-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 14/08/2012 in Bài viết
-
Con gái đầu hợp mẹ, ko hợp cha. Lúc bé sức khỏe ko đc tốt. Bố làm ăn chật vật. Nhà anh chị sinh con út 2016 đc là tốt nhất.2 likes
-
Chưa đâu, còn một loại bàn nữa - tôi không biết tên thật gọi là gì. Nhưng mẹ tôi kể - Dưỡng Mẫu - trước năm 45 nhà tôi (hoặc họ hàng rất gần nhà tôi - tôi không nhớ vì lúc đó tôi còn bé quá) có một cái bàn hình tam giác, gọi trong nhà là cái bàn "lộc cộc". Cái bàn này theo mẹ tôi mô tả nó có mặt bàn hình tam giác và ba chân. Khi cần hỏi điều gì chỉ cần ba người đặt tay lên ba góc bàn. Cái bản chỉ trả lời theo kiểu "được" hay "không được", "có" hay "không có". Khi đặt câu hỏi thường là : "Nếu có (Hoặc được) thì bàn nhấc chân phía bàn tay của người này, không có (Hoặc không được) thì bàn nhấc một trong hai chân còn lại . Sau khi mọi người đặt tay lên ba cạnh bàn và được hỏi, cái bàn nhấc chân này, chân kia kêu lộc cộc (Nên gọi là bàn lộc cộc) . Lộc cộc như thế một lúc thì nó dừng lại với một chân bàn nhấc lên trả lời câu hỏi. Sau cuộc chiến 1946, tản cư, nhà tôi mất chiếc bàn này.Điều này còn hấp dẫn hơn nhiều với cái bàn xoay kia. Vì nó có dấu hiệu tương thích với ý thức con người . Còn trả lời đúng sai tính sau. Hình như gấn đây báo chí cũng có nói đến cái bàn này. Tôi ko chắc chắn lắm vì không quan tâm vào lúc đó. Nhưng tôi tin cái bàn lộc cộc này hoàn toàn đã hiện hữu.2 likes
-
Kính thưa quí vị. Bài viết này tôi đã viết từ tháng 9. 2008. Một số thành viên chủ chốt của diễn đàn thời ấy đã xem bài viết này và nó chỉ lưu hành nội bộ. Đáng nhẽ ra tôi sẽ không công khai nội dung của nó lên đây. Nhưng trước tình hình diễn biến phức tạp ở biển Đông hiên nay và nội dung bài viết lúc đó cho thấy những phán đoán của tôi đã chính xác cho đến lúc này. Những diễn tiến tiếp theo sẽ ra sao trước sự phức tạp của sự tranh chấp biển Đông hiện nay đã cho tôi thấy cần phải phân tích sâu hơn và hoàn chỉnh bài viết với sự phân tích có tính khách quan và như một lời tiên tri,nhằm mục đích chia sẻ cảm nghĩ của mình với quí vị và anh chị em. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em. =================== VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG BẮT ĐẦU TỪ MỘT BÀI VIẾT Vào đầu tháng 9 . 2008 trên các phương tiện thông tin đại chúng đểu nói tới một kế hoạc tấn công Việt Nam của Trung Quốc và một số báo mang đăng bài phản đối của Việt Nam. Đây chính là tiền đề cho tôi viết bài này. Nội dung bài viết đó như sau: Ông Dũng nói: “Đây là thông tin không thích hợp, đi ngược lại xu thế hòa bình, hữu nghị và hợp tác vì phát triển trong khu vực và trên thế giới cũng như lợi ích của quan hệ tốt đẹp sẵn có giữa Việt Nam và Trung Quốc.” Ông nói thêm rằng Trung Quốc đã tiếp nhận yêu cầu của Việt Nam và tuyên bố bài viết này “không phản ánh quan điểm của Chính phủ Trung Quốc”. Bài viết về 'Phương án A' hiện vẫn nằm trên Sina.com. Ông Tống Hiểu Quân, một chuyên gia quân sự ở Bắc Kinh được trích lời mô tả kế hoạch xâm lược Việt Nam ‘Phương án A’ là một trò đùa. Ông nói: "Đây chỉ là trò chơi mang tính nghiệp dư và không có giá trị quân sự nào cả”. Tuy nhiên ông Tống cũng nói ở hai nước vẫn còn nhiều người chưa quên được các hiềm khích cũ. "Trung Quốc và Việt Nam có hệ thống chính trị tương đồng và cần đoàn kết để chống lại Hoa Kỳ, là kẻ thù chung của cả hai nước. Rõ ràng Mỹ đang chơi kế ly gián Việt Nam và Trung Quốc”. Đánh Việt Nam? Chuyên gia quân sự Tống Hiểu Quân nhận định: “Người biết suy nghĩ ở cả hai nước đều hiểu rõ rằng Trung Quốc và Việt Nam là đồng minh. Trung Quốc không có lý do gì để nghĩ tới việc xâm lược Việt Nam vì cần làm bạn với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam và Bắc Triều Tiên”. Ông nói chính phủ Bắc Kinh cần rút kinh nghiệm từ việc này và phải có trách nhiệm hướng dẫn dư luận đồng thời giải thích quan điểm chính thức một cách rõ ràng. “Chính quyền không nên để những kẻ gây rối có cơ hội đồn đoán gây hại.” Bài ‘Quân Đội Trung Quốc hãy dùng Phương án A để tấn công VN!’ xuất hiện trên mạng từ đầu tháng Tám trên một số trang mạng bàn về chủ đề quân sự tại cả Trung Hoa lục địa và Hong Kong. Tuy nhiên nó gây sự chú ý nhất từ khi được đăng tải trên trang sina.com có lượng truy cập lớn. Đây là diễn đàn trao đổi không chính thức, tuy về nguyên tắc nhà nước Trung Quốc kiểm duyệt nội dung. Mới đây có tin chừng 280 nghìn người được Bắc Kinh trả tiền để vào các diễn đàn nhằm đăng các ý kiến có lợi cho đảng Cộng sản. Ngoài bài viết kể trên, trong thời gian gần đây, cũng có nhiều bài khác mang nội dung khơi gợi chiến tranh với Việt Nam lưu hành trên các trang mạng và blog của Trung Quốc. Một số bài mang tựa đề khiêu khích như: ‘Chiến tranh với Việt Nam, sự lựa chọn chiến lược’ hay ‘Chúng ta cần gấp chiến tranh’. QUAN HỆ TRUNG QUỐC & HOA KỲ Mục đích cuối cùng của tôi là chứng minh lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm, nhân danh khoa học. Bởi vì, "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học quốc tế", đã tập hợp lại, phủ nhận lịch sử văn hóa Việt. Vũ khí của họ là «Pha học». Tôi đã bước vào cuộc chơi thì phải chấp nhận luật chơi: Tức là cũng nhân danh khoa học thực sự để chỉ ra những sai lầm rất căn bản trong lập luận của họ. Khoa học thì tất yếu phi chính trị. Bởi vậy, trước sau như một – quân tử thì không trái lý – tôi tiếp tục nhân danh khoa học để bảo vệ luận điểm của mình. Đó là lý do tôi không muốn dây dưa về mặt chính trị. Nhưng điều đó, không có nghĩa rằng tôi không có khả năng tư duy chính trị. Thiên Sứ tôi đã chứng minh rằng: «Thuyết Âm Dương Ngũ hành là lý thuyết thống nhất vũ trụ». Tất nhiên nó bao trùm luôn cả chính trị và khả năng tiên tri. Tôi cũng đã thẳng thắn nói rằng: Bản chất của cái trò hề «nhân danh khoa học» phủ nhận giá trị lịch sử văn hiến Việt ấy, chính là một trò chơi chính trị ở tầm mức quốc tế. Những thế lực chính trị quốc tế đã đi đêm với nhau từ 40 năm trước và nạn nhân của nó chính là lịch sử văn hóa Việt trải 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Đến bây giờ, nó nổi lên ở Biển Đông như phần ngọn của tảng băng chìm. Đây chính là bài bình luận chính trị đầu tiên và có thể là duy nhất của tôi về vấn đề Biển Đông với mối quan hệ Trung – Mỹ - trong đó có vấn để lịch sử văn hóa Việt 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Tất nhiên tôi sẽ phân tích như một nhà quan sát khách quan cho mọi diễn biến đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy ra. CUỘC ĐỤNG ĐỘ NGÀY 8 – 3 – 2008 Trước khi cuộc đụng độ xảy ra, người Trung Quốc đã có nhã ý chia sẻ gánh nặng an ninh với Hoa Kỳ ở phần phân nửa phía Tây Thái Bình Dương. Nhưng vị đô đốc Hải Quân Hoa Kỳ đã từ chối không mấy lịch sự. Và sau đó là cuộc đụng độ đã xảy ra. Vụ việc này khiến có thể một số chính phủ đang đòi quyền lợi ở Biển Đông – vốn là đồng minh cũ của Hoa Kỳ - hy vọng Hoa Kỳ đứng ra bảo vệ họ trước sự tranh chấp với một quốc gia hùng mạnh cũng đòi quyền lợi ở đây là Trung Quốc. Thực ra đây chỉ là một trò vụng về của một thủ đoạn chính trị không mấy sắc sảo, hoặc chí ít nó được lợi dụng để thực hiện những âm mưu chính trị. Nhưng sự kiện tiếp theo liên tiếp xảy ra trong thời gian cực ngắn: Đô đốc tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ - vừa mới đến thăm Việt Nam với những phát biểu hùng hồn về những triển vọng hợp tác – sắp sửa chuyển công tác khác hoặc về vườn; Hãng dầu BP rút khỏi Việt Nam vì lý do kỹ thuật ; Tổng thống Hoa Kỳ - Ngài Obama – đã chứng tỏ một nhã ý hòa giải với Trung Hoa, Chủ tịch Trung Quốc – Ngài Hồ Cẩm Đào có nhã ý mời Chủ Tịch nước Việt – Ngài Nguyễn Minh Triết sang thăm Bắc Kinh. Có thể nói trong các quan hệ chính trị quốc tế thì chưa lần nào lại có nhiều hiện tượng liên quan diễn biến nhanh như vậy. Các siêu cường muốn gì ở đây? Tại sao người Trung Quốc lại ngang xương đòi Hoa Kỳ chia đôi Thái Bình Dương. Một chuyện có tầm chiến lược toàn cầu như vậy mà để cho hai người lính với hàm tướng nói chuyên khơi khơi vậy sao ? Để hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề này, Thiên Sứ tôi nhắc lại những sự kiện từ 40 năm trước. RƯỢU MAO ĐÀI NHẬU VỚI LƯỠI CHIM SẺ. Đấy là tin đồn vỉa hè của các chính trị gia cấp phường ở Việt Nam trong các quán trà 5 xu – tụ điểm của dân chơi Hà Thành thời bấy giờ - mô tả về một tiệc nhậu hoành tráng trong Tử Cấm Thành Pekin do ngài Mao Trạch Đông chiêu đãi Tổng thống Hoa Kỳ - ngài Nixon vào năm 1971. Sau cuộc nhậu này, Đài Loan với quốc hiệu là Trung Hoa Dân quốc, thành viên sáng lập Liên Hiệp Quốc với tư cách là một quốc gia, bị tống cổ khỏi Liên Hiệp Quốc. Cuộc chiến Việt Nam chấm dứt. Hai mươi năm sau nữa, Liên bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết – gọi tắt là Liên Xô – cũng sụp đổ. Trước khi chấm dứt cuộc chiến ở Việt Nam, có một hiện tượng ngoạn mục là Tổng Thống Nixon bị hạ bệ vì vụ Water gate. Không lật đổ được tổng thống Nixon thì cuộc chiến Việt Nam sẽ còn dây dưa. Bởi vì, vị tổng thống này đã có quá nhiều cam kết - nhưng chỉ bằng miệng (Xin lưu ý điều này) - nhân danh người đứng đầu đất nước Hoa Kỳ với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo. Nhưng những cam kết này không có văn bản chính thức có tính pháp lý. Việc hạ bệ ông Nixon là thủ pháp chính trị đã quảng cáo cho tinh thần dân chủ và thượng tôn pháp luật tại Hoa Kỳ. Nhưng nguyên nhân sâu xa của nó chính là Hoa Kỳ cần chấm dứt cuộc chiến tốn kém, vô bổ này một cách nhanh chóng , để những chiến lược quốc tế được thực hiện, nhằm xóa sổ đối thủ hàng đầu của Hoa Kỳ - Liên bang Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Việt - mà ngài Nixon lại có quá nhiều ràng buộc bởi những lời hứa công khai cam kết theo đuổi chiến tranh đến cùng với tư cách Tổng thống Hoa Kỳ. Lịch sử sang trang ở Việt Nam. Nước Việt Nam thống nhất với người đồng minh của mình – Liên bang Công Hòa Xã Hội chủ nghĩa Xô Viết – cũng là đối tượng được nhắc nhở đến trong men rượu Mao Đài nhậu với lưỡi chim sẻ. SÁCH TRẮNG CỦA TOÀ ĐẠI SỨ LIÊN XÔ TẠI HANOI. Vài năm trước những sự kiện trên, ở Hanoi ầm ĩ về việc bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc. Đại sứ quán cả hai nước thi nhau bỏ công quĩ của nhà nước – tức của nhân dân - in sách tố cáo nhau không phải là những người cộng sản chân chính. . Hàng sọt sách, nói theo tiếng Bắc – tiếng miền Nam gọi là « cần xé » - được đặt ở Đại Sứ quán hai nước, bằng tiền của nhân dân. Và nó được phát không cho tất cả những người dân Việt có dịp đi ngang qua đây Người Trung Quốc có sáng kiến bọc sách của mình trong một cái bao bìa sách bằng ni lông cứng màu đỏ. Những dân chơi sành điệu ở Hanôi bấy giờ phát hiện ra rằng, chỉ cần bỏ cái ruột thì chính cái vỏ bao nilon đó dùng làm ví đựng tiền rất đẹp. Họ rủ nhau đến tòa Đại sứ Trung Quốc để lấy ví đựng tiền. Thế là sách của tòa Đại sứ Trung Quốc được tiêu thụ như tôm. Ít nhất từ cổng tòa đại sứ ra đến vỉa hè bên kia vườn hoa Canh Nông (Bây giờ gọi là vường hoa Lê Nin). Tất nhiên những lực lượng an ninh của Việt Nam cũng có những biện pháp ngăn chặn một cách kín đáo việc tiếp nhận những cuốn sách này. Nội dung các cuốn sách đó, bây giờ chắc chẳng ai buồn nhớ. Nhưng có một chi tiết đáng chú ý trong một cuốn sách của tòa đại sứ Liên Xô, liên quan đến bài viết này mà tôi được xem vào lúc bấy giờ. Tôi còn nhớ chi tiết đó, vì nó rất ấn tượng. Lâu quá rồi, hơn 40 năm đã trôi qua. Ngày ấy, tôi còn rất trẻ. Tôi có một thói quen dễ ghét là đến chơi nhà bạn bè, sau vài ba câu xã giao thì tôi lục trong tủ sách của nó, xem có cuốn nào hay thì ngồi xem cả buổi. Nếu có đông bạn bè cùng đến chơi thì việc làm của tôi, chúng nó không quan tâm. Thậm chí nó mời tôi ăn cơm là chuyện của nó, còn tôi vừa ăn vừa xem sách là chuyện của tôi. Nhưng nếu chỉ có mình tôi thì cử chỉ lịch sự nhất mà bạn tôi dành cho tôi là – giật lấy cuốn sách không cho tôi xem – «Mày thích tao cho mày mượn đem về. Còn bây giờ mày nói chuyện với tao đã chứ ». Tôi cũng chỉ cười hề hề và vui vẻ cất cuốn sách vào túi, vì bạn tôi đã hứa cho mượn. Nói thế chứ các bạn tôi quí tôi lắm, vì ngoài cái tính xấu ấy ra thì tôi chơi với bạn tôi khá chân tình. Đến bây giờ sau hơn 40 năm xa cách, chúng tôi vẫn dành tình cảm quí mến cho nhau. Cuốn sách của Tòa Đại sứ Liên Xô tôi đã xem trong hoàn cảnh này. Cuốn sách có đoạn viết – tôi không thể nhớ chính xác nguyên văn - nhưng có nội dung như sau : « Các đồng chí Trung Quốc đã đi ngược lại nguyện vọng thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam. Họ đã ủng hộ chủ trương quốc tế hóa Đông Dương với các thế lực tư bản quốc tế ». Việt Nam đã thống nhất và không phải là bị quốc tế hóa, đồng thời là một đồng minh của Liên Xô với hiệp ước quân sự bảo vệ và hỗ trợ nhau. Lịch sử đã diễn ra như vậy. Bởi vậy, sau cơn say máu của cuộc chiến, những quốc gia đồng minh - đối thủ của Liên Xô cũ - đã coi Việt Nam như một đối tượng cần xử trí. Việc xóa sổ 5000 năm văn hiến Việt là một đòn chí mạng, rất thâm độc đánh vào ý chí gan góc, bền bỉ và quật cường của dân tộc Việt. Đó cũng là lý do để Thiên Sứ tôi cảnh báo rằng: Các thế lực chính trị âm mưu toan tính cái gì thì đừng có lấy nền văn hiến Việt làm phương tiện thực hiện thủ đoạn chính trị. Một dân tộc được xác định chính bởi những giá trị văn hóa và lịch sử lập quốc của họ. Nhưng Liên bang Xô Viết đã sụp đổ. Dân tộc Việt đang phải gồng mình để tồn tại với hoàn cảnh lịch sử hiện nay. Đến hôm nay thì một loạt những sự kiện đã xảy ra. Các siêu cường đang muốn gì ở đây? BÁ CHỦ THẾ GIỚI. Liên Xô đã sụp đổ, chiến tranh lạnh chấm dứt. Trung Quốc – một đồng minh rất quan trọng trong việc đối đầu với Liên Xô, nhưng không có một hiệp định có hiệu lực pháp lý trong chiến lược toàn cầu, so với các đồng minh truyền thống khác của Hoa Kỳ - đã mạnh lên về kinh tế vì được hưởng những ưu đãi trong thương mại và nổi lên như một quốc gia siêu cường gây ảnh hướng với thế giới. Đó là lý do mà Trung Quốc muốn chia phần với Hoa Kỳ ở phía Tây Thái Bình Dương. Làm gì có một người lính – dù mang quân hàm cấp tướng – sương sương đòi chia đôi cả một Đại Dương như vậy. Quên nhanh! Nói theo lối hàng chợ của bà bán cá chợ Bắc Qua. Nhưng sự đòi hỏi này có nguyên nhân sâu xa từ những thỏa thuận không chính thức trong một chiến lược toàn cầu từ gần 50 năm trước - Khi Liên Xô còn là một siêu cường đối đầu với Hoa Kỳ. Cũng vào thời điểm của gần 50 năm trước - vào những năm đầu của thập niên 60, tình báo Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng: Những lãnh tụ đảng Cộng Sản Trung Quốc mang nặng tinh thần dân tộc chủ nghĩa, họ không có ý thức quốc tế vô sản. Do đó, mặc dù Hoa Kỳ ký vào hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân với Liên Xô, nhưng Trung Quốc vẫn thành công trong việc thử bom hạt nhân vào năm 1967. Thực ra, Trung Quốc có tham vọng hạt nhân từ lâu và muốn Liên Xô chia sẻ. Nhưng Liên Xô chẳng ngọng gì thân tặng một anh bạn ngay sát nách của mình thứ vũ khí mà đôi khi do trục trặc kỹ thuật, nó có thể rơi xuống điện Cẩm Linh. Họ lấy lý do tôn trọng hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân đã ký với Hoa Kỳ để từ chối. Còn với Hoa Kỳ thì việc Trung Quốc có vũ khí hạt nhân không có vấn đề gì. Bởi Trung Quốc bấy giờ chưa thể đem bom hạt nhận giộng xuống nước Mỹ. Tuy vẫn có thể đánh rơi vào những nước chung quanh như Liên Xô chẳng hạn. Tất nhiên hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân vẫn được tôn trọng, bởi những chính khách rất nghiêm nghị để tỏ ra chín chắn với những quyết định là cứ từ đúng trở lên. Nhưng chắc chắn nó thiếu một điều khoản là : « Không cho phép tình báo các quốc gia khác ăn cắp bí mật hạt nhân ». Và tất nhiên, những quốc gia cần có vũ khí hạt nhân để gọi là « cân bằng sinh thái» trong hoàn cảnh lịch sử nào đó, vẫn lấy được những bí mật này với những trò ma quái, hoặc làm ngơ của các cơ quan an ninh. Một vài tên gián điệp ngớ ngẩn bị bắt – tùy theo quốc gia dân chủ hay độc tài – mà bản án nặng hay nhẹ. Về mặt lý thuyết thì Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân vẫn được các chính khách tôn trọng với một vẻ mặt trang nghiêm và tỏ ra đứng đắn, khi khẳng định hiệu lực của nó đến ngày hôm nay. Nhưng trên thực tế, nó vẫn phổ biến đến mức các tổ chức khủng bố loi nhoi cũng có thể làm ra vài quả bom bẩn. Trung Quốc đã trở thành một siêu cường và tham vọng ảnh hưởng khu vực và thế giới xuất hiện. Nhưng cái siêu cường Đông phương mới nổi này đã quên mất một điều rất quan trong là : Vai trò lịch sử của họ trong chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ đã hết, ngay sau khi Liên Xô sụp đổ. Hoa Kỳ cần thời gian dọn dẹp lại thế giới với tư cách siêu cường số một hành tinh. Nếu những nhà lãnh đạo Trung Quốc khôn ngoan và khiêm tốn hơn thì lịch sử có thể diễn biến khác đi một tý. Thiên Sứ có thể đoán sai. Nhưng rất tiếc, họ đã bộc lộ tham vọng quá sớm. Bởi vậy, đối tượng tiếp theo cần xử lý của Hoa Kỳ chính là nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa vĩ đại. So với mấy nước đang có tham vọng hạt nhân như Bắc Triều Tiên, Iran thì chính Trung Quốc là nguy cơ hơn nhiều trong việc đe dọa vai trò bá chủ của Hoa Kỳ. Mấy nước kia – với sức mạnh của Hoa Kỳ - cái đá thì thừa, mà cái đấm có thể hơi thiếu. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể biết đến điều này. Nhưng qua cách ứng xử của họ với các quốc gia lân bang, Thiên Sứ tôi có cảm giác họ không quan tâm. Hoặc họ đã mắc những sai lầm có tính chiến lược mà họ cứ tưởng là đúng. SAI LẦM CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC. Phàm muốn làm bá chủ việc trước tiên phải có một tiềm lực kinh tế và quân sự đủ mạnh. Cái này Trung Quốc có rồi. Nhưng vấn đề tiếp theo là ảnh hưởng đến đâu thì còn tùy theo tiềm lực kinh tế đến đâu. Mấy bá chủ cơm, loi nhoi vài nước lân bang , nhược tiểu thì chỉ cần ảnh hưởng kinh tế là đủ. Nhưng muốn mần ăn lớn thì phải có bảng hiệu. Đất nước Trung Hoa vĩ đại chưa sắm được cái bảng hiệu đúng với tư cách bá chủ châu Á. Người Nhật muốn làm bá chủ ít nhất cũng đưa được học thuyết Đại Đông Á. Ngay đám giang hồ, muốn tập hợp đàn em cũng phải có khẩu hiệu « Sống chết có nhau », huống chi là những vấn đề quốc tế wan trọng như vậy. Không có bảng hiệu thì muốn làm bá chủ chỉ có cách đấm đá, hoặc mua chuộc những kẻ phản bội lại dân tộc của chính họ. Nói theo lý học Đông phương thì phải chính danh cái đã. Bởi vì đây là thế kỷ 21 với thông tin toàn cầu và các mối quan hệ quốc tế đều có ảnh hướng lẫn nhau. Đây không phải thế kỷ thứ XV để những đội quân viễn chinh như Trương Phụ muốn làm mưa làm gió gì thì làm. Cách đây vài tháng (Tức đầu năm 2008), các trang mạng của Trung Quốc làm ầm ĩ về một kế hoạch tấn công Việt Nam chớp nhoáng. Nếu họ muốn, cũng có thể được trong điều kiên tương quan sức mạnh hai nước. Bước đầu họ có thể chiếm được phần lớn lãnh thổ Việt Nam, cho là như vậy. Nhưng sau đó sẽ ra sao ? Chắc chắn dân tộc này sẽ không chịu thua một cách dễ dàng. Và cũng giả thiết rất thuận lợi cho Trung Quốc là họ chiếm được đất nước này. Nhưng hành động này sẽ đẩy tất các quốc gia Đông Nam Á và vùng chung quanh Trung Quốc thành đối thủ của họ. Cuộc chiến càng man rợ thì hậu quả sẽ càng khốc liệt với Trung Quốc sau này. Nhưng chỉ với thủ pháp chính trị cơm ấu trĩ đó, cũng đủ để các quốc gia liên quan đến biến Đông cảm thấy cần phải liên kết với Hoa Kỳ. Thiên Sứ tôi hy vọng Trung Quốc cần tỉnh táo hơn khi nhìn lại tình trạng của các nước láng giềng quanh họ. Họ không có một đồng minh nào đáng tin cậy. Hoa Kỳ chỉ là một đồng minh tạm thời trong việc đối đầu với Liên Bang Xô Viết. Trung Quốc cần nhớ rằng : Giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc chưa hề có một văn bản chính thức nào liên quan đến việc an ninh của hai nước, ngoại trừ những văn bản chung chung có tính quốc tế. Những hiệp ước an ninh giữa Đài Loan và Hoa Kỳ còn có giá hơn. Thiên Sứ tôi không phải là một chính trị gia, chỉ có tài nói dối vợ để cơm hai bữa, không phải ăn phở. Nên cũng chẳng dám cao giọng với những chính trị gia chuyên nghiệp. Nhưng vì là người Việt, ông cha tổ tiên ăn cơm đất Việt, sống trong lòng dân tộc Việt, « Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách », nên cũng ráng gõ vài chữ trên blog của mình để thành thật khuyên những nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng: Hãy tỏ ra tử tế với Việt Nam và cả các nước láng giếng khác vì quyền lợi lâu dài của chính họ. Có thể còn nhiều giải pháp khác cho quyền lợi liên quan giữa các bên ở Biển Đông và biên giới, nhưng vẫn chứng tỏ được sự tử tế của các quốc gia lân bang với nhau. Vấn đề là phải nghĩ ra điều đó. HOA KỲ TRÊN BIỂN ĐÔNG. Mục đích cuối cùng của Hoa Kỳ là bá chủ thế giới với tư cách là siêu cường số 1. Có thể nói rằng ngay từ khi lập quốc – do tính chất đặc thù của một quốc gia đa văn hóa – nên họ đã hình thành một hình thái ý thức xã hội để liên kết các dân tộc đến từ những nền văn hóa khác nhau trên đất Hoa Kỳ là: Tự do, bình đẳng và bác ái. Trên cơ sở này, pháp luật được coi như cơ sở ràng buộc khách quan với những sinh hoạt xã hội của các thói quen và tập tục từ những nền văn hóa khác nhau. Vị trí địa lý và những sự kiện lịch sử đã đưa Hoa Kỳ thành một siêu cường của thế giới. Nhưng chính hình thái ý thức xã hội, nhằm tập hợp các dân tộc có văn hóa khác nhau trên đất nước Hoa Kỳ lại tạo ra một khuôn mẫu có tính toàn cầu - nếu như các quốc gia muốn chung sống hòa bình với nhau trên hành tinh này. Hoa Kỳ đã có sẵn cái bảng hiệu khá hoàn chỉnh với sức mạnh kinh tế và quân sự, để tạo niềm tin trong việc tập hợp các dân tộc trên thế giới dưới sự lãnh đạo của họ. Vấn đề còn lại là những sách lược chính trị để đạt đến mục đích này. Cho đến lúc này, Hoa Kỳ đã thành công với địa vị siêu cường số một hành tinh và tạm thời chưa có đối thủ. Trong quá trình loại trừ Liên Xô ra khỏi vị trí siêu cường đối đầu với Hoa Kỳ - trở thành một quốc gia Nga, khiếm tốn về kinh tế với những cây thùy dương thơ mộng bên dòng sông Von ga chảy êm đềm có thể gây cảm hứng cho các hồn thơ – thì một đồng minh bất đắc dĩ của Hoa Kỳ đóng vai trò khá quan trong cho việc này. Đó chính là Trung Quốc. Nhưng, ngay từ đầu Hoa Kỳ đã cảnh giác với Trung Quốc, một quốc gia đã đối đầu với Hoa Kỳ ngay từ khi chưa trở thành nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa vĩ đại. Đã hai lần đất nước này có cuộc giao tranh không chính thức với Hoa Kỳ. Lần thứ nhất là loại trừ một đồng minh quan trọng của họ - chính phủ Trung Hoa Dân quốc - ra khỏi lục địa Trung Hoa; lần thứ hai chính là cuộc chiến tranh Triều Tiên. Bởi vậy, quan hệ đồng minh giữa hai quốc gia Trung Mỹ là mối quan hệ của « Dì ghẻ với con chồng ». Đó là lý do để hai quốc gia này chỉ ràng buộc với nhau trên các mối quan hệ có tính quôc tế chung chung, mọi thỏa thuận đều là không chính thức. Chưa hề có một hiệp ước an ninh nào được ký kết giữa hai quốc gia Trung - Mỹ. Liên Xô đã sụp đổ. Nếu như Trung Quốc tiếp tục ủng hộ Hoa Kỳ trong các đối sách quốc tế khi dọn dẹp lại thế giới và khiêm tốn, hoặc khôn khéo hơn trong khi thể hiện tham vọng - như lời khuyên của nhà lãnh đạo vĩ đại Đặng Tiểu Bình - thì lịch sử có thể đổi chiều. Nhưng tiếc thay, trong khi Hoa Kỳ xua quân đánh nhau ở Irak và Afganixtan với tham vọng bình định Trung Đông thì người Trung Quốc cứ tưởng đây là cơ hội vàng để lên ngôi bá chủ châu Á. Hoa Kỳ đã nhắc khéo Trung Quốc bằng một quả tên lửa gọi là bắn nhầm vào tòa Đại Sứ Bắc Kinh ở Baghda. Giá như Trung Quốc xín xái điều này, coi như chỗ quen biết lâu năm, có lỡ tay, xầy da một chút cũng không sao - Vấn đề là quan hệ tử tế, mần ăn lâu dài thì mọi việc sẽ khác đi. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Trung Quốc đã chứng tỏ vị thế của mình – một siêu cường có tham vọng lãnh đạo ở Châu Á – qua việc phản đối kịch liệt hành vi của chàng cao bồi Texas chơi xấu hảo hán Lương Sơn Bạc đang giương cao lá cờ «Thế Thiên hành đạo». Một trong những vị trí chiến lược nền tảng của tham vọng bá chủ này của Trung Quốc chính là Biển Đông. Đây là một ý tưởng chiến lược quân sự cực kỳ cổ điển có từ thế kỷ thứ V BC, mà người Trung Quốc tự hào là một trong nhưng giá trị văn hóa của họ - Binh pháp Tôn Tử - Lợi dụng lúc đối phương không để ý, củng cố lực lượng và phát triển thế lực. Nhưng họ đã quên rằng: Đây là thế kỷ 21. Và Hoa Kỳ đã kịp nhận ra điều này. Không phải ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ lập tức đưa ra kế hoạch rút quân khỏi Irak, tạm thời hòa hoãn với Iran và đang tìm cách rút khỏi Afganixtan. Hoa Kỳ rút quân vì lo củng cố nền kinh tế suy thoái chăng? Quên nhanh! Ấy là con mẹ hàng cá chợ Bắc Qua bảo thế - Nền kinh tế Hoa Kỳ hiện nay có thể nói không ngoa rằng: Chỉ cần đem tặng không những cái xe hơi đã cũ – nhưng còn xịn chán, so với mấy cái xe của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - cũng đủ lũng đoạn một nền kinh tế của một quốc gia đang phát triển. Họ tập trung lực lương để giải quyết một nguy cơ tiềm năng đe dọa ngôi bá chủ thế giới. Ai ở đây nhỉ ? Ai mà ghê thế nhỉ ? Việt Nam à? Hay cả khối Asean? Hay Bắc Triều Tiên? Hỏi điều này thì ngay vợ Chí Phèo cũng lắc đầu bẩu không phải. Một chính trị gia cấp phường, chuyện bình luận tình hình thế giới ở quán cóc bán trà trên vỉa hẻ Hà Nội, cũng nhận ra: Nguy cơ tiềm ẩn chống lại Hoa Kỳ với tham vọng bá chủ trong tương lai chính là Trung Quốc. Biển Đông lúc này là chiến trường chính trị của Trung Quốc và Hoa Kỳ. Hoặc là nó sẽ quyết định một cuộc chiến tranh, hoặc là nó sẽ diễn biến nhân đạo hơn cho sự nhượng bộ của một trong hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chẳng cần phải có một tư duy chính trị sâu sắc lắm, chỉ cần một người có khả năng nói dối vợ đi chơi với bồ nhí cũng đủ thấy rằng : Chuyện tốt đẹp chỉ xảy ra một chiều duy nhất. Đó là chiều khiêm tốn của Trung Hoa vốn có truyền thống lấy như thắng cương. Hoa Kỳ rút quân khỏi Trung Đông và Afganixtan không phải để đến Biển Đông đánh cá với cái tàu thăm dò Đại Dương bị vướng mấy khúc gỗ do Trung Quốc thả xuống cản đường, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái cho đám cá ở đây. LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN VÀ CUỘC BẦU CỬ Ở HOA KỲ Khi mà Ngài Obama chưa xuất hiện với vai trò ứng cử viên tổng thống, thì nhóm Lạc Việt độn toán do Thiên Sứ tôi chủ trì đã xác định rằng: Bà Clinton sẽ không thể trở thành Tổng thống ở Hoa Kỳ. Tổng thống Hoa kỳ trong nhiệm kỳ này sẽ là một người đàn ông cao ráo và đẹp người. Nguyên văn lúc đầu còn có thêm hai chữ « da màu », nhưng sau đó vài ngày Thiên Sứ tôi đã xóa hai từ này, vì lúc đó Thiên Sứ tôi chưa hiểu rõ lắm về Hoa Kỳ. Người đàn ông đó chính là Ngài Obama so với vị ứng cử viên đảng Công Hòa là ông Mc. Cain. Nhưng Thiên Sứ tôi đã khăng khăng Ngài Obama không thể làm tổng thống. Thiên Sứ tôi đã giải thích rằng : Đấy là ý muốn chủ quan của tôi. Nhưng tại sao Hoa Kỳ không chia cho Trung Quốc những chiến lợi phẩm thu được sau thắng lợi trước Liên Xô, chí ít cũng là cái ao cá ở Biển Đông này chứ? CHIA CHÁC CHIẾN LỢI PHẨM. Cuộc đối đầu giữa hai siêu cường chấm dứt với sự sụp đổ của Liên Bang Công hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Trung Quốc được hai mẩu bánh là Hồng Kông và Ma Cao, nằm ngay trên ….đất Trung Hoa và không có Đài Loan. Thế thôi. Kể ra thì chàng cao bồi Texas – mặc dù trông rất đàn ông, nhưng lại tỏ ra khá keo kiết trong việc chia chác trong cái nhìn đầy nghĩa khí và hào hiệp với tinh thần "trọng nghĩa khinh tài"của anh hùng Lương Sơn Bạc. Nhưng ngược lại, với anh chàng cao bồi này thì như thế cũng hơi bị nhiều. Trong cuộc tìm vàng, công lớn nhất chính là những kẻ hùn vốn và bỏ xương máu, chứ không phải người thổ dân dẫn đường đã được trả công sòng phẳng theo thỏa thuận. Luật chơi này đã có từ khi những người da trắng đổ xô đi tìm vàng ở châu Mỹ. Cuộc chiến sinh tử để quyết định sự thắng bại giữa hai siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ không có sự tham gia của nước Công Hòa nhân dân Trung Hoa. Ngay cả Nhật Bản và Cộng Hòa Liên bang Đức là hai đồng minh khá quan trọng cũng không được dự phần. Cuộc chiến sinh tử quyết định lịch sử chính là cuộc chiến tranh Irak 1991. Mà nếu quí vị để ý thì chỉ những Đồng minh cũ của Hoa Kỳ trong thế chiến thứ II tham gia và không có Đức, Ý, Nhật Bản là những đồng minh sau Thế Chiến. Mặc dù ít nhất Nhật Bản thể hiện lòng tốt muốn đưa quân tham gia. NỘI DUNG CUỘC HỌP BÍ MẬT VÀ TỐN KÉM NHẤT TRONG LỊCH SỬ VĂN MINH NHÂN LOẠI Vào những năm 80, tình báo Hoa Kỳ phát hiện ra rằng: Liên Xô đã kiệt quệ về kinh tế và không có khả năng tiếp tục theo đuổi cuộc chạy đua vũ trang. Một trò chơi điện tử cấp quốc tế đã diễn ra: Trò “Chiến tranh giữa các vì sao”. Chỉ có khác là, những người sáng tạo ra trò chơi này không phải các chuyên gia lập trình vi tính và các game thủ loi choi, đam mê đến mức quên cả ăn và bị các bà mẹ khả kính đét mấy roi vào đít. Chẳng ai dám đét đít và xúc phạm đến các game thủ này. Bởi vì họ là những nguyên thủ quốc gia hàng đầu thế giới: Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ - Ngài Bush Cha và Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên Bang Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết – Ngài Goorbachop. Người Mỹ đã chiếm ưu thế trong trò chơi này. Cuối cùng, hai game thủ hàng đầu trong trò chơi điện tử quốc tế đã thỏa thuận gặp nhau để chấm dứt cuộc chơi. Một cuộc họp bí mật và tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại đã diễn ra ở Địa Trung Hải với sự bảo vệ của các hạm đội hàng đầu thế giới. Tất cả các cơ quan tình báo quốc tế với những nhân viên tài ba đi vào lịch sử, đều khóc tiếng Urugoay trong việc tìm kiếm thông tin cuộc họp này. Ngoại trừ trông cậy vào ….thày bói. Tất nhiên phải là những thày bói đẳng cấp. Chứ không phải mấy thầy miệt vườn chuyên xem tình duyên, gia đạo, trúng mấy quẻ cứ làm như nắm hết bí ẩn của vũ trụ. Sau cuộc họp tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại - được tài trợ bằng tiến đóng thuế của người dân khu cu đen Hoa Kỳ và của những người dân đang làm chủ đất nước Liên Xô vĩ đại – là một cuộc chiến đã xảy ra tại Irak giữa Hoa Kỳ và các nước đồng minh chủ chốt với Irak do chính quyền của Tổng thống SD Hussen, có sự hỗ trợ của Liên Xô. Cuộc chiến này, bắt đầu bằng một câu rất bâng quơ của bà phu nhân Đại Sứ Hoa Kỳ khi say xỉn trong một tiệc chiêu đãi. Bà ta đã phát biểu trong men rượu vang xứ Bordeaux nổi tiếng của nước Pháp, rằng thì là: Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào một cuộc chiến tranh giữa Irak và Ả Rập Cooet. Câu nói này đã được các nhân viên tình báo thượng thặng ghi nhận và đến tai người hùng Sadam Hussen. Ông ta xua quân vào Ả Rập Xeut. Ông Hussen dù có nghe nhầm, hoặc hiểu sai câu nói của bà Đại sứ phu nhân thì cũng không thể làm khác đi được. Lịch sử được quyết định từ trước đó. Hoa Kỳ có lý do chính đáng để dẫn đầu quân đồng minh tấn công Irak và đó là cuộc chiến Irak lần thứ nhất, năm 1991. Chính phủ Nhật Bản và Cộng Hòa Liên bang Đức, lúc ấy có nhã ý đem quân tham gia cuộc chiến và câu chuyện đã không xảy ra. Đây là chỗ người lớn nói chuyện. Trung Quốc lúc ấy chỉ tường thuật một cách khách quan cuộc chiến này với vài cuộn băng video, bán chui khá chạy ở Việt Nam cho các chính khách ấp bình luận sôi nổi về vũ khí hiện đại thời bấy giờ. Ngay sau cuộc chiến, toàn bộ khối Vacsava do Liên Xô đứng đầu đã sụp đổ. Đây là kết quả của cuộc thỏa thuận trong cuộc họp bí mật và tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại - tất nhiên là theo quẻ Lạc Việt độn toán, do Thiên Sứ thực hiện và giải mật - tạm thời trong Mật thất này. Trò chơi điện từ “Chiến tranh giữa các vì sao” chấm dứt. Người lớn chơi chán rồi. Bây giờ đến bọn trẻ con đang say sưa bấm, bấm trong các tụ điểm internet. Còn việc chia chác chiến lợi phẩm cuộc chơi vẫn thuộc về người lớn, bởi những chính khách nghiêm túc, uy tín và luôn tỏ ra đứng đắn với phụ nữ. Người Trung Quốc đã muốn biển Đông thuộc phần của mình. Họ đã thể hiện ước mơ bằng cách vẽ ra một đường biên giới trên biển mà dân gian quen gọi là cái lưỡi bò. Nhưng chàng cao bồi quen chăn bò ngày xưa đã thuộc về lịch sử. Theo đà tiến hóa, chàng cao bồi Texas đã biết đến mùi vị của cá thu kho giềng và biết chế biến dầu thô để chay xe hơi thay vì cưỡi ngựa có thể làm thoái hóa cột sống. Bởi vậy, tạm thời anh ta phải rút khỏi Trung Đông để thăm dò luồng cá ở đây. Biển Đông nước Việt không phải là chiến lợi phẩm được chia phần theo thỏa thuận. Ngay cả cho rằng ý tưởng quốc tế hóa cách đây 40 năm trước được thực hiện, thì nó cũng không có nghĩa là của riêng Trung Quốc. Trong cái nhìn của chàng cao bồi Texas thì Trung Quốc chỉ là một quốc gia ủng hộ họ khi phải đối đầu với Liên Xô và sẽ không phải đối tượng cần xử lý tiếp theo, nếu không tỏ ra tham vọng gây ảnh hưởng đến những tài sản kiếm được. Vấn đề cũng không đơn giản chỉ là vài con cá với mấy thùng dầu, mà còn là xác định địa vị bá chủ thế giới với những lợi ích kèm theo. Còn tiếp1 like
-
Chiếc bàn xoay kỳ lạ 200 tuổi Thứ bảy, 11/8/2012, 09:57 GMT+7 Khi mọi người cùng đặt ngửa bàn tay xuống mặt bàn, chưa tới 3 phút, lại nghe tiếng rắc... rắc... dưới gầm bàn, rồi mặt bàn đột nhiên "trở mình" rùng rùng quay ngược chiều kim đồng hồ... Đến đất Tam Thành (Phú Ninh, Quảng Nam) hỏi lão nghệ nhân có tay nghề tài hoa làm ra những chiếc bàn gỗ có "công năng" kỳ lạ, ai cũng biết là ông Đinh Thẩm (93 tuổi), nghệ nhân duy nhất của làng mộc Văn Hà chế tác được bàn xoay. Trong ngôi nhà rường cổ, lão nghệ nhân tai đã nghễnh ngãng, song kể chuyện rất hóm hỉnh. Nghe hỏi về việc mới phục chế thành công chiếc bàn gỗ cổ tự xoay, ông Thẩm cười móm mém, rồi thủng thỉnh: "Mới chi mà mới? Tính ra cũng đã 2 năm có dư rồi. Hồi đó, mấy anh làm văn hóa tỉnh chở lên cho tui coi hai chiếc bàn gỗ mặt tròn đã bị hư, đường nét chạm khắc khá tinh xảo đúng là đồ mộc của người làng Văn Hà đóng xưa kia nên tui nhận lời. Sửa sao cho đặt tay lên mặt bàn thì mặt bàn tự xoay tròn. Sửa xong, dưới tỉnh cho ôtô lên chở đi triển lãm". Theo ông Thẩm, ở làng Văn Hà từ xưa thợ mộc đã biết đóng bàn gỗ tự xoay. Nhưng theo thời gian, những chiếc bàn cũng dần dần biến mất, người làm được loại bàn này lần lượt theo nhau về với trời, đất. Giờ cả làng chỉ còn độc một cái bàn gỗ cổ, áng chừng đã hơn 200 năm để tại nhà ông Trần Ngọc Tuấn, "đệ tử ruột" của lão nghệ nhân Đinh Thẩm. Ông Tuấn cho hay, chiếc bàn là bảo vật gia truyền từ đời các cụ Tổ của dòng tộc nên rất quý. Ông đặt chiếc bàn trên gác, ngay bên bàn thờ gia tiên và không bao giờ cho bất cứ người lạ nào đến xem bàn, chứ chưa nói đến chuyện sờ vào. May mà có "sư phụ" Đinh Thẩm nên ông Tuấn mới chịu phá lệ... Ông Đinh Thẩm và khách cùng trải nghiệm với chiếc bàn cổ tự xoay tại nhà ông Tuấn. Ảnh: ANTG. Chiếc bàn cao chừng 80 cm, thân là trục gỗ tròn được tiện theo hình bình hoa, đáy bình gắn 3 chân lượn sóng tiếp đất; còn miệng bình là miếng gỗ vuông được gắn 12 trụ nhỏ tiện hình bình hoa. Và trên 12 trụ nhỏ này cũng là miếng gỗ hình vuông khớp nối khéo léo vào mặt bàn hình tròn, đường kính 70 cm, dày khoảng 2 cm... Theo năm tháng, nước gỗ mặt bàn đã nhạt màu, Ông Tuấn cho hay, mặt bàn làm bằng gỗ mít vườn, song chân và thân bàn là gỗ chuồn. Nếu không có "công năng" đặc biệt, chiếc bàn này cũng giống mọi chiếc bàn khác, dù có được chạm trổ khéo léo và có tuổi hàng trăm năm... Trước khi "thực nghiệm" làm cho chiếc bàn xoay, ông Tuấn yêu cầu mọi người tháo giày, bỏ dép ra rồi đứng sát vào bàn. Nếu úp bàn tay xuống mặt bàn, hướng tâm chú ý vào chiếc bàn thì nó sẽ tự quay theo chiều kim đồng hồ. Ngửa bàn tay, nó sẽ quay ngược lại. Không khí trong nhà im phăng phắc, một phút... hai phút... ba phút trôi qua... dưới mặt bàn, chỗ khớp nhau giữa miếng gỗ hình vuông nằm trên 12 trụ tiện nhỏ dáng bình hoa, phát ra âm thanh rắc... rắc.... Và mặt bàn rùng rùng chuyển động tròn và tốc độ mỗi lúc tăng lên. Khi mọi người đã bỏ hẳn tay ra, theo quán tính, mặt bàn vẫn xoay một lúc rồi mới dừng hẳn. Khi mọi người cùng đặt ngửa bàn tay xuống mặt bàn, chưa tới 3 phút, lại nghe tiếng rắc... rắc... dưới gầm bàn, rồi mặt bàn đột nhiên "trở mình" rùng rùng quay ngược chiều kim đồng hồ... Nhóm khách ngạc nhiên mò mẫm từng góc cạnh chiếc bàn, cố tìm bằng được "bí mật" ẩn giấu nào đó bên trong nhưng tuyệt nhiên không có gì đặc biệt cả. Chiếc bàn được làm hoàn toàn bằng gỗ, khớp nối cũng rất đơn giản, không có mảnh nhỏ kim loại nào... Để thuyết phục hơn, ông Tuấn cho một người khách vào thực nghiệm. Với những động tác úp, ngửa bàn tay, mặt bàn vẫn quay ngược, quay xuôi nhưng tốc độ quay giảm đi... Theo lời chủ nhân chiếc bàn, ông là con trai trưởng nên mới được cất giữ vật gia bảo này và chỉ dùng vào dịp nhà có đám giỗ, đám chạp. Rất nhiều người hay tin, tới gặp ông để hỏi mua chiếc bàn với giá cao; trong đó một "đại gia" ở TP HCM ra ngã giá gần 200 triệu đồng nhưng ông Tuấn không bán... Chiếc bàn nhìn rất đơn giản nhưng phải chế tác theo một kỹ thuật, bí quyết rất riêng của người thợ Văn Hà mới có "công năng" đặc biệt để tự xoay tới, xoay lui. Ảnh: ANTG. Theo lời lão nghệ nhân Đinh Thẩm, cùng với làng mộc Kim Bồng (Hội An), làng mộc Văn Hà là một trong những làng nghề cổ xưa nhất ở Quảng Nam. Thuở nhỏ, ông từng nghe ông cố kể rằng, vị Tổ nghề mộc Văn Hà có gốc Thanh - Nghệ - Tĩnh di cư vào lập làng từ thời Vua Lê Thánh Tông (thế kỷ XV). Uống cạn bát nước chè xanh, lão nghệ nhân Đinh Thẩm trầm ngâm rằng, chưa tròn 17 tuổi ông đã nối nghiệp cha theo học nghề mộc từ những người thợ giỏi của Văn Hà. Nói về chiếc bàn gỗ tự xoay, ông Thẩm khẳng định, chỉ có thợ làng Văn Hà ngày xưa mới làm được. Bản thân ông cũng đã làm 4 - 5 chiếc bàn như thế. "Ngày xưa chỉ có nhà giàu mới mua nổi chiếc bàn xoay của thợ mộc Văn Hà vì giá mỗi chiếc bàn cao lắm. Có những chiếc bàn giá tính bằng cả con trâu, hoặc mấy trăm ang lúa...", ông lão nheo mắt nhìn ra vườn cây xanh mát như hồi tưởng lại thời "hoàng kim" của người thợ mộc Văn Hà. Ông giải thích, lúc đầu thợ mộc Văn Hà chỉ nghĩ ra việc chế tác chiếc bàn tròn để dùng trong thờ cúng, về kỹ thuật, kích thước hầu như đều như nhau. Bàn được làm bằng gỗ mít, loại mít vườn lâu năm. Bản thân lão nghệ nhân Đinh Thẩm cũng không biết rõ, ai là người đầu tiên chế tác được chiếc bàn xoay. Tuy nhiên, đã nhiều đời nay, khi muốn làm bàn xoay người thợ buộc phải chọn gỗ mít hàng trăm năm tuổi, có ròng (lõi) vàng rực, đem xẻ ra phơi phóng cho thật kỹ, thật khô mới đưa vào chế tác. Đặc biệt, phải chọn những tấm gỗ không bị sâu, không bị mắt, không nứt, không vặn thớ... Đầu tiên, người thợ làm bộ chân bàn, có 3 chân lượn sóng đặt gắn với trụ chính đỡ mặt bàn theo thế chân kiềng. Quan trọng nhất vẫn là bộ trục có 12 trụ tiện hình bình hoa nhỏ gắn khớp với mặt bàn, buộc người thợ phải chế tác theo một kỹ thuật nhất định. Đây cũng là bí quyết rất riêng chỉ có người thợ Văn Hà mới biết và làm thành thạo. Còn mặt bàn hình tròn, gỗ có thể liền tấm, hoặc có thể ghép hai miếng với nhau, song tuyệt đối không được cong vênh. Ông Thẩm kể rằng, năm 2010, khi Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Quảng Nam nhờ ông sửa chữa, phục chế lại hai chiếc bàn tròn tự xoay để mang đi hội chợ triển lãm sản phẩm độc đáo làng nghề truyền thống Quảng Nam, nhiều người đến với ý định đặt ông làm cho một chiếc bàn mới. Nhưng, bây giờ gỗ mít loại lớn rất hiếm, hơn nữa sức khỏe ông đã yếu, không thể một mình cưa xẻ, chạm khắc. Rồi ông lão thở dài: "Làng mộc Văn Hà ngày nay đã mai một dần. Số người nắm được kỹ thuật, bí quyết nghề mộc chỉ đếm trên đầu ngón tay. Làng cũng có chục hộ làm nghề mộc, nhưng bây giờ người ta phụ thuộc vào máy móc, hơn nữa chỉ làm những sản phẩm không cần tay nghề cao, không cần cầu kỳ, tinh xảo...". Đầu năm 2012, ông được chính quyền huyện Phú Ninh mời truyền dạy nghề mộc truyền thống cho thanh thiếu niên. Lớp học của dự án có 10 người, song chỉ còn 4 người chịu khó học, nắm bắt được những kiến thức sơ đẳng... Điều này khiến lão nghệ nhân Đinh Thẩm khi nhắc tới nghề mộc làng Văn Hà là đôi mắt lại rưng rưng bởi có thể mai này những "bí quyết" chế tác độc đáo của tiền nhân làng nghề truyền thống này cũng sẽ không còn. An ninh Thế giới =================== Thông tin về chiếc bản xoay kỳ lạ này cũng đã lai rai trên mặt báo, từ vài năm nay. Cũng có ý kiến của dăm ba nhà khoa học bán ra tán vào cứ như đúng rồi về chiếc bàn xoay này. Nhưng cho đến nay, nói thì nói vậy chứ các nhà khoa học chưa làm cho những người quan tâm cảm thấy thỏa đáng. Bởi vậy, Thiên Sứ tôi chẳng quản tài hèn cũng vào đây gõ bậy vài lời. Miễn bình luận trực tiếp vào nhận xét của Thiên Sứ tôi. Mặc dù các bạn có thể có ý kiến riêng của mình về chiếc bản xoay này. Cá nhân tôi nhận thấy rằng: Vấn đề đầu tiên cấn xác định là nghệ thuật và trình độ nghề Mộc của tryền thống văn hiến Việt đã đạt đến tuyệt đỉnh. Điều này xác định rằng: Nền văn minh Họa Hạ không thể là bậc thày truyền dạy nghề Mộc cho người Việt , mà chỉ là sự tiếp thu những giá trị khoa học kỹ thuật vượt trội của người Việt ,một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương tử. Nghề mộc ở Trung Hoa từ 2000 năm nay, không thể đạt đến sự tinh xảo để chế tạo được chiếc bản xoay này. Không thể lý giải rằng: sau khi tiếp thu tinh hoa nghề Mộc của văn hóa Hán thì các nghệ nhân Việt đã cải tiến và phát huy. Nên đã phát minh ra cái bàn xoay kỳ lạ này. Đấy là cách phản biện duy nhất của đám tư duy thuộc loại "Ở trần đóng khố" - phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt - với chỉ số Bo cao ngất ngưởng, tương đương bắng cấp của họ. Bởi vì, kỹ thuật và sự hiểu biết để làm ra chiếc bản kỳ diệu này không thuộc về kỹ năng của ngành Mộc thuần túy. Nó không liên quan đến ngành Mộc và ngành Mộc chỉ là điều kiện thể hiện tri thức siêu việt trong việc thực hiện chiếc bàn này. Cũng tương tự như anh thợ hàn trong việc làm chiếc bệ phóng tên lửa bằng sắt vậy. Bệ phóng tên lửa liên quan đến anh thợ hàn chỉ là điều kiện thể hiện tri thức vật lý cao cấp hiện nay trong việc chế tạo cái tên lửa. Vậy tri thức thể hiện trong chiếc bàn kỳ lạ của truyền thống văn hiến Việt nói lên điều gì? BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH ...1 like
-
Cháu chào bác, mong được sự giúp đỡ của bác: Vợ chồng cháu bằng tuổi nhau sinh năm Quý hợi, chúng cháu sinh được con gái đầu lòng sinh năm kỷ sửu, chúng cháu có dự định sinh con vào năm tới năm Quý tỵ có được không ạ. Nếu được hoặc tuổi khác thì sinh mùa nào thì tốt. Chúng cháu cảm ơn bác nhiều.1 like
-
Văn hóa ha van thuy xác lập cơ sở khoa học để tìm nguồn gốc người việt Tìm nguồn gốc dân tộc là khát vọng truyền đời của người dân Việt. Một nhu cầu đặc biệt bức thúc, nảy sinh trong hoàn cảnh bị áp lực nặng nề do ý niệm không biết có từ bao giờ lưu truyền rằng, dân tộc Việt bị người Hoa đồng hóa không những về văn hóa mà ngay cả huyết thống. Không chỉ nhằm đáp ứng đòi hỏi tâm linh “chim có tổ, người có tông” mà một cội nguồn đích thực còn có thể là bằng chứng về sự độc lập của dân tộc, một hy vọng vượt thoát khỏi cái bóng của người láng giềng khổng lồ phương bắc, giúp người Việt ngửng đầu…Vì vậy, từ thời Trần - Lê, các sử gia dựa trên truyền thuyết trong dân gian Việt kết hợp với cổ thư Trung Hoa đã đưa vào chính sử vị tổ Thần Nông Viêm đế và thời điểm năm Nhâm Tuất 2879 TCN lập nước Xích Quỷ. Thời cận đại, các học giả người Pháp của Viễn Đông Bác cổ cho rằng “Người Việt có mặt ở Trung Quốc từ thế kỷ XI TCN mà di duệ là nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn. Năm 333 TCN, Sở diệt nước Việt. Hậu duệ của Câu Tiễn chạy xuống Việt Nam, thành tổ tiên người Việt.” (1) Các học giả tiên phong như Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh…tiếp thu ý tưởng này, biến nó trở thành tri thức chính thống của người Việt gần thế kỷ nay. Những năm 80 thế kỷ trước, các sử gia Việt Nam dựa vào khám phá văn hóa Đông Sơn, khẳng định, lịch sử dân tộc ta bắt đầu 700 năm TCN và yêu cầu Quốc hội sửa hiến pháp theo “nghiên cứu” của họ. Nhưng có lẽ do nhiều người còn lưu luyến “nếp nghĩ thời phong kiến với 4000 năm lịch sử”, nên Hiến pháp 1992 chỉ ghi “Việt Nam có mấy nghìn năm lịch sử (!)”, một con số phiếm định, không thể nói là nghiêm túc khoa học. Vì vậy, thời Hùng Vương vẫn gây hoài nghi, như nhận xét có phần mỉa mai của nhà sử học người Mỹ gốc Việt Tạ Chí Đại Trường: “Các biến động mới cùng sự thất bại không thú nhận của việc nối kết thành quả khảo cổ học với thời Hùng Vương ở miền Bắc, khiến cho vấn đề lại buông thả cho cảm tính, cho những khẩu hiệu chính trị cấp thời của sử học…” (2) Trong thực tế nhiều người vẫn bướng bỉnh níu giữ quan điểm “4000 năm” thậm chí “gần 5000 năm” lịch sử! Sự nhận thức khác nhau như vậy là điều dễ hiểu bởi lẽ, cho tới cuối thế kỷ XX, khoa học chưa thống nhất về nguồn gốc người hiện đại. Vì vậy việc xác định nguồn gốc của bất cứ dân tộc nào cũng chưa đủ cơ sở! Thực tế chứng tỏ rằng, mặc dù có lịch sử thành văn khá sớm với 24 cuốn sử (nhị thập tứ sử), người Trung Hoa cũng chưa biết gốc gác họ! Điều này không phải lỗi của ai mà do hạn chế của tri thức nhân loại ở thế kỷ trước: khoa học chưa phát minh ra phương pháp luận đủ sức giải quyết nhiệm vụ lớn lao này! Sự việc càng trở nên phức tạp hơn, khi quá nhiều giả thuyết khác nhau được đặt ra, rồi vì nhiều lý do, người ta níu giữ những “sáng kiến” của mình, từ chối đối thoại với những phát hiện mới, biến những nhà nghiên cứu thành dân Babel, càng nói nhiều càng không hiểu nhau! Muốn thoát khỏi tình trạng trên, “lập lại trật tự” trong việc tìm hiểu thời tiền sử dân tộc, thiết nghĩ trước hết phải thiết kế một mặt bằng khoa học, tạo sự đồng thuận, để trên cơ sở đó các nhà nghiên cứu phát huy sáng tạo, tránh sa lầy, lạc hướng phí hoài nguồn năng lượng trí tuệ Việt. Bài viết này thử đưa ra một “mặt bằng” như thế. 1. Về nguồn gốc loài người. Cho tới cuối thế kỷ trước, nhiều ngành khoa học mà chủ công là khảo cổ đã xác nhận, con người xuất hiện năm triệu năm trước tại châu Phi. Khoảng hai triệu năm trước, người Đứng thẳng Homo erectus, loài tiền nhiệm của chúng ta, ra đời tại châu Phi. Khoảng 1,8 triệu năm trước, họ từ châu Phi di cư sang châu Á. Khoảng 250.000 năm trước, người Đứng thẳng rời bỏ châu Á, sang châu Âu mà hậu duệ cuối cùng của họ là người Neanderthals, bị tuyệt diệt khoảng 24.000 năm trước. Như vậy, một thời gian rất dài, châu Á là vùng đất trắng, không có người sinh sống. Người Java, người Bắc Kinh, người Núi Đọ… là người Đứng thẳng, không có liên hệ di truyền với người hiện đại chúng ta. Những kiến thức vững chắc một thời ghi trong sách Trung Quốc dân tộc sử của Vương Đồng Linh: “Khoảng 500.000 năm trước, sống sót sau bốn lần băng giá, loài người tập trung ở phía nam dải Thiên Sơn rối tiến vào Trung Quốc” là không xác thực. 2. Nguồn gốc người hiện đại (Homo sapiens) Ở thế kỷ trước, có hai thuyết đối nghịch nhau về nguốn gốc loài người. Thuyết Một trung tâm cho rằng, con người được sinh ra từ quê hương duy nhất là Đông Phi. Địch thủ của nó là Thuyết Nhiều vùng tuyên bố: con người được sinh ra từ nhiều vùng khác nhau: châu Phi sinh ra người da đen, châu Âu sinh ra người da trắng, châu Á là quê hương người da vàng… Gần suốt thế kỷ, hai thuyết tranh chấp căng thẳng mà không phân thắng bại. Tới thập niên 70, do phát hiện di cốt người Neanderthals có những nét giống người châu Âu nên phần lớn giới khoa học chấp nhận người Neanderthals là tổ tiên người châu Âu. Do sự kiện này, Thuyết Đa vùng thắng thế, trở thành áp đảo trong khoa học nhân loại. 3. Về nguồn gốc người châu Á. Do sự chi phối của Thuyết Đa vùng từ rất sớm nên các học giả trường phái Viễn Đông Bác cổ của Pháp cho rằng, người châu Á gồm các sắc tộc Hoa, Việt, Hồi, Mãn… xuất hiện ở phía nam Tây Tạng. Họ trước sau tiến vào đất Trung Quốc rồi qua đó một bộ phận xâm nhập Đông Nam Á. Do vậy, Việt Nam cũng như Đông Nam Á trở thành vùng nước đọng của lịch sử, chỉ tiếp nhận dân cư cùng văn hóa từ phía tây bắc đưa xuống mà không sáng tạo được gì! Khoảng những năm 20 thế kỷ trước, học giả người Pháp L. Aurousseau cho rằng, con cháu của Việt Vương Câu Tiễn trốn chạy cuộc tấn công của người Sở, đã xuống Việt Nam, trở thành tổ tiên người Việt. Viễn Đông Bác cổ là trường phái khoa học có uy tín lớn trong thế kỷ XX nên đã chi phối giới khoa học quốc tế. Trên thực tế, quan điểm của trường phái Viễn Đông Bác cổ chi phối toàn bộ khoa học nhân văn Việt Nam cho tới hôm nay. 4. Phát hiện mới về nguồn gốc loài người. Ngày 29 tháng 9 năm 1998, Giáo sư Y. Chu của Đại học Texas công bố kết quả đề án nghiên cứu Quan hệ di truyền của người trung Quốc (Genetic Relationship of Population in China) với những nét chính sau: “Người hiện đại Homo sapiens được sinh ra từ quê hương duy nhất là Đông Phi, khoảng 160 tới 200.000 năm trước. Họ từ châu Phi, vượt qua cửa Hồng Hải tới bán đảo A rập. Từ đây, một bộ phận theo ven biển Ấn Độ, Pakistan tới Mã Lai, Indonesia. Rồi từ phía tây Borneo, tới Việt Nam khoảng 60 – 70.000 năm trước. Tại đây họ gặp gỡ nhau, hòa huyết, tăng nhân số và khoảng 50.000 năm trước, di cư ra các hải đảo Đông Nam Á, châu Úc; đi về phía tây chiếm đất Ấn Độ. Khoảng 40.000 năm trước do khí hậu phía bắc được cải thiện, họ đi lên chiếm lĩnh đất Trung Hoa và 30.000 năm trước, vượt eo Berinh sang chinh phục châu Mỹ.” (3) Đây có thể được coi là phát kiến lớn nhất của khoa học nhân văn thế kỷ XX. Nó làm Thuyết Nhiều vùng sụp đổ. Do thuyết này thống trị thời gian dài nên khi sụp đổ, gây đảo lộn không tránh khỏi cho khoa học nhân văn thế giới. Công bố của nhóm Giáo sư Y. Chu không phải chuyện “trên trời rơi xuống” bởi lẽ khảo cổ học trước đó đã phát hiện sọ người Australoid có tuổi 50.000 năm tại vùng hồ Mungo châu Úc và bộ xương người Mongoloid 68.000 năm tuổi tại Quảng Tây Trung Quốc. Trước đây những hiện tượng này không thể giải thích được nhưng nay lại là bằng chứng cho thấy cuộc di cư mà di truyền học phát hiện là có thật. Làm khảo sát truy ngược gen Homo sapiens, khoa học phát hiện rằng: tất cả đàn ông trên thế giới được sinh ra từ người đàn ông duy nhất 160.000 năm trước. Trong khi đó, giới nữ được sinh từ 3 bà tổ khác nhau. Như vậy là thoạt kỳ thủy, từ châu Phi, một ông tổ và ba bà tổ sinh ra ba dòng con, về sau hình thành ba đại chủng người Mongoloid (da vàng), Australoid (da đen) và Europid (da trắng). 5. Về sự hình thành người Việt theo phát hiện của giới khoa học quốc tế. Thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, nhiều kết quả nghiên cứu di truyền về nguồn gốc loài người được công bố. Không chỉ khẳng định phát hiện của nhóm Y. Chu, nhiều nghiên cứu cung cấp những tư liệu vô giá làm sáng tỏ sự hình thành dân cư Đông Á mà Việt Nam là trung tâm: - Công trình The Journey of Man: A Genetic Odyssey của Spencer Wells thuộc Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ xác nhận: “Loài người Homo sapiens xuất hiện đầu tiên ở vùng Ethiopia, khoảng 160.000 năm trước. Người tiền sử từ châu Phi, vượt Hồng Hải tới đất Syria và từ đây qua Ấn Độ, Pakistan tới Viễn Đông.” (4) - Công trình Rời khỏi địa đàng chiếm lĩnh thế giới của Stephen Oppenheimer, Đại học Oxford nước Anh cho thấy: Người Khôn ngoan Homo sapiens sinh ra đầu tiên tại Đông Phi 160.000 năm trước. Khoảng 132.000 năm trước họ vượt cửa Hồng Hải tới bán đảo A rập rối tiến về phia tây. Khoảng 90.000 năm trước, hậu duệ của nhóm này bị tuyệt diệt trên đất Israel vì băng giá. Khoảng 85.000 năm trước, cuộc di cư lần thừ hai được thực hiện. Lần này, vượt cửa Hồng Hải, họ tới bán đảo A rập rối từ đây, một bộ phận theo bờ biển Nam Á tiến vào Đông Nam Á. Khoảng 70.000 năm trước, từ phía tây Borneo, họ xâm nhập Việt Nam. Tại Việt Nam, họ tăng nhân số rồi di cư ra các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, đi về phía tây tới Ấn Độ. Khoảng 40.000 năm trước, chiếm lĩnh đất Trung Hoa và 30.000 năm trước, vượt eo Berinh sang châu Mỹ. (5) - Công trình của Ballinger xác nhận, người Mông Cổ cũng từ Đông Nam Á lên. (6) - Nghiên cứu của nhóm nhà khoa học Tây Ban Nha, Ý, Georgia phân tích 5.000 chiếc răng hóa thạch phát hiện ở châu Âu cho thấy: khoảng 40.000 năm trước, người tiền sử từ Trung Đông qua eo Bosphorus vào châu Âu. Ở đây họ gặp những người từ Đông Á sang qua đường Trung Á. Hai dòng người hòa huyết cho ra người Eurasian, tổ tiên người châu Âu hiện nay. (7) - Nhiều nghiên cứu về nguồn gốc những tộc người nói tiếng Nam Đảo Austronesian ở các đảo Nam Thái Bình Dương cho thấy họ đều từ vùng cửa sông Dương Tử hay Việt Nam di cư tới. (8) - Những nghiên cứu về DNA của lợn ở Thái Bình Dương cho thấy, loài vật nuôi này được đưa từ Việt Nam tới. (9) - Nhiều nghiên cứu khẳng định: người Việt Nam có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư Đông Á, có nghĩa là người Việt Nam cổ nhất Đông Á. (12) 6. Ứng dụng thành tựu khoa học mới vào tìm hiểu ngồn gốc người Việt. Không phải bỏ đồng xu nào nghiên cứu mà được hưởng những thành quả như vậy là may mắn lớn cho người Việt. Nhưng nói cho cùng thì đó cũng là cái duyên, cái phúc vì chính Việt Nam là vườn trẻ của phần quan trọng nhân loại. Là người sớm tiếp cận thành tựu khoa học mới có liên quan tới dân tộc Việt, chúng tôi đã chú tâm theo dõi, tích lũy những tài liệu cần thiết. Tuy nhiên, do không có nghiên cứu nào riêng cho người Việt Nam vì vậy, chúng ta chưa có được những kết luận có thẩm quyền khoa học về vấn đề này. Mặt khác, trong những tài liệu di truyền học lại có sự mâu thuẫn, trái ngược nhau nên cần đối chiếu với những tư liệu liên ngành khác để đưa ra những kiến giải sát hợp với hoàn cảnh Việt Nam Từ thực tế đó, chúng tôi thấy cần có phương pháp luận riêng áp dụng cho khảo cứu: Dùng tài liệu di truyền học như một thứ kim chỉ nam để tìm hiểu nguồn gốc cùng sự di cư của người Việt đồng thời dùng những tri thức khảo cố học, cổ nhân chủng học, văn hóa, ngôn ngữ học để kiểm chứng và soi sáng kiến thức di truyền. Từ phương pháp luận đó, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu những vấn đề mấu chốt sau: 6.a. Người tiền sử từ châu Phi di cư tới Việt Nam 70.000 năm trước là ai? Việc này có ý nghĩa như một tiên đề. Nếu không sẽ không giải quyết rốt ráo những vấn đề rất phức tạp về nhân chủng học Việt Nam và Đông Á. Đáng tiếc là trong các tài liệu di truyền học đã công bố, không có tài liệu nào đề cập vấn đề này. Tuy nhiên, có thể tìm theo con đường khác. Từ khảo sát 76 sọ cổ được phát hiện tại Việt Nam, nhà nhân học hàng đầu của Việt Nam Nguyễn Đình Khoa, cho thấy: “Thoạt kỳ thủy, trên đất Việt Nam có mặt hai đại chủng người tiền sử là Australoid và Mongoloid. Họ lai giống với nhau và các thế hệ con cái lai giống tiếp cho ra bốn chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, đều thuộc loại hình Australoid.” (11) Như vậy, có thể khẳng định, người tiền sử tới Việt Nam 70.000 năm trước gồm hai đại chủng Australoid và Mongoloid, trong đó người Australoid chiếm đa số tuyệt đối. Chính đây là kim chỉ nam giúp tìm hiểu về sự hình thành dân cư Đông Á. 6. b. Về người Mongoloid phương Bắc. Chủng Mongoloid phương Bắc có mặt trên đất Mông Cổ là bằng chứng nặng ký ủng hộ Thuyết Nhiều vùng. Tuy nhiên vai trò của họ khá phức tạp trong sự hình thành dân cư Đông Á: “Người Mongoloid có mặt trong bước đầu hình thành dân cư Việt Nam. Tuy nhiên suốt thời Đồ Đá, họ biến mất, nhường chỗ cho người Australoid. Nhưng tới thời Đồ Đồng, họ xuất hiện trở lại và thay thế người Australoid giữ vai trò chủ thể không chỉ trên đất Việt Nam mà toàn bộ Đông Á.” (11) Suốt nửa cuối thế kỷ XX, giải thích hiện tượng này là thách thức lớn với giới khoa học. Sẽ là không thể trả lời, nếu chỉ có khảo cổ và cổ nhân học. Ngay cả các nghiên cứu di truyền của của Y. Chu, S. Wells, S. Oppenheimer… cũng không giúp làm sáng tỏ điều bí ẩn lớn này. Rất may là nghiên cứu của Ballinger phát hiện sự kiện quan trọng: “Người Mongoloid cũng từ Đông Nam Á đi lên.” Nói Đông Nam Á là nói chung, theo thống kê học, từ quan điểm của nhà di truyền. Chính xác phải nói là từ Việt Nam vì đây là địa bàn tập kết đầu tiên của người tiền sử trên lục địa Đông Á. Đó chính là chìa khóa của vấn đề dân cư Đông Á. Kết hợp phát hiện của Ballinger với kết quả khảo cổ học, chúng tôi đưa ra nhận định: - Người tiền sử tới Việt Nam 70.000 năm trước gồm đại chủng Mongoloid và Australoid. Họ đi thành những nhóm nhỏ riêng biệt. Tới Việt Nam, phần lớn họ tập trung tại thềm Biển Đông để hòa huyết sinh ra người Việt cổ. Trong khi đó có những nhóm Mongoloid riêng lẻ đi tới tây bắc Đông Dương. Khoảng 40.000 năm trước, do thời tiết bớt lạnh, họ theo hành lang Ba Thục lên định cư tại tây bắc Trung Quốc và đất Mông Cổ, bảo tồn nguồn gen, sau này hình thành chủng Mongoloid phương Bắc. Việc khảo cổ tìm ra di cốt người Mongoloid 68.000 năm tuổi ở Quảng Tây và người Mông Cổ phương Bắc trên đất Mông Cổ 40.000 năm trước xác nhận điều này. (12) 6. c. Về người Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam là chủng lớn nhất trong dân cư Đông Á ngày nay. Nhưng khảo cổ học xác nhận, suốt trong thời Đồ Đá, trên đất Đông Nam Á không có chủng này. Vậy vấn đề đặt ra là họ có nguồn gốc từ đâu và xuất hiện vào thời gian nào? Nhờ khảo cổ học, ta biết, khoảng 5.000 năm TCN, trên đất Trung Quốc xuất hiện văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều phía nam Hoàng Hà và văn hóa lúa nước Hà Mẫu Độ vùng cửa sông Chiết Giang mà chủ nhân là chủng Mongoloid phương Nam. Di truyền học cho thấy, vào thời điểm này, người Mongoloid phương Nam là sản phẩm hòa huyết giữa người Mongoloid phương Bắc và người Việt cổ chủng Australoid. Từ thông tin này, chúng tôi đưa ra cách giải thích như sau: 6. d. Về nguồn gốc người Ngưỡng Thiều: Từ lâu, người Mông cổ phương Bắc sống du mục ở phía bắc Hoàng Hà. Mùa đông họ lùa mục súc về bên sông để tránh rét và có nguồn nước. Việc mua bán trao đổi giữa hai cộng đồng đã nảy sinh những mối tình tự nhiên và cả sự hiếp tróc diễn ra trong những lần cướp phá, dẫn tới những lớp con lai ra đời, mang bộ gen Mongoloid phương Nam. Về mặt di truyền, người Việt cổ sống ở nam Hoàng Hà có sẵn trong huyết quản nguồn gen Mongoloid. Nay được bổ sung gen Mongoloid từ người Mông Cổ phương Bắc, yếu tố Mongoloid trở nên ưu thế, chuyển hóa một bộ phận người Việt cổ trong vùng trở thành Mongoloid phương Nam. Sau hàng nghìn năm như vậy, người Mongoloid phương Nam trở thành chủ thể của dân cư văn hóa Ngưỡng Thiều. (12) 6. e. Sự hình thành dân cư Hà Mẫu Độ. Có thể người Hà Mẫu Độ được ra đời như sau: Theo nghiên cứu của Stephen Oppenheimer thì khoảng 40.000 năm trước, người tiền sử từ Việt Nam đã theo bờ biển lên cư trú ở vùng cửa sông Dương Tử. Trong số họ, có những nhóm Mongoloid nhỏ lẻ sống riêng rẽ tại đây. Họ sinh sống bằng săn bắt hái lượm mà đánh cá là nghề quan trọng. Khoảng 5.000 năm TCN, người Việt chủng Australoid làm nông nghiệp từ bên trong lục địa mở rộng vùng cư trú tới đây. Họ gặp nhau và sự hòa huyết diễn ra. Với thời gian, người Mongoloid phương Nam trở nên đa số trong dân cư duyên hải phía đông Trung Quốc. (12) 6. g. Sự hình thành người Việt Nam hiện đại Khoảng 5.000 trước, vùng Sơn Đông và Ngũ Lĩnh trở thành hai trung tâm lớn của người Việt mà chủng Mogoloid phương Nam là thành phần đa số. Cũng thời điểm này bắt đầu cuộc di cư tự nhiên của dân cư trong vùng xuống Việt Nam và các hải đảo Đông Nam Á. Đế Nghi chia đất, phong vương cho Đế Lai và Lạc Long Quân lập nước Xích Quỷ. Cũng lúc này, cuộc xâm lăng của người du mục Mông Cổ trở nên khốc liệt hơn, dẫn tới trận Trác Lộc, liên quân Việt bại trận. Trước tình thế khó khăn, Lạc Long Quân dẫn quân dân Việt dùng thuyền theo Hoàng Hà vượt biển xuống Việt Nam, đổ bộ vào Nghệ Tĩnh, như được ghi trong Ngọc phả Đền Hùng. Dòng người Việt chủng Mogoloid phương Nam trong đoàn di tản của Lạc Long Quân cùng người Việt bản địa chủng Australoid chung tay xây dựng nhà nước Văn Lang. Hai dòng người hòa huyết cho ra người Việt Nam hiện đại thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Cuộc thiên di của người Mogoloid từ duyên hải nam Trung Hoa xuống Việt Nam còn được tiếp tục trong thời gian dài, khiến số lượng người Mongoloid phương Nam tăng lên, cho tới 2.000 năm TCN trở thành đại đa số trong dân cư Việt Nam. Với nhiều chứng cứ được phát hiện, tiêu biểu là di chỉ Mán Bạc Ninh Bình 2.000 năm TCN, với 30 di hài người Australoid và Mongoloid được chôn chung, khoa học đưa ra nhận định: trên đất Việt Nam đã có sự chung sống lâu dài giữa người Australoid và người Mongoloid. Tới 2.000 năm TCN, việc hòa huyết giữa họ hoàn tất, hầu hết dân cư là Mongoloid phương nam. Như vậy có thể rút ra kết luận: người Việt Nam hiện đại được hình thành từ đầu thiên niên kỷ III TCN do sự hòa huyết giữa người Australoid tại Việt Nam và người Mongoloid phương Nam từ vùng Sơn Đông và Ngũ Lĩnh di cư xuống. Cho tới 2.000 năm TCN, chủng Mongoloid phương Nam là chủ thể của dân cư Việt Nam. (13) 6. h. Về hiện tượng Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á Từ giữa thế kỷ trước, căn cứ vào khảo sát sưu tập sọ người cổ được phát hiện ở Đông Nam Á, giới nhân chủng học nhận định: suốt trong thời Đồ Đá, chủng Australoid giữ vai trò độc tôn trong dân cư khu vực. Nhưng sang thời đại Kim khí, người Mongoloid xuất hiện và sau đó thay thế người Australoid, trở nên thành phần chủ đạo của dân cư khu vực. Hiện tượng này được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á, hoàn tất vào khoảng 2.000 năm TCN. Như vậy là, quá trình Mongolid hóa dân cư không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà chung cho toàn khu vực. Đến cuối thế kỷ trước, khoa học chưa giải thích được hiện tượng này. Ngày nay, nhờ những nghiên cứu di truyền học, ta có thể giải thích như sau: Khoảng thiên niên kỷ thứ III TCN, người Mogoloid phương Nam tại duyên hải Đông Nam Trung Hoa tăng nhân số, trở thành đa số trong dân cư. Do áp lực dân số, họ di cư sang Đài Loan, Việt Nam và các hải đảo Đông Nam Á. Khoảng 2.600 năm TCN, cuộc xâm lăng của người du mục Mông Cổ chiếm nam Hoàng Hà thúc đẩy cuộc di cư này. Do dân nhập cư và do chuyển hóa di truyền từ hòa huyết với người di cư mà trong thiên niên kỷ III TCN diễn ra quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Tới cuối thiên niên kỷ III TCN, quá trình này hoàn tất, tạo ra diện mạo dân cư Đông Nam Á như ngày nay. (12) 6. g. Sự hình thành dân cư Trung Hoa Trung Hoa là quốc gia trung tâm của châu Á, với số dân khổng lồ. Cho đến nay, nguồn gốc và quá trình hình thành khối người đông đúc này chưa được làm rõ. Vì vậy, nhiều sự kiện quan trọng của lịch sử và văn hóa phương Đông còn bị khuất lấp. Người Trung Quốc cho rằng, tổ tiên họ là người Hoa Hạ. Nhưng họ cũng chưa biết nguồn gốc người Hoa Hạ từ đâu. Vì vậy, vấn đề then chốt là xác định người Hoa Hạ là ai, xuất hiện ở Trung Quốc khi nào và trong hoàn cảnh nào? Trong thế kỷ XX, theo Thuyết Đa vùng, phổ biến quan niệm cho rằng, các sắc dân châu Á như Hoa, Việt, Mông, Mãn… xuất hiện từ xa xưa ở phía nam dải Thiên Sơn. Người Việt theo nguồn sông Dương Tử vào chiếm đất Trung Quốc. Khoảng 2.600 năm TCN, người Hoa vượt Hoàng Hà xâm chiếm đất đai, đẩy người Việt chạy dần về phương nam. Sang thế kỷ XXI, Thuyết Đa vùng phá sản, người ta đi tìm những cách lý giải khác về nguồn gốc người Hoa Hạ. Trong tài liệu Sự hình thành văn minh nông nghiệp ở Trung Hoa (14), Giáo sư Zhou jixu, dựa trên so sánh ngôn ngữ học, cho rằng, người Hoa Hạ thuộc dòng Arian từ phía tây tới. Chúng tôi thấy thuyết này không phù hợp thực tế. Nếu là người Arian thì mã di truyền (genome) của người Trung Quốc phải mang gen Á - Âu (Eurasian). Trong khi đó, chính Zhou Jixu thừa nhận, người Hán chiếm 93% dân số Trung Quốc thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Từ tài liệu di truyền học mới nhất, kết hợp với những tư liệu khảo cổ học, cổ nhân học, văn hóa học hiện có, chúng tôi thấy như sau: - Mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, như vậy người Hoa Hạ phải là kết quả hòa huyết giữa người Mongoloid và người Australoid. - Là con cháu của Hoàng Đế, người Hoa Hạ phải ra đời sau Hoàng Đế, tức là sau năm 2698 TCN và cố nhiên, phải được sinh ra trên đất Việt, phía nam Hoàng Hà. - Điều này có nghĩa, người Hoa Hạ không phải từ ngoài xâm nhập và cũng không thuộc hai nhóm Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ. - Từ đó có thể kết luận: người Hoa Hạ ra đời sau cuộc xâm lăng của người Mông Cổ, chiếm phía nam Hoàng Hà, là kết quả của sự hòa thuyết giữa người Mongoloid phương Bắc và người Việt bản địa (Australoid). Như vậy, sau cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, trên đất Việt cổ, từ lưu vực Hoàng Hà tới Dương Tử có ba nguồn sinh tạo người Mongoloid phương Nam: người Việt Ngưỡng Thiều, người Việt Hà Mẫu Độ và người Hoa Hạ trong vùng quân Mông Cổ chiếm đóng. Vừa tự sinh vừa chuyển hóa di truyền người Việt cổ, tới cuối thiên niên kỷ III TCN, người Môngoloid phương Nam đã thay người Việt cổ (Australoid) trở thành đa số trong dân cư trên phần đất Việt cổ mà sau này thuộc về Trung Hoa. Trong một hai bài viết trước đây, chúng tôi cho rằng, sau thời Hoàng Đế, người Hoa Hạ kế tục vai trò của cha ông Mông Cổ, cai trị vương triều do Hoàng Đế tạo dựng. Nhưng có thể không phải vậy. Theo sử Trung Hoa, Hoàng Đế cai trị khoảng 100 năm (2698 – 2598 TCN), tiếp theo là Thiếu Hạo và Chuyên Húc. Nhưng sau đó, vương quyền chuyển về người Việt với Đế Cốc, Đế Chí, Đế Du Võng rồi Đế Nghiêu (2337 –2258 TCN), Đế Thuấn, Đế Vũ (2205 –2198 TCN), Đế Ất (Thành Thang 1766-1122 TCN). Chỉ sau khi diệt nhà Ân, Vũ vương lập nhà Chu, người Hoa Hạ mới nắm vương quyền (1046 TCN). Để khẳng định vai trò tộc Hoa Hạ, nhà Chu nhận thủy tổ Hoàng Đế và tôn Hậu Tắc, vị quan coi nghề nông thời vua Thuấn làm tổ trực tiếp của mình. Không những thế, họ chủ trương bỏ qua các triều đại người Việt trước đó để chỉ ghi sử Trung Hoa từ thời Chu. Thậm chí, như Zhou Jixu cho thấy, lịch sử nông nghiệp Trung Hoa cũng chỉ được tính từ khi ông Hậu Tắc học trồng kê (khoảng 2.300 năm TCN). Trong khi đó khảo cổ phát hiện di chỉ trồng lúa từ 12.000 năm trước ở phía nam Dương Tử! Tuy xưng bá nhưng nhà Chu chỉ chiếm diện tích và dân số nhỏ ở Trung Nguyên, trong mối liên kết lỏng lẻo với hàng trăm quốc gia khác. Không những thế, vương triều Chu còn bị kẹp giữa các quốc gia của người Việt ở xung quanh: Ba, Thục phía Tây Nam; Ngô, Sở, Việt phía đông; Văn Lang phía nam. Vì vậy, quan niệm cho rằng nhà Chu là quốc gia lớn bao trùm Trung Nguyên chỉ là sự ngộ nhận. Thực tế cho thấy, chỉ từ khi Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc, sáp nhập Ba, Thục, Sở vào vương triều Tần, Trung Quốc mới có diện mạo như hiện nay. Như vậy, Trung Quốc hình thành chủ yếu từ sự sáp nhập đất đai, dân cư và văn hóa của các quốc gia Việt. Nhận định này cũng phù hợp với đánh giá của học giả Trung Quốc Trương Quang Trực: “Điểm gốc cùa văn minh Trung Hoa chỉ bao gồm vài ba bộ lạc ở ba tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Nam, lưu vực sông Hoài” (15). Và cũng đúng với ý kiến của học giả Bỉnh Thế Hà khi kết thúc tác phẩm “The Craddle of the East”: “Nước Tàu làm nên do những người không phải là Tàu.” (16) Do Tần Thủy hoàng là người Việt nên người Hoa Hạ không còn vị trí ưu thế mà hòa tan với cộng đồng Việt. Từ đây, danh xưng Hoa Hạ dùng chỉ chung khối người chủng Mongoloid phương Nam trên lưu vực Hoàng Hà. Hơn 2.000 năm nay, do chưa phân định rõ việc này dẫn tới ngộ nhận rằng Hoa Hạ là tộc người hình thành từ xa xưa, vượt Hoàng Hà, chiếm Trung Nguyên, dựng nước Trung Quốc, xua đuổi người Việt “chạy có cờ” về phía nam. Sự lầm lẫn lớn của lịch sừ! Có một sự thực mà it người để ý, là thời Tam Quốc, Tào Tháo muốn diệt Ngô và Thục nên dùng gián điệp điều tra hai nước này. Được giao việc, Hứa Tịnh báo cáo: “Trong suốt mười năm, tôi đi vạn dặm đường, từ Hội Kế (Cối Kê) tới Giao Chỉ mà bất kiến Hán địa.” Sở dĩ nói vậy là do Hứa Tịnh, như mọi người phương bắc, quan niệm khung cảnh văn hóa lưu vực Hoàng Hà mới là đất Hán. Trong khi đó, vùng nam Dương Tử có quang cảnh khác hẳn, từ con người tới nếp sống nên không phải là đất Hán vì vậy, không thấy đất Hán. [(許靖):“南至交州,经历东瓯、闽越之国,行经万里,不见汉地 / Nam chí Giao Châu, kinh lịch Đông Âu, Mân Việt chi quốc, hành kinh vạn lý, bất kiến Hán địa”. 三國志。蜀書].Đi trong vương quốc Hán mà không thấy đất Hán! Thực tế này là chứng cứ cho thấy, không hề có chuyện người Hán đồng hóa người Việt. Con đường đi tìm sự thật quá gian nan, nhưng bản thân sự thật thì đơn giản. Điều này hoàn toàn đúng khi nói về nguồn gốc người Việt. Nhờ khoa học tìm ra nguồn gốc cùng sự di cư của loài người, sự thật hiện ra rõ ràng giữa thanh thiên bạch nhật: người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam trở thành tổ tiên người Việt… Do lạc trong mê lộ quá lâu mà cho tới nay không ít người chưa ra khỏi tình trạng đa thuyết loạn ngôn. Có người vẫn cho rằng, người châu Á cổ hơn người châu Phi. Có người hồ nghi hỏi: chuyện lục địa chìm Atlantic giài thích sao đây? Cho tới nay, đó vẫn chỉ là huyền thoại bởi khoa học chưa tìm ra bất cứ bằng chứng nào về chuyện này. Xin cứ để nó trong truyền thuyết, bởi lẽ, dù có hay không Atlantic cũng không ảnh hưởng gì tới nguồn gốc loài người. Bản đồ gen cho thấy, từ 160.000 năm xuất hiện cho tới nay, sự phát triển của con người là liên tục! Hiện cũng có một số người bàn tán về thuyết Loài người phát xuất từ Tây Tạng do bác sĩ nhãn khoa người Nga Munđasep đề xuất. Dựa trên sự giống nhau về hình dạng con mắt của cư dân Tây Tạng với nhiều sắc dân khác, tác giả cho rằng, Tây Tạng chính là quê hương của loài người. Trước hết, cách lập luận như vậy là không hợp logic. Nếu hình dạng cặp mắt của người Tây Tạng giống với nhiều sắc dân khác là có thật thì điều này còn là kết quả của sự giao thoa gặp gỡ của những dòng người đi qua Tây Tạng. Di truyền học và lịch sử đã xác nhận: 40.000 năm trước, người Việt cổ từ Đông Á qua đây, rồi vượt Trung Á, vào châu Âu, góp máu sinh ra tổ tiên người châu Âu. Khoảng 15.000 năm trước, người châu Âu theo con đường ngược lại, qua Tây Tạng, sang phương Đông. Lúc này tại vùng biên giới phía tây Trung Hoa, người Việt đã đông nên người di cư khó thâm nhập. Họ dạt xuống tây nam, trở thành các tộc Eurasian thiểu số ở đây. Một bộ phận vượt lên phía bắc, tới Đông Bắc Trung Quốc, thành người Altaic ở Siberi, người Ainu thiểu số trên đất Nhật Bản. Không chỉ thế, người Mông Cổ, người Trung Á… nhiều lần qua Tây Tạng trong những cuộc chinh chiến ở châu Âu, Trung Đông… Chính sự di chuyển đan xen như vậy của nhiều dòng người trong quá trình lịch sử dài đã làm nên sự đa đạng trong bộ gen người Tây Tạng hôm nay. Thuyết Nguồn gốc Tây Tạng có lẽ là thất bại cuối cùng trong cuộc đi tìm nguồn gốc con người. Nó cũng thể hiện sự tụt hậu của khoa di truyền học của nước Nga, một nền khoa học lớn bị suy sụp từ thời Xtalin-Lưxencô. Thiết nghĩ, trên đây là một mặt bằng khoa học tối thiểu để có thể từ đó nhìn nhận thời tiền sử Việt Nam và Đông Á. Nếu không đứng trên ngưỡng tri thức như vậy, sự thảo luận sẽ rất dễ lạc đường. Tháng Năm 2012 HVT 1. Trần trọng Kim. Việt nam sử lược. 2. Tạ Chí Đại Trường. Về "huyền sử gia" Kim Định "huyền sử học" Việt Nam. (377) và Ảnh hưởng của Kim Định đối với các học giả trước kia và hiện nay (378) tạp chí Xưa&nay, tháng 4 năm 2011 3. Chu, J. Y. et al, Genetic relationship of populations in China, Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768 (1998) 4. Spencer Wells. The Journey of Man: A Genetic Odyssey. Princeton University Press. 2002. 5. Stephen Oppenheimer - Out of Eden Peopling on the World http://www.bradshawf...troduction.html S. W. Ballinger et al: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45 7. Tổ tiên người châu Âu là ai? http://www.radio-can...asie.shtml?ref= rss 8. G. Solheim II, The Nusantao hypothesis: The origins and spread of Austronesia speakers, Asian Perspective XXVI, 1984-1985, pp. 77-78. 9. Wilhelm G. Solheim II, Taiwan, Coastal South China, and Northern Vietnam and The Nusantao Maritime Trading Network, Journal of East Asian Archeology, JEAA, Vol. 2, No. 1-2, 2000, pp. 273-284. 10. Stephen Oppenheimer, The ‘Express Train from Taiwan to Polynesia’: on the congruence of proxy lines of evidence, World Archaeology Vol. 36(4): 591 – 600 Debates in World Archaeology, 2004. 11. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á, Hà Nội, 12. 1983. 12. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. Văn học, 2008. 13. Hà Văn Thùy. Tìm cội nguồn qua di truyền học. Văn học, 2011. 14. Zhou Jixu: The Rise of Agricultural Civilization in China. Sino-platonic papers. Number 175 December, 2006 15. K.C. Chang, The Archaeology of Ancient China, New Haven, Conn. 1968. Theo Cung Đình Thanh, “Tìm Về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam”, nxb Tư Tưởng, Sydney, 2003, tr.62. 16. Kim Định. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc. H.T. Kelton, USA, 19841 like
-
Nhà chị đây nhỉ: Chồng cháu sinh ngày 1981 Tân Dậu Cháu sinh ngày 1983 năm Quý Hợi Con trai đầu của cháu sinh ngày 2009 Kỷ Sửu. Hiện tại bây giờ cháu đang mang thai một bé trai trong bụng và dự tính sinh 2012 Nhâm Thìn. Nhà chị sinh con út 2012 là tốt rồi.1 like
-
TH xin luận: Năm sau Quý Tỵ mạng Hỏa bị mạng mẹ Thủy khắc (đồng thời khắc cả cha) nên không phải là năm tốt để sinh em bé. Nếu chỉ sinh thêm 1 bé thì năm tốt nhất là Kỷ Hợi (2019): mạng Mộc được mẹ Thủy sinh và Mão Hợi lại thuộc tam hợp -> rất tốt. Giáp cha cũng hợp với Kỷ con (mặc dù Giáp có khắc Kỷ). Sinh con trai là lý tưởng nhất, gia đình bắt đầu có thêm tài lộc từ lúc bé đc sinh ra ^^,1 like
-
2015 thì tốt quá nhưg sợ lâu anh chị ko đợi đc. 2014 cũng tốt, nhưng sinh con xong gia đình sẽ có chút biến cố trong mấy năm đầu nhé. Con út nên sinh 2018.1 like
-
Resized to 94% (was 794 x 397) - Bấm vào hình dể xem theo kích thước thật Nhìn lên bản đồ Thái Tuế chưa chiếu chính cung Khôn (năm nay chiếu hai sơn Ất Thìn). Tuy chiếu Thìn Tuất - nhưng chỉ là "ảnh" của Thiên Môn, Địa Hộ, chưa phải chính Thiên Môn Địa Hộ. Sang năm chiếu hai sơn Khôn Tỵ. Tức chính chiếu và đối xung Thiên Môn Càn, Địa Hộ Khôn - theo Phong Thủy Lạc Việt. Theo Phong thủy Tàu thì Đông Nam Tốn thì chẳng chết thằng Tây nào. Chưa nói đến phong thủy Tàu không có khả năng phân cung, định tâm chính xác toàn bộ địa cầu như PTLV. (Phân cung, định tâm cái nhà còn chưa xong, ngoại trừ những cái nhà cân bằng hình học). Bởi vậy, chỉ cần bằng phương pháp phân cung điểm hướng của PTLV và Huyền Không(*), PTLV đủ để dự báo chính xác sự rối loạn ở Ai Cập và các vấn đề liên quan năm 2011. Trên cơ sở của phương pháp này Phong Thủy Lạc Việt xác định rằng: Sang năm thế giới còn lắm thiên tai nặng nề (Năm nay 2012, cuối năm cũng đã nặng lắm rồi). Nạn đói kém xảy ra trên diện rộng, đời sống dân nghèo khốn khổ, kinh doanh trì trệ. Do đó các quốc gia nên chuẩn bị dự trữ lương thực, đề phòng cứu hộ, cứu nạn ngay từ bây giờ. Qua năm 2013, vấn đề thiên tai mới có thể ổn định trở lại. Nhưng ngược lại thì nguy cơ chiến tranh giữa các siêu cường ngày càng tăng nặng. Đến năm Thái Tuế chiếu đúng trục Đông Tây (Trục Tuyệt mạng) thì bùng nổ, khiến khổ. Đến năm Thái Tuế chiếu đúng Thiên Môn Càn, đối xung Địa hộ Khôn thì thế giới "an bình" trong tư thế của cái "mền rách". Đúng là tham sân si khiến khổ! Bởi vậy, quốc gia trọc phú, nhà quê nào mới nổi, bớt tham sân si đi. May ra thoát nạn. =============== * PTLV xác định rằng: Huyền không, không phải là một trường phái độc lập như cách hiểu từ các bản văn chữ Hán. Mà là một trong bốn yếu tố tương tác căn bản có nguồn gốc từ sự dịch chuyển các vì sao trong Thái Dương hệ. Phương pháp Huyền Không trong phong thủy nói chung chỉ là một hệ biểu hiện thể hiện có tính quy ước tương đối mối liên hệ tương tác của các sao trong Thái Dương hệ với Địa cầu. Phương pháp Huyền không chỉ là một trường hợp tương tác gần gũi so với Thái Ất Kỳ môn thể hiện sự tương tác trong một không gian rộng hơn (Lý học Việt xác định Thái Ất và Kỳ Môn là một bộ môn nhất quán và hoàn chỉnh, không phải là hai hệ thống riêng rẽ như di sản để lại). Nhưng Huyền không thể hiện sự tương tác mạnh so với các yếu tố tương tác ngoài Thái Dương hệ - Các cụ bảo "Bán họ hàng xa, lấy láng giềng gần" - Nên chỉ cần nắm rõ các yếu tố Huyền Không là biết được các hiệu quả tương tác chủ yếu.1 like
-
Thời buổi kinh tế khó khăn có việc thì nên cố gắng giữ mà làm , năm nay và năm tới đều trong cảnh ngộ khó khăn,hy vọng rằng qua năm tới sẽ không bị đuổi việc .1 like
-
Năm nay Thái Tuế chiếu hướng Đông Nam - nhìn vào bản đồ thì đúng vào khu vực Trường sa và Hoàng Sa. Bởi vậy cũng quả là lộn xộn, khó chịu thật. Nhưng để hóa giải Thái Tuế chỉ là mẹo vặt của mấy thầy Phong thủy hạng cơm, chưa nói đến cao thủ. Sắp có bão lớn đánh vào biển Đông, quí vị nào có tàu cá ở đây liệu mà rút về đi.1 like
-
NỘI DUNG BÀI VIẾT NÀY ĐÃ ĐƯỢC THỂ HIỆN LẠI Ở DƯỚI. Bài số 34 của trang này. Còn tiếp Việt sử 5000 văn hiến và Biển Đông. Cho đến hôm nay thì mọi việc đã quá rõ ràng. Dù tôi không viết những bài viết này, mọi người cũng nhìn thấy rõ những gì đã xảy và đang xảy ra. Hoa Kỳ đang chuẩn bị cho mục đích xác định ngôi vị bá chú thế giới ở phía Tây Thái Bình Dương, mà sự bành trường vô lý của Trung Quốc ở biển Đông chỉ là nguyên nhân trực tiếp. Những gì mà tôi xác định trong những bài viết thuộc topic này từ 2008 đã chứng nghiệm. Bới vậy bài viết này chỉ có giá trị khi nó phân tích một cách hợp lý và xác định được những gì sẽ xảy ra với khả năng khắc phục của con người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tôi gắn liền Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề biển Đông. Nếu tôi chỉ thể hiện ở đoạn trích dẫn trên thì sẽ rất khó hiểu vì mối liên hệ giữa Việt sử 5000 năm văn hiến và những diễn biến phức tạp ở vùng lãnh hải này. Nó có vẻ không liên quan đến nhau. Nhưng nó liên quan chặt chẽ đấy. Không có vấn đề này thì không có hiện tượng kia. Đấy là mối liên hệ logic và hoàn toàn khách quan. Nếu như việc gắn liền Việt sử 5000 năm văn hiến với lý thuyết thống nhất vũ trụ là việc có thể giải thích được. Vì không thể có một lý thuyết từ trên trời rơi xuống. Nó phải có lịch sử của nó. Khi diễn đạt và chứng minh một hệ thống lý thuyết thống nhất sẽ thiếu tính logic, nếu không chứng minh được lịch sử của nó. Lịch sử của nó không phải của Trung quốc. Điều này đã quá rõ ràng. Bởi vậy, tôi phải xác định và chứng minh nó của Việt Nam. Đó là mối liên hệ bắt buộc và hoàn toàn khách quan giữa Việt sử 5000 năm văn hiến và lý thuyết thống nhất vũ trụ. Sự phát triển của tri thức khoa học hàng đầu thế giới đã bế tắc. Điều này tôi tin rằng những nhà khoa học hàng đầu, tầm cỡ G.s Trịnh Xuân Thuận trở lên đều có thể nhận thấy điều này. Không có lý thuyết thống nhất thì dù cho thế giới này thống nhất trong một quyền lực toàn cầu dưới bất cứ hình thức nào và sự hội nhập hoàn toàn của nền kinh tế giữa các quốc gia, nó cũng sẽ rối loạn và ...sụp đổ. Điều này giống như trong một quốc gia không có hình thái ý thức xã hội vậy (Luật pháp, đạo đức và những chuẩn mực xã hội khác). Trạng chết Chúa cũng thăng hà. Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn. Việt sử "ở trần đóng khố" thì cái thế giới này cũng te tua, chính bởi mối liên hệ phức tạp của nó. Tôi có thể xác định rằng: Cả một câu chuyện dân gian Việt Nam - Truyện Trạng Quỳnh - chỉ để chuyển tải hai câu ca dao mang màu sắc tiên tri này. Nhưng chuyện này xa xôi quá. Phải đợi đến khi sự hội nhập toàn cầu hoàn tất và xác định nó thống nhất dưới mô hình nào đã. Vậy thì Việt sử 5000 năm văn hiến liên quan gì đến biển Đông? Việt sử và sự liên hệ tới một lý thuyết thống nhất là chuyện mà tôi đã giải thích ở trên. Nó cũng không đụng chạm đến ai. Nó "pha học" và "khách wan". Nói theo ngôn ngữ bình dân hiện đại là nó chẳng làm chết thằng Tây nào. Nhưng việc nó liên quan thế nào đến biển Đông thì là một câu chuyện dễ giải thích hơn nhiều. Nhưng nó lại là cái mà người ta cũng hay nói là "chuyện tế nhị và nhạy cảm". Chẳng phải ngẫu nhiên mà câu truyện cội nguồn Việt sử thời Hùng Vương - chỉ khoảng 300 năm "ở trần đóng khố", nó lại vênh váo lên ngôi vào đúng dịp Liên bang Công Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết sụp đổ và nó manh nha có hệ thống từ sau cuộc nhậu ở Tử Cấm thành. Nó nhân danh "pha học", một thứ pha học "rởm", nhưng nó được PR là "cộng đồng pha học thế giới công nhận". Tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước chính thống và quốc tế đều tung hê lên một bản đồng ca một chiều là "Thời Hùng Vương là một liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố". Chỉ một tý "dân chủ" - dù là hình thức và mang nhãn hiệu khoa học với thông tin hai chiều là có một chỗ cho những bài viết phản biện cũng không có trên các phương tiện thông tin trên cái thế giới khốn khổ này. Nói một cách hình ảnh có phần chua chất là: Không có trên "hầu hết những phương tiện thông tin trong nước" và cả "cộng đồng thông tin quốc tế", chí ít một hai bài phản biện sự phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt - để có một tý gọi là "thông tin hai chiều", một tý gọi là màu mè của tính gọi là "khách wan, pha học". Gần đây, rộ lên những bài viết trên một số blog và mạng gọi là "lề trái" cũng chẳng thấy ma nào nhắc đến Việt sử 5000 năm văn hiến, ngoại trừ những bài viết thể hiện le lói sự phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt với vài gương mặt quen thuộc (Chuyện này đã đưa lên topic nào đó trên diễn đàn). Qua đó, cũng thấy rằng vấn đề Việt sử 5000 năm văn hiến nó tế nhị và nhạy cảm thế nào với các mối liên hệ tương quan. Tất nhiên, khi tôi viết đến đây thì chắc cũng chưa thuyết phục lắm mối liên hệ giữa Việt sử 5000 năm văn hiến với các vấn đề phức tạp ở biển Đông như thế nào. Nhưng tôi hy vọng rằng những ai xem bài viết này, có thể cảm nhận được điều đó. . BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH1 like
-
Bác Thiên Sứ kính mến. Thực ra con cũng có tìm hiểu Lý học nhưng trước đây tiếp xúc với những gì mà Cổ thư chữ Hán để lại con cứ thấy mọi chuyện nó rối tung lên, nói như Bác đã nói là trường phái (Phong thủy) này đá trường phái nọ, rồi những bí ẩn mà người ta ko thể lý giải đc thì đành học thuộc lòng thực sự lúc bấy giờ con cũng thấy mất dần hứng thú với Lý học cho đến một ngày con đủ duyên hạnh ngộ với Diễn đàn Lý Học Đông Phương thì con như đc vỡ ra tất cả và từ đó con chỉ chăm chú tìm hiểu Lý học theo định hướng của Bác và thường xuyên âm thầm theo dõi Diễn đàn và những diễn biến xung quanh Diễn đàn. Đã có những lần con bực tức dến tía tai khi đọc đc những lời xuyên tạc, bôi nhọ Bác của những kẻ như Bác nói là chỉ số Bo quá cao. Cũng có lần con phản hồi kịch liệt lại bài viết của một người viết trên Common của báo Hải quan, bực quá Bác ah nhưng biết làm sao được, cuộc đời là vậy Bác nhỉ? Con hiểu con người ta khó mà chấp nhận một cái luận điểm mới dù nó có đúng như chân lý mặt trời mọc dăng Đông đi chăng nữa khi len lõi trong tiềm thức, đời sống của người đông phương qua nhiều thế hệ là những gì mà cổ thư chữ Hán đã in hằn dường như thành một "màng chất trơ" mất rồi. Càng ngày con càng Khâm phục, ngưỡng mộ lòng yêu cội nguồn, quê hương Dân tộc đến cháy rực và khả năng, trình độ cũng như đức tính dản dị, ý chí kiên cường của Bác. Nói thực là con luôn tự hào về Bác và cảm thấy hãnh diện khi được gặp Diễn đàn tìm hiểu Lý học theo con đường của Bác. Con vẫn hay thương kể với bạn bè, người thân con về Bác dù con chỉ đc nhìn thấy Bác qua hình ảnh và ngồi gõ những tâm sự này với Bác hay đọc những bài viết của Bác. Con cũng luôn tự hào và nói với mọi người sự thực về Sử Việt 5000năm Văn hiến bất cứ khi nào con có cơ hội dù họ có tin hay không. Con cảm ơ Bác đã cho con có cơ hội biết sự thực về lịch sử của Dân tộc, con cảm ơn Bác đã cho con những cảm hứng, động lực và con đường đúng đắn để con tiếp tục niềm đam mê Lý học của mình cũng như những lúc con gặp khó khăn trong cuộc sống khi nghĩ đến Bác con thấy mình mạnh mẽ hẳn lên. Ngay bây giờ đây trước khi con ngồi gõ những dòng chữ này là lúc con đang ngồi nghiền ngẫm, tìm hiểu về Lạc Việt Độn Toán và Phong thủy Lạc Việt. Dù cho bà Vanga có nói "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại. Nhưng còn lâu lắm. Nó chỉ đến khi dân tộc Arxiry bị tiệu diệt". Thì những lời bà ấy phán cũng sẽ chẳng bao giờ thành sự thực nếu không có những con người đầy nhiệt huyết như Bác bắn những phát đạn đầu tiên để xua tan đi cái bức màn huyền bí đang bao trùm Lý học đông phương và phá tan đi "màng chất trơ" đã in hằn trong tâm thức, cuộc sống của người phương Đông hàng thiên niên kỷ nay để dọn đường cho một lý thuyết cổ xưa quay lại với nhân loại. Dù ở thế hệ Bác chưa hoàn thành được con đường đó thì vẫn còn những thế hệ như các anh chị học trò của Bác và những người khác nữa hoàn thành con đường đó. Và con đương đó sẽ chẳng được đắp lên để nhân loại đi về với nền văn minh Văn Lang khi không có Bác khai phá con đường, dìu dắt thế hệ sau tiếp tục công việc. Con luôn luôn tin tưởng ở Bác, một con người mà con luôn ngưỡng mộ, quý mến, noi gương. Con chúc Bác luôn khỏe, luôn vui, thân tâm thường lạc.1 like
-
con đầu bướng, khó nuôi, khó dạy, bố làm ăn chán lắm. Nếu chị sinh Quý tỵ thì tình hình ko cải thiện đc. Phải là 2018 mới nên sinh con út. Các năm trc đó đều ko tốt.1 like
-
Khi người giàu nhất túng tiền Tác giả: ĐÀO TUẤN Ông Đặng Thành Tâm mới đây bán cổ phiếu chỉ là 1 "gạch đầu dòng" trong chuỗi vô số những khó khăn của các đại gia, mà những biến động của "chứng" (khoán) trên thị trường mới chỉ là khía cạnh có thể nhìn thấy. Người giàu nhất Việt Nam năm 2007, ông Đặng Thành Tâm vừa đăng ký bán 22 triệu cổ phiếu SQC, với giá trị ước tính 1.400 tỉ đồng trong một trào lưu mà báo chí gọi là "đại gia đua nhau bán cổ phiếu, gom tiền tươi". Nhưng đây chỉ là một "gạch đầu dòng" trong chuỗi vô số những khó khăn của các đại gia, mà những biến động của "chứng" (khoán) trên thị trường mới chỉ là khía cạnh có thể nhìn thấy. Quốc Cường Gia Lai bị khởi kiện ra tòa xung quanh một dự án BĐS ở Đà Nẵng là một điển hình cho tình trạng đại gia "gặp khó khăn". Hết quý II, đại gia này nợ tới 2.980 tỷ đồng. Và trong khi lượng hàng tồn kho lên tới 2.846 tỉ đồng thì quỹ tiền mặt chỉ còn hơn 15,3 tỷ đồng. Đại gia Bình An tiếp tục bị chủ nợ vây hãm, đòi tuyên bố phá sản, bất chấp thông tin bà Diệu Hiền có thể sẽ về nước. Thậm chí ngay cả khi Chủ tịch HAGL Đoàn Nguyên Đức mua lại 1,1 triệu cổ phiếu HAG, các nhà đầu tư vẫn tỏ thái độ mà báo chí mô tả rất chính xác là "thờ ơ". Không "thờ ơ" không được, không lo lắng không xong, khi bất chấp việc ông chủ của HAGL đăng ký mua hơn 3 triệu cổ phiếu - một động thái dư luận cho rằng mang tính trấn an hơn là một hoạt động đầu tư, bất chấp những thanh minh số nợ "chỉ" 6.400 tỷ đồng, chứ không phải 15.500 tỷ đồng, HAGL vẫn tiếp tục bị Fitch đưa vào diện "theo dõi tiêu cực" cho định hạng tín nhiệm B đối với nợ ngoại tệ, nội tệ dài hạn. Có thể các đại gia đang khát tiền mặt và tìm mọi cách thoái vốn, dù phải bán cả đống cổ phiếu của chính DN mình. Có hai điều có thể nhìn thấy qua sự kiện này: Những khó khăn của nền kinh tế không buông tha một ai kể cả đó là những người giàu nhất. Và sự bất chấp điều tiếng cho thấy những khó khăn về nguồn vốn lớn đến mức các đại gia buộc phải chấp nhận những mất mát về lòng tin của các nhà đầu tư vào thương hiệu thậm chí đã phải xây dựng trong nhiều thập kỷ. Bởi cái giá của thoái vốn chính là sự suy kiệt của niềm tin. Nghiêm trọng hơn, TTCK lại bị rúng động khi "quả bom" SME phát nổ với việc cả chủ tịch và phó chủ tịch Cty chứng khoán này bị bắt. Song nghĩ cho cùng, nỗi lo mất vốn, mất tiền không phải đến khi "quả bom" phát nổ - khi mà các mã cổ phiếu "dán nhãn SME" gần như thành giấy vụn, được bán tống bán tháo với giá cốc trà đá - 700 đồng/cổ phiếu mới có. Bởi thế, "quả bom SME", hay sự kiện người giàu nhất VN năm 2007 "bán chứng gom tiền", chỉ là dày thêm sự thờ ơ và nỗi lo. Ông Đặng Thành Tâm công khai việc phải bán cả núi cổ phiếu dẫu sao vẫn còn hơn chán vạn những đại gia khác, bất chấp uy tín, tìm mọi cách "bán lén" cổ phiếu. Như trường hợp Chủ tịch HĐQT Kien Long bank, vừa bị phạt vì "bán chui" cả gánh 876.450 cổ phiếu STB. Nắm cổ phiếu ngân hàng - loại cổ phiếu được bảo lãnh bằng danh nghĩa "an ninh tài chính tiền tệ" còn phải tìm cách "bán lén" huống chi các loại "chứng" khác. Khi mà nền kinh tế lâm trọng bệnh, khi người giàu nhất VN cũng trở thành kẻ túng thiếu, thì việc nói về một "dấu hiệu khởi sắc cho thị trường chứng khoán" hay sự phục hồi của các DN quả thực xa vời.Theo Lao động Theo Lao động1 like
-
Dây rún mẹ buộc đâu qua nổi định nghiệp NSGN - Sự đời, nghiệm ra không gì qua khỏi hai chữ nhân duyên. Dây rún mẹ buộc ao ước con cái thuận hòa, thương nhau không qua được những định nghiệp con cái gây tạo với nhau. Dây rún mẹ buộc… Trong cái hộp nhỏ, tôi tìm thấy một nùi gì đó giống như ruột heo. Nhỏ xíu. Đã khô. Mẹ nói dây rốn của ba chị em. Buộc cho thật chặt để còn thương nhau. Ngày còn nhỏ, tôi đã phải vào ở với ông bà nội. Hai đứa kế ở bên nhà bác. Còn ba đứa sau thì ở với mẹ tận ngoài Quy Nhơn. Lâu lâu gặp nhau, chỉ biết vui mừng, có khóc hay lẫy chỉ là nỗi buồn giành giựt trẻ con. Bể dâu… Ba đứa ra đi. Ba đứa ở lại. Ra đi vẫn chưa trưởng thành. Những gì cha mẹ dạy cho vẫn ủ trong lòng. Thương nhau vẫn nhiều. Vẫn lo cho nhau từng tí. Trong ba đứa đi cũng vẫn có hai đứa kia. Duyên nghiệp tụi nó gần như gắn chặt với nhau ngay từ lúc nhỏ. Đi đâu cũng chẳng lìa nhau. Dây rún mẹ buộc một nùi khô quắt không rời, chúng thương nhau lắm. Chỉ có mình tôi dây đó không thiêng, đi đâu cũng chỉ một mình. Ở lại với hai đứa sau, chị em trong nhà cũng ít gần gũi. Tình thương chúng đối với tôi không nhiều bằng đối với nhau, dù vẫn thương đó. Cũng không phải lạ. Tính tôi khó khăn, đàn bà con gái mà không dịu dàng, đúng sai phải quấy cũng chẳng biện minh nửa lời, cứ thế mà sống. Gần được mới là chuyện lạ. Cho đến bây giờ dù đã thay đổi khá nhiều, vẫn có một cái gì đó không đồng, không thể khắn khít như chúng khắn khít với nhau, dù chúng thương tôi rất mực. Dây rún mẹ buộc không qua nổi nghiệp dĩ con người gây tạo với nhau. Nhân duyên quá khứ chi phối đời sống con người hiện tại không phải là ít. Giá trị của việc giáo dục Ngày cha còn sống, giáo dục con cái rất kỹ. Nội chỉ là bà nội kế, với cha cũng không mấy tốt, nhưng không được nói một từ “nội ghẻ” trước mặt con cháu. Cha dạy từng li từng tí. Mẹ ngủ, không được lê dép, không được kéo cửa mạnh tay. Học có giờ. Ngủ đúng giấc. Vật dụng, sách vở, đồ chơi… không đứa nào hơn đứa nào. Một năm một cái cặp, hai bộ đồ mới. Giày dép cũng chỉ một đôi một năm. Phải biết giữ gìn mọi thứ cho đến cuối năm. Thứ gieo vào đầu chúng tôi không phải là làm ra tiền thật nhiều mà làm ra tiền thế nào và để làm gì. Bằng những câu chuyện nhân quả tự nhiên xảy ra trong đời. “Ông đó bạn mẹ, làm luật sư phất lên mau lắm, nhưng ba đứa con sinh ra, không đứa nào có lỗ đít. Tại làm luật sư cãi đen thành trắng, tiền vô mới lẹ…”. Mô Phật! Tụi tôi tự hiểu phải làm thế nào để con cháu mình không phải ăn vô mà ra thì phải bắt ống. Được dạy biết đủ ngay từ lúc nhỏ, đời sống tụi tôi lại được chu toàn, nên dù cha đã mất rồi, “tột đỉnh tiền bạc danh vọng” không phải là mốc phải đạt bằng được. Học hành đàng hoàng để có sự nghiệp lo cho bản thân gia đình là việc cần thiết. Dư dả thì tốt, không dư thì thôi. Cho nên, quan hệ chị em chúng tôi cho đến bây giờ, dù có những chuyện bất đồng xảy ra, cũng không phải do coi trọng tiền bạc. Vật chất không phải là thứ có thể xóa bỏ cái dây ân nghĩa gia đình. Nhà cửa cha mẹ để lại chúng vẫn giao đó. Mình tôi quản lý. Đồng tiền sinh lợi, phân nhiêu đó phân, không ai có tâm đòi hỏi, dù đó là ít hay nhiều. Cha dạy chúng tôi phải biết thương yêu, chia xẻ, hiếu nghĩa... Thương yêu để được thương yêu. Hiếu nghĩa để được hiếu nghĩa. Chia xẻ để đươc chia xẻ. Không phải chỉ nghĩ trong đầu hay trên đầu môi chót lưỡi mà bằng hành động hẳn hoi. Nếu con thương em thì hãy nhường em một bước. Nếu con thương mẹ, hãy để mẹ được bình yên dù chỉ là giấc ngủ nông. Muốn được tin tưởng thì đừng nói dối, phải biết tự tạo uy tín cho mình. “Ngày xửa ngày xưa, có một thằng nhỏ. Nó có cái tật hay giỡn. Bữa nọ, bà con chung quanh thấy nó vừa chạy vừa hét “Nhà cháy! Nhà cháy! Ới bà con ơi! Cứu tui”. Thiên hạ gậy gộc thùng xô chạy đến, chẳng thấy cháy đâu, chỉ thấy nó mặc xà lỏn đứng đó ôm bụng cười ngất. Lần sau cũng thấy nó hô nhà cháy nhà cháy. Người ta mặc nó. Nhà nó cháy thiệt. Sạch sẽ. Chỉ còn cái quần xà lỏn trên người. Lần này nó không cười nữa mà khóc hu hu… Thiên hạ xúm lại thương xót, chửi nó: “Cũng tại cái thằng mày ngu. Ai mượn lần trước mày gạt tụi tao. Lần này cũng tưởng mày giỡn, có ai mà ngờ nhà mày cháy thiệt”. Cứ thế, những câu chuyện nhỏ, cha mẹ răn dạy chúng tôi nhân quả trong đời. Ở hiền gặp lành. Gieo gió gặt bão. Nhân gieo thế nào gặp quả thế đó…(1) “Người anh tham lam lấy hết của cải của em, chỉ cho cây khế. Người em tính tình hiền lành nên được trời thương. Cây khế ra trái rất nhiều. Chim vàng tới ăn và chở cho đi lấy vàng, trở thành giàu xụ, cất nhà hoành tráng còn hơn cả anh... Tụi con thấy đó, đừng tham những gì không phải của mình. Anh em trong nhà phải biết chia xẻ với nhau. Giành giựt tham lam sẽ gặp nạn tai như người anh cả”. Ngụ ngôn, chuyện phiếm đều thành chuyện thật trong đầu chúng tôi. Không thể ý thức hoàn toàn như người biết đạo, nhưng những việc đó cũng giúp chúng tôi hình thành nhân cách của mình ở mức tương đối. Ông cũng kiểm soát chặt chẽ sách báo, phim ảnh, giờ giấc học tập, giải trí cũng như ngủ nghỉ… Nề nếp gò bó không phải là việc trẻ con thích thú. Nhưng phải làm hoài, trở thành bình thường lúc nào không hay. Có chồng con rồi, cũng không ý thức hết tầm quan trọng của việc làm đó. Chỉ đến sau này, khi đến với pháp của Phật, mới thấy ý nghĩa những việc mà cha đã làm. Cha không đến chùa học đạo nhưng cách cha dạy chúng tôi phù hợp với đạo. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: Tâm có tính huân tập và “giữ gìn nghiệp thiện ác trong vô lượng đời quá khứ khiến chẳng mất. Lại hay thành thục quả báo khổ vui trong hiện tại và vị lai không hề sai lệch”(2). Những gì ta đã trải qua sẽ được lưu giữ và tích tụ đó. Thói quen là một hình thức của sự tích tụ. Thói quen tạo thành tính cách con người và có khả năng chi phối con người rất mạnh. Tập cho trẻ con thực hành những việc lương thiện, dù là nhỏ nhặt ngay trong đời sống thường nhật, khi còn rất nhỏ, chính là giúp chúng hình thành nhân cách tốt đẹp của chúng sau này. Tập càng lâu, càng nhiều, lực của thói quen càng mạnh. Một khi thói quen đã thành tính cách của chúng thì chúng cứ thế mà sống. Muốn con hiếu nghĩa với mình, cần tập cho chúng ngay từ lúc nhỏ. Muốn con bố thí, cần tập cho chúng bố thí ngay từ lúc nhỏ. Muốn cái gì cứ tập cho chúng cái đó. Nhưng nhớ, tính huân tập của tâm thì đồng, mà cái nhân huân tập tùy nhân tùy duyên mà có sai khác. Những gì mang tính vị tha, sẽ đưa đến quả an lạc, hạnh phúc. Những gì mang tính vị kỷ, sẽ hưởng cái quả khổ đau, bất hạnh(3). Cho nên, dù tập cho con hiếu nghĩa mà hiếu nghĩa ấy mang tính vị kỷ quá mức, hạnh phúc nó hưởng cũng bị cản trở khá nhiều. Cha mẹ tập cho chúng tôi biết sống thương yêu, trách nhiệm, nề nếp, chia xẻ, thông cảm… để tạo nền tảng cho một cái quả tốt đẹp về sau, cũng là cái duyên hạn chế phần nào phần “con” trong mỗi “con người”, mà do vô minh chúng tôi đã gieo từ vô lượng kiếp về trước. Hòa thượng Tịnh Không, cho việc dạy con không phải đợi đến lên ba mà cần thực hiện khi mới tượng hình:“Trong vòng bảy ngày, hãy nên tụng bộ Địa Tạng bản nguyện. Tốt nhất là nên tụng sớm. Mỗi ngày gắng tụng một bộ. Không thì nên niệm danh hiệu Bồ -tát Địa Tạng. Cần phải dùng tâm chân thành cung kính tụng niệm…”.Vì sao dạy con mà lại niệm Phật? Vì một lòng chuyên niệm có thể chuyển nghiệp, chuyển họa thành phúc. Nếu được phúc rồi thì phúc thêm nữa. Theo ngài, nhân duyên nối kết những kẻ thân thuộc trong một gia đình không phải chỉ có ân tình mà còn cả dây oan nghiệt. Ân thì không nói. Giả như đứa bé trong thai đến để báo oán thì do tụng niệm như vậy, oán kết sẽ được hóa giải. Cho nên, chuyển nghiệp phải chuyển ngay từ buổi đầu. Chậm nhất cũng là bảy ngày trước khi mẹ sinh. Ngày nay, đa phần ít tin nhân quả nên ít dạy trẻ cái nhân vị tha. Cũng không biết tâm có tính lưu giữ, nên để con trẻ tiếp xúc thoải mái với các phim ảnh thiếu tính giáo dục. Chỉ huân vào tâm hình ảnh trả thù, tàn phá, cướp bóc mang tính vị kỷ. Người lớn không thể làm chủ dục vọng của mình nên không thể dạy trẻ con làm chủ dục vọng của chúng. Gia đình bất ổn, xã hội không thể an bình. Cũng ít ai tin một lòng cung kính trì niệm danh hiệu Phật Đà có thể chuyển nghiệp của mình và con, nên ít ai chịu niệm Phật khi đang mang thai. Chỉ thích nghe nhạc, đọc sách… để con phát triển tư duy, sau này có danh, có lợi với đời. Quên mất danh lợi vô thường. Có mà vui thì mất không khỏi khổ. Và nếu nghiệp của con trẻ và mình không tốt thì khó mà có tương lai để nói mấy chữ thông minh, hạnh phúc. Em bé bị xuất huyết não. Bố mẹ cả hai đều là bác sĩ nhưng đành bó tay mà nhìn con trẻ ra đi. Chỉ vì… ùn tắc giao thông. Honda còn không thể nhích nói gì xe hơi. Chẳng ai có thể nhường ai lúc đó. Với duyên như vậy, nương vào sức người làm sao gỡ được? Thuyên tắc nước ối là một bệnh lý rất hiếm. Trong 100.000 ca sinh chỉ khoảng 7 ca xảy ra. Bệnh này không có dấu hiệu báo trước, không thể phòng ngừa, đa phần bệnh viện không thể xử lý kịp thời, nên tỷ lệ tử vong cả mẹ và con rất cao. Vậy mà vừa rồi nó đã xảy ra, khi mà sức khỏe thai phụ trước đó vẫn tốt, cổ tử cung đã mở, thai nhi đã lọt xuống dưới(4). Phải nói, trong đời có nhiều cái duyên nhìn vào thấy thật đau lòng. Có nhiều oan nghiệt nhìn vào không biết trở tay ra sao. Duyên nghiệp con người đã tạo từ thời quá khứ, nếu không dùng câu niệm Phật hay những thiện nghiệp hóa giải ngay từ lúc đầu, thì khi nghiệp báo đủ duyên, không thể trở tay. …không qua nổi định nghiệp Những gì cha mẹ đã dạy trở thành máu huyết tuôn chảy trong người chúng tôi. Rồi cha mất sớm. Mẹ một tay lo hết trong ngoài. Đứa thứ hai, một trong hai đứa quấn cùng dây rốn với tôi, xứ lạ quê người, thay mẹ gồng gánh hai em khi tuổi chỉ mới mười lăm. Tự thân vừa học vừa làm, lo cho hai em học hành đến nơi đến chốn, công danh sự nghiệp ở đời đầy đủ. Trong mấy đứa em tôi thương nó nhất, tại nó chững chạc và biết lo toan trong ngoài, lại rất hiếu nghĩa. Không phải chỉ với mẹ cha mà cả với chị với em, dòng họ thân thuộc. Mẹ mất. Thằng bé nghe tin hụt hẫng. Thêm vài chuyện nữa, quá tải cái đầu của nó. Câu chuyện chén tạc chén thù cho qua những phút khổ đau trong phim Hàn Quốc hiện ra. Không ai thấy rượu nguy hiểm. Chỉ thấy nó giúp quên được ít nhiều. Không thấy nó thấm vào máu vào xương. Tích tụ. Khiến người tê liệt hết mọi suy nghĩ tốt lành. Câu chuyện uống rượu không phải là lý do chính tạo sự chia rẽ giữa anh chị em. Nhưng chính do rượu, cái tính bình lặng ngày xưa không còn, không còn phân biệt đâu phải đâu trái như xưa. Nghe khích một câu, tức lên chửi loạn xà ngầu. Giận rồi đâu còn khôn nữa. Cái việc nói ra nói vô để chồng tách hẳn gia đình thân thuộc không phải chuyện lạ ở thế giới này. Mình cũng có chồng, cũng hiểu phần nào tính ích kỷ ấy. Nhưng do cậu em một phần. Lấy vợ mà vẫn nghĩ chết để lại tất cả gia tài sự nghiệp cho cái dây rún kế sau, trong khi tiền bạc danh vọng con nhỏ không thiếu. Vợ nào chịu nổi mà không tính chuyện tách thửa khi nó phải lo cho đại gia đình của nó. Thế là cô vợ chơi chiêu thủ thỉ, lần lượt cho đi. Lúc đầu mấy đứa bên kia. Tới sau, mấy đứa bên này. Dây rún mẹ buộc một mình cô bứng ra hết, cho đi nhẹ nhàng từng em. Tính ra con nhỏ bỏ sức cũng nhiều. Bởi lấy nó về, cậu em bỏ rượu ít nhiều, không còn hũ chìm hũ nổi như xưa. Bạn xấu đi hết, sự nghiệp nhà cửa vững vàng. Cũng vì chuyện đó, chị em chúng tôi chẳng thấy nề hà cái việc tách thửa mà cô đã làm. Miễn thấy em mình có vợ có chồng, mạnh khỏe an ổn là được. Việc giúp gia đình thân thuộc bên vợ cũng là việc tốt, giữ gìn cái phước về sau, có gì nề hà? Thấy nó khỏe yên là được. Chuyện chỉ có vậy. Ly hợp hợp ly. Cũng chuyện bình thường ở thế giới này. Có điều, du qua cái khúc ly hợp ấy rồi mới thấy câu nói người xưa giá trị. “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Ai cũng hay sợ nạn xấu xảy ra với mình, nhưng khi gây nhân lại rất mạnh tay, ít ai nghĩ tới nhân quả. Không nhân, thì duyên dù đủ bao nhiêu, cũng không có quả. Nhưng nhân một khi đã gieo, trúng phải định nghiệp, thì thôi xảy ra vô vàn cái duyên khiến mình hết đường xoay xở, chỉ biết ì đó chịu trận. Lời nói cô vợ không có giá trị nếu không có sự trợ giúp bên đây. Nói tiếng “trợ giúp” là muốn nói đến cái duyên liên quan hai đứa bên này. Không phải vì chúng nói ra nói vô với cậu em trai. Chúng thương tôi lắm, lo toan con cái nhà cửa cho tôi tất cả. Tôi vẫn bảo bọc cho chúng từ khi mẹ mất. Nhưng đời nhiều duyên đưa đẩy… Một con bảo lôi nó ra vì nó lúc tỉnh lúc mê, làm ơn giúp nó. Mình lôi nó ra chưa xong, một phút vô minh, nó hô mình đang phá nó. Một con nói làm cái việc mà dù muốn làm, mình cũng không thể làm được. Giải thích. Nó bực và đòi bỏ đi… Vô thế. Chỉ nghĩ thoáng rằng “đen trắng thế nào, thời gian rồi sẽ trả lời. Khi qua cơn mê, chúng sẽ nghĩ lại”. Thì chúng nghĩ lại. Ân hận. Thương tôi nhiều hơn. Nhưng cách một bể đại dương, qua một cái đầu đã có chủ ý, trở thành câu chuyện cản trở hôn nhân, giành giựt nhà cửa. Cho rằng cấu xé, thương tổn, ra đi đều vì chuyện đó. Cậu em bực tức vì nghĩ tôi bạc với anh chị em. Nghiệp quả đến hồi phải trả, duyên tụ khít khao vô cùng. Lúc trước rất buồn. Khóc sưng cả mắt cá chân. Cái thằng mình thương nhất nhà, chưa từng một lời nói nặng với nó, lỡ hết tiền bạc của mình, mình cũng cười vui để nó không buồn. Vậy mà… Giờ thì mặc kệ. Không kệ thì làm gì được? Phần Báo Oán Hạnh nói rằng: “Người tu khi gặp cảnh khổ phải tự nghĩ rằng: Ta, từ xưa đến nay, trong vô lượng kiếp, bỏ gốc theo ngọn, cho nên trôi lăn các cõi. Đa phần gây tạo cái nhân oán ghét nghịch hại vô cùng. Đời này tuy rằng không phạm, nhưng do cái họa đời trước, nghiệp ác chín rồi, không phải trời không phải người có thể cùng thấy. Cam tâm nhẫn chịu, trọn không oán trách”. Lời Tổ nhắc tôi nhớ lại cái đêm không trăng không sao trước đó vài năm, mơ thấy con em vơ cái bát dơ đặt lên bàn thờ. Mẹ không la nó, lại ném cái bát ngay vô đầu mình. Cái điềm oan gia báo trước cho rồi mà quên. Không phải lỗi mình mà mình phải lãnh cái quả. Ừ, ừ, không phải lỗi mình là nói cái duyên hiện tại. Trên mặt nhân quả ba đời, làm gì có quả mà không có nhân. Bạn bè trách tôi sao không giải thích cho thằng em tỉnh. Giải thích nếu được, Bạch Ẩn ngày xưa chắc giải thích rồi, đâu phải ôm trẻ xin sữa từng nhà, uy danh mất hết, để người mắc tội. Một khi kiến chấp đã có thì nói kiểu gì cũng biện cho thành cái ý đã nghĩ. Hai nhân vật chính cũng đã giải thích nhưng đều vô hiệu. Nghiệp gây tới hồi trả quả, càng biện càng mệt, càng động càng vương. Vả lại, nói nặng nói nhẹ là chuyện đâu đó bàn tán sau lưng. Trước tôi, chưa dám một lời xúc phạm, thành nói gì giờ? Thôi thì lặng lẽ coi như không có việc gì. Mình khỏe mà người khỏi mệt. Cha mẹ chẳng may còn đó, cũng sẽ buồn vì thấy con cái lời qua tiếng lại, cũng sẽ yên vui nếu thấy mình chẳng để tâm, thân thuộc vẫn là thân thuộc. Khi nào tỉnh giấc Nam Kha thì quay đầu về. Họa phúc đâu có ranh giới nhất định. Chỉ tùy suy nghĩ từng người. Không trí, phúc biến thành họa. Có trí, biến họa thành phúc. Buồn chi cho già! Cái chính là tôi mơ thấy trong vô lượng kiếp về trước, tôi đã khiến người uất ức vô vàn. Cũng thấy vì sao khiến người uất ức nhưng nói ra đây không tiện. Trong mơ, thấy vô lượng người uất ức, tôi mới nảy sinh ý nghĩ thí thân xóa oán. Ai muốn làm gì đó làm, chỉ với điều kiện xóa bỏ oán xưa. Đa phần chỉ mới nghe qua, tâm đã hoan hỷ tha thứ bỏ đi. Còn lại người chửi, người đánh, người đòi xẻ thịt. Đánh tới đâu an lạc tới đó. Xẻ tới đâu mạnh khỏe tới đó. Giấc mơ rất ứng với câu trong Báo Oán Hạnh: “Khi tâm sinh, cùng lý tương ưng. Nhờ vào gốc oán mà tiến được đạo”. Nếu “không” được tâm với tất cả sự - nghĩa là ngay nơi những việc xảy ra mà tâm yên được - thì khi oán tới chính là cái duyên giúp mình tiến đạo. Sự đời, nghiệm ra không gì qua khỏi hai chữ nhân duyên. Dây rún mẹ buộc ao ước con cái thuận hòa, thương nhau không qua được những định nghiệp con cái gây tạo với nhau. Quan hệ thân thuộc, không phải chỉ có nhân duyên thuận hòa mà còn nhân duyên oan nghiệt. Người nói con nghe, người dạy con khó, thân thuộc bạc ác… một phần cũng do duyên nghiệp đời trước chi phối. Phước nhiều thì thuận hòa nhiều. Phước ít, oan nghiệt tăng thạnh. Cái phước chúng tôi có được là trong hiện đời cha mẹ biết cách dạy dỗ chúng tôi, lại còn gặp được giáo pháp Phật Tổ đã dạy. Nên nghiệp báo tới mới không đến nỗi muộn phiền. Cũng được trợ giúp bằng những giấc mơ để biết nhân quả mà không tạo thêm nhân mới. Không thì lời qua tiếng lại, thù hằn, oán hận không biết bao giờ mới nguôi trong kiếp luân hồi. Chú thích (1) Đây là nói nhân quả trên mặt tổng quát thiện ác. Với cái nhìn chi tiết, theo Duyên khởi của nhà Phật, thì mọi thứ còn bị chi phối bởi duyên. (2) Phần Thức tương tục. (3) Đây là đang nói trên mặt Nhân quả. Nhân như thế thì cho ra quả như thế. Trên thực tế, thấy có sự sai khác ít nhiều là do nghiệp hiện tại còn bị chi phối bởi nhân duyên đời quá khứ, không phải nhân quả có sự sai lệch. (4) Báo Tuổi Trẻ ngày 11-5-2012. Chân Hiền Tâm1 like
-
Cả từ và cả chữ, "Tương" thể hiện rõ “Ta với Mình tuy hai mà một, Mình với Ta tuy một mà hai”. Cái lý Âm Dương của người Việt là “Âm Dương hài hòa” (nguyên tắc của dưỡng sinh), có Hai, có phản biện để mà phát triển, nhưng hài hòa lợi ích để mà tiến bộ. Vậy mà chỉ có tiếng Việt mới đúng con số 2 gọi là Hai, Hai=Hài=Hòa=Hoa=Hiển=Hách (qui tắc Tơi-Rỡi). Ca dao đã giải thích như vậy: “Thuận vợ thuận chồng, biển Đông tát cạn”, “Khó sao chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho tày”. Hai = Hài Hòa. Chẳng phải đơn giản mà người miền Nam khi hỏi người khác mà chưa quen chưa biết tên, là câu: “Cậu Hai, cô Hai ơi làm ơn chỉ giùm…”, nó như là câu Quan Họ: “ Ới này anh Cả, anh Hai đấy ơi…”. (Tiếng nước ngoài làm sao dịch nổi cái ý của nó ?). Cái văn hóa trọng người và khiêm tốn ấy của người Việt đến bà ve chai không biết chữ vẫn biết ứng xử một cách tự nhiên. Không có lịch sử văn hiến Lạc Việt 5000 năm thì không có được cái câu nói đơn giản đó. Đến con số 3 thì Việt gọi là Ba. Ba = Ta. Ba = Bầu Trời. Ba = Bổn = Vốn = Vùng = Vuông= = Ruộng (cái lợi ích cốt lõi của con người từ thượng cổ đến nay vẫn là Ruộng Đất). Cả cái lý thuyết uyên bác Thiên-Địa-Nhân rồi dẫn đến cái Tam Quyền Phân Lập, nó nằm sẵn ở trong cái số gọi là Ba của người Việt cả. Chẳng phải đơn giản mà người miền Nam từ thủa khai thiên lập địa đã gọi cái Vệ cho mỗi con người được khỏe mạnh và văn minh là cái áo bà Ba (sao không gọi là áo bà Một hay áo bà Nhứt cho nó hàng đầu luôn ?). Mấy trăm năm trước, khi người Mỹ lập nước Hoa Kỳ, họ đã học Hai và Ba của tiếng Việt mà xây dựng nên cái giá trị Mỹ là sức mạnh vô địch vì nó tiên tiến nhất thế giới ngày nay. Chẳng thế mà người phương Đông từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Singapore … cứ ùn ùn qua Mỹ học, rồi lại muốn người Mỹ qua phương Đông đầu tư. Cái ký tự cổ đại khắc trên mu Rùa (Qui) hàng vạn năm trước đã bị con Ngựa (Mã) dẵm nát muôn mảnh tứ tung (vì nó không hiểu nổi) và chìm trong bụi mờ của lịch sử hàng nghìn năm qua. Nhưng nó lại như là run rủi cho “phản thiết” (nói lướt và nói lái) qua lại (như cách đọc trong “Thuyết Văn Giải Tự” của Hứa Thận) về Hai chữ Qui Mã, báo trước thời đại hội nhập văn hóa Đông Tây toàn cầu. Người phương Đông thích treo một con chữ trong nhà để ngắm mà ngẫm. Ở VN thấy nhiều nhất thư pháp chữ TÂM 心, chữ NHẪN忍, ở Nhật Bản lại thấy chữ NẠI 耐, ở Trung Quốc thấy chữ HÒA 和. ( Như chữ HÒA 和 và kèm câu “Nhàn đàm mạc luận tha nhân quá. Tĩnh tọa hy tư tự kỷ phi 闲 谈 莫 伦 他 人 过 。 静 坐 希 思 自 己 非”. Đó là một câu khuyên: Khi “buôn dưa lê” thì đừng nên bàn cái xấu mà mình đã biết của người khác. Và một câu trách: Khi ngồi yên lại ít chịu nghĩ đến cái sai lầm của chính mình ). Vậy mà “từ nguyên” của từ Hòa là là từ Hai (từ trong cái lý Âm Dương của người Việt), mà tư duy cụ thể thì nó là do từ nền văn minh lúa nước: Hòa 和 là lướt “Hột lúa 禾 Ta” Ruộng Vuông 口 giữ Nước phải pha mặt Bằng 平 Ngẫm ra hai chữ Hòa 和 Bình 平 Là trong đạo Hiếu 孝 của mình Việt nêu “Hai Yêu” cũng thể “Hòa Yêu” Trên Lão 老, dưới Tử 子. Lâu 老 đều do Con 子 Người trẻ chỉ cần ngắm một chữ HÒA 和 mà ngẫm trách nhiệm của mình giữ gìn bền lâu (Lâu=Lão=Luôn Luôn) cái sự “Hai Yêu” = “Hòa Yêu” = Hiếu 孝, là cái Nôi văn hóa Việt. Khi là công nhân hay sinh viên ở chung phòng cùng một người khác dù quốc tịch nào, chỉ cần treo một chữ TƯƠNG 相 để ngắm mà ngẫm, vì đó là chữ do người Việt biết ghép Âm Dương mà tạo ra MỘT MỘT = MỘC 木 MỤC 目 = TƯƠNG 相 = “Tình Thương” = Tương, để biết thẳng thắn, thương yêu, giúp đỡ nhau, tương trợ nhau (như người Mỹ), bởi có Mắt mới có thể Mọc ra cây Măng tre thẳng.1 like
-
Bộ Thủ 部 首 nghĩa là bộ phận đầu , mà lại không gọi theo ngữ pháp Hán là “thủ bộ”- Thủ 首 là đầu, Bộ 部 là bộ phận – mà lại gọi theo ngữ pháp Việt là “bộ thủ” ? Để xét xem “bộ thủ” là có gốc Việt như thế nào hãy xem vài bộ thủ qua ví dụ vài con chữ nho cụ thể: 1.Bộ Tủy 夊 nghĩa là chậm, là lướt “Từ từ tùy Kỹ” = Tủy. Xem chữ Giáo 教 gồm chữ Già 老 ở trên, chữ Con 子 ở dưới và bộ thủ chữ Tủy 夊 bên cạnh. Già thì ra Lão 老, trong cái Nôi khái niệm Già=Dài=Dai=Dãn=Dão=Lão=Lao=Lâu=Lớn=Lang=Lãnh, từ đôi “dài lâu” và “lớn lao” đều là nói về tuổi, quan Lang cũng là quan Lớn, là Lãnh đạo của một Lãnh thổ (nôm na thì Lãnh đạo là đầu Lớn, Lãnh thổ là đất Lớn). Con thì ra Tử子, trong cái Nôi khái niệm Kẻ=Con=Quan官=Quân君=Cái=Ko=Cu=Tu=Tí子=Tử子 ( Ko là người Nhật dùng, Tu là người Tày dùng, Tử 子 là người Hán mượn dùng nhưng họ phát âm lơ lớ là “dử”). Tủy夊 là tên một bộ thủ, có nghĩa là “chậm”, tượng hình giống như hai chân đi dọc theo trên một thanh cầu khỉ, đương nhiên là động tác ấy phải Từ Từ, phải Tùy, phải Kỹ; lướt cả câu có ba mệnh đề là câu “Từ từ-Tùy-Kỹ” thì thành Tủy 夊. Chữ Tủy 夊 này trong Hán ngữ không có đứng riêng một mình để mang nghĩa là gì cả, cũng như hầu hết các bộ thủ khác cũng vậy. Nhưng Từ từ-Tùy-Kỹ thì chính là nguyên tắc của giáo dục: Phải chậm Từ Từ, phải Tùy đối tượng học, phải Kỹ càng. Chữ Giáo, thuyết văn giải tự của Hứa Thận giải thích nghĩa của nó là “thượng thi hạ hiệu” tức cái hành vi thực thi của người trên sẽ là cái hiệu quả cho người dưới bắt chước (về sau suy diễn thành các câu thành ngữ “nhà dột từ nóc”, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”). Giải thích ấy của Hứa Thận cách nay 2000 năm cũng đúng như kết cấu bằng tiếng Việt của từ Giáo 教 là ở câu “Già làm mẫu cho trẻ Háo” được lướt gọn lại thành “Già…Háo”=Giáo.(Háo là do lướt “Học cho đến Thạo” = “Học…Thạo” = Háo). Cả kết cấu, hình tượng, cả ý nghĩa và nguyên tắc của chữ Giáo 教 đều thấy thể hiện đầy đủ trong câu ca dao Việt : “… Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi. Khó đi, mẹ dắc con đi. Con thi trường học, mẹ thi trường đời” 2.Bộ Thỉ 豕, trong Hán ngữ nó không đứng riêng để dùng là nghĩa gì, tra cổ, nghĩa là con vật thuộc động vật có vú, vậy “từ nguyên” của nó là con “Thịt” mà người Việt chỉ con thú săn về hoặc con gia súc. 3.Bộ Am 广, mang nghĩa là che chở, bởi “từ nguyên” của nó là cái “Ổ”, mà nôi khái niệm Ổ=Ôm=Ấp=Ẵm=Am=Âu=Ủ, mẹ Âu Cơ ấp ủ vì mẹ là dòng Chim=Tim=Tiên. 3.Bộ Miên 宀 nghĩa là mái che, từ nguyên của nó là lướt “Mái Hiên” = Miên, tức là cái Vòm 宀 che . Xem chữ Vũ 宇 nghĩa là không gian tức là cái “Vòm Ủ = 宀 + 于 = 宇” = Vũ 宇. Cái Vòm 宀 ấy là bầu trời, nên thời gian là cái “Trời Du= 宀 + 由 = 宙” = Trụ 宙 . Có từ ghép Vũ 宇 Trụ 宙 nghĩa là không gian và thời gian. 4.Bộ Hãn nghĩa là Hang 厈 (Hán ngữ gọi hang là cái “động 洞”) 5.Bộ Tịch 夕 nghĩa là đêm, từ nguyên: Tịch=Tối=Tăm=Đắm=Đêm (Hán ngữ gọi đêm là “dạ 夜”) Chỉ có trong tiếng Việt mới có từ NÔI (cái để đứa trẻ sơ sinh nằm nghe mẹ ru, dạy cho tập NÓI những từ đầu tiên của “Tiếng Mẹ Đẻ”, dịch sang tiếng Anh là “Tâng Ma Thơ” - “Mather Tong” – theo qui tắc “Tơi” và qui tắc “Rỡi” trong tạo từ của tiếng Việt mà tôi đã nêu trong những bài trước thì: Tiếng= “Tâng”= “Sâng”, “sâng” là phát âm của Hán ngữ, tức chữ “thanh 聲”. “Tâng” tiếng Anh nghĩa là Lưỡi, trong tiếng Việt thì lướt “Lưỡi Nói” = Lời. Tất cả đều từ Lõi mà ra, tức từ trong tư duy. Lõi = Lời = Nhời = Nhắn = “Yán”= Ngôn, “yán” là phát âm của Hán ngữ. Nhắn Gọi = Ngôn Ngữ 言 語, Hán ngữ diễn đạt là Ngữ Ngôn 語 言), NÔI ấy là cái Nôi khái niệm, tức Nơi sinh ra mọi khái niệm trong ngôn ngữ. Chẳng phải ngẫu nhiên mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết câu đầu tiên của sách dạy phổ cập chữ Quốc Ngữ là câu “O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”. Chữ O, nó là “Lõi” của chữ NÓI. Chữ Ô, nó là “Lõi” của chữ NỔI, chữ Ô ấy là cái Ổ của mọi khái niệm Âm (chữ N- thành phần của NÔI, là viết tắt của Negative tức Âm) và mọi khái niệm Dương (chữ I- thành phần của NÔI, là viết tắt của Innegative tức phủ định âm là Dương. Nhận định của giáo sư Trần Ngọc Thêm đã được hội thảo quốc tế tại Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh Trung Quốc công nhận, rằng “khái niệm Âm Dương là của người Việt”). Chẳng phải ngẫu nhiên thì chắc là do tổ tiên run rủi. NÔI khái niệm của tiếng Việt cũng như cái NÔI văn hóa Việt, nó là cái NỖI túc trực bên trong mỗi con người Việt, gọi là Nỗi Lòng. Nó là cái tâm thức nặng sâu thăm thẳm bên trong là cái NỘI, gọi là Nội Tâm. Nó có ảnh hưởng rộng lớn ra ngoài từ thời quốc gia Văn Lang mênh mông (“bắc giáp Động Đình Hồ, đông giáp Đông Hải, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn” như chính sử ghi) có nền văn hiến rực rỡ 5000 năm trước, gọi là NỔI tiếng, đó là sự Nở của văn hóa, một khi nó là đi đầu, như cái Đầu Gạo của hạt cây mọc ra Rễ trước khi mọc mầm để Lên thành cây ( lướt “Đầu Gạo” = Đạo 道, ở cái cụ thể như ở cái cây thì Đầu Gạo để mọc mầm là cái Đi Đầu, ở cái trừu tượng như ở tư duy con người thì cái Đầu Gạo = Đạo là cái Đi Đầu, chữ Đạo 道 viết bằng ghép hai chữ Đi 辶và Đầu 首, 辶+ 首 = 道, vậy chữ Nho này là của Việt hay của Hán ? mà Khổng Tử gọi chữ Nho là Nhã Ngữ ?, Nho Nhã nghĩa là “chữ nho của người Nhã” tức của nước Dã Lang 也 郎 = Dạ Lang 夜 郎 = “Duê” Lang 粵 郎 = Di Lang 夷 郎 = Du Lang 于 郎 = Vu Lang 于 郎 = Việt Lang 越 郎 = Văn Lang 文 郎, lướt ông “Lớn Làng”=Lang, Văn Lang là “cái Vuông tức cái Vùng của ông Lớn Làng”, lướt “Bản Làng” = Bang, Rộng Bang = Hồng Bàng 鴻 龐 . “Hồng” nghĩa là Rộng, nạn hồng thủy tức “nước rộng” hay Nước Ròng cũng là Nước Rồng vì họ thờ Rồng tức là người dòng Long, chữ Hồng 鴻 viết biểu ý bằng ghép chữ 江 Giang=Dòng=Sông=Rộng=Rồng=Long chỉ vùng ven biển là vùng sông nước nơi trồng lúa của Lạc Long Quân, với chữ 鳥điểu là Chim=Tim=Teen=Tiên tức là người dòng Tiên của mẹ Âu Cơ, 江 + 鳥 = 鴻, bản thân một chữ Hồng 鴻 viết biểu ý và nghĩa là “rộng” này đã bao hàm cả Rồng và Tiên; chữ Bàng 龐 cũng nghĩa là Rộng như trong từ ghép có về sau là từ “bàng đại”, chữ Bàng 龐 viết biểu ý bằng ghép bộ thủ 广 Ôm=Ấp=Ẵm=Am=Âu nghĩa là “che chở ấp ủ” như chim mẹ Âu Cơ dòng Tiên, với chữ Long 龍 là Rồng của dòng Lạc Long Quân, 广+ 龍 = 龐, bản thân chữ Bàng 龐 viết biểu ý và nghĩa là “rộng” này cũng đã bao hàm cả Rồng và Tiên. Từ đôi Hồng Bàng gồm hai từ đồng nghĩa Hồng và Bàng đều nghĩa là “rộng” có nghĩa nhấn mạnh cái tính chất “rộng” như của qui tắc “từ đôi” trong tiếng Việt, có hai tức có Âm cùng Dương thì mới có nở để mà rộng. Cái khái niệm “rộng” này phải dùng từ đôi để diễn tả vì nó hàm hai ý: rộng về lãnh thổ là từ nam Dương Tử đến vịnh Thái Lan ngày nay và rộng về đa sắc tộc đến cả nghìn sắc tộc cùng văn hóa lúa nước cùng ngôn ngữ Nam Á của một gen Bách Việt. Chỉ có người Việt gọi mình là con cháu Tiên Rồng 仙 龍, thường hay đặt tên con trai là Long, con gái là Phụng. Người Hán về sau tiếp thu văn hóa của người Việt, cũng tự gọi mình là con của Rồng, nhưng lại không có Tiên, bởi chưa quen tư duy Âm Dương, nghĩ có Một là được rồi, người Việt có Một rồi phải nghĩ ngay để có Hai đã, rồi mới tính chuyện tiếp được, còn về sau thì phong kiến lấy hình tượng Rồng làm biểu tượng của quyền uy. Chính nền văn minh nông nghiệp trồng trọt của dân Bách Việt đã tạo nên nền tảng đầu tiên cho Văn minh Trung Hoa, chứ không phải nền chăn nuôi du mục của dân Hán tạo nên đầu tiên. Cái Rễ đầu tiên của nông nghiệp trồng trọt Văn minh lúa nước chính là cái Lễ, là cái đầu tiên con người phải học, như câu “Tiên học Lễ, hậu học văn”, con người cũng như cái cây, cây có Rễ trước mới thành được cây, người có biết Lễ trước đã rồi mới thành được người có nhân cách, khẩu hiệu của giáo dục bây giờ phải là: Nhân tình - Nhân tính - Nhân cách - Nhân tài, đó là những bước đi tuần tự cụ thể mà người Việt xưa đã dạy, chứ không phải đi học ở cái chủ nghĩa nào Ngoài vào cả). Cái Nở=Nổi của văn hóa Văn Lang 5000 năm trước thể hiện sự Nổi Trội hơn các nền văn hóa khác xung quanh. Khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở nam Dương Tử, những văn hóa vật thể vì nhiều lý do có thể bị tàn phá hoặc chôn dấu xuống lòng đất, lâu dần sẽ bị ăn mòn đến không còn gì, gọi là mất , nhưng những văn hóa phi vật thể thì không thể đem chôn được, nó lặn vào trong tâm thức, cho nên người Việt vẫn nhớ mãi mồn một về tổ tiên xưa của mình, và có tục thờ cúng Tổ Tiên. Từ run rủi là dùng trong lĩnh vực tâm linh, mà Tâm=0, Linh=0 nên Tâm Linh=0+0=1=Có (theo qui tắc số học nhị phân, xuất phát từ khái niệm Âm Dương của người Viêt); tâm linh là Có cho nên cũng Có run rủi thật. Ngôn từ Việt tinh túy và chính xác, chỉ có thể giải thích bằng lịch sử văn hiến Văn Lang rực rỡ 5000 năm ở nam Dương Tử. Cái NÔI ấy là cái Nôi Văn Hóa. Tổ Tiên xưa chắc đã tiên đoán sẽ có bọn phủ nhận Văn Minh Lạc Việt nên truyền lại câu nhắc nhở trách nhẹ nhàng là “Bụt chùa nhà không thiêng”. Câu này chắc chắn là xuất hiện trước khi có Phật giáo Đại Thừa ở Trung Quốc. Vì cái thời ấy người Việt Nam vẫn gọi là Bụt, trong các chuyện cố tích đều có ông Bụt. Cái Nôi Văn Hóa thời Văn Lang ấy là một cái NÔI vĩ đại . Vĩ Đại cũng thanh điệu thuộc Nhóm 0, tức cái vĩ đại là do Trong, chứ không phải do truyền từ Ngoài. Vĩ Đại có “từ nguyên” của nó là cái âm tiết Việt To, do thời cổ đại ở vùng Hoàng Hà, như sử thư ghi, là nơi tranh chấp giữa “nam phương Việt, bắc phương Hồ” mà vùng người Việt có đông dân hơn và có văn minh cao hơn nên gọi là “Việt To”. Người Hán phát âm lơ lớ thành là “Uẩy Tà”, thanh điệu lại thành ra thuộc Nhóm 1 tức do Ngoài. Điều này như chứng minh rằng văn minh Hoa Hạ là thừa hưởng văn minh Bách Việt ?, mà Khổng Tử từng nói “chúng ta học cái văn minh từ Phương Nam” ? tức là từ Ngoài vào. Hiểu rõ chữ NÔI, thanh điệu là dấu “không”, giống như Trung Dung, như Văn, như Giao, như Giữa đều là thuộc Nhóm 0 = Âm, tức TRUNG LẬP thanh điệu cũng thuộc Nhóm 0, mà chữ Văn 文 trong Văn Lang và chữ Giao 交 trong Giao Chỉ được Thuyết Văn Giải Tự giải thích rằng, nó chỉ là cách viết lệch đi của chữ Vuông 口. Cái Vuông ấy là hình tượng cái bánh Chưng, chuyện cổ tích “Bánh Dầy bánh Chưng” kể là nó biểu trưng cho trái đất, trái đất thuộc về quẻ Khôn trong Bát Quái của người Việt, Khôn=Khuôn=Khuông=Vuông=Văn=Vựa=Giữa=Giao. (Chữ Giao trong từ Giao Chỉ). Tất cả các chữ từ Khôn đến Giao ở trên đều mang thanh điệu thuộc Nhóm 0 = Âm, cái NÔI khái niệm ấy đủ nói lên bản chất của người Việt của nước Văn Lang hay đất Giao Chỉ xưa là tính Âm và là Khôn. Là Khôn thì phải đứng Giữa tức là TRUNG LẬP chứ chưa từng bao giờ cực đoan đi theo một chủ nghĩa Ngoài vào nào cả. Chính tư duy tự chủ đó đã làm cho dân tộc Việt Nam quật cường giữ mãi được độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc từ 5000 năm trước cho đến ngày nay. Ngày nay cả Ngoài và cả Trong đang có đông đảo bọn gọi là “khoa học” dùng quyền uy chính trị để ra sức viết bài phủ nhận Văn Hiến Lạc Việt 5000 năm, những tình huống kiểu đó, tục ngữ Việt khái quát bằng câu “Cả vú lấp miệng em”. Phân tích câu tục ngữ trên theo định hướng ý của thanh điệu thì “cả vú lấp” thuộc Nhóm 1 tức tác động Ngoài, “miệng em” thuộc Nhóm 0, là cái Trong vốn sẵn từ xưa như một sự thực chân lý lịch sử, bởi “miệng” là cái “nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”, vậy thì cái “bọn khoa học” đó liệu có phủ định nổi lịch sử không? Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu khoa học nên phải có tư duy độc lập. Tục ngữ Việt cũng còn có câu “Xuýt chó bụi rậm”, phân tích theo định hướng ý của thanh điệu thì “xuýt chó” thuộc Nhóm 1 là tác động Ngoài, “bụi rậm” thuộc Nhóm 0 là Trong, là cái tồn tại sẵn từ trước, là “bụi rậm” vì đó là mớ luận thuyết hổ lốn mơ hồ rất sai lầm do sự xáo xào của thư lại những thời đại xưa. Cái từ “xuýt” của tiếng Việt thì tiếng Tàu lẫn tiếng Tây không tài nào dịch nổi, mà người Việt thì chỉ vừa nghe là cảm nhận được hết rồi. Nếu là “xúi” thì nó bình thường, ai muốn nghe thì nghe, không nghe thì thôi. Đây lại là “xuýt” thì buộc phải làm theo răm rắp. Vì “xuýt” là tiếng lướt của cả câu “Xúi giục bằng mưu đồ quỉ quyệt và mệnh lệnh áp đặt quả Quyết” = “Xúi…Quyết ” = Xuýt. Tội nghiệp con chó theo lệnh quan thầy cứ vậy mà lao vào bụi rậm, theo con đường sáo mòn là mặc nhận và toàn là “trích” với “dẫn”. Nói “tội nghiệp” là vì con chó có tính là trung thành với quan thầy và biết nhẫn để đợi quan thầy thí cho miếng ăn thừa, (mà chủ là người Kinh khi quẳng ra cho nó thì kèm câu “cho nó !”, lướt “Cho Nó” = Chó, còn chủ là người Tày khi quẳng ra cho nó thì kèm câu “mừ nhá ! lướt “Mừ Nhá” = Má, nên trong tiếng Việt có từ đôi Chó Má nhấn mạnh ý là nhiều loại chó, mà “má” là chó trong tiếng Tày; kiểu như Gà Qué là nhiều loại gà, mà “qué=cáy” là gà trong tiếng Hoa, Tre Pheo là nhiều loại tre mà “pheo” là tre trong tiếng Mường). Mà cứ theo lối mòn để lao vào bụi rậm xưa thì đâu phải là tư duy độc lập. Ví dụ về một cách nhìn khác khi nghiên cứu sử: Bà Hàn Sâm 53 tuổi, người Singapore, giáo sư đại học Yale-NUS college, từng là nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ tại đại học University of Pennsylvania Hoa Kỳ, khi nghiên cứu cổ sử Trung Quốc từ các văn vật khảo cổ, đã nói: “Rất nhiều người Trung Quốc đều cho rằng, Trung Quốc rất ít bị ảnh hưởng ngoại lai. Tôi lại có cách nhìn ngược lại, tôi cho rằng TQ đối mặt rất nhiều ảnh hưởng ngoại lai. Tôi đứng trên lập trường người nước ngoài, tôi rất hứng thú mặt này. Trong 1000 năm trở lại đây, phần lớn thời gian là TQ bị ngoại tộc thống trị, ví dụ từ triều Đường tới triều Thanh, miền Bắc, thậm chí cả miền Nam TQ là nằm dưới sự thống trị của ngoại tộc trong những thời gian khá dài. Trong lịch sử, TQ dùng từ “Hán hóa” là không chính xác, định nghĩa “Hán hóa” là rất mơ hồ. Nói “Hán hóa” hầu như là chỉ nêu một phát triển đơn hướng, chỉ xét đến ảnh hưởng của Hán tộc đối với các tộc khác, mà lại không nói đến, ví dụ như “Nữ Chân hóa”, “Khiết đan hóa” v.v, khi những ngoại tộc này từng thống trị toàn TQ. “Hán hóa” thông thường chỉ là nói về hiện tượng các tộc phi Hán hòa nhập thành văn hóa TQ”. Ngoại tộc Mãn chỉ bằng con đường xâm nhập thâm cung triều đình mà thâu tóm để thống trị được toàn bộ TQ đến mấy trăm năm, bắt đàn ông TQ phải tuân theo phong tục Mãn là cạo trọc nửa đầu phía trán và tết tóc đuôi sam. Triều đình Mãn Thanh khi thống trị được TQ thì đầu tiên là dùng 10 năm trời và 300 học giả bị “xuýt bụi rậm” để chuyên gò lưng cạo sửa thư tịch xưa để lại, nặn ra cái gọi là “Tứ khố toàn thư” bóp méo lịch sử, mà chỉ có Lỗ Tấn, con người được người đời gọi là có tật “lưng không cúi được” đã thẳng tay vạch mặt chỉ tên những bóp méo trong “Tứ khố toàn thư” của nhà Thanh. Việt Nam thì Quang Trung Nguyễn Huệ khi đem quân đi đại phá quân Mãn Thanh xâm lược đã tuyên bố: “Đánh cho choa để dài tóc, đánh cho choa để đen răng, đánh cho chúng chiếc lăn bất phản, đánh cho chúng phiến giáp bất toàn, đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ ! ”1 like