi nhà và một bảo tháp để ghi lại dấu tích. Nơi Đức Thích ca hạ thế là thành Sankàsya nước Xá-vệ của Ấn độ, ngày nay còn là một nơi chốn có rất nhiều Phật tử đi hành hương. Theo truyền thống của tông phái Giới Đức (do Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo) thì vào ngày vía này, chúng đệ tử vân tập tại chùa để hành trì Lễ Cúng Dường Đức Bổn Sư ) Tóm Lược Về Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất – Lý Bùi Pháp danh Sonam Nyima Chân Giác) 2- Điểm đặc biệt thứ hai là đối tượng thọ nhận kinh điển : Trong cuộc đời du hóa chư quốc, truyền dạy giáo lý Phật đà Đức Phật cũng nhiều lần về lại kinh đô của vua cha để giảng đạo cho dòng tộc Thích ca Tại các bộ kinh Đại thừa và Mật thừa, đối tượng được nghe Ngài giảng kinh thường là các vị Bồ Tát, La hán, Chư thiên, Quốc vương, Đại thần, Balamôn, cư sĩ Thiên long bát bộ, nhân và phi nhân…. Và trong hàng chúng như thế, có một vi đặt vấn đề và Ngài sẽ vì một vị nào đó mà nói Pháp. Không lập tâm phân biệt, luôn biết rằng Kinh điển Phật giáo bất khả tư nghì vô lượng vô biên công đức và oai lực. Nhưng so sánh thì đa số các bộ kinh Đức Phật cũng thường vì Đại Chúng mà thuyết pháp. Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sanh thành, Ngài đã tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa nên đã lập Pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu. (1) Đây là một Pháp hội vô cùng quan trọng vì có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... cùng các chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cõi. Diễn nói Kinh Địa Tạng trong Pháp hội này vì thế mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha lành trong bốn cõi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế Tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả Pháp giới chúng sanh. Trong Pháp hội này Ngài vì thân mẫu mà thuyết Pháp nhưng động cơ chính vẫn là lòng từ bi lân mẫn đối với chúng sanh ở cõi Ta bà, đặc biệt là đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà Ngài biết chắc chắn là sẽ "bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ", vì thế trong Pháp hội này Ngài đã phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng nhiệm vụ "gắng độ chúng sanh trong cõi Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ ký.” (Quyển Thượng Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội). Đương thời đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự tại cung trời này mà thuyết pháp trong 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 7). Thánh mẫu là bà Ma Gia phu nhân sinh mẫu của Thái Tử Sĩ Đạt Ta. 7 ngày sau khi hạ sinh thái tử, bà bỏ thân người sinh lên cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ đức Phật sắp nhập diệt, ngài ngự lên đó nói pháp, trước để đáp ơn sinh thành, sau nhân đó mà giáo hóa hàng chư Thiên, cùng Long, Thần bát bộ và cả thảy Thánh, phàm. Như vậy điểm đặc biệt thứ hai của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ kinh Đức Thế Tôn vì Mẹ mà thuyết pháp. Con người, trong các mối quan hệ tình cảm cha con; vợ chồng ; anh em; bạn bè … thì tình mẫu tử luôn có một vị trí đặc biệt. Mặc dù cũng là đấng sinh thành, nhưng vị trí của người Cha trong đứa con không thể sâu đậm như người Mẹ. Phải chăng : Công Cha chỉ mới như núi Thái sơn – cao thật cao nhưng còn có ngọn.? Nhưng nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra – thật vô tận.! Nên đã có thật nhiều tác phẩm nghệ thuật, văn học, ca khúc ca ngợi về tình mẹ, hơn là tình cha.? Nghĩ cho cùng thì không nên phân biệt so sánh nhiều, nhưng thực tế là như vậy. Nói thêm chút ít cũng là thừa, bởi tất cả chúng ta ai cũng ít nhiều thấu hiểu thế nào là tình cảm của người con đối với người Mẹ, so với các thứ tình cảm khác như đã nêu ở trên. Đạo Phật là đạo chủ trương hiếu nghĩa, những ai đang có Cha Mẹ già trong nhà là đang được hiện diện trước Phật sống giữa đời thường. Truyền thống đó đưa vào thành nghi lễ đặc biệt đặc biệt chắc ít có tôn giáo nào có được – mùa Vu lan bồn. Phật tử Việt Nam ai cũng đều biết tích tuồng : Mục Kiền Liên cứu Mẹ, thường được công diễn vào các dịp lễ Vu Lan hàng năm, chuyện kể về Đức Mục Kiền Liên xuống địa ngục cứu Mẹ là bà Thanh Đề bị đọa làm Ngạ qủy. Ngài là 1 trong mười đại đệ tử của Đức Phật được tuyên là đệ nhất thần thông, nhưng vậy mà với những nghiệp nặng bà Thanh Đề tự gây ra, Ngài cũng không làm được gì hơn ra ngoài quy luật quả báo. Chỉ đến khi Đức Phật dạy rằng:“Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó ” Theo lời Phật dạy, Ngài làm đúng lời và mẹ ngài được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Ngài Mục Kiền Liên sau có tên gọi là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng là từ tích đó. Như vậy có hai câu chuyện về sự đại báo hiếu trong Phật đạo. Một là : Bậc thầy là Ðức Thế Tôn vì Mẹ mà lên trời giảng pháp. Hai : bậc trò là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng vì Mẹ mà xuống địa ngục tìm đường cứu mẹ. Rồi cả hai bà Mẹ đề được độ lên những cảnh giới cao. Nên ngoài những nội dung của bộ kinh có nói về chuyện hiếu nghĩa, thì những nội dung phân tích ở trên, Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện được gọi là hiếu kinh của Phật giáo phải chăng là như vậy. ======== (1) Nghĩ xong đức Thế Tôn mới đưa tay mặt ra về hướng Phật mẫu đang ngồi rồi nói: - Thưa mẫu hậu, xin lịnh mẫu hậu hãy đến gần đây để Như Lai được trả món nợ vĩ đại là sự cực nhọc chăm nom săn sóc cho Như Lai bú mớm từ giọt sữa miếng cơm trong khi còn luân hồi trong tam giới. Ðức Thế Tôn bắt đầu thuyết bộ Vi Diệu Pháp ấy chia ra làm bảy phần khác nhau, thuyết trót ba tháng hạ tại cõi trời Ðạo Lợi. Ðức Thế Tôn độ Phật mẫu đắc được Tu-đà-huờn quả và chư Thiên thành đạo nhiều vô số kể. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm - Maha Thongkham Medhivongs) 3- Điểm đặc biệt thứ ba là hạnh nguyện và công đức của vị Bồ Tát được giảng : Trong các bài quán tưởng đảnh lễ trước các nghi lễ trì tụng kinh chú của Phật giáo Đại thừa Bắc tông, chúng ta thường hay gặp câu đảnh lễ : ĐẢNH LỄ - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy) Theo thuyết Ngài Di Lặc là vị phật thời tương lai, thì ở đây chúng ta được đảnh lễ 6 vị đại bồ tát - Đại Từ Di Lặc Bồ Tát : ( Từ - hiền hậu ) - Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ( Trí – trí tuệ ) - Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát ( Hạnh – Đức Hạnh ) - Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát ( Bi – Lòng thương ) - Đại Thế Chí Bồ Tát ( Chí – Chí khí, dũng khí ) - Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ( Nguyện – nguyện lực , lời hứa hay lời “thề” ) Trong đó bốn vị Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát khi đến các nơi thánh tích, chùa chiền thì thường gặp tôn tượng hơn cả. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn Trong truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng thường được trì niệm khi tuyên danh hiệu tám vị Đại Bồ Tát Tám vị Bồ Tát Đức Văn Thù Sư Lợi trẻ trung, Đức Kim Cương Thủ quang vinh, Đức Quán Thế Âm quyền uy, Đức Bảo trợ Di Lặc từ ái vô biên, Đức Địa Tạng , Đức Trừ Cái Chướng, Đức Hư Không Tạng, và Đức Phổ Hiền cao quý nhất. Thật thanh nhã, các Ngài cầm những biểu tượng là Hoa sen xanh, Chày kim cương, Hoa sen trắng, cây Naga, Ngọc báu, Mặt trăng, Thanh kiếm và Mặt trời! Và siêu việt trong việc ban cho sự cát tường và thành tựu, chúng con xin đảnh lễ Tám vị Bồ Tát! ( Trích : Bài nguyện Tám đấng Cát tường – với lời chú dẫn : Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi khởi sự việc gì, bạn sẽ hoàn thành tất cả các mục tiêu của ngày hôm đó. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn ngủ, bạn sẽ trải qua những giấc mơ đẹp. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này trước khi bạn bước vào một cuộc chiến, bạn sẽ là người chiến thắng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn bắt đầu một hoạt động, điều bạn ước muốn sẽ tăng trưởng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này hằng ngày thì tuổi thọ, vinh quang, danh tiếng, thịnh vượng, cát tường, hạnh phúc và xuất sắc sẽ được thành tựu viên mãn như mong ước của bạn. Tất cả các hành động và chướng ngại gây hại sẽ được tịnh hóa. Cả những cõi cao hơn và Phật quả tối thắng -- tất cả mục tiêu đều sẽ được thành tựu.) Nguyện : Nguyện như là lời hứa, lời cam kết hay lời “Thề”. Ví dụ như các chiến sĩ có nguyện : Trung với nước, hiếu với dân nguyện một lòng mang sức mình ra phụng sự tổ quốc. Trong kinh điền Phật giáo, Phật A Di Đà có 48 lời nguyện, Phật Dược Sư có 12 lời nguyện; các vị Bồ Tát (Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát , Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ) đều có hạnh nguyện trước khi thành Phật. Nhưng xét ra, các hạnh nguyện của 3 vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm cũng có thể có ngày đạt thành quả vị. Còn hạnh nguyện của ngài Địa Tạng thì thật là lâu, bởi : “chừng nào độ hết chúng sanh thì mới nguyện thành Phật “ hay “Nếu nơi địa ngục còn một bóng ma, quyết không thành Phật!" Nên xưng danh hiệu Ngài là Đại Nguyện là như vậy. Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồn vì ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đã mang một ý nghĩa như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu, chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ý rằng Ngài là đại địa bao la, nơi ẩn chứa những kho tàng quý giá, tức thiện căn. Địa Tạng vì thế như là hình ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đã lên tiếng tán dương: "Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn." ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Một bộ kinh ca ngợi Thánh đức và oai lực của Một vị Vương - U Minh Giáo Chủ là điểm đặc biệt thứ ba của bộ Kinh này.1 like
-
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính thưa Quý Thầy, qúy Tôn Sư cùng qúy bạn đạo gần xa. Vâng lời chỉ dạy của Tôn Sư, sau một thời gian tầm học. Vào ngày 30 tháng 7 ( Ngày vía của Đức Địa Tạng ) năm Canh Dần (2010) duyên lành cho con được đến lễ Phật và chiêm bái tôn tượng Đức Địa Tạng đen tại Quan Âm Tu Viện - Biên Hòa, Đồng Nai. Hôm đó cũng là dịp nhà chùa tổ chức đại lễ kỷ niện ngày nhập niết bàn của Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước (Tăng chủ phái LIÊN TÔNG TỊNH ĐỘ NON BỒNG), có đông đảo đạo hữu, Phật tử xa gần về dự lễ. Trong không khí thiêng liêng và linh động đó, tại giây phút mà tâm linh đạt vào cảnh giới quán tưởng “Năng lễ sở lễ tánh Không tịch” để đảnh lễ trước tôn tượng của Ngài, con được khai trí giác ngộ thêm về những công đức, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng Vương. Xin xem tham khảo thêm bài viết về Đức Địa Tạng Đen tại đây : Địa Tạng Đen Cũng may mắn sao, trong quá trình tìm hiểu về Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới theo truyền thống Đông Mật, con cũng hữu duyên tìm được những tài liệu dịch thuật kinh điển và biên khảo, tổng hợp của Thầy Thích Quảng Trí, thầy – cư sĩ Huyền Thanh tại bộ Mật Tạng Việt Nam, Bộ giảng luận về Kinh Địa Tạng bồ tát bổn nguyện của Hòa thượng Tuyên Hóa ; các bài giảng – luận về Kinh Địa Tạng của thầy – cư sĩ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền cùng nhiều bài tiểu luận, kinh sách nói về Thánh đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng bằng sách in và trên mạng điện toán toàn cầu. Nhân dịp háng bảy ngày rằm xá tội vong nhân - mùa Vu Lan báo hiếu và cũng chuẩn bị cho kỷ niệm ngày vía của Ngài (30/7)năm nay, con xin mạo muội được bày tỏ và chia sẻ một vài kiến thức thô lậu về Phật học nơi đây không ngoài tâm ý Phổ nguyện: âm siêu dương thái, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo. Mọi sự thiếu sót do tầm hèn trí thiểu của người viết, ngưỡng mong chư vị Cao Tăng Đại Đức, các Bậc Thiện Tri Thức, huynh đệ gần xa có dịp ghé qua đây rũ lòng Từ Bi Trí Tuệ chỉ dạy cho kiến thức của người viết và nội dung bài viết này được thêm phần hoàn chỉnh. Xin trân trọng cám ơn sự quan tâm của qúy liệt vị NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Truyền thống văn hóa Phật giáo Bắc Tông Đại thừa ( tại Việt Nam, Trung Quốc ) ngoài các lễ cúng trong tháng âm lịch đặc biệt có mấy phân kỳ thành giai đoạn đặc biệt: - Tháng giêng : khởi đầu một năm mới là mùa cầu an lạc thái bình với các nghi thức thiết đàn, khai kinh phúng tụng kinh Dược Sư, còn gọi là tháng cầu an. - Tháng 4 : mùa Khánh Đản là tháng tổ chức thực hiện các nghi lễ lớn mừng ngày Đản Sinh của Đức Phật Thích Ca. - Tháng 7 : là tháng ra hạ sau một kỳ an cư tu học miên mật của chư Tăng Ni. Đặc biệt trong tháng bảy có những ngày khánh đản của nhiều vị Bồ-tát Đại Thế Chí (ngày 13), Địa Tạng (ngày 30), Long Thọ (ngày 24), Tổ sư Phổ Am (ngày 21) và ngày Phật hoan hỷ (ngày 15). Tháng 7 là tháng ( mùa ) Vu lan thắng hội để các người con Phật báo hiếu tổ tiên. Tháng có ngày rằm mà dưới Âm ty địa phủ mở cửa ngục để xá tội cho các vong linh ( theo truyền thống dân gian) - Tháng 11 : tháng có ngày vía kỷ niệm Đức Tây Phương giáo chủ A Di Đà Phật. Tháng 7, ngay từ những ngày đầu tháng ( gần đây có chùa tổ chức từ tháng 6) nhiều chùa tổ chức thiết đàn, trì tụng nhiều bộ Kinh Phật đề Phật tử cầu siêu báo hiếu cho ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp ; cầu siêu cho chiến sĩ trận vong đồng bào tử nạn…. nói chung là chúng sinh thuộc cõi địa ngục được siêu sanh thoát hóa. Một số bộ kinh thường được trì tụng trong tháng 7 là: Kinh A Di Đà; kinh Vu lan báo hiếu và đặc biệt là kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Kinh nói về thánh đức, công hạnh, đại nguyện và sự linh ứng của ngài Địa Tạng Bồ Tát I – Khái lược về kinh Phật: Kinh Phật nói chung còn gọi là Khế kinh, dịch theo âm là Tu-đa-la, là tên gọi của các bài giảng của đức Phật. Nội dung thì Kinh ghi lại những gì chính đức Phật giảng dạy. Khởi đầu bộ kinh ta hay nghe câu “Tôi nghe như vầy…” (Như thị ngã văn – hán văn ). Câu này tương truyền xuất phát từ A-nan-đà, một đệ tử của Phật. A-nan-đà là người có trí nhớ phi thường, đã thuật lại những lời Phật nói trong buổi Kết tập lần thứ nhất ngay sau khi Phật diệt độ. Tiếp theo thường là kể lại buổi nói chuyện về một đề tài nào đó như giới thiệu về Thánh Đức và linh ứng của một vị Phật hay Bồ Tát; về nguyên lý, chuyện ứng xử hay hiện tượng nào đó ….. Nội dung chi tiết bao gồm giới thiệu những đại biểu tham dự ( các bậc bồ tát, trời , thần …..), nơi chốn giảng kinh, thời gian. Tiếp theo là những lời khai thị của Phật, có khi là những cuộc đối thoại sinh động. Thường thường lối hành văn của kinh giản đơn, dễ hiểu, có tính giáo khoa. II- Các bộ klinh nói về ngài Địa Tạng : 1 . Kinh Đại phương quảng thập luân (大方廣十輪經), còn gọi là kinh Phương quảng thập luân, Thập luân, 8 quyển, mất tên người dịch, được dịch vào thời Bắc Lương, tạng Đại Chánh 13, số 410, trang 681. Nội dung kinh này gồm 15 phẩm, kể về công đức của Bồ-tát Địa Tạng, đồng thời nói nếu nương vào 10 Phật luân (10 lực) và 10 y chỉ luân của Tam thừa thì có thể xoay chuyển 10 ác nghiệp luân. Bản dịch khác của kinh này là Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân (xem ở dưới ). 2. Kinh Địa Tạng thập luân (地藏十輪經) : gọi đủ là kinh Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân, 10 quyển, ngài Huyền Trang (600-664) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 411, trang 721. Kinh này tường thuật đức Như Lai nhân lời thưa hỏi của Bồ-tát Địa Tạng mà nói 10 thứ Phật luân (10 lực), có năng lực phá trừ 10 ác luân trong đời mạt pháp, và khen ngợi công đức Bồ-tát Địa Tạng. Mục đích kinh này nhằm dung hợp Tam thừa về Đại thừa, lại nhắm vào các Tỳ-kheo phá giới mà giải thích rõ về công đức “thắng tưởng”, và việc Bồ-tát Địa Tạng hiện tướng Sa-môn để cứu độ chúng sanh trong đời mạt pháp. Nội dung gồm 8 phẩm: 1. Phẩm Tựa; 2. Phẩm Thập luân; 3. Phẩm Vô y hành; 4. Phẩm Hữu y hành; 5. Phẩm Sám hối; 6. Phẩm Thiện nghiệp đạo; 7. Phẩm Phước điền tướng; 8. Phẩm Hoạch ích chúc lụy. 3. Kinh Địa Tạng bồ-tát bổn nguyện (地藏菩薩本願經), 2 quyển, ngài Thật-xoa-nan-đà (Śikṣānanda, dịch Hỷ Học, 652-710, người nước Vu-điền) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 412, trang 777. Kinh này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. Người đọc tụng kinh này có thể tiêu trừ vô lượng tội nghiệp và được lợi ích không thể nghĩ bàn. Nội dung 1. Phẩm Đao-lợi thiên cung thần thông (Thần thông tại cung Đao-lợi); 2. Phẩm Phân thân tập hội (Thân phân hoá qui tụ lại); 3. Phẩm Quán chúng sanh nghiệp duyên (Quán sát nghiệp quả chúng sanh); 4. Phẩm Diêm-phù chúng sanh nghiệp cảm (Nghiệp quả của người Diêm-phù); 5. Phẩm Địa ngục danh hiệu (Danh xưng địa ngục); 6. Phẩm Như Lai tán thán (Thế Tôn tuyên dương); 7. Phẩm Lợi ích tồn vong (Lợi ích người còn kẻ mất); 8. Phẩm Diêm-la vương chúng tán thán (Các vua Diêm-la xưng tụng); 9. Phẩm Xưng Phật danh hiệu (Xưng tụng danh hiệu chư Phật); 10. Phẩm Giáo lượng bố thí công đức duyên (trắc lượng công đức bố thí); 11. Phẩm Địa thần hộ pháp (Thần đất hộ trì); 12. Phẩm Kiến văn lợi ích (Ích lợi của sự thấy nghe); 13. Phẩm Chúc lụy nhân thiên (Thế Tôn ký thác). 4. Kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo (占察善惡業報經), còn gọi là kinh Địa Tạng Bồ-tát nghiệp báo, Địa Tạng Bồ-tát, 2 quyển, do ngài Bồ-đề-đăng (người Tây Vực) dịch thời Tuỳ, tạng Đại Chánh 17, số 839, trang 901. Nội dung kinh này nói Bồ-tát Địa Tạng phụng mệnh đức Phật, thuyết pháp cho chúng sanh ở đời mạt pháp nghe về việc cầu pháp lành. Quyển thượng nói rõ pháp xem xét nghiệp báo thiện ác. Quyển hạ thuật nghĩa chân thật của Đại thừa. 5. Địa Tạng bồ-tát nghi quĩ (地藏菩薩儀軌), 1 quyển, do ngài Du-bà-ca-la (dịch là Thiện Vô Uý, người nước Ma-già-đà, Ấn Độ) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 20, số 1158, trang 652. Nội dung kinh thuật lại lúc đức Phật ở trên núi Khư-la-đề-da, Bồ-tát Địa Tạng muốn nói thần chú làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, sau khi được đức Phật hứa khả, Bồ-tát Địa Tạng liền nói ba loại thần chú: Đại, trung, tiểu, kế đến nói về cách vẽ tượng, sau đó nói về ấn chú, ấn Phổ cúng dường, Tổng thuyết tổng ấn, Thỉnh tán ấn, cuối cùng nói cách thành tựu 17 pháp hộ ma. 6. Kinh Địa Tạng Bồ-tát đà-la-ni (佛說地藏菩薩陀羅尼經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 20, số 1159B, trang 655. Nội dung kinh này nói về Đà-la-ni, công đức và thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng. Đà-la-ni gồm 63 câu, người trì tụng Đà-la-ni này có thể diệt trừ tất cả khổ não. 7. Địa Tạng Bồ-tát thập trai nhật (地藏菩薩十齋日), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2850, trang 1300. Nội dung kinh này chỉ dạy 10 ngày ăn chay (giữ giới) trong tháng. 8. Kinh Địa Tạng bồ-tát (佛說地藏菩薩經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2909, trang 1455. Nội dung kinh kể về Bồ-tát Địa Tạng ở thế giới Lưu Ly phương Nam, dùng thiên nhãn thanh tịnh quán chúng sanh thọ khổ trong địa ngục, không chịu được cảnh ấy, Ngài mới đến địa ngục cùng vua Diêm-la phán xét, và cũng vì sợ vua Diêm-la đoán xử sai, hoặc chưa đúng tội mà xử chết... Đồng thời, nếu có thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng, biên chép kinh Địa Tạng, vẽ hình tượng, hay niệm danh hiệu ngài, thì khi lâm chung đều được Ngài tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc... 9. Kinh Địa Tạng bồ-tát phát tâm nhân duyên thập vương (佛說地藏菩薩發心因緣十王經), gọi tắt kinh Địa Tạng thập vương, hay Thập vương kinh, 1 quyển, do Sa-môn Tạng Xuyên ở chùa Từ Ân phủ Thành Đô soạn, thuộc Tục tạng (chữ Vạn 卍) tập 1, số 20, trang 404a6. Nội dung kinh này nói việc người chết chịu sự phán xét thiện ác ở điện Thập vương cõi âm phủ, về nhân duyên phát tâm cũng như bản nguyện của Bồ-tát Địa Tạng và chỉ rõ tiền thân vua Diêm-La chính là Bồ-tát Địa Tạng. Cuối cùng dùng bài kệ nói về Phật tính để kết thúc kinh. Năm Canh Dần 2010, cư sĩ Huyền Thanh đã công phu Việt dịch và biên tập tổng hợp một số bộ kinh và nội dung nói về Thành đức của Đức Địa Tạng. Nội dung gồm các phẩm : Hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát; Thủ Ấn Chân Ngôn của Địa Tạng Bồ Tát; Phật nói Kinh Diên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát ;Kinh Bách Thiên Tụng Đại Tập_Bài Tán Địa Tạng Bồ Tát Thỉnh Hỏi Pháp Thân ; Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ ;Phật nói Kinh Địa Tạng Bồ Tát Đà La Ni ; Mười ngày Trai của Địa Tạng Bồ Tát ; Phật nói Kinh Địa Tạng ; Nghi Thức Tán Lễ Địa Tạng Bồ Tát Sám Nguyện; Nghi Thức Trì Tụng Pháp Địa Tạng . Trong các bộ Kinh trên, Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là bản kinh trì tụng thông dụng, đã được nhiều bậc Trưởng lão, Kỳ túc Việt dịch, chú giải, như Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Trí Quang; Hòa thượng Tuyên Hoá (Tổng hội Phật giáo thế giới ở Vạn Phật Thánh Thành - Hoa Kỳ Việt dịch 1 bản, Cố thượng tọa Thích Chánh Lạc - Học viện Hải Đức, Nha Trang dịch 1 bản), cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền dịch là Địa Tạng Mật Nghĩa1 like
-
VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Tiếp theo CANH BẠC CUỐI CÙNG Vào năm 2008, một họa sĩ người Gia Nã Đại gốc Hoa đã vẽ bức tranh mang màu sắc chính trị này và đem triển lãm ở New York. Bức tranh vẽ một cô gái Hoa Kỳ xiêm y nghiêm chỉnh, hai tay vừa sửa lại tóc vừa vênh cái bộ mặt đanh đá , liếc xéo cô gái Đài Loan đang ở truồng, ôm cái nón lá có mấy trái táo, đứng ngoài chiếu bạc với vẻ đau khổ tiều tụy. Cô gái Nhật, Trung Hoa và Nga đều "Ở trần đóng khố". Họ đang đánh bạc với hành vi gian lận của cô gái Tàu. Cô gái Nhật thì vẫn cười sởi lởi. Còn cô gái Nga thì nằm vật ra, một chân vẫn gác lên đùi cô gái Hoa Kỳ. Một bức tranh mang màu sắc chính trị thấy rõ. Nhưng nó ngụ ý gì thì không thuộc "phạm trù" tư duy của các nhà bình luận nghệ thuật thuần túy. Thời điểm xuất hiện của bức tranh này vào tháng 3. 2008. Đây cũng chính là năm mà lyhocdongphuong.org.vn xác định với lời tiên tri nổi tiếng: "Vào khoảng tháng 4/5 Việt lịch, các đại gia trên thế giới sụp đổ, khởi đầu cho một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu"(*). Bức tranh tương tự như thế này đã được giới thiệu lên diễn đàn Lý học Đông phương với việc tìm hiểu nội dung bức tranh vào khoảng đầu năm 2011. Chính tôi đã đặt tên cho bức tranh này là "Canh bạc cuối cùng". Có cái gì đó trùng hợp giữa lời tiên tri về khủng hoảng kinh tế thế giới của tôi và sự trần trụi của các cô gái đại diện cho những siêu cường này. Hình như cũng có cái gì đó liên hệ giữa sự phủ nhận trơ tráo cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến thành "liên minh bộ lạc" với những con bạc trong bức tranh và sự khủng hoảng kinh tế không có lối thoát hiện nay trên toàn thế giới. Chẳng cần phải có trình độ uyên bác về Lý học, cũng chẳng cần một nhãn quan chính trị sâu sắc; chỉ cần "tư duy nghĩ cũng thường thường bậc trung", cũng đủ thấy đây là "Canh bạc cuối cùng", khi các con bạc đang "ở trần đóng khố" tức là đã hết sạch. Họ chỉ có thể đánh ván cuối cùng thắng thua ngã ngũ. Vì không còn gì để dánh tiếp. Trong canh bạc này cô gái Đài Loan bị tống cổ ra ngoài chiếu bạc; cô gái Nga ngã vật xuống giường vì đã hết sạch. Cô gái Nhật thì còn hy vọng. Riêng cô gái Tàu thì dấu một con bài phía sau. Phải chăng tác giả muốn thể hiện cô gái Tàu ý thức được đây là canh bạc tháu cáy cuối cùng, nên quyết hơn thua, bất chấp luật chơi và muốn thắng với mọi thủ đoạn?! Trước đây, tôi đã phân tích bức tranh này và cho rằng: Họa sĩ vẽ còn thiếu một cô gái Ấn Độ. Đến nay trên thực tế "Canh bạc cuối cùng" này cho thấy tôi đã đúng và quả là sự thiếu sót của họa sĩ Gia Nã Đại gốc Tàu: Cô gái Ấn Độ đã tham gia cuộc chơi. Bức tranh này còn một ý nghĩa nữa là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới - qua hình ảnh các cô gái "ở trần đóng khố" trên bức tranh - là nguyên nhân để có canh bạc tháu cáy cuối cùng này. Các bạn thân mến. Tôi phân tích bức tranh này chỉ cho vui mà thôi. Cũng như trong việc chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến, tôi không bao giờ coi việc giải mã những di sản văn hóa vật thể hay phi vật thể làm bằng chứng khoa học cả. Đám "hầu hết" và "cộng đồng" với tư duy "ở trần đóng khố" sẽ la hét ầm ĩ, gõ phèng phèng lên ngay. Nhưng họ không có cơ hội đó, vì Thiên Sứ tôi biết trước điều này. Mặc dù về phía đám tư duy ở trần đóng khố phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt vẫn giải mã ầm ầm. Nhưng họ càng la lối phủ nhận truyền thống Việt, càng lộ rõ sự chủ quan, phi lý của mục đích phủ nhận văn hóa truyền thống Việt mà họ đang cố gắng thực hiện. Nó cũng giống như càng cố gắng chiếm biển Đông của Trung Quốc càng lộ rõ sự ngang ngược vô lý của Trung Quốc. Nó vô lý đến mức quốc gia Malaixia có lãnh thổ sát biển mà không còn một tấc biển nào. Tất nhiên chẳng có cơ sở lịch sử nào, cũng không có một công ước quốc tế hoặc một giá trị dù chỉ ở mức hợp lý nào, để nước Malaixia không có một lãnh thổ biển cả. Nhưng người Trung quốc cứ trơ tráo vậy đó. Họ cậy có sức mạnh để xác định chân lý thuộc về họ. Các bạn xem hình bản đồ lưỡi bò của Trung quốc dưới đây với lãnh thổ của Malaisia: Ngày hôm nay, khi tôi đang gõ hàng chữ này, hàng chục ngàn tàu cá Trung Quốc ào ạt xuống lấn chiếm biển Đông nhắm xácđịnh chủ quyền. Cũng ngày hôm nay, một bức tranh mới về "Canh bạc cuối cùng" xuất hiện khác bức tranh cũ một số chi tiết. Nhưng dù khác một chút bề ngoài thì bản chất vấn đề vẫn không thay đổi. Nhìn bề ngoài thì có vẽ người Trung Quốc đang thắng thế. Họ đang tỉa dần những quốc gia có quyền lợi ở biển Đông và có vẻ như đang sắp đạt mục đích. Nhưng về bản chất của vấn đề thì họ đang lao xuống dốc với tốcđộ ngày càng nhanh trên một cái xe cũ kỹ. Hoa Kỳ chưa dàn trận xong - cô gái trong tranh chưa tỏ ra chú ý vào chiếu bạc - mặc dù đã ngồi trong đó - Cô còn vấn lại tóc, mắng mỏ chu chéo với cô gái Đài Loan tội nghiệp. Cô gái Hoa Kỳ có vẻ không mấy wan tâm đến canh bạc mà cô ta nắm chắc phần thắng. Đây không phải là ý tưởng của tôi, tôi chỉ nhắc lại dưới hình thức diễn đạt khác một nhận xét của một chuyên gia nghiên cứu chiến lược Nga, khi phát biểu rằng: "Trung Quốc sẽ tự sát khi gây chiến với Hoa kỳ". http://giaoduc.net.v...oa-Ky/167089.gd Sai lầm của người Trung Quốc đến mức mà có lần tôi phải đặt một giả thuyết rằng: Họ bị cài gián điệp chiến lược ở cấp hoạch định chiến lược quốc gia. Nhưng một giả thuyết khác có vẻ hợp lý hơn khiến tôi loại trừ giả thuyết này. Đó là họ gây sự ở bên ngoài để ổn định nội bộ. Nhưng dù là nguyên nhân nào thì đây cũng là một chiến lược sai lầm rất nghiêm trọng của họ gây ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai của Trung quốc và sự phát triển của văn minh nhân loại. Lý học bao giờ cũng phải có một tầm nhìn bao quát, rồi mới xét hiện tượng cục bộ. Chỉ cần chủ quan một chút là sai lệch vấn đề. Các bạn còn nhớ trước hiện tượng động đất ngày 11. 3 . 2011, tôi đã xác định sẽ có một trận động đất lớn xảy ra ở Châu Á - Thái Bình Dương và tôi đã trừ ra hai quốc gia là Nhật Bản và Việt Nam. Cuối cùng, sau 6 tiếng khi tôi đưa lời dự đoán lên mạng, nó xảy ra đúng ở Nhật Bản. Những kẻ chăm chắm chỉ chực chờ Thiên Sứ sai là la lối chỉ trích mừng quá! Thiên Sứ đoán sai. Hi! Thành thật mà nói thì lúc đầu Thiên Sứ tôi không hiểu vì sao tôi lại đoán sai. Nhưng sau đó, sau trận động đất tàn phá kinh hoàng đất nước Nhật - mà tôi rất đau xót - thì Trung Quốc nổi lên là siêu cường thứ hai trên thế giới chỉ sau Hoa Kỳ, tôi mới hiểu được mình đã sai ở chỗ nào và lý thuyết thống nhất luôn luôn đúng. Kết quả của việc động đất ấy đã đẩy Nhật Bản xuống thành cường quốc thứ ba về kinh tế và đưa Trung Quốc lên hàng thứ hai. Cho dù sự lên hạng của Trung Quốc không phải tính phát triển đích thực, mà nhờ sự xuống hạng bởi thiên tai của Nhật Bản. Nhưng điều đó đã đẩy cái siêu cường thứ hai đầy kiêu hãnh này là sự lấn lướt các quốc gia láng giềng mạnh mẽ hơn và bất chấp cả chân lý. Những hành vi đó đã xui khiến xuất hiện bức tranh "Canh bạc cuối cùng" với cô gái Hoa Kỳ ngồi trong chiếu bạc và cũng là sự chứng nghiệm nội dung mang tính tiên tri của bức tranh này từ 2008. Cả cái thế giới khốn khổ này đang khủng khoảng kinh tế với xu hướng "ở trần đóng khố", y như các cô gái trong tranh - trừ Hoa Kỳ. Những nhà chính trị kinh tế học thế giới hiện đại chắc đều nhận thấy rằng: Hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đều kết thúc bằng một cuộc chiến tranh. Riêng cuộc khủng hoảng lần này, diễn biến có khác hơn một chút: Thế giới đang chịu ảnh hưởng của một siêu cường không có đối thủ là Hoa Kỳ và cũng coi biển Đông là quyền lợi căn bản. Hay nói rõ hơn: Sự kiêu hãnh và hung hăng của Trung Quốc với tham vọng bành trướng trắng trợn, đã tự đưa đất nước của họ đối đầu với Hoa kỳ - vốn bá chủ thế giới trên thực tế. Hay nói rõ hơn họ đã tuyên chiến không chính thức với Hoa Kỳ để xác định ngôi vị của họ trên thế giới. Còn biển Đông, biển điếc; tàu cá, tàu kiếc; hải giám hải giếc..... chỉ là cái cớ để Trung Quốc thể hiện điều này. Nó không phải là cái Hoa Kỳ chính thức quan tâm. Cái Hoa Kỳ quan tâm là: Thế giới sẽ đi về đâu khi xác định ai là bá chủ thế giới trong cuộc hội nhập toàn cầu? Bởi vậy, một "canh bạc cuối cùng" sẽ diễn ra. Đây là hành vi mà nhà nghiên cứu chiến lược Nga gọi là hành vi tự sát, nếu Trung Quốc tiến hành chiến tranh với Hoa Kỳ. Đó cũng là lý do để tôi xác định rằng cuộc chiến dứt điểm sẽ không xảy ra ở biển Đông. Đơn giản vì nó không phải là vùng đất quan trọng trong một cuộc chiến dứt điểm để xác định ngôi vị bá chủ thế giới. Mặc dù nó là nơi Trung Quốc thể hiện vị trí siêu cường ở một nửa Thái Bình Dương của họ. Họ có thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh dứt điểm cuối cùng này không, khi Liên bang Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết đã sụp đổ? Còn tiếp Hoa Kỳ - Con hổ giấy hay chính là con Phượng Hoàng lửa?1 like
-
VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Tiếp theo BIỂN ĐÔNG VÀ TƯƠNG LAI CỦA THẾ GIỚI Chẳng phải ngẫu nhiên, người Trung Quốc quay ra đồng minh với Hoa Kỳ và góp phần vào việc làm tan rã khối Xô Viết. Chuyện này thì cả thế giới biết rồi, Thiên Sứ tôi nhắc lại chỉ gọi là cho nó mượt câu văn, dễ mở bài mà thôi. Nhưng vấn đề là tại sao Bắc Kinh lại trở cờ với một người đồng minh của mình như vậy? Tất nhiên ngoài những lý do mà tôi đã nói ở trên – thực chất nó chỉ là cái cớ - nguyên nhân chính cũng là: Bá chủ thế giới, hoặc chí ít cũng là bá chủ một phần thế giới. Chúng ta quay trở lại những năm 60 của thế kỷ trước. Lúc ấy nhân loại chưa có khái niệm “hội nhập toàn cầu”và thế giới lúc ấy chia làm hai phe rõ rệt là Liên Xô và Hoa Kỳ. Ngoài ra còn một bộ phận lớn các quốc gia trên thế giới, được gọi là thế giới thứ III, hay còn có tên khác là “Các quốc gia không liên kết”. Một cái thế giới ba dọi. nửa nạc, nửa mỡ và một chút lùng bùng. Trong cái thế giới ấy, người Trung Quốc đã tự cho mình là một quốc gia bảo trợ cho phần còn lại của nó. Hay nói chính xác hơn là họ có tham vọng làm bá chủ thế giới thứ III. Họ đã tổ chức ít nhất một cuộc gặp gỡ các nguyên thủ của những “quốc gia không liên kết” ở Bắc Kinh – nếu tôi nhớ không nhầm thì nó vào khoảng năm 64 đến năm 67 ở thế kỷ trước. Hay nói rõ hơn, họ đã có mưu đồ bá chủ một phần thế giới. Một lần nữa tôi xin lưu ý quý vị rằng: Vào thời điểm đó nhân loại không có khái niệm hội nhập toàn cầu. Bởi vậy, việc bá chủ một phần thế giới không phải không quan trọng. Đây mới chính là nguyên nhân sâu xa để Bắc Kinh liên kết với Hoa Kỳ và gọi là góp phần vào việc xóa bớt một cực trong thế giới hai cực rưỡi mờ mịt đó vào những năm 60 của thế kỷ trước - với hy vọng liên minh này thì sau khi thành công họ sẽ là bá chủ cái thế giới thứ III khốn khổ còn lại. Tất nhiên Hoa Kỳ ủng hộ nhiệt liệt việc Trung Quốc đã từ bỏ khối này với tư cách một cường quốc thứ 2 sau Liên Xô trong phe Xã hội chủ nghĩa. Hành vi này khiến toàn bộ cấu trúc địa chính trị phía nam Liên Xô thay đổi. Nhưng thật là một điều buồn khi Bắc Kinh chẳng được gì sau sự sụp đổ của Liên Xô, ngoài Ma Cao và Hồng Kông với những ưu đãi trong việc buôn bán với Hoa Kỳ, như thực tế đã chứng tỏ. Cái thế giới thứ ba ảo ấy biến mất sau Liên Xô sụp đổ. Híc! Bởi vì, cái thế giới thứ III ấy chỉ là một khái niệm ảo, khi thế giới lúc ấy chia làm hai cực và tự thực tế ấy làm xuất hiện những quốc gia không phụ thuộc hẳn vào cực nào rõ rệt. Do đó, người ta gọi nó là thế giới thứ III cho nó tiện. Cho nên khi Liên Xô sụp đổ thì thì khái niệm thế giới thứ III cũng biến mất. Thành kính phân ưu. Tất nhiên Hoa Kỳ nghiễm nhiên mần cái bá chủ thế giới và nó chưa được Trung Quốc công nhận. Đó cũng là lý do mà Trung Quốc sau đó hậm hực đòi chia đôi Thái Bình Dương với Hoa Kỳ , làm họ ngạc nhiên. Hi! Về phía Trung Quốc thì họ sẽ tiếp tục phát triển ảnh hưởng của họ với thế giới như thế nào thì chẳng cần phải là chuyên gia phân tích tình hình chính trị thế giới cũng nhận thấy rõ: Chung quanh họ - Bắc giáp Nga, Tây giáp Ấn Độ, Đông giáp Nhật Bản, Hàn quốc, Đài Loan. Chẳng có nước nào có vẻ ngon ăn để đem nấu mỳ vằn thắn được cả. Chỉ còn có những nước nhỏ bé xinh xinh ở phía Nam mà trước đây các triều đại phong kiến Trung Hoa trịnh thương gọi là Nam Man thôi. Đây là lý do mà Trung Quốc đã gây hấn ở Biển Đông với sự dựng đứng trắng trợn với cái ranh giới trên biển mà họ vẽ ra, quen gọi là “đường lưỡi bò” Nhưng – cũng như tôi đã viết ở trên – Biển Đông và những nước ở phía Nam Trung Quốc không phải là phần được chia của Trung Quốc. Mặc dù không được hân hạnh tham gia độ nhậu lịch sử ở Tử Cấm Thành uống rượu Mao Đài với lưỡi chim sẻ, nhưng tôi chắc chắn như vậy. Chẳng cần phải có “bằng chứng khoa học”, phân tích, phân teo cho mất thì giờ, mà chỉ cần nhìn thái độ của Hoa Kỳ cũng thấy rõ điều này. Khi Liên Xô sụp đổ thì ngay cả Trung Quốc cũng chỉ là một bộ phận của thế giới mà Hoa Kỳ tự coi mình là bá chủ. Huống chi là tất cả các quốc gia Đông Nam Á. Hành vi dự kiến xóa sổ Liên Hiệp Quốc ngay sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991 - mà Trung Quốc được coi là một thành viên sáng lập - đã chứng tỏ điều này.Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã kịp nhận ra rằng: Tuy họ trở thành siêu cường số 1 hành tinh và tạm thời không có đối thủ; nhưng chưa phải là bá chủ thế giới một cách chính danh. Cái trật tự thế giới này vẫn còn lộn xộn, chẳng phải quốc gia nào cũng sẵn sàng đi theo cái gậy chỉ huy của Hoa Kỳ. Bởi vậy, Hoa Kỳ cần có thời gian dọn dẹp cái thế giới hậu Xô Viết này. Đó là lý do mà họ chưa muốn xóa sổ Liên Hiệp quốc ngay vào lúc bấy giờ. Và đây cũng là lúc mà Bắc Kinh gọi là "Ẩn mình chờ thời". Họ chưa đủ tiềm lực để đối đầu với Hoa Kỳ. Ẩn mình chờ thời và sự nôn nóng của Trung Quốc. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc chưa phải là một cường quốc có hạng như ngày nay. Bởi vậy, quan niệm "Ẩn mình chờ thời" lúc ấy cũng chỉ tương tự như "nho còn xanh lắm" mà thôi. Không ẩn thì cũng chẳng làm gì được ai. Nhưng đó là chuyện 20 năm trước. Gần đây, nhờ những ưu đãi trong việc buôn bán với Hoa Kỳ họ đã trở nên giàu có. Kèm theo đó tất nhiên là sự phát triển của khoa học kỹ thuật cố gắng theo kịp các nước tiên tiến. Cũng tên lửa vũ trụ, cũng đưa người lên quỹ đạo và có cả cái tàu sân bay ve chai Thi Lang nữa mới ghê chứ! Nhưng - tôi không biết với cái nhìn khác thì thế nào - chứ với tôi nếu chỉ có từng ấy thì chưa phải là điều đáng quan tâm, để tôi phải đăng lại trên web lyhocdongphuong.org.vn. Việc đưa người lên quỹ đạo trái Đất thì mấy Cty tư nhân cũng quảng cáo rầm rầm cho những tour du lịch vũ trụ; tàu sân bay thì từ những năm Bảo Đại ở truồng theo đúng nghĩa đen, người ta đã đóng những cái tàu còn to hơn. Các vị cứ để ý mà xem, tôi chưa bao giờ đăng những tin về "tiến bộ khoa học" của Trung Quốc lên trang web này cả. Nhưng với người Trung Quốc thì quả là quan trọng so với những năm 50 định đem thuyền buồm ra tấn công Đài Loan. Và họ cứ tưởng thời cơ của họ đã đến. Nếu như trước đây. tiềm lực của Trung Quốc yếu hơn nhiều so với bây giờ , mà họ đã làm mình làm mẩy với các nước lân bang, thì bây giờ với tư cách là siêu cường thứ 2 trên thế giới, họ cứ tưởng họ muốn làm gì thì làm. Họ mặc cả với Hoa Kỳ đòi chai hia thế giới. Và đã bị từ chối thẳng thừng chỉ bởi một vị đô đốc. Híc! Nếu như vị đô đốc đó bị cách chức thì chắc Thiên Sứ tui chẳng dám viết bài này. Nhưng may quá! Chuyện đó không xảy ra. Cùng với sự vươn lên mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc và sự phát triển khoa học kỹ thuật đó là sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tất cả các siêu cường đều lâm vào suy thoái. Lạy Chúa! Cơ hội bằng vàng! Thời cơ đã đến. Và người Trung Quốc bắt đầu thể hiện vai trò của họ. Đúng là thời cơ đã đến với họ. Nhưng cách thể hiện sự nắm bắt cơ hội này như thế nào để gây ảnh hưởng mạnh nhất với thế giới thì lại là chuyện khác. Và sai lầm lớn nhất là họ đã thể hiện sức mạnh quân sự của họ. Để đạt mục đích - bất cứ mục đích gì - đều có rất nhiều phương pháp. Việc mần bá chủ thiên hạ không nhất thiết chỉ dùng sức mạnh. Có thể nói rằng: Nếu như người Trung Quốc sử dụng những phương pháp khác tế nhị và khôn ngoan hơn thì lịch sử có thể diễn biến theo chiều hướng khác. Nhưng thật không may cho họ, họ đã sử dụng phương pháp mà tất cả mọi người đều đã biết. Họ đã gây hấn ở biển Đông làm điểm bắt đầu cho sự tiếp tục phát triển những ảnh hưởng của họ với thế giới. Khu vực này có vẻ dễ nuốt nhất so với các nước chung quanh họ. Bởi vậy, nên họ đã chứng tỏ quyết tâm rất cao và tập trung vào đây nhiều nguồn lực và sự chú ý. Thẳng thắn mà nói thì tất cả các quốc gia này hợp sức lại sẽ tạo ra một sức mạnh ngoại giao, nhưng không phải đối thủ về quân sự với Trung Quốc. Nếu như cái thế giới này ở vào thời điểm cách đây 50 năm trước thì cái thế nó đã khác. Họ có thể - có thể thôi - thực hiện được việc này. Nhưng bây giờ là thế kỷ XXI, thời thế đã thay đổi. Vấn đề sẽ không đơn giản chỉ là quyền lợi của các nước liên quan trực tiếp đến biển Đông và quyền lợi của Trung Quốc muốn phát triển. Mà là quyền lợi của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong bối cảnh Hoa Kỳ là siêu cường số I và không có đối thủ. Họ không thể để biển Đông duy nhất thuộc về Trung Quốc. Xâm chiếm biển Đông bằng vũ lực hoặc bằng sự tính toán mưu lược - nói tóm lại bằng bất cứ phương tiện nào - thì vấn đề sẽ không chỉ dừng ở xâm phạm quyền lợi của Việt Nam; Philifine...mà là dụng chạm đến quyền lợi của các siêu cường quốc tế. Đương nhiên khi họ dùng vũ lực thì họ sẽ được các siêu cường đáp lễ bằng vũ lực. Tất nhiên, cho dù biển Đông là mầm mống mà người Trung Quốc khơi mào cho một cuộc chiến. Nhưng cuộc chiến giữa họ và các siêu cường sẽ chẳng bao giờ xảy ra ở đây. Có thể nói rằng: Người Hán đã phạm sai lầm chiến lược lớn nhất trong lịch sử phát triển của đế chế Hán, tính từ sau khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở nam Dương Tử. Việc sử dụng sức mạnh của Trung Quốc sẽ khiến cho họ đối đầu với cả thế giới do Hoa Kỳ là siêu cường số 1 ở hành tinh này. Hành vi của họ đang đẩy dần chính đất nước họ vào một cuộc chiến tranh lớn có tính quyết định cho tương lai của nhân loại trên con đường hội nhập toàn cầu. Bởi vậy, chẳng phải ngẫu nhiên , tôi nhiều lần phủ nhận tất cả những lời tiên tri của những nhà tiên tri nổi tiếng rằng: "Không có chiến tranh thế giới thứ III - theo nghĩa hai phe đánh nhau. Nhưng không loại trừ một cuộc chiến tranh lớn xảy ra". Và cũng chẳng phải ngẫu nhiên tôi nhiều lần thể hiện trên diễn đàn rằng: "Quỹ thời gian còn lại - để tránh một cuộc chiến như vậy - của Trung Quốc rất ít. Họ nên dừng lại". Nhưng đến ngày hôm nay - khi tôi đang gõ những hàng chữ này, thì người Trung Quốc muốn rút lui khỏi biển Đông cũng phải rất bài bản và không dễ dàng gì. Nó đã bắt đầu quá đà. Đúng là : Ma đưa lối, quỷ đưa đường. Cớ sao tìm lối đoạn trường mà đi (*) Cuộc chiến tranh lớn - mà các nhà tiên tri cách đây nhiều thế kỷ hoặc của bà Vanga ...gọi là chiến tranh thế giới thứ III - có xảy ra hay không tùy thuộc vào hành vi của Trung Quốc và sự tỉnh táo của họ. Tương lai của thế giới thì không thay đổi - Đó là sự hội nhập toàn cầu. Nhưng để dẫn đến tương lai đó lịch sử sẽ diễn biến như thế nào? Chiến tranh hay hòa bình tùy thuộc vào những sự kiện ở biển Đông. Còn tiếp. ==================== Chú thích: * Trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cụ Nguyễn Đoàn Tuân - một chuyên gia về Thái Ất với cuốn "Thái Ất thần kinh - Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm", đã biên soạn và giải thích nội dung Truyện Kiều với góc nhìn của Lý học. Cụ xác định rằng: Truyện Kiều của Nguyễn Du chính là một tác phẩm tiên tri. Nhưng cách hành văn của cụ rất phức tạp. Rất tiếc tôi chưa có thời gian biên soan lại.1 like
-
VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Tiếp theo VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN. Nước Việt một thời huyền vĩ ở miền nam sông Dương Tử. Đây là điều mà các triều đại Trung Hoa trước đây không hề phản đối, kể cả chính quyền của vị lãnh tụ thiên tài, người cầm lái vĩ đại – vầng hồng đỏ rực, đỏ rực nhất trong lòng nhân dân Trung Quốc và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới - là ngài Mao Trạch Đông. Đã có một thời vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, trong các vỉa hè Hanoi, người ta đồn rằng: Mao Chủ Tịch có nhã ý trao lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây cho Việt Nam, nhưng Hồ Chủ Tịch đã từ chối. Lý do để Ngài Hồ Chí Minh từ chối được giải thích rằng: Dân tộc Việt chỉ có mấy chục triệu, nếu sát nhập hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây vào Việt Nam thì dân số lên đến hàng trăm triệu và phần lớn nước Việt sẽ là dân Trung Hoa. Hầu hết những người Việt lớn tuổi hơn tôi một tý – trên 60 - ở Hanoi đều biết tin đồn này. Đấy là vào cái thời Thiên Sứ còn mặc quần giải yểm, đang chơi trò trốn tìm với mấy cô bé hàng xóm, chỉ nghe loáng thoáng người lớn nói chuyện. Một tin đồn vô thưởng vô phạt, nhưng nó có tác dụng tạo một tâm lý cho những sĩ phu Việt - vốn mặc cảm với những va chạm lịch sử giữa hai dân tộc Hoa Việt trải gần 5000 năm từ thời Hoàng Đế đánh Xuy Vưu - cảm thấy nhẹ lòng vì sự biết điều của chính quyền Trung Quốc xuất phát tình hữu nghị thật sự của một chính thể Trung Quốc mới với dân tộc Việt - chứ không phải là những triều đại phong kiến thối nát. Nghe cứ như chuyện thần thoại, nhưng không phải là bà kể cho cháu nghe trên võng tre kẽo kẹt, dưới mái nhà tranh êm đềm, mà là của các chính trị gia Trung Hoa an ủi quần chúng Việt, khỏi đau lòng vì những cuộc chiến đẫm máu trong lịch sử thăng trầm của dân Việt, khi họ muốn có một mối quan hệ chính trị với dân tộc này, trước một thế giới rộng hơn so với hàng ngàn năm trước. Chí ít tin đồn này đã gián tiếp xác nhận một lịch sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử, mà Quảng Đông, Quảng Tây chính là một bộ phận của quốc gia Văn Lang xưa. Lịch sử Việt chỉ bị xuyên tạc và từ gần 5000 năm văn hiến, xuống còn hơn hai ngàn năm lịch sử với cội nguồn – Thời Hùng Vương – tiêu biểu của nến văn hiến Việt, trở thành một liên minh 15 bộ lạc với những người dân ở trần đóng khố - Khi mà các âm mưu chính trị quốc tế nhận ra rằng: Cần phải đánh quỵ dân tộc này bằng đòn chí mạng vào chính niềm tự hào dân tộc của người Việt. Những nhà khoa học làm việc cho các cơ quan tình báo nước ngoài đã phát hiện ra rằng: Lịch sử Việt có một chỗ hổng khá quan trọng – nhưng lại chính là sức mạnh truyền thống của dân tộc này – đó là Thời Hùng Vương, cội nguồn của dân tộc Việt – chỉ nằm ở phần khuyết sử trong các bộ sử chính thống. Những nhà khoa học Việt, hoặc là bị mua chuộc, hoặc bị tác động do sự kém cỏi về khả năng tư duy, đã mắc bẫy trước những lập luận có tính logic hình thức. Mọi chuyện chỉ bắt đầu từ sau tiệc nhậu lưỡi chim sẻ với rượu Mao Đài ở Tử Cấm Thành Bắc Kinh. Đây là một đòn chí mạng, nó bắn vào hai mục tiêu cùng một lúc. Mục tiêu trước mắt và cũng là kết quả muốn có thực sự của nó là: Phá hoại tính chính thống của chế độ chính trị hiện nay ở Việt Nam. Bởi vì, do tính chất của những giá trị văn hóa sử truyền thống của một dân tộc, là điều kiện xác định sự tồn tại của dân tộc đó trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới. Nên nó chính là điều kiện xác định tính chính thống của một tầng lớp lãnh đạo, nếu những nhà lãnh đạo dân tộc nào đó, chứng tỏ được sự bảo vệ và gìn giữ những gía trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc đó. Đây là điều kiện mặc nhiên. Điều nhìn thấy rất rõ là khi tất cả các nguyên thủ quốc gia tụ tập ở một nước nào đó, trong các hội nghị quốc tế truyền thống thì đều phải mặc y phục truyền thống của dân tộc đó. Thật là may mắn, hội nghị các nước Asean họp tại Hanoi vài năm trước đây, đã xảy ra trước khi Nguyễn Tiến Đoàn sang Đài Loan ở trần đóng khố và tuyên bố hùng hồn rằng: Đây chính là y phục truyền thống Việt. Chứ nếu không, Thiên Sứ tôi – dù trí tưởng tượng rất phong phú – cũng không thể tưởng tượng nổi, các nguyên thủ quốc gia sẽ ăn mặc như thế nào với quan niệm về y phục truyền thống Việt - như tuyên bố của Nguyễn Tiến Đoàn, vốn được “hầu hết những nhà khoa học trong nước” và “công đồng khoa học thế giới” xác định khi phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống Việt. Thật là láo xược hết sức! Vậy mà nó lại được các phương tiện truyền thông hê lên mặt báo mới đểu chứ. Hành động của Nguyễn Tiến Đoàn và việc các tờ báo đăng tải đã gián tiếp xác định rằng: Những y phục dân tộc mà lãnh đạo nhà nước Việt Nam cùng các vị nguyên thủ quốc gia đến Hanoi mặc vào lúc trước là không phản ánh thực tế. Thiên Sứ tôi không giận sôi me lên sao được. Đây chính là một đòn chí tử về văn hóa, khiến từ nay các nguyên thủ quốc gia đến Việt Nam dự hội nghị truyền thống sẽ phải suy nghĩ khi họ quan niệm về y phục truyền thống Việt sẽ như thế nào. Đây không phải là lần duy nhất người ta – cố tính hay vô ý - sử dụng văn hóa sử truyền thống Việt làm phương tiện gây ra những hậu quả xáo trộn sự ổn định xã hội của Việt Nam. Một hiệu ứng kèm theo và là một mục đích lâu dài hơn, là làm sụp đổ ý chí tự hào của dân tộc Việt, khiến dân tộc này thực sự chỉ còn là một dân tộc nhược tiểu về cả văn hóa, lịch sử lẫn sức mạnh kinh tế. Từ đó sẽ không còn là mối đe dọa tiềm năng với những tham vọng bá chủ. Đồng thời với sự xóa sổ nền văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt - Trong một điều kiện lịch sử nào đó - thì dân tộc Việt có khả năng bị xóa sổ và trở thành một dân tộc thiểu số trong một quốc gia hùng mạnh về kinh tế và chính trị. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên – Thủ Tướng Phạm Văn Đồng khẳng định rằng (Nguyên văn lời của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, có trong bài viết của Ngọc Giao chỉ trích Nguyễn Vũ Tuấn Anh – đăng trên bán Nguyệt San Kiến Thức Ngày Nay): Tôi sẽ rất tiếc, nếu không ai nhận ra được điều này. Vấn đề là: Với bất cứ một thể chế chính trị nào thì việc bảo vệ những giá trị văn hóa sử của một dân tộc, chính là chứng tỏ tính chính thống đại diện cho dân tộc của chế độ chính trị cầm quyền trong lịch sử dân tộc đó. Do đó, việc phá hoại những giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt, chính là một phần rất quan trọng thực sự của cái gọi là “âm mưu diễn tiến hòa bình”, nhắm vào thể chế chính trị cầm quyền. Vì mục đích này, nó đã giải thích rằng tại sao những phần tử bất mãn với thể chế cầm quyền hiện nay đã chống đối lại quan điểm của Thiên Sứ trên một số trang web. Mặc dù những luận điểm của Thiên Sứ thực sự chẳng liên quan cái con mẹ hàng sáo gì đến chính trị cả. Nhưng đấy là tầm nhìn của những nhà chính trị cơm, chuyên bàn về sai sót của những nhà lãnh đạo thế giới sau khi nó đã xảy ra, ở những quán trà bên vỉa hè Hanoi, hoặc phố đi bộ ở thủ đô Paris….. Nếu như đó là những nhà chính trị thực sự sâu sắc, họ đã ủng hộ Thiên Sứ với quan điểm minh chứng khoa học thật sự nền văn hóa sử truyền thống Việt trải 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở miến Nam sông Dương Tử. Với những thủ đoạn chính trị ở tầm quốc tế, thì những giá trị văn hóa của một dân tộc nào đó, không phải là điều được quan tâm, bởi những mục đích của nó. Nhưng riêng với dân tộc Việt thì là một ngoại lệ, ít nhất trong lúc này – khi nó được đặt vấn đề có tính xác định rằng: Dân tộc Việt là dân tộc duy nhất nắm những bí ẩn của vũ trụ trong những giá trị văn hóa truyền thống của nó. Muốn làm bá chủ thế giới thì phải có một hệ tư tưởng phù hợp, mà cái áo Tự Do – Bình đẳng – Bác ái của Tây Phương chỉ là trường hợp riêng của một lý thuyết thống nhất. Nó không đủ sức để khoác lên cả quả Địa Cầu này. Đây là một bảo bối tinh thần để các siêu cường tranh chấp ngôi bá chú phải cân nhắc khi có ý định hủy diệt văn hóa Việt. Tuy đây là một hy vọng mỏng manh, ngay cả khi nó được chú ý của dư luận - thì có thể nói chí ít nó cũng là ánh lửa của que diêm được bật lên còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối. Trong điều kiện hiện nay, khi Liên Xô đã sụp đổ. Người Việt không ngả theo một liên minh nào và những nước đồng minh chống Liên Xô trước đây, bắt đầu không vừa lòng nhau vì quyền lợi được chia phần. Mâu thuẫn nổi bật nhất đang hiện rõ ở Biển Đông và các vấn đề mà các chính khứa hàng đầu quốc tế đang tính chân lý thuộc về quan điểm tính đa cực hay đơn cực một cách đứng đắn. Nhưng thực chất của những lý luận logic và khúc triết của các học giả và chính trị gia nghiêm túc đang bàn về tính đơn cực hay đa cực này lại là …quyền lợi được chia sẻ một cách hợp lý theo cách nhìn riêng của từng quốc gia. Mâu thuẫn này nổi lên ở biến Đông và nó làm cho vị trí của Việt Nam được chú ý. Anh Quốc – một đồng minh truyền thống số một của Hoa Kỳ bắt đầu tỏ ý quan tâm đến tiềm năng Việt. Tất nhiên tiềm năng đó chỉ có ở truyền thống văn hóa và lịch sử của dân tộc này. Nhưng chính vì vị trí của Việt Nam và vùng tranh chấp ở biển Đông, nên nó rất dễ trở thành nhạy cảm trong việc tranh chấp nơi đây. Và nguy cơ trước mắt chính là ảnh hưởng bởi một cuộc đối đầu quân sự trong tương lai không xa. Hiện tượng nhìn thấy được chính là những cuộc tập trận qui mô lớn kéo dài từ Hoàng Hải đến vịnh Thái Lan xảy ra gần đây (Năm 2008) với thái độ cứng rắn của các nước trong khu vực sẵn sàng đối đầu với chiến tranh. Kính thưa quí vị quan tâm. Cho đến ngày hôm nay - 28. 7 . 2012 - những vấn đề cội nguồn Việt sử với gần 5000 năm văn hiến đã tìm thấy một sự tương đồng với những vấn đề được đặt ra ở bài viết của tôi từ năm 2008, là bài viết của ông Đồng - một Việt kiều ở Hoa Kỳ - gửi Thế Trung sau cuộc hội thảo "Tường niệm giáo sư Lương Kim Định". Bài viết này đã được đưa lên diễn đàn ở mục "Hoạt động của trung tâm", topic: "Hội thảo tưởng niệm giáo sư Lương Kim Định", nhưng tôi đưa lại vào topic này để quí vị đối chiếu về những cái nhìn từ những điều kiện xã hội khác nhau về cội nguồn lịch sử Việt tộc. Thân gửi anh Trung và các bạn, Tôi đã được đọc sách của GS KĐ từ hồi 19 tuổi từ khi hiện tượng KĐ còn phôi thai. Kiến thức về Hán Văn, khảo cổ, và cổ thư của tôi không đủ để phê bình hay nhận xét đúng sai. Tôi chỉ cảm thấy có điểu mới lạ mặc dầu logic nhiều khi phóng túng. Gần đây anh Trung có gửi các bài phóng sự về hội thảo chuyên đề sự nghiệp GS KĐ. Qua nhũng lời phê bình xác đáng, tôi nhận thấy là giới chuyên gia nhân văn VN có tầm hiểu biết vượt xa những gì tôi vẫn nghĩ về các hoạt động văn hoá đang được tiến hành trong nước. Tôi rất mừng là còn có những chuyên gia trình độ cao theo đuổi những nghiên cứu khó khăn trong hoàn cảnh thiếu thốn. Không ít người cho rằng GS KĐ là người của chế độ cũ. Động lực chính của công trinh nghiên cứu của GS KĐ biết đâu là để chống cộng. Trước 75, chống cộng tức là chống Tầu nói chung, vì Tầu là người đỡ đầu miền Bắc lúc đó. Nay một hội thảo chuyên đề cho GS KĐ được tổ chức để vinh danh nhân ngày giỗ của ông cho thấy trình độ trưởng thành về phê phán. Ai đúng thì được khen, không để quá khứ hay những nghi ngờ chính trị làm mờ mắt. Nghiên cứu khoa học thuần tuý rất nhiều khi dựa vào cảm tính, trực giác, hay kiến thức tiền khoa học. Nhiều nghiên cứu gia đã thú nhận là có một định kiến về chiều hướng của kết luận trước khi có đủ dữ kiện chứng minh. Với trực giác, khoa học gia có thể tiết kiệm được rất nhiều công sức bằng cách loại bỏ những giả thuyết phụ. Tuy nhiên một kết luận được coi là co giá trị khoa học chỉ khi nào nó vượt qua các phê bình về logic và được kiểm nhận hay chứng minh bằng các công ước. Nghiên cứu khoa học nhân văn hay xã hội cũng phải tuân theo các quy luật tương tự. Công trình nghiên cứu của GHS KĐ có tính cách đột phá và kết luận của ông đi trước thời gian đến 30-40 năm. Tôi tin rằng với số lượng nghiên cứu đò sộ, nếu loại đi những kết quả do phỏng đoán, những gì còn lại vẫn còn đủ để ta xếp hạng ông vào gương mặt lớn trong thế kỷ 20. Điều đáng khâm phục là với những bằng chứng tản mạn khắp trong những tài liệu rời rạc, ông đã dùng trực giác để kết liên chúng thành những hệ thống mà 30-40 năm sau khoa học mới bắt đàu chấp nhận những điểm chính. Thiên tài của GS KĐ là ở chỗ đó. Quay trở lại giá trị của những công trình nghiên cứu về dân tộc học, tôi có vài giả thử để các bạn cùng suy nghiệm. Nếu các gỉả thuyết sau đây được chứng minh do các công trình nghiên cứu đế chúng ta có thể dậy trong hương trình gíáo khoa tiểu học và trung học trong tương lai, người VN có thể sẽ nhìn dân tộc mình với một tư duy mới: 1) Rằng chúng ta đã có một chữ viết kiểu khoa đẩu, và chữ viết đã tiến lên trình độ tượng thanh để diễn tả các tư tưởng qua 30-40 chữ cái trước khi bị người Hán đô hộ. Chữ khoa đẩu còn đặt nền móng cho chũ Hán vuông sau này. Điều này có thể dẫn đến sự phục hưng của mẫu tự khoa đẩu. Người Do Thái đã phục hưng tử ngữ Hebrew và dạy học tiếng này song song với tiếng hiện đại khi họ tìm ra được chữ viết cổ của họ. 2) Rằng từ Lạc Việt, một hệ thống nhân sinh quan kết chặt các liên lạc giữa trời đất, thiên nhiên và con người, vua tôi, vợ chồng, thày trò…đã lan toả ra vùng Lĩnh Nam, rồi lan đến Bách Việt. Văn minh này đã đươc những người Hoa Hạ sau này chấp nhận và phổ biến khắp châu thổ Hoàng Hà và Sông Dương Tử. 3) Rằng không phải là tình cờ hay may mắn về địa dư mà người Việt còn giữ được những tư tưởng về nguồn cội. Tinh thần độc lập ngày nay đã do cha ông dầy công bảo vệ, vun bồi bằng xương máu và đã tìm mọi cách để truyền lại cho đời sau. Tổ tiên ta đã hiểu biết sâu xa sự quan trọng của truyền thống và lịch sử trong sự hình thành một con người toàn diện. Một cá nhân sẽ không thể tiến xa nếu người đó không có lòng tự trọng (self-esteem). Một dân tộc không thể tiến bộ nếu không thấy tự hào về nguồn cội. Tất cả các nước tiến bộ trên thế giới đều rất trân trọng bảo về truyền thống dân tộc họ, điển hình là người Anh. Trong lịch sử các nước thực dân, các cuộc thống tri tàn bạo thường bắt đầu bằng tiêu diệt lịch sử và truyền thống. Lịch sử của người Tây Ban Nha tiêu diệt văn hoá bản địa ở Nam Mỹ là một kỳ tích gần đây nhất. Cho đến bây giờ chỉ còn hai ba quyển sách trong hàng vạn quyển là còn tồn tại. Người Nam Mỹ bản địa hầu như không còn nhớ họ là ai, và họ thường hay thụ động, thiếu cầu tiến trong đua tranh nghề nghiệp. Tiêu diệt một con người chỉ cần giết người đó. Để tiêu diệt một dân tộc, cần phải đánh thật mạnh vào lòng tự hào dân tộc họ. Cần phải tiêu diệt ngôn ngữ, bóp méo lịch sử, thay đổi phong tục. Qua một ngàn năm Bắc thuộc, người Hán tưởng đã thành công trong việc tiêu diệt Lạc Việt. Chúng ta được dạy trong trường chúng ta là con cháu những ngươi bại trận phải trốn về Nam. Chúng ta không có chữ viết và phải nhờ quan thái thú Bắc phương đến dạy mới biết hôn nhân, giáo dục, …Khi chiếm nước ta, việc đầu tiên là họ tich thu sách vở hoặc đốt, sau đó là thay đổi ngôn ngữ và phong tục, và cuối cùng là thay đổi huyết thống. Sau gần một nghìn năm, dân Việt còn có thể thức dậy và dành lại chủ quyền. Biết được như thế mới thấy sự kỳ diệu của nền văn minh truyền thống Lạc Việt. GS KĐ là một trong những người hiểu sự quyến rũ của nền văn minh đó. Vài giòng viết để giúp ý với anh Trung. Những đam mê của anh về nguồn cội có thể đã hằn trong tâm thức hay đã nằm trong các chủng tử di truyền. Có người còn gọi đó là cái nghiệp chung của nhiều người VN. Thư đã quá dài, sẽ viết thêm sau để giúp ý kiến vấn đề kinh tài cho những công tác văn hoá này. Thân chào, Đồng Như vậy, quí vị và các bạn quan tâm cũng thấy rằng: Từ một vị trí khác, những nhà nghiên cứu cũng xác định tầm quan trọng của cội nguồn Việt sử trong tương lai của dân tộc Việt và cũng như của tất cả các dân tộc khác trên thế giới. Nhưng cội nguồn Việt sử ấy đã bị phủ nhận và xuyên tạc của một đám học giả "nhân danh khoa học". Từ năm 1991 - khi Liên Xô sụp đổ - quan điểm "nhân danh khoa học" này, vênh váo lên ngôi. Nhưng nó sớm bộc lộ bản chất phi khoa học của nó ít nhất là không có đối thoại và chỉ có thông tin một chiều trên các phương tiện truyền thông bằng tiếng Việt trên toàn thế giới có ảnh hưởng tới Việt Nam. Mặc dù không ít những học giả trong nước và cả những học giả có tên tuổi ở nước ngoài đã có những luận điểm khoa học chứng minh Việt sử gần 5000 năm văn hiến. Nhưng hầu như không được nhắc tới chỉ 1 lần trên bất cứ một phương tiện truyền thông nào - cả trong nước và quốc tế, tính đến ngày hôm nay. 28. 7. 2012. Sự thất sủng của những quan điểm khoa học chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến đã cho thấy tính phi khoa học một cách trắng trợn của quan điểm phủ nhận truyền thống Việt sử. Do đó, kết quả của việc phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt của đám học giả "ở trần đóng khố" và sự phổ biến của nó ngay cả trong trường phổ thông, đã chứng tỏ sự thành công của những âm mưu quốc tế trong khu vực và góp phần không nhỏ vào những cái gọi là : Chứng cứ lịch sử của Trung Quốc ở biển Đông. Bởi vì: Nếu Việt sử 5000 năm văn hiến được công nhận nhân danh một chân lý thì Trung Quốc chẳng có cơ sở lịch sử nào để xác định biển Đông thuộc lãnh thổ của họ, khi mà tất cả vùng nam Dương Tử trước đó của Việt tộc. Nếu như trước đây, tất cả các phương tiện truyền thống quốc tế đều tung hệ - "nhân danh khoa học" - những quan điểm phủ nhận truyền thống Việt sử vì cuộc đối đầu Xô - Mỹ và Việt Nam lúc ấy là một đồng minh của Liên Xô - thì - nay khi họ đối đầu với Trung Quốc đã "Há miệng mắc quai". Lối thoát duy nhất của họ trong vấn đề này chính là tính chính danh của việc nhân danh khoa học. Vậy thì nó phải có đối thoại khoa học nghiêm túc giữa hai quan điểm mâu thuẫn về một vấn đề khi chân lý là duy nhất. Bởi vậy, nếu như có một cuộc đối thoại nghiêm túc dù trong nước hay quốc tế - nhân danh khoa học với đầy đủ ý nghĩa của từ này, chứ không phải thứ khoa học nửa mùa cúa đám tư duy "Ở trần đóng khố" - thì cá nhân Thiên Sứ tôi sẽ không từ chối. Còn tiếp. BIỀN ĐÔNG VÀ TƯƠNG LAI CỦA THẾ GIỚI1 like
-
VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Tiếp theo QUYỀN LỢI CỐT LÕI VÀ QUYỀN LỢI CĂN BẢN. Đối với Hoa Kỳ, một nước sẽ chẳng có kg cá và một giọt dầu nào ở đây cả và tất nhiên sẽ chẳng thể có tư cách gì để tham gia vào các hiệp ước tay đôi, tay ba, hay 6, 7 bên gì đó liên quan đến biển Đông – nếu nó xảy ra. Đơn giản thôi: Hoa Kỳ không có lấy 1 mét bờ biển hoặc vùng lãnh thổ liên quan đến vùng biển này. Nhưng có điều chắc chắn rằng - đối với Hoa Kỳ - nếu nó càng ít thuộc về Trung Quốc càng tốt. Hoa Kỳ không muốn một đối thủ tiềm năng trong việc giành ngôi bá chủ thế giới chiếm lĩnh vùng biển này. Bởi vậy, điều tất yếu là chàng cao bồi Mỹ sẽ ủng hộ quốc gia nào đó mà mang lại nhiều quyền lợi cho họ trong việc sử dụng biển Đông; hoặc chí ít quốc gia đó sẽ ngăn cản được Trung Quốc trong việc chiểm lĩnh biển Đông. Quốc gia được lựa chọn sẽ phải là một đất nước mà Hoa Kỳ có thể đồng minh một cách lâu dài, ngay cả khi ngôi bá chủ toàn cầu được xác nhận. Không thể là Indonexia, vốn là một quốc gia Hồi giáo lớn thứ hai trên thế giới, việc hợp tác lâu dài sẽ rất bấp bênh. Đối với Việt Nam - thì cái dân tộc này vừa mới chấm dứt cuộc chiến chưa bao lâu với Hoa Kỳ, mùi thuốc súng vẫn chưa tan hẳn; chất độc màu da cam, người Việt vẫn nhận thấy còn tồn tại đâu đây. Chỉ còn Philipfine vốn là một đồng minh lâu năm và là một quốc gia ít ảnh hưởng bởi Hồi giáo (*). Nhưng đối đế lắm thì Hoa Kỳ thà giành biển Đông cho Việt Nam hơn là Trung Quốc. Đó là lý do mà vị đô đốc hải quân, nhanh chóng về vườn, vì đã cầm đèn chạy trước ô tô. Ông ta không nhớ ra người đồng minh cũ của Hoa Kỳ là Philipfine. Trước mắt là như vậy. Nhưng đối với Trung Quốc thì nếu không xác định được cái lưỡi bò là của mình thì chí ít nó thuộc về Việt Nam vẫn tốt hơn là một nước thân Hoa Kỳ, như Philipfine. Một trò chơi mới xuất hiện: Tất cả các nước có quyền lợi ở biển Đông được khuyến cáo nên nộp hồ sơ xác định vùng lãnh hải, để được giải quyết trong hội nghị quốc tế liên quan (**). Đây chỉ là một trò chơi - nhưng là trò chơi của người lớn, nhằm xác định tính chính danh trong tương lai. Nó có thể trở thành giấy lộn bán ve chai, nhưng nó cũng có thể trở thành cái cớ rất sắc sảo để bác bỏ mọi quyền lợi chính đáng vào lúc này và trở thành sai vào lúc khác. Việt Nam nên tham gia vào trò chơi này, gọi là góp thêm phần vui vẻ với hàng xóm láng giềng. Bởi vì, nếu nó có thành trò chơi trẻ con thật sự thì mấy gram giấy không phải là một việc chi tiêu tốn kém. Ngược lại, nếu nó tỏ ra nghiêm túc thì Việt Nam sẽ có lợi to, do sự tranh chấp giữa những chàng cao bồi Texas và hảo hán Lương Sơn Bạc. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc càng căng thẳng thì Việt Nam chính là quốc gia được chọn để dung hòa quyền lợi hai bên trong việc chủ quyền trên biển. Chí ít thì vùng biển sẽ rộng hơn so với đòi hỏi hiện nay của các nước đang tranh chấp. Chúng ta chỉ cần xem thái độ của Hoa Kỳ với ngài Đô đốc hải quân chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương là biết liền. Việc cách chức ông này còn tùy vào Thượng Nghị viện Hoa Kỳ (***) Cuộc đối đầu với Trung Quốc và Hoa Kỳ chưa thể xảy ra ngay bây giờ. Nhưng nó là tiềm năng trong tương lai gần, đe dọa ngôi bá chủ của Hoa Kỳ. Nhưng ngay bây giờ, nó không còn là cuộc đối đầu giữa các nhà ngoại giao với những cơ sở pháp lý, được hỗ trợ bởi các chuyên gia luật quốc tế với những tập hồ sơ dày cộm. Mặc dù về hình thức vẫn do các nhà ngoại giao thực hiện. Nhưng phải gọi đúng tên của nó là một “cuộc chiến tranh chính trị” và phía cuối con đường này – nếu người ta không tìm ra được một ngả rẽ cho nó thì là một cuộc chiến thật sự với tất cả mọi thứ vũ khí mà con người có thể nghĩ ra. Bởi vì – trong trường hợp này – đây là trận chiến cuối cùng xác định dứt khoát ngôi bá chủ thế giới. Đây là trường hợp xấu nhất nếu Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc đối đầu này, hoặc chí ít cũng bị giăng miểng – “Chẳng phải đầu, cũng phải tai”. Ấy là các cụ ngày xưa bảo thế! Vậy vấn đề tiếp theo sẽ phải là tìm một chỗ đứng an toàn cho Việt Nam, nếu như không thể cứu vãn được tình thế, khi cuốc đối đầu giành ngôi bá chủ thế giới xảy ra. Còn tiếp ================ Chú thích: * Đến giờ này - 2012 - thì đúng như thế: Philipfine là một đồng minh được Hoa Kỳ ủng hộ ở biển Đông. ** Cuối cùng Việt Nam đã làm hồ sơ về vấn đề này. *** Phải nói rằng lúc đó Thiên Sứ tôi sẽ rất thất vọng, nếu ngài Đô đốc Hải Quân Hoa Kỳ bị cách chức. Nhưng may quá! Việc này đã không xảy ra! Ngài Obama tuy trông rất thư sinh, nhưng lại thuận tay trái. Lúc tôi viết bài này - cuối 2008 - thì cả ba vấn đề trên chưa xảy ra.1 like
-
Cuộc chiến tâm linh? CUỘC TRANH LUẬN NGHI LỄ TRUNG HOA VÀ HỆ QUẢ ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1.2.4.Cuộc tranh luận nghi lễ Trung Hoa và hệ quả đối với Việt Nam 1.2.4.1. Cuộc tranh luận nghi lễ Trung Hoa Xin được tóm lược các ý chính: Trong khi truyền giáo tại Trung Hoa, các linh mục Dòng Tên (SJ) cho phép các giáo hữu tại đây được kính lễ Đức Khổng và người qua đời như nghi thức người Hoa quen thi hành đối với tổ tiên và các triết gia của họ. Năm 1633, khi linh mục Juan Bautista Moralez Dòng Đa Minh (OP) và linh mục Antonio de Santa Maria Caballero Dòng Phanxicô (OFM) vào tỉnh Phước Kiến thời Đại Minh, chứng kiến các nghi lễ đó thì cho là mê tín dị đoan. Hai linh mục đó phản đối mạnh mẽ, làm nhà cầm quyền tức giận vì hai người đó chống lại phong tục văn hóa trong nước, gây nguy hại cho an ninh trật tự xã hội. Vua Minh trục xuất hai linh mục đó ra khỏi nước. Moralez và Caballero về Roma trình bày với Toà thánh. Năm 1645 Đức Giáo hoàng Innocentê X ra sắc lệnh cấm người tín hữu thi hành các nghi lễ cúng bái tổ tiên và Đức Khổng Tử. Năm 1656, (ngày 20-03), Đức Giáo hoàng Alexander VII lại cho phép, dựa theo trình bày của linh mục Martino Martini Dòng Tên. Năm 1707 (ngày 25-01), Đức Giáo hoàng Clêmentê XI cử Giám mục Carlo Tommaso Maillard de Tournon làm Sứ thần Toà thánh đến Nam Kinh công bố sắc lệnh cấm nhiều điều trong đó cấm làm chủ tế hoặc tham dự lễ tế Đức Khổng, hoặc người quá cố, cấm đặt bài vị trong nhà. Ai không tuân theo lệnh, sẽ tức khắc bị vạ tuyệt thông. Năm 1715 (ngày 19-03), Đức Giáo hoàng Clêmentê XI công bố Hiến chế Ex illa die buộc mọi thừa sai ở Trung Hoa và ở các nước lân cận phải thề theo mẫu ở cuối sắc lệnh. Năm 1721 Đức Giáo hoàng Clêmentê XI phái Giám mục Carolo Ambrosio Mezzabarba, Sứ thần Toà thánh, công bố tại Áo môn ngày 4-11 “Tám điều được phép làm (Octo permissiones)”. Năm 1742 (ngày 11-07), Đức Giáo hoàng Bênêđitô XIV công bố Hiến chế Ex quo singulari providentia cấm tuyệt đối mọi hình thức tôn kính người đã mất, đồng thời đưa ra bản mẫu lời tuyên thệ mới (nguyên văn bản mẫu Lời thề, xin xem Đỗ Quang Chính, Hòa mình vào xã hội Việt Nam, tr. 222). Từ đây trở đi, không ai được viện cớ gì để tranh luận nữa. (Chi tiết xin xem Phụ lục 3) Năm 1935 (ngày 5-3) Giám đốc Nha Tôn giáo thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục của Mãn Châu quốc, trả lời cho Giám mục Gaspais, Đại diện tông toà Thẩm Dương (Shenyang), về các câu hỏi của Giám mục liên quan tới nghi lễ tôn kính Đức Khổng Tử: “Đó chỉ là cách bày tỏ ra bên ngoài lòng tôn kính Đức Khổng, không có tính cách gì là tôn giáo”. Ngày 28-5-1935, Bộ Truyền giáo cho phép thực hành các nghi lễ kính Đức Khổng ở Mãn Châu quốc. Năm 1932 ( ngày 22-9) Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nhật Bản khẳng định việc viếng đền Jinja có “mục đích bày tỏ lòng yêu nước và trung thành. ở đây hoàn toàn chỉ mang ý nghĩa dân sự như Bộ Giáo dục đã công bố ngày 3-8-1932”. Ngày 26-5-1936 Bộ Truyền giáo gửi văn thư cho Khâm sứ Toà thánh tại Nhật, chủ yếu nhắc đến nghĩa vụ người Công giáo yêu Tổ quốc, thì phải tôn trọng các nghi lễ đối với Hoàng gia, người qua đời, miễn là những nghi lễ ấy có tích cách dân sự. Năm 1939 (ngày 8-12) Bộ Truyền giáo công bố Huấn thị Plane compertum est cho phép người Công giáo Trung Hoa được tham dự các nghi lễ kính Đức Khổng, các nghi lễ công cộng, mặc dù bên ngoài có thể coi là nhuốm màu dị đoan, miễn là thi hành một cách thụ động với ý tưởng duy nhất là để tôn kính theo nghi lễ hoàn toàn dân sự [6, tr.213-242]. Như thế, vấn đề “nghi lễ Trung Hoa” đã được tháo gỡ cách muộn màng nhưng có kết quả tốt đẹp. Điều này nhất định ảnh hưởng đến Giáo hội Việt Nam mà tôi xin trình bày ở phần tiếp theo. 1.2.4.2. Hệ quả đối với Việt Nam Khi Toà thánh Roma cấm các nghi lễ tôn kính tổ tiên, Khổng Tử và nhiều nghi lễ tương tự ở Trung Hoa, các văn kiện đó cũng cấm luôn các nước chung quanh, vốn chịu ảnh hưởng ít nhiều văn hóa Trung Hoa, như Mãn Châu, Nhật Bản, và cả Việt Nam, mà thời xưa Giáo hội Việt ta quen gọi là cuộc tranh tụng “lễ phép nước Ngô”. Roma không chỉ cấm thờ cúng tổ tiên đã khuất mà cũng giới hạn hình thức hiếu thảo cả khi cha mẹ đang còn sống, vì chỉ tôn thờ duy nhất mỗi Thiên Chúa, còn lại là tôn kính. a) Huấn dụ năm 1659 Khi ba Giám mục tông toà đầu tiên ở Đàng Ngoài, Đàng Trong và Nam Kinh (Trung Quốc) chuẩn bị lên đường nhận nhiệm sở, Thánh bộ Truyền giáo đã ban bố Huấn dụ năm 1659 (triều Giáo hoàng Alexander VII). Tư liệu gồm ba phần: trước khi rời châu Âu, trong khi đi đường, tại chính nơi truyền giáo. Có nhiều đoạn không liên quan đến vấn đề chúng ta đang quan tâm, nên chỉ xin trích dẫn những đoạn cần thiết. Huấn dụ căn dặn: “Chư huynh đừng bao giờ muốn sửa đổi, đừng tìm lý lẽ nào để buộc dân chúng sửa đổi những phép xã giao, tập tục, phong hoá của họ, trừ khi nó hiển nhiên mâu thuẫn với đạo thánh và luân lý. Có gì vô lý bỉ ổi hơn mang theo cả nước Pháp, Tây Ban Nha, nước Ý, hay bất cứ nước nào khác bên trời Âu sang cho dân Á đông chăng? Không phải mang thứ ấy đến cho họ, mà là mang chân lý đức Tin, một chân lý không loại trừ nghi lễ và tập tục của bất cứ một dân tộc nào, cũng không xúc phạm đến những nghi lễ tập tục ấy, miễn là chúng không xấu; ngược lại, chân lý ấy muốn cho người ta gìn giữ và bảo vệ chúng là đàng khác. Có thể nói, [tính] tự nhiên ai ai cũng cho những cái của mình và nhất là của quê hương xứ sở mình là hơn tất cả, và yêu mến những báu vật đó hơn những cái của ngoại lai: nguyên việc sửa chữa những quốc lệ của [một dân tộc] cũng đủ gây lòng oán hận sâu đậm rồi, nhất là những [phong tục] đã có lâu đời nhất, mà các tiền nhân vẫn có thể nhớ tông tích; càng tệ hại hơn nữa nếu chư huynh huỷ bỏ những [phong tục] đó để đem phong tục của quý quốc mà thay thế vào! Vậy đừng bao giờ đem những tục lệ Âu châu đến đối lập với tục lệ của các dân tộc ấy, trái lại hãy mau mắn làm quen với những thói tục địa phương. Điều gì đáng khen, hãy khâm phục và ca tụng. Điều gì không đáng, hãy khôn khéo đừng phê phán, cũng đừng kết án một cách thiếu suy nghĩ và quá đáng. Với những thói tục thực sự xấu, thì nên chống đối bằng thái độ dè dặt và thinh lặng hơn là bằng lời nói; nhưng dĩ nhiên khi tinh thần người ta đã sẵn sàng chấp nhận chân lý, chư huynh sẽ lợi dụng những cơ hội thuận tiện để từ từ và âm thầm nhổ nó đi” [7, tr.118-134]. “Hội nhập văn hóa” là cụm từ chưa có trong nhân loại thời đó, nhưng Huấn dụ đã đưa ra những ý đúng như ngày nay vẫn gọi là thích nghi, hội nhập. Tiếc thay về sau Roma lại cấm nghi lễ tôn kính tổ tiên và nhiều nghi lễ khác, đi ngược lại với chính Huấn dụ 1659 vô cùng sáng suốt như trên! B) Các nhà truyền giáo trước và sau Hiến chế Ex illa die (19-3-1715) Khi các Giáo sĩ Dòng Tên vào truyền giáo ở Việt Nam, các ngài cho phép giáo dân thờ kính Khổng Tử và các tổ tiên đã qua đời, theo phong tục Việt Nam. Năm 1625, các thừa sai ở Hội An nhắn nhủ bổn đạo Kitô hữu Việt: “ Đạo Đức Chúa Blời buộc mọi người phải tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ, nên phải thi hành nghi lễ cúng vái, trừ ít điều mê tín dị đoan, như đốt vàng mã, hay khi cúng lại tin là tổ tiên về ăn của cúng” [9, tr.116]. Thời kỳ đầu tiên truyền giáo ở Việt Nam, các thừa sai đã chú trọng rất nhiều nếp sống văn hóa gia đình Việt Nam, cụ thể là lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Khi giải thích về điều răn thứ bốn cho các dự tòng, linh mục Đắc Lộ đã viết trong quyển Phép giảng tám ngày, xuất bản tại Roma năm 1651: “ấy vậy mà mlời răn thứ bốn trong kinh đức Chúa blời [...] thì dạy ta thảo kính cha mẹ cho nên [...]. Lại sự thảo kính thì hằng có bốn phần, là yêu mến, kính dái, chịu lụy, giúp cho [cha mẹ] mọi sự” [9, tr.115]. Tác giả còn nhấn mạnh tới sự hy sinh cụ thể của cha mẹ đối với con cái trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời đó, nên con cái phải thảo kính cha mẹ: “Ta chịu ơn cha mẹ vì có chịu thai, mà ta ở trong lòng mẹ chín tháng mười ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta, đoạn ba năm bú mớm; có khi thì mẹ cắt [phần ăn] của miệng mình mà cho con ăn; cũng có khi mẹ ăn miếng đắng, mà miếng ngon để dành cho con ăn; lại có khi mẹ nằm chốn ướt, mà chốn ráo để cho con nằm. Cha đẻ con đoạn thì lo việc nuôi nấng [...]. Thật con thảo kính cha mẹ thì thậm phải, ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng vâng phép cha mẹ, thật thì có tội trọng” [6, tr.213-242]. Khi cha mẹ còn sống, ngoài việc tỏ lòng hiếu thảo như thăm viếng, săn sóc, quà bánh... thì ngày mồng Một Tết, người dân, và cả những quan lớn sau khi theo vua chúa đi tế Nam giao về, “ai nếy (nấy) về nhà mà lạy cha mẹ oũ bà oũ vải (ông bà ông vải) bởi vì có mlẽ (lý lẽ) ở tlaõ làõ (trong lòng) mình dẽại (dạy) kính phụ (cha) thứ ba là chức dưới bệy (vậy)”[9, tr.116]. Thầy giảng Bentô Thiện cũng viết bằng chữ quốc ngữ trong tập Lịch sử nước An-nam năm 1659 tại Thăng Long về vấn đề này như sau: “Thói nước Annam, đầu năm, mùng một tháng giêng gọi là ngày Tết, Thiên hạ đi lậy vua đoạn lậy chúa mới lậy ông bà ông vải cha mẹ, cùng Kẻ cả bề trên, quan quyền thì lậy vua chúa, thứ dân thì lậy bụt trước” (ghi theo chính tả ngày nay) [9, tr.116]. Sau Hiến chế Ex illa die năm 1715, tại Đàng Trong, Linh mục G.B. Sanna SJ, giải thích Hiến chế trên một cách rộng rãi, gần như là ngược lại. Ngày 21-2-1717, linh mục công bố tại Huế cho phép giáo hữu được mang cờ gia triệu trong các lễ an táng, chỉ cần viết câu “xin Đức Chúa Trời cứu giúp linh hồn này là X. và dẫn đưa vào thiên đàng”; được lạy cha mẹ sát đất khi các ngài còn sống hay đã qua đời; được giỗ, tức là được dâng cúng, bái lạy cùng các nghi lễ khác quen thi hành trong nước này, vào ngày đầu năm hay những ngày khác [8, tr.197-198]. Còn Giám mục Perez cũng chần chừ công bố Hiến chế. Ngày 10-7-1717, Giám mục Perez ra thư luân lưu buộc giáo hữu tuân theo lệnh Toà Thánh, nhưng ngài không dám đóng mộc vào thư vì sợ chính quyền Đàng Trong cho là đi ngược với phong tục Việt Nam. Thư cũng không đề cập đến việc xử phạt nếu vi phạm. Theo đơn tố cáo của linh mục thừa sai de la Court với Toà thánh thì Giám mục Alexandris (làm Giám mục Đàng Trong từ 1727-1738) đã cho phép cúng Thành hoàng, xem tuồng hát ngoại đạo trong các lễ hội, cúng tiên sư...[8, tr.230]. Roma phải cử Giám mục La Baume làm Kinh lý tông toà đến Đàng Trong để yêu cầu mọi người tuân theo Hiến chế Ex illa die. Giám mục ngã bệnh mất ở Huế (1741). Linh mục Favre, phó Kinh lý tông toà, công bố chín điều ngày 27-5-1741, trong đó có “cấm cúng bái tổ tiên dưới mọi hình thức” [6, tr.495]. Thế nhưng linh mục Martiali, Giám quản Đàng Trong thay thế Giám mục Alexandris, về Roma phản đối. Roma lại phải cử Giám mục Hilario Costa giải quyết. Lúc này đã công bố Hiến chế Ex quo singulari (11-7-1742), cho nên mọi người không còn được phép bàn cãi gì nữa [9, tr.233]. Từ đó trở đi, các thừa sai và linh mục Việt Nam đều tuyên thệ theo bản mẫu Hiến chế. (nguyên văn bản Lời thề ngày 16-8-1750, xin xem Đỗ Quang Chính, Hòa mình vào xã hội Việt Nam, tr. 229). c) Các nhà truyền giáo sau Hiến chế Ex quo singulari (11-7-1742) Nói chung, việc tỏ lòng hiếu thảo “bên ngoài” đối với người quá cố, như cúng vái, nhang hương... đã không thực hiện được kể từ ngày công bố Hiến chế Ex quo singulari. Và cũng từ đó, người Công giáo có sự cách xa với các anh chị em lương dân suốt thời gian dài trong các hình thức tỏ lòng hiếu thảo với người đã khuất, có thể phác hoạ bằng những nét trong thư của cha Lui Huy, Bề trên cả đại diện tông toà coi địa phận Đông gửi cho giáo sĩ và giáo dân địa phận nói về “36 sự rối nước An Nam, Đức Thánh Pha pha đã đoán phi”, trong đó có nhiều “sự rối” về thờ cúng tổ tiên. Điều 6: cấm lạy xác kẻ chết, dù để tượng chịu nạn đấy. Khóc thói vô đạo cũng cấm. Điều 8: các đồ lễ vô đạo lấy mà thờ kẻ chết thì cấm cả như áo trẩm, mũ, gậy ete và cấm đồ lễ trong sách Gia Lễ dạy nữa. Điều 9: cấm đọc văn lễ cùng cắt tóc tang. Điều 32: học trò, đầy tớ, những ngày Tết, mồng năm đến cúng thầy hay Chúa nhà thì lạy ở nơi khác bàn thờ tiên sư, ông bà, ông vải mới nên. Như thế, các nhà truyền giáo dòng Đa Minh nhìn nhận thờ cúng tổ tiên là dối trá, do vậy đã loại tất cả những lễ thức tang ma của người Việt cổ truyền [13, tr.205-207]. Truyền thống khắt khe đó vẫn tiếp tục cho đến trước Huấn thị Plane compertum est (8-12-1939) thể hiện qua Thư chung “ Về các việc dối trá” của Giám mục Phêrô Đông (Pierre Jean Marie Gendreau), đại diện Tông toà coi sóc địa phận Tây Đàng Ngoài (trong thời gian 1892-1935), trong đó cấm nhiều việc mà ngày nay xem là bình thường đối với mọi người dân Việt : cúng Thành hoàng, ăn giỗ với người không có đạo, đi phúng điếu...(xin xem Phụ lục 7). Tuy Toà thánh đã cấm tuyệt đối mọi bàn cãi, giải thích, thực hành trái với Hiến chế, bằng hình thức chế tài là huyền chức, vạ tuyệt thông, nhưng một vài thừa sai, nhờ nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, nên đã mạnh dạn trình bày ý kiến mình. Linh mục Louvet từ năm 1873 ở giáo phận Sài Gòn đã cho việc tôn kính tổ tiên chỉ đơn thuần là cử chỉ lịch sự, tuyệt đối chẳng có tính cách tà thần. Linh mục Boisserand ngày 17-8-1789 viết thư gửi linh mục Boiret kể về việc Chúa Nguyễn Ánh phàn nàn với Giám mục Bá Đa Lộc vì hoàng tử Cảnh từ chối bái lạy trước bàn thờ tổ tiên. Giám mục thành thực nói rằng chính ngài cũng bỡ ngỡ không ít, vì Công giáo luôn coi việc bất hiếu với cha mẹ là tội nặng bậc nhất; nhưng đạo dạy việc tôn kính tổ tiên phải được đặt trên nền tảng chân lý, trong khi người không có đạo tin rằng hồn người chết ăn những gì tinh tuý nhất trong các món thịt dâng cúng, để rồi phù hộ cho họ sống lâu, giàu có. Chúa Nguyễn Ánh ngạc nhiên vì nhà chúa coi nghi lễ tôn kính tổ tiên chỉ là chứng cớ tỏ lòng nhớ đến cha mẹ: “Khi ta cử hành những nghi lễ đó, ta tự bảo: nếu tổ tiên còn sống thì ta muốn làm tất cả những gì ích lợi cho các ngài; để tỏ lòng thành của ta, lúc này ta làm như thể tổ tiên ta còn sống; dù biết rõ các ngài chẳng còn sống, và những gì ta làm đây chẳng còn mang lợi ích gì cho các ngài cũng như cho ta, nhưng vì muốn chứng tỏ cho mọi người thấy, ta đã không thể quên tổ tiên được và ta muốn nêu gương cho toàn dân ta về lòng hiếu thảo” [8, tr.203]. Giám mục Bá Đa Lộc cho biết vị tiền nhiệm của ngài là Giám mục Guillaume Piguel (1764-1771) đã phục tùng Hiến chế Ex quo singulari với lòng e ngại và không ngừng kêu trách. Giám mục Piguel và cha đại diện của ngài, cũng như Giám mục Bá Đa Lộc không hề muốn kết án việc bái lạy cha mẹ, tổ tiên đã qua đời, vì theo người Đàng Trong, không làm điều đó là bất hiếu. Sau đó Giám mục Labartette (cai quản Đàng Trong 1799-1823) cũng gửi thư cho Ban Giám đốc Hội thừa sai Paris để bênh vực nghi lễ lạy xác. Giám mục Labartette còn kể linh mục Halbout đã lên tiếng phản đối những ai là nguyên nhân của việc cấm đoán lạy xác, thì có tội trước mặt Thiên Chúa [8, tr.206-211]. Như thế đã có hai ý kiến đối với việc tôn kính tổ tiên cha mẹ: một cực đoan, một ôn hoà. Bên nào cũng có đủ lý do để bảo vệ ý kiến mình. Điều đáng ngạc nhiên là mặc dầu Hiến chế Ex quo singulari đã cấm tuyệt đối mọi bàn cãi, nhưng vì lương tâm, một số linh mục và Giám mục đã ra sức khẩn khoản xin Toà thánh xét lại. Chỉ đến 1939, việc tôn kính tổ tiên và các nghi lễ khác mới được chấp nhận. d) Sau Huấn thị Plane compertum est (8-12-1939) Sau khi Roma tháo gỡ nghi lễ Trung Hoa bằng Huấn thị Plane compertum est (1939), đất nước Việt Nam đang ở trong tình trạng thuộc địa và chiến tranh nên chưa áp dụng được những cởi mở nghi lễ mà Huấn thị cho phép. Phải đợi Công đồng Vatican II thổi luồng gió mới vào Giáo hội, lúc này Hội đồng Giám mục Việt Nam (miền Nam Việt Nam) mới đề nghị xin áp dụng Huấn thị Plane compertum est. Toà thánh đã chấp thuận ngày 20-10-1964. Ngày 14-6-1965, Hội đồng Giám mục Việt Nam (miền Nam Việt Nam) đã ra thông cáo về việc tôn kính tổ tiên (nguyên văn thông cáo xin xem Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam, niên giám 2004, tr.487-489). Trong phần II đề cập đến Thể thức áp dụng Huấn thị “Plane compertum est”, đã phân biệt tôn giáo tín ngưỡng với phong tục dân tộc tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên, anh hùng dân tộc (xin xem Phụ lục 4). Ngày 14-11-1974, trong Hội nghị ở Nha Trang, bảy Giám mục Việt Nam (Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, Giám mục Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Giám mục Phaolô Huỳnh Đông Các, Giám mục Giuse Trần Văn Thiện, Giám mục Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, Giám mục Phêrô Maria Nguyễn Huy Mai) đã xác định cụ thể hơn vấn đề thờ cúng tổ tiên bằng sáu điểm: - Bàn thờ gia tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện gì mê tín dị đoan như hồn bạch... - Việc đốt hương, nhang, đèn, nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ gia tiên và trước giường thờ tổ tiên là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm. - Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì mê tín dị đoan như đốt vàng mã... và giảm thiểu, canh cải những lễ vật để biểu dương ý nghĩa thành kính biết ơn ông bà như dâng hoa trái, hương đèn... - Trong hôn lễ, dâu rể được làm “lễ tổ, lễ gia tiên trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên” vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với ông bà. - Trong tang lễ, được vái lạy trước thi hài người qua cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng tôn kính đối với người đã khuất, cũng như Giáo hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố. - Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành hoàng quen gọi là “ Phúc thần” tại đình làng để tỏ lòng tôn kính biết ơn những vị mà theo lịch sử, đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”. Trong trường hợp thi hành các điểm trên đây, sợ có điều gì hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm... Đối với giáo dân, cần giải thích cho hiểu việc tôn kính tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc liên quan đến tín ngưỡng, và chính Chúa cũng truyền “phải thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa. [14, tr.490]. Không phải toàn thể Giáo hội Việt Nam áp dụng thông cáo ngay, bởi vì một số người đã quá quen thuộc với cách trước đây, hiểu biết giáo lý chưa đủ, không thông suốt Giáo hội và xã hội, văn hóa Việt Nam v.v...nên một số người, một số nơi chưa quan tâm đúng mức thông cáo này [9, tr.208]. Tuy nhiên, từ nay người Công giáo Việt Nam lại có thể bày tỏ lòng hiếu thảo theo nếp sống văn hóa chung của đồng bào như cách đây mấy trăm năm. Tác giả: Cao Kỳ Hương1 like
-
Ai cũng buồn vì có cung số nào đó của mình ko đẹp, nhưng thực sự không ai có đủ 12 cung số đẹp huy hoàng cả Ai cũng buồn vì mình không mau nổi tiếng và tài năng, nhưng nhìn những ngôi sao đương đại thì hiện nay mấy đĩa CD các bé hát hò đó đã lớn, vậy họ có còn được hâm mộ như lúc còn bé không? Ở VN mọi người có nhiều nổi tiếng đương đại để mọi người chiêm nghiệm, ko tiện nêu ra, nhỡ họ đọc xong lại kéo đổ diễn đàn thì khổ nhiều người. Trên thế giới có thể kể ra vài người đình đám có thể nêu vô tư vì nhiều khả năng họ chẳng biết mình nói gì về họ (toàn sự thật thôi mà) Michael Jackson sống là thế, chết là thế, có ai muốn như anh? Võ sĩ thép Mike Tison đến già mà vẫn có kẻ muốn thách đấu để 1 lần đứng trên đầu người vô địch một thời. Ai muốn được như anh không? Vua bóng đá PeLe chưa bao giờ đoán được đội vô địch, dù ở vòng trung kết. Buồn nhỉ. Thần đồng bóng đá Maradona nghiện ma túy đến độ lấy đầu con gái ra để thề là không nghiện hút mà vẫn hút hít v.v... Rất nhiều người tài đều chỉ có 1 thời và nếu không có sự điều chỉnh bản thân thì sẽ không có con đường tốt trong tương lai. Xem số là để biết ứng xử sao cho hợp lẽ đời và không hổ thẹn với lương tâm. Chứ không phải là để cải số hay thay đổi số phận hay làm sai đi lịch sử. Nếu trước kia tầu Titanic không chìm (trước đó đã có tiên đoán đến chuyện này và nêu đích danh cái tên Titanic) thì ngày nay nó đã ngao du khắp nơi với hàng ngàn lượt khách. Và người ta sẽ không thể tìm ra Vi khuẩn có thể phân hủy Thép (Thép cứng hơn Sắt do đã được bổ xung nhiều hợp chất tăng cứng Si, C, N, Ni...) Cái gì cũng có nguyên do sinh tồn của nó, cái chết của sinh vật này là sự sống của sinh vật khác. Giữa sinh và diệt là ranh giới mong manh.1 like