-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 17/08/2012 in all areas
-
Vị Bồ Tát Hộ Trì Phong Thủy
nhanqua and 4 others liked a post in a topic by Công Minh
ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Khi trong nhà thấy có nhiều sự bất ổn liên miên, hoặc chưa hay đã dụng phong thủy để cải thiện mà chưa thấy chuyển, hãy khuyên gia chủ nhất tâm chí thành thiết lễ, tụng niệm Kinh Chú và danh hiệu Đức Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát để hồi hướng đến các vị Thần Linh quản trị tại địa phương và bản gia như Thành Hoàng Bổn Cảnh, Đông Trù tư mệnh đinh phúc táo phủ thần quân, bản đường tiên thánh tiên gia, bản viên thổ công thổ địa phúc đức chính thần , ngũ phương long mạch tài thần, môn gia hộ úy, nhân súc y thần. Hồi hướng cho Gia tiên , cho các Oan gia trái chủ của người trong nhà, cho Tiền hậu thổ chủ, y phụ thảo mộc các hương linh phảng phất trong đất ấy. Rồi sẽ thấy. Kinh Địa Tạng bổ nguyện công đức dạy "Bạch Ðức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh đời hiện tại và vị lai, nơi chỗ sạch sẽ ở phương Nam trong cuộc đất mình trú ngụ, mà dùng đất, đá, tre, gỗ dựng cất cái khám hoặc cái thất; ở trong đó có thể tô vẽ cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt làm hình tượng Ðịa Tạng Bồ Tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ, ngợi khen, thì ngay chỗ những người đó ở sẽ được mười điều lợi ích. Những gì là mười? Một là đất đai mầu mỡ; Hai là nhà cửa yên ổn mãi mãi; Ba là người đã mất được sanh thiên; Bốn là người hiện còn được tăng tuổi thọ; Năm là mọi mong cầu đều được toại ý; Sáu là không có tai họa về nước và lửa; Bảy là trừ sạch việc hư hao; Tám là dứt hẳn ác mộng; Chín là ra vào đều có thần theo hộ vệ; Mười là thường gặp nhân Thánh." Chiều theo ý anh thì ta nói : Ngài Địa Tạng là vị Bồ Tát hộ trì phong thủy đấy. Nhưng theo ý ta, có nghe nói vậy anh chớ tin là vậy, nghe vậy mà không chỉ có như vậy thôi, Phật pháp oai lực vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Công Đức và Oai lực của Ngài Bồ Tát Địa Tạng cũng không ngoài. Anh hãy đi đi, hãy thử tự tìm, tự học, tự ngẫm suy và hành động trải nghiệm rồi tự anh sẽ thấy còn nhiều điều lớn lao hơn nhiều, nhiều nữa. Chân thần yếu dụng tâm cảm ứng。Tâm thành tắc linh. ( Nhớ lại lời dạy của một Tôn Sư ) (Còn tiếp )5 likes -
VIỆT LẠI TÊN BÁCH VIỆT. Nguyễn Đại Việt Sau khi hợp lực đánh đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé bỏ hòa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng lập ra nhà Hán còn gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết, Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết gọi là Hán ngữ. Trong khoảng từ năm 109 đến năm 91 TCN, Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng đời Tây Hán, dùng Hán ngữ biên soạn bộ Sử Ký dài 130 tập, theo chú thích trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ông là người đầu tiên viết hai chữ Bách Việt trong tập Ngô Khởi Truyện của bộ Sử Ký nổi tiếng đó. "Bách Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại là 百 越. Hình 1: Chữ "Việt" (bên trái) viết theo lối chữ Triện thời Tây Hán. Chữ "tẩu" (thứ hai từ trái sang phải) dùng để xác định ý nghĩa và chữ "người cầm qua" (bên phải) dùng xác định cách phát âm. Chữ cuối phát âm là "Việt" có hình tượng giống như một người cầm cái qua (戈). Trong Hán ngữ chữ "qua" (戈) có nghĩa là "cái mác" hoặc "chiến tranh". Một bộ sử khác do Ban Bưu khởi xướng, bộ Hán Thư (漢書) gồm 100 tập, cũng được soạn thảo vào thời Tây Hán chép rằng: “Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Hội Kế (Cối Kê), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.” Bách Việt mà hai bộ Sử Ký và Hán Thư đề cập đến chính là chủ nhân của vùng đất rộng lớn, bao trùm toàn cõi Hoa Nam và miền Bắc Việt Nam ngày nay; ngoại trừ Lạc Việt (Việt Nam) các thị tộc Bách Việt khác đều bị Hán tộc tiêu diệt, đồng hóa và chiếm đoạt hết lãnh thổ. Theo Hán ngữ hiện đại, tên các thị tộc của Bách Việt được viết là 於 越 (Ư Việt), 揚 越 (Dương Việt), 閩 越 (Mân Việt), 南 越 (Nam Việt), 東 越 (Đông Việt), 山 越 (Sơn Việt), 雒 越 (Lạc Việt), 甌 越 (Âu Việt), v.v…tất cả các tên đều gắn liền với chữ 越, gọi là "chữ Việt bộ Tẩu". "Tẩu" có nghĩa là "chạy" nhưng không hiểu vì sao sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần khi biên soạn quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) năm 1272 và sử gia Ngô Sĩ Liên, triều vua Lê Thánh Tông, khi viết quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (大越史記全) năm 1479, vẫn sử dụng chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán. Bài viết này gồm 2 phần. Phần chính giới thiệu chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ đồng thời chứng minh "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán là một bản dịch sai của chữ "Việt" đó. Phần còn lại, phần phụ, trình bày một cái nhìn, một cảm nhận cá nhân về chữ "Việt" của một vị vua sống trong thế kỷ thứ 5 TCN. CHỮ "VIỆT" CỦA BÁCH VIỆT Tại sao chủng tộc Bách Việt lại tự nhận diện qua một cái tên không phản ảnh một chút sắc thái nào của mình? Nguyên do nào khiến tên của một chủng tộc từng làm chủ một lãnh thổ rộng lớn lại mang ý nghĩa bi quan như thế? Ngày nay, khi tìm hiểu ý nghĩa chữ "Việt" giới nghiên cứu không tránh khỏi ngạc nhiên và băn khoăn bởi những câu hỏi tương tự trên đây. Mặc dù có những nổ lực bỏ ra nhằm khám phá những bí ẩn đàng sau chữ "Việt bộ Tẩu", nhưng đến nay tuyệt nhiên vẫn chưa có một giải thích thuyết phục nào được công nhận một cách rộng rãi. Sỡ dĩ có sự bế tắc đó là vì họ đã nghiên cứu một cái tên sai. Quả vậy, chữ 越 hay "Việt bộ tẩu" không phải là do người Việt cổ đặt ra, nó chỉ là một phiên bản được các sử gia và học giả của triều đình Tây Hán dùng Hán ngữ dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã xuất hiện trước đó ít nhất là 300 năm. Từ văn tự cổ đến trống đồng và những cổ vật khai quật được đặc biệt là thanh gươm của vua Câu Tiễn, chúng ta sẽ tìm câu trả lời chính xác cho câu hỏi Việt là gì, nó sẽ giải tỏa nghi vấn kéo dài suốt hơn 2000 năm kể từ khi Tư Mã Thiên dùng Hán ngữ đặt bút viết chữ " Việt bộ Tẩu" (越) trong bộ Sử Ký của ông đến nay. Trong phần này các chữ "Việt" thuộc thời đại đồ đồng sẽ được trình bày và phân tích. Kế đó, thành phần cấu tạo của chúng sẽ được so sánh với thành phần cấu tạo của chữ "Việt bộ Tẩu" và chữ "Việt bộ Kim". 1. Chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ trong thời đại đồ đồng Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm trên mai rùa hay xương động vật. Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn còn chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn. Chữ viết khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là văn tự thời đồ đồng. Cả hai loại văn tự đều có từ đời nhà Thương và Giáp Cốt văn là loại văn tự cổ xưa nhất. Triều đại nhà Thương xuất hiện trong khoảng từ năm 1600 đến 1046 TCN, kinh đô đóng tại đất Ân thuộc tỉnh Hà Nam, Trung quốc ngày nay. Giặc Ân trong huyền sử Phù Đổng Thiên Vương của người Việt chính là nhà Thương này. Hiện nay có hơn 4.000 văn tự thời đồ đồng được khai quật và trong đó một số chữ "Việt" được ghi nhận. Xin lưu ý là các văn tự đồ đồng và Giáp Cốt văn dùng trong tài liệu này đều được cung cấp từ chineseetomology.org, một website về cổ ngữ rất phong phú và hữu ích của ông Richard Sears. Sau đây là 5 chữ "Việt" viết bằng loại "chữ chim", có nơi gọi là "chữ sâu bọ và chim", một loại cổ ngữ rất phổ biến và thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu. a) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01747 Hình 2: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01747: - Người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng. Từ đây về sau sẽ gọi là "Người Chim". - Người Chim đứng với hai chân dang rộng, tay cầm một cây gậy dựng đứng trên mặt đất và trên thân gậy có 2 cái móc nhỏ. - Chữ này chỉ có một thành phần là chính nó. - Niên đại: không rõ. b ) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01748 Hình 3: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01748: - Thành phần bên phải là Người Chim. - Tay Người Chim cầm một vật giống như cái qua (mác). - Người Chim trong tư thế của một vũ điệu. - Thành phần bên trái là ký tự gồm một hình tròn nằm trên chữ mang hình tượng có đầu tròn to với một cái đuôi. - Niên đại: không rõ. c) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01750 Hình 4: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01750: - Thành phần bên phải là Người Chim. - Thành phần bên trái gồm một hình tròn nằm trên ký tự có hình tượng giống thân rắn với 2 sừng. - Niên đại: không rõ. d) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01751 Hình 5: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01751: - Thành phần bên phải là Người Chim trong tư thế nhảy múa. - Người Chim không cầm qua hoặc binh khí. - Thành phần bên trái là một hình tròn nằm trên một cái đầu có đuôi cong. - Niên đại: không rõ. e) Chữ "Việt" mang ký hiệu B01749 Hình 6: Một chữ "Việt" trong thời đại đồ đồng Nhận xét chữ mang ký hiệu B01749: - Thành phần bên phải là Người Chim. - Tay phải của của Người Chim cầm một vật có hình dạng của một cái qua. - Thành phần bên trái gồm một hình tròn có chấm bên trong và nằm ngay trên ký tự có hình tượng uốn lượn như thân rắn với một cái đầu to, miệng (hoặc 2 sừng) và mắt. - Niên đại: 496 - 465 TCN. Đây là chữ "Việt" được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn nước Việt (khác với Việt Nam). Kết luận: Khảo sát các chữ "Việt" trên đây chúng ta rút ra được 2 điểm quan trọng, - Thứ nhất, chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại trong khoảng từ 496 đến 465 TCN, nghĩa là chúng xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" của nhà Tiền Hán ít nhất 3 thế kỷ. - Thứ hai, yếu tố chủ đạo của các chữ "Việt" là "Người Chim". "Qua" hay binh khí là yếu tố phụ. 2. Chữ "Nước" (Quốc gia) trong thời đại đồ đồng Theo định nghĩa của chữ 邑 (ấp), một trong các ý nghĩa của nó là "nước" hay "quốc gia". Ví dụ như "nước Chu" (邾: Chu quốc) hay "nước Hàn" (邗: Hàn quốc) thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Hình 7: Chữ "ấp" trong thời đại đồ đồng. Chữ này có nghĩa là "nước", "quốc gia", "kinh đô, "thành thị" hoặc là vùng đất được vua ban cho. Hình 8: "Chu quốc" nghĩa là "nước Chu" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và thời chữ Triện (phải). Trong chữ "Chu quốc" nghĩa là "nước Chu" (hình 8), chữ "nước" được đặt sau chữ "Chu", khác với cách viết của người Việt là chữ "nước" được đặt trước như trong các chữ "Việt" của thời kỳ đồ đồng và cách viết hiện nay của người Việt Nam. Tương tự, chữ "nước" được dùng trong chữ "Hàn quốc" (nước Hàn) trong hình 9. Hình 9: "Hàn quốc" nghĩa là "nước Hàn" theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và theo lối chữ Triện (phải). Hiện nay có tất cả 31 chữ "邑" (ấp) thuộc thời kỳ đồ đồng (hình 7) được ghi nhận. 3. Chữ "Tẩu" trong thời đại đồ đồng Chữ 走 (Tẩu) là thành phần bên trái của chữ 越, chữ "Việt bộ Tẩu", viết theo Hán ngữ hiện đại. Hình 10: Chữ "Tẩu" (Hán ngữ hiện đại: 走) trong thời kỳ đồ đồng. So sánh chữ "nước" (hình 7) với chữ "tẩu" của thời kỳ đồ đồng (hình 10) thì hai chữ này hoàn toàn khác nhau từ hình thức đến nội dung. Hơn nữa "nước" là một danh từ còn "tẩu" là một động từ. Hiện có 17 chữ "Tẩu" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận (hình 10). 4. Chữ "Kim" thời đại đồ đồng Trong hình 11 và phía trên là một số cách viết chữ chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng. Ở dưới và bên phải là chữ "Gươm", chữ cuối trong 8 chữ được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Thành phần bên trái của chữ "Gươm" chính là chữ "Kim". Hình 11: Các cách viết chữ "Kim" trong thời đại đồ đồng (trên). Chữ "Kim" là phần trái của chữ "Gươm" (hình dưới, bên phải) và chữ "Nước" là phần trái của chữ "Việt" (hình dưới, bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cũng trong hình 11, ở dưới và bên trái, chữ "Việt" là chữ đầu tiên trong 8 chữ cổ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Phần bên trái của chữ "Việt" không thể là chữ "Kim" vì không bao giờ có 2 chữ "Kim" khác nhau được khắc trên cùng một thanh gươm, nhất là thanh gươm của một ông vua. Hơn nữa về hình thức thì 2 chữ 邑 (Ấp, hinh 7) và 金 (Kim, hình 11) hoàn toàn khác nhau. Hiện nay có tất cả 82 chữ "Kim" thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận. Kết luận: Thành phần bên trái của chữ "Việt" nguyên thủy chính là chữ "邑" (ấp) và được viết bằng "văn tự chim", một loại chữ cổ có trước Hán ngữ và rất thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu. 5. Chữ "Người Chim" trong chữ "Việt" nguyên thủy và chữ "người cầm qua" (戉) trong "chữ Việt bộ Tẩu" của nhà Tây Hán "Chữ Việt bộ Tẩu" của triều đình nhà Tây Hán viết theo Hán ngữ hiện đại gồm 2 thành phần. Phần bên trái là chữ "Tẩu" dùng để xác định ý nghĩa của toàn chữ và phần bên phải là chữ "Việt" dùng để phát âm (hinh 12). Hình 12: "Việt bộ tẩu" viết theo Hán ngữ hiện đại. Chữ bên phải của chữ "Việt bộ Tẩu" mang hình tượng một người cầm qua, chữ này có gốc từ chữ 戈 của Hán ngữ và có nghĩa là "Qua", 'Mác" hay "Chiến tranh". Chữ 戉 (người cầm qua) trong chữ "Việt bộ Tẩu" không phải là thành phần cấu tạo của chữ "Việt" nguyên thủy. Hình 13: Một cách dịch chữ "Người Chim" của người Việt cổ sang Hán ngữ hiện đại. Lưu ý là Hán ngữ không có chữ này. Thật vậy, từ chữ "Việt" trong thời kỳ đồ đồng đến hàng trăm trống đồng được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam, tất cả đều thể hiện một quan niệm đồng nhất của người Việt cổ khi dùng các yếu tố chủ đạo để tự nhận diện và yếu tố đó chính là "Người Chim" tay cầm qua hay binh khí (hình 13). Hình 14: "Người Chim" trên trống đồng Ngọc Lũ. Nguồn: Wikipedia. Cho đến nay số lượng chữ "Việt" thuộc thời đại đồ đồng khai quật được tuy không nhiều nhưng quan trọng là tất cả đều thể hiện tính nhất quán cả về nội dung lẫn hinh thức. Vì vậy, có thể tiên đoán rằng đối với bất kỳ chữ "Việt" nào có trước thời Tiền Hán và được viết theo "văn tự chim" thì xác xuất để nó mang cùng nội dung và hình thức với 5 chữ "Việt" trình bày trên đây rất cao. Hình 15: Một ví dụ của chữ "Việt" được dịch sang Hán ngữ hiện đại từ chữ "Việt" nguyên thủy. Bên trái là chữ ấp (邑: nước), bên phải là chữ "Người Chim" tay cầm qua và phát âm là "Việt". Toàn chữ viết và đọc là "nước Việt". Trong Hán tự không có chữ này. Hán ngữ hiện đại dùng chữ 國 (quốc, nước, quốc gia) thay thế cho chữ 邑 (ấp, nước, quốc gia). Kết luận: Chữ "Việt" nguyên thủy của người Việt cổ viết bằng cổ ngữ "chim", có niên đại từ 496 - 465 TCN, và xuất hiện trước chữ "Việt bộ Tẩu" viết bằng Hán ngữ của nhà Tây Hán ít nhất 300 năm. Chữ "Việt" của Bách Việt được cấu tạo bởi hai thành phần duy nhất là chữ "Nước" (邑: ấp, quốc gia) ở bên trái và chữ "Người Chim" tay cầm qua ở bên phải. "Người Chim" là yếu tố chủ đạo, phát âm là "Việt", "qua" hay binh khí là yếu tố phụ (hình 15). oOo Từ các chứng cớ lịch sử vững chắc đã được công bố bao gồm văn tự của thời đại đồ đồng, hoa văn trên trống đồng, và cổ ngữ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, những phân tích trên đây chứng minh rằng dù được viết bằng Hán ngữ thời Tây Hán hoặc hiện đại thì nội dung và hinh thức của chữ 越, chữ Việt bộ tẩu và 2 thành phần của nó 走 và 戉, hoàn toàn không phải là chữ "Việt" của Bách Việt, nó chỉ là một phiên bản được dịch từ chữ "Việt" nguyên thủy vốn đã có trước khi nhà Tây Hán thành lập 3 thế kỷ. Hán sử không trung thực khi ghi chép về Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt. PHỤ LỤC: MỘT CÁCH DỊCH CHỮ "VIỆT" SANG HÁN NGỮ Chúng ta bắt đầu phần này bằng một câu chuyện về nước Oa (Wa), một quốc gia nằm trong vùng biển phía đông của Hoa lục. " Oa" viết theo Hán ngữ là 倭, là tên do người Hán đặt cho dân tộc này và được họ dùng trong nhiều thế kỷ để tự nhận diện và khi giao tiếp với các triều đình Trung Hoa. Mãi đến thế kỷ thứ 8, sau khi khám phá ra thâm ý phía sau tên Oa, học giả và trí thức người Oa lập tức dùng một tên khác để thay thế. Chữ Oa (倭) mang ý nghĩa châm biếm và xúc phạm như "phục tùng" hay "thằng lùn", còn tên mới 和 có nghĩa là "hài hòa, hòa bình, và quân bình. "Đại Hòa" (大 和) từng là tên của nước Oa sau thế kỷ thứ 8. Ngày nay người Oa dùng một tên khác mà người Việt thường ưu ái gọi họ là "con cháu Thái Dương Thần Nữ". Đó là đất nước và dân tộc Nhật Bản (日本). Trong phần chính chữ "Việt" được phân tích theo phương pháp khoa học và căn cứ trên những chứng cớ cụ thể đã được công nhận. Trong phần này ý nghĩa của chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn được suy diễn đơn thuần dựa theo phong tục tập quán của người Việt và vì vậy cách dịch chữ "Việt" ở đây sẽ không hoàn toàn khách quan. 1. Chính sử: Thanh gươm của vua Câu Tiễn Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm vua nước Việt từ năm 496 đến 465 TCN. Vương quốc của ông lúc bấy giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Tỉnh Chiết Giang là nơi có con sông Tiền Đường, giòng sông nơi Thúy Kiều gieo mình tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu sống trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn Du. Khoảng năm 333 TCN, dưới thời của vua Vô Cương là cháu đời thứ 6 của vua Câu Tiễn, nước Việt bị nước Sở thôn tính và thị tộc U Việt mất nước từ đây. Tuy vậy, câu chuyện của vị vua người Việt cổ chưa chấm dứt ở đó. Vào năm 1965 người ta khai quật được thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng bày tại viện bảo tàng của tỉnh này (hình 16). Hình 16: Thanh gươm của vua Câu Tiễn được khai quật năm 1965 hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Hồ Bắc, Trung quốc. Nguồn: uncleicko. 2. Chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn: một cái nhìn khác Cảm nhận đầu tiên là sự khác thường của chữ "nước" ( 邑) trong chữ Việt trên thanh gươm so với chữ "nước" ( 邑) của các chữ "Việt" khác trong thời đại đồ đồng. Chính sự khác thường đó là nguồn cảm hứng cho phần này, ngoài "Người Chim", trong chữ "Việt" còn có thêm 2 yếu tố khác. Hình 17: Tám chữ cổ khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Tám chữ này được viết theo lối điểu ngữ (còn gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là "Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm" có nghĩa là "Thanh gươm của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng". Hán tự không có chữ "Gươm". Nhà nghiên cứu Đỗ Thành có phân tích về chữ "Gươm" và "Kiếm" trong bài "Chữ Kiếm trong thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn". Nguồn: Wikipedia. Trong hình 18, theo nhận xét thiên về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học và ngữ văn thì chữ "Việt" trên thanh gươm gồm 3 thành phần thay vì 2 như đã trình bày. Ba thành phần đó là các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Người Chim". Hình 18: Chữ "Việt" (bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn và 3 thành phần cấu tạo của nó. Trong các phần kế tiếp, các chữ "Mặt Trời" và "Rồng" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn sẽ được so sánh với cách viết các chữ "Mặt Trời" và "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt Văn và thời đại đồ đồng. Kế tiếp, hoa văn khắc trên trống đồng sẽ được dùng để thiết lập mối tương quan với các chữ "Mặt Trời", "Rồng", và "Nguời Chim" trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cuối cùng, huyền sử "Rồng Tiên" phát xuất từ đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ được dùng để góp phần nêu lên sắc thái chung mà người Việt cổ dùng để tự nhận diện và phân biệt họ với các chủng tộc khác. 3. Chữ "Mặt Trời" trong Giáp Cốt Văn và trong chừ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn Theo Giáp Cốt Văn (hình 19) và cổ ngữ trong thời đại đồ đồng (hình 20), chữ "Mặt Trời" được viết như là một hình tròn hoặc là một hình có 4 cạnh với một cái chấm hay một gạch ngang nằm bên trong. Hình thức hay cách viết của chữ "Mặt Trời" trong các thời kỳ đó thì duy nhất, nghĩa là: a. Không có bất kỳ chữ nào mang ý nghĩa khác được viết với hình thức đó. b. Bất kỳ chữ nào được viết với hình thức như vậy đều có nghĩa là "Mặt Trời". Vì vậy, một thành phần của chữ "Việt", chữ thứ hai tính từ trái sang phải trong hình 18, được xem là chữ "Mặt Trời". Hình 19: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại Giáp Cốt Văn. Hình 20: Chữ "Mặt Trời" trong thời đại đồ đồng. 4. Chữ "Rồng" trong Giáp Cốt Văn và trong chừ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn Trong Giáp Cốt Văn (hình 21), chữ "Rồng" là một hình thù cong như thân rắn với một cái đầu to có 2 sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện. Hình 21: Bên phải là một số cách viết chữ "Rồng" trong thời kỳ Giáp Cốt văn. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của Giáp Cốt văn, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng. 5. Chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng và trong chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn Hình 22 trình bày là các chữ "Rồng" trong thời kỳ đồ đồng. Trong giai đoạn này chữ "rồng" được viết sắc sảo hơn với đầu to, miệng và răng, có hai sừng và đội vương miện. Hình 22: Bên phải là các cách viết chữ "Rồng" trong thời đại đồ đồng. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ "Rồng" của thời đại đồ đồng, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng. So với chữ "Rồng" của các thời kỳ Giáp Cốt văn và đồ đồng thì một trong các thành phần cấu tạo nên chữ "Việt" trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, chữ thứ 3 tính từ trái sang phải trong hình 18 được cho là chữ "Rồng". 6. Trống đồng: Chính sử của Bách Việt Khi toàn bộ Bách Việt ở vùng Hoa Nam bị tiêu diệt và đồng hóa, sử sách của họ cũng cùng chung số phận. Tuy Lạc Việt (Việt Nam) tránh được nạn diệt vong và mất nước nhưng sử sách cũng bị Hán tộc thiêu hủy. Quyển quốc sử cổ xưa nhất của Lạc Việt còn lưu lại là quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) của sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần, quyển này cũng chỉ mới được biên soạn vào năm1272. May thay, để bổ sung phần nào vào thiếu sót đó là hàng trăm trống đồng cùng những di tích và cổ vật của người Việt cổ được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam trong các thế kỷ qua. Sau đây là sự thật đã được xác lập: - Hán tộc không có trống đồng. - Trống đồng do chính người Việt cổ thiết kế và chế tạo. - Minh văn trên trống đồng phản ảnh sắc thái chủ đạo trong đời sống thực tế của người Việt cổ. Vì vậy trống đồng là một quyển chính sử của chủng tộc Bách Việt. 7. "Mặt Trời" trong chính sử trống đồng Về yếu tố "Mặt Trời" thì hiển nhiên không cần lời giải thích dài dòng vì tất cả những trống đồng khai quật được đều có chạm trổ mặt trời ở chính giữa tang trống. Do đó "Mặt Trời" đương nhiên là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của người Việt cổ. Hình 23: Một ví dụ của chữ "Việt" nguyên thủy được dịch ra Hán ngữ hiện đại. Nó gồm chữ "Nhật" (Hán ngữ: 日 nghĩa là mặt trời - phần bên trái và nằm ở trên), chữ "Long" (Hán ngữ: 龍 nghĩa là "rồng" - phần bên trái, ở dưới), và bên phải là chữ "người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng, tay cầm cái qua" , lưu ý là Hán ngữ không có chữ này. 8. "Rồng" từ đời sống thực tế đến huyền sử Huyền sử “Con rồng cháu tiên” là câu chuyện thần thoại không có thật nhưng nó phát xuất từ sự việc có thật trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ. Chính sử Việt và Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xâm mình, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau: Vua nói: "Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa. Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xâm mình để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xâm mình là để thuồng luồng hay giao long "tưởng" họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại. Thoạt tiên mục đích xâm mình đơn thuần chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ nên "Rồng" được xem là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt. 9. "Người Chim" trong chính sử trống đồng Tùy theo niên đại và thị tộc khác nhau, các trống đồng được khai quật có kích thước, phẩm chất và những minh văn khác nhau, nhưng đặc biệt hầu hết các trống đồng đều có chạm trổ những Người Chim, tay cầm qua hay binh khí và ở trong tư thế nhảy múa. Tương tự như sự hình thành khái niệm “con Rồng”, khái niệm “cháu Tiên” được bắt nguồn từ phong tục hóa trang thành Người Chim, một trong những tập quán nổi bật nhất của của người Việt cổ. oOo Tóm lại nếu có ai hỏi Việt là gì thì câu trả lời nên là: Việt là "Mặt Trời", là "Rồng", là "Người Chim" (Tiên). Đó là 3 yếu tố chủ đạo để nhận diện chủng tộc Bách Việt. Khái niệm Rồng của Bách Việt phát xuất từ đời sống thực tế qua phong tục xâm mình còn khái niệm Rồng của Hán tộc thì bắt nguồn từ đâu? Thắc mắc này được dùng để kết thúc phần phụ lục. KẾT LUẬN Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v... mà họ lại đặc biệt làm điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và chúng có thể không giống nhau. "Việt" là tên gọi chung của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng "Việt" thì có khã năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo nên một sức mạnh có khã năng đối đầu và thách thức quyền lực của Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, v.v... Nói chung nếu không tiêu diệt và đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách ấy với việc cấm dùng chữ "Việt" nguyên thủy và thay bằng một tên khác, chữ "Việt bộ Tẩu", người Hán đã thành công lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và căn cứ cuối cùng của Việt tộc. Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng, cùng những di tích và cổ vật khác được khai quật trong vài thế kỷ qua, đáng tiếc là nền văn minh và văn hóa ấy đã liên tục bị tiêu diệt trong suốt hơn 1000 năm, lãnh thổ thì mất cả chỉ còn lại một dãi nhỏ hẹp. Bị gián đoạn hơn 10 thế kỷ khiến sử Việt thiếu hẳn phần đầu, có chăng thì cũng mù mờ, đầy bí ẩn; phần sau của lịch sử cũng chỉ mới bắt đầu khi người anh hùng xứ Đường Lâm, Tiền Ngô Vương Ngô Quyền, thành công bảo vệ thành trì cuối cùng của Bách Việt bằng một trận đánh đẫm máu trên sông Bạch Đằng năm 938. Từ kỷ nguyên Internet đọc lại chính sử trên văn tự cổ, trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, trên trống đồng, và đời sống thực tế của người Việt cổ, hậu duệ của họ không những có trách nhiệm viết đúng lại tên Bách Việt để phản ảnh sự nhất quán của cổ nhân về tên chủng tộc, mà còn có bổn phận đào xới và minh bạch hóa lịch sử của chủng tộc vốn là chủ nhân của một lãnh thổ rộng lớn và trù phú. Vì vậy, viết lại tên Bách Việt là khởi đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với hy vọng trong đó có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt cổ. Thung lũng Hoa vàng Mồng Một Tết Nhâm Thìn tức ngày 23 tháng 1 năm 2012 Tác giả là tiến sĩ trong ngành điện toán, chuyên nghiên cứu và phát triển Integrated Circuits và Microprocessor cho kỹ nghệ Semiconductor. Ông là thành viên trong Ban nghiên cứu Á Châu của Nguyễn Thái Học Foundation.2 likes
-
Tôi nghĩ rằng: Việt sử 5000 năm văn hiến, lập quốc vào năm 2879 BC với quốc hiệu Văn Lang, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử là một chân lý không thể chối cãi. Nền văn hiến Việt là cội nguồn của Lý học Đông phương - mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành cũng là một chân lý không thể chối cãi. Đấy là những giá trị căn bản. Còn những diễn biến lịch sử sau đó và những vấn đề chi tiết sau đó như nguồn gốc nhà Tần, nhà Hán...vv...là những vấn đề cần nghiên cứu kỹ. Để xác định tính chất khoa học của một luận điểm, TTNC LHDP luôn tuân thủ những tiêu chí khoa học cho một giả thiết khoa học được cho là đúng và không mơ hồ. Tôi rất quí trọng nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, nhưng tôi cũng chưa tán thành một số luận cứ của ông. Thí dụ như việc coi nhà Tần Hán liên quan đến gốc Việt: Đây là những luận điểm mà cá nhân tôi chưa tán thành, bởi những sự mâu thuẫn của luận điểm này với các hiện tượng lịch sử văn hóa liên quan. Thì dụ: Nhà Tần đốt sách chôn Nho (Tức hủy diệt văn hóa Việt), Nhà Hán tuy phục hưng Nho giáo nhưng lại mạo danh, thí dụ: Thay đổi tên tác giả của tứ thư Ngũ kinh thành của Khổng tử. Không phục hồi được sự chính thống và nhất quán của thuyết Âm Dương Ngũ hành...vv.... Tuy nhiên tôi xác định luôn ủng hộ tinh thấn làm sáng tỏ Việt sử của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy. Cuộc minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến rất gian khổ, không chỉ vì sự vùi lấp của Việt Sử trên 2000 năm (Tôi nhắc lại đây không phải con số được đọc trong một giây), cho nên chúng ta cần có một trí tuệ và tư duy thật sự khoa học và sáng suốt; mà còn là sự đối phó với những thế lực hắc ám cản trở công cuộc minh chứng chân lý này, dưới mọi khia cạnh. Theo đường link của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, tôi đưa bài viết của ông Nguyễn Đại Việt lên để chúng ta tiện tham khảo.2 likes
-
Tham thâm, lận mạt, lấn bán... GN - Chưa có nhà nghiên cứu văn học nào xác định rõ ràng dòng “văn học bình dân” (văn chương truyền khẩu) đã được thiết lập, khởi đi từ tháng năm nào trong quá trình hình thành văn học Việt Nam. Tuy vậy, không ai có thể phủ nhận những giá trị thiết thực của dòng văn học này trong đời sống cộng đồng xã hội về nhiều lãnh vực. Từ những tình cảm nhỏ hẹp là tình yêu lứa đôi, gia đình, dòng tộc đến làng quê, đất nước; (…) cho đến kinh nghiệm sinh hoạt, kinh nghiệm sống đời thường, đến nền tảng đạo đức, luân lý, tôn giáo (…) qua bao đời của tiến trình lập nước - dựng nước, đều đã dược dòng văn học truyền khẩu đề cập, phản ảnh trung thực - rất phong phú và giá trị. Có thể nói, đây là “tấm gương” chân xác cho sự phát triển, đổi thay từ nếp sống đến tư tưởng, tình cảm của dân tộc… Từ thuở nhỏ, tôi đã “bị” dòng văn chương bình dân (mà rất thâm thúy này) ảnh hưởng sâu sắc! Theo tháng năm, tôi đã dần dần được soi sáng, dẫn dắt, thâm nhập vào kho tàng khổng lồ vô giá này để có thể tự rút ra một điều gì đó cho cuộc sống đa đoan của mình trong nhiều lãnh vực! Mỗi câu ca dao (hay tục ngữ), dường như là một sự đúc kết tinh tế lặng thầm qua bao tháng năm của nhiều thế hệ kế tiếp để trở thành những “viên ngọc quý” cho đời sống… Câu tục ngữ “Tham thâm, lận mạt, lấn bán” là một bài học đạo đức vô giá đã được tóm gọn trong 6 từ đơn giản, dễ nhớ (nhưng khó làm?) biết bao! Tham - là “tham lam, vơ vét, chụp giựt” của người theo bản năng sinh tồn thấp kém, không hề nghĩ đến người khác. Không cần biết “tiền tài và của cải” mình thu được có phương hại, tổn thương đến ai, hay có phù hợp với căn bản đạo đức làm người hay không? Nói tóm, là không hề nghĩ đến cái “hậu quả” rất nguy hại cho mình (và cho người) chung quanh! Kinh nghiệm người xưa đã dạy: “đã tham thì…ắt sẽ phải thâm”! Thâm là “thâm vào, mất thêm đi” còn nhiều hơn cái mà mình đã “tham”, đã hao tốn công sức và thời gian đêm ngày suy tính kê sách để vơ vét, hay thực hiện cho kỳ được “lòng tham vô đáy” của mình! Chụp giựt của người một cách vô lý (hay trái với pháp luật) không có chút đạo đức, ý thức như vậy - nhất định sẽ không bao giờ “lời” (mà thâm là cái chắc). Giản dị là “tham” của người 10 triệu thì chẳng bao lâu ắt sẽ phải “trả nợ”… 15, 20 triệu (hay nhiều hơn thế nữa) cho kẻ khác (hay cho vụ việc khác)! Đây là một quy trình công bằng và chính xác của lý “nhân quả” mà nhà Phật đã khuyến dạy từ hơn 25 thế kỷ trước! Một chuyện nhỏ: Bà Tư mua được mảnh đất 100 mét vuông để xây nhà! Lúc làm móng nền, bà kêu thợ làm rộng thêm phía trước mặt đường vài tấc. Rộng sang lô đất kế bên 0,5 tấc. Nhà đang xây, nhân viên quy hoạch nhà đất đi đo đạc kiểm tra để làm đường, phát hiện ra tình trạng “tham” 2 tấc nền nhà phía trước mặt tiền và 0,5 tấc của lô đất kế bên của bà Tư. Họ ra lệnh đình chỉ xây dựng. Sau mấy ngày phải “hầu” ở các cơ quan (và chạy đi thương lượng bồi thường cho chủ lô đất bên cạnh để khỏi bị khiếu nại) - rút cục, bà Tư phải nộp 2 triệu tiền phạt, 5 triệu tiền lấn chiếm và dỡ bỏ phần đã xây dựng “dư 2 tấc đất của lòng lề đường” - mới được tiếp tục. Việc xây dựng đình trệ, tốn thời gian, công sức “chạy vạy” năn nỉ các nơi, và … “thâm” cũng khá nhiều! Lận - có nghĩa là “gian lận, làm việc không chính đáng, công bình, để thủ lợi riêng” thì thế nào? Người xưa đã dạy: “Lận thì mạt”! Gian lận, làm điều phi pháp, không có lương tâm - thì trước sau gì đời mình (và ngay cả đời con cháu mai sau) cũng sẽ “mạt”! Mạt - hay “mạt rệp” (thường nói) - là không làm ăn nên nổi gì, không thể trở nên khấm khá hơn, và sẽ nhận cái “quả” nghèo khổ, gian nan suốt đời! Ở khu chợ BĐ, người ta thường nhắc kể cho nhau nghe về “lai lịch” của một gã thanh niên vóc dáng khôi ngô nhưng… khùng điên, làm điều xằng bậy để kiếm ăn (và các anh chị cũng đều ngớ ngẩn, nghèo đói ở quê) vì người cha thuở trước cậy có chút kiến thức lý lẽ, chuyên làm đơn tranh kiện cho kẻ tham lam thế lực để hiếp đáp, “lấy không” nhiều của cải, ruộng vườn của bà con nghèo trong xã để được “chia phần” hậu hĩ bao năm! Và bài học cuối cùng của người xưa cũng không thể xem thường: “Lấn thì bán”! Lấn - là 1 trong 3 cái “túi tham” của con người thiếu suy xét, không có trái tim, chỉ nghĩ đến việc tóm thu, giành giựt về cho mình, càng nhiều càng tốt, mà không phù hợp với đạo lý, lẽ phải trong đời sống. Lấn - là tìm cách “lấy phần hơn, giành phần hơn người” trong mọi giao tiếp, cư xử. Từ “lấn” ở đây có nghĩa cụ thể chỉ về đất đai, nhà của, ruộng vườn. (Ngày xưa, mối quan hệ tranh chấp đụng chạm nhiều nhất trong đời sống là đất đai, vì chưa có những “sở hữu”quý giá hơn). Đã “lấn” của người làm của mình, thì chắc chắn sẽ không được tồn tại lâu dài. Sẽ có nhiều “nhân duyên” mầu nhiệm bất ngờ xảy ra cho đời mình (hay đời con cháu), thì ngôi nhà, thửa vườn, đám ruộng kia (…) sẽ lọt vào tay người khác! Lúc còn ở quê, người láng giềng của tôi chờ người hàng xóm cạnh mình đi xa vài hôm, bèn kêu thợ đến dựng lên dãy hàng rào trụ đúc xi-măng, rào kẽm gai, lấn sang vườn nhà người bạn đến 1 mét! Trở về, phát hiện được, nhưng người bạn vẫn im lặng không thưa kiện gì. Chỉ sau đó vài năm thôi, biến cố xảy đến cho người nọ, khiến ông không thể ở lại được trong ngôi nhà có vườn rộng được rào ngăn cẩn thận. Ông ta đã phải bán căn nhà và khu đất đó đi. Và người mua, không ai khác, chính là người hàng xóm tốt bụng bị “lấn” đất thuở nào! Nhìn lại quanh đời sống, chúng ta có thể nhận ra vô vàn trường hợp “tham thâm, lận mạt, lấn bán” - (có nhiều hoàn cảnh đau lòng hơn thế nữa), nhưng đã có bao nhiêu người giữ được tấm lòng trong sáng, an tịnh để tránh đi hậu quả đáng tiếc ấy cho đời mình và con cháu đời sau? Bài học của người xưa truyền lại đơn giản là vậy, từ bao thế kỷ rồi, chỉ trong 6 từ ngắn ngủi, nhưng sao vẫn mãi còn là vấn nạn, là thảm trạng cho bao cảnh đời bất hạnh, tối tăm? Tạp bút của Mang Viên Long giacngo.vn1 like
-
Cô tâm đắc khi nghe được từ Thánh Tăng RinPoche KhenChen dịp ngài đến VN khuyên " chúng ta không nhất thiết phải hành trì bao nhiêu biến, lạy bao nhiêu lễ mà chúng ta chỉ niệm 1 câu A Di Đà Phật với tất cả sự ngưỡng vọng chân thành toàn tâm cũng đủ chứng ngộ, mọi thứ chỉ là thủ tục để tạo nếp tu tập nhưng nếu không toàn trí thì cũng chẳng lợi lạc gì?"1 like
-
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. Con cám ơn cô Wild ạ.1 like
-
Chào Chim Chích Bông! Trì bất cứ Chú nào cũng tốt Đại Bi Chú, Lục tự đại minh chú, Dược Sư chú v.v....đều tốt cho người đang mang thai vấn đề mà CCB đặt ra :cho Chị ấy là trong ngôi gia thiếu một nơi thờ phượng, chẳng sao cả CCB ah! Tâm xuất Phật chứng ngay cả khi ta lưu thông trên đường hay lưu trú 1 nơi xa lạ thì làm gì có điều kiện? chỉ cần sự thành tâm quán tưởng niệm chân ngôn! Wild nhớ vài câu chuyện khi xưa người ta gặp nạn trên biển lúc đó họ nhất tâm khấn nguyện lòng thành và vẫn được độ bằng an! Chúc an lành và tinh tấn cho Chị ấy !1 like
-
Nhờ chú Thiên Sứ, chú Thiên Luân và các anh chị trong diễn đàn xem giúp. Tuổi chồng : 1975 (Ất Mão) Tuổi vợ : 1981 (Tân Dậu) Cưới 16/12/2001 (AL) Tân Tỵ Tuổi con gái đầu lòng: 2004 (Giáp Thân) Cháu định sinh đứa thứ 2 trong năm 2013 thì có tốt không ạh? Nếu không thì có năm nào tốt hơn không và cháu út là trai hay gái thì tốt cho cả nhà? Xin cám ơn và mong chú (anh/chị) sớm giải đáp giúp thắc mắc. Trân trọng.<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break">1 like
-
Thưa cô Wild (và bạn NhaKhanh)! Con đã thỉnh nguyện 03 tấm linh phù nhưng đến hôm nay con vẫn chưa nhận được (đã 13 ngày rồi ah). Cô xem lại hộ con, K0 hiểu có phải bị thất lạc hay không? Con cảm ơn nhiều ah. Cầu chúc cho tất cả các thành viên và mọi người tham gia diễn đàn đều được an thái!1 like
-
1 like
-
Các năm nên sinh con: 2014, 2022, 2023, 2024.1 like
-
hihi, bạn này lấy nhầm rồi, bùn cười quá, mới sinh hôm nay mà đã đòi cưới rồi :D, lấy lại hộ bạn này http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 tớ đoán mò hình như sang năm bạn cưới ah :)1 like
-
Chẳng qua là nhiều người cảm tính gọi bừa chứ! Chích Bông cũng có trống có mái mừ! Mà hình như Trống bị cột mỏ rùi!1 like
-
Xin hỏi ý không phải chứ anh/chị/cô/chú/bác/ông/bà Tâm Giao có biết bùa này là bùa gì không ạ? Nếu biết thì nhờ anh/chị/cô/chú/bác/ông/bà Tâm Giao chỉ vẽ cho vài thông tin cụ thể với ạ. Chứ phán như thế kia thì nhà em cũng chịu chả biết "có gì bên trong" với "âm u" thế nào cả1 like
-
Chim Chích Bông khỏi đổi tên, tên này nghe hay, ngẫm thật kỹ lại thì rất hay một cách thâm sâu. Chứng tỏ đúng tính cách người thuộc dạng "Những người hay tếu". Thiên Đồng1 like
-
Đổi nick thành Anh Chích Bông đi nha ( đây đổi giúp ko tính phí), giống như trong báo Hoa Học Trò hay Mực Tím ngày xưa hay có Anh Bồ Câu Chị Bồ Câu gì đó1 like
-
Hai bạn nên có thể sinh con đầu lòng sang năm Quý Tỵ, ưu tiên con gái và năm Bính Thân 2016 hoặc Mậu Tuất 2018 sinh con út (2018 tốt hơn), con trai út thì càng tốt. Thân mến.1 like
-
CÓ CẦN PHẢI VIẾT LẠI TÊN BÁCH VIỆT? Hà Văn Thùy Ý tưởng “Người Hán vượt Hoàng Hà chiếm đất, đuổi người Việt chạy có cờ qua sông Dương Tử, sau đó chế ra chữ Việt bộ Tẩu để nhạo báng kẻ thua trận” không chỉ có ở Tiến sĩ Nguyễn Đại Việt* mà từ lâu xuất hiện dai dẳng ở nhiều người khác. Tiếc rằng đó là một ý tưởng mang tính tự kỷ ám thị tệ hại nhất của người Việt dựa trên sự thiếu hiểu biết về lịch sử và ngôn ngữ Việt. 1. Về phương diện lịch sử. Sang thế kỷ này, bằng việc kết nối những khám phá di truyền nhân học với những tri thức khảo cổ học, cổ nhân học và văn hóa học, chúng ta biết rằng, người vượt sông Hoàng Hà chiếm đất Bách Việt 4500 năm trước, lập vương triều Hoàng Đế là chủng Mông Cổ phương Bắc (North Mogoloid). Tuy chiến thắng nhưng do số người ít và văn hóa chưa phát triển, vào Trung Nguyên, người du mục Mông Cổ bị người Việt đồng hóa cả về di truyền lẫn văn hóa. Do chung đụng với người Việt, lớp con lai Mông - Việt ra đời, tự nhận là người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ học tiếng nói, chữ viết cùng văn hóa của tổ tiên Bách Việt. Theo sử Trung Hoa, Hoàng Đế cai trị khoảng 100 năm (2698-2598 TCN), tiếp theo là Thiếu Hạo, Chuyên Húc. Nhưng sau đó, vương quyền chuyển về người Việt với Đế Cốc, Đế Chí, Đế Du Võng rồi Đế Nghiêu (2337 –2258 TCN), Đế Thuấn, Đế Vũ (2205 –2198 TCN), Đế Ất (Thành Thang 1766-1122 TCN). Chỉ sau khi diệt nhà Ân, Vũ vương lập nhà Chu, người Hoa Hạ mới nắm quyền bính. Tuy xưng bá nhưng nhà Chu bị kẹp giữa những quốc gia Việt hùng mạnh: Ba Thục phía tây-nam, Ngô, Việt, Sở phía đông và Văn Lang phía nam. Tần Thủy Hoàng người Việt, diệt lục quốc, gồm thu đất đai, con người và văn hóa của khối dân cư Việt khổng lồ vào đế quốc Trung Hoa. Diệt nhà Tần, Lưu Bang, một người Việt bên sông Hòn cùng những hào kiệt người Việt khác như Anh Bố, Quý Bố lập ra vương triều với tên Việt là Hòn, chỉ tới đời Đường mới gọi là Hán theo quan thoại thời đó. Như vậy, huyền thoại “người Hán vượt Hoàng Hà vào chiếm đất rồi đuổi người Việt chạy vượt sông Dương Tử” là sai lầm, ngộ nhận đã bị thực tế lịch sử bác bỏ! 2. Về phương diện ngôn ngữ Cho tới cuối thế kỷ trước, từ học giả thế giới tới Việt Nam tin như đinh đóng cột rằng, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Trung Hoa. Nhưng tới năm 2006, bằng khảo cứu không thể phản bác của mình, tôi chứng minh rằng: “Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa.” Sau đó, từ năm 2009, bằng loạt bài viết đầy thuyết phục như Phát hiện lại Việt nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn và nhiều bài khác, nhà nghiên cứu Đỗ Thành công bố hàng trăm hàng ngàn chứng cứ cho thấy, tiếng Việt từ Việt Nam theo người di cư lên phía nam Dương Tử thành tiếng Mân Việt, Đông Việt, Việt Quảng Tây, Hải Nam… Từ đây, theo chân người Việt, tiếng Việt vào Trung Nguyên, là chủ thể tạo thành ngôn ngữ Trung Hoa. Từ thời Chu, Khổng Tử coi tiếng của phương Nam là tiếng chuẩn mực nên gọi là Nhã ngữ. Thời Tần thống nhất ngôn ngữ theo Nhã ngữ của phương Nam. Từ những phát hiện văn bản chữ tượng hình trên bình gốm Bán Pha 2, cách nay 12.000 năm; chữ tượng hình mang nội dung bói toán, cúng tế trên yếm rùa ở di chỉ Giả Hồ 9.000 năm trước và văn tự của bộ lạc Thủy với 250.000 người hiện sống ở Quảng Tây, tôi tiên liệu rằng, chính người Lạc Việt – chủng Indonesian, giữ vị trí lãnh đạo dân cư Đông Á về xã hội và ngôn ngữ - đã sáng tạo chữ vuông tượng hình. Đầu năm nay, đàn cúng tế của người Lạc Việt ở di chỉ Cảm Tang Quảng Tây (4000 tới 6000 năm trước) với hàng ngàn mảnh rìu đá (còn được gọi là xẻng đá) khắc ký tự tượng hình nói về cúng tế và bói toán được phát hiện. Kết nối ký tự Cảm Tang với văn bản Bán Pha, ký tự Giả Hồ và Giáp cốt-Kim văn Ân Khư, cho thấy một quá trình sáng tạo liên tục của chữ tượng hình trên đất Trung Hoa mà chủ nhân của nó là người Lạc Việt. Từ đó có thể đưa ra nhận định: Giáp cốt và Kim văn là sáng tạo văn tự của người Lạc Việt. Sang thời Chu, chữ tượng hình vốn khắc trên yếm rùa, xuơng thú, đồ đồng được chuyển thành chữ viết trên lụa và thẻ tre. Thời Tần, Hán, trí thức Hoa Việt cùng nhau cải tiến chữ viết tượng hình thành chữ của nhà Hán. Như vậy, chữ Việt cũng là chủ thể tạo nên chữ Trung Hoa! Do người Việt sáng tạo nên trong chữ tượng hình Lạc Việt có vô số chữ Việt: Nhật (日) là Việt, Nguyệt (月) là Việt, thậm chí Hán (漢) cũng là Việt… Chữ Việt trên gươm của Câu Tiễn phía bên trái gồm chữ Nhật với nghĩa Việt phía trên còn phía dưới chữ Long (rồng) là chữ duy nhất biểu trưng cho vương vị của Việt vương. file:///C:%5CUsers%5CTHIENSU%5CAppData%5CLocal%5CTemp%5Cmsohtmlclip1%5C01%5Cclip_image002.jpg Trong vô số chữ Việt hiện có, nhiều học giả xác định, có ba chữ là tên gọi của tộc Việt. Đầu tiên là Việt - người cầm rìu (戉). Chữ này có thể xuất hiện trước 15.000 năm cách nay, khi người Việt sáng tạo ra rìu đá mài, công cụ lao động ưu việt nhất của nhân loại thời đó. Chữ Việt thứ hai, vẫn quen gọi là chữ Việt bộ Mễ (粵) là tên gọi của tộc Việt xuất hiện sau 15.000 năm cách nay, khi người Việt thuần hóa được cây lúa nước, phát minh quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Chữ này hiện được dùng để gọi người Việt phía nam Dương Tử. Chữ Việt bộ Tẩu (越) được dùng làm tên của tộc Việt vào thời Đồ đồng. Là người đầu tiên phát minh kỹ thuật đúc đồng, làm trống đồng, rồi vũ khí mà tiêu biểu là chiếc qua trong chinh chiến, hình tượng chiến binh cầm qua đồng truy đuổi kẻ thù được dùng làm biểu trưng cho người Việt. Căn cứ vào tự dạng thì hình tượng người cầm qua chạy có hai nghĩa tương phản: chạy tới là tiến công còn chạy lui là trốn tránh. Về mặt ngữ pháp, “tẩu” là động từ chỉ sự di chuyển, mang nghĩa trung tính. Vì vậy, để có nghĩa hoàn chỉnh, người ta phải thêm xu hướng động từ: tới và lui. Do vậy, chỉ áp cho nó duy nhất nghĩa bỏ chạy là không đúng. Nếu việt là trốn chạy thì giải thích thế nào về những chữ như ưu việt nói về phẩm chất vượt trội, việt vị nói việc chạy vượt qua mốc quy định. Mặt khác, trong Hán ngữ, nói về việc chạy trốn, đã có chữ Đào (逃). Như vậy là, từ lịch sử tới ngữ nghĩa, chữ Việt (越) hoàn toàn không phải trốn chạy mà mang nghĩa tích cực của sự tiến công, tiến bộ, vượt trội. 3. Kết luận Trước đây, do không hiểu đúng lịch sử của tộc Việt nên một số trí thức yếm thế gán cho chữ Việt bộ Tẩu cái nghĩa người cầm qua bỏ chạy rồi từ đó nghĩ rằng người Hán chế ra chữ đó để nhạo báng người Việt. Đó là sự ngộ nhận mang tính tự kỷ ám thị tệ hại không chỉ về lịch sử mà còn về ngôn ngữ. Nay, nhờ khoa học nhân loại, sự thật đã sáng tỏ: tổ tiên ta không chỉ sinh ra người Hoa Hạ mà còn trao cho họ nền văn hóa Việt rực rỡ, trong đó có tiếng nói và chữ viết. Cùng với hình tượng người cầm qua, chữ Việt bộ Mễ, chữ Việt bộ Tẩu cũng do chính tổ tiên chúng ta sáng tạo. Đó là chữ chính danh khẳng định sự ưu việt của Tổ tiên không chỉ của 90 triệu người Việt Nam mà còn của hàng trăm triệu đồng bào đang sống ở nam Dương Tử, những người mang dòng máu Việt, vẫn nhớ cội nguồn Việt và giữ gìn tiếng nói cùng nhiều vốn quý của văn hóa Việt! Đáng tiếc là vẫn còn một số người vô tình hay hữu ý bưng tai nhắm mắt trước những phát hiện mới về lịch sử. Như người bệnh tưởng, họ tự giam mình trong cõi vô minh rồi buồn tủi, than thân trách phận về căn bệnh giả tưởng! Cố gắng viết lại chữ Việt thể hiện cái tâm đáng trân trọng. Nhưng việc làm này không chỉ vô nghĩa đối với khoa học mà còn gây nhiễu tâm trí những người nhẹ dạ, cả tin, tiếp tục giam hãm họ trong vòng ngu dân. Một lần nữa, xin khẳng định: chữ Việt bộ Tẩu do chính tổ tiên chúng ta sáng tạo, không chỉ là biểu trưng của vinh quang quá khứ, mà bằng minh triết của mình, người Việt sẽ giữ vị trí hàng đầu dẫn dắt nhân loại đi lên trong thiên niên kỷ mới. Vì vậy chữ Việt (越) không có lý do gì phải viết lại! Tân Phú, 3. 3. 20121 like
-
Mục này chỉ trả lời về năm sinh con, còn việc anh hỏi về thay đổi công việc, có thể sang mục tử vi để được tư vấn cụ thể nhé. Nếu anh chị muốn sinh thêm con thì nên chọn năm Ất Mùi 2015 hoặc Đinh Dậu 2017 là tốt nhất. Con đầu tuy Thiên Can Ất sinh Bính cha nhưng con mạng Hỏa bị mẹ mạng Thủy khắc (theo Lạc Thư Hoa Giáp ) nên sức khỏe kém và gia đình cũng vất vả từ 7 năm nay. Nên sinh thêm con út năm tốt để hóa giải. Thân mến.1 like
-
Theo Ngũ hành sinh vượng mộ thì Thu kim vượng, thủy tướng, Mộc tử, hỏa tù, thổ hưu nên có thể trong mùa Thu này là đòi được. Lưu niên Thủy sinh mộc Thương nên thời gian thì theo mình có thể căn cứ độ số. Có lẽ tầm tháng 9 âm lịch.1 like
-
chào bạn! Số 0903: bạn là người sống tình cảm, tính tình rất nữ tính. bản thân khá vô tư và sống khép kín, sống nội tâm, kín tiếng. Tuy nhiên nếu có chuyện gì khiến bạn không vừa lòng thì bạn nói nhiều và hay trì triết. vợ chồng xung khắc, nhất là về tình cảm vợ chồng và mối quan hệ của bạn với bạn bè. Vè anh chị em thì tình cảm không được thuận hòa, có lẽ rất xung khắc nhau vì chuyện tài sản, nhất là đất đai nhà cửa. Về tài lộc, bạn kiếm tiền khá khó khăn, không được thuận lợi vì gặp nhiều xui xẻo và nếu kinh doanh thì vì những người cùng làm quá tính toán. Vợ chồng xung khắc nhau. Chồng thích kinh doanh đấy nhỉ và rất yêu vợ. Bản thân bạn cũng hay xung khắc với cha mẹ. Số xấu, nên đổi. Số đt 0916: Hai vợ chồng giống nhau nhỉ. Đây là người sống cũng nhẹ nhàng, tình cảm, bản tính không thích nói nhiều, kín tiếng. Là người thích kinh doanh và rất chịu khó bươn chái. Tuy nhiên mọi việc không được thuận lợi, bản tính hay cả nể. Đầu tư vào đâu thì mất vào đó. Cuộc đời gặp nhiều chuyện đen đủi cứ như thần xui xẻo bám riết theo vậy. Với mọi người thì hay xung khắc. Là người yêu vợ. Số xấu, nên đổi1 like
-
Sau hội thảo, Thế Trung có gửi tài liệu cho một số bạn bè, và một người bạn (cũng đã nhiều tuổi) từ Mỹ đã gửi lá thư sau. Sau khi xin phép và được cho phép, Thế Trung chia sẻ nội dụng thư này để chúng ta cùng đọc và suy ngẫm. Trân trọng Thế Trung --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Thân gửi anh Trung và các bạn, Tôi đã được đọc sách của GS KĐ từ hồi 19 tuổi từ khi hiện tượng KĐ còn phôi thai. Kiến thức về Hán Văn, khảo cổ, và cổ thư của tôi không đủ để phê bình hay nhận xét đúng sai. Tôi chỉ cảm thấy có điểu mới lạ mặc dầu logic nhiều khi phóng túng. Gần đây anh Trung có gửi các bài phóng sự về hội thảo chuyên đề sự nghiệp GS KĐ. Qua nhũng lời phê bình xác đáng, tôi nhận thấy là giới chuyên gia nhân văn VN có tầm hiểu biết vượt xa những gì tôi vẫn nghĩ về các hoạt động văn hoá đang được tiến hành trong nước. Tôi rất mừng là còn có những chuyên gia trình độ cao theo đuổi những nghiên cứu khó khăn trong hoàn cảnh thiếu thốn. Không ít người cho rằng GS KĐ là người của chế độ cũ. Động lực chính của công trinh nghiên cứu của GS KĐ biết đâu là để chống cộng. Trước 75, chống cộng tức là chống Tầu nói chung, vì Tầu là người đỡ đầu miền Bắc lúc đó. Nay một hội thảo chuyên đề cho GS KĐ được tổ chức để vinh danh nhân ngày giỗ của ông cho thấy trình độ trưởng thành về phê phán. Ai đúng thì được khen, không để quá khứ hay những nghi ngờ chính trị làm mờ mắt. Nghiên cứu khoa học thuần tuý rất nhiều khi dựa vào cảm tính, trực giác, hay kiến thức tiền khoa học. Nhiều nghiên cứu gia đã thú nhận là có một định kiến về chiều hướng của kết luận trước khi có đủ dữ kiện chứng minh. Với trực giác, khoa học gia có thể tiết kiệm được rất nhiều công sức bằng cách loại bỏ những giả thuyết phụ. Tuy nhiên một kết luận được coi là co giá trị khoa học chỉ khi nào nó vượt qua các phê bình về logic và được kiểm nhận hay chứng minh bằng các công ước. Nghiên cứu khoa học nhân văn hay xã hội cũng phải tuân theo các quy luật tương tự. Công trình nghiên cứu của GHS KĐ có tính cách đột phá và kết luận của ông đi trước thời gian đến 30-40 năm. Tôi tin rằng với số lượng nghiên cứu đò sộ, nếu loại đi những kết quả do phỏng đoán, những gì còn lại vẫn còn đủ để ta xếp hạng ông vào gương mặt lớn trong thế kỷ 20. Điều đáng khâm phục là với những bằng chứng tản mạn khắp trong những tài liệu rời rạc, ông đã dùng trực giác để kết liên chúng thành những hệ thống mà 30-40 năm sau khoa học mới bắt đàu chấp nhận những điểm chính. Thiên tài của GS KĐ là ở chỗ đó. Quay trở lại giá trị của những công trình nghiên cứu về dân tộc học, tôi có vài giả thử để các bạn cùng suy nghiệm. Nếu các gỉả thuyết sau đây được chứng minh do các công trình nghiên cứu đế chúng ta có thể dậy trong hương trình gíáo khoa tiểu học và trung học trong tương lai, người VN có thể sẽ nhìn dân tộc mình với một tư duy mới: 1) Rằng chúng ta đã có một chữ viết kiểu khoa đẩu, và chữ viết đã tiến lên trình độ tượng thanh để diễn tả các tư tưởng qua 30-40 chữ cái trước khi bị người Hán đô hộ. Chữ khoa đẩu còn đặt nền móng cho chũ Hán vuông sau này. Điều này có thể dẫn đến sự phục hưng của mẫu tự khoa đẩu. Người Do Thái đã phục hưng tử ngữ Hebrew và dạy học tiếng này song song với tiếng hiện đại khi họ tìm ra được chữ viết cổ của họ. 2) Rằng từ Lạc Việt, một hệ thống nhân sinh quan kết chặt các liên lạc giữa trời đất, thiên nhiên và con người, vua tôi, vợ chồng, thày trò…đã lan toả ra vùng Lĩnh Nam, rồi lan đến Bách Việt. Văn minh này đã đươc những người Hoa Hạ sau này chấp nhận và phổ biến khắp châu thổ Hoàng Hà và Sông Dương Tử. 3) Rằng không phải là tình cờ hay may mắn về địa dư mà người Việt còn giữ được những tư tưởng về nguồn cội. Tinh thần độc lập ngày nay đã do cha ông dầy công bảo vệ, vun bồi bằng xương máu và đã tìm mọi cách để truyền lại cho đời sau. Tổ tiên ta đã hiểu biết sâu xa sự quan trọng của truyền thống và lịch sử trong sự hình thành một con người toàn diện. Một cá nhân sẽ không thể tiến xa nếu người đó không có lòng tự trọng (self-esteem). Một dân tộc không thể tiến bộ nếu không thấy tự hào về nguồn cội. Tất cả các nước tiến bộ trên thế giới đều rất trân trọng bảo về truyền thống dân tộc họ, điển hình là người Anh. Trong lịch sử các nước thực dân, các cuộc thống tri tàn bạo thường bắt đầu bằng tiêu diệt lịch sử và truyền thống. Lịch sử của người Tây Ban Nha tiêu diệt văn hoá bản địa ở Nam Mỹ là một kỳ tích gần đây nhất. Cho đến bây giờ chỉ còn hai ba quyển sách trong hàng vạn quyển là còn tồn tại. Người Nam Mỹ bản địa hầu như không còn nhớ họ là ai, và họ thường hay thụ động, thiếu cầu tiến trong đua tranh nghề nghiệp. Tiêu diệt một con người chỉ cần giết người đó. Để tiêu diệt một dân tộc, cần phải đánh thật mạnh vào lòng tự hào dân tộc họ. Cần phải tiêu diệt ngôn ngữ, bóp méo lịch sử, thay đổi phong tục. Qua một ngàn năm Bắc thuộc, người Hán tưởng đã thành công trong việc tiêu diệt Lạc Việt. Chúng ta được dạy trong trường chúng ta là con cháu những ngươi bại trận phải trốn về Nam. Chúng ta không có chữ viết và phải nhờ quan thái thú Bắc phương đến dạy mới biết hôn nhân, giáo dục, …Khi chiếm nước ta, việc đầu tiên là họ tich thu sách vở hoặc đốt, sau đó là thay đổi ngôn ngữ và phong tục, và cuối cùng là thay đổi huyết thống. Sau gần một nghìn năm, dân Việt còn có thể thức dậy và dành lại chủ quyền. Biết được như thế mới thấy sự kỳ diệu của nền văn minh truyền thống Lạc Việt. GS KĐ là một trong những người hiểu sự quyến rũ của nền văn minh đó. Vài giòng viết để giúp ý với anh Trung. Những đam mê của anh về nguồn cội có thể đã hằn trong tâm thức hay đã nằm trong các chủng tử di truyền. Có người còn gọi đó là cái nghiệp chung của nhiều người VN. Thư đã quá dài, sẽ viết thêm sau để giúp ý kiến vấn đề kinh tài cho những công tác văn hoá này. Thân chào, Đồng1 like
-
CHÚC MỪNG ARTEMISIA và LÊ BÁ TRUNG ĐÃ HOÀN THÀNH TỐT CÔNG VIỆC NẶNG NHỌC NÀY. CHÚC HAI BẠN LUÔN GẶP MỌI ĐIỀU TỐT ĐẸP TRONG CUỘC SỐNG.1 like
-
Dương Trạch Tam Yếu.
Vohinh12 liked a post in a topic by Guest
BẾP SỐ 41: BẾP LY PHỐI VỚI CỬA LY (Đây là Bếp Phục vị đắc vị. ở Kinh Dịch là quẻ Bát Thuần Ly). - Bếp Ly Hỏa phối với Cửa Ly cũng Hỏa, hai Hỏa tương tế nhau (lưỡng Hỏa thành viêm) cháy sáng lên mãnh liệt. Gia đạo thịnh phát ào ào nhưng vì tánh lửa không bền và sự phát đạt quá độ tất cũng không bền, Ly với Ly thuần Âm tất hại Dương, nam tử chết yểu, phụ nữ cầm chế gia đình, nhân khẩu nhiều nữ ít nam, trẻ con bất lợi. Bếp này sanh các chứng bệnh đàm, tê xụi, ho lao, mắt đỏ, tim đau đầu đau, đau máu, bệnh Âm thuộc âm nóng hầm hầm, hỏa khí xông lên miệng lưỡi nổi u nhọt, tim như bị đốt. Nó còn sanh ra các vụ thưa kiện, phỏng cháy. - Lại có lời đoán như vầy: Thuần Âm, dùng lâu sẽ tuyệt tự, con gái và rễ làm loạn trong gia đình, hàng trung nữ phá tán gia tài mà bệnh chẳng rời thân. Trên dưới vô tình, tôn ty bất nghĩa. BẾP SỐ 42: BẾP LY PHỐI VỚI CỬA KHÔN (Đây là Bếp Lục sát – hung. ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Địa Tấn). - Bếp Ly Âm Hỏa phối Cửa Khôn Âm Thổ, lửa đốt đất phải khô biến ra Bếp Lục sát bất lợi. Mẹ với con gái sống chung (Khôn Ly) là tượng thuần Âm không có Dương: Nam tử chết sớm, tiểu nhi khó nuôi. Cho tới hàng phụ nữ cũng không trường thọ. Dùng Bếp này mãi về sau không con thừa tự. Bếp còn sanh các chứng bệnh đau tim, kinh nguyệt chẳng thông công phạt tim, lao dịch, thổ huyết. - Lại có lời tượng đoán theo quẻ Tấn như vầy: Quẻ Tấn, âm nhân gom chứa tiền của. Thuần Âm tất hại Dương, vợ chết lại nhiều phen lấy vợ. Trong nhà rối như cỏ mọc loạn nhiều thứ. Con cháu rất ít oi. Kết cuộc về sau phải dùng con họ khác làm kế thừa tự. BẾP SỐ 43: BẾP LY PHỐI VỚI CỬA ĐOÀI (Đây là Bếp Ngũ quỷ – đại hung. ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Trạch Khuê). - Ly Hỏa phối với Đoài Kim, lửa đốt cháy vàng lại thuần Âm không có Dương, ba hạng: nam nhân, ấu phu, thiếu nữ đều đoản thọ. Bếp này sanh các chứng bệnh: ho lao gầy yếu, băng huyết, da mặt vàng khô, tiêu khát, thai hư hóa huyết. Nó còn sanh ra các sự việc nguy hại: bị các tà quỷ treo cổ trầm mình nhiễu nhương (phá hại), hỏa hoạn, trộm cướp, quan họa (tai họa về quan pháp), điền sản thoái bại, đàn bà góa chuyên quyền, người người tổn thương không có con để nối dòng. - Lại có lời đoán theo quẻ Khuê như vầy: Quẻ Khuê, thê thiếp chịu thương tổn, người mang bệnh lao dịch, không con thừa tự cho nên bị con gái với chàng rễ tấn nhập gia cư. Hại thân người, hao tổn lục súc và phá tán tiền bạc là ba điều bất lợi. BẾP SỐ 44: BẾP LY PHỐI VỚI CỬA KIỀN (Đây là Bếp Tuyệt mệnh – đại hung. ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu). - Bếp Ly Hỏa khắc Cửa Kiền Kim, trước hại ông cha, kế đó hại hàng trung nữ. Bệnh chứng do Bếp gây ra: hư lao, ho suyễn, da vàng, thổ huyết, đau tê liệt, ghẻ độc, mắt tật. Các sự việc hung hại: treo cổ, trầm sông nhảy giếng, phỏng cháy, trộm cướp, phạm quan pháp, tà ma làm ra việc quái lạ. Hao phá tiền tài và tuyệt tự là hai điều chẳng khỏi. - Lại có lời đoán theo quẻ Đại Hữu như vầy: Đại Hữu, trung nữ sanh đẻ băng huyết, nghẹn ăn nấc cục, nhà cửa bại hoại, con người chết mất, những vụ phỏng cháy trộm cướp xen nhau đến gây lắm tai ương. Bậc trưởng thượng cùng ấu nhi thường hay tật bệnh. BẾP SỐ 45: BẾP LY PHỐI VỚI CỬA KHẢM (Đây là Bếp Diên niên thất vị. ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Thủy Vị Tế). - Bếp Ly phối với Cửa Khảm là trung nam gặp trung nữ, là tượng phu thê chính phối, lại được Diên niên tức Vũ khúc kiết tinh, cho nên: tiền tài rất phong phú, công danh hiển hách, con cháu đầy nhà. Nhưng dùng Bếp này lâu năm sẽ khắc hại vợ, tim đau, mắt tật. Đó là bởi Khảm Thủy với Ly Hỏa tương khắc và vì Diên niên Kim lâm Ly Hỏa, cung khắc tinh, sự phát đạt chẳng yếu đi thì cũng không bền. - Lại còn lời đoán theo quẻ Vị Tế như vầy: Vị Tế, được đạo Âm Dương chính phối, nhà cửa cùng sự nghiệp và tài vật đều hưng tiến. Nhưng lâu năm cung thê thọ hình khắc (Ly bị Khảm khắc), tim đau, mắt bệnh. -(Dẫn giải: Chính phối là hai cung đồng bậc với nhau mà có đủ Âm Dương . Như Khảm thuộc Dương trung nam với Ly thuộc Âm trung nữ. Như Cấn thuộc Dương thiếu nam với Đoài thuộc Âm thiếu nữ. Như Chấn thuộc trưởng nam với Tốn thuộc Âm trưởng nữ. Như Kiền thuộc Dương là cha với Khôn thuộc Âm là mẹ. Phàm hai cung chính phối tất hỗ biến được Diên niên, rất tốt, duy Ly với Khảm không bền vì Hỏa với Thủy tương khắc). BẾP SỐ 46: BẾP LY PHỐI VỚI CỬA CẤN (Đây là Bếp Họa hại – hung. ở Kinh Dịch là Quẻ Hỏa Sơn Lữ). - Bếp Ly phối Cửa Cấn làm thành Bếp Họa hại. Ly lửa đốt Cấn là đất phài khô rang. Cấn ứng vào hạng thiếu niên và nhỏ tuổi chết mất. Ly ứng vào hạng trung nữ tánh táo bạo, nóng nảy, hung dữ. Ly đốt Cấn là tượng âm nhân nhiễu loạn mà nam nhân phải ngại sợ vậy. Bếp này sanh các chứng đầu óc hôn trầm (tối tăm), tê bại, tật mắt, đại tiện bón uất, kinh mạch chẳng điều hòa, si mê điếc lác, ngượng nghịu. - Lại có lời tượng đoán theo quẻ Lữ như vầy: Quẻ Lữ, vợ chồng không thịnh vượng, con cháu khó nuôi tới lớn, nhân khẩu tổn thương, tiền tài chẳng hưng tiến. Con côi mẹ góa là định phận. BẾP SỐ 47: BẾP LY PHỐI VỚI CỬA CHẤN (Đây là Bếp Sinh khí đắc vị. ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp). - Bếp Ly Âm Hỏa phối Cửa Chấn Dương Mộc là Âm Dương toại hiệp, vạn vật sinh thành, là Mộc với Hỏa tương sanh, thông minh rạng rỡ. Sinh khí Mộc lâm Ly đắc vị là tượng Thanh long vào nhà, là một cái Bếp đại phú, đại quý, tiền bạc chạy vào, của quý đưa đến. Nhất định nhà được Bếp này có bậc văn nhân, tú sĩ, khoa giáp đỗ liền liền. - Lại có lời đoán theo quẻ Phệ Hạp như vầy: Phệ Hạp, lửa với sấm giao hiệp nhau mà Tạo hóa được hanh thông. Con em hùng liệt hạng tướng, công. Bạc vàng súc tích đầy rương tráp, tự mình chẳng biết vì đâu giàu. Chồng vợ vui mừng nói chẳng hết lời. BẾP SỐ 48: BẾP LY PHỐI VỚI CỬA TỐN (Đây là Bếp Thiên y đắc vị. ở Kinh Dịch là quẻ Hỏa Phong Đỉnh). - Bếp Ly Âm Hỏa phối Cửa Tốn Âm Mộc là Hỏa Mộc tương sanh làm ra Bếp Thiên y đắc vị rất tốt: phụ nữ tạo nên gia nghiệp, phố xá, điền địa, của cải đều đặng phong hậu, người trong nhà hay làm việc phúc đức. Nhưng vì Ly Tốn thuần Âm chẳng trưởng tấn được cho nên con cháu ít oi, cô dì sanh tật. Dùng Bếp này lâu năm sẽ bất lợi và sanh các chứng bệnh: phong, lao, đầu nhức, mắt đỏ mà tối tăm, hay đau lặt vặt. - Lại có lời đoán theo quẻ Đỉnh như vầy: Quẻ Đỉnh thuần Âm, lúc đầu có lợi, lục súc hưng vượng, ruộng nhà có thêm. Nhưng về sau con cái khó khăn, phải dùng minh linh, nghĩa tử (xin con họ khác làm con mình). BẾP SỐ 49: BẾP KHÔN PHỐI VỚI CỬA KHÔN (Đây là Bếp Phục vị thất vị. ở Kinh Dịch là quẻ Bát Thuần Khôn). - Bếp Khôn phối với Cửa Khôn là hai Thổ tỷ hòa, mà Thổ thì sanh Kim cho nên tiền của chất đầy nhà, phú quí có dư. Nhưng không khỏi cái hại nhiều Âm mà chẳng có Dương, nữ nhiều nam ít, mẹ già (Khôn) quản lý gia đình, một nhà đàn bà góa, không con thừa tự. - Lại có lời đoán theo quẻ Khôn như vầy: Quẻ Khôn, gia tài hưng vượng trâu, dê, ruộng nương, tơ tằm đều thành thục, trong nhà ổn thỏa, năm này qua năm khác bình yên. Chỉ hiềm một nỗi không con nối dõi dòng họ. BẾP SỐ 50: BẾP KHÔN PHỐI VỚI (Đây là Bếp Thiên y đăng diện. ở Kinh Dịch là quẻ Địa Trạch Lâm). - Bếp Khôn Âm Thổ phối Cửa Đoài Âm Kim, Thổ với Kim tương sanh lại được Thiên y tức Cự môn Thổ tinh đăng diện: tiền tài cùng sản nghiệp tiến lên, nam nữ đều nhân từ và hiếu nghĩa. Nhưng Khôn gặp Đoài là tượng mẹ và con gái ở chung, là tượng thuần Âm chẳng sinh hóa được, phụ nữ nắm giữ gia đình, chồng con bị khắc hại. Tóm lại, lúc đầu đại phát mà về sau lâu bất lợi. - Lại có lời tượng theo quẻ Lâm như vầy: Quẻ Lâm, , mọi sự đều tốt, mưu sinh và động tác đều chẳng sai lầm. Chỉ buồn vì cái đạo nghĩa cùng tận ắt biến sinh ra khác, quyết đoán là cả nam nhân lẫn nữ đều yểu và góa bụa. BẾP SỐ 51: BẾP KHÔN PHỐI VỚI CỬA KIỀN (Đây là Bếp Diên niên đắc vị. ở Kinh Dịch là quẻ Địa Thiên Thái). - Bếp Khôn Âm Thổ phối với Cửa Kiền Dương Kim, Âm Dương có đủ, Thổ với Kim tương sanh, lại được Diên niên đắc vị tức Vũ khúc Kim tinh được ngôi, thố của thịnh vượng, con gái thanh tú. Bậc quân tử quan nhân thì thêm chức tước cùng quan lộc, hàng thường dân thì nhà thêm đông người và tấn phát tiền tài. Thật là một cái Bếp đại kiết, đại lợi. - Lại có lời đoán theo quẻ Thái như vầy: Khôn là Đất, Kiền là Trời. Trời Đất hiệp nhau mà vạn vật sanh thành và hưng thái, ấy là quẻ Thái vì thế: gia đọa vinh xương, phu phụ đồng đều hiếu nghĩa và hiền lương. Người mẹ cải tạo cho trăm việc tốt lành là bởi Khôn ngộ kiết tinh (Diên niên). Vậy nên: mừng tốt tới đầy của, phúc lộc chẳng bờ ngăn. BẾP SỐ 52: BẾP KHÔN PHỐI VỚI CỬA KHẢM (Đây là Bếp Tuyệt mệnh – đại hung. ở Kinh Dịch là quẻ Địa Thủy Sư). - Bếp Khôn Thổ khắc Cửa Khảm Thủy, hàng trung nam thọ hại, mang bệnh thũng da vàng rồi chết. Khôn thừa Tuyệt mệnh: mẹ già mang bệnh phong cuồng rồi cũng mạng vong. Các chứng bệnh do Bếp: bệnh cổ trướng, kinh nguyệt chậm trễ, hư thai, bại thận, câm điếc, thân thể gầy khô. Thật là một cái Bếp rất hung hại, khiến cho cả nam lẫn nữ điêu linh, trẻ con khó còn để lớn, các vụ quan pháp cùng miệng tiếng làm rối ren, hại người tổn lục súc… Cứ 3 năm hoặc 5 năm, từng lớp từng lớp ứng hiện các tai họa. - Lại có lời đoán theo quẻ Sư như vầy: Quẻ Sư, thương tổn cả nam lẫn nữ, dưỡng tử bỏ đi đầu quân, tim đau, tê bại, bệnh hoạn đeo thân, năm này qua năm khác cứ thương nhân tổn súc (tổn hại người cùng lục súc). BẾP SỐ 53: BẾP KHÔN PHỐI VỚI CỬA CẤN (Đây là Bếp Sinh khí thất vị. ở Kinh Dịch là quẻ Địa Sơn Khiêm). - Bếp Khôn Âm Thổ phối Cửa Cấn Dương Thổ, hai Thổ có Âm Dương đắp nên bờ lũy. Cũng gọi là mẹ gặp con trai nhỏ (Khôn gặp cấn) là tượng hoan hỉ, mẹ từ thiện con hiếu kính. Lại thừa Sinh khí tức Thanh long nhập trạch, tích tụ đa số tiền tài và trân bửu. Nhưng hiềm Sinh khí Mộc thất vị, khắc cả Khôn và Cấn Thổ cho nên: lúc đầu thịnh vượng, lúc giữa suy dần, dùng lâu sau sanh bệnh thũng da vàng, tim bụng đau nhức. - Lại có lời đoán theo quẻ Khiêm như vầy: Quẻ Khiêm nhiều phú quí, nhiều hưng vượng, lục súc và tiền tài đều phát đạt. Hai năm hoặc năm năm khởi tạo nên gia nghiệp, lại nổi danh về thư sách và khoa giáp, người người đều đặng may tốt chẳng sai, người người đều hiền lương mà khởi làm nên nhà cửa, mẹ già luyến yêu con trẻ. Chỉ buồn vì mẫu thân bệnh chết lâu xa rồi con nhỏ mới trưởng thành. BẾP SỐ 54: BẾP KHÔN PHỐI VỚI CỬA CHẤN (Đây là Bếp Họa hại – hung táo. ở Kinh Dịch là quẻ Địa Lôi Phục). - Cửa Chấn Mộc khắc vào Bếp Khôn Thổ là ngoài khắc vào trong, sự thể trọng đại, lão mẫu là chính nhân bị tổn thương. Ngoài ra còn âm nhân và tiểu nhi mang u bướu ngực, phụ nữ bệnh huỳnh đản, trưởng tử nghịch với mẹ và hại nhục đàn em, cờ bạc, tham lam, phá gia bại sản. Lại còn sanh ra các bệnh yết hầu ủng tắc (nghẹt), hơi độc xung lên tim, bụng dạ dày bành trướng không còn muốn ăn uống. Chết người hết của là cái Bếp này. - lại có lời đoán như vầy: Chấn Mộc khắc Khôn Thổ, trưởng nam là kẻ đáng sợ vì nó nghịch mẹ hại em không còn tự do. Lão mẫu vì nhiều nguyên nhân mà mang bệnh huỳnh đản rồi chết, tiểu nhi sanh u bướu tại sau đầu, âm nhân bị tổn thương. Ruộng, tằm, ngũ cốc trồng không chín. Trẻ con cùng lục súc đáng ngại thay. Khá thương nhân khẩu lắm phen tổn hại. BẾP SỐ 55: BẾP KHÔN PHỐI VỚI CỬA TỐN (Đây là Bếp Ngũ quỷ – đại hung. ở Kinh Dịch là quẻ Địa Phong Thăng). - Bếp Khôn Âm Thổ bị Cửa Tốn Âm Mộc khắc biến thành Bếp Ngũ quỷ rất dữ tợn. Nó gây hại cho mẹ già nhiều nhất. Lại thuần Âm khiến cho nam tử đoản thọ. Bà với cháu bất hòa. Đây là kiểu Bếp cô quả, tuyệt tự, dâm loạn mà không người chủ quyền. Các chứng bệnh sanh ra là ăn uống nghẹn khí, nấc cục, phù thũng da vàng bệch, bụng to vì bị thủy trướng. Lại còn những sự bất lợi như: tai hại về quan pháp, phỏng cháy, sự hại đến bất ngờ hại tới nhân mệnh, đọa tặc từ phương Đông nam xâm nhập, vì các vụ nơi công môn mà phá tán tiền bạc, gây họa liên chiền tới 4 người, tới 5 người chưa thôi. Các năm Dần Ngọ Tuất hoặc tới năm tuổi của người nào trong nhà thì người ấy lâm tai họa. - Lại có lời tượng ứng theo quẻ Thăng như vầy: Quẻ Thăng, âm khí thịnh lên thái quá cho nên tà quỷ nhập vào nhà làm hung dữ. Một nhà quả phụ náo loạn lên như oửa sấy đốt đến khô khốc. Đáng sợ vì Thần trong nhà chẳng yên (Thần là nói chung thần thánh, các vị được thờ phượng trong nhà). BẾP SỐ 56: BẾP KHÔN PHỐI VỚI CỬA LY (Đây là Bếp Lục sát – hung táo. ở Kinh Dịch là quẻ Địa Hỏa Minh Di). - Bếp Khôn Âm Thổ bị Cửa Ly Âm Hỏa đốt làm cho đất khô rang, lại Khôn với Ly thuần Âm cho nên: nam nhân thọ tổn, làm khiếm khuyết con cái, tổn hại nhân khẩu. Hàng trung nữ bệnh đau máu, mắt tật, tim đau nhức, sản lao, kinh nguyệt trồi sụt bất thường. Lão mẫu bị phong cuồng, thủy thũng, huỳnh đản. Lại còn có các vụ đào tẩu (chạy trốn) của nam nữ rất bất lợi. - Lại có lời đoán theo quẻ Minh Di như vầy: Quẻ Minh Di, gia trưởng bất lợi. Nghĩa tử và hàng dương nhân mạng vận trái sai. Âm nhân làm loạn gia tài, gây rối trong nhà. Các việc tai hại do quẻ Minh Di ứng làm bại hoại một cách mau lẹ. BẾP SỐ 57: BẾP ĐOÀI PHỐI VỚI CỬA ĐOÀI (Đây là Bếp Phục vị. ở Kinh Dịch là quẻ Bát thuần Đoài). - Bếp Đoài phối Cửa Đoài là hai Kim tỷ hòa tất gia đọa hưng long. Nhưng vì Đoài Đoài thuần Âm chẳng sanh hóa được, con cháu hiếm hoi, thành nhỏ hại lớn, thiếu phụ chuyên quyền làm rối loạn trong nhà chẳng mấy lúc được yêu, hoặc bệnh tật u bướu làm hại tim, dạ dày nhiễm bệnh biếng ăn. - Lại có lời đoán theo quẻ Đoài như vầy: Quẻ Đoài có phát tiền tài và sản nghiệp. Hiềm vì dư Âm mà không có Dương tất nhà không chấn chỉnh, âm nhân nhiễu loạn và chấp chưởng quyền hành. BẾP SỐ 58: BẾP ĐOÀI PHỐI VỚI CỬA KIỀN (Đây là Bếp Sinh khí thất vị. ở Kinh Dịch là Quẻ Trạch Thiên Quyết). - Bếp Đoài Âm Kim phối Cửa Kiền Dương Kim, Âm Dương toại kết, hai Kim tỷ hòa: gia đọa thuận hòa nhiều đẹp ý, nhân khẩu và tiền tài đều thịnh vượng, phú và quí song toàn. Bếp Sinh khí tức Thanh long nhập trạch: nhà sản xuất bậc văn nhân, tú sĩ, sanh 4 con trai thành lập vững vàng. Duy Đoài phối Kiền tượng thiếu nữ đồng sàn với lão ông tất vì sủng ái mà giao hết quyền hành cho vợ trẻ nắm chẳng phải điều hay. Do chỗ đó và do Sinh khí Mộc lâm Đoài Kim thọ khắc (thất vị) và Bếp này chỉ được liệt vào hạng Bếp tốt hạng nhì (thay vì hạng nhất). - Lại có lời tượng đoán theo quẻ Quyết như vầy: Quẻ Quyết, tiền tài thịnh vượng, nhà phát phước. Lão Dương (Kiền) với Thiếu âm (Đoài) đồng giường, nhân đinh mậu vượng (người thêm đông), gia nghiệp thịnh tiến. Nhưng vì được sủng ái (yêu mê) mà vợ thứ khinh khi người lớn. BẾP SỐ 59: BẾP ĐOÀI PHỐI VỚI CỬA KHẢM (Đây là Bếp Họa hại – hung táo. ở Kinh Dịch là quẻ Trạch Thủy Khổn). - Bếp Đoài Kim phối với Cửa Khảm Thủy biến thành Bếp Họa hại. Thủy là nước chảy mài mòn kim khí (Đoài), hàng thiếu nữ và trung nam (Khảm) chịu ảnh hưởng bất lợi vì cái Bếp này. Lại người suy bại, âm nhân băng huyết lọt thai, nam nhân thổ huyết, thủy trướng, di tinh, tim đau nhức. - Lại có lời đoán theo quẻ Khổn như vầy: Quẻ Khổn, tổn hại nhân đinh, sanh xảy ra nhiều việc bất ngờ, phải hao tài tán của, tật bệnh đến không chừng đỗi, trộm cướp và quan pháp nhiễu nhương. BẾP SỐ 60: BẾP ĐOÀI PHỐI VỚI CỬA CẤN (Đây là Bếp Diên niên đăng diện. ở Kinh Dịch là quẻ Trạch Sơn Hàm). - Bếp Đoài Âm Kim phối Cửa Cấn Dương Thổ là Âm Dương chính phối tương sanh: vợ chồng hòa thuận, giàu có và sang trọng được cả hai, người cùng tài năng đều thịnh vượng. Bếp Đoài Kim thừa Diên niên Kim tỷ hòa đăng diện, tức được Vũ khúc Kim tinh chiếu diệu là một cái Bếp hoàn toàn tốt. - Lại có lời đoán theo quẻ Hàm như vầy: Quẻ Hàm, núi với đầm ăn thông mạch lạc: chính phối hôn nhân, vợ chồng thuận hòa đồng là đôi lứa thiếu niên đẹp đẽ. Nữ chuộng điều trinh khiết và từ thiện, nam thì đúng mực tài hoa đã trung lương lại rất nhân nghĩa. BẾP SỐ 61: BẾP ĐOÀI PHỐI VỚI CỬA CHẤN (Đây là Bếp Tuyệt mệnh – đại hung. ở Kinh Dịch là quẻ Trạch Lôi Tùy). - Bếp Đoài khắc Cửa Chấn Mộc, trước gây thương tổn cho trưởng tử và trưởng tôn, sau làm hại tới thiếu nữ và trưởng nữ. Người cùng tiền của đều bại tuyệt. Oan khí uất kết trong nhà, sanh các chứng bệnh cổ họng bành trướng, tim đau, lưng nhức. Lại còn có những vụ tự vận như thắt cổ trầm sông, nhảy giếng, chết cách hung tợn, những việc bất ngờ xảy đến có án mạng khiến cho khuynh gia bại sản. Hoàn cảnh gia đình là con côi mẹ góa, phụ nữ nắm giữ cửa nhà. - Lại có lời đoán theo quẻ Tùy như vầy: Quẻ Tùy, làm thương tổn trưởng nam và trưởng nữ, quan pháp làm khổ lụy thân, người lâm bệnh, chết. Về sau không con thừa tự, thường hay có sự bi thương, sầu thảm, trong nhà hung khí dậy lên gây nên việc chẳng lành. BẾP SỐ 62: BẾP ĐOÀI PHỐI VỚI CỬA TỐN (Đây là Bếp Lục sát – hung táo. ở Kinh Dịch là quẻ Trạch Phong Đại Quá). - Bếp Đoài Kim phối Cửa Tốn Mộc, Kim với Mộc hình chiếu nhau sanh các chứng bệnh ho hen, phong cuồng, tim và mông đều đau nhức, Lại xảy ra các vụ tự ải (treo cổ), máu chảy, lửa cháy, trộm cắp, dâm đãng, trốn tránh. Đoài với Tốn tương khắc lại thuần Âm cho nên hiếm con nối dòng, tổn hại nam nhân, thương hại phụ nữ. Đến các năm Tỵ Dậu Sửu thì sanh tai họa. - Lại có lời đoán theo quẻ Đại Quá như vầy: Quẻ Đại Hóa, trong nhà gian nan, lầm lỗi. Tổn hại nhân khẩu chẳng chừa một người, lục súc chết mất chừng hết mới thôi. Hết thảy các tai hoạn có minh sư cũng chẳng cứu được khỏi (ý bảo phải đổi Bếp khác mới khỏi). BẾP SỐ 63: BẾP ĐOÀI PHỐI VỚI CỬA LY (Đây là Bếp Ngũ quỷ – đại hung. ở Kinh Dịch là quẻ Trạch Hỏa Cách). - Cửa Ly Hỏa khắc Bếp Đoài Kim, trước hại phụ nữ ấu thơ, sau hàng nam nhân (thuần Âm), trộm cướp phá khuấy, quan quyền làm khó, gái nhỏ rất gian nan. Các chứng bệnh xảy ra như: đau đầu mắt đỏ,, tim mê mệt, mất ngủ, ho lao, thổ huyết, sanh đẻ khó khăn. Cái Bếp Ngũ quỷ này hung hại chẳng vừa, nó khiến cho tiêu bại sản nghiệp, tuyệt tự, phạm đến sinh mạng, phụ nữ làm loạn, gia đọa chẳng yên. - Lại có lời đoán theo quẻ Cách như vầy: Quẻ Cách, lâm vấp quan hình, tai họa bất ngờ, các vụ máu lửa kinh sợ, ăn uống hại thân, phụ nữ làm càn bậy, đứt hậu con cháu. Đáng thương thay một cửa tận tuyệt. BẾP SỐ 64: BẾP ĐOÀI PHỐI VỚI CỬA KHÔN (Đây là Bếp Thiên y đắc vị. ở Kinh Dịch là quẻ Trạch Địa Tụy). - Bếp Đoài Kim phối Cửa Khôn Thổ là Kim với Thổ tương sanh, mẹ với con gái sống chung một nhà, mẹ già cầm cán gia đình, tài sản một ngày một vượng. Nhà hay làm phúc thiện (tánh cách của Thiên y), mẹ quá thương yêu thiếu nữ và tiểu nhi, rất ít con cháu, tâng trọng con rễ. - Lại có lời đoán theo quẻ Tụy như vầy: Quẻ Tụy, tiền tài phát đạt mà con cái muộn màng. Đoài Khôn thuần Âm nên Âm thắng Dương suy, phụ nữ chủ trương nam nhân thuận ý, âm nhân quản trị gia đình. (Chú ý: Phàm là Bếp Thiên y chẳng thuần Âm thì cũng thuần Dương. Vì vậy chỉ tốt lúc đầu. Nhưng Thiên y đăng diện hay đắc vị thì mới nên dùng mốt thời gian lối 10 năm, bằng thất vị chỉ nên dùng lối 5 năm rồi đổi qua dùng Bếp Diên niên hay Bếp Sinh khí có đủ Âm Dương, phát bền hơn). HẾT DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU1 like