• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 18/08/2012 in all areas

  1. CCB bé tẹo teo nó hay trèo từ cành na sang cành bười sang bụi chuối. Em khẽ gọi : Chích bông ơi! Việc trì niệm thần chú đầu tiên khởi được tâm là rất tốt rồi nè. Tuy nhiên đó mới là chủ trường, đường lối còn đi vào thực hiện phải có phương pháp Đúng như chị Wild và chị Nhakhanh nói ở trên, phải chuẩn bị một tư thế và tâm trạng khởi sự đã. Khi Thánh KhenChen RinPoche sang VN, trước khi Ngài giảng và truyền quán đảnh đều có nhắc 1 câu : Càc bạn hãy tu chỉnh và khởi tâm đúng đắn và thanh tịnh. Thật ra ban đầu tôi cũng không lưu ý làm mấy câu nhắc này, nhưng nghe mãi nghe mãi thành ấn tượng và .... suy ngẫm. Trong nghi thức tụng kinh ở các chùa có phần Quán Tưởng có bài sau : Năng lễ sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo giao nan tư nghì. Ngã thử đạo tràng như Đế châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung. Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ. Hòa thượng Thích Thiện Siêu Việt dịch : Phật và chúng sinh tánh thường rỗng lặng, Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn. Lưới Đế châu ví đạo tràng, Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời. Trước bảo toạ thân con ảnh hiện, Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. Và dưới đây là bài giải ý nghĩa của thầy Thích Giác Hoàng trên daophatngaynay Quý Thầy lần lượt giải thích các thuật ngữ trong bài kệ sau: Năng lễ: chỉ cho người đảnh lễ, tức là người đang đảnh lễ Phật hoặc chư Bồ-tát. Bản tiếng Việt dịch ý là chúng sanh. Sở lễ: chỉ cho đối tượng được đảnh lễ, tức là chư Phật và chư đai Bồ-tát. Bản dịch Việt dịch ý là Phật. Tánh không tịch: bản dịch là tánh rỗng lặng. Tâm không vướng mắc các pháp, nên gọi là tâm không; không loạn động điên đảo nên gọi là Tịch. Ý ở đây muốn nói, bản giác thanh tịnh của đức Phật và tất cả chung sanh đều như nhau, đều trong sạch và không vướng mắc. Cảm ứng đạo giao: Tâm của người lễ và chư Phật giao thoa với nhau, không có gì làm trở ngại khi con người có tâm với đạo. Nan tư nghì: nghĩa là khó suy nghĩ cho cùng tận, nên dịch là “không thể nghĩ bàn”. Ngã thử đạo tràng: Dịch sát văn là “Đạo tràng này của ta”. Như đế châu: Như lưới châu của Đế-thích. Trong một số sách ghi lại, lưới châu trên cung trời Đế-thích rất đẹp, nên cổ đức đã dùng hình ảnh Lưới Châu của cung trời Đế-thích để ví với sự trang nghiêm thanh tịnh của đạo tràng. Thập phương chư Phật: Mười phương chư Phật. Ảnh hiện trung: Hình ảnh của chư Phật hiện trong đó. Ngã thân: thân ta Chư Phật tiền: trước chư Phật Đầu diện tiếp túc: đầu mặt cúi sát chân của mình Quy mạng lễ: hết lòng xin đảnh lễ Dịch sát nghĩa bài kệ trên: Người đảnh lễ và đối tượng được lễ bản tánh đều vắng lặng, không vướng mắc. Sự cảm ứng của đạo không thể nghĩ bàn. Đạo tràng của chúng ta như lưới Châu của cung trời Đế-thích, mười phương chư Phật đều ảnh hiện trong đó, thân của người hành lễ cũng đang ảnh hiện trong đó, đầu mặt của người hành lễ cúi xuống với tất cả tâm thành xin đảnh lễ chư Phật. Hoà thượng Thích Thiện Siêu dịch sang tiếng Việt có một vài câu hơi thoát, nhưng cực kỳ hay. Theo ý Thầy, bản dịch Việt này còn hay hơn nguyên tác tiếng Hán nữa. Chúc Phật tử an vui và tinh tấn đảnh lễ chư Phật để củng cố niềm tin với chánh Pháp và tăng trưởng công đức lành. ================ Bạn và bạn của bạn cứ nghiền ngẫm kỹ bài Quán tưởng này, "Bí quyết" lớn nằm ở đó đấy. Để hiểu thế nào : " Nhất niệm thông tam giới" như ý chị Wild đã diễn giải ở trên. Do Topic BabyWolf nhở mọi người giải thích "bùa chú" thấy chưa có ai giải đáp được gì, cũng ngại sợ làm loãng chủ đề. Mọi chi tiết ta sẽ bàn sâu hơn ở nơi khác. Chúc bạn và bạn của bạn luôn tinh tấn. TB : Theo nội dung bài Quán Tưởng, CM thử bổ sung thêm cho rõ nghĩa của chị Nhakhanh ở trên, như sau : Đôi khi đang đi trên đường khởi Tâm (vui mừng, đúng đắn và thanh tịnh) đọc một câu Thần Chú thì công hiệu còn hơn ngồi ( thì ) nghiêm Trang ( nhưng Tâm lại loạn cào cào mà ...)Trì Chú Có phải thế không ạ.
    2 likes
  2. III – Mấy điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Như đã dẫn ở trên một trong những nội dung của một bộ kinh Phật là nói về Thánh Đức và linh ứng của một vị Phật hay Bồ Tát. - Kinh Dược Sư ca ngợi Thành Đức của Đức Đông Phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh A Di Đà ca ngợi Thánh Đức của Đức Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh Pháp hoa ca ngợi hạnh nguyện các vị Bồ-tát: Quan Thế Âm, Trì Địa, Thường Bất Khinh, v.v… - Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. 1- Điểm đặc biệt thứ nhất là nơi chốn giảng kinh : Khởi đầu một bộ kinh Đại Thừa là giới thiệu địa điểm giảng bộ kinh đó, thường thì các địa điểm đó là những nơi địa linh thuộc về “ mặt đất “ này ví dụ : - Kinh Hoa Nghiêm : Như vậy tôi nghe, một lúc Phật ở nước Ma Kiệt Ðề, trong Đạo Tràng Bồ Đề, ban đầu thành Vô thượng Chánh giác. Nơi đó đất cứng chắc, bằng Kim Cang. - Kinh Thủ Lăng nghiêm : Tôi nghe như vầy, một thời, Phật ở tại Tinh xá Kỳ-hoàn trong thành Thất-la-phiệt. - Kinh Dược Sư : Tôi nghe như vầy, Một thời, đức Thế tôn du hóa các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc…. - Kinh A Di Đà : Tôi nghe như vầy,một thủa nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ… - Kinh Pháp Hoa : Tôi nghe như vầy, một thời, Ðức Phật ở tại thành Vương Xá, trên núi Kì Xà Quật Tại kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao Lợi (1) …. ( Trời Đao Lợi: là từng trời thứ hai trong 6 từng trời ở cõi Dục. Đao lợi là tiếng Phạn, dịch là “tam thập tam” nghĩa là ba mươi ba, từng trời này ở tại núi Tu di nơi đó chia ra làm 33 nước trời, 32 nước ở bốn phương xung quanh, mỗi phương 8 nước; chính giữa là Thiện Kiến thành, cung của trời Đế Thích, vị trời này quyền thống nhiếp cả 33 nước trời.) Như vậy một điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ Kinh được giảng ở trên cõi Trời Theo truyền thống Phật Giáp Tây Tạng ( Kim Cương Thừa ) trong 1 niên lịch ( lịch Tạng) có nhiều ngày công đức tăng trưởng, nghĩa là vào những ngày đó làm một việc tốt nào đó thì công đức được tăng trưởng lên nhiều lần. Trong những ngày công đức tăng trường có 4 ngày công đức gấp 10 triệu lần : - Ngày Đức Phật Thích Ca phô diễn thần thông - Những ngày trong tháng tam hợp : Đức Phật Đản Sinh, Đức Phật thành đạo và Đức Phật nhập Niết bàn. - Ngày Đức Phật chuyển pháp luân - Và ngày Đức Phật hạ thế từ cõi trời Đế thích (2) ======================== Chú thích : (1) xem thêm : THIÊN THỨ MƯỜI MỘT THUYẾT PHÁP ÐỘ PHẬT MẪU Ở CÕI TRỜI ÐẠO LỢI Sau khi dùng thần thông thắng ngoại đạo xong. Ðức Thế Tôn dùng trí tuệ quan sát coi: Thường khi chư Phật lúc quá khứ làm những gì, ngự đi đâu sau khi thắng ngoại đạo? Ðức Thế Tôn thấy chư Phật quá khứ sau khi thắng ngoại đạo xong, Ngài liền ngự lên cõi trời Ðạo Lợi nhập hạ và thuyết pháp độ Phật mẫu. Pháp mà chư Phật quá khứ thuyết ở cõi Ðạo Lợi như trào lưu chảy rất mạnh giữa chư Thiên. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm Maha Thongkham Medhivongs) (2) Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất là một ngày cát tường nhất trong năm. Cung trời Đâu Suất Thiên được phân làm hai Viện: 1. Đâu Suất Thiên Ngoại Viện và. Đâu Suất Thiên Nội Viện. + Tại Đâu Suất Thiên Ngoại Viện, chư thiên hưởng cảnh an vui nhàn nhã với nhiều lạc thú, những vị đã tạo nhiều công đức thường tái sinh lên cõi trời này và thọ báo công đức cho đến khi hết mới phải chết và đi tái sinh. Nhưng chúng ta không nên cầu xin tái sinh vào Đâu Suất Thiên Ngoại Viện vì tại đây chỉ có lạc thú mà không có Phật pháp. + Ngược lại, Đâu Suất Thiên Nội Viện thì có Phật pháp, và hiện giờ đang có Đức Phật Di Lặc đang thuyết pháp tại đó. Chư vị nào đã tạo nhiều công đức do tu hành nhập thiền định thường được tái sinh lên cõi trời này để tiếp tục hành trì đạo pháp cho đến khi đạt Giác Ngộ (theo kinh Đâu Suất Thiên , thì 400 năm ở nhân gian dài bằng một ngày một đêm tại cung trời Đâu Suất). Theo lịch sử Phật Giáo thì sau khi thành đạo, trong 41 năm đức Thích Ca thường nhập thiền định vào mùa mưa và thời an cư kiết ha. Chư đệ tử chỉ thấy Ngài ngồi thiền định, nhưng thực ra trong lúc đó có khi Ngài phân thân đi nơi khác hoằng đạo. Tương truyền là Ngài đã thi triển thần thông đi lên trên cung trời Đâu Suất Thiên và ở tại đó 3 tháng (tính theo thời giờ của nhân gian) để thuyêt pháp cho Hoàng Hậu Ma Gia (Phạn ngữ là Mayadevi, tức là mẹ sinh ra Ngài vì bà đã tạ thế bảy ngày sau khi Ngài hạ sinh, và tái sinh vào thân của một vị Thiên Nam trên cung trời Đâu Suất). Tương truyền là 7 ngày trước khi Đức Thích Ca hạ thế từ Đâu Suất, Ngài ngưng tàng hình và nhờ đó mà đại đệ tử của Ngài là A Nậu Lâu Đà mới có thể dùng thiên nhãn để thấy được Ngài. Do đó A Nậu Lâu Đà đã thỉnh vị đệ tử Đệ Nhất Thần Thông Mục Kiền Liên bay lên cung trời Đâu Suất để đón Ngài hạ thế. Mục Kiền Liên tuân lời A Nậu Lâu Đà và bay lên Đâu Suất để thỉnh Đức Thích Ca hạ thế và bạch Ngài là chư đệ tử rất nhớ Ngài và xin thỉnh Ngài trở về lại cõi nhân gian để thuyết pháp cho tăng đoàn. Ngài trả lời là sẽ trở về trong 7 ngày. Khoảng thời gian này là lúc đang dựng tượng của vua Ba Tư Nặc Ngày Đức Thích Ca hạ thế, một đoàn thể lớn của chư tăng, các vua chúa và dân chúng của 8 nước lân cận họp nhau tề tựu đón mừng. Khi Đức Thích Ca hạ thế, một cái cầu thang bằng vàng bay từ trời xuất hiện trước theo mỗi bước Ngài đi xuống. Bên phải Ngài là vị trời Phạm Thiên, tay cầm phất trần màu trắng và đi xuống trên một cầu thang bằng pha lê trong suốt. Bên trái Ngài là vị trời Đế Thích đi xuống trên một cầu thang bằng bạc, tay cầm lọng che làm bằng châu bảo. Một doàn thể chư thiên đi theo sau để tiễn đưa Ngài về cõi nhân gian. Đức Phật tắm ngay sau khi hạ thế, sau này tại đó có xây một ngôi nhà và một bảo tháp để ghi lại dấu tích. Nơi Đức Thích ca hạ thế là thành Sankàsya nước Xá-vệ của Ấn độ, ngày nay còn là một nơi chốn có rất nhiều Phật tử đi hành hương. Theo truyền thống của tông phái Giới Đức (do Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo) thì vào ngày vía này, chúng đệ tử vân tập tại chùa để hành trì Lễ Cúng Dường Đức Bổn Sư ) Tóm Lược Về Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất – Lý Bùi Pháp danh Sonam Nyima Chân Giác) 2- Điểm đặc biệt thứ hai là đối tượng thọ nhận kinh điển : Trong cuộc đời du hóa chư quốc, truyền dạy giáo lý Phật đà Đức Phật cũng nhiều lần về lại kinh đô của vua cha để giảng đạo cho dòng tộc Thích ca Tại các bộ kinh Đại thừa và Mật thừa, đối tượng được nghe Ngài giảng kinh thường là các vị Bồ Tát, La hán, Chư thiên, Quốc vương, Đại thần, Balamôn, cư sĩ Thiên long bát bộ, nhân và phi nhân…. Và trong hàng chúng như thế, có một vi đặt vấn đề và Ngài sẽ vì một vị nào đó mà nói Pháp. Không lập tâm phân biệt, luôn biết rằng Kinh điển Phật giáo bất khả tư nghì vô lượng vô biên công đức và oai lực. Nhưng so sánh thì đa số các bộ kinh Đức Phật cũng thường vì Đại Chúng mà thuyết pháp. Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sanh thành, Ngài đã tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa nên đã lập Pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu. (1) Đây là một Pháp hội vô cùng quan trọng vì có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... cùng các chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cõi. Diễn nói Kinh Địa Tạng trong Pháp hội này vì thế mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha lành trong bốn cõi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế Tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả Pháp giới chúng sanh. Trong Pháp hội này Ngài vì thân mẫu mà thuyết Pháp nhưng động cơ chính vẫn là lòng từ bi lân mẫn đối với chúng sanh ở cõi Ta bà, đặc biệt là đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà Ngài biết chắc chắn là sẽ "bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ", vì thế trong Pháp hội này Ngài đã phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng nhiệm vụ "gắng độ chúng sanh trong cõi Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ ký.” (Quyển Thượng Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội). Đương thời đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự tại cung trời này mà thuyết pháp trong 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 7). Thánh mẫu là bà Ma Gia phu nhân sinh mẫu của Thái Tử Sĩ Đạt Ta. 7 ngày sau khi hạ sinh thái tử, bà bỏ thân người sinh lên cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ đức Phật sắp nhập diệt, ngài ngự lên đó nói pháp, trước để đáp ơn sinh thành, sau nhân đó mà giáo hóa hàng chư Thiên, cùng Long, Thần bát bộ và cả thảy Thánh, phàm. Như vậy điểm đặc biệt thứ hai của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ kinh Đức Thế Tôn vì Mẹ mà thuyết pháp. Con người, trong các mối quan hệ tình cảm cha con; vợ chồng ; anh em; bạn bè … thì tình mẫu tử luôn có một vị trí đặc biệt. Mặc dù cũng là đấng sinh thành, nhưng vị trí của người Cha trong đứa con không thể sâu đậm như người Mẹ. Phải chăng : Công Cha chỉ mới như núi Thái sơn – cao thật cao nhưng còn có ngọn.? Nhưng nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra – thật vô tận.! Nên đã có thật nhiều tác phẩm nghệ thuật, văn học, ca khúc ca ngợi về tình mẹ, hơn là tình cha.? Nghĩ cho cùng thì không nên phân biệt so sánh nhiều, nhưng thực tế là như vậy. Nói thêm chút ít cũng là thừa, bởi tất cả chúng ta ai cũng ít nhiều thấu hiểu thế nào là tình cảm của người con đối với người Mẹ, so với các thứ tình cảm khác như đã nêu ở trên. Đạo Phật là đạo chủ trương hiếu nghĩa, những ai đang có Cha Mẹ già trong nhà là đang được hiện diện trước Phật sống giữa đời thường. Truyền thống đó đưa vào thành nghi lễ đặc biệt đặc biệt chắc ít có tôn giáo nào có được – mùa Vu lan bồn. Phật tử Việt Nam ai cũng đều biết tích tuồng : Mục Kiền Liên cứu Mẹ, thường được công diễn vào các dịp lễ Vu Lan hàng năm, chuyện kể về Đức Mục Kiền Liên xuống địa ngục cứu Mẹ là bà Thanh Đề bị đọa làm Ngạ qủy. Ngài là 1 trong mười đại đệ tử của Đức Phật được tuyên là đệ nhất thần thông, nhưng vậy mà với những nghiệp nặng bà Thanh Đề tự gây ra, Ngài cũng không làm được gì hơn ra ngoài quy luật quả báo. Chỉ đến khi Đức Phật dạy rằng:“Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó ” Theo lời Phật dạy, Ngài làm đúng lời và mẹ ngài được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Ngài Mục Kiền Liên sau có tên gọi là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng là từ tích đó. Như vậy có hai câu chuyện về sự đại báo hiếu trong Phật đạo. Một là : Bậc thầy là Ðức Thế Tôn vì Mẹ mà lên trời giảng pháp. Hai : bậc trò là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng vì Mẹ mà xuống địa ngục tìm đường cứu mẹ. Rồi cả hai bà Mẹ đề được độ lên những cảnh giới cao. Nên ngoài những nội dung của bộ kinh có nói về chuyện hiếu nghĩa, thì những nội dung phân tích ở trên, Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện được gọi là hiếu kinh của Phật giáo phải chăng là như vậy. ======== (1) Nghĩ xong đức Thế Tôn mới đưa tay mặt ra về hướng Phật mẫu đang ngồi rồi nói: - Thưa mẫu hậu, xin lịnh mẫu hậu hãy đến gần đây để Như Lai được trả món nợ vĩ đại là sự cực nhọc chăm nom săn sóc cho Như Lai bú mớm từ giọt sữa miếng cơm trong khi còn luân hồi trong tam giới. Ðức Thế Tôn bắt đầu thuyết bộ Vi Diệu Pháp ấy chia ra làm bảy phần khác nhau, thuyết trót ba tháng hạ tại cõi trời Ðạo Lợi. Ðức Thế Tôn độ Phật mẫu đắc được Tu-đà-huờn quả và chư Thiên thành đạo nhiều vô số kể. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm - Maha Thongkham Medhivongs) 3- Điểm đặc biệt thứ ba là hạnh nguyện và công đức của vị Bồ Tát được giảng : Trong các bài quán tưởng đảnh lễ trước các nghi lễ trì tụng kinh chú của Phật giáo Đại thừa Bắc tông, chúng ta thường hay gặp câu đảnh lễ : ĐẢNH LỄ - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy) Theo thuyết Ngài Di Lặc là vị phật thời tương lai, thì ở đây chúng ta được đảnh lễ 6 vị đại bồ tát - Đại Từ Di Lặc Bồ Tát : ( Từ - hiền hậu ) - Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ( Trí – trí tuệ ) - Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát ( Hạnh – Đức Hạnh ) - Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát ( Bi – Lòng thương ) - Đại Thế Chí Bồ Tát ( Chí – Chí khí, dũng khí ) - Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ( Nguyện – nguyện lực , lời hứa hay lời “thề” ) Trong đó bốn vị Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát khi đến các nơi thánh tích, chùa chiền thì thường gặp tôn tượng hơn cả. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn Trong truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng thường được trì niệm khi tuyên danh hiệu tám vị Đại Bồ Tát Tám vị Bồ Tát Đức Văn Thù Sư Lợi trẻ trung, Đức Kim Cương Thủ quang vinh, Đức Quán Thế Âm quyền uy, Đức Bảo trợ Di Lặc từ ái vô biên, Đức Địa Tạng , Đức Trừ Cái Chướng, Đức Hư Không Tạng, và Đức Phổ Hiền cao quý nhất. Thật thanh nhã, các Ngài cầm những biểu tượng là Hoa sen xanh, Chày kim cương, Hoa sen trắng, cây Naga, Ngọc báu, Mặt trăng, Thanh kiếm và Mặt trời! Và siêu việt trong việc ban cho sự cát tường và thành tựu, chúng con xin đảnh lễ Tám vị Bồ Tát! ( Trích : Bài nguyện Tám đấng Cát tường – với lời chú dẫn : Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi khởi sự việc gì, bạn sẽ hoàn thành tất cả các mục tiêu của ngày hôm đó. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn ngủ, bạn sẽ trải qua những giấc mơ đẹp. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này trước khi bạn bước vào một cuộc chiến, bạn sẽ là người chiến thắng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn bắt đầu một hoạt động, điều bạn ước muốn sẽ tăng trưởng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này hằng ngày thì tuổi thọ, vinh quang, danh tiếng, thịnh vượng, cát tường, hạnh phúc và xuất sắc sẽ được thành tựu viên mãn như mong ước của bạn. Tất cả các hành động và chướng ngại gây hại sẽ được tịnh hóa. Cả những cõi cao hơn và Phật quả tối thắng -- tất cả mục tiêu đều sẽ được thành tựu.) Nguyện : Nguyện như là lời hứa, lời cam kết hay lời “Thề”. Ví dụ như các chiến sĩ có nguyện : Trung với nước, hiếu với dân nguyện một lòng mang sức mình ra phụng sự tổ quốc. Trong kinh điền Phật giáo, Phật A Di Đà có 48 lời nguyện, Phật Dược Sư có 12 lời nguyện; các vị Bồ Tát (Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát , Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ) đều có hạnh nguyện trước khi thành Phật. Nhưng xét ra, các hạnh nguyện của 3 vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm cũng có thể có ngày đạt thành quả vị. Còn hạnh nguyện của ngài Địa Tạng thì thật là lâu, bởi : “chừng nào độ hết chúng sanh thì mới nguyện thành Phật “ hay “Nếu nơi địa ngục còn một bóng ma, quyết không thành Phật!" Nên xưng danh hiệu Ngài là Đại Nguyện là như vậy. Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồn vì ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đã mang một ý nghĩa như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu, chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ý rằng Ngài là đại địa bao la, nơi ẩn chứa những kho tàng quý giá, tức thiện căn. Địa Tạng vì thế như là hình ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đã lên tiếng tán dương: "Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn." ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Một bộ kinh ca ngợi Thánh đức và oai lực của Một vị Vương - U Minh Giáo Chủ là điểm đặc biệt thứ ba của bộ Kinh này.
    2 likes
  3. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính thưa Quý Thầy, qúy Tôn Sư cùng qúy bạn đạo gần xa. Vâng lời chỉ dạy của Tôn Sư, sau một thời gian tầm học. Vào ngày 30 tháng 7 ( Ngày vía của Đức Địa Tạng ) năm Canh Dần (2010) duyên lành cho con được đến lễ Phật và chiêm bái tôn tượng Đức Địa Tạng đen tại Quan Âm Tu Viện - Biên Hòa, Đồng Nai. Hôm đó cũng là dịp nhà chùa tổ chức đại lễ kỷ niện ngày nhập niết bàn của Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước (Tăng chủ phái LIÊN TÔNG TỊNH ĐỘ NON BỒNG), có đông đảo đạo hữu, Phật tử xa gần về dự lễ. Trong không khí thiêng liêng và linh động đó, tại giây phút mà tâm linh đạt vào cảnh giới quán tưởng “Năng lễ sở lễ tánh Không tịch” để đảnh lễ trước tôn tượng của Ngài, con được khai trí giác ngộ thêm về những công đức, oai lực của Bồ Tát Địa Tạng Vương. Xin xem tham khảo thêm bài viết về Đức Địa Tạng Đen tại đây : Địa Tạng Đen Cũng may mắn sao, trong quá trình tìm hiểu về Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới theo truyền thống Đông Mật, con cũng hữu duyên tìm được những tài liệu dịch thuật kinh điển và biên khảo, tổng hợp của Thầy Thích Quảng Trí, thầy – cư sĩ Huyền Thanh tại bộ Mật Tạng Việt Nam, Bộ giảng luận về Kinh Địa Tạng bồ tát bổn nguyện của Hòa thượng Tuyên Hóa ; các bài giảng – luận về Kinh Địa Tạng của thầy – cư sĩ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền cùng nhiều bài tiểu luận, kinh sách nói về Thánh đức và sự linh ứng của Đức Địa Tạng bằng sách in và trên mạng điện toán toàn cầu. Nhân dịp háng bảy ngày rằm xá tội vong nhân - mùa Vu Lan báo hiếu và cũng chuẩn bị cho kỷ niệm ngày vía của Ngài (30/7)năm nay, con xin mạo muội được bày tỏ và chia sẻ một vài kiến thức thô lậu về Phật học nơi đây không ngoài tâm ý Phổ nguyện: âm siêu dương thái, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo. Mọi sự thiếu sót do tầm hèn trí thiểu của người viết, ngưỡng mong chư vị Cao Tăng Đại Đức, các Bậc Thiện Tri Thức, huynh đệ gần xa có dịp ghé qua đây rũ lòng Từ Bi Trí Tuệ chỉ dạy cho kiến thức của người viết và nội dung bài viết này được thêm phần hoàn chỉnh. Xin trân trọng cám ơn sự quan tâm của qúy liệt vị NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Truyền thống văn hóa Phật giáo Bắc Tông Đại thừa ( tại Việt Nam, Trung Quốc ) ngoài các lễ cúng trong tháng âm lịch đặc biệt có mấy phân kỳ thành giai đoạn đặc biệt: - Tháng giêng : khởi đầu một năm mới là mùa cầu an lạc thái bình với các nghi thức thiết đàn, khai kinh phúng tụng kinh Dược Sư, còn gọi là tháng cầu an. - Tháng 4 : mùa Khánh Đản là tháng tổ chức thực hiện các nghi lễ lớn mừng ngày Đản Sinh của Đức Phật Thích Ca. - Tháng 7 : là tháng ra hạ sau một kỳ an cư tu học miên mật của chư Tăng Ni. Đặc biệt trong tháng bảy có những ngày khánh đản của nhiều vị Bồ-tát Đại Thế Chí (ngày 13), Địa Tạng (ngày 30), Long Thọ (ngày 24), Tổ sư Phổ Am (ngày 21) và ngày Phật hoan hỷ (ngày 15). Tháng 7 là tháng ( mùa ) Vu lan thắng hội để các người con Phật báo hiếu tổ tiên. Tháng có ngày rằm mà dưới Âm ty địa phủ mở cửa ngục để xá tội cho các vong linh ( theo truyền thống dân gian) - Tháng 11 : tháng có ngày vía kỷ niệm Đức Tây Phương giáo chủ A Di Đà Phật. Tháng 7, ngay từ những ngày đầu tháng ( gần đây có chùa tổ chức từ tháng 6) nhiều chùa tổ chức thiết đàn, trì tụng nhiều bộ Kinh Phật đề Phật tử cầu siêu báo hiếu cho ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp ; cầu siêu cho chiến sĩ trận vong đồng bào tử nạn…. nói chung là chúng sinh thuộc cõi địa ngục được siêu sanh thoát hóa. Một số bộ kinh thường được trì tụng trong tháng 7 là: Kinh A Di Đà; kinh Vu lan báo hiếu và đặc biệt là kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện công đức. Kinh nói về thánh đức, công hạnh, đại nguyện và sự linh ứng của ngài Địa Tạng Bồ Tát I – Khái lược về kinh Phật: Kinh Phật nói chung còn gọi là Khế kinh, dịch theo âm là Tu-đa-la, là tên gọi của các bài giảng của đức Phật. Nội dung thì Kinh ghi lại những gì chính đức Phật giảng dạy. Khởi đầu bộ kinh ta hay nghe câu “Tôi nghe như vầy…” (Như thị ngã văn – hán văn ). Câu này tương truyền xuất phát từ A-nan-đà, một đệ tử của Phật. A-nan-đà là người có trí nhớ phi thường, đã thuật lại những lời Phật nói trong buổi Kết tập lần thứ nhất ngay sau khi Phật diệt độ. Tiếp theo thường là kể lại buổi nói chuyện về một đề tài nào đó như giới thiệu về Thánh Đức và linh ứng của một vị Phật hay Bồ Tát; về nguyên lý, chuyện ứng xử hay hiện tượng nào đó ….. Nội dung chi tiết bao gồm giới thiệu những đại biểu tham dự ( các bậc bồ tát, trời , thần …..), nơi chốn giảng kinh, thời gian. Tiếp theo là những lời khai thị của Phật, có khi là những cuộc đối thoại sinh động. Thường thường lối hành văn của kinh giản đơn, dễ hiểu, có tính giáo khoa. II- Các bộ klinh nói về ngài Địa Tạng : 1 . Kinh Đại phương quảng thập luân (大方廣十輪經), còn gọi là kinh Phương quảng thập luân, Thập luân, 8 quyển, mất tên người dịch, được dịch vào thời Bắc Lương, tạng Đại Chánh 13, số 410, trang 681. Nội dung kinh này gồm 15 phẩm, kể về công đức của Bồ-tát Địa Tạng, đồng thời nói nếu nương vào 10 Phật luân (10 lực) và 10 y chỉ luân của Tam thừa thì có thể xoay chuyển 10 ác nghiệp luân. Bản dịch khác của kinh này là Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân (xem ở dưới ). 2. Kinh Địa Tạng thập luân (地藏十輪經) : gọi đủ là kinh Đại thừa đại tập Địa Tạng thập luân, 10 quyển, ngài Huyền Trang (600-664) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 411, trang 721. Kinh này tường thuật đức Như Lai nhân lời thưa hỏi của Bồ-tát Địa Tạng mà nói 10 thứ Phật luân (10 lực), có năng lực phá trừ 10 ác luân trong đời mạt pháp, và khen ngợi công đức Bồ-tát Địa Tạng. Mục đích kinh này nhằm dung hợp Tam thừa về Đại thừa, lại nhắm vào các Tỳ-kheo phá giới mà giải thích rõ về công đức “thắng tưởng”, và việc Bồ-tát Địa Tạng hiện tướng Sa-môn để cứu độ chúng sanh trong đời mạt pháp. Nội dung gồm 8 phẩm: 1. Phẩm Tựa; 2. Phẩm Thập luân; 3. Phẩm Vô y hành; 4. Phẩm Hữu y hành; 5. Phẩm Sám hối; 6. Phẩm Thiện nghiệp đạo; 7. Phẩm Phước điền tướng; 8. Phẩm Hoạch ích chúc lụy. 3. Kinh Địa Tạng bồ-tát bổn nguyện (地藏菩薩本願經), 2 quyển, ngài Thật-xoa-nan-đà (Śikṣānanda, dịch Hỷ Học, 652-710, người nước Vu-điền) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 13, số 412, trang 777. Kinh này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. Người đọc tụng kinh này có thể tiêu trừ vô lượng tội nghiệp và được lợi ích không thể nghĩ bàn. Nội dung 1. Phẩm Đao-lợi thiên cung thần thông (Thần thông tại cung Đao-lợi); 2. Phẩm Phân thân tập hội (Thân phân hoá qui tụ lại); 3. Phẩm Quán chúng sanh nghiệp duyên (Quán sát nghiệp quả chúng sanh); 4. Phẩm Diêm-phù chúng sanh nghiệp cảm (Nghiệp quả của người Diêm-phù); 5. Phẩm Địa ngục danh hiệu (Danh xưng địa ngục); 6. Phẩm Như Lai tán thán (Thế Tôn tuyên dương); 7. Phẩm Lợi ích tồn vong (Lợi ích người còn kẻ mất); 8. Phẩm Diêm-la vương chúng tán thán (Các vua Diêm-la xưng tụng); 9. Phẩm Xưng Phật danh hiệu (Xưng tụng danh hiệu chư Phật); 10. Phẩm Giáo lượng bố thí công đức duyên (trắc lượng công đức bố thí); 11. Phẩm Địa thần hộ pháp (Thần đất hộ trì); 12. Phẩm Kiến văn lợi ích (Ích lợi của sự thấy nghe); 13. Phẩm Chúc lụy nhân thiên (Thế Tôn ký thác). 4. Kinh Chiêm sát thiện ác nghiệp báo (占察善惡業報經), còn gọi là kinh Địa Tạng Bồ-tát nghiệp báo, Địa Tạng Bồ-tát, 2 quyển, do ngài Bồ-đề-đăng (người Tây Vực) dịch thời Tuỳ, tạng Đại Chánh 17, số 839, trang 901. Nội dung kinh này nói Bồ-tát Địa Tạng phụng mệnh đức Phật, thuyết pháp cho chúng sanh ở đời mạt pháp nghe về việc cầu pháp lành. Quyển thượng nói rõ pháp xem xét nghiệp báo thiện ác. Quyển hạ thuật nghĩa chân thật của Đại thừa. 5. Địa Tạng bồ-tát nghi quĩ (地藏菩薩儀軌), 1 quyển, do ngài Du-bà-ca-la (dịch là Thiện Vô Uý, người nước Ma-già-đà, Ấn Độ) dịch thời Đường, tạng Đại Chánh 20, số 1158, trang 652. Nội dung kinh thuật lại lúc đức Phật ở trên núi Khư-la-đề-da, Bồ-tát Địa Tạng muốn nói thần chú làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, sau khi được đức Phật hứa khả, Bồ-tát Địa Tạng liền nói ba loại thần chú: Đại, trung, tiểu, kế đến nói về cách vẽ tượng, sau đó nói về ấn chú, ấn Phổ cúng dường, Tổng thuyết tổng ấn, Thỉnh tán ấn, cuối cùng nói cách thành tựu 17 pháp hộ ma. 6. Kinh Địa Tạng Bồ-tát đà-la-ni (佛說地藏菩薩陀羅尼經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 20, số 1159B, trang 655. Nội dung kinh này nói về Đà-la-ni, công đức và thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng. Đà-la-ni gồm 63 câu, người trì tụng Đà-la-ni này có thể diệt trừ tất cả khổ não. 7. Địa Tạng Bồ-tát thập trai nhật (地藏菩薩十齋日), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2850, trang 1300. Nội dung kinh này chỉ dạy 10 ngày ăn chay (giữ giới) trong tháng. 8. Kinh Địa Tạng bồ-tát (佛說地藏菩薩經), 1 quyển, không có tên người dịch, tạng Đại Chánh 85, số 2909, trang 1455. Nội dung kinh kể về Bồ-tát Địa Tạng ở thế giới Lưu Ly phương Nam, dùng thiên nhãn thanh tịnh quán chúng sanh thọ khổ trong địa ngục, không chịu được cảnh ấy, Ngài mới đến địa ngục cùng vua Diêm-la phán xét, và cũng vì sợ vua Diêm-la đoán xử sai, hoặc chưa đúng tội mà xử chết... Đồng thời, nếu có thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng, biên chép kinh Địa Tạng, vẽ hình tượng, hay niệm danh hiệu ngài, thì khi lâm chung đều được Ngài tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc... 9. Kinh Địa Tạng bồ-tát phát tâm nhân duyên thập vương (佛說地藏菩薩發心因緣十王經), gọi tắt kinh Địa Tạng thập vương, hay Thập vương kinh, 1 quyển, do Sa-môn Tạng Xuyên ở chùa Từ Ân phủ Thành Đô soạn, thuộc Tục tạng (chữ Vạn 卍) tập 1, số 20, trang 404a6. Nội dung kinh này nói việc người chết chịu sự phán xét thiện ác ở điện Thập vương cõi âm phủ, về nhân duyên phát tâm cũng như bản nguyện của Bồ-tát Địa Tạng và chỉ rõ tiền thân vua Diêm-La chính là Bồ-tát Địa Tạng. Cuối cùng dùng bài kệ nói về Phật tính để kết thúc kinh. Năm Canh Dần 2010, cư sĩ Huyền Thanh đã công phu Việt dịch và biên tập tổng hợp một số bộ kinh và nội dung nói về Thành đức của Đức Địa Tạng. Nội dung gồm các phẩm : Hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát; Thủ Ấn Chân Ngôn của Địa Tạng Bồ Tát; Phật nói Kinh Diên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát ;Kinh Bách Thiên Tụng Đại Tập_Bài Tán Địa Tạng Bồ Tát Thỉnh Hỏi Pháp Thân ; Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ ;Phật nói Kinh Địa Tạng Bồ Tát Đà La Ni ; Mười ngày Trai của Địa Tạng Bồ Tát ; Phật nói Kinh Địa Tạng ; Nghi Thức Tán Lễ Địa Tạng Bồ Tát Sám Nguyện; Nghi Thức Trì Tụng Pháp Địa Tạng . Trong các bộ Kinh trên, Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là bản kinh trì tụng thông dụng, đã được nhiều bậc Trưởng lão, Kỳ túc Việt dịch, chú giải, như Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Trí Quang; Hòa thượng Tuyên Hoá (Tổng hội Phật giáo thế giới ở Vạn Phật Thánh Thành - Hoa Kỳ Việt dịch 1 bản, Cố thượng tọa Thích Chánh Lạc - Học viện Hải Đức, Nha Trang dịch 1 bản), cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền dịch là Địa Tạng Mật Nghĩa
    2 likes
  4. Thiên Sứ tôi thất bại trong việc dự báo hướng đi của cơn bão này. Nhưng tôi vẫn xác định rằng: Tàu "lạ" nên biến khỏi biến Đông, nếu không sớm hay muộn cũng dính thiên tai, bởi bão tố, lốc xoáy, vực nước xoáy ..... Hai hoặc ba ngày nữa lại có một cơn bão nữa uýnh vào biển Đông. Lần này thì chưa biết nó sẽ đi thế nào.
    2 likes
  5. Câu "Nam mô A Di Đà Phật" được Đức Phật A Di Đà hộ trì. Ngài nói trong một tang kinh ghi nhận: "Ai trước khi chết dù mắc nạn kiếp , nghiệp chướng đến đâu; nếu niệm chú 'Nam mô A Di Đà phật" trước khi chết thì lập tức sẽ không sa vào địa ngục và sẽ lên cõi trời Dục giới!". Hồi còn trẻ - lúc ấy mới gần 40 tuổi - tôi có thắc mắc hỏi một cư sĩ Phật giáo" "Nếu thế thì những kẻ ác niệm chú thì họ sẽ không bị trừng phạt sao? Vậy thuyết nhân quả của Phật giáo sai hay sao?". Vị cư sĩ cười, nói với tôi: "Những kẻ ác và nghiệp chướng đầy mình, liệu họ có đủ duyên mà đến lúc sắp chết niệm chú 'A Di đà' không?". Sau này suy nghiệm, tôi nhận thấy rằng: Những kẻ tham lam, độc ác, nghiệp chướng trùng trùng, không dễ gì trước phút lâm chung nhớ lại để niệm "Nam mô A Di đà Phật" thật. Kể cả tôi nếu có những giây phút sao lãng thì đến Phật cũng quên, đừng nói đến "A Di Đà Phật".
    2 likes
  6. Lay hoay soạn lại mấy tập sách cũ của ông nội mình thì thấy có mấy cuốn sách nói về khoa học huyền bí( sách trước giải phóng ), trong đó có phương pháp Đo Rùa Tính Số. Cách tính này ít thấy ai đề cập đến trên diễn đàn, nghe nói độ số chính xác là ở khoảng 60-70%. Nói thì vậy nhưng quan trọng hơn cả là chính kinh nghiệm của mỗi người khi dùng phương pháp này sẽ biết được độ số chính xác của nó là bao nhiêu, nuocvietmenyeu định post cách tính lên đây nhưng e rằng không ai ủng hộ cũng như quan tâm đến nên tạm thời chưa post. Nếu có người quan tâm thì nuocvietmenyeu sẽ post lên ngay. Thân chào mọi người!
    1 like
  7. Vào khu vực khắc nghiệt nhất vũ trụ 18/08/2012 3:03 Được trang bị áo giáp công nghệ cao, cặp vệ tinh song sinh của NASA đã sẵn sàng cho hành trình đến Vành đai Van Allen. Vệ tinh đôi RBSP sẽ đảm nhận một trong những sứ mệnh không gian khó nuốt nhất - Ảnh: NASA Phác thảo Vành đai Van Allen NASA đang chuẩn bị triển khai 2 tàu thăm dò Vành đai bão bức xạ (RBSP) cho sứ mệnh tìm hiểu những môi trường khắc nghiệt của các hạt điện tích vần vũ xung quanh hành tinh của chúng ta. Để chống chọi được sự tổn hại từ những đợt tấn công dày đặc và liên tục, các vệ tinh đã được trang bị lớp lá chắn mỏng nhưng chất lượng cao, với hy vọng có thể sống sót trong lúc thi hành nhiệm vụ. Theo NASA, bộ đôi RBSP trị giá 670 triệu USD dự kiến sẽ được phóng lên quỹ đạo bằng tên lửa Atlas V tại căn cứ không quân Mũi Canaveral vào ngày 23.8. Chúng sẽ di chuyển theo 2 quỹ đạo khác nhau, nhưng xuyên qua các vành đai bức xạ Van Allen, khu vực chứa đầy hạt proton và electron xuất phát từ mặt trời và bị từ trường trái đất tóm lại, theo Barry Mauk, chuyên gia về dự án RBSP tại Phòng Thí nghiệm vật lý ứng dụng ở Maryland (APL). Quản lý dự án RBSP Rick Fitzgerald thừa nhận đây là một trong những sứ mệnh khó khăn nhất mà ông từng đảm nhiệm. Bên cạnh việc phải bảo vệ tàu du hành bằng cách bọc giáp đặc biệt dày 8,5 mm, các chuyên gia phải chú ý thiết kế tàu để chúng đạt được trạng thái cân bằng phức tạp, cho phép vừa giảm bớt các đòn bắn phá của bức xạ nhưng vẫn điều khiển được các thiết bị đo đạc. Cả hai vệ tinh đều mang theo 5 loại thiết bị bên trong khung 8 cạnh, với bề ngang khoảng 1,8 m, chiều dài 90 cm và nặng tổng cộng 670 kg/tàu. Các chuyên gia đã quyết định phóng 2 thay vì 1 tàu, với mục tiêu thí nghiệm tại 2 nơi khác nhau trong cùng thời điểm để xác định liệu một sự thay đổi của lượng bức xạ sẽ dẫn đến thay đổi theo thời gian hay không gian, theo trang Space.com. Vành đai Van Allen được chuyên gia không gian James Van Allen người Mỹ phát hiện vào năm 1958, nhưng cho đến nay đây vẫn là khu vực chứa đầy bí ẩn. Giới chuyên gia không thể nào đoán được chuyện gì diễn ra trong vùng hoạt động này. RBSP sẽ lập bản đồ về mật độ của các hạt mang điện tích chạy dọc theo các vành đai, vốn chia ra thành 2 phần: vành đai ngoài và vành đai trong. Vành đai trong thường mở rộng từ 1.600 đến 13.000 km bên trên trái đất. Sau khoảng lặng, vành đai ngoài xuất hiện từ khoảng cách 19.000 đến 40.000 km. Trong thời gian bão mặt trời nổi lên, các vành đai có thể giãn nở hết cỡ, theo chuyên gia Mona Kessel cũng thuộc chương trình RBSP tại trụ sở chính của NASA ở Washington. Khi chúng nở rộng, các vệ tinh quay xung quanh trái đất có thể hư hại, thậm chí các phi hành gia trên Trạm không gian quốc tế cũng gặp nguy hiểm. Và nhiệm vụ của RBSP là phải phân tích được cơ chế phức tạp của Vành đai Van Allen. Hạo Nhiên ====================== Chỗ Dương khí vượng nhất là hai cực của Địa cầu. Chỗ Âm khí mạnh nhất là khoảng không gian giữa trục Đông Tây và mặt phẳng Hoàng Đạo. Có thể vì thế mà trục Đông Tây bị coi là trục Tuyệt mạng chăng?
    1 like
  8. Tham thì thâm. Phật đã bảo thầm rằng chớ có tham. Ca dao Việt Của trời, trời lại lấy đi. Giương đôi mắt ếch làm chi được trời. Ca dao Việt Nhân tham tài nhi tử. Điểu tham thực nhi vong. Ca dao Việt Có từ thời Hùng Vương dựng nước chứ gì nữa. Bằng chứng chính là tính minh triết liên quan đến cội nguồn Lý học Đông phương. Nếu không từ thời Hùng Vương thì làm sao có được sự minh triết có tính phản biện của một học thuyết lớn sâu sắc như vậy? Thí dụ như hình Âm Dương Việt trên bức tranh Đàn Lợn và câu phương ngôn "Mẹ tròn con vuông" đã xác định thuộc nền văn hiến Việt.
    1 like
  9. Lá số này cũng ko cần phải nhờ chồng, lấy chồng phương xa, người nước ngoài cũng khả dĩ, người nào nói cho bạn như trên tôi thấy cũng đúng chồng là người ham chơi hơn ham làm, sự nghiệp tiền tài của bạn sau khá tốt nhưng hay phải lo nghĩ. Bạn cũng có số xuất ngoại.
    1 like
  10. Chào bạn. Câu hỏi của bạn là "cho mượn tiền có lấy lại được không"? quẻ ngày 28/6 âm lịch. tức là ngày Mậu Thân/ tháng Đinh Mùi/ năm Nhâm thìn. Nạp âm: Ngày Thổ/ tháng Hỏa/ năm Hỏa. Trước hết cần xác định nội dung câu hỏi. Câu hỏi của bạn có thể được hiểu là có nên cho người kia mượn tiền hay không? Hoặc là bạn vừa cho mượn rồi bây giờ muốn hỏi có lấy lại đc tiền không? Vậy thì từ tượng quẻ đã phản ánh ngay câu trả ời là không nên cho mượn hoặc nếu cho mượn rồi thì sẽ còn lâu mới đòi lại được tiền và việc này sẽ gây mất tình cảm. Và qua quẻ này có thể thấy đc tâm trạng bạn đang lo lắng, băn khoăn trước sự việc trong khi hoàn cảnh thì không lấy gì làm khả quan. Đây thuộc dang câu hỏi đơn tuyến đơn giản với quẻ này thì không cần vận dụng nhiều tính chất sinh khắc Ngũ hành của năm tháng ngày giờ. Quẻ đôi khi chỉ phản ánh cục bộ sự việc hoặc một phần sự việc mà thôi. Còn việc xác định chính xác độ số thì không đơn giản chỉ vận dụng sinh khắc Ngũ hành của năm/tháng/ngày/giờ là biết đc đâu. Theo tôi Việc trước hết để xác định độ số là phải xem xét thử xem kết quả của quẻ như thế nào? Nếu kết quả là phủ định thì lấy đâu ra cơ sở để xác định độ số. Quay trở lại với ví dụ của bạn ở trên thì Quẻ cho biết kết quả là khó có thể đòi lại đc ngay mà còn phải chờ đợi. Vậy thì thời gian lấy lại đc tiền chắc phải lâu rồi. Trường hợp này tôi lấy độ số của Lưu liên là 1 & 6. có thể 1 tháng hay 6 tháng hay 1 năm hay 6 năm... thì còn phải căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của bạn nữa. Còn như bạn trên nói là chờ khi thương mộc tuyệt mới đòi lại đc tiền thì cần phải xem xét lại vi thương mộc không khắc Lưu liên thủy và Lưu liên đang tù vì khắc tháng Hỏa nên có thể thấy rằng Lưu liên đang rất yếu. Giả sử cứ cho là Thương mộc tuyệt đi thì Lưu liên (bản chất sự việc) đang yếu cũng chẳng mạnh lên đc là bao nên cũng chẳng có ý nghĩa gì với việc đòi lại đc tiền đó là chưa nói đến sự mất cân bằng âm dương trong quẻ. Vạn vật lấy cân bằng làm cơ sở để phát triển bền vững. Việc xác định độ số chính xác tôi đang trong quá trình nghiên cứu nên chưa thể nó hết đc, chỉ có thể chia sẽ với bạn vài điều như trên. Vài lời chia sẽ ko tự cho là đúng. Chúc các bạn học thành công môn Tiên tri Tuyệt vời này.
    1 like
  11. Quý Tỵ sinh tốt, xa hơn thì có Bính Thân 2016. Ngoài ra cũng hết năm rồi. Thân mến.
    1 like
  12. Nhà này thật sự khó chọn năm đây, nhưng muốn năm tốt thì phải Bính Thân 2016, hoặc 2014 Giáp Ngọ nhưng năm này chỉ lợi cho mẹ chứ ko lợi cho cha. Tốt nhất là 2019 nhưng lúc đó mẹ 40t, tùy gia đình quyết định! Thân mến.
    1 like
  13. Cờ người – cuộc đấu trí đầy trí tuệ Cờ người là một trò chơi dân gian Việt Nam thường được tổ chức vào dịp lễ cổ truyền khi làng mở hội. Chơi cờ người cũng giống như cờ tướng nhưng quân cờ là người thật, và bàn cờ là sân đất rộng. 32 quân cờ người thường được tuyển chọn từ các nam thanh nữ tú là con cháu trong làng, hoặc các võ sinh của võ đường. Các quân cờ người thường mặc áo rực rỡ có thêu biểu tượng quân cờ mình thủ vai ở trước ngực và sau áo để người xem dễ theo dõi diễn tiến ván đấu. Để chuẩn bị cho cuộc đấu cờ người ban tổ chức hội làng phải dày công trong việc chuẩn bị. Dàn quân trước trận đấu Trước tiên là việc tuyển tìm người làm quân cờ phải là những trai thanh, gái lịch, con cái của những gia đình có nề nếp được dân làng quý trọng, đồng tình. Mỗi ván cờ lúc bắt đầu phải đủ 32 quân, gồm 7 loại chia đều cho mỗi bên gồm 16 chàng trai khoẻ mạnh đóng quân đỏ (hoặc vàng) và 16 thiếu nữ xinh đẹp đóng quân đen (hoặc xanh). Hai tướng (tướng ông, tướng bà) là hai người đẹp nhất được chọn trong số 32 quân cờ. Sau đó tiến hành tập luyện các thế đi, đường võ để khi ra xung trận biểu diễn cho từng thế cờ. Hai kỳ thủ với áo dài khăn đóng ngồi trên hai chòi cao để đấu với nhau. Trên sân khấu có bình luận viên bình luận về các thế cờ sau mỗi nước đi của từng kỳ thủ Ra thế võ triệt hạ đối thủ Sau khi hai bên đã dàn quân xong thì trận đấu được bắt đầu khi có hiệu lệnh trống của người cầm trịch. Theo quy định đấu thủ cầm quân đỏ được đi trước, sau đó đến bên đen và luân phiên thứ tự cho đến khi kết thúc ván cờ. Khi ăn quân của đối phương thì quân cờ thể hiện bằng một bài biểu diễn song đấu hoặc một bài tự vệ. Các quân cờ cần phải trải qua sự tập luyện lâu dài và gian khổ, vì các đòn thế biểu diễn không phải dễ dàng. Trong không gian rộn rã của tiếng chiêng, tiếng trống khua liên hồi. Cờ xí, võng lọng bay phấp phới trong nắng xuân hồng, cùng với áo mão của "ba quân tướng sĩ" đã làm cho không khí ngày hội thêm hào hùng. Chơi cờ người trong các lễ hội cổ truyền không chỉ là một trò chơi giải trí đơn thuần mà còn là một cuộc đấu đầy trí tuệ . Xem chơi cờ người chúng ta không những chỉ thưởng thức các thế võ đẹp của các quân cờ mà còn thưởng thức trí tuệ qua từng nước cờ của các kỳ thủ. Chính sự hấp dẫn này nên trong các lễ hội đầu xuân nào cờ người cũng là sân chơi thu hút rất đông người đến xem, tạo ra sức sống lâu bền của các lễ hội dân gian. Hoàng Anh http://laodong.com.vn/
    1 like
  14. Giải mã trò chơi dân gian: TÍNH MINH TRIẾT TRONG TRÒ CHƠI LÒ CÒ XỦN Thiên Đồng – Bùi Anh Tuấn - Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Một trò chơi của trẻ em rất phổ biến trong dân gian Việt có thể đang ẩn giấu phía sau nó những mật mã có thể làm sáng tỏ hơn cho một lý thuyết học thuật cổ Đông phương đầy tính minh triết thuộc nền Văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. LỜI GIỚI THIỆU Kính thưa quí vị quan tâm. Có thể nói đây là một bài viết với những ý tương xuất sắc của tác giả Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn - một thành viên nghiên cứu của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Qua bài viết này, chúng ta thấy một sự liên hệ chặt chẽ giữa một trò chơi của trẻ em Việt Nam với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liên hệ với những gía trị văn hóa phi vật thể truyền thống khác còn lưu truyền trong văn hóa dân gian Việt; như: Bánh chưng bánh dầy, ô ăn quan...vv.... Từ những sản phẩm của trí tuệ thể hiện qua những hình thức trò chơi dân gian tưởng chừng như đơn giản ấy, chúng ta lại nhận thức được mối liên kết hữu cơ rất chặt chẽ của những di sản văn hiến phi vật thể Việt với một lý thuyết đồ sộ và bí ẩn, làm tốn biết bao giấy mực của các nhà nghiên cứu quốc tế từ hàng thiên niên kỷ. Điều này càng thấy rõ một chân lý khách quan minh chứng cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương tử và là chủ nhân đích thực của nền Lý học Đông phương. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương I. SƠ LƯỢC VỀ TRÒ CHƠI1. Trò lò cò xủn ở Nam Bộ Việt Nam. Dưới đây là đồ hình trong trò chơi Lò cò xủn phổ biến ở Nam bộ Việt Nam. Độc giả xem hình dưới đây: Khi chơi, trẻ em thường vẽ đồ hình trên dưới đất bằng que vạch, hoặc phấn trắng trên nền gạch.Đồ hình gồm 10 ô từ 1 đến 10, gọi là 10 mức. Một ô với hình bán nguyệt trên cùng gọi là ô Trời hay mức Trời. Ba đường thẳng có chia đuôi gọi là đuôi chuột, nhằm phân ranh giới trái phải của vị trí khởi hành và kết thúc. Điều kiện chơi: * Vẽ hình trên mặt đất như hình trên * Ô 1, 2, 3, 4 và 7, 8, 9, 10 buộc phải lò cò (Di chuyển bằng một chân, chân kia co lên). * Ô 5 và 6 thì được phép bẹp 2 chân. * Đối tượng chơi: không phân biệt nam nữ, ấu lão, có thể lực có thể tham gia. * Hình thức: thi đấu tay đôi hay nhóm đối kháng. * Vật dụng: gọi là “chàm” thường là một viên đá, gổ hay những vật tương tự có bề mặt tròn dẹt, phải dùng chân đứng để di chuyển trong lúc chơi. Cách chơi Người chơi đến lượt mình vào vị trí khởi hành, thảy chàm bắt đầu từ ô số 1 và nhảy vào ô số 1 với một chân co một chân duỗi, dùng một chân di chuyển viên chàm từ ô số 1 lần lượt sang ô số 2, cứ thế thuận tự cho đến hết 10 ô. Đi đến ô nào bị phạm lỗi theo quy định thì phải ngừng chơi đến lượt người khác. Khi đến lượt mình thì bắt đầu từ ô đã đi được trong lần trước. Khi đi hết các ô từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng, nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành. Ở vị trí khởi hành, người chơi lại tiếp tục đi những thử thách tiếp theo, gọi là mụt ghẻ ở tay, ở chân, ở đầu và gánh nước bằng cách để viên chàm ở mu bàn tay, mu bàn chân, vai, đầu rồi di chuyển qua từng ô từ 1 đến 10, mà không lò cò sao cho chàm không rơi. Hết một vòng khi trở về vị trí khởi hành, người chơi tung viên chàm lên không rồi đưa tay bắt lấy, nếu rớt chàm thì dừng chơi, chờ lượt đi lại. Hết những thử thách, người chơi được quyền “cất nhà”, bằng cách đứng dạng hai chân ở vị trí khởi hành và vị trí dừng, quay lưng lại với vị trí đồ hình rồi tung chàm ngược ra sau. Chàm được phép rơi vào một trong 10 ô, không cán mức, không văng ra ngoài đồ hình thì coi như thành công. Chàm ở ô nào thì ô đó gọi là “nhà” và người chơi đi đến đó thì có quyền đứng 2 chân, không được co chân. Nếu lỡ co chân là “cháy nhà”, ô đó trở lại ô bình thường như ban đầu. Những người chơi khác, hoặc không cùng phe, không được quyền đứng hai chân ở nhà người khác, hoặc phe khác. Cất nhà xong, người chơi trở lại mức khởi điểm là mức 1 và tiếp tục một chu trình mới. Cuộc chơi ngừng khi các ô trở thành nhà của mình hoặc của đối thủ. Những ô đã trở thành nhà thì không phải thảy chàm vào ô đó. Ai hoặc phe nào nhiều nhà nhất được coi là thắng cuộc. Điều kiện ngừng chơi: * Trong khi di chuyển chàm, nếu chàm phạm vạch thì phải ngừng chơi và đến lượt người khác. * Chân đạp ranh giới giữa các ô hay chàm dừng ở ranh giới giữa các ô hay văng ra khỏi đồ hình. Tuy nhiên chàm văng vào giữa hai đôi chuột thì không bị phạm điều kiên này. * Lò cò vào ô 5 hay 6 thì người đi bị dừng chơi. * Bẹp 2 chân vào mức 1,2,3,4,7,8,9,10. * Cuộc chơi ngừng khi cả hai bên đồng ý ngừng Hình minh họa - Trẻ em chơi Lò cò xủn. 1. Trò lò cò xủn ở Bắc Bộ Việt Nam. Sự khác nhau giữa hình trò chơi ở miền Bắc với miền Nam - ở trên - là chỗ nơi ô Trời có hình tam giác, vẽ lớn hay nhỏ tùy theo người chơi. Do vậy nội dung quy định và cách thức chơi đại để giống như ở miền Nam, nhưng có cái khác cách chơi ở miền Nam một chút. Cụ thể, khi đi đến mức 5 thì người chơi xủn cho viên chàm vào “ô Trời” đồng thời cũng nhảy lò cò vào ô đấy. Có 2 trường hợp xẩy ra: Nếu chàm ở ngoài phạm vi ô tam giác thì người chơi chỉ được xủn một lần sao cho sang ô 6 mà không di dịch chàm nhiều lần trong “ô Trời”. Nếu chàm rơi vô đúng hình tam giác thì ngưới chơi phải xủn chàm ra khỏi khu vực tam giác rồi được phép xủn tiếp sang ô 6. Nhưng nếu chàm sau khi xủn ra mà vẫn còn vướng lại trong tam giác hay vướng ở biên của tam giác đó thì phạm quy, gọi là “Xê xích thủ”, buộc người chơi phải đi lại từ ô 01 đầu tiên. Trò chơi chỉ đơn giản như vậy nhưng mang đầy tính chất thể thao, nghệ thuật và trí tuệ. Bởi khi người tham gia cuộc chơi cần phải có một thể lực ổn định, một tinh thần nhạy bén giúp cho sự vận động và quan sát để thực hiện cách chơi. Đồng thời cần phải có sự khéo léo trong những động tác, hành động di chuyển để thắng cuộc. Vì vậy có thể nói trò chơi dân gian Việt, ngoài việc mang ý nghĩa lợi ích về tinh thần và thể lực cho người chơi thì nó lại chính là một loại hình văn hóa mang đậm nét trí tuệ sâu sắc của dân tộc Việt. Tuy nhiên, nếu nó chỉ dừng lại ở tác dụng của một trò chơi thì nó không phản ánh được một tư duy cao cấp hơn của một dân tộc có một nền văn hiến rực rỡ, văn hiến Việt 5000 năm. Bởi nội dung của trò trơi đó lại chuyển tải những mật mã, những thông điệp bí ẩn về một tri thức cao cấp của nền văn hiến ấy. II. GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN TRONG TRÒ CHƠI Từ những tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, “Định mệnh có thật hay không?”, “Hà đồ trong văn minh Lạc Việt”, “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt nam”…của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lấy cảm hứng từ những sự hiệu chỉnh về nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương hay sự giải mã của Ông về những bí ẩn trên linh vật bánh Dầy – bánh Chưng, những câu ca dao hay những trò chơi dân gian “chơi ô ăn quan”…người viết tiếp nối nguồn cảm hứng ấy hay ít ra là sự học tập từ một người Thầy, thử khám phá thêm những bí ẩn đằng sau những trò chơi dân gian, cụ thể là trò “Lò cò xủn” nhằm làm phong phú hơn cho sự nhận thức về một hệ thống lý thuyết thuộc nền văn minh Lạc Việt. 1. Bánh Chưng, Bánh Dầy - Linh vật của nền văn hiến Việt. Nếu câu chuyện bánh chưng bánh dầy lưu truyền trong tâm thức người dân Việt từ ngàn xưa như một mặc khải cho một hình tượng thiêng liêng của nền văn hiến Việt, dân tộc duy nhất trên thế giới dùng thực phẩm làm biểu tượng chuyển tải một giá trị minh triết đông phương, một tri thức về vũ trụ quan sâu sắc thì trò chơi dân gian, cụ thể là trò chơi lò cò xủn, là một phương thức khác âm thầm truyền lưu những tri thức ấy và như là một “dấu ấn” minh chứng cho chủ nhân của nền văn minh này. Từ bao đời nay, trong những ngày xuân mới, Tết đến, người dân Việt, con cháu Rồng Tiên với cả lòng thành kính dân lên tổ tiên Lạc Hồng đôi bánh Chưng – bánh Dầy, biểu hiện cho tâm thức người Việt. Một chi tiết tinh tế cũng như là một nghi thức chuẩn xác rằng khi đặt đôi linh tượng bánh Chưng – bánh Dầy lên bàn thờ tổ tiên Lạc Hồng thì luôn luôn chiếc bánh Dầy được đặt chồng lên trên chiếc bánh Chưng. Cũng theo cách giải thích của người xưa cho hậu nhân rằng Trời ở bên trên, đất ở bên dưới, bánh Dầy để trên bánh Chưng là ý đó. Một chiếc bánh bằng nếp giã trắng tinh hình tròn với vòng cung vồng lên hình bán nguyệt biểu thị cho Trời trên, một bánh Chưng hình khối vuông gói bởi lá xanh biểu thị cho Đất dưới;Lạ lùng thay được tái hiện lại một cách thông minh tuyệt vời bằng đồ hình của trò Lò cò xủn, truyền lại cho hậu thế bằng một loại hình trò chơi dân dã, chứa đựng tài tình nội dung một nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Một ô hình cung bán nguyệt bên trên một ô lớn hình vuông chứa 10 ô nhỏ là một cách tái hiện rất giản đơn, nhưng tinh tế và rất cũng vô cùng bí ẩn hình tượng của bánh Dầy để trên bánh Chưng. Hay nói chính xác hơn là một đôi phạm trù Âm Dương. Trong trí nhớ của những trẻ nhỏ chơi trò Lò cò xủn, trong đó có cả người viết, ô hình cung bán nguyệt, theo quy định của trò chơi, được gọi là “ô Trời” hay “mức Trời” và 3 đường tua rua gọi là “đuôi chuột”, chính sự quy định này như là một mật ngữ, như là một chìa khóa để cho người viết khám phá ẩn ý đằng sau trò chơi. 2. Ẩn Ngữ “Dương trước Âm sau”: Vòng cung bên trên, theo một sự hiển nhiên, được đám trẻ nít của bao đời gọi là “ô Trời”, 3 tua rua cuối gọi là “đuôi chuột”. Hai chi tiết nhỏ nhưng qúy báu. Ô vòng cung được gọi là Trời đối lập với cái khác nó là hình vuông hay hình chữ nhật, tùy theo cách vẽ của người chơi, lẽ dĩ nhiên sẽ gọi là Đất theo sự giải mã. Chi tiết còn lại là 3 tua rua “đuôi chuột”. Chi Tý tức là chuột, con giáp đứng đầu trong 12 con giáp, gọi là Địa Chi thì ngay trong trò chời Lò cò xủn được nhắc đến, được dùng làm ranh giới cho mốc khởi đầu và kết thúc lượt chơi. Nhưng chi tiết này chỉ nêu một phần của chuột. Đó là “đuôi chuột”, tức cái phía sau của chuột. Như vậy cái đối lập với Trời, là ô vuông, được gắn kết một chi tiết phụ là “đuôi”, nghĩa là muốn nói cái có “sau”, là Đất, đối đãi với cái có trước là Trời. Cặp phạm trù Trời – Đất được mã hóa bằng đồ hình của trò chơi, cũng chính là một cách vẽ giản lược của hình ảnh bánh Dầy trên bánh Chưng, rõ ràng đây là hình tượng ám chỉ ý “Dương trước Âm sau”. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ đầy, khi đằng sau nó còn mang một nội dung sâu sắc hơn… 3. Ẩn ý “ Dương tịnh Âm động” và “ Mẹ tròn Con vuông” Khi vạch xong 10 ô, trẻ nhỏ hay người chơi không quên đánh số thứ tự vào từ 1 đến 10. Đây lại là một bí ẩn…lộ rõ từ hàng ngàn năm trước, nhưng chưa bao giờ được giải nghĩa cũng từ bao lâu...Thuận tự của các số được đánh số từ dưới đi lên, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, hết một vòng theo đúng chiều thuận, chiều kim đồng hồ…. cho thấy rằng 10 con số trùng hợp với 10 Thiên Can. Khi người viết mạo muội cho áp theo thứ tự của 10 Can theo thứ tự 10 số thì chiều tương sinh của ngũ hành hiển thị chiều vận động của của Thiên Hà trong vũ trụ được diễn giải cô động trên nguyên lý căn để là Hà Đồ. Từ sự giải mã của phần trên, cho rằng đồ hình trò chơi Lò cò xủn là đồ hình giản lược của hình tượng bánh Dầy trên bánh Chưng, linh tượng của văn hiến Việt, biểu thị cho sự lý giải về thể bản nguyên vũ trụ - tức bánh Dầy- và một trạng thái đối đãi có sau nó – tức bánh Chưng- thì ngay trong trò chơi, tính trạng của hai thể đối đãi này được diễn tả trực thị qua quy định và hoạt động của trò chơi.Trước tiên, xin khảo qua một đoạn trong tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại’, trang 40, của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Quy định của trò chơi, người chơi chỉ “đi”, tức mọi hoạt động di chuyển và diễn biến của trò chơi, chỉ diễn ra trong phạm vi hình vuông, 10 ô số, và chiều di chuyển của người chơi là chiều thuận của chiều kim đồng hồ cũng chính là chiều tương sinh của âm dương ngũ hành. Một cách trực kiến, ô hình vuông được diễn tả ý nghĩa “động” qua những hoạt động của người chơi, theo chiều biểu kiến của người “đi” nước lò cò, là chiều biểu kiến sự vận động tương tác thuận của ngũ hành được thể hiện trên Hà Đồ. Nói một cách khác, phần ô vuông trên đồ hình của trò chơi là diễn tả bằng một hình thức khác đồ hình của Hà Đồ, tức diễn tả trạng thái sau khởi nguyên của vũ trụ là Âm Động đối đãi có sau so với Dương tịnh có trước. Ý nghĩa Dương tịnh, tức Thái Cực chí tịnh là bản nguyên của vũ trụ khi chưa có cái đối đãi, được giản đơn bằng một ô bán nguyệt cung tròn viên mãn, gọi là “mức Trời”, mà nơi đó người chơi không được phép “đi”, tức ô Trời được để trống không, yên tịnh, nhằm diễn tả nghĩa Tịnh của cái Dương, cái Thái Cực. Ẩn ý “Dương tịnh Âm động”, Mẹ tròn con vuông” được mã hóa một cách khéo léo, bí ẩn và giản đơn thông qua mô hình giản lược, một trò chơi của trẻ nhỏ lột tả hết nội dung của một nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương và dường như trong trò chơi còn diễn giải những ẩn ý về sự nhận thức vũ trụ. 4. Ẩn Ý Về Sự Nhận Thức Vũ Trụ: “Tính Thấy Trong Minh Triết Cổ Đông Phương”. Trong cách thức chơi, có một quy định về một “nước đi” như sau: “Khi đi hết các mức từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành.”. Hoạt động của trò chơi chủ yếu diễn ra trên ô vuông lớn chứa 10 ô theo quy định, riêng ô Trời không được đi vào đó, nhưng khi đi hết 10 ô thường thì được phép thảy chàm vào “ô Trời”, muốn lấy chàm thì phải nhảy cóc bằng 2 chân trong 2 ô, rồi dùng sự phán đoán mà nhặt chàm. Từ những sự giải mã trên, “ô Trời” là mật thư cho hình tượng bánh Dầy, là ý niệm về cái Dương, là Thái Cực, đó là trạng thái về bản nguyên của vũ trụ. Có thể tổ tiên Lạc Hồng với nền văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm, kể từ năm Nhâm Tuất 2879 trc CN, muốn chuyển tải một ẩn ngữ rằng “Sự nhận thức về một thực tại khởi nguyên của vũ trụ không thể thông qua sự logich lý trí, suy luận của cái đầu mà phải nhận thức thực tại ấy bằng một tư duy trù tượng cao cấp ngay từ bản nguyên và gốc rể của nó” Chi tiết trong trò chơi cho thấy rõ, người chơi không nhìn trực tiếp để nhặt chàm. Nếu quay lưng lại, không nhìn ra sau,thì phải lòn tay qua hai chân mà không lòn tay ra sau lưng, do vậy phài cần đến sự phán đoán của tư duy trừu tượng - đây chính là sự nhận thức sự khởi nguyên của vũ trụ tại giây /0/tuyệt đối. Cũng tương tự như sự khởi sinh của một con người thoát ra từ bụng mẹ thì hành động lòn tay qua hai chân dưới và ngang bộ phận sinh dục, bộ phận khởi sinh những “tiểu vũ trụ” là con người, thì đó lại là một ẩn ngữ cho biết rằng có một lý thuyết toàn diện giải thích thực tại từ sự khởi nguyên của vũ trụ và muốn nhận thức thực tại ấy thì không gì khác hơn rằng phải dùng tư duy trù tượng nhận thức lại từ căn để thực tại ấy, đó gọi là tính “Thấy” hay gọi là Tính “Biết” được diễn từ hằng ngàn năm trong Lý học Đông phương. Hành động người chơi phải nhảy cóc hai chân trên hai ô, hai hành Âm Dương có thể là một ẩn ngữ cho biết rằng muốn tiến tới một nhận thức tuyệt đối là bản nguyên vũ trụ, tính “Thấy” hay tính “Biết” phải vượt qua tâm lý nhị nguyên, phải đạt được trạng thái của sự cân bằng âm dương thì mới có thể tiệm cận đến trạng thái tuyệt đối ấy. Hình minh họa - Lòn tay ra sau lưng tìm chàm 5. Tịnh - Động là tương đối sau khởi nguyên Vũ Trụ Ở cách chơi phổ biến vùng Nam Bộ Việt Nam, trò chơi diễn tả rõ bản chất của Dương tịnh và Âm Đông qua những biển hiện cụ thể của trò chơi. Nhưng trờ chơi lò cò xủn ở vùng Bắc bộ Việt Nam thì có chút khác biệt về hình thức thể hiện đồ hình, chính sự khác biệt này lại diễn tả một ý khác của Lý học đông phương: “Tịnh động là tương đối sau sự khởi nguyên của vũ trụ”. So với cách chơi và đồ hình trò chơi vùng Nam bộ thì cách chơi vùng Bắc bộ người chơi được phép lò cò vào “Ô Trời”, nhưng không được phép dịch chuyển chàm nhiều lần trong ô này, khác với ô 1 đến 10 được phép dịch chuyển nhiều lần có thể. Như vậy nhìn chung, cả đồ hình, mọi chổ đều thể hiện tính chất “động”, tuy vậy tiền nhân đã ý nhị sắp sẵn sự quy định sự di chuyển ở “ô Trời” bị hạn chế hơn 10 ô còn lại, chi tiết này thật tinh tế. Người viết cho rằng đó là sự diễn tả ý nghĩa “Tịnh động tương đối”. Xin khảo qua một đoạn trong “Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp”, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 33: Có thể hiểu, mặt trời tỏa sáng và tịnh so với Trái đất, nhưng ngay trong bản thân mặt trời, các hiện tượng sôi sục, cháy bỏng, bão mặt trời vẫn diễn ra quyết liệt ngay trong nội tại. Sự nhìn nhận cái “Động Tịnh” phải được xem xét trong cái toàn thể và trong mối tương quan đối đãi thì mới thấy được tính chân lý của vấn đề. Hay nói cách khác là sự phân biệt Động Tịnh mang tính đối đãi so sánh và tùy từng hệ quy chiếu. 6. Tri thức nhân loại tiến tới sự nhận thức Bản nguyên Vũ Trụ Trong đồ hình trò chơi vùng Bắc bộ, phần ô Trời được vẽ thêm hình tam giác và khi người chơi không dịch chuyển được chàm ra khỏi tam giác này bằng một lần đẩy duy nhất thì bị phạm quy, gọi là “xê xích thủ”. Yếu tố bí ẩn lại được tăng thêm khi xuất hiện chi tiết này. Các cụ ngày xưa đều biết, khi vẽ hình tượng tam giác là một hình tượng mang ý nghĩa thô tục xấu xa. Một hình tam giác được vẽ ở vách một ngôi nhà để “chửi” hay có ý nghĩa mĩa mai một ai đó như ngày nay người ta vẫn vẽ trên tường những câu thô tục vẫn thường thấy. Bởi hình tượng tam giác trong hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt thể hiện cho sinh thực khí nữ, hay nói đúng hơn là bộ phận khởi sinh cho những “tiểu vũ trụ” con người. Hình vòng cung bán nguyệt “ô Trời” như một cái bụng bầu của người phụ nữ, điểm xuyết thêm một tam giác và như vậy hình ảnh phồn thực khi phụ nữ lâm bồn, chuyển dạ được cách điệu tinh tế thông qua khả năng trừu tượng của người quan sát. Một chi tiết thật bất ngờ và bí ẩn, ngay cả khi người viết nhận ra hình tượng này, thán phục trước sự tinh tế của tiền nhân Lạc Việt. Từ sự quán xét hình tượng trên, có thể đây hiểu rằng đây là một hình tượng cô động diễn tả nội dung của của Nguyên lý học thuật cổ đông phương về sự khởi nguyên của vũ trụ, cái bản nguyên duy nhất và trước nhất mà mật ngữ dân gian Việt thường gọi “Mẹ tròn”, nay sự điểm xuyết của hình tượng tam giác nâng lên hay khẳng định “tính mẹ” của khái niệm, nghĩa là vũ trụ được khởi sinh từ một thể bản nguyên viên mãn, như một đứa con sinh ra từ bụng người mẹ. Cũng giống như hành động lòn tay qua hai chân của người chơi trong cách chơi thứ nhất, ý nghĩa của hình cung tròn và tam giác muốn chuyển tải một ẩn ngữ diễn đạt về sự nhận thức một thực tại vũ trụ phải thông qua một tư duy trừu tượng mới có thể nhận thức được thực tại đó cho mọi sự khởi nguyên. Mặt khác, hình tượng tam giác được nhìn thấy ở nhiều dân tộc trên thế giới như các Kim tự tháp Ai Cập, Hy Lạp, Kim tự tháp InCa, Maya, như chóp tam giác có hình con mắt trên tờ dollar…là biểu tượng sự thông minh, sự huyền bí hay những tri thức chưa được biết đến. Bằng một óc tưởng tượng giản đơn: một hình ảnh của kim tự tháp nào đó hiện ra dưới vòm trời bao la được giản lược qua đồ hình của trò lò cò. Sự trùng lặp đôi khi có hay không có nguyên do, nhưng nếu chỉ gói gọn trong trò chơi dân gian Việt, trong phạm vi giải mã của trò chơi thì tam giác và cung tròn cũng đủ tạo nên một hình tượng “con mắt huyền bí” chứa đựng những ẩn ngữ cho một lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết học thuật cổ đông phương, lý thuyết thống nhất vũ trụ. Do vậy một mật mã cuối cùng của trò chơi được giải nghĩa rằng: “Phải nhận thức bản nguyên của vũ trụ là cái toàn thể, cái duy nhất một, cái mang tính Mẹ với sự viên mãn, chí tịnh khởi sinh vạn hữu và “cái đó” được khái niệm gọi rằng tính Thấy hay tính Biết được diễn giải trong nguyên lý học thuật cổ đông phương từ bao đời nay.” III. LỜI KẾT Sự giải mã không nhằm làm bằng chứng chứng minh mà nhằm khám phá những bí ẩn đằng sau những dấu ấn văn hóa vật thể hay phi vật thể còn phổ biến hay âm thầm tồn tại trong xã hội người Việt hằng ngàn năm. Những thăng trầm của lịch sử tương tự như sự thăng trầm tồn tại của một học thuyết cổ Đông phương đã làm cho lý thuyết ấy bị thất truyền thì những giá trị được che giấu hay ít ra là trùng lấp ẩn sau những văn hóa vật thể hay phi vật thể như ca dao, hò vè, tục ngữ, dân ca, hình tượng, biểu tượng hay những trò chơi dân gian…sẽ làm định hướng cho việc làm hoàn chỉnh hay nhận thức đúng đắn một lý thuyết cổ đông phương mà nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh từng khẳng định đó là một “Lý thuyết thống nhất vũ trụ”, một lý thuyết mà các nhà khoa học hiện đại từng mơ ước: Hay như SW Hawking, nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới, đã từng viết: Nhưng thật thú vị, những quy luật vũ trụ thuộc một lý thuyết cho sự nhận thức về thực tại vũ trụ lại được diễn tả cô động và sinh động chỉ trên một trò chơi trẻ nhỏ của người Việt. Chỉ có thể có ở một sự thông minh linh hoạt của những chủ nhân của nền học thuật cổ Đông phương thuộc nền văn minh Lạc Việt mới có thể mã hóa một cách xúc tích những ẩn ý của lý thuyết cao cấp ấy. Đó chính là câu trả lời cho sự băn khoăn của nhà khoa học hàng đầu SW Hawking, khi ông đặt vấn đề: Lý thuyết ấy được tập cho trẻ em Lạc Việt ngay từ khi còn thơ ấu qua trò chơi Lò cò xủn, ô ăn quan , bánh chưng, bánh dầy...... Tp HCM, 16/12/2010 Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn ===================================== Tài liệu Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ.
    1 like
  15. Suy cho cùng thì tại "Lý thuyết thông nhất đã quyết định như vậy". Nếu không có sự phát triển của những tri thức khoa học hiện đại thì cũng không có cơ hội để chứng minh thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất. Chỉ cần cách đây 50 năm trước,nếu tôi chứng minh Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành là của Việt Nam thì chắc chắn người ta sẽ bảo tôi bị bệnh tâm thần hoang tưởng. Nhưng bây giờ thì có người nhận thấy tính hợp lý và khoa học của nó. Chỉ cần khoảng 20 năm nữa thôi thì lúc ấy người ta sẽ không hiểu vì sao vào những năm đầu của thế kỷ XXI Thiên Sứ nói mãi mà rất ít người hiểu được? Chính những thất bại trong việc đi tìm Hạt của Chúa và không có sự sống trên sao Hỏa sẽ tạo điều kiện để tôi giải thích vì sao tôi đã nói trước như vậy? Tất nhiên phần mở bài là Việt sử 5000 năm văn hiến, phần thân bài là thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt và chính là lý thuyết thống nhất với sự liên hệ của nó đến những tri thức hiện đại. Phần kết luận - ngắn thôi - là vì sao không thể có một thực tại duy nhất tạo nên những dạng tế vi của vật chất đầu tiên có khối lượng gọi là Hạt của Chúa và không thể có người ngoài hành tinh ít nhất là trên sao Hỏa. Hôm hội thảo về giáo sư Lương Kim Định - sau khi tôi phát biểu về thuyết Âm Dương Ngũ hành - một giáo sư phát biểu: "Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh dịch không có tác dụng gì trong cuộc sống cả". Đây là một phát biểu sắc mùi mỳ vằn thắn. Ở Trung Quốc rất nhiều giáo sư cũng phát biểu như vậy và phủ nhận y như vị giáo sư này. Sau phát biểu của ông này, một tiến sĩ trẻ nhận xét: "Không thể ngờ được một giáo sư lại phát biểu hồ đồ như vậy!". So sánh Lý thuyết thống nhất vũ trụ trong thời đại hiện nay , nó giống như đem chiếc máy vi tính đến một "liên minh bộ lạc" ở rừng Amazon. Lúc đó người ta phát biểu cũng giống y như vị giáo sư này - "Chiếc máy vi tính không có tác dụng gì trong cuộc sống cả". Do đó, cần phải có tiến bộ của khoa học kỹ thuật, người ta mới hiểu được Lý thuyết thống nhất. Cũng như lý thuyết Canto - một lý thuyết vỡ lòng sơ khai để đi đến một mô hình phân loại chuẩn cho toàn vũ trụ trong tương lai - mà thuyết Âm Dương Ngũ hành đã thực hiện - thì tri thức khoa học hiện đại vẫn thấy nó mâu thuẫn và họ gọi là nghịch lý Canto. Đại để vậy Trực giác à. .
    1 like
  16. Trong thời gian qua có nhiều bạn muốn xem tướng pháp. vì nhiều lý do: 1- Không nắm rõ giờ sinh. 2- Muốn biết tướng mệnh , chỉ tay ... và tìm hiểu sự thay đổi của từng thời gian 3- Muốn biết tướng mệnh thay đổi như thế nào? con người nếu sống tốt, tướng mệnh có thay đổi không? 4- Trong tử vi số là định trong tướng pháp định hay biến? Vì vậy có nhiều người khi xem tử vi lại muốn xem thêm tướng pháp để khẳng định. Nay Lão say có mấy lời khuyên cho mọi người như sau: a- Tướng pháp khi xem qua ảnh đã gặp rất nhiều hạn chế. b- Mọi người khi post ảnh lên diễn đàn lưu ý không nên gửi các loại ảnh có tính chất nghệ thuật hay tạo dáng vì những ảnh này gây khó khăn cho người xem và không phản ánh được chân thực khách quan. c- Ảnh gửi lên nên thể hiện được toàn bộ khuôn mặt , không nên cười toe toét. tóc búi cao để lộ tai , trán ...nếu có thể thêm một ảnh chụp nghiêng khuôn hình để tiện cho người xem phần tai cốt, xương đầu (ngọc chẩm)... Dáng đứng thẳng tự nhiên để người xem xem phần cốt tướng không đứng ưỡn ẹo, tạo hình....(lưu ý Diễn đàn xem tướng chứ không xem hoa hậu hay người mẫu ảnh) d- Đói với bàn tay nên chụp rõ toàn bộ từ ngón tay, lóng tay , cạnh bàn tay các ảnh mờ chất lượng kém không nên gửi lên làm hao phí tài nguyên DĐ mà người xem không thể xem được. e- Ngoài ra người được xem phải hết sức cộng tác với người xem để đạt được kết quả. Không hỏi quá nhiều lạc chủ đề và quá sức đối với người xem. Nên nhớ tướng mệnh xem qua ảnh là rất khó vì ánh sáng đã làm mất đi tính chân thực của tướng mệnh vì vậy mọi người lưu ý . Chân thành cảm ơn! ......LÃO SAY CHẤP BÚT.
    1 like
  17. F- Phải là đương số hỏi,tránh xem dùm người khác hay tò mò.
    1 like