-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 19/08/2012 in all areas
-
2 likes
-
KHÓA TU “GIEO HẠT TỪ TÂM” Khóa tu "Gieo hạt từ tâm" kỳ 4 với chủ đề "Tưới tẩm thương yêu " dành cho các bé nhỏ có độ tuổi từ 5 đến 12 tuổi được tổ chức sáng nay tại Quan Âm Tu Viện, Quận Phú Nhuận, Tp. HCM. Được biết có hơn 260 bé đăng kí tham gia khóa tu lần này, số lượng các bé tham gia khóa tu kì này nhiều hơn gấp đôi khóa tu kì trước và phạm vi không gian không chỉ ở trong Tp. HCM mà đã có các bé từ các tỉnh miền Tây và miền Đông cũng được phụ huynh đưa các bé về chùa tham dự. Vào lúc 8g15, ngày 22 tháng 04 năm 2012 - 02 / 04 Nhâm Thìn, tại Quan Âm Tu Viện ( 384 Trường Sa - P.2 - Q. Phú Nhuận - TP.HCM ) đã diễn ra Khóa Tu Gieo Hạt Từ Tâm Dành Cho Học Sinh - Sinh Viên ở lứa tuổi từ 13 đến 25. Quang lâm chứng minh gồm có: HT.Thích Minh Thông - Trụ trì tổ đình Vĩnh Nghiêm (Mỹ), ĐĐ. Thích Tâm Hải - Thư ký báo giác ngộ, ĐĐ.Thích Nhuận Thường - họa sĩ báo Giác Ngộ, NT.Thích Nữ Như Giác - Trụ trì Quan Âm Tu Viện, SC.Thích Nữ Hương Nhũ - Giáo thọ sư HVPG tại TPHCM, Họa sĩ Nguyên Hải, Họa sĩ Thọ Cường cùng đông đảo các bạn trẻ đến tham dự. Cuộc đời mỗi con người bắt đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là giai đoạn hình thành tâm sinh lý nói chung và định hướng tương lai của chính mình nói riêng. Rất nhiều giới trẻ phạm pháp vì sự nông nổi bồng bột vì thiếu hiểu biết, cái tuổi muốn chứng tỏ cái tôi là đúng - là người lớn - là sành điệu. Ngày nay, có nhiều các tệ nạn xã hội xảy ra, đặc biệt đa số rơi vào các trường hợp ở độ tuổi thanh thiếu niên, nguyên nhân là do một phần vì môi trường gia đình - học đường - xã hội, một phần vì một số giới trẻ ngày nay chỉ sống dật dờ, tương lai mờ mịt - không biết mình muốn gì, không cần biết mình sẽ phải sống như thế nào để có ích cho bản thân - gia đình và xã hội. Một số bạn trẻ lại có khuynh hướng sống thử, nên chỉ biết ăn chơi hưởng thụ, ngày càng sa đà lún sâu vào các trò chơi giải trí vô bổ, tàn hoại thân xác, chôn vùi tương lai. Một số lại qúa tham vọng mải mê chạy theo tiền tài danh vọng mà đôi khi quên đi hoặc đánh mất tình cảm của người thân và thậm chí là đánh mất ngay cả bản thân mình. Các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, trước nguy cơ suy thoái đạo đức ngày càng tăng, không ít các nhà chức trách và các bậc phụ huynh không tránh khỏi băn khoăn lo lắng cho con trẻ của mình và tương lai của xã hội. Để góp phần xây dựng một thế giới an bình - hạnh phúc, đồng thời để giúp giới trẻ ý thức rõ được cuộc sống đang diễn ra xung quanh, và có ý thức sống như thế nào cho thật đáng sống, chư Tôn Đức lãnh đạo Giáo hội nói chung và Quan Âm Tu Viện nói riêng mong muốn trang bị cho các bạn trẻ những hành trang thiết yếu trong cuộc sống và kỹ năng sống thiết thực phù hợp với truyền thống đạo đức trong môi trường sống hiện đại ngay từ bây giờ trong một khóa tu. Nhân Đại Lễ Phật Đản 2556 sắp đến - Sư Cô Hương Nhũ thuyết giảng bài pháp thoại “ Đức Phật Lịch Sử Và Đức Phật Tôn Giáo ” để các bạn biết trẻ biết rõ Đức Phật là ai? Ngài có thật không? Ngài đã làm lợi ích gì cho chúng sinh? Và trong số các bạn trẻ có ai muốn mình giống Đức Phật không? Theo thông tin chúng tôi được biết đây là khóa tu đầu tiên, về sau sẽ có khóa tu tu định kỳ 01 tháng / 01 lần. Tại khóa tu này có 110 em tham dự, tự viện đã hỗ trợ pháp phục, ngoài ra còn có cuộc thi vẽ tranh Đức Phật Của Em, tập hát bài Gieo Hạt Từ Tâm do ca sĩ Sĩ Luân hướng dẫn. Có duyên ta đã gặp nhau tại khóa tu này, xin hẹn gặp lại vào những khóa tu sắp đến. Xin chúc các bạn trẻ tinh tấn - an vui - chăm ngoan - hiếu thảo - học tốt - rèn luyện nhân cách để trở thành người công dân hữu ích cho đời và đạo. Và hãy tự biết ơn lẫn sự trân trọng những người bỏ thời gian công sức để các bạn có khóa tu như ngày hôm nay. Chân - Thiện - Mỹ là thông điệp từ HT.Thích Minh Thông gởi đến các bạn nhân khóa tu này. http://www.daophatng...Am-Tu-Vien.html http://nghethuatphat...o-ht-t-tamq-k-4 ========================================================================================== và hôm nay ngày 19/8/2012 nhằm mùng 3 tháng 7 để khai lễ Mùa Vu Lan Báo Hiếu. Các em con và cháu của thành viên Lý Học Đông phương cũng tham gia khóa tu kỳ 5 tại Quan Âm Tu Viện. (còn tiếp)1 like
-
ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Khi trong nhà thấy có nhiều sự bất ổn liên miên, hoặc chưa hay đã dụng phong thủy để cải thiện mà chưa thấy chuyển, hãy khuyên gia chủ nhất tâm chí thành thiết lễ, tụng niệm Kinh Chú và danh hiệu Đức Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát để hồi hướng đến các vị Thần Linh quản trị tại địa phương và bản gia như Thành Hoàng Bổn Cảnh, Đông Trù tư mệnh đinh phúc táo phủ thần quân, bản đường tiên thánh tiên gia, bản viên thổ công thổ địa phúc đức chính thần , ngũ phương long mạch tài thần, môn gia hộ úy, nhân súc y thần. Hồi hướng cho Gia tiên , cho các Oan gia trái chủ của người trong nhà, cho Tiền hậu thổ chủ, y phụ thảo mộc các hương linh phảng phất trong đất ấy. Rồi sẽ thấy. Kinh Địa Tạng bổ nguyện công đức dạy "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất; ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích. Những gì là mười? Một là đất đai mầu mỡ; Hai là nhà cửa yên ổn mãi mãi; Ba là người đã mất được sanh thiên; Bốn là người hiện còn được tăng tuổi thọ; Năm là mọi mong cầu đều được toại ý; Sáu là không có tai họa về nước và lửa; Bảy là trừ sạch việc hư hao; Tám là dứt hẳn ác mộng; Chín là ra vào đều có thần theo hộ vệ; Mười là thường gặp nhân Thánh." Chiều theo ý anh thì ta nói : Ngài Địa Tạng là vị Bồ Tát hộ trì phong thủy đấy. Nhưng theo ý ta, có nghe nói vậy anh chớ tin là vậy, nghe vậy mà không chỉ có như vậy thôi, Phật pháp oai lực vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Công Đức và Oai lực của Ngài Bồ Tát Địa Tạng cũng không ngoài. Anh hãy đi đi, hãy thử tự tìm, tự học, tự ngẫm suy và hành động trải nghiệm rồi tự anh sẽ thấy còn nhiều điều lớn lao hơn nhiều, nhiều nữa. Chân thần yếu dụng tâm cảm ứng。Tâm thành tắc linh. ( Nhớ lại lời dạy của một Tôn Sư ) (Còn tiếp )1 like
-
Ngoài sân còn có những tăng sinh nhí tham dự... Với pháp phục này, Bé rất ngoan ngoài dự đoán của Phụ huynh, chiếc áo ko làm nên Thầy tu nhưng vẫn tạo nên phong cách Thiếu Lâm nhỉ? vẫn cần những khoảnh khắc giải lao cho các em, khuôn mặt rất quen trong những chương trình từ thiện. Rạng rỡ ở môi trường mới này với cậu Bé! mang vẻ võ sinh nhiều hơn tăng sinh !!! Qua sự chia sẽ này, Wild hy vọng các bạn thành viên có con em ở lứa tuổi này nên tìm hiểu và tham gia bởi nơi đây chương trình này đã đem đến cho con em chúng ta những điều bổ ích trong cuộc sống đầy sự ô nhiểm suy đồi như hiện nay.1 like
-
Ngày này cũng đâu phải ngày tốt?1 like
-
Năm tốt thì trai gái gì cũng tốt cả thôi. SInh con hợp tuổi thì mọi việc trong nhà ổn định và phát triển. Nếu không đảm bảo được như vậy thì chúng tôi sẽ không tư vấn. Thân mến.1 like
-
Lý tưởng Bồ-tát qua hình tượng ngài Địa Tạng 18 Tháng 12 2009 Hồng chung sơ khấu Bảo kệ cao âm Thượng thông thiên đường Hạ Triệt địa phủ Nam-mô U minh giáo chủ, cứu khổ bổn tôn, cứu bạt minh đồ, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát ma-ha-tát.[1] Có lẽ suốt cuộc đời tôi sẽ không sao quên được bài kệ và danh hiệu của vị Bồ-tát ấy, bởi bài kệ và danh hiệu ấy đã đánh dấu một thời hành điệu của tôi. Làm sao quên được những kỉ niệm và hình ảnh của một chú tiểu nhỏ bé với cái chỏm trên đầu, mới ba giờ rưỡi sáng, trong cái lạnh giá buốt của miền cao nguyên trung phần Pleiku, tay cầm chùy đại hồng chung, miệng đọc bài kệ và niệm danh hiệu của Bồ-tát Địa Tạng và đánh lên những tiếng chuông thanh thoát giữa đêm tàn cô tịch, nhất tâm cầu nguyện cho những chúng sanh đang chịu những cực hình khổ đau trong địa ngục và thức tỉnh cả nhân loại đang say giữa giấc mộng miên trường. Tiếng chuông, danh hiệu của Bồ-tát và bài kệ ấy đã theo tôi từ thời hành điệu như thế, và tôi cũng biết rằng đó là bài kệ nằm lòng của những người con Phật, bởi bài kệ niệm chung ấy ngày nào cũng được ngân vang trước hai thời công phu (công phu khuya và tối). Âm thanh, ý nghĩa bài kệ và danh hiệu Bồ-tát ấy cao huyền làm sao, và tôi chắc rằng không có một bài kệ nào hay hơn và ý nghĩa hơn có thể thay thế được. Hình vẽ Địa Tạng Bồ Tát ở Goryeo,Hàn quốc vào cuối thế kỉ 14 Chúng ta chưa bàn về ý nghĩa cao xa của kinh Địa Tạng hay hạnh nguyện, hình tượng… của ngài Địa Tạng, chỉ cần qua bài kệ ngắn 16 chữ và danh hiệu ấy, cũng đủ cho chúng ta thấy được tầm quan trọng về lý tưởng Bồ-tát qua hình tượng ngài Địa Tạng trong lòng người con Phật rồi. Tinh thần Đại thừa nói chung hay lý tưởng Bồ-tát nói riêng đã đưa Phật giáo vượt thoát những không gian hạn hẹp, vượt qua những giới hạn của nhà chùa hay tinh xá “cửa đóng then cài” hay “thiền môn u tịch”… để đưa Phật giáo đi vào cuộc đời, thể hiện lý tưởng độ sanh hay tinh thần cứu khổ của người con Phật. Đó chính là lý tưởng và tinh thần của các vị Bồ-tát. Cho đến ngày nay, nói theo ngôn ngữ của người xưa “sáu mươi năm cuộc đời” thì tôi đã đi hơn một nửa rồi. Trong suốt những năm dài học Phật, tôi chợt giật mình nhìn lại tinh thần siêu việt của Đại thừa hay lý tưởng Bồ-tát mà chư Phật, chư Tổ đã dạy cho người xuất gia ngay từ lúc bước chân vào đạo. Tôi nhớ ngày ấy, ngày đầu tiên mới xuất gia vào cửa chùa, chưa thuộc một bài kinh cơ bản nào, ngay cả chú Đại Bi, Sư phụ tôi đã dạy tôi học sáu chữ “Tỳ ni nhật dụng thiết yếu” (Luật dùng cần thiết hằng ngày). Người còn dạy “Nghi tiên học luật, hậu học tu-đa-la” (trước tiên phải học luật, sau đó mới học kinh). Giờ nghiệm lại những dòng kệ ấy, tôi chợt nhận ra lý tưởng siêu việt của Bồ-tát đã ẩn tàng bao la trong những dòng kệ Tỳ-ni ban đầu ấy. Năm mươi mốt câu kệ trong bộ luật này[2] đã dạy cho người xuất gia sơ cơ mới vào cổng chùa, từ những lúc gà gáy canh khuya, khi vừa thức dậy bước chân xuống giường cho đến khi đi ngủ, phải thiết lập chánh niệm trong mỗi một việc làm của mình và thực hiện lý tưởng Bồ-tát của người con Phật là phải cầu nguyện và hồi hướng công đức đến với tất cả chúng sanh “đương nguyện chúng sanh”. Phật giáo Đại thừa, hay lý tưởng Bồ-tát đã được thiết lập và truyền dạy cho những vị xuất gia sơ cơ, ngay khi phát nguyện ra khỏi nhà thế tục bước chân vào cửa đạo qua những bài kệ của luật Tỳ-ni hay bài kệ hô chung với hình ảnh của ngài Địa Tạng mà các chú tiểu đã đọc tụng và đánh lên những tiếng đại hồng chung thức tỉnh cả thiên hà, u cảnh “Thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ.” Kinh Tạp A-hàm (Samyutta Nikaya) kể rằng: Có một hôm, tại xứ Kosambi, đức Phật từ trong rừng đi ra, trên tay Ngài cầm một nắm lá Simsapa và hỏi các vị Tỳ-kheo rằng lá trong rừng nhiều hay lá trên tay Ngài nhiều. Các Tỳ-kheo đều trả lời, lá trong rừng rất nhiều, lá trên tay rất ít. Đức Phật dạy, những gì Ngài dạy cho các Tỳ-kheo chỉ như lá trong tay của Ngài, còn những gì Ngài biết thì như lá trong rừng. Với tinh thần siêu việt của Đại thừa, chúng ta có thể hiểu rằng các vị Bồ-tát thuở xưa như ngài Mã Minh (Asvagosa), Long Thọ (Nagarjuna), Vô Trước (Asanga), Thế Thân (Vasubandhu), v.v… đã nương theo nắm lá Simsapa trong bàn tay của đức Phật và hướng đến rừng lá Simsapa vô tận trong rừng. Có lẽ trên tinh thần siêu việt ấy mà giáo lý Đại thừa đã được thành lập, lý tưởng Bồ-tát cao siêu đã xuất hiện ngay từ thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, để thay thế cho chủ nghĩa bộ phái sắp suy tàn và đưa Phật giáo phát triển một cách rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. Đó chính là sự xuất hiện những tư tưởng siêu việt qua các bộ kinh như Bát-nhã (Prajna Paramita sutra), Pháp Hoa (Saddharmapundarika), Hoa Nghiêm (Avatamsaka), Duy-ma-cật (Vimalakirtinidesa), kinh Địa Tạng, Vu Lan Báo Hiếu, v.v… Lý tưởng Đại thừa của Phật giáo được thể hiện cụ thể qua những lý tưởng và hạnh nguyện của các vị Bồ-tát. Trong vô lượng Bồ-tát được đề cập trong các kinh điển Đại thừa, có bốn vị đại Bồ-tát nổi bật nhất: Văn Thù Sư Lợi (Manjuri), Phổ Hiền (Samantabhadra), Quán Âm (Avalokitesvara) và Địa Tạng (Kstigarbha). Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu về Bồ-tát Địa Tạng. Công hạnh, hình tướng cũng như sự tu chứng của vị Bồ-tát này được đức Phật mô tả cụ thể trong kinh Địa Tạng. Có thể khẳng định rằng, kinh Địa Tạng là một trong những kinh nổi bật của kinh điển Đại thừa và được người con Phật thọ trì đọc tụng rất nhiều tại các nước như Trung Hoa, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam… Một số học giả cho rằng kinh này được biên soạn tại Trung Hoa. Tuy nhiên, theo lịch sử truyền bá và dịch thuật kinh điển, bộ kinh này có nguồn gốc từ Ấn Độ, nguyên bản tiếng Phạn của kinh này tên là: Ksitigarbhaprani Dhana Sutra.[3] Kinh này được ngài Thật-xoa-nan-đà (Siksanada) dịch đầu tiên sang tiếng Hán vào thời đại nhà Đường, bản tiếng Hán là: 地 藏 菩薩 本 願 經 (Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện kinh). Sau đó bản kinh này được dịch ra rất nhiều thứ tiếng khác như tiếng: Hàn, Nhật, Việt… Ngày nay bản kinh này cũng được lưu hành, nghiên cứu và thọ trì tại các nước phương Tây với tựa đề là “Sutra of the Past Vows of the Earth Store Bodhisattva), do hội nghiên cứu dịch thuật của HT. Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành, Mỹ quốc dịch và phổ biến. Bộ kinh này được đức Phật thuyết giảng tại cung trời Đao Lợi[4], nhân dịp Ngài lên cung trời này thuyết pháp độ thân mẫu của Ngài là hoàng hậu Maya, qua sự thưa thỉnh của đức Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi. Tông chỉ bộ kinh này được HT. Tuyên Hóa tóm tắt trong tám chữ:[5] “Hiếu đạo, Ðộ sanh, Bạt khổ, Báo ân”, do vậy kinh này cũng được gọi là Hiếu kinh của Phật giáo. Nội dung bộ kinh này đức Phật thuyết giảng về công hạnh cao cả của ngài Địa Tạng qua những tiền kiếp của Ngài, đặc biệt là hiếu hạnh và sự độ sanh của Ngài. Lý tưởng Bồ-tát và công hạnh của ngài Địa Tạng được đức Phật mô tả rất nhiều qua các kinh điển Đại thừa như: Phật Thuyết Đại Phương Quảng Thập Luân kinh, Ðại Thừa Ðại Tập Ðịa Tạng Thập Luân kinh, Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo kinh, Phật thuyết La Ma Già kinh, Hoa Nghiêm kinh, Hoa Nghiêm kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Hoa Nghiêm Thập Ðịa kinh, Ðại Thừa Bổn Sanh Tâm Ðịa Quán kinh, Phật Thuyết Bát Ðại Bồ-tát kinh, v.v…[6] Trong kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, đức Phật có dạy về bốn tiền thân, với bốn đại nguyện của ngài Địa Tạng: 1. Trong vô lượng kiếp về trước, ngài Địa Tạng là một vị trưởng giả, nhờ phước duyên được chiêm ngưỡng, đảnh lễ và được sự chỉ dạy của đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, vị trưởng giả này đã phát đại nguyện: “Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo.”[7] 2. Vào thời quá khứ vô số kiếp trước, thuở đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tiền thân của Ngài là một người nữ dòng dõi Bà-la-môn có nhiều phước đức và oai lực; nhưng mẹ của cô không tin vào nhân quả tội phước, tạo rất nhiều ác nghiệp, sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Là người con chí hiếu, cô rất thương nhớ mẹ, và đã làm vô lượng điều lành, đem công đức ấy hồi hướng cho mẹ, và cầu nguyện đức Phật cứu giúp. Nhờ các công đức chí thành ấy, đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại đã cho cô biết là mẹ của Cô đã được thoát khỏi cảnh địa ngục và vãng sanh về cõi trời. Vô cùng hoan hỉ trước tin ấy, cô đã đối trước đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát.”[8] 3. Trong hằng hà sa số kiếp về trước, thuở đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, ngài Địa Tạng là một vị vua rất đức độ, thương dân… nhưng chúng sanh lúc ấy tạo rất nhiều ác nghiệp, vị vua hiền đức này đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật.”[9] 4. Vô lượng kiếp về thuở quá khứ, thời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài Địa Tạng là một hiếu nữ tên Quang Mục có nhiều phước đức. Nhưng mẹ của Quang Mục lại là người rất ác, tạo vô số ác nghiệp. Khi mạng chung, bà bị đọa vào địa ngục. Quang Mục tạo nhiều công đức hồi hướng cho mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán, vị Thánh này đã cho biết rằng, mẹ của cô đã thoát khỏi cảnh địa ngục sanh vào cõi người, nhưng vẫn còn chịu quả báo sinh vào nhà nghèo hèn, hạ tiện, lại bị chết yểu… vì lòng thương mẹ và chúng sanh, Quang Mục đã đối trước đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai phát nguyện: “Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng sanh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh Giác.”[10] Có lẽ chính nhờ những tư tưởng hiếu đạo cao cả của đức Thế Tôn lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp độ thân mẫu Maya, về quê hương hóa độ thân phụ Tịnh Phạn Vương, hay các hạnh hiếu cao cả của tôn giả Mục Kiền Liên qua kinh Vu Lan Bao Hiếu và những hạnh hiếu cao cả của ngài Địa Tạng qua kinh Địa Tạng này… mà Phật giáo đã cảm hóa được tính độc tôn của Nho giáo từng thống trị ở đại lục Trung Hoa, đồng thời góp phần to lớn vào việc xây dựng nền đạo đức Đông phương. Tinh thần vô uý cao cả phát nguyện vào các địa ngục kinh khiếp để cứu độ những chúng sanh đầy tội lỗi ấy của đức Địa Tạng luôn là biểu tượng tôn quí để người con Phật hướng về đảnh lễ chí thành: “Chúng sanh độ tận Phương chứng Bồ-đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật, đại bi đại nguyện đại thánh, đại từ, bổn tôn địa tạng Bồ-tát Ma ha tát.”[11] Chính lý tưởng Bồ-tát siêu việt và cao cả ấy, hình tượng ngài Địa Tạng đã trở thành lý tưởng sống vị tha cao thượng qua một thành ngữ nổi danh: “Nếu ta không vào địa ngục thì ai sẽ vào?” (If I do not go to hell, who else will go?) Nếu quê hương của Phật giáo có Tứ Động Tâm[12] hay Bốn Thánh Tích thiêng liêng của người con Phật, thì Phật giáo Trung Hoa có Tứ Đại Danh Sơn. Tứ Đại Danh Sơn là bốn thánh cảnh nổi danh, gắn liền với những huyền thoại nhiệm mầu về hóa thân tu tập của bốn vị Bồ-tát nổi danh trong Phật giáo, đó là: Bồ-tát Quán Thế Âm tại Phổ Đà Sơn còn gọi là Hải Thiên Phật Quốc ở tỉnh Triết Giang, Bồ-tát Phổ Hiền tại Nga Mi Sơn còn gọi là Tây Nam Phật Quốc ở tỉnh Tứ Xuyên, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi tại Ngũ Đài Sơn còn gọi là Thanh Lương Thế Giới ở tỉnh Sơn Tây và Bồ-tát Địa Tạng tại Cửu Hoa Sơn còn gọi là Liên Hoa Phật Quốc ở tỉnh An Huy.[13] Theo các sách như Thần Tăng Truyện, Cửu Hoa Sơn Chí… thì lịch sử của Cửu Hoa Sơn, thánh địa đạo tràng của ngài Địa Tạng được kể như sau: Vào năm 695 Tây lịch, vua nước Tân La (Hàn Quốc ngày nay) hạ sanh thái tử Kim Kiều Giác, lớn lên Thái tử có lòng mến mộ Phật pháp rất sâu. Năm 24 tuổi, ông từ bỏ hoàng cung quyết chí xuất gia, lấy hiệu là Địa Tạng. Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo Địa Tạng nghe danh của ngài Huyền Trang sang Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh và trở về Trung Hoa, giúp Phật giáo đời Đường phát triển đến đỉnh cao, hơn nữa Phật giáo Tân La được truyền từ Trung Hoa vào… Tỳ-kheo Địa Tạng phát nguyện vượt đại dương mênh mông đến Trung Hoa tu tập, hóa độ chúng sanh. Sau những năm vân du tham học nhiều nơi, cuối cùng Tỳ-kheo Địa Tạng đến núi Cửu Hoa, thấy cảnh núi non hùng vĩ, phong cảnh thanh nhàn thoát tục, Ngài dừng lại ở ngọn núi này lập một thảo am quyết tâm khổ hạnh tu đạo. Trong vùng lân cận của núi Cửu Hoa có một vị phú thương tên là Văn Các Lão, là một Phật tử có tâm hộ trì Phật pháp, từng phát tâm cúng dường và xây dựng rất nhiều chùa viện. Nhân một lần đi ngoạn cảnh tại núi Cửu Hoa, Văn Các Lão diện kiến được sự tinh tấn tu hành, cũng như đạo hạnh cao thâm của Tỳ-kheo Địa Tạng, ông liền thưa Tỳ-kheo Địa Tạng muốn dâng cúng Ngài một khu đất và lập một tự viện để Ngài tu hành. Tỳ-kheo Địa Tạng nói chỉ cần một khu đất che phủ bởi tấm áo Cà sa của Ngài, nhưng khi Ngài giũ áo lên thì tấm Cà sa phủ cả ngọn núi Cửu Hoa. Văn Các Lão vừa kính phục vừa vui mừng, liền mua cả ngọn núi Cửu Hoa cúng dường Ngài, ông còn phát tâm theo ủng hộ Ngài và cho người con trai của mình tên là Đạo Minh xuất gia theo Ngài học đạo. Từ ấy dân làng các vùng lân cận và các nơi đều kéo nhau về núi Cửu Hoa học Phật dưới sự hướng dẫn của Tỳ-kheo Địa Tạng, cũng trong thời gian ấy rất nhiều huyền thoại mầu nhiệm về sự cứu độ chúng sanh được kể về Ngài. Đến năm 99 tuổi, Tỳ-kheo Địa Tạng gọi đồ chúng đến dặn dò mọi việc rồi ngồi kiết già an nhiên thị tịch, lúc ấy là ngày 30 tháng 7 âm lịch. Theo lời dặn của Ngài các đệ tử đóng một cái quan bằng gỗ và tôn thờ tại núi Cửu Hoa, ba năm sau khai quan ra thì thấy nhục thân Ngài vẫn nguyên vẹn, sắc diện hồng hào, tỏa mùi thơm… các đệ tử liền xây một bảo tháp cao ba tầng trên núi Cửu Hoa để tôn thờ nhục thân Ngài, gọi là “Nhục thân bảo tháp”. Cũng trong năm ấy, năm 797, Hoàng đế nhà Đường lúc ấy là Đường Đức Tông nghe việc hy hữu nhiệm mầu, liền ban chiếu chỉ xây một bảo điện to lớn bao lên trên bảo tháp để bảo vệ nhục thân của ngài, gọi là “Nhục thân bảo điện” để tỏ lòng kính ngưỡng phụng thờ. Và nhục thân của Ngài đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Ngọn núi Cửu Hoa còn gắn liền với nhiều huyền thoại linh ứng về sự cứu độ chúng sanh của Bồ-tát Địa Tạng[14] và ngay từ thời ấy đến tận bây giờ, thánh địa Cửu Hoa Sơn trở thành một trong bốn thánh cảnh thiêng liêng nhất của Phật giáo Trung Hoa. Hàng năm, thánh địa Cửu Hoa sơn thu hút hàng vạn Phật tử và du khách tại Trung Hoa cũng như trên thế giới đến chiêm bái và viếng thăm. Theo lịch sử của Cửu Hoa Sơn, Tỳ-kheo Địa Tạng thị tịch vào ngày 30 tháng 7 âm lịch, Phật giáo đã chọn ngày này làm ngày lễ vía hằng năm của Bồ-tát Địa Tạng. Cũng trên tinh thần ấy, sau lễ Vu Lan, các chùa thường khai kinh Địa Tạng và thọ trì, đọc tụng hết tháng này. Và các pháp hội về Bồ-tát Địa Tạng cũng thường được tổ chức trong những ngày này. Trong các tranh tượng của chư đại Bồ-tát, chúng ta có thể thấy rằng, hình tượng của Bồ-tát Địa Tạng là tiêu biểu cho hình dáng và lý tưởng của người xuất gia hơn là những hình tượng của các vị Bồ-tát khác. Nếu hình tượng của Bồ-tát Quán Thế Âm có hình dáng của người mẹ hiền, với bình cam lộ, giọt nước, cành dương xoa dịu những nỗi khổ đau nơi trần thế; hình tượng của Bồ-tát Văn Thù như một nhà thông thái tự tại trên lưng sư tử oai hùng, với thanh gươm trí tuệ chặt đứt những sợi dây phiền não vô minh; hình tượng của Bồ-tát Phổ Hiền an nhiên trên con bạch tượng với cành hoa sen trên tay, tiêu biểu cho thập hạnh chuyên cần tiến bước trên đường giác ngộ; thì hình tượng của Bồ-tát Địa Tạng với đầu tròn đội mũ Tỳ lư, mình đắp Cà sa, tay cầm tích trượng tiêu biểu cho hình tượng của chư Tăng, thực hiện lý tưởng cứu khổ độ sanh. Đó là hình tượng của ngài Địa Tạng mà chúng ta thường gặp nhất trong các chùa. Trong chánh điện các chùa, tôn tượng của Ngài thường được tôn thờ bên phải đức Thế Tôn hay đức Phật Di Đà, bên trái là Bồ-tát Quán Thế Âm. Đôi khi hình tượng Ngài còn được mô tả bên phải có hộ pháp Văn Các Lão, bên trái là Tỳ-kheo Đạo Minh, dưới chân Ngài là con Linh khuyển.[15] Một hình tượng của Ngài mà chúng ta thường trông thấy trong các buổi đại trai đàn chẩn tế là, Ngài ngồi tự tại trên một con kì lân hung tợn một sừng, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm viên minh châu tỏa sáng quang minh để cứu độ chúng sanh trong cảnh giới địa ngục kinh hoàng. Dù là hình tượng nào thì ngài Địa Tạng vẫn là hình tượng trang nghiêm tiêu biểu cho ‘đầu tròn áo vuông’, đầu đội mũ Tỳ lư, tay cầm tích trượng, mình mặc áo Cà sa… đó chính là hình ảnh của một vị Tăng xuất thế. Tuy nhiên, bước sang tinh thần của Phật giáo Nhật Bản thì lý tưởng, hạnh nguyện và hình tượng của ngài Địa Tạng rất đặc biệt, có đôi phần khác so với các nước Trung Hoa, Đài Loan, Việt Nam[16]… như đã miêu tả ở trên. Khi kinh Địa Tạng được truyền sang Nhật, người Phật tử Nhật có lẽ chú trọng và phát huy về sự cứu độ của ngài Địa Tạng qua hạnh nguyện cứu độ và bảo vệ những trẻ em bị yểu mạng, hay bất hạnh chết trong bào thai (sẩy thai) hay chết yểu lúc tuổi còn rất nhỏ; chính vì vậy mà hình tượng của Bồ-tát Địa Tạng thường được mô tả theo truyền thống Nhật là tay phải cầm tích trượng, tay trái bồng một em bé, đôi khi là hình tượng tay phải buông xuống cứu độ các trẻ em, tay trái bồng một em bé, dưới chân Ngài có 3 em bé đang vói tay đòi Ngài bồng, hay hình tượng của Ngài trong hình tượng là một em bé tay phải cầm gậy, tích trượng để đánh đuổi bọn quỷ hung ác, tay trái cầm một toà nhà, hay hình tháp nhỏ để hòa đồng và giúp những em bé bất hạnh, bơ vơ tích tạo công đức vượt qua dòng sông Nại Hà…[17] Chúng sanh với đa căn, đa bệnh, để thích ứng từng căn cơ, từng hoàn cảnh, Bồ-tát Địa Tạng cũng tùy theo đó mà thị hiện những hình tướng tương ưng để hóa độ. Hình ảnh của đức Thế Tôn cũng tùy theo những quốc gia mà có những nét khác biệt, và giáo lý của Phật giáo cũng vậy, có Nam truyền, Bắc truyền, hay Nam tông, Bắc tông; có Nguyên thủy Phật giáo, Tiểu thừa Phật giáo và Đại thừa Phật giáo, v.v… tuy muôn màu muôn vẻ, đa dạng như thế nhưng đó chỉ là sự khác biệt trên hình tướng, danh tự… để thích hợp với từng thời đại, quốc độ, địa phương, hay từng căn cơ, lý tưởng của chúng sanh… còn về mặt bản thể, hay mục đích thì vẫn là một; đó là để tu tập giác ngộ, hoá độ chúng sanh và hướng đến sự toàn giác (tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn). Lý tưởng Bồ-tát qua hình tượng của ngài Địa Tạng tuy được phác họa qua những nội dung đơn giản trên, nhưng đó cũng chính là lý tưởng cao đẹp của chư Bồ-tát nói riêng hay của những người con Phật nói chung. Lý tưởng và hình tướng cao cả của Bồ-tát Địa Tạng luôn đại diện cho hình ảnh của những bậc tu hành xuất thế; đó cũng chính là hình ảnh và ý nghĩa của một trong Ba ngôi báu, với tinh thần vô uý, với thần lực vô ngại, với lý tưởng vị tha luôn dấn thân để cứu độ chúng sanh thoát khỏi cảnh Nhà lửa tam giới, hay những khổ cảnh trong những địa ngục kinh hoàng.■ -------------------------------------------------------------------------------- [1]. Kệ hô chung, kinh Nhật Tụng, NXB TP. HCM, PL. 2544, Tr.457. [2]. Sa-di Giới và Sa-di-ni Giới, Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải, 51 là tính đầy đủ, nếu tính các bài kệ bốn câu thì chỉ có 45 bài kệ. [3]. Bản tiếng Phạn này ngày nay chưa tìm thấy. [4]. Trời Đao Lợi, còn gọi là cõi trời Tam Thập Tam, đây là cõi trời thứ hai tính từ dưới lên trong 6 cõi trời dục giới: Tứ thiên vương, Đao-lợi, Dạ-ma, Đâu- suất- đà, Hoá lạc và Tha hoá tự tại [5]. Hiếu Kinh của Phật giáo, http://www.thuvienho...hdiatang-00.htm [6]. http://www.tangthuph...hducdaiquan.htm [7]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ nhất, Trưởng giả tử phát nguyện [8]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ nhất, Bà-la-môn nữ cứu mẹ [9]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ tư, Ông vua nước lân cận [10]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ tư, Quang Mục Cứu Mẹ [11]. http://www.thuvienho...hdiatang-01.htm, Phẩm thứ nhất, Thần thông trên cung trời Đao lợi[12]. Nơi đức Phật Đản sanh ở Lumbini, nơi đức Phật thành đạo tại Bodhagaya, nơi đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên ở vườn Lộc Uyển (Sanarth) và nơi đức Phật nhập Niết-bàn ở Kushinaga [13]. Xem Tứ Đại Danh Sơn, http://www.quangduc....214danhson.html [14]. Xem Tháng bảy với đức Bồ-tát Địa Tạng, http://daitangkinhvi...-tng-b-tat.html [15]. Xem Linh khuyển Thiện thính, http://www.quangduc....linhkhuyen.html [16]. Xem Bồ-tát Địa Tạng, vị Bồ-tát bảo vệ trẻ em, http://www.quangduc....tatdiatang.html 17]. Xem Earth Store Bodhisattva (or Jizo Bosatsu in Japanese), http://www.onmarkpro...tml/jizo1.shtml Huynh Công Minh có thể diễn giải Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới theo truyền thống Đông Mật??? Thanks1 like
-
7h15 là rơi vào giờ Thìn, mô tả thêm về bản thân để xác định giờ sinh nhé!1 like
-
@thanhtung91 Cảm ơn anh Thiên Đồng đã xem hộ em ạ, khi có kq đổi vị trí công tác, em sẽ báo lên cho anh kiểm chứng ạ Ah anh ơi, em có thắc mắc thêm chỗ này nữa, ở trên anh có nói là "sẽ đổi vị trí nhưng sớm thì tháng 8 âm đổi." ,sớm là tháng 8 âm, vậy nếu muộn, không thuận lợi thì tới khoảng tháng mấy ạ? Chậm mùa đầu tháng 3 năm sau 2013 @ Nhân Duyên Chú Thiên đồng kính mến, mong chú xem giúp cháu với ạ! Tuổi nam Bính dần 1986 Giờ hỏi 22 giờ 06 ngày 17 tháng 8 năm 2012 dương lịch 1. Công việc cháu đang làm liệu năm nay hay năm sau cháu có làm được cân nhắc lên vị trí cao hơn không ạ? Sự nghiệp của cháu ảnh hưởng rất nhiều từ công việc này đúng không ạ? Vị trí công việc chưa có sự biến chuyển, nên đợi từ từ 2. Sau này cháu có được cơ quan đưa đi học nâng cao không hay cháu phải tự đi học để nâng cao trình độ? Năm nay công việc có gì khó khăn trắc trở không chú? Tự đi học là chính. 3. Do cháu có tính hay phun phí tiền nên từ trước giờ chẳng tự mình sắm sửa gì cho mình đồ đạt...nói chung là những thứ có giá trị không biết năm nay hay năm tới cháu có khả năng tích lũy tiền tự mình sắm mà không xin tiền ba mẹ không? nếu được thì cái ấy tầm bao nhiêu, khoảng thời gian nào có chú ? Tích cóp thì sẽ được. Năm sau e rằng vẫn chưa tích cóp được tài sản lớn. Cháu cảm ơn chú Chúc thành công Thiên Đồng1 like
-
III – Mấy điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Như đã dẫn ở trên một trong những nội dung của một bộ kinh Phật là nói về Thánh Đức và linh ứng của một vị Phật hay Bồ Tát. - Kinh Dược Sư ca ngợi Thành Đức của Đức Đông Phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh A Di Đà ca ngợi Thánh Đức của Đức Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh Pháp hoa ca ngợi hạnh nguyện các vị Bồ-tát: Quan Thế Âm, Trì Địa, Thường Bất Khinh, v.v… - Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. 1- Điểm đặc biệt thứ nhất là nơi chốn giảng kinh : Khởi đầu một bộ kinh Đại Thừa là giới thiệu địa điểm giảng bộ kinh đó, thường thì các địa điểm đó là những nơi địa linh thuộc về “ mặt đất “ này ví dụ : - Kinh Hoa Nghiêm : Như vậy tôi nghe, một lúc Phật ở nước Ma Kiệt Ðề, trong Đạo Tràng Bồ Đề, ban đầu thành Vô thượng Chánh giác. Nơi đó đất cứng chắc, bằng Kim Cang. - Kinh Thủ Lăng nghiêm : Tôi nghe như vầy, một thời, Phật ở tại Tinh xá Kỳ-hoàn trong thành Thất-la-phiệt. - Kinh Dược Sư : Tôi nghe như vầy, Một thời, đức Thế tôn du hóa các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc…. - Kinh A Di Đà : Tôi nghe như vầy,một thủa nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ… - Kinh Pháp Hoa : Tôi nghe như vầy, một thời, Ðức Phật ở tại thành Vương Xá, trên núi Kì Xà Quật Tại kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao Lợi (1) …. ( Trời Đao Lợi: là từng trời thứ hai trong 6 từng trời ở cõi Dục. Đao lợi là tiếng Phạn, dịch là “tam thập tam” nghĩa là ba mươi ba, từng trời này ở tại núi Tu di nơi đó chia ra làm 33 nước trời, 32 nước ở bốn phương xung quanh, mỗi phương 8 nước; chính giữa là Thiện Kiến thành, cung của trời Đế Thích, vị trời này quyền thống nhiếp cả 33 nước trời.) Như vậy một điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ Kinh được giảng ở trên cõi Trời Theo truyền thống Phật Giáp Tây Tạng ( Kim Cương Thừa ) trong 1 niên lịch ( lịch Tạng) có nhiều ngày công đức tăng trưởng, nghĩa là vào những ngày đó làm một việc tốt nào đó thì công đức được tăng trưởng lên nhiều lần. Trong những ngày công đức tăng trường có 4 ngày công đức gấp 10 triệu lần : - Ngày Đức Phật Thích Ca phô diễn thần thông - Những ngày trong tháng tam hợp : Đức Phật Đản Sinh, Đức Phật thành đạo và Đức Phật nhập Niết bàn. - Ngày Đức Phật chuyển pháp luân - Và ngày Đức Phật hạ thế từ cõi trời Đế thích (2) ======================== Chú thích : (1) xem thêm : THIÊN THỨ MƯỜI MỘT THUYẾT PHÁP ÐỘ PHẬT MẪU Ở CÕI TRỜI ÐẠO LỢI Sau khi dùng thần thông thắng ngoại đạo xong. Ðức Thế Tôn dùng trí tuệ quan sát coi: Thường khi chư Phật lúc quá khứ làm những gì, ngự đi đâu sau khi thắng ngoại đạo? Ðức Thế Tôn thấy chư Phật quá khứ sau khi thắng ngoại đạo xong, Ngài liền ngự lên cõi trời Ðạo Lợi nhập hạ và thuyết pháp độ Phật mẫu. Pháp mà chư Phật quá khứ thuyết ở cõi Ðạo Lợi như trào lưu chảy rất mạnh giữa chư Thiên. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm Maha Thongkham Medhivongs) (2) Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất là một ngày cát tường nhất trong năm. Cung trời Đâu Suất Thiên được phân làm hai Viện: 1. Đâu Suất Thiên Ngoại Viện và. Đâu Suất Thiên Nội Viện. + Tại Đâu Suất Thiên Ngoại Viện, chư thiên hưởng cảnh an vui nhàn nhã với nhiều lạc thú, những vị đã tạo nhiều công đức thường tái sinh lên cõi trời này và thọ báo công đức cho đến khi hết mới phải chết và đi tái sinh. Nhưng chúng ta không nên cầu xin tái sinh vào Đâu Suất Thiên Ngoại Viện vì tại đây chỉ có lạc thú mà không có Phật pháp. + Ngược lại, Đâu Suất Thiên Nội Viện thì có Phật pháp, và hiện giờ đang có Đức Phật Di Lặc đang thuyết pháp tại đó. Chư vị nào đã tạo nhiều công đức do tu hành nhập thiền định thường được tái sinh lên cõi trời này để tiếp tục hành trì đạo pháp cho đến khi đạt Giác Ngộ (theo kinh Đâu Suất Thiên , thì 400 năm ở nhân gian dài bằng một ngày một đêm tại cung trời Đâu Suất). Theo lịch sử Phật Giáo thì sau khi thành đạo, trong 41 năm đức Thích Ca thường nhập thiền định vào mùa mưa và thời an cư kiết ha. Chư đệ tử chỉ thấy Ngài ngồi thiền định, nhưng thực ra trong lúc đó có khi Ngài phân thân đi nơi khác hoằng đạo. Tương truyền là Ngài đã thi triển thần thông đi lên trên cung trời Đâu Suất Thiên và ở tại đó 3 tháng (tính theo thời giờ của nhân gian) để thuyêt pháp cho Hoàng Hậu Ma Gia (Phạn ngữ là Mayadevi, tức là mẹ sinh ra Ngài vì bà đã tạ thế bảy ngày sau khi Ngài hạ sinh, và tái sinh vào thân của một vị Thiên Nam trên cung trời Đâu Suất). Tương truyền là 7 ngày trước khi Đức Thích Ca hạ thế từ Đâu Suất, Ngài ngưng tàng hình và nhờ đó mà đại đệ tử của Ngài là A Nậu Lâu Đà mới có thể dùng thiên nhãn để thấy được Ngài. Do đó A Nậu Lâu Đà đã thỉnh vị đệ tử Đệ Nhất Thần Thông Mục Kiền Liên bay lên cung trời Đâu Suất để đón Ngài hạ thế. Mục Kiền Liên tuân lời A Nậu Lâu Đà và bay lên Đâu Suất để thỉnh Đức Thích Ca hạ thế và bạch Ngài là chư đệ tử rất nhớ Ngài và xin thỉnh Ngài trở về lại cõi nhân gian để thuyết pháp cho tăng đoàn. Ngài trả lời là sẽ trở về trong 7 ngày. Khoảng thời gian này là lúc đang dựng tượng của vua Ba Tư Nặc Ngày Đức Thích Ca hạ thế, một đoàn thể lớn của chư tăng, các vua chúa và dân chúng của 8 nước lân cận họp nhau tề tựu đón mừng. Khi Đức Thích Ca hạ thế, một cái cầu thang bằng vàng bay từ trời xuất hiện trước theo mỗi bước Ngài đi xuống. Bên phải Ngài là vị trời Phạm Thiên, tay cầm phất trần màu trắng và đi xuống trên một cầu thang bằng pha lê trong suốt. Bên trái Ngài là vị trời Đế Thích đi xuống trên một cầu thang bằng bạc, tay cầm lọng che làm bằng châu bảo. Một doàn thể chư thiên đi theo sau để tiễn đưa Ngài về cõi nhân gian. Đức Phật tắm ngay sau khi hạ thế, sau này tại đó có xây một ngôi nhà và một bảo tháp để ghi lại dấu tích. Nơi Đức Thích ca hạ thế là thành Sankàsya nước Xá-vệ của Ấn độ, ngày nay còn là một nơi chốn có rất nhiều Phật tử đi hành hương. Theo truyền thống của tông phái Giới Đức (do Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo) thì vào ngày vía này, chúng đệ tử vân tập tại chùa để hành trì Lễ Cúng Dường Đức Bổn Sư ) Tóm Lược Về Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất – Lý Bùi Pháp danh Sonam Nyima Chân Giác) 2- Điểm đặc biệt thứ hai là đối tượng thọ nhận kinh điển : Trong cuộc đời du hóa chư quốc, truyền dạy giáo lý Phật đà Đức Phật cũng nhiều lần về lại kinh đô của vua cha để giảng đạo cho dòng tộc Thích ca Tại các bộ kinh Đại thừa và Mật thừa, đối tượng được nghe Ngài giảng kinh thường là các vị Bồ Tát, La hán, Chư thiên, Quốc vương, Đại thần, Balamôn, cư sĩ Thiên long bát bộ, nhân và phi nhân…. Và trong hàng chúng như thế, có một vi đặt vấn đề và Ngài sẽ vì một vị nào đó mà nói Pháp. Không lập tâm phân biệt, luôn biết rằng Kinh điển Phật giáo bất khả tư nghì vô lượng vô biên công đức và oai lực. Nhưng so sánh thì đa số các bộ kinh Đức Phật cũng thường vì Đại Chúng mà thuyết pháp. Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sanh thành, Ngài đã tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa nên đã lập Pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu. (1) Đây là một Pháp hội vô cùng quan trọng vì có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... cùng các chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cõi. Diễn nói Kinh Địa Tạng trong Pháp hội này vì thế mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha lành trong bốn cõi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế Tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả Pháp giới chúng sanh. Trong Pháp hội này Ngài vì thân mẫu mà thuyết Pháp nhưng động cơ chính vẫn là lòng từ bi lân mẫn đối với chúng sanh ở cõi Ta bà, đặc biệt là đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà Ngài biết chắc chắn là sẽ "bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ", vì thế trong Pháp hội này Ngài đã phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng nhiệm vụ "gắng độ chúng sanh trong cõi Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ ký.” (Quyển Thượng Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội). Đương thời đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự tại cung trời này mà thuyết pháp trong 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 7). Thánh mẫu là bà Ma Gia phu nhân sinh mẫu của Thái Tử Sĩ Đạt Ta. 7 ngày sau khi hạ sinh thái tử, bà bỏ thân người sinh lên cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ đức Phật sắp nhập diệt, ngài ngự lên đó nói pháp, trước để đáp ơn sinh thành, sau nhân đó mà giáo hóa hàng chư Thiên, cùng Long, Thần bát bộ và cả thảy Thánh, phàm. Như vậy điểm đặc biệt thứ hai của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ kinh Đức Thế Tôn vì Mẹ mà thuyết pháp. Con người, trong các mối quan hệ tình cảm cha con; vợ chồng ; anh em; bạn bè … thì tình mẫu tử luôn có một vị trí đặc biệt. Mặc dù cũng là đấng sinh thành, nhưng vị trí của người Cha trong đứa con không thể sâu đậm như người Mẹ. Phải chăng : Công Cha chỉ mới như núi Thái sơn – cao thật cao nhưng còn có ngọn.? Nhưng nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra – thật vô tận.! Nên đã có thật nhiều tác phẩm nghệ thuật, văn học, ca khúc ca ngợi về tình mẹ, hơn là tình cha.? Nghĩ cho cùng thì không nên phân biệt so sánh nhiều, nhưng thực tế là như vậy. Nói thêm chút ít cũng là thừa, bởi tất cả chúng ta ai cũng ít nhiều thấu hiểu thế nào là tình cảm của người con đối với người Mẹ, so với các thứ tình cảm khác như đã nêu ở trên. Đạo Phật là đạo chủ trương hiếu nghĩa, những ai đang có Cha Mẹ già trong nhà là đang được hiện diện trước Phật sống giữa đời thường. Truyền thống đó đưa vào thành nghi lễ đặc biệt đặc biệt chắc ít có tôn giáo nào có được – mùa Vu lan bồn. Phật tử Việt Nam ai cũng đều biết tích tuồng : Mục Kiền Liên cứu Mẹ, thường được công diễn vào các dịp lễ Vu Lan hàng năm, chuyện kể về Đức Mục Kiền Liên xuống địa ngục cứu Mẹ là bà Thanh Đề bị đọa làm Ngạ qủy. Ngài là 1 trong mười đại đệ tử của Đức Phật được tuyên là đệ nhất thần thông, nhưng vậy mà với những nghiệp nặng bà Thanh Đề tự gây ra, Ngài cũng không làm được gì hơn ra ngoài quy luật quả báo. Chỉ đến khi Đức Phật dạy rằng:“Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó ” Theo lời Phật dạy, Ngài làm đúng lời và mẹ ngài được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Ngài Mục Kiền Liên sau có tên gọi là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng là từ tích đó. Như vậy có hai câu chuyện về sự đại báo hiếu trong Phật đạo. Một là : Bậc thầy là Ðức Thế Tôn vì Mẹ mà lên trời giảng pháp. Hai : bậc trò là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng vì Mẹ mà xuống địa ngục tìm đường cứu mẹ. Rồi cả hai bà Mẹ đề được độ lên những cảnh giới cao. Nên ngoài những nội dung của bộ kinh có nói về chuyện hiếu nghĩa, thì những nội dung phân tích ở trên, Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện được gọi là hiếu kinh của Phật giáo phải chăng là như vậy. ======== (1) Nghĩ xong đức Thế Tôn mới đưa tay mặt ra về hướng Phật mẫu đang ngồi rồi nói: - Thưa mẫu hậu, xin lịnh mẫu hậu hãy đến gần đây để Như Lai được trả món nợ vĩ đại là sự cực nhọc chăm nom săn sóc cho Như Lai bú mớm từ giọt sữa miếng cơm trong khi còn luân hồi trong tam giới. Ðức Thế Tôn bắt đầu thuyết bộ Vi Diệu Pháp ấy chia ra làm bảy phần khác nhau, thuyết trót ba tháng hạ tại cõi trời Ðạo Lợi. Ðức Thế Tôn độ Phật mẫu đắc được Tu-đà-huờn quả và chư Thiên thành đạo nhiều vô số kể. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm - Maha Thongkham Medhivongs) 3- Điểm đặc biệt thứ ba là hạnh nguyện và công đức của vị Bồ Tát được giảng : Trong các bài quán tưởng đảnh lễ trước các nghi lễ trì tụng kinh chú của Phật giáo Đại thừa Bắc tông, chúng ta thường hay gặp câu đảnh lễ : ĐẢNH LỄ - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy) Theo thuyết Ngài Di Lặc là vị phật thời tương lai, thì ở đây chúng ta được đảnh lễ 6 vị đại bồ tát - Đại Từ Di Lặc Bồ Tát : ( Từ - hiền hậu ) - Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ( Trí – trí tuệ ) - Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát ( Hạnh – Đức Hạnh ) - Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát ( Bi – Lòng thương ) - Đại Thế Chí Bồ Tát ( Chí – Chí khí, dũng khí ) - Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ( Nguyện – nguyện lực , lời hứa hay lời “thề” ) Trong đó bốn vị Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát khi đến các nơi thánh tích, chùa chiền thì thường gặp tôn tượng hơn cả. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn Trong truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng thường được trì niệm khi tuyên danh hiệu tám vị Đại Bồ Tát Tám vị Bồ Tát Đức Văn Thù Sư Lợi trẻ trung, Đức Kim Cương Thủ quang vinh, Đức Quán Thế Âm quyền uy, Đức Bảo trợ Di Lặc từ ái vô biên, Đức Địa Tạng , Đức Trừ Cái Chướng, Đức Hư Không Tạng, và Đức Phổ Hiền cao quý nhất. Thật thanh nhã, các Ngài cầm những biểu tượng là Hoa sen xanh, Chày kim cương, Hoa sen trắng, cây Naga, Ngọc báu, Mặt trăng, Thanh kiếm và Mặt trời! Và siêu việt trong việc ban cho sự cát tường và thành tựu, chúng con xin đảnh lễ Tám vị Bồ Tát! ( Trích : Bài nguyện Tám đấng Cát tường – với lời chú dẫn : Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi khởi sự việc gì, bạn sẽ hoàn thành tất cả các mục tiêu của ngày hôm đó. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn ngủ, bạn sẽ trải qua những giấc mơ đẹp. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này trước khi bạn bước vào một cuộc chiến, bạn sẽ là người chiến thắng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn bắt đầu một hoạt động, điều bạn ước muốn sẽ tăng trưởng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này hằng ngày thì tuổi thọ, vinh quang, danh tiếng, thịnh vượng, cát tường, hạnh phúc và xuất sắc sẽ được thành tựu viên mãn như mong ước của bạn. Tất cả các hành động và chướng ngại gây hại sẽ được tịnh hóa. Cả những cõi cao hơn và Phật quả tối thắng -- tất cả mục tiêu đều sẽ được thành tựu.) Nguyện : Nguyện như là lời hứa, lời cam kết hay lời “Thề”. Ví dụ như các chiến sĩ có nguyện : Trung với nước, hiếu với dân nguyện một lòng mang sức mình ra phụng sự tổ quốc. Trong kinh điền Phật giáo, Phật A Di Đà có 48 lời nguyện, Phật Dược Sư có 12 lời nguyện; các vị Bồ Tát (Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát , Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ) đều có hạnh nguyện trước khi thành Phật. Nhưng xét ra, các hạnh nguyện của 3 vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm cũng có thể có ngày đạt thành quả vị. Còn hạnh nguyện của ngài Địa Tạng thì thật là lâu, bởi : “chừng nào độ hết chúng sanh thì mới nguyện thành Phật “ hay “Nếu nơi địa ngục còn một bóng ma, quyết không thành Phật!" Nên xưng danh hiệu Ngài là Đại Nguyện là như vậy. Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồn vì ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đã mang một ý nghĩa như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu, chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ý rằng Ngài là đại địa bao la, nơi ẩn chứa những kho tàng quý giá, tức thiện căn. Địa Tạng vì thế như là hình ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đã lên tiếng tán dương: "Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn." ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Một bộ kinh ca ngợi Thánh đức và oai lực của Một vị Vương - U Minh Giáo Chủ là điểm đặc biệt thứ ba của bộ Kinh này.1 like
-
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính thưa Quý Thầy, qúy Tôn Sư cùng qúy bạn đạo gần xa. Vâng lời chỉ dạy của Tôn Sư, sau một thời gian tầm học. Vào ngày 30 tháng 7 ( Ngày vía của Đức Địa Tạng ) năm Canh Dần (2010) duyên lành cho con được đến lễ Phật và chiêm bái tôn tượng Đức Địa Tạng đen tại Quan Âm Tu Viện - Biên Hòa, Đồng Nai. Hôm đó cũng là dịp nhà chùa tổ chức đại lễ kỷ niện ngày nhập niết bàn của Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước (Tăng chủ phái LIÊN TÔNG TỊNH ĐỘ NON BỒNG), có đông đảo đạo hữu, Phật tử xa gần về dự lễ. Trong không khí thiêng liêng và linh động đó, tại giây phút mà tâm linh đạt vào cảnh giới quán tưởng “Năng lễ sở lễ tánh Không tịch” để đảnh lễ trước tôn tượng của Ngài, con được khai trí giác ngộ thêm về những công đức, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng Vương. Xin xem tham khảo thêm bài viết về Đức Địa Tạng Đen tại đây : Địa Tạng Đen Cũng may mắn sao, trong quá trình tìm hiểu về Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới theo truyền thống Đông Mật, con cũng hữu duyên tìm được những tài liệu dịch thuật kinh điển và biên khảo, tổng hợp của Thầy Thích Quảng Trí, thầy – cư sĩ Huyền Thanh tại bộ Mật Tạng Việt Nam, Bộ giảng luận về Kinh Địa Tạng bồ tát bổn nguyện của Hòa thượng Tuyên Hóa ; các bài giảng – luận về Kinh Địa Tạng của thầy – cư sĩ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền cùng nhiều bài tiểu luận, kinh sách nói về Thánh đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng bằng sách in và trên mạng điện toán toàn cầu. Nhân dịp háng bảy ngày rằm xá tội vong nhân - mùa Vu Lan báo hiếu và cũng chuẩn bị cho kỷ niệm ngày vía của Ngài (30/7)năm nay, con xin mạo muội được bày tỏ và chia sẻ một vài kiến thức thô lậu về Phật học nơi đây không ngoài tâm ý Phổ nguyện: âm siêu dương thái, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo. Mọi sự thiếu sót do tầm hèn trí thiểu của người viết, ngưỡng mong chư vị Cao Tăng Đại Đức, các Bậc Thiện Tri Thức, huynh đệ gần xa có dịp ghé qua đây rũ lòng Từ Bi Trí Tuệ chỉ dạy cho kiến thức của người viết và nội dung bài viết này được thêm phần hoàn chỉnh. Xin trân trọng cám ơn sự quan tâm của qúy liệt vị NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Truyền thống văn hóa Phật giáo Bắc Tông Đại thừa ( tại Việt Nam, Trung Quốc ) ngoài các lễ cúng trong tháng âm lịch đặc biệt có mấy phân kỳ thành giai đoạn đặc biệt: - Tháng giêng : khởi đầu một năm mới là mùa cầu an lạc thái bình với các nghi thức thiết đàn, khai kinh phúng tụng kinh Dược Sư, còn gọi là tháng cầu an. - Tháng 4 : mùa Khánh Đản là tháng tổ chức thực hiện các nghi lễ lớn mừng ngày Đản Sinh của Đức Phật Thích Ca. - Tháng 7 : là tháng ra hạ sau một kỳ an cư tu học miên mật của chư Tăng Ni. Đặc biệt trong tháng bảy có những ngày khánh đản của nhiều vị Bồ-tát Đại Thế Chí (ngày 13), Địa Tạng (ngày 30), Long Thọ (ngày 24), Tổ sư Phổ Am (ngày 21) và ngày Phật hoan hỷ (ngày 15). Tháng 7 là tháng ( mùa ) Vu lan thắng hội để các người con Phật báo hiếu tổ tiên. Tháng có ngày rằm mà dưới Âm ty địa phủ mở cửa ngục để xá tội cho các vong linh ( theo truyền thống dân gian) - Tháng 11 : tháng có ngày vía kỷ niệm Đức Tây Phương giáo chủ A Di Đà Phật. Tháng 7, ngay từ những ngày đầu tháng ( gần đây có chùa tổ chức từ tháng 6) nhiều chùa tổ chức thiết đàn, trì tụng nhiều bộ Kinh Phật đề Phật tử cầu siêu báo hiếu cho ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp ; cầu siêu cho chiến sĩ trận vong đồng bào tử nạn…. nói chung là chúng sinh thuộc cõi địa ngục được siêu sanh thoát hóa. Một số bộ kinh thường được trì tụng trong tháng 7 là: Kinh A Di Đà; kinh Vu lan báo hiếu và đặc biệt là kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Kinh nói về thánh đức, công hạnh, đại nguyện và sự linh ứng của ngài Địa Tạng Bồ Tát I – Khái lược về kinh Phật: Kinh Phật nói chung còn gọi là Khế kinh, dịch theo âm là Tu-đa-la, là tên gọi của các bài giảng của đức Phật. Nội dung thì Kinh ghi lại những gì chính đức Phật giảng dạy. Khởi đầu bộ kinh ta hay nghe câu “Tôi nghe như vầy…” (Như thị ngã văn – hán văn ). Câu này tương truyền xuất phát từ A-nan-đà, một đệ tử của Phật. A-nan-đà là người có trí nhớ phi thường, đã thuật lại những lời Phật nói trong buổi Kết tập lần thứ nhất ngay sau khi Phật diệt độ. Tiếp theo thường là kể lại buổi nói chuyện về một đề tài nào đó như giới thiệu về Thánh Đức và linh ứng của một vị Phật hay Bồ Tát; về nguyên lý, chuyện ứng xử hay hiện tượng nào đó ….. Nội dung chi tiết bao gồm giới thiệu những đại biểu tham dự ( các bậc bồ tát, trời , thần …..), nơi chốn giảng kinh, thời gian. Tiếp theo là những lời khai thị của Phật, có khi là những cuộc đối thoại sinh động. Thường thường lối hành văn của kinh giản đơn, dễ hiểu, có tính giáo khoa. II- Các bộ klinh nói về ngài Địa Tạng : 1 . Kinh Đại phương quảng thập luân (大方廣十輪經), còn gọi là kinh Phương quảng thập luân, Thập luân, 8 quyển, mất tên người dịch, được dịch vào thời Bắc Lương, tạng Đại Chánh 13, số 410, trang 681. Nội dung kinh này gồm 15 phẩm, kể về công đức của Bồ-tát Địa Tạng, đồng thời nói nếu nương vào 10 Phật luân (10 lực) và 10 y chỉ luân của Tam thừa thì có thể xoay chuyển 10 ác nghiệp luân. Bản dịch khác của kinh này là Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân (xem ở dưới ). 2. Kinh Địa Tạng thập luân (地藏十輪經) : gọi đủ là kinh Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân, 10 quyển, ngài Huyền Trang (600-664) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 411, trang 721. Kinh này tường thuật đức Như Lai nhân lời thưa hỏi của Bồ-tát Địa Tạng mà nói 10 thứ Phật luân (10 lực), có năng lực phá trừ 10 ác luân trong đời mạt pháp, và khen ngợi công đức Bồ-tát Địa Tạng. Mục đích kinh này nhằm dung hợp Tam thừa về Đại thừa, lại nhắm vào các Tỳ-kheo phá giới mà giải thích rõ về công đức “thắng tưởng”, và việc Bồ-tát Địa Tạng hiện tướng Sa-môn để cứu độ chúng sanh trong đời mạt pháp. Nội dung gồm 8 phẩm: 1. Phẩm Tựa; 2. Phẩm Thập luân; 3. Phẩm Vô y hành; 4. Phẩm Hữu y hành; 5. Phẩm Sám hối; 6. Phẩm Thiện nghiệp đạo; 7. Phẩm Phước điền tướng; 8. Phẩm Hoạch ích chúc lụy. 3. Kinh Địa Tạng bồ-tát bổn nguyện (地藏菩薩本願經), 2 quyển, ngài Thật-xoa-nan-đà (Śikṣānanda, dịch Hỷ Học, 652-710, người nước Vu-điền) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 412, trang 777. Kinh này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. Người đọc tụng kinh này có thể tiêu trừ vô lượng tội nghiệp và được lợi ích không thể nghĩ bàn. Nội dung 1. Phẩm Đao-lợi thiên cung thần thông (Thần thông tại cung Đao-lợi); 2. Phẩm Phân thân tập hội (Thân phân hoá qui tụ lại); 3. Phẩm Quán chúng sanh nghiệp duyên (Quán sát nghiệp quả chúng sanh); 4. Phẩm Diêm-phù chúng sanh nghiệp cảm (Nghiệp quả của người Diêm-phù); 5. Phẩm Địa ngục danh hiệu (Danh xưng địa ngục); 6. Phẩm Như Lai tán thán (Thế Tôn tuyên dương); 7. Phẩm Lợi ích tồn vong (Lợi ích người còn kẻ mất); 8. Phẩm Diêm-la vương chúng tán thán (Các vua Diêm-la xưng tụng); 9. Phẩm Xưng Phật danh hiệu (Xưng tụng danh hiệu chư Phật); 10. Phẩm Giáo lượng bố thí công đức duyên (trắc lượng công đức bố thí); 11. Phẩm Địa thần hộ pháp (Thần đất hộ trì); 12. Phẩm Kiến văn lợi ích (Ích lợi của sự thấy nghe); 13. Phẩm Chúc lụy nhân thiên (Thế Tôn ký thác). 4. Kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo (占察善惡業報經), còn gọi là kinh Địa Tạng Bồ-tát nghiệp báo, Địa Tạng Bồ-tát, 2 quyển, do ngài Bồ-đề-đăng (người Tây Vực) dịch thời Tuỳ, tạng Đại Chánh 17, số 839, trang 901. Nội dung kinh này nói Bồ-tát Địa Tạng phụng mệnh đức Phật, thuyết pháp cho chúng sanh ở đời mạt pháp nghe về việc cầu pháp lành. Quyển thượng nói rõ pháp xem xét nghiệp báo thiện ác. Quyển hạ thuật nghĩa chân thật của Đại thừa. 5. Địa Tạng bồ-tát nghi quĩ (地藏菩薩儀軌), 1 quyển, do ngài Du-bà-ca-la (dịch là Thiện Vô Uý, người nước Ma-già-đà, Ấn Độ) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 20, số 1158, trang 652. Nội dung kinh thuật lại lúc đức Phật ở trên núi Khư-la-đề-da, Bồ-tát Địa Tạng muốn nói thần chú làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, sau khi được đức Phật hứa khả, Bồ-tát Địa Tạng liền nói ba loại thần chú: Đại, trung, tiểu, kế đến nói về cách vẽ tượng, sau đó nói về ấn chú, ấn Phổ cúng dường, Tổng thuyết tổng ấn, Thỉnh tán ấn, cuối cùng nói cách thành tựu 17 pháp hộ ma. 6. Kinh Địa Tạng Bồ-tát đà-la-ni (佛說地藏菩薩陀羅尼經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 20, số 1159B, trang 655. Nội dung kinh này nói về Đà-la-ni, công đức và thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng. Đà-la-ni gồm 63 câu, người trì tụng Đà-la-ni này có thể diệt trừ tất cả khổ não. 7. Địa Tạng Bồ-tát thập trai nhật (地藏菩薩十齋日), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2850, trang 1300. Nội dung kinh này chỉ dạy 10 ngày ăn chay (giữ giới) trong tháng. 8. Kinh Địa Tạng bồ-tát (佛說地藏菩薩經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2909, trang 1455. Nội dung kinh kể về Bồ-tát Địa Tạng ở thế giới Lưu Ly phương Nam, dùng thiên nhãn thanh tịnh quán chúng sanh thọ khổ trong địa ngục, không chịu được cảnh ấy, Ngài mới đến địa ngục cùng vua Diêm-la phán xét, và cũng vì sợ vua Diêm-la đoán xử sai, hoặc chưa đúng tội mà xử chết... Đồng thời, nếu có thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng, biên chép kinh Địa Tạng, vẽ hình tượng, hay niệm danh hiệu ngài, thì khi lâm chung đều được Ngài tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc... 9. Kinh Địa Tạng bồ-tát phát tâm nhân duyên thập vương (佛說地藏菩薩發心因緣十王經), gọi tắt kinh Địa Tạng thập vương, hay Thập vương kinh, 1 quyển, do Sa-môn Tạng Xuyên ở chùa Từ Ân phủ Thành Đô soạn, thuộc Tục tạng (chữ Vạn 卍) tập 1, số 20, trang 404a6. Nội dung kinh này nói việc người chết chịu sự phán xét thiện ác ở điện Thập vương cõi âm phủ, về nhân duyên phát tâm cũng như bản nguyện của Bồ-tát Địa Tạng và chỉ rõ tiền thân vua Diêm-La chính là Bồ-tát Địa Tạng. Cuối cùng dùng bài kệ nói về Phật tính để kết thúc kinh. Năm Canh Dần 2010, cư sĩ Huyền Thanh đã công phu Việt dịch và biên tập tổng hợp một số bộ kinh và nội dung nói về Thành đức của Đức Địa Tạng. Nội dung gồm các phẩm : Hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát; Thủ Ấn Chân Ngôn của Địa Tạng Bồ Tát; Phật nói Kinh Diên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát ;Kinh Bách Thiên Tụng Đại Tập_Bài Tán Địa Tạng Bồ Tát Thỉnh Hỏi Pháp Thân ; Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ ;Phật nói Kinh Địa Tạng Bồ Tát Đà La Ni ; Mười ngày Trai của Địa Tạng Bồ Tát ; Phật nói Kinh Địa Tạng ; Nghi Thức Tán Lễ Địa Tạng Bồ Tát Sám Nguyện; Nghi Thức Trì Tụng Pháp Địa Tạng . Trong các bộ Kinh trên, Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là bản kinh trì tụng thông dụng, đã được nhiều bậc Trưởng lão, Kỳ túc Việt dịch, chú giải, như Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Trí Quang; Hòa thượng Tuyên Hoá (Tổng hội Phật giáo thế giới ở Vạn Phật Thánh Thành - Hoa Kỳ Việt dịch 1 bản, Cố thượng tọa Thích Chánh Lạc - Học viện Hải Đức, Nha Trang dịch 1 bản), cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền dịch là Địa Tạng Mật Nghĩa1 like
-
+Còn ngũ hành của giờ, năm là những yếu tố bổ trợ ngũ hành giờ (ở đây em hiểu ngũ hành giờ ở đây là giờ lấy quẻ phải ko ạ?) xem quẻ giờ Mùi, nhưng em cũng ko rõ Thiên can là gì nên có thể tính ra ngũ hành được, còn về ngũ hành năm thì: Nhâm Thìn => Hỏa Giờ cũng có Thiên can chứ bạn, bạn không thạo tính thì mở lịch vạn niên ra xem. vd: ngày hôm nay là 2/7 âm lịch tức là ngày Tân Hợi, giờ Mậu Tý. Nếu muốn xác định Thiên can của giờ Mùi thì bạn tính theo chiều thuận của thập thiên can là ra, thiên can của giờ Mùi hôm nay là Ất tức giờ Ất Mùi. vài lời chia sẻ.1 like
-
Chào bạn. Tôi xin nhắc lại với bạn là việc đầu tiên phải xác định rõ nội dung câu hỏi và quẻ nhiều khi chỉ phản ánh cục bộ sự việc hoặc một khía cạnh của sự việc. Nếu bạn hỏi " khi nào lấy lại được tiền" nếu quẻ cho bạn biết sẽ không lấy lại được tiền nữa thì làm sao mà xác định đc "khi nào" nữa. Sự việc không xảy ra thì làm gì có cái hệ quả sau đó (khi nào lấy lại đc tiền). Bạn hỏi " có nên hợp tác làm ăn không" tức là câu hỏi đơn tuyến (nên-hay không nên) nếu quẻ xấu thì cho biết là "không nên hợp tác làm ăn" . Câu hỏi này chẳng liên quan đến độ số cả nên sẽ chẳng thể như bạn nói Nếu quẻlên xấu thì ta cũng có thể căn cứ độ số để xem chừng nào tình hình thay đổi đểta có thể hùn hạp được ko nhỉ? Vì quẻ chỉ phản ánh kết quả mà bạn muốn hỏi là nên hay không nên thôi. Nhưng nếu bạn hỏi"khi nào thì tình hình thay đổi để hợp tác làm ăn?" thì mới là một câu hỏi cần xác định độ số. Còn việc sử dụng Ngũ hành vào việc luận quẻ tôi đã nói ở ví dụ của bạn rồi, bạn đọc kỹ lại sẽ thấy. Nói tóm lại việc trước tiên khi luận quẻ là xác định rõ ràng nội dung câu hỏi sau đó căn cứ vào tượng quẻ, ý nghĩa của quẻ rồi mới căn cứ vào sự tương tác giữa nội quẻ với ngoại quẻ và sau đó là sự tương tác Ngũ hành của năm/tháng/ngày/giờ lên toàn bộ quẻ để luận đoán cho phù hợp. Đôi khi ta bốc đc quẻ tốt tưởng chừng như sự việc sẽ thành nhưng cuối cùng vẫn không thành, vậy thì lý do nằm trong sự tương tác của Ngũ hành năm/tháng/ngày/giờ.1 like
-
@Silvia Em chào anh Thiên Đồng,mong anh xem giúp em với ạ! Em là nữ sinh 19/11/1980.Em hỏi vào lúc 11:08 ngày 4/8/2012. 1.Vợ chồng em đang mong có em bé mà chưa thấy gì,liệu từ giờ đến cuối năm có tin vui không anh?khoảng tháng mấy?con trai hay con gái ạ? Theo quẻ thì sẽ có con. tháng 9 hay 10 âm. 2.Em đang tự kinh doanh,công việc có sẽ tốt lên nhiều không a? Có vẻ tốt nhưng thật ra thì te tua nha. 3.Bố mẹ em đang trục trặc,muốn li dị liệu có xảy ra không ạ hay lại bình thường với nhau(mặc dù em thấy khó lắm) Cãi nhau cho vui thôi. Coi lại nhà cửa có bị gì không? Ổn cả thôi không việc gì phải lo. Cảm ơn anh nhiều!Mong tin anh! @nang moi Chào anh Thiên Đồng! Anh giúp em các câu hỏi sau nhé: Nữ Giáp Tý 1984 Hỏi vào lúc: 16h15 ngày 7/8/2012 Câu hỏi 1: Tháng 9 dương em có kỳ thi, em có đỗ không ạ? Quẻ tốt. Đậu cao. Câu hỏi 2: Chuyện tình cảm của em khi nào thì hết bế tắc, năm nay em có lấy được chồng không (từ đầu năm đến giờ em gặp rất nhiều phiền muộn vì chuyện tình cảm dở dang) Nhanh thì tháng 10 âm năm nay, chậm thì tháng 4 năm sau cưới. Câu hỏi 3: Trong năm nay em có chuyển được công việc ở nơi khác không, có tốt hơn chỗ làm hiện tại không? Làm chổ này, chưa chuyển đi đâu được. Mong câu giải đáp của anh! @cunxinh Xin chào anh Thiên Đồng ! Xin anh xem giúp cho em 1 quẻ, ngày 21 tháng này em có kỳ thi thực hành xin vào biên chế công chức nhà nước( làm giáo viên), xin anh xem giúp em có thi tốt không? và có đậu vào không, chỉ tiêu chỉ có 1 người thôi anh ạ. Thi được, vào biên chế. Em sinh ngày 14 tháng 9 năm 1982 vào lúc 13h 30. Em cũng xin hỏi thêm vấn đề nữa là năm tới chồng em làm ăn có khá không và chúng em có tin vui về em bé thứ 2 không? Kinh tế chồng sẽ khấm khá lên. Nên sinh thêm đứa 2019. chồng em sinh ngày 6 tháng 3 năm 1980 vào lúc 10h15. con gái đầu sinh ngày 11 tháng 11 năm 2010 lúc 9h 25. Em xin cảm ơn anh và chúc anh sức khỏe dồi dào để tư vấn thật tốt cho mọi người. Em hỏi vào lúc 17h37 ngày 9 tháng 8 năm 2012. @mimimi Xin chào cả nhà, chào anh Thiên Đồng!!! Em là nữ, sinh năm 1988. Em đặt câu hỏi lúc: 22:48 ngàt 10/8/2012. Em có 1 số câu hỏi muốn nhờ anh Thiên Đồng xem giúp. 1. Chuyện công việc: liệu em có làm việc lâu dài ở công ty hiện tại không??? Sau này em có khả năng thăng tiến không ah? Năm nay em có cơ hội đi công tác nước ngoài không ah? Sẽ làm lâu dài. có khả năng thăng tiến nhưng phải kiên trì. Sang năm mới đi công tác. 2. Chuyện tình cảm: liệu giữa em và anh cùng công ty có nên duyên không ah? Họ sẽ mở lời trước. Em xin cảm ơn nhiều!!! @RyoMin chú Thiên Đồng ơi, chú xem giúp cháu 1 quẻ nha cháu là nữ, sinh ngày : 7/8/1987 DL, giờ sinh là 2h45 sáng hỏi lúc 9h20 sáng ngày 11/8/2012 câu 1 : chừng nào cháu mới có việc làm, việc làm có như ý muốn không? Nhanh tháng 7 âm, chậm tháng 10 âm sẽ có. câu 2 : cháu muốn đăng ký học tiếp lên đh, vậy năm nay có nên đăng ký thi không? hay là chờ năm sau? Sẽ chờ năm sau. câu 3 : chừng nào cháu mới kết hôn? Nhanh thì tháng 7 năm nay, chậm thì 29 tuổi âm. kết thúc hỏi lúc 9h23 sáng cháu chân thành cám ơn chú Thiên Đồng ^^ Mong chú júpp cháu @canhcut Chú Thiên đồng kính mến, mong chú xem giúp cháu chú nhé Tuổi nữ Canh Ngọ Giờ hỏi 17 giờ 43 ngày 14 tháng 8 năm 2012 dương lịch 1. Công việc cháu đang được nhận làm liệu cháu có làm được lâu dài và làm tốt được ko? Nếu không, thì cháu gặp những khó khăn gì ạ? Làm tốt nhưng không lâu dài. Cũng được một thời gian tự nhiên có cơ hội khác chuyển đi. 2. Cháu đang tính học thêm ngành tài chính, liệu có phù hợp không ạ? Hợp ngành tài chánh, ngoại giao, Pr, bất động sản... 3. Bao giờ thì cháu có khả năng được xuất ngoại ạ, đi du lịch hoặc đi làm ạ? Nhanh thì 2 năm chậm thì 4 năm rưỡi nữa đi. Cháu cảm ơn chú Chúc thành công Thiên Đồng1 like