-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 10/08/2012 in all areas
-
VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG Tiếp theo CANH BẠC CUỐI CÙNG Vào năm 2008, một họa sĩ người Gia Nã Đại gốc Hoa đã vẽ bức tranh mang màu sắc chính trị này và đem triển lãm ở New York. Bức tranh vẽ một cô gái Hoa Kỳ xiêm y nghiêm chỉnh, hai tay vừa sửa lại tóc vừa vênh cái bộ mặt đanh đá , liếc xéo cô gái Đài Loan đang ở truồng, ôm cái nón lá có mấy trái táo, đứng ngoài chiếu bạc với vẻ đau khổ tiều tụy. Cô gái Nhật, Trung Hoa và Nga đều "Ở trần đóng khố". Họ đang đánh bạc với hành vi gian lận của cô gái Tàu. Cô gái Nhật thì vẫn cười sởi lởi. Còn cô gái Nga thì nằm vật ra, một chân vẫn gác lên đùi cô gái Hoa Kỳ. Một bức tranh mang màu sắc chính trị thấy rõ. Nhưng nó ngụ ý gì thì không thuộc "phạm trù" tư duy của các nhà bình luận nghệ thuật thuần túy. Thời điểm xuất hiện của bức tranh này vào tháng 3. 2008. Đây cũng chính là năm mà lyhocdongphuong.org.vn xác định với lời tiên tri nổi tiếng: "Vào khoảng tháng 4/5 Việt lịch, các đại gia trên thế giới sụp đổ, khởi đầu cho một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu"(*). Bức tranh tương tự như thế này đã được giới thiệu lên diễn đàn Lý học Đông phương với việc tìm hiểu nội dung bức tranh vào khoảng đầu năm 2011. Chính tôi đã đặt tên cho bức tranh này là "Canh bạc cuối cùng". Có cái gì đó trùng hợp giữa lời tiên tri về khủng hoảng kinh tế thế giới của tôi và sự trần trụi của các cô gái đại diện cho những siêu cường này. Hình như cũng có cái gì đó liên hệ giữa sự phủ nhận trơ tráo cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến thành "liên minh bộ lạc" với những con bạc trong bức tranh và sự khủng hoảng kinh tế không có lối thoát hiện nay trên toàn thế giới. Chẳng cần phải có trình độ uyên bác về Lý học, cũng chẳng cần một nhãn quan chính trị sâu sắc; chỉ cần "tư duy nghĩ cũng thường thường bậc trung", cũng đủ thấy đây là "Canh bạc cuối cùng", khi các con bạc đang "ở trần đóng khố" tức là đã hết sạch. Họ chỉ có thể đánh ván cuối cùng thắng thua ngã ngũ. Vì không còn gì để dánh tiếp. Trong canh bạc này cô gái Đài Loan bị tống cổ ra ngoài chiếu bạc; cô gái Nga ngã vật xuống giường vì đã hết sạch. Cô gái Nhật thì còn hy vọng. Riêng cô gái Tàu thì dấu một con bài phía sau. Phải chăng tác giả muốn thể hiện cô gái Tàu ý thức được đây là canh bạc tháu cáy cuối cùng, nên quyết hơn thua, bất chấp luật chơi và muốn thắng với mọi thủ đoạn?! Trước đây, tôi đã phân tích bức tranh này và cho rằng: Họa sĩ vẽ còn thiếu một cô gái Ấn Độ. Đến nay trên thực tế "Canh bạc cuối cùng" này cho thấy tôi đã đúng và quả là sự thiếu sót của họa sĩ Gia Nã Đại gốc Tàu: Cô gái Ấn Độ đã tham gia cuộc chơi. Bức tranh này còn một ý nghĩa nữa là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới - qua hình ảnh các cô gái "ở trần đóng khố" trên bức tranh - là nguyên nhân để có canh bạc tháu cáy cuối cùng này. Các bạn thân mến. Tôi phân tích bức tranh này chỉ cho vui mà thôi. Cũng như trong việc chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến, tôi không bao giờ coi việc giải mã những di sản văn hóa vật thể hay phi vật thể làm bằng chứng khoa học cả. Đám "hầu hết" và "cộng đồng" với tư duy "ở trần đóng khố" sẽ la hét ầm ĩ, gõ phèng phèng lên ngay. Nhưng họ không có cơ hội đó, vì Thiên Sứ tôi biết trước điều này. Mặc dù về phía đám tư duy ở trần đóng khố phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt vẫn giải mã ầm ầm. Nhưng họ càng la lối phủ nhận truyền thống Việt, càng lộ rõ sự chủ quan, phi lý của mục đích phủ nhận văn hóa truyền thống Việt mà họ đang cố gắng thực hiện. Nó cũng giống như càng cố gắng chiếm biển Đông của Trung Quốc càng lộ rõ sự ngang ngược vô lý của Trung Quốc. Nó vô lý đến mức quốc gia Malaixia có lãnh thổ sát biển mà không còn một tấc biển nào. Tất nhiên chẳng có cơ sở lịch sử nào, cũng không có một công ước quốc tế hoặc một giá trị dù chỉ ở mức hợp lý nào, để nước Malaixia không có một lãnh thổ biển cả. Nhưng người Trung quốc cứ trơ tráo vậy đó. Họ cậy có sức mạnh để xác định chân lý thuộc về họ. Các bạn xem hình bản đồ lưỡi bò của Trung quốc dưới đây với lãnh thổ của Malaisia: Ngày hôm nay, khi tôi đang gõ hàng chữ này, hàng chục ngàn tàu cá Trung Quốc ào ạt xuống lấn chiếm biển Đông nhắm xácđịnh chủ quyền. Cũng ngày hôm nay, một bức tranh mới về "Canh bạc cuối cùng" xuất hiện khác bức tranh cũ một số chi tiết. Nhưng dù khác một chút bề ngoài thì bản chất vấn đề vẫn không thay đổi. Nhìn bề ngoài thì có vẽ người Trung Quốc đang thắng thế. Họ đang tỉa dần những quốc gia có quyền lợi ở biển Đông và có vẻ như đang sắp đạt mục đích. Nhưng về bản chất của vấn đề thì họ đang lao xuống dốc với tốcđộ ngày càng nhanh trên một cái xe cũ kỹ. Hoa Kỳ chưa dàn trận xong - cô gái trong tranh chưa tỏ ra chú ý vào chiếu bạc - mặc dù đã ngồi trong đó - Cô còn vấn lại tóc, mắng mỏ chu chéo với cô gái Đài Loan tội nghiệp. Cô gái Hoa Kỳ có vẻ không mấy wan tâm đến canh bạc mà cô ta nắm chắc phần thắng. Đây không phải là ý tưởng của tôi, tôi chỉ nhắc lại dưới hình thức diễn đạt khác một nhận xét của một chuyên gia nghiên cứu chiến lược Nga, khi phát biểu rằng: "Trung Quốc sẽ tự sát khi gây chiến với Hoa kỳ". http://giaoduc.net.v...oa-Ky/167089.gd Sai lầm của người Trung Quốc đến mức mà có lần tôi phải đặt một giả thuyết rằng: Họ bị cài gián điệp chiến lược ở cấp hoạch định chiến lược quốc gia. Nhưng một giả thuyết khác có vẻ hợp lý hơn khiến tôi loại trừ giả thuyết này. Đó là họ gây sự ở bên ngoài để ổn định nội bộ. Nhưng dù là nguyên nhân nào thì đây cũng là một chiến lược sai lầm rất nghiêm trọng của họ gây ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai của Trung quốc và sự phát triển của văn minh nhân loại. Lý học bao giờ cũng phải có một tầm nhìn bao quát, rồi mới xét hiện tượng cục bộ. Chỉ cần chủ quan một chút là sai lệch vấn đề. Các bạn còn nhớ trước hiện tượng động đất ngày 11. 3 . 2011, tôi đã xác định sẽ có một trận động đất lớn xảy ra ở Châu Á - Thái Bình Dương và tôi đã trừ ra hai quốc gia là Nhật Bản và Việt Nam. Cuối cùng, sau 6 tiếng khi tôi đưa lời dự đoán lên mạng, nó xảy ra đúng ở Nhật Bản. Những kẻ chăm chắm chỉ chực chờ Thiên Sứ sai là la lối chỉ trích mừng quá! Thiên Sứ đoán sai. Hi! Thành thật mà nói thì lúc đầu Thiên Sứ tôi không hiểu vì sao tôi lại đoán sai. Nhưng sau đó, sau trận động đất tàn phá kinh hoàng đất nước Nhật - mà tôi rất đau xót - thì Trung Quốc nổi lên là siêu cường thứ hai trên thế giới chỉ sau Hoa Kỳ, tôi mới hiểu được mình đã sai ở chỗ nào và lý thuyết thống nhất luôn luôn đúng. Kết quả của việc động đất ấy đã đẩy Nhật Bản xuống thành cường quốc thứ ba về kinh tế và đưa Trung Quốc lên hàng thứ hai. Cho dù sự lên hạng của Trung Quốc không phải tính phát triển đích thực, mà nhờ sự xuống hạng bởi thiên tai của Nhật Bản. Nhưng điều đó đã đẩy cái siêu cường thứ hai đầy kiêu hãnh này là sự lấn lướt các quốc gia láng giềng mạnh mẽ hơn và bất chấp cả chân lý. Những hành vi đó đã xui khiến xuất hiện bức tranh "Canh bạc cuối cùng" với cô gái Hoa Kỳ ngồi trong chiếu bạc và cũng là sự chứng nghiệm nội dung mang tính tiên tri của bức tranh này từ 2008. Cả cái thế giới khốn khổ này đang khủng khoảng kinh tế với xu hướng "ở trần đóng khố", y như các cô gái trong tranh - trừ Hoa Kỳ. Những nhà chính trị kinh tế học thế giới hiện đại chắc đều nhận thấy rằng: Hậu quả của các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đều kết thúc bằng một cuộc chiến tranh. Riêng cuộc khủng hoảng lần này, diễn biến có khác hơn một chút: Thế giới đang chịu ảnh hưởng của một siêu cường không có đối thủ là Hoa Kỳ và cũng coi biển Đông là quyền lợi căn bản. Hay nói rõ hơn: Sự kiêu hãnh và hung hăng của Trung Quốc với tham vọng bành trướng trắng trợn, đã tự đưa đất nước của họ đối đầu với Hoa kỳ - vốn bá chủ thế giới trên thực tế. Hay nói rõ hơn họ đã tuyên chiến không chính thức với Hoa Kỳ để xác định ngôi vị của họ trên thế giới. Còn biển Đông, biển điếc; tàu cá, tàu kiếc; hải giám hải giếc..... chỉ là cái cớ để Trung Quốc thể hiện điều này. Nó không phải là cái Hoa Kỳ chính thức quan tâm. Cái Hoa Kỳ quan tâm là: Thế giới sẽ đi về đâu khi xác định ai là bá chủ thế giới trong cuộc hội nhập toàn cầu? Bởi vậy, một "canh bạc cuối cùng" sẽ diễn ra. Đây là hành vi mà nhà nghiên cứu chiến lược Nga gọi là hành vi tự sát, nếu Trung Quốc tiến hành chiến tranh với Hoa Kỳ. Đó cũng là lý do để tôi xác định rằng cuộc chiến dứt điểm sẽ không xảy ra ở biển Đông. Đơn giản vì nó không phải là vùng đất quan trọng trong một cuộc chiến dứt điểm để xác định ngôi vị bá chủ thế giới. Mặc dù nó là nơi Trung Quốc thể hiện vị trí siêu cường ở một nửa Thái Bình Dương của họ. Họ có thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh dứt điểm cuối cùng này không, khi Liên bang Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết đã sụp đổ? Còn tiếp Hoa Kỳ - Con hổ giấy hay chính là con Phượng Hoàng lửa?3 likes
-
Kính thưa quí vị. Bài viết này tôi đã viết từ tháng 9. 2008. Một số thành viên chủ chốt của diễn đàn thời ấy đã xem bài viết này và nó chỉ lưu hành nội bộ. Đáng nhẽ ra tôi sẽ không công khai nội dung của nó lên đây. Nhưng trước tình hình diễn biến phức tạp ở biển Đông hiên nay và nội dung bài viết lúc đó cho thấy những phán đoán của tôi đã chính xác cho đến lúc này. Những diễn tiến tiếp theo sẽ ra sao trước sự phức tạp của sự tranh chấp biển Đông hiện nay đã cho tôi thấy cần phải phân tích sâu hơn và hoàn chỉnh bài viết với sự phân tích có tính khách quan và như một lời tiên tri,nhằm mục đích chia sẻ cảm nghĩ của mình với quí vị và anh chị em. Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em. =================== VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG BẮT ĐẦU TỪ MỘT BÀI VIẾT Vào đầu tháng 9 . 2008 trên các phương tiện thông tin đại chúng đểu nói tới một kế hoạc tấn công Việt Nam của Trung Quốc và một số báo mang đăng bài phản đối của Việt Nam. Đây chính là tiền đề cho tôi viết bài này. Nội dung bài viết đó như sau: Ông Dũng nói: “Đây là thông tin không thích hợp, đi ngược lại xu thế hòa bình, hữu nghị và hợp tác vì phát triển trong khu vực và trên thế giới cũng như lợi ích của quan hệ tốt đẹp sẵn có giữa Việt Nam và Trung Quốc.” Ông nói thêm rằng Trung Quốc đã tiếp nhận yêu cầu của Việt Nam và tuyên bố bài viết này “không phản ánh quan điểm của Chính phủ Trung Quốc”. Bài viết về 'Phương án A' hiện vẫn nằm trên Sina.com. Ông Tống Hiểu Quân, một chuyên gia quân sự ở Bắc Kinh được trích lời mô tả kế hoạch xâm lược Việt Nam ‘Phương án A’ là một trò đùa. Ông nói: "Đây chỉ là trò chơi mang tính nghiệp dư và không có giá trị quân sự nào cả”. Tuy nhiên ông Tống cũng nói ở hai nước vẫn còn nhiều người chưa quên được các hiềm khích cũ. "Trung Quốc và Việt Nam có hệ thống chính trị tương đồng và cần đoàn kết để chống lại Hoa Kỳ, là kẻ thù chung của cả hai nước. Rõ ràng Mỹ đang chơi kế ly gián Việt Nam và Trung Quốc”. Đánh Việt Nam? Chuyên gia quân sự Tống Hiểu Quân nhận định: “Người biết suy nghĩ ở cả hai nước đều hiểu rõ rằng Trung Quốc và Việt Nam là đồng minh. Trung Quốc không có lý do gì để nghĩ tới việc xâm lược Việt Nam vì cần làm bạn với các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam và Bắc Triều Tiên”. Ông nói chính phủ Bắc Kinh cần rút kinh nghiệm từ việc này và phải có trách nhiệm hướng dẫn dư luận đồng thời giải thích quan điểm chính thức một cách rõ ràng. “Chính quyền không nên để những kẻ gây rối có cơ hội đồn đoán gây hại.” Bài ‘Quân Đội Trung Quốc hãy dùng Phương án A để tấn công VN!’ xuất hiện trên mạng từ đầu tháng Tám trên một số trang mạng bàn về chủ đề quân sự tại cả Trung Hoa lục địa và Hong Kong. Tuy nhiên nó gây sự chú ý nhất từ khi được đăng tải trên trang sina.com có lượng truy cập lớn. Đây là diễn đàn trao đổi không chính thức, tuy về nguyên tắc nhà nước Trung Quốc kiểm duyệt nội dung. Mới đây có tin chừng 280 nghìn người được Bắc Kinh trả tiền để vào các diễn đàn nhằm đăng các ý kiến có lợi cho đảng Cộng sản. Ngoài bài viết kể trên, trong thời gian gần đây, cũng có nhiều bài khác mang nội dung khơi gợi chiến tranh với Việt Nam lưu hành trên các trang mạng và blog của Trung Quốc. Một số bài mang tựa đề khiêu khích như: ‘Chiến tranh với Việt Nam, sự lựa chọn chiến lược’ hay ‘Chúng ta cần gấp chiến tranh’. QUAN HỆ TRUNG QUỐC & HOA KỲ Mục đích cuối cùng của tôi là chứng minh lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm, nhân danh khoa học. Bởi vì, "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học quốc tế", đã tập hợp lại, phủ nhận lịch sử văn hóa Việt. Vũ khí của họ là «Pha học». Tôi đã bước vào cuộc chơi thì phải chấp nhận luật chơi: Tức là cũng nhân danh khoa học thực sự để chỉ ra những sai lầm rất căn bản trong lập luận của họ. Khoa học thì tất yếu phi chính trị. Bởi vậy, trước sau như một – quân tử thì không trái lý – tôi tiếp tục nhân danh khoa học để bảo vệ luận điểm của mình. Đó là lý do tôi không muốn dây dưa về mặt chính trị. Nhưng điều đó, không có nghĩa rằng tôi không có khả năng tư duy chính trị. Thiên Sứ tôi đã chứng minh rằng: «Thuyết Âm Dương Ngũ hành là lý thuyết thống nhất vũ trụ». Tất nhiên nó bao trùm luôn cả chính trị và khả năng tiên tri. Tôi cũng đã thẳng thắn nói rằng: Bản chất của cái trò hề «nhân danh khoa học» phủ nhận giá trị lịch sử văn hiến Việt ấy, chính là một trò chơi chính trị ở tầm mức quốc tế. Những thế lực chính trị quốc tế đã đi đêm với nhau từ 40 năm trước và nạn nhân của nó chính là lịch sử văn hóa Việt trải 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Đến bây giờ, nó nổi lên ở Biển Đông như phần ngọn của tảng băng chìm. Đây chính là bài bình luận chính trị đầu tiên và có thể là duy nhất của tôi về vấn đề Biển Đông với mối quan hệ Trung – Mỹ - trong đó có vấn để lịch sử văn hóa Việt 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Tất nhiên tôi sẽ phân tích như một nhà quan sát khách quan cho mọi diễn biến đã xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy ra. CUỘC ĐỤNG ĐỘ NGÀY 8 – 3 – 2008 Trước khi cuộc đụng độ xảy ra, người Trung Quốc đã có nhã ý chia sẻ gánh nặng an ninh với Hoa Kỳ ở phần phân nửa phía Tây Thái Bình Dương. Nhưng vị đô đốc Hải Quân Hoa Kỳ đã từ chối không mấy lịch sự. Và sau đó là cuộc đụng độ đã xảy ra. Vụ việc này khiến có thể một số chính phủ đang đòi quyền lợi ở Biển Đông – vốn là đồng minh cũ của Hoa Kỳ - hy vọng Hoa Kỳ đứng ra bảo vệ họ trước sự tranh chấp với một quốc gia hùng mạnh cũng đòi quyền lợi ở đây là Trung Quốc. Thực ra đây chỉ là một trò vụng về của một thủ đoạn chính trị không mấy sắc sảo, hoặc chí ít nó được lợi dụng để thực hiện những âm mưu chính trị. Nhưng sự kiện tiếp theo liên tiếp xảy ra trong thời gian cực ngắn: Đô đốc tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ - vừa mới đến thăm Việt Nam với những phát biểu hùng hồn về những triển vọng hợp tác – sắp sửa chuyển công tác khác hoặc về vườn; Hãng dầu BP rút khỏi Việt Nam vì lý do kỹ thuật ; Tổng thống Hoa Kỳ - Ngài Obama – đã chứng tỏ một nhã ý hòa giải với Trung Hoa, Chủ tịch Trung Quốc – Ngài Hồ Cẩm Đào có nhã ý mời Chủ Tịch nước Việt – Ngài Nguyễn Minh Triết sang thăm Bắc Kinh. Có thể nói trong các quan hệ chính trị quốc tế thì chưa lần nào lại có nhiều hiện tượng liên quan diễn biến nhanh như vậy. Các siêu cường muốn gì ở đây? Tại sao người Trung Quốc lại ngang xương đòi Hoa Kỳ chia đôi Thái Bình Dương. Một chuyện có tầm chiến lược toàn cầu như vậy mà để cho hai người lính với hàm tướng nói chuyên khơi khơi vậy sao ? Để hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề này, Thiên Sứ tôi nhắc lại những sự kiện từ 40 năm trước. RƯỢU MAO ĐÀI NHẬU VỚI LƯỠI CHIM SẺ. Đấy là tin đồn vỉa hè của các chính trị gia cấp phường ở Việt Nam trong các quán trà 5 xu – tụ điểm của dân chơi Hà Thành thời bấy giờ - mô tả về một tiệc nhậu hoành tráng trong Tử Cấm Thành Pekin do ngài Mao Trạch Đông chiêu đãi Tổng thống Hoa Kỳ - ngài Nixon vào năm 1971. Sau cuộc nhậu này, Đài Loan với quốc hiệu là Trung Hoa Dân quốc, thành viên sáng lập Liên Hiệp Quốc với tư cách là một quốc gia, bị tống cổ khỏi Liên Hiệp Quốc. Cuộc chiến Việt Nam chấm dứt. Hai mươi năm sau nữa, Liên bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết – gọi tắt là Liên Xô – cũng sụp đổ. Trước khi chấm dứt cuộc chiến ở Việt Nam, có một hiện tượng ngoạn mục là Tổng Thống Nixon bị hạ bệ vì vụ Water gate. Không lật đổ được tổng thống Nixon thì cuộc chiến Việt Nam sẽ còn dây dưa. Bởi vì, vị tổng thống này đã có quá nhiều cam kết - nhưng chỉ bằng miệng (Xin lưu ý điều này) - nhân danh người đứng đầu đất nước Hoa Kỳ với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo. Nhưng những cam kết này không có văn bản chính thức có tính pháp lý. Việc hạ bệ ông Nixon là thủ pháp chính trị đã quảng cáo cho tinh thần dân chủ và thượng tôn pháp luật tại Hoa Kỳ. Nhưng nguyên nhân sâu xa của nó chính là Hoa Kỳ cần chấm dứt cuộc chiến tốn kém, vô bổ này một cách nhanh chóng , để những chiến lược quốc tế được thực hiện, nhằm xóa sổ đối thủ hàng đầu của Hoa Kỳ - Liên bang Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Việt - mà ngài Nixon lại có quá nhiều ràng buộc bởi những lời hứa công khai cam kết theo đuổi chiến tranh đến cùng với tư cách Tổng thống Hoa Kỳ. Lịch sử sang trang ở Việt Nam. Nước Việt Nam thống nhất với người đồng minh của mình – Liên bang Công Hòa Xã Hội chủ nghĩa Xô Viết – cũng là đối tượng được nhắc nhở đến trong men rượu Mao Đài nhậu với lưỡi chim sẻ. SÁCH TRẮNG CỦA TOÀ ĐẠI SỨ LIÊN XÔ TẠI HANOI. Vài năm trước những sự kiện trên, ở Hanoi ầm ĩ về việc bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc. Đại sứ quán cả hai nước thi nhau bỏ công quĩ của nhà nước – tức của nhân dân - in sách tố cáo nhau không phải là những người cộng sản chân chính. . Hàng sọt sách, nói theo tiếng Bắc – tiếng miền Nam gọi là « cần xé » - được đặt ở Đại Sứ quán hai nước, bằng tiền của nhân dân. Và nó được phát không cho tất cả những người dân Việt có dịp đi ngang qua đây Người Trung Quốc có sáng kiến bọc sách của mình trong một cái bao bìa sách bằng ni lông cứng màu đỏ. Những dân chơi sành điệu ở Hanôi bấy giờ phát hiện ra rằng, chỉ cần bỏ cái ruột thì chính cái vỏ bao nilon đó dùng làm ví đựng tiền rất đẹp. Họ rủ nhau đến tòa Đại sứ Trung Quốc để lấy ví đựng tiền. Thế là sách của tòa Đại sứ Trung Quốc được tiêu thụ như tôm. Ít nhất từ cổng tòa đại sứ ra đến vỉa hè bên kia vườn hoa Canh Nông (Bây giờ gọi là vường hoa Lê Nin). Tất nhiên những lực lượng an ninh của Việt Nam cũng có những biện pháp ngăn chặn một cách kín đáo việc tiếp nhận những cuốn sách này. Nội dung các cuốn sách đó, bây giờ chắc chẳng ai buồn nhớ. Nhưng có một chi tiết đáng chú ý trong một cuốn sách của tòa đại sứ Liên Xô, liên quan đến bài viết này mà tôi được xem vào lúc bấy giờ. Tôi còn nhớ chi tiết đó, vì nó rất ấn tượng. Lâu quá rồi, hơn 40 năm đã trôi qua. Ngày ấy, tôi còn rất trẻ. Tôi có một thói quen dễ ghét là đến chơi nhà bạn bè, sau vài ba câu xã giao thì tôi lục trong tủ sách của nó, xem có cuốn nào hay thì ngồi xem cả buổi. Nếu có đông bạn bè cùng đến chơi thì việc làm của tôi, chúng nó không quan tâm. Thậm chí nó mời tôi ăn cơm là chuyện của nó, còn tôi vừa ăn vừa xem sách là chuyện của tôi. Nhưng nếu chỉ có mình tôi thì cử chỉ lịch sự nhất mà bạn tôi dành cho tôi là – giật lấy cuốn sách không cho tôi xem – «Mày thích tao cho mày mượn đem về. Còn bây giờ mày nói chuyện với tao đã chứ ». Tôi cũng chỉ cười hề hề và vui vẻ cất cuốn sách vào túi, vì bạn tôi đã hứa cho mượn. Nói thế chứ các bạn tôi quí tôi lắm, vì ngoài cái tính xấu ấy ra thì tôi chơi với bạn tôi khá chân tình. Đến bây giờ sau hơn 40 năm xa cách, chúng tôi vẫn dành tình cảm quí mến cho nhau. Cuốn sách của Tòa Đại sứ Liên Xô tôi đã xem trong hoàn cảnh này. Cuốn sách có đoạn viết – tôi không thể nhớ chính xác nguyên văn - nhưng có nội dung như sau : « Các đồng chí Trung Quốc đã đi ngược lại nguyện vọng thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam. Họ đã ủng hộ chủ trương quốc tế hóa Đông Dương với các thế lực tư bản quốc tế ». Việt Nam đã thống nhất và không phải là bị quốc tế hóa, đồng thời là một đồng minh của Liên Xô với hiệp ước quân sự bảo vệ và hỗ trợ nhau. Lịch sử đã diễn ra như vậy. Bởi vậy, sau cơn say máu của cuộc chiến, những quốc gia đồng minh - đối thủ của Liên Xô cũ - đã coi Việt Nam như một đối tượng cần xử trí. Việc xóa sổ 5000 năm văn hiến Việt là một đòn chí mạng, rất thâm độc đánh vào ý chí gan góc, bền bỉ và quật cường của dân tộc Việt. Đó cũng là lý do để Thiên Sứ tôi cảnh báo rằng: Các thế lực chính trị âm mưu toan tính cái gì thì đừng có lấy nền văn hiến Việt làm phương tiện thực hiện thủ đoạn chính trị. Một dân tộc được xác định chính bởi những giá trị văn hóa và lịch sử lập quốc của họ. Nhưng Liên bang Xô Viết đã sụp đổ. Dân tộc Việt đang phải gồng mình để tồn tại với hoàn cảnh lịch sử hiện nay. Đến hôm nay thì một loạt những sự kiện đã xảy ra. Các siêu cường đang muốn gì ở đây? BÁ CHỦ THẾ GIỚI. Liên Xô đã sụp đổ, chiến tranh lạnh chấm dứt. Trung Quốc – một đồng minh rất quan trọng trong việc đối đầu với Liên Xô, nhưng không có một hiệp định có hiệu lực pháp lý trong chiến lược toàn cầu, so với các đồng minh truyền thống khác của Hoa Kỳ - đã mạnh lên về kinh tế vì được hưởng những ưu đãi trong thương mại và nổi lên như một quốc gia siêu cường gây ảnh hướng với thế giới. Đó là lý do mà Trung Quốc muốn chia phần với Hoa Kỳ ở phía Tây Thái Bình Dương. Làm gì có một người lính – dù mang quân hàm cấp tướng – sương sương đòi chia đôi cả một Đại Dương như vậy. Quên nhanh! Nói theo lối hàng chợ của bà bán cá chợ Bắc Qua. Nhưng sự đòi hỏi này có nguyên nhân sâu xa từ những thỏa thuận không chính thức trong một chiến lược toàn cầu từ gần 50 năm trước - Khi Liên Xô còn là một siêu cường đối đầu với Hoa Kỳ. Cũng vào thời điểm của gần 50 năm trước - vào những năm đầu của thập niên 60, tình báo Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng: Những lãnh tụ đảng Cộng Sản Trung Quốc mang nặng tinh thần dân tộc chủ nghĩa, họ không có ý thức quốc tế vô sản. Do đó, mặc dù Hoa Kỳ ký vào hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân với Liên Xô, nhưng Trung Quốc vẫn thành công trong việc thử bom hạt nhân vào năm 1967. Thực ra, Trung Quốc có tham vọng hạt nhân từ lâu và muốn Liên Xô chia sẻ. Nhưng Liên Xô chẳng ngọng gì thân tặng một anh bạn ngay sát nách của mình thứ vũ khí mà đôi khi do trục trặc kỹ thuật, nó có thể rơi xuống điện Cẩm Linh. Họ lấy lý do tôn trọng hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân đã ký với Hoa Kỳ để từ chối. Còn với Hoa Kỳ thì việc Trung Quốc có vũ khí hạt nhân không có vấn đề gì. Bởi Trung Quốc bấy giờ chưa thể đem bom hạt nhận giộng xuống nước Mỹ. Tuy vẫn có thể đánh rơi vào những nước chung quanh như Liên Xô chẳng hạn. Tất nhiên hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân vẫn được tôn trọng, bởi những chính khách rất nghiêm nghị để tỏ ra chín chắn với những quyết định là cứ từ đúng trở lên. Nhưng chắc chắn nó thiếu một điều khoản là : « Không cho phép tình báo các quốc gia khác ăn cắp bí mật hạt nhân ». Và tất nhiên, những quốc gia cần có vũ khí hạt nhân để gọi là « cân bằng sinh thái» trong hoàn cảnh lịch sử nào đó, vẫn lấy được những bí mật này với những trò ma quái, hoặc làm ngơ của các cơ quan an ninh. Một vài tên gián điệp ngớ ngẩn bị bắt – tùy theo quốc gia dân chủ hay độc tài – mà bản án nặng hay nhẹ. Về mặt lý thuyết thì Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân vẫn được các chính khách tôn trọng với một vẻ mặt trang nghiêm và tỏ ra đứng đắn, khi khẳng định hiệu lực của nó đến ngày hôm nay. Nhưng trên thực tế, nó vẫn phổ biến đến mức các tổ chức khủng bố loi nhoi cũng có thể làm ra vài quả bom bẩn. Trung Quốc đã trở thành một siêu cường và tham vọng ảnh hưởng khu vực và thế giới xuất hiện. Nhưng cái siêu cường Đông phương mới nổi này đã quên mất một điều rất quan trong là : Vai trò lịch sử của họ trong chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ đã hết, ngay sau khi Liên Xô sụp đổ. Hoa Kỳ cần thời gian dọn dẹp lại thế giới với tư cách siêu cường số một hành tinh. Nếu những nhà lãnh đạo Trung Quốc khôn ngoan và khiêm tốn hơn thì lịch sử có thể diễn biến khác đi một tý. Thiên Sứ có thể đoán sai. Nhưng rất tiếc, họ đã bộc lộ tham vọng quá sớm. Bởi vậy, đối tượng tiếp theo cần xử lý của Hoa Kỳ chính là nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa vĩ đại. So với mấy nước đang có tham vọng hạt nhân như Bắc Triều Tiên, Iran thì chính Trung Quốc là nguy cơ hơn nhiều trong việc đe dọa vai trò bá chủ của Hoa Kỳ. Mấy nước kia – với sức mạnh của Hoa Kỳ - cái đá thì thừa, mà cái đấm có thể hơi thiếu. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể biết đến điều này. Nhưng qua cách ứng xử của họ với các quốc gia lân bang, Thiên Sứ tôi có cảm giác họ không quan tâm. Hoặc họ đã mắc những sai lầm có tính chiến lược mà họ cứ tưởng là đúng. SAI LẦM CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC. Phàm muốn làm bá chủ việc trước tiên phải có một tiềm lực kinh tế và quân sự đủ mạnh. Cái này Trung Quốc có rồi. Nhưng vấn đề tiếp theo là ảnh hưởng đến đâu thì còn tùy theo tiềm lực kinh tế đến đâu. Mấy bá chủ cơm, loi nhoi vài nước lân bang , nhược tiểu thì chỉ cần ảnh hưởng kinh tế là đủ. Nhưng muốn mần ăn lớn thì phải có bảng hiệu. Đất nước Trung Hoa vĩ đại chưa sắm được cái bảng hiệu đúng với tư cách bá chủ châu Á. Người Nhật muốn làm bá chủ ít nhất cũng đưa được học thuyết Đại Đông Á. Ngay đám giang hồ, muốn tập hợp đàn em cũng phải có khẩu hiệu « Sống chết có nhau », huống chi là những vấn đề quốc tế wan trọng như vậy. Không có bảng hiệu thì muốn làm bá chủ chỉ có cách đấm đá, hoặc mua chuộc những kẻ phản bội lại dân tộc của chính họ. Nói theo lý học Đông phương thì phải chính danh cái đã. Bởi vì đây là thế kỷ 21 với thông tin toàn cầu và các mối quan hệ quốc tế đều có ảnh hướng lẫn nhau. Đây không phải thế kỷ thứ XV để những đội quân viễn chinh như Trương Phụ muốn làm mưa làm gió gì thì làm. Cách đây vài tháng (Tức đầu năm 2008), các trang mạng của Trung Quốc làm ầm ĩ về một kế hoạch tấn công Việt Nam chớp nhoáng. Nếu họ muốn, cũng có thể được trong điều kiên tương quan sức mạnh hai nước. Bước đầu họ có thể chiếm được phần lớn lãnh thổ Việt Nam, cho là như vậy. Nhưng sau đó sẽ ra sao ? Chắc chắn dân tộc này sẽ không chịu thua một cách dễ dàng. Và cũng giả thiết rất thuận lợi cho Trung Quốc là họ chiếm được đất nước này. Nhưng hành động này sẽ đẩy tất các quốc gia Đông Nam Á và vùng chung quanh Trung Quốc thành đối thủ của họ. Cuộc chiến càng man rợ thì hậu quả sẽ càng khốc liệt với Trung Quốc sau này. Nhưng chỉ với thủ pháp chính trị cơm ấu trĩ đó, cũng đủ để các quốc gia liên quan đến biến Đông cảm thấy cần phải liên kết với Hoa Kỳ. Thiên Sứ tôi hy vọng Trung Quốc cần tỉnh táo hơn khi nhìn lại tình trạng của các nước láng giềng quanh họ. Họ không có một đồng minh nào đáng tin cậy. Hoa Kỳ chỉ là một đồng minh tạm thời trong việc đối đầu với Liên Bang Xô Viết. Trung Quốc cần nhớ rằng : Giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc chưa hề có một văn bản chính thức nào liên quan đến việc an ninh của hai nước, ngoại trừ những văn bản chung chung có tính quốc tế. Những hiệp ước an ninh giữa Đài Loan và Hoa Kỳ còn có giá hơn. Thiên Sứ tôi không phải là một chính trị gia, chỉ có tài nói dối vợ để cơm hai bữa, không phải ăn phở. Nên cũng chẳng dám cao giọng với những chính trị gia chuyên nghiệp. Nhưng vì là người Việt, ông cha tổ tiên ăn cơm đất Việt, sống trong lòng dân tộc Việt, « Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách », nên cũng ráng gõ vài chữ trên blog của mình để thành thật khuyên những nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng: Hãy tỏ ra tử tế với Việt Nam và cả các nước láng giếng khác vì quyền lợi lâu dài của chính họ. Có thể còn nhiều giải pháp khác cho quyền lợi liên quan giữa các bên ở Biển Đông và biên giới, nhưng vẫn chứng tỏ được sự tử tế của các quốc gia lân bang với nhau. Vấn đề là phải nghĩ ra điều đó. HOA KỲ TRÊN BIỂN ĐÔNG. Mục đích cuối cùng của Hoa Kỳ là bá chủ thế giới với tư cách là siêu cường số 1. Có thể nói rằng ngay từ khi lập quốc – do tính chất đặc thù của một quốc gia đa văn hóa – nên họ đã hình thành một hình thái ý thức xã hội để liên kết các dân tộc đến từ những nền văn hóa khác nhau trên đất Hoa Kỳ là: Tự do, bình đẳng và bác ái. Trên cơ sở này, pháp luật được coi như cơ sở ràng buộc khách quan với những sinh hoạt xã hội của các thói quen và tập tục từ những nền văn hóa khác nhau. Vị trí địa lý và những sự kiện lịch sử đã đưa Hoa Kỳ thành một siêu cường của thế giới. Nhưng chính hình thái ý thức xã hội, nhằm tập hợp các dân tộc có văn hóa khác nhau trên đất nước Hoa Kỳ lại tạo ra một khuôn mẫu có tính toàn cầu - nếu như các quốc gia muốn chung sống hòa bình với nhau trên hành tinh này. Hoa Kỳ đã có sẵn cái bảng hiệu khá hoàn chỉnh với sức mạnh kinh tế và quân sự, để tạo niềm tin trong việc tập hợp các dân tộc trên thế giới dưới sự lãnh đạo của họ. Vấn đề còn lại là những sách lược chính trị để đạt đến mục đích này. Cho đến lúc này, Hoa Kỳ đã thành công với địa vị siêu cường số một hành tinh và tạm thời chưa có đối thủ. Trong quá trình loại trừ Liên Xô ra khỏi vị trí siêu cường đối đầu với Hoa Kỳ - trở thành một quốc gia Nga, khiếm tốn về kinh tế với những cây thùy dương thơ mộng bên dòng sông Von ga chảy êm đềm có thể gây cảm hứng cho các hồn thơ – thì một đồng minh bất đắc dĩ của Hoa Kỳ đóng vai trò khá quan trong cho việc này. Đó chính là Trung Quốc. Nhưng, ngay từ đầu Hoa Kỳ đã cảnh giác với Trung Quốc, một quốc gia đã đối đầu với Hoa Kỳ ngay từ khi chưa trở thành nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa vĩ đại. Đã hai lần đất nước này có cuộc giao tranh không chính thức với Hoa Kỳ. Lần thứ nhất là loại trừ một đồng minh quan trọng của họ - chính phủ Trung Hoa Dân quốc - ra khỏi lục địa Trung Hoa; lần thứ hai chính là cuộc chiến tranh Triều Tiên. Bởi vậy, quan hệ đồng minh giữa hai quốc gia Trung Mỹ là mối quan hệ của « Dì ghẻ với con chồng ». Đó là lý do để hai quốc gia này chỉ ràng buộc với nhau trên các mối quan hệ có tính quôc tế chung chung, mọi thỏa thuận đều là không chính thức. Chưa hề có một hiệp ước an ninh nào được ký kết giữa hai quốc gia Trung - Mỹ. Liên Xô đã sụp đổ. Nếu như Trung Quốc tiếp tục ủng hộ Hoa Kỳ trong các đối sách quốc tế khi dọn dẹp lại thế giới và khiêm tốn, hoặc khôn khéo hơn trong khi thể hiện tham vọng - như lời khuyên của nhà lãnh đạo vĩ đại Đặng Tiểu Bình - thì lịch sử có thể đổi chiều. Nhưng tiếc thay, trong khi Hoa Kỳ xua quân đánh nhau ở Irak và Afganixtan với tham vọng bình định Trung Đông thì người Trung Quốc cứ tưởng đây là cơ hội vàng để lên ngôi bá chủ châu Á. Hoa Kỳ đã nhắc khéo Trung Quốc bằng một quả tên lửa gọi là bắn nhầm vào tòa Đại Sứ Bắc Kinh ở Baghda. Giá như Trung Quốc xín xái điều này, coi như chỗ quen biết lâu năm, có lỡ tay, xầy da một chút cũng không sao - Vấn đề là quan hệ tử tế, mần ăn lâu dài thì mọi việc sẽ khác đi. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Trung Quốc đã chứng tỏ vị thế của mình – một siêu cường có tham vọng lãnh đạo ở Châu Á – qua việc phản đối kịch liệt hành vi của chàng cao bồi Texas chơi xấu hảo hán Lương Sơn Bạc đang giương cao lá cờ «Thế Thiên hành đạo». Một trong những vị trí chiến lược nền tảng của tham vọng bá chủ này của Trung Quốc chính là Biển Đông. Đây là một ý tưởng chiến lược quân sự cực kỳ cổ điển có từ thế kỷ thứ V BC, mà người Trung Quốc tự hào là một trong nhưng giá trị văn hóa của họ - Binh pháp Tôn Tử - Lợi dụng lúc đối phương không để ý, củng cố lực lượng và phát triển thế lực. Nhưng họ đã quên rằng: Đây là thế kỷ 21. Và Hoa Kỳ đã kịp nhận ra điều này. Không phải ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ lập tức đưa ra kế hoạch rút quân khỏi Irak, tạm thời hòa hoãn với Iran và đang tìm cách rút khỏi Afganixtan. Hoa Kỳ rút quân vì lo củng cố nền kinh tế suy thoái chăng? Quên nhanh! Ấy là con mẹ hàng cá chợ Bắc Qua bảo thế - Nền kinh tế Hoa Kỳ hiện nay có thể nói không ngoa rằng: Chỉ cần đem tặng không những cái xe hơi đã cũ – nhưng còn xịn chán, so với mấy cái xe của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - cũng đủ lũng đoạn một nền kinh tế của một quốc gia đang phát triển. Họ tập trung lực lương để giải quyết một nguy cơ tiềm năng đe dọa ngôi bá chủ thế giới. Ai ở đây nhỉ ? Ai mà ghê thế nhỉ ? Việt Nam à? Hay cả khối Asean? Hay Bắc Triều Tiên? Hỏi điều này thì ngay vợ Chí Phèo cũng lắc đầu bẩu không phải. Một chính trị gia cấp phường, chuyện bình luận tình hình thế giới ở quán cóc bán trà trên vỉa hẻ Hà Nội, cũng nhận ra: Nguy cơ tiềm ẩn chống lại Hoa Kỳ với tham vọng bá chủ trong tương lai chính là Trung Quốc. Biển Đông lúc này là chiến trường chính trị của Trung Quốc và Hoa Kỳ. Hoặc là nó sẽ quyết định một cuộc chiến tranh, hoặc là nó sẽ diễn biến nhân đạo hơn cho sự nhượng bộ của một trong hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chẳng cần phải có một tư duy chính trị sâu sắc lắm, chỉ cần một người có khả năng nói dối vợ đi chơi với bồ nhí cũng đủ thấy rằng : Chuyện tốt đẹp chỉ xảy ra một chiều duy nhất. Đó là chiều khiêm tốn của Trung Hoa vốn có truyền thống lấy như thắng cương. Hoa Kỳ rút quân khỏi Trung Đông và Afganixtan không phải để đến Biển Đông đánh cá với cái tàu thăm dò Đại Dương bị vướng mấy khúc gỗ do Trung Quốc thả xuống cản đường, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái cho đám cá ở đây. LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN VÀ CUỘC BẦU CỬ Ở HOA KỲ Khi mà Ngài Obama chưa xuất hiện với vai trò ứng cử viên tổng thống, thì nhóm Lạc Việt độn toán do Thiên Sứ tôi chủ trì đã xác định rằng: Bà Clinton sẽ không thể trở thành Tổng thống ở Hoa Kỳ. Tổng thống Hoa kỳ trong nhiệm kỳ này sẽ là một người đàn ông cao ráo và đẹp người. Nguyên văn lúc đầu còn có thêm hai chữ « da màu », nhưng sau đó vài ngày Thiên Sứ tôi đã xóa hai từ này, vì lúc đó Thiên Sứ tôi chưa hiểu rõ lắm về Hoa Kỳ. Người đàn ông đó chính là Ngài Obama so với vị ứng cử viên đảng Công Hòa là ông Mc. Cain. Nhưng Thiên Sứ tôi đã khăng khăng Ngài Obama không thể làm tổng thống. Thiên Sứ tôi đã giải thích rằng : Đấy là ý muốn chủ quan của tôi. Nhưng tại sao Hoa Kỳ không chia cho Trung Quốc những chiến lợi phẩm thu được sau thắng lợi trước Liên Xô, chí ít cũng là cái ao cá ở Biển Đông này chứ? CHIA CHÁC CHIẾN LỢI PHẨM. Cuộc đối đầu giữa hai siêu cường chấm dứt với sự sụp đổ của Liên Bang Công hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Trung Quốc được hai mẩu bánh là Hồng Kông và Ma Cao, nằm ngay trên ….đất Trung Hoa và không có Đài Loan. Thế thôi. Kể ra thì chàng cao bồi Texas – mặc dù trông rất đàn ông, nhưng lại tỏ ra khá keo kiết trong việc chia chác trong cái nhìn đầy nghĩa khí và hào hiệp với tinh thần "trọng nghĩa khinh tài"của anh hùng Lương Sơn Bạc. Nhưng ngược lại, với anh chàng cao bồi này thì như thế cũng hơi bị nhiều. Trong cuộc tìm vàng, công lớn nhất chính là những kẻ hùn vốn và bỏ xương máu, chứ không phải người thổ dân dẫn đường đã được trả công sòng phẳng theo thỏa thuận. Luật chơi này đã có từ khi những người da trắng đổ xô đi tìm vàng ở châu Mỹ. Cuộc chiến sinh tử để quyết định sự thắng bại giữa hai siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ không có sự tham gia của nước Công Hòa nhân dân Trung Hoa. Ngay cả Nhật Bản và Cộng Hòa Liên bang Đức là hai đồng minh khá quan trọng cũng không được dự phần. Cuộc chiến sinh tử quyết định lịch sử chính là cuộc chiến tranh Irak 1991. Mà nếu quí vị để ý thì chỉ những Đồng minh cũ của Hoa Kỳ trong thế chiến thứ II tham gia và không có Đức, Ý, Nhật Bản là những đồng minh sau Thế Chiến. Mặc dù ít nhất Nhật Bản thể hiện lòng tốt muốn đưa quân tham gia. NỘI DUNG CUỘC HỌP BÍ MẬT VÀ TỐN KÉM NHẤT TRONG LỊCH SỬ VĂN MINH NHÂN LOẠI Vào những năm 80, tình báo Hoa Kỳ phát hiện ra rằng: Liên Xô đã kiệt quệ về kinh tế và không có khả năng tiếp tục theo đuổi cuộc chạy đua vũ trang. Một trò chơi điện tử cấp quốc tế đã diễn ra: Trò “Chiến tranh giữa các vì sao”. Chỉ có khác là, những người sáng tạo ra trò chơi này không phải các chuyên gia lập trình vi tính và các game thủ loi choi, đam mê đến mức quên cả ăn và bị các bà mẹ khả kính đét mấy roi vào đít. Chẳng ai dám đét đít và xúc phạm đến các game thủ này. Bởi vì họ là những nguyên thủ quốc gia hàng đầu thế giới: Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ - Ngài Bush Cha và Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên Bang Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết – Ngài Goorbachop. Người Mỹ đã chiếm ưu thế trong trò chơi này. Cuối cùng, hai game thủ hàng đầu trong trò chơi điện tử quốc tế đã thỏa thuận gặp nhau để chấm dứt cuộc chơi. Một cuộc họp bí mật và tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại đã diễn ra ở Địa Trung Hải với sự bảo vệ của các hạm đội hàng đầu thế giới. Tất cả các cơ quan tình báo quốc tế với những nhân viên tài ba đi vào lịch sử, đều khóc tiếng Urugoay trong việc tìm kiếm thông tin cuộc họp này. Ngoại trừ trông cậy vào ….thày bói. Tất nhiên phải là những thày bói đẳng cấp. Chứ không phải mấy thầy miệt vườn chuyên xem tình duyên, gia đạo, trúng mấy quẻ cứ làm như nắm hết bí ẩn của vũ trụ. Sau cuộc họp tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại - được tài trợ bằng tiến đóng thuế của người dân khu cu đen Hoa Kỳ và của những người dân đang làm chủ đất nước Liên Xô vĩ đại – là một cuộc chiến đã xảy ra tại Irak giữa Hoa Kỳ và các nước đồng minh chủ chốt với Irak do chính quyền của Tổng thống SD Hussen, có sự hỗ trợ của Liên Xô. Cuộc chiến này, bắt đầu bằng một câu rất bâng quơ của bà phu nhân Đại Sứ Hoa Kỳ khi say xỉn trong một tiệc chiêu đãi. Bà ta đã phát biểu trong men rượu vang xứ Bordeaux nổi tiếng của nước Pháp, rằng thì là: Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào một cuộc chiến tranh giữa Irak và Ả Rập Cooet. Câu nói này đã được các nhân viên tình báo thượng thặng ghi nhận và đến tai người hùng Sadam Hussen. Ông ta xua quân vào Ả Rập Xeut. Ông Hussen dù có nghe nhầm, hoặc hiểu sai câu nói của bà Đại sứ phu nhân thì cũng không thể làm khác đi được. Lịch sử được quyết định từ trước đó. Hoa Kỳ có lý do chính đáng để dẫn đầu quân đồng minh tấn công Irak và đó là cuộc chiến Irak lần thứ nhất, năm 1991. Chính phủ Nhật Bản và Cộng Hòa Liên bang Đức, lúc ấy có nhã ý đem quân tham gia cuộc chiến và câu chuyện đã không xảy ra. Đây là chỗ người lớn nói chuyện. Trung Quốc lúc ấy chỉ tường thuật một cách khách quan cuộc chiến này với vài cuộn băng video, bán chui khá chạy ở Việt Nam cho các chính khách ấp bình luận sôi nổi về vũ khí hiện đại thời bấy giờ. Ngay sau cuộc chiến, toàn bộ khối Vacsava do Liên Xô đứng đầu đã sụp đổ. Đây là kết quả của cuộc thỏa thuận trong cuộc họp bí mật và tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại - tất nhiên là theo quẻ Lạc Việt độn toán, do Thiên Sứ thực hiện và giải mật - tạm thời trong Mật thất này. Trò chơi điện từ “Chiến tranh giữa các vì sao” chấm dứt. Người lớn chơi chán rồi. Bây giờ đến bọn trẻ con đang say sưa bấm, bấm trong các tụ điểm internet. Còn việc chia chác chiến lợi phẩm cuộc chơi vẫn thuộc về người lớn, bởi những chính khách nghiêm túc, uy tín và luôn tỏ ra đứng đắn với phụ nữ. Người Trung Quốc đã muốn biển Đông thuộc phần của mình. Họ đã thể hiện ước mơ bằng cách vẽ ra một đường biên giới trên biển mà dân gian quen gọi là cái lưỡi bò. Nhưng chàng cao bồi quen chăn bò ngày xưa đã thuộc về lịch sử. Theo đà tiến hóa, chàng cao bồi Texas đã biết đến mùi vị của cá thu kho giềng và biết chế biến dầu thô để chay xe hơi thay vì cưỡi ngựa có thể làm thoái hóa cột sống. Bởi vậy, tạm thời anh ta phải rút khỏi Trung Đông để thăm dò luồng cá ở đây. Biển Đông nước Việt không phải là chiến lợi phẩm được chia phần theo thỏa thuận. Ngay cả cho rằng ý tưởng quốc tế hóa cách đây 40 năm trước được thực hiện, thì nó cũng không có nghĩa là của riêng Trung Quốc. Trong cái nhìn của chàng cao bồi Texas thì Trung Quốc chỉ là một quốc gia ủng hộ họ khi phải đối đầu với Liên Xô và sẽ không phải đối tượng cần xử lý tiếp theo, nếu không tỏ ra tham vọng gây ảnh hưởng đến những tài sản kiếm được. Vấn đề cũng không đơn giản chỉ là vài con cá với mấy thùng dầu, mà còn là xác định địa vị bá chủ thế giới với những lợi ích kèm theo. Còn tiếp1 like
-
CCB mong rằng mỗi nick đọc qua bài báo này cố gắng nhắn 1 tin ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam. OM MANI PADME HUM OM MANI PADME HUM OM MANI PADME HUM. LINK GỐC Nhắn tin góp 18.000 đồng ủng hộ nạn nhân chất độc da cam Hội Nạn nhân chất độc da cam phát động phong trào nhắn tin ủng hộ nạn nhân da cam nhân kỷ niệm 50 năm thảm họa dioxin tại Việt Nam. Mỗi tin nhắn DACAM gửi 1409, người nhắn đóng góp 18.000 đồng cho chương trình. Chiến tranh đã đi qua nhưng di chứng của chất độc da cam vẫn tiếp tục ảnh hưởng nặng nề đến hàng triệu con em Việt Nam. Hiện nay trên cả nước có hơn 3 triệu nạn nhân dioxin đang phải gánh chịu di chứng nặng nề: dị tật, câm điếc, mù lòa, chậm phát triển trí tuệ... Chương trình nhắn tin từ thiện mang tên "Nỗi đau da cam" nhằm hưởng ứng phong trào “Hành động vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc phát động, qua Cổng thông tin nhân đạo quốc gia 1400. Thời gian bắt đầu từ 0h ngày 5/7 đến 24h ngày 4/9. Bức ảnh "Em muốn hái hoa" của tác giả Nguyễn Việt Cường chụp bé Nguyễn Hoài Thương, sinh năm 2008 ở xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, TP HCM, bị cụt cả tứ chi bẩm sinh, không cầm nắm được, song bé vẫn bị cuốn hút bởi đóa hoa màu đỏ rực rỡ khiến nhiều người xem xúc động. Chủ tịch Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin, Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh cho biết, chương trình nhắn tin từ thiện "Nỗi đau da cam" năm 2011 đã thu được hơn 7,3 tỷ đồng. Toàn bộ số tiền nói trên được dùng vào việc xây dựng cơ sở nuôi dưỡng, bán trú, phục hồi chức năng cho các nạn nhân chất độc da cam. Năm 2012 và 2013, Hội đặt mục tiêu xây dựng tiếp 46 cơ sở nuôi dưỡng bán trú, 1.160 ngôi nhà tình nghĩa, cấp 2.320 suất học bổng, trợ giúp 2.320 suất tìm việc làm cho con nạn nhân, xây dựng 3 trung tâm nuôi dưỡng, phục hồi chức năng và dạy nghề cho nạn nhân ở miền Bắc, Trung, Nam với tổng số tiền vận động là 250 tỷ đồng. Thi Trân1 like
-
Bò biết quỳ gối, khóc khi sắp bị làm thịt 10/08/2012 20:49:25 Một câu chuyện có thật về chú bò nước mắt đầm đìa trước khi bị con người mang ra làm thịt đang khiến cư dân facebook sững người và xúc động. Câu chuyện này được tờ Weekly World News kể lại từ Hồng Kông. Một nhóm nhân công dắt một con bò vào lò mổ chuẩn bị giết thịt để người ta chê biến ra các món bò bít tết và bò hầm ra-gu. Thế nhưng khi họ đi tới trước cửa lò thì con vật thình lình đứng khựng lại, không chịu tiến bước thêm nữa. Nó quỳ xuống bằng hai chân trước và nước mắt tuôn rơi. Tại sao trước khi vào lò sát sinh mà một con bò lại có thể hay biết rằng nó sắp bị xẻ thịt? Điều này cho thấy một điều là con vật này nhạy cảm hơn là người ta vẫn nghĩ về nó. Hình ảnh và câu chuyện này được đăng tải trên facebook Đẹp+ đã thu hút được 8.184 lượt Like, 1.208 người chia sẻ và 551 lời bình luận chỉ sau 3 giờ đăng. Mắt bò đẫm lệ. Facebook Hương Nhým xúc động kể lại câu chuyện có thật của chính bản thân: “Mèo nhà mình cũng khóc khi bố mẹ mình mang con của nó cho người khác. Vì nhà không thể nuôi hết 5 con mèo con đó, nên phải mang cho. Hàng ngày nó vẫn đi tìm và gọi con ở mọi ngóc ngách trong nhà. Khi nghe mẹ mình nói đã cho con nó, mèo nhà mình đã khóc. Những giọt nước rơi ra từ khóe mắt của mèo mẹ...!". Thanh Bravo cũng biết câu chuyện tương tự: “Ở Việt Nam đã có trường hợp như vậy nhưng chủ lò mổ vẫn đưa con bò vào mổ. Khi đã cắt tiết xong mổ ra mới biết con bò đó đang mang trong mình chú bê con. Thương thật”! Cũng một câu chuyện về loài vật khóc từ bạn Vũ Hoàng Oanh: “Trước đây mẹ mình mua một đôi vịt về để làm thịt. Một con bị xử trước mặt con còn lại, con còn lại không biết là do đoán được vận mệnh của mình hay thương bạn mà khóc đỏ cả mắt như chú bò trên, nước mắt chảy ra. Mình muốn cứu giúp nó khỏi chết nhưng không biết phải xử lý sao, nuôi thì không được phép mà có cho ai thì chắc nó cũng không thoát khỏi bị chọc tiết, nên thôi đành để mẹ xử luôn”. Ngoài ra còn rất nhiều những câu chuyện khác về các loài động vật khóc được các thành viên facebook kể lại khiến nhiều bạn đọc cũng cảm thấy xót xa và thương cảm. Nickname Giang Mỹ Nhung bùi ngùi: “Đọc mà phát khóc luôn”. Nguồn: Giaoduc.net.vn1 like
-
1 like
-
Những vấn đề và hiện tượng Thích Đủ Thứ nhận xét và đặt ra rất sâu sắc. Tuy nhiên, vì mang tính giải mã , nên sẽ có những cái nhìn khác nhau trong một hình tượng. Bởi vậy, tôi cũng chỉ đưa vào cho vui thôi. Mục đích dẫn chuyện thể hiện ý tưởng.Nếu hình ảnh cô gái Đài Loan được coi là thành viên liên hiệp quốc bị loại khỏi cuộc chơi thì trong canh bạc này phải có cả Anh , Pháp. Cho nên hình tượng cô gái Đài Loan bị loại khỏi cuộc chơi mang tính tiên tri sự kiện sắp xảy ra, chứ không phải là một hình tượng thể hiện quá khứ.1 like
-
Làm phúc thế này tốt quá, công đức vô biên.1 like
-
1 like
-
1 like
-
Bài chưa hoàn chỉnh đúng không ạ? Hôm bữa giờ chờ chú viết xong để "ngâm cứu" mà chờ hoài không thấy! Chú Thiên Sứ nếu có thời gian xin viết tiếp đi ạ! Nóng lòng quá! Hihi.... Theo những động thái của Mỹ từ bữa giờ, nào là kế hoạch "Biển-TRời", nào là những bài xã luận của những tờ bào lớn....thì quả thật những gì chú Thiên Sứ viết đang trở thành sự thật. ...1 like
-
2 tuổi 80 và 88 hạp 2016 là năm tuổi của anh 1980. Ko nên cưới. Có thể là 2015 hoặc 2017. Cưới năm nào thì có con đầu luôn ko phải xem năm, vì anh 1980 lúc đó cũng ko trẻ nữa. Con út sinh 2019.1 like
-
GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc TTNC LHDP www.lyhocdongphuong.org.vn Kính thưa các vị đại biểu. Kính thưa các vị khách quý có mặt nơi đây. Những lời đầu tiên của bài tham luận này tôi xin được thể hiện sự thành tâm ngưỡng vọng tới anh linh giáo sư Lương Kim Định, người chỉ đường đến kho tàng minh triết Việt. Chính vì những giá trị của giáo sư để lại cho hậu thế về một nền minh triết Việt mà chúng ta có mặt nơi đây. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến với ban tổ chức đã cho tôi có điều kiện thể hiện những suy tư của mình về những giá trị của cội nguồn minh triết Việt và giáo sư Lương Kim Định – một người mà tôi rất tôn trọng và quý mến, khi được biết đến những trước tác của ông. Tôi cũng xin được bày tỏ sự cảm ơn đối với các vị khách quí đã quan tâm đến chủ đề này và có mặt nơi đây. Kính thưa quí vị. Bài tham luận của chúng tôi xin được bắt đầu với phần thứ nhất có tựa là : I - GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH - NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT. Có lẽ tất cả chúng ta ở đây đều biết đến câu ca dao nổi tiếng của nền văn hóa truyền thống Việt:“Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn”. Đây cũng chính là câu ca dao mà giáo sư Lương Kim Định nhắc tới trong lời tựa cuốn sách của ông : “Triết lý cái Đình”. Câu ca dao tưởng như rất trực quan, rất bình thường, dân dã ấy, như chỉ là một ngạn ngữ khuyên con người Việt Nam hãy dùng những gì mình có. Vì nó là của ta. Cho nên nó tự do hơn và khoáng đạt hơn khi phải mượn tạm những gì của người khác. Sâu xa hơn, vì nó là của ta, nên nó là những giá trị đích thực. Nhưng ai cũng biết cái “ao ta” ấy chỉ là một hình tượng cho sự sở hữu của ta. Và chỉ khi nó là của ta thì ta mới có tự do vùng vẫy trong cái “ao ta” ấy, “dù trong, dù đục”. Trong hay đục thì chưa biết. Nhưng đoạn chót của câu ca dao ấy đã khẳng định : “ao nhà vẫn hơn”. Như vậy, nó đã xác định rằng: “Ao ta” hơn hẳn “ao người”. Nhưng “ao ta” ở đâu và “ao người” ở đâu? Phải chăng để đi tìm cái “ao ta” ấy người xưa đã muốn nhắc nhở con cháu tìm về cội nguồn? Và cội nguồn của Việt tộc, chính là cái “ao ta” ấy sẽ hơn hẳn “ao người”!? Một sự tương đồng, nhưng rõ ràng và thẳng thắn hơn với nội dung minh triết sâu xa của câu ca dao trên, chính là bài ca của cô Tấm. Mỗi khi cho cá ăn - tài sản ít ỏi và duy nhất của cô - để chia sẻ tâm tư khi phải sống chung với mụ dì ghẻ độc ác, cô Tấm lại cất tiếng gọi: Bống bống bang bang. Bống ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người. Như vậy, đến bài ca của cô Tấm thì những cái gì của ta, nó không còn mơ hồ giữa “trong” hay “đục”. Mà nó đã là sự khẳng định giá trị đích thực của nền minh triết Việt: Cũng là cơm. Nhưng cơm của Tấm là “cơm vàng, cơm bạc” là giá trị đích thực chói sáng của nền minh triết Việt. Còn cái giống như thế, cũng là “cơm”, nhưng là “cơm hẩm, cháo hoa nhà người”. Nhưng những hạt cơm vàng, cơm bạc của cô Tâm từ ngày xửa, ngày xưa ấy, đã rơi vãi đâu đây trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc? Có cái gì để thay thế phép lạ của Bụt sai khiến đàn chim đến nhặt hết những hạt sạn sỏi trộn chung với thóc , để trả lại một màu vàng óng, nguyên sơ của thúng thóc được tạo ra với bao công sức cần lao của con người? Phải chăng đấy là những giá trị minh triết Việt, được mã hóa trong những câu chuyện cổ tích, huyền thoại gửi gấm lại đời sau? Nhưng những hình ảnh minh triết ấy đưa chúng ta về đâu và nó muốn nói đến một giá trị đích thực gì ẩn chứa đằng sau của cái “ao nhà vẫn hơn”; của cái “cơm vàng, cơm bạc nhà ta” ấy? Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rồi một ngàn năm nữa qua đi với bao thăng trầm của Việt sử. Những ngọn lửa chiến chinh khốc liệt đã không chỉ một lần thiêu đốt, tàn phá nền văn hóa đầy minh triết của Việt tộc. Câu chuyện “cơm vàng cơm bạc nhà ta” của cô Tấm đã trở thành chuyện cổ tích thuộc về “ngày xửa, ngày xưa”. Cái “ ao nhà vẫn hơn “ ấy cũng lùi vào dĩ vãng. Trong cuộc sống náo nhiệt, phồn vinh của nền văn minh kỹ thuật, Việt sử với 5000 năm văn hiến đã trở nên huyễn ảo từ nơi cội nguồn. Đã không ít những học giả lóa mắt trước ánh sáng đèn của nền văn minh Tây phương, nên không nhìn thấy những gía trị đích thực của nền minh triết Việt. Cũng không ít những học giả cả trong và ngoài nước, đặt câu hỏi phản biện những giá trị văn hóa sử Việt 5000 năm văn hiến rằng: Tại sao gọi là văn hiến mà nền văn hiến truyền thống đầy tự hào ấy, thiếu vắng những gía trị minh triết? Tại sao những nền văn minh tồn tại ngắn hơn về thời gian, lại ghi nhận những gía trị minh triết với những triết gia tên tuổi và những di sản như là những kỳ tích của nền văn minh nhân loại? Còn 5000 năm văn hiến Việt được ghi nhận trong lịch sử và truyền thống đầy tự hào ấy còn có gì đâu? Vấn đề đã được đặt ra cho những con người Việt Nam đau đáu đi tìm cội nguồn minh triết Việt. Một trong những con người Việt Nam ấy là giáo sư linh mục Lương Kim Định. Với hàng chục đầu sách nổi tiếng một thời , giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách sâu sắc về minh triết Việt. Ông đã nhìn thấy linh hồn của nền văn minh Việt trong những giá trị căn bản của văn hóa Phương Đông - Trong đó có Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Lạc Thư minh triết” và được nhắc lại trong nhiều tác phẩm khác của ông. Trong “Lạc thư minh triết”, ông đã tìm thấy mối liên hệ tương đồng giữa những truyền thuyết về huyền sử Việt với những đồ hình biểu kiến mang tính căn để của Lý học Đông phương. Đó là Lạc Thư và Hà Đồ. Ông cũng đã tìm thấy những điểm tương đồng của minh triết Đông phương bàng bạc, lưu truyền trong những di sản văn hóa truyền thống Việt. Từ đó ông đã đặt vấn đề về một “Cơ cấu Việt Nho” để xác định một nền minh triết Việt đầy nhân bản và tách ra khỏi Hán Nho. Trong tác phẩm “Cơ cấu Việt Nho” – với một trí thức uyên bác, ông đã so sánh hầu hết những tư tưởng minh triết Đông Tây Kim cổ với những mảnh lấp lánh còn lại trong di sản truyền thống văn hóa sử Việt, qua những truyền thuyết , huyền thoại, những câu chuyện cổ tích, trong những câu ca dao và so sánh với hầu hết những giá trị của Lý Học Đông phương, kể cả thuyết Âm Dương Ngũ hành và với hệ thống Thi, Thư vốn được coi là của Hán tộc. Trên những cơ sở đó ông đã mặc định về một hệ thống Việt Nho bàng bạc tương đồng từ thời cổ sử. Trong tác phẩm “Triết lý cái Đình”, ông đã xác định ngay từ đầu: “Việt Nam đã có một nền minh triết”. Có thể nói rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra một vấn đề trải rộng trên nhiều mặt của những giá trị văn hóa Đông phương - từ hàng thiên niên kỷ nay vẫn được mặc định thuộc về nền văn minh Hán – và ông đã tìm thấy một sự tương đồng đến kỳ lạ ở nền văn hiến Việt. Ông đã khai phá trong sự hỗn độn, huyền bí của nền văn minh Đông phương để chỉ ra một gía trị minh triết Việt tương đồng. Nhưng giáo sư Lương Kim Định vẫn chưa đạt được đến đích. Đây là cái khó của giáo sư. Cái khó ấy ông đã viết ngay trong mục I, phần thứ nhất của cuốn “Cơ cấu Việt Nho”. Ông viết: 1. Tại sao không Việt lại Nho? Thưa vì Nho với Việt là một. Nói Nho hay Việt, Việt hay Nho cũng thế. Đây là một lời quyết đoán khó có thể chấp nhận. Vì chữ Nho tuân theo một cú pháp ngược với cú pháp Việt và nó xuất phát từ nước Tàu chứ có phải của vô thừa nhận đâu, để cho ai muốn kéo về với mình cũng được. Vâng! Thưa quí vị. Đây chính là điều cản trở gây khó cho giáo sư khi tìm về cội nguồn minh triết Việt. Mặc dù ông đã đặt vấn đề một cách hoàn mỹ và toàn diện về sự tương đồng giữa những di sản truyền thống của văn hiến Việt với những giá trị mình triết Đông phương. Nhưng điều cản trở ông, chính là ông vẫn cho rằng những giá trị cốt lõi của minh triết Đông phương vẫn thuộc về người Hán. Vẫn có một thứ Hán nho sừng sững bên cạnh Việt Nho. Một thứ “ao người” bên cạnh cái “ao ta” đầy huyễn ảo giữa hai dòng trong đục. Tuy nhiên, đến đây tôi cũng cần phải nói rõ rằng: Bằng một sự mẫn cảm của một học giả uyên bác, giáo sư Lương Kim Định cũng đã đặt ra vấn đề cội nguồn lịch sử của Hán Nho. Ngay tiếp theo đoạn trích dẫn ở trên, ông đã viết: Thế nhưng lại có thể trả lời rằng: Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa? Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu. Đến đây, quí vị cũng thấy rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách rất xác đáng: Lịch sử của nền minh triết Hán Nho – vốn được coi là cội nguồn của văn minh Đông phương – cũng rất huyễn ảo. Nhưng giáo sư chỉ dừng lại ở đây và vẫn vì sự cản trở của quan niệm cho rằng có một nền minh triết Hán Nho xuất phát từ văn minh Hán. Cội nguồn minh triết Việt vẫn còn đầy huyễn ảo. Cái “ao ta” mầu nhiệm ấy vẫn còn chờ “gạn đục, khơi trong”, khi nó vẫn hỗn mang giữa hai dòng “trong”, “đục”. Miếng “cơm vàng, cơm bạc” của cô Tấm ngày xưa vẫn còn trộn lẫn trong sỏi đá và chờ phép màu của Đức Phật. Phép màu nói theo ngôn ngữ của thời “ngày xửa, ngày xưa”, nhưng diễn ra ngôn ngữ hiện đại thì chúng ta cần một phương pháp đúng để tìm về cội nguồn. Phần tiếp theo đây, chúng tôi xin được đề cập đến là: II – TÌM VỀ CỘI NGUỒN MINH TRIẾT VIỆT Kính thưa quí vị. Tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết đến những câu nổi tiếng của bài Bình Ngô Đại cáo, do đại danh nhân, anh hùng dân tộc Việt - Nguyễn Trãi viết: Như nước Đại Việt ta thuở trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Trải Triệu, Lê, Lý , Trần xây nền độc lập. Cùng Hán , Đường, Tống , Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau. Nhưng hào kiệt thời nào cũng có. Và trong Hoàng cung Huế, một bức thi pháp của vua Minh Mệnh cũng viết: Văn hiến thiên niên quốc. Xa thư vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu. Nam phục nhất Đường Ngu. Kính thưa quí vị. Có thể nói rằng: Trong lịch sử văn minh nhân loại, chỉ duy nhất có Việt sử ghi nhận với niềm tự hào là quốc gia văn hiến. Vậy thì cội nguồn văn hiến đó từ đâu, khi mà chính nền văn minh Hán cũng khiêm tốn và chưa sốt sắng lắm khi nhận mình là một quốc gia văn hiến trong lịch sử? Các văn bản còn lại trong chính sử, trong truyền thống văn hóa sử Việt, đã chỉ thẳng đến thời Hùng Vương với quốc hiệu Văn Lang - là quốc gia đầu tiên của Việt tộc - lập quốc vào năm 2879 trc CN và chính là cội nguồn của danh xưng văn hiến Việt. Nhưng – như chúng tôi đã trình bày: Lớp bụi thời gian của hơn 1000 năm Bắc thuộc và tiếp đó là 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của Việt sử, đã phủ dày lớp lớp rêu phong lên cội nguồn văn hiến Việt. Hàng ngàn năm không phải là con số để đọc trong một giây. Chỉ với ngay cuộc đời của những vị cao niên có mặt nơi đây, đã đủ chứng kiến bao nhiêu cuộc bể dâu trong cuộc sống của chúng ta. Hàng ngàn năm đã trôi qua. Việc tìm về nguồn cội Việt tộc không thể dễ dàng. Nhưng có một câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng trong nền minh triết Việt mà chắc tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết, mà nội dung của nó như đã an ủi những con người Việt Nam đau đáu tìm về cội nguồn; đó là câu truyện Trê Cóc. Câu chuyện kể lại rằng: Đàn con của cóc là bầy nòng nọc, bị vợ chồng cá trê vốn hiếm muộn thấy nòng nọc giống mình, nên đã bắt về làm con của Trê. Mẹ Cóc thấy mất con và biết Trê đã lấy con của mình, bèn đi kiện. Nhưng trước hình thức khác hẳn Cóc và giống Trê của bầy nòng nọc, nên quan cá Chép đã xử cho Trê thắng kiện. Cóc đau buồn trở về thì Nhái Bén khuyên Mẹ Cóc hãy chờ đợi. Thời gian sẽ làm bày nòng nọc tiến hóa và sẽ trở về với Mẹ Cóc, trở về với cội nguồn. Kính thưa quí vị. Theo cách hiểu hoàn toàn chủ quan của chúng tôi thì đây chính là một câu truyện đầy tính minh triết của Việt tộc. Nòng nọc – tức là nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc, bị Hán hóa trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó ở miền Nam sông Dương tử, nên đã mang một hình thức khác là văn tự Hán . Cho nên nó có một vẻ bề ngoài thuộc về văn minh Hán – đó là hình tượng trong câu chuyện Trê Cóc, khi nòng nọc có bề ngoài giống Trê. Với hình thức bề ngoài đó và sự mạo nhận của đế chế Hán , khi nền văn hiến Việt sụp đổ ở bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước, khiến ai cũng tưởng nó thuộc về văn minh Hán. Nhưng bản chất di truyền tế vi, mà không dễ ai cũng nhận thức được thì nòng nọc vẫn là con của Cóc. Câu chuyện dân gian Việt Nam độc đáo ấy, muốn chuyển tải một thông điệp vượt thời gian đầy minh triết cho chúng ta thấy rằng: Với sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại thì chính những tri thức của nền khoa học hiện đại, sẽ thấy được bản chất của cội nguồn nền minh triết Đông phương thuộc về nền văn minh Khoa đẩu. Bầy nòng nọc sẽ biến thành cóc và trở về với cội nguồn Việt sử. trong sự chờ đợi mỏi mòn của Mẹ Cóc. Nhưng thời gian ấy là bao lâu trong sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miền nam sông Dương tử? Kính thưa quí vị. Có vẻ như là một lời mặc khải huyền vĩ - cách đây xấp xỉ 70 năm về trước - trong nhạc phẩm nổi tiếng của nền âm nhạc hiện đại Việt, như là câu trả lời cho vấn nạn thời gian của việc tìm về cội nguồn Việt sử. Đó là nhạc phẩm bất hủ “Hòn vọng phu” nổi tiếng của nhạc sĩ Lê Thương. Chắc nhiều quý vị lớn tuổi ngồi đây đều biết nội dung một đoạn lời nhạc này trong nhạc phẩm nổi tiếng nói trên: Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua. Đến khi núi lở, sông mòn. Mới mong tới hòn Vọng phu. Kể từ khi Việt sử chìm trong bóng tối dưới sự thống trị của đế chế Hán, đến nay hơn 2000 năm đã trôi qua. Qua hơn hai ngàn năm ấy, sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những tri thức khoa học, kỹ thuật vượt trội. tri thức khoa học đã tìm thấy những cấu tạo tế vi của vật chất, cũng như sự vận động của những thiên hà khổng lồ. Nó đã tìm thấy được bản chất của sự di truyền. Nó đã kết nối các nền văn minh cổ xưa trong sự hội nhập toàn cầu vĩ đại. Nó đã soi ánh sáng của tri thức hiện đại vào những giá trị của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Phải chăng, đây chính là thời gian được mặc khải trong lời nhạc phẩm Hòn Vọng phu, để đàn nòng nọc tiến hóa trở thành cóc và về với cội nguồn Việt sử? Đến đây, chúng tôi cần nói rõ để mong được quí vị lưu ý rằng: Chúng tôi không coi việc giải mã những truyền thuyết, truyện cổ, ca dao tục ngữ dân gian…vv….. làm bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử. Đấy không phải là phương pháp được khoa học công nhận - Chí ít là trong giai đoạn này hiện nay. Bởi vì tri thức khoa học ngày nay, chưa có một tiêu chí để làm chuẩn mực, xác định một phương pháp giải mã những di sản văn hóa phi vật thể truyền thống được coi là đúng. Chúng tôi cũng không dùng sự suy luận chủ quan, hoặc nhân danh ngoài khoa học để xác định luận điểm của chúng tôi, khi chứng minh cội nguồn minh triết Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Kính thưa quí vị. Chúng ta đang tiếp bước theo các bậc tiền nhân để đi tìm về cội nguồn văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử, mà một trong các vị tiền bối khả kính ấy chính là giáo sư Lương Kim Định – là nguyên nhân để chúng ta có mặt ngày hôm nay - cùng chia sẻ những giá trị mà ông đã để lại, trong công cuộc tìm về cội nguồn văn hiến Việt. Chúng ta có thuận lợi hơn so với thời đại của giáo sư Lương Kim Định đã sống. Đó chính là sự tiến bộ vượt bậc của những tri thức khoa học hiện đại, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Đó là những phương pháp luận khoa học, những tiêu chí khoa học , cùng với những thành tựu của khoa học hiện đại, để so sánh, đối chiếu thẩm định một lý thuyết, một giả thuyết, một phương pháp ứng dụng được coi là đúng. Từ những giá trị đó của tri thức khoa học hiện đại , chúng tôi coi như là những phương tiện hữu hiệu để tiếp bước các bậc tiền bối tìm về cội nguồn minh triết Việt và khám phá những giá trị thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Phần tiếp theo đây, chúng tôi sẽ trình bày về: III. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN NHỮNG GÍA TRỊ CỦA NỀN VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG. Kính thưa quý vị. Chúng ta đang sống trong một thời đại chuyển tiếp của sự hội nhập toàn cầu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những thành tựu khoa học tiên tiến nhất tính đến ngày hôm nay. Tất cả những gía trị của các nền văn minh từ thời cổ đại đến nay đều được chia sẻ và được biết đến qua mạng thông tin toàn cầu. Nhưng có một nền văn minh cổ xưa vẫn sừng sững một cách huyền vĩ, thách đố tất cả tri thức của nền văn minh nhân loại trong thời hội nhập. Đó chính là nền văn minh Đông phương huyền bí. Phải chăng đó là vì người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Cái sai đầu tiên và cũng rất phổ biến trong tất cả các nghiên cứu về cội nguồn văn minh Đông phương - mà trong quá trình nghiên cứu về Lý học Đông phương, chúng tôi đã nhận thấy rằng: Đó chính là sự mặc định nó thuộc về văn minh Hán . Từ đó, khiến dẫn đến một hệ quả đương nhiên cho rằng: Những giá trị của nền văn minh Đông phương ghi nhận trong các bản văn chữ Hán là những thành tựu của nền văn minh này. Và đó chính là nguyên nhân khiến người ta sẽ không thể phục chế được một cách có hệ thống và tính nhất quán những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương. Mà nền tảng căn bản của là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đây cũng chính là điều mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề - tôi xin được nhắc lại như sau: Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa. Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu. Kính thưa quí vị! Để xác định cội nguồn Việt tộc và phủ nhận sự mặc định phổ biến từ ngàn xưa về nguồn gốc Hán của nền minh triết Đông, chúng ta phải viện dẫn đến tri thức khoa học hiện đại và nhân danh khoa học. Tiêu chí khoa học hiện đại đã xác định một học thuyết thuộc về nền văn minh nào đó thì nó phải thỏa mãn ba yếu tố sau: 1/ Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. 2/ Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. 3/ Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Trên cơ sở tiêu chí khoa học này chúng tôi đã xác định: Những minh chứng một cách chi tiết cho luận điểm này và mọi vấn đề liên quan, chúng tôi đã trình bày trong các tác phẩm đã xuất bản và trong các tiểu luận được trình bày trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. Quí vị quan tâm có thể tham khảo ở website trên. Trong phạm vi bài nói hôm nay, chúng tôi xin trình bày một cách tóm tắt như sau: Yếu tố thứ nhất (1). Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. Trên cơ sở này chúng ta xem xét lịch sử phát triển thuyết Âm Dương Ngũ hành trong nền văn minh Hán. Trước hết chúng ta hãy xem xét nội dung của cuốn Hoàng Đề nội kinh tố vấn. Đây là cuốn sách về lý luận căn bản của Đông y nổi tiếng với thời gian hình thành được xác định vào thời Hoàng Đế, hơn 3000 năm trước CN. Nội dung của cuốn sách này hoàn toàn sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành như là hệ quả của một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh. Ở đây, nếu có vị nào đã một lần xem được cuốn Hoàng Đế nội kinh sẽ nhận thấy điều này. Nhưng 1000 năm sau đó - Đây cũng không phải là con số được đọc trong một giây – thì vua Đại Vũ theo cổ thư chữ Hán mới tìm ra Lạc Thư và phát minh ra thuyết Ngũ hành. Sau đó 1000 năm nữa cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Văn Vương nhà Chu mới sáng tạo ra Hậu Thiên Bát quái Văn Vương và làm ra cuốn Chu Dịch. 500 năm sau đó, theo cổ thư chữ Hán thì một vị danh sư được coi là Khổng tử mới bổ sung vào cuốn Chu Dịch và khái niệm Âm Dương trong văn bản cổ nhất xuất hiện vào thời kỳ này. Tóm lại, thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện trong lịch sử văn minh Hán với một tiến trình ngược theo kiểu : Sinh con rồi mới sinh cha. Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. Để xác định rõ hơn: Ngay cả những nhà nghiên cứu lịch sử và Lý học Trung Hoa hiện đại cho đến tận ngày hôm nay - khi chúng ta gặp nhau ở đây - vẫn không thể xác định được Thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện vào thời kỳ nào trong lịch sử văn minh Hán. Đúng như giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề từ hơn 40 năm trước. Yếu tố thứ hai (2): Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. Về vấn đề này thì chúng tôi đã chứng minh rằng: Toàn bộ lịch sử của nền văn minh Hán từ hàng ngàn năm nay không chứng tỏ được một nền tảng tri thức xã hội tạo nên thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chỉ tính riêng sự phát triển bất hợp lý trong quá trình hình thành học thuyết này theo bản văn chữ Hán, đã cho thấy nó không thể thuộc về nền văn minh Hán. Còn những hệ quả ứng dụng của nó - tôi thí dụ như bảng Lục thập Hoa giáp – thì chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại cũng phải phát biểu rằng: “Không hiểu từ cơ sở nào để các tiền nhân Trung Hoa đặt ra bảng Lục thập hoa giáp này? Từ hàng ngàn năm nay đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về nó, nhưng đến nay vẫn cứ là huyền bí, khó hiểu !” (Thiệu Vĩ Hoa. “Chu Dịch và Dự đoán học”& “Dự đoán theo tứ trụ”) Tóm lại từ hàng ngàn năm nay, chính những người Trung Hoa cũng chỉ biết học thuộc lòng và ứng dụng. Họ không thể phục hồi lại được một học thuyết nền tảng của nền minh triết Đông phương – thuyết Âm Dương Ngũ hành – tiền đề cho các bộ môn ứng dụng là hệ quả của nó. Nếu như nền tảng tri thức của nền văn minh Hán chính là cơ sở hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành và những giá trị của nó chính là thành tựu đạt được trên cơ sở nền tảng tri thức đó - cho dù giải thích bằng tính thất truyền - thì – người ta đã phục hồi được nó từ lâu. Chứ không thể huyền bí hơn 2000 năm nay cho đến tận ngày hôm nay – khi chúng ta đang ngồi ở đây để tưởng niệm giáo sư Lương Kim Định và bàn về những di sản của giáo sư tìm về cội nguồn minh triết Việt. Nòng nọc về bản chất không phải con của Trê. Yếu tố thứ ba (3) là: Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Về vấn đề này thì chúng tôi cần xác định rằng: Cấu trúc của thuyết Âm Dương Ngũ hành thể hiện trong các bản văn chữ Hán thậm chí không thể chứng tỏ đó là một học thuyết hoàn chỉnh. Chưa nói đến tính hợp lý, tính hệ thông và nhất quán của nó. Chúng đầy rẫy những mâu thuẫn và có tính tự phủ định trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hiện tượng này đã khiến cho những nhà nghiên cứu chuyên môn sâu của chính nền văn minh Trung Hoa từ hàng ngàn năm nay, cũng mâu thuẫn nhau khi giải thích những vấn đề liên quan đến nó. Theo kiểu “thày bói xem voi”, mà một câu truyện nổi tiếng của nền minh triết Việt đã nói đến. Những chứng minh rất cụ thể và chi tiết về vấn đề này, quí vị có thể tham khảo tại website lyhocdongphuong.org.vn của chúng tôi. Ở đây chúng tôi chỉ xin dẫn chứng một số những ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong các bản văn cổ chữ Hán, tương đối phổ biến. Đầu tiên là môn phong thủy. Có lẽ hầu hết những người quan tâm đến phong thủy - được coi là xuất phát trong lịch sử văn minh Hán - đều biết rằng có đến 4 trường phái phong thủy lưu truyền. Những trường phái này có những luận điểm mâu thuẫn lẫn nhau trong những ứng dụng cụ thể. Ông thày thuộc trường phái này thì phản đối phương pháp của ông thày theo trường phái khác. Và hệ quả của nó là nội cái bếp của gia chủ, nếu có nhiều ông thày theo cổ thư chữ Hán đến sửa thì nó quay đủ các hướng khác nhau. Hoặc cụ thể hơn chính là câu chuyện được ghi nhận trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, có tựa là “Nhật giả liệt truyện”. Trong câu chuyện này, Tư Mã Thiên đã miêu tả việc các thày bói Trung Hoa được Hán Vũ Đế triệu tập, để chọn ngày cưới vợ cho nhà vua. Nhưng các thày cãi nhau ỏm tỏi cả ngày, đỏ mặt tía tai, mà vẫn không thống nhất được ngày nào được coi là tốt để cưới vợ cho vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa. Như vậy, với sự giới thiệu những luận cứ tiêu biểu, căn cứ vào tiêu chí khoa học , chúng tôi đã xác định rằng: Cội nguồn minh triết Đông phương không thể thuộc về văn minh Hán. Tiếp theo đây, chúng tôi xin giới thiệu một cách nghiêm túc những cách giải thích khác cho sự bí ẩn của nền văn minh Đông phương, nhằm làm sáng tỏ them tính bế tắc khi xác định sai lầm về cội nguồn văn minh Đông phương thuộc về văn minh Hán. Kính thưa quí vị. Cách giải thích thứ nhất, mà có lẽ các quí vị ít được nghe, cho rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là do người ngoài hành tinh có một nền văn minh vượt trội đã đem đến trái Đất. Vì kiến thức vượt trội của nền văn minh ngoài trái Đất, nên chúng ta không thể hiểu nổi!? Chúng tôi bác bỏ giả thuyết này, vì những giá trị của nó phục vụ cho con người và xuất phát từ những thực tại khách quan trên chính trái Đất này. Do đó nó không thể là của người ngoài hành tinh ban cho trái Đất này. Nhưng còn một giả thuyết nữa thì đã có từ lâu và có thể ít nhiều trong chúng ta được nghe nói tới. Đó là việc cho rằng: thuyết Âm Dương Ngũ hành do các bậc tiên thánh làm ra, nên người phàm không thể hiểu nổi. Một câu “thành ngữ” thuộc về “ chuyên ngành bói toán” tồn tại từ cách đây mới ngót nửa thế kỷ trờ về trước, mà những vị lớn tuổi đều biết, đó là: “Theo quẻ này thì Thánh dạy rằng:….”. Và Thánh ở đây được hiểu là những bậc siêu phàm từ cõi trên, không thuộc về cõi trần gian này. Tất nhiên đây không phải cách giải thích nhân danh khoa học. Nhưng nó gián tiếp phủ nhận nền tảng tri thức của nền văn minh Hán không phải là cơ sở tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ hành. Vì nó thuộc về trí tuệ của tiên thánh. Tất cả hai cách giải thích trên, cũng mặc nhiên xác định cội nguồn lý học Đông phương thuộc về văn minh Hán. Và nó đã phản ánh sự bế tắc, khi không thể khám phá được những bí ẩn của lý học Đông phương bằng một tư duy khoa học. Bởi vì bản chất của nền minh triết Đông phương không thuộc về văn minh Hán. Tiếp theo đây chúng tôi minh chứng sự xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trong phần III của bài tham luận này: III .THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH THUỘC VỀ VĂN HIẾN VIỆT Kính thưa quí vị. Khi xác định cội nguồn Lý học Đông phương không thuộc về văn minh Hán, chúng tôi đã xóa bỏ được sai lầm ngay từ dữ kiện đầu vào của việc đi tìm cội nguồn minh triết Đông phương. Từ đó, chúng tôi xác định với một giả thiết có cơ sở là nó thuộc về nền văn hiến Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử. Đây cũng chính là vấn đề mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra trong các trước tác của ông. Cũng trên cơ sở của giả thuyết này thì vấn đề hợp lý tiếp theo được đặt ra là: Những gì được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành có thể sai lệch và không phản ánh đúng nội dung nguyên thủy của nó – khi nền văn minh Việt đã sụp đổ ở miền nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Điều này đã phản ánh trên thực tế bằng những thất bại của những học giả nghiên cứu theo hướng này, không phải bây giờ, hoặc vài chục, vài trăm năm. Mà là đã hàng thiên niên kỷ. Kính thưa quí vị. Những tiêu chí khoa học được trình bày ở trên với những luận cứ phù hợp đã xác định rằng: Cơ sở nền minh triết Đông phương mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về nền văn minh Hán. Đồng thời những tiêu chí khoa học đó , cũng chính là những yếu tố cần để xác định những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương và tìm về cội nguồn minh triết Việt - một cách sòng phẳng, công bằng và nhân danh tính khách quan khoa học. Nhưng để chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, còn cần phải đối chiếu, so sánh với nhiều tiêu chí khoa học khác với những luận cứ khách quan có thể kiểm chứng. Cụ thể là: *Sử dụng những tiêu chí khoa học hiện đại gồm những yếu tố cần và đủ cho việc xác minh tính khoa học của một giả thuyết, một phương pháp, một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. *Những tiêu chí khoa học kết hợp với những thành tựu của tri thức khoa học hiện đại đã được kiểm chứng làm cơ sở so sánh, đối chiếu với những gía trị còn lại của nền minh triết Đông Phương . Đồng thời kết quả nghiên cứu phải phù hợp với tiêu chí khoa học. Việc chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, chúng tôi cũng bắt đầu so sánh với ba tiêu chí xác định một học thuyết thuộc sở hữu của nền văn minh nào, đã trình bày ở trên. Yếu tố thứ nhất (1). Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. Chúng tôi đã xác định rằng : Nền văn hiến Việt chính là cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Và đây chính là giả thiết mà chúng tôi đặt ra nhân danh khoa học, sau khi bác bỏ cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về văn minh Hán. Những tiêu chí khoa học xác định rằng: Một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách nhất quán, có tính hệ thống, tính hoàn chính, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Đây chính là cơ sở cho những luận cứ phù hợp với tiêu chí khoa học của một giả thuyết nhân danh khoa học, xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt tộc. Vấn đề lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt là một giả thuyết nhân danh khoa học. Do đó, chúng tôi phải chứng minh giả thuyết này phù hợp với tất cả những tiêu chí khoa học xác định một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, thông qua hai yếu tố còn lại của tiêu chí xác định cội nguồn văn minh cho một học thuyết đã trình bày ở trên. Yếu tố thứ hai (2): Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. Chứng minh được giả thuyết này là một việc cực kỳ khó khăn. Vì lịch sử thăng trầm với hơn một ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và 1000 năm hưng quốc sau đó với bao cuộc chiến tranh xâm lược hủy diệt văn hóa Việt, đã xóa nhòa những dấu ấn của nền văn minh Việt tộc. Nhưng chính bề dày của nền văn hiến có cội nguồn từ thời Hùng Vương dựng nước từ gần 5000 năm trước, đã để lại cho chúng ta những dấu ấn qua những di sản văn hóa phi vật thể - mà những dấu ấn đó chính là những phát hiện của giáo sư Lương Kim Định trong các tác phẩm của ông – đã được chúng tôi đã bổ sung, làm sáng tỏ hơn trong những luận cứ của mình. Ở đây chúng tôi cũng xin được lưu ý các quí vị quan tâm là: Vào tháng 5. 2002, cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã thống nhất xác định rằng: Những di sản văn hóa phi vật thể là những bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử. Như vậy, di vật khảo cổ, tư liệu văn bản cổ..vv… không phải là bằng chứng không thể thay thế chứng minh cho lịch sử. Kính thưa quý vị. Chúng tôi đã chứng minh một cách chi tiết nền tảng minh triết Việt là cơ sở phục hồi và phù hợp với sự hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành, trong các sách đã xuất bản với những tiểu luận được đăng tải trên website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu một di sản văn hóa phi vật thể quen thuộc với tất cả những con người Việt Nam, trong kho tàng di sản văn hóa Việt còn lại qua hơn 2000 năm thăng trầm của lịch sử Việt tộc. Xin quý vị xem bức tranh dân gian dưới đây: Kính thưa quí vị. Tôi tin chắc rằng bức tranh dân gian đầy chất dân dã này , quá quen thuộc với tất cả con người Việt Nam - Từ những đứa trẻ bắt đầu có nhận thức cho đến những vị cao niên. Tùy theo góc nhìn, chúng ta có thể hiểu nội dung bức tranh dưới nhiều góc độ. Nhưng chúng tôi xin lưu ý quí vị về biểu tượng chiếc vòng xoáy trên bụng con lợn mẹ trong tranh và so sánh với một biểu tượng gần giống cũng rất đỗi quen thuộc với chúng ta, là đồ hình dưới đây: Tất cả chúng ta đều biết rằng đồ hình trên chính là biểu tương cho sự minh triết Hán nho thể hiện trong Kinh Dịch và những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nó có mặt ở khắp nơi và mang dấu ấn của nền văn hóa Hán. Nó ăn theo sự bí ẩn huyền vĩ của minh triết Đông phương và trở thành vật thiêng để trấn yểm trước của nhiều ngôi nhà ngay ở Hanoi này. Tất nhiên nó là sản phẩm của văn hóa Hán, trong quá trình nghiên cứu minh triết Đông phương . Bản quyền phát minh ra đồ hình này là Chu Đôn Di vào đời Tống cách đây ngót 1000 năm. Nhưng như một sự mặc khải, cũng trong lời bài hát của nhạc phẩm nổi tiếng Hòn Vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương, chắc nhiều vị còn nhớ đoạn này: Từ bóng cây, gốc rạ ven đường. Từ mái tranh, góc đình trong làng. Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống…. Nhưng trong di sản văn hóa truyền thống Việt – nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống ấy lại tồn tại một đồ hình minh triết khác hẳn cho đồ hình Âm Dương có nguồn gốc Hán trên. Đó chính là Đồ hình Âm Dương Lạc Việt thể hiện một nền minh triết Việt khác hẳn minh triết Hán nho. Xin quý vị so sánh hai hình như sau: Rõ ràng chúng có một hình thức khác hẳn nhau , mặc dù bề ngoài có vẻ gần giống, như Trê với Nòng nọc vậy. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt, không phải chỉ duy nhất thề hiện ở bức tranh Đàn lợn nổi tiếng của làng tranh Đông Hồ. Mà chúng tôi còn thấy rải rác ở nhiều nơi đình chùa cổ và trên các di sản văn hóa khác trong kho tàng văn hóa truyền thống Việt. Dưới đây là những hình ảnh mô tả đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên các di sản mà chúng tôi sưu tầm được. Đồ hình Âm Dương Việt trong đền thờ Mẫu thân sinh ra Thánh Gióng tại Bắc Ninh Đồ hình Âm Dương Việt ở chùa Bạch Y Tuyết Sơn Bồ Tát - được xây dựng vào năm đầu tiên của thế kỷ XIX 1801, tại Xóm 8, xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc (Nghệ An). Đồ hình Âm Dương Việt trên chùa Vô Vi Tự. Chùa nằm ở phía Bắc núi Tử Trầm, thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Hình Âm Dương Lạc Việt ở chùa Bối Khê thuộc xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hanoi. Đồ hình âm - dương Lạc Việt trên cái giá đặt văn tế (Đền thờ tướng quân Lê Thành - một vị tướng thời Lê Lợi , Làng Định Hòa - Đông Cương - Thanh Hóa) Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên văn bia "Khiêm Cung Ký" trong lăng Vua Tự Đức. Kính thưa quí vị. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt không chỉ có trong di sản văn hóa Việt,mà còn ở những cộng đồng người Hoa có nguồn gốc Nam Dương tử, lãnh thổ của nước Văn Lang, cội nguồn nền minh triết đầy huyền vĩ của Việt tộc. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở Hội quán Phúc Kiến tại Hội An. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trong chùa cổ Trung Hoa trên đất Malaysia. Trên đây, chúng tôi chỉ xin giới thiệu những Đồ hình Âm Dương Lạc Việt tiêu biểu sưu tầm được trong di sản văn hóa truyền thống Việt và các vùng lãnh thổ quôc gia lân bang. Việc thể hiện những đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở đây – vốn không hề có mặt trong bất cứ bản văn chữ Hán nào tìm được tính đến ngày hôm nay ,liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch - để so sánh với Đồ hình Âm Dương Hán, chúng tôi muốn trình bày mấy vấn đề sau đây: * Đồ hình Âm Dương nói chung là hình tượng biểu kiến của Thuyết Âm Dương Ngũ hành, một học thuyết nền tảng của Lý học Đông phương. Như vậy, nền minh triết Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử, đã có một đồ hình biểu kiến riêng tồn tại trong di sản văn hiến Việt, bên cạnh đồ hình Âm Dương biểu kiến của văn minh Hán. Điều đó chứng tỏ rằng nền minh triết Việt đã quan niệm khác hẳn về nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành qua hình tượng biểu kiến về học thuyết này, qua đồ hình Âm Dương Lạc Việt. * Những di sản còn lại sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc, nhưng đủ để xác định bề dày của nền tảng minh triết Việt liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hệ thống luận cứ chứng minh nền tảng tri thức của Lý học Đông phương có cội nguồn minh triết Việt – mà đồ hình Âm Dương Lạc Việt là chỉ là một thí dụ - chúng tôi không thể trình bày một cách hoàn chỉnh trong bài tham luận này. Nên cũng xin trân trọng kính mới quý vị quan tâm quán xét trên website lyhocdongphuong.org.vn. * Lịch sử xuất hiện của Đồ hình Âm Dương Việt ở khắp các vùng lãnh thổ và trong nước Việt Nam hiện nay cho thấy một di sản văn hóa còn lại mang tính phổ biến ở Nam Dương tử và phải có trước đồ hình Âm Dương Hán - Vốn xuất hiện từ thời Tây Hán. * Trên cơ sở những di sản văn hóa truyền thống Việt mà chúng tôi phát hiện trong quá trình nghiên cứu văn hóa cổ và Lý học Đông phương , chúng tôi đã xác định và chứng tỏ rằng: Lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành phải thuộc về cội nguồn văn hiến Việt và chính những di sản còn lại, dù tan tác với thời gian hơn 2000 năm thăng trầm của Việt sử, cũng đủ phục hồi lại một cách có hệ thống, nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này trên cơ sở so sánh, đối chiếu những thành tựu của khoa học hiện đại và những tiêu chí khoa học. Đây chính là bằng chứng sắc sảo – nhân danh khoa học - xác định một cách chắc chắn - nền tảng tri thức Việt là chủ nhân đích thực của nền minh triết Đông phương. Bây giờ chúng ta quán xét đến yếu tố cuối cùng theo tiêu chí khoa học để tìm về những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Dông phương. Yếu tố thứ ba (3): Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Đây chính là vấn đề cực kỳ khó khăn. Sự bế tắc trải trên 2000 năm trong lịch sử khám phá những bí ẩn của Lý học Đông phương của tất cả các triết gia Đông phương từ cổ đại và cả trí tuệ của nền văn minh hiện đại , trong sự hội nhập của các nền văn minh đã chứng tỏ điều này. Bởi vậy, khi những di sản còn lại của nền văn minh Lạc Việt được xác định chính là nền tảng tri thức còn lại của Lý học Đông phương – mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành được xác định thuộc về nền văn hiến Việt - thì nó phải chứng tỏ là một học thuyết có tính hệ thống, tính nhất quán và tính hợp lý trong cấu trúc nội dung và khả năng phục hồi một cách hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống lý thuyết này. Nếu xác định đó là một học thuyết khoa học thì còn phải thỏa mãn những yếu tố về tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri….và còn rất nhiều những tiêu chí khoa học khác cho một học thuyết nhân danh khoa học, như: Khả năng phản biện, khả năng tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong việc giải thích các vấn đề liên quan đến nó…vv…. Kính thưa quí vị. Đến đây, tôi cần xác định một yếu tố rất quan trọng nữa, mang tính đặc thù trong việc tìm hiểu nghiên cứu thuyết Âm Dương Ngũ hành - vì đây là trường hợp chưa có tiền lệ trong sự phát triển của lịch sử văn minh nhân loại. Trên thực tế quá trình phát triển của lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được - thì - tất cả mọi học thuyết dù khoa học hay phi khoa học, duy vật hay duy tâm….vv…đều hình thành bắt đầu từ những nhận thức trực quan, được tổng hợp với tư duy trừu tượng và sau đó mới hình thành nên cấu trúc một học thuyết nào đó, để giải thích những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó. Đây là một quy luật. Do đó, bất cứ một học thuyết nào - kể các các học thuyết mang tính tôn giáo, thần quyền, hay khoa học – khi hình thành trong lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại, đều có thể kiểm chứng được và xác định tính chân lý của trên cơ sở nền tảng tri thức xã hội của nền văn minh tạo ra nó,hoặc thẩm định được tính chân lý trong lịch sử phát triển tiếp theo của nền văn minh liên quan đến nó.. Nhưng ở đây thì thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết đã có sẵn. Mặc dù sự hình thành học thuyết này cũng không nằm ngoài quy luật lịch sử và phát triển nội tai của nó . Và nếu như giả thuyết nó thuộc về nền văn minh Việt là đúng thì đấy lại là một nền văn minh đã sụp đổ bên bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Tất cả những nền tảng tri thức duy trì học thuyết này cũng bị vùi lấp trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó của Việt sử. Ở đây chúng tôi chưa nói đến nó còn có thể thuộc về một nền văn minh xa xôi hơn nữa, từ hàng vạn năm trước mà chúng tôi đã chứng minh sau này. Đây chính là tính đặc thù rất quan trong của việc nghiên cứu Lý học Đông phương. Chính vì vậy mà việc chứng minh cho nội dung của học thuyết này khó khăn hơn rất nhiều . Một khó khăn dễ nhận thấy là những khái niệm, biểu tượng, ký hiệu, tiên đề, nguyên lý…vv…thuộc về thuyết Âm Dương Ngũ hành , mà người xưa đúc kết từ những hiện tương khách quan và trên nền tảng tri thức của nền văn minh đã tạo ra nó nhận thức được và kiểm chứng được - thì - nó lại không thuộc về nền tảng tri thức của nền văn minh hiện đại. Nhưng những tiêu chí khoa học đòi hỏi: Sự phục hồi học thuyết này phải chứng tỏ được tính hợp lý trong toàn bộ cấu trúc thuộc hệ thống của nó một cách nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này. Nếu không chứng minh được điều này và vượt qua được sự cách biết giữa nền tảng tri thức của các nền văn minh , thì hệ quả vẫn là dẫn đến sự bế tắc. Cho dù chúng ta đã bắt đầu từ một giả thuyết có cơ sở và đáng tin cậy là cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt, sau khí đã chứng minh tính mâu thuẫn trong nội dung và lịch sử cội nguồn của học thuyết không thuộc về văn minh Hán. Một yếu tố cần quan tâm và là hệ quả của tính chất đặc thù trong việc khám phá bí ẩn của nền Lý học Đông phương – chính là nó không đơn giản chỉ là tính thất truyền và những mảng còn lại đều chính xác là những thành tựu của nó - thì - người ta đã phục hồi được lý thuyết này từ lâu rồi. Nhưng ở đây đã hơn 2000 năm trôi qua trong lịch sử văn minh nhân loại, để cho đến tận ngày hôm nay những gía trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương vẫn sừng sững thách đố trí tuệ của văn minh nhân loại. Như vậy, cần phải xác định rằng đã có những sai lệch cần phải hiệu chỉnh trong những giá trị còn lại của Lý học Đông phương - thể hiện trong những bản văn chữ Hán – khi xác định rằng: Nền văn minh Hán không phải là cội nguồn đích thức của Lý học Đông phương. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết và phương pháp khoa học, chúng tôi đã chứng minh rằng chính những di sản văn hóa truyền thống Việt – là nền tảng tri thức Việt qua những di sản văn hóa truyền thống còn sót lại - là những yếu tố quan trọng góp phần hiệu chỉnh nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành có tính hệ thống, tính nhất quán và sự hợp lý lý thuyết trên toàn bộ những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Những cơ sở của những luận điểm có tính hệ thống chứng minh cho vấn đề này, chúng tôi không thể chuyển tại trong nội dung một bài tham luận ngắn và có tính giới hạn về thời gian. Một lần nữa chúng tôi trân trọng mời các quí vị quan tâm tham khảo website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng ở đây tôi có thể minh họa qua một thành tựu của chúng tôi. Kính thưa quí vị. Cuộc Hội thảo “ Tính khoa học trong Phong thủy” do TTNC LHDP tổ chức thành công tại Hanoi vào ngày 15. 12 . 2009, trước khoảng 400 đại biểu với sự tham dự của nhiều nhà khoa học tên tuổi thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau. Đây chính là một thành tựu xác định tính đúng đắn và khoa học của việc chứng minh cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về lịch sử văn hiến Việt. Những mảnh vụn còn sót lại thể hiện trong các phương pháp ứng dụng của ngành Phong thủy - được miêu tả trong các bản văn chữ Hán như là những trường phái và mâu thuẫn với nhau – đã được chúng tôi đã hệ thống hóa và chứng minh tính nhất quán và khả năng lý giải một cách hợp lý mọi vấn đề liên quan đến nó của ngành phong thủy học thuộc về văn minh Việt và xác định nó hoàn toàn phù hợp với những tiêu chí khoa học hiện đại. Chính sự phù hợp với tiêu chí khoa học của Phong Thủy Lạc Việt xác định tính khoa học của ngành Phong thủy có cội nguồn từ văn minh Việt. Tuân thủ theo những tiêu chí khoa học cho việc thẩm định một lý thuyết, hoặc một giả thuyết, một phương pháp, một ý tưởng khoa học được coi là đúng – chúng tôi đã chứng minh và xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một hệ thống lý thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh và những ứng dụng của nó – miêu tả từ sự hình thành vũ trụ, từ những cấu trúc vật chất không khối lượng cho đến những thiên hà khổng lồ, những quy luật tương tác hoàn toàn khách quan trong sự vận động của vũ trụ ảnh hưởng đến thiên nhiên, cuộc sống và con người. Không chỉ dừng lại ở ngành phong thủy học, chúng tôi cũng xác định rằng Thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về cội nguồn văn hiến Việt là một học thuyết khoa học, hoàn chỉnh và thỏa mãn đầy đủ những tiêu chí khoa học cho một học thuyết nhân danh khoa học. Tiến xa hơn nữa và cũng chứng tỏ sự phát triển tất yếu từ một giả thuyết ban đầu đúng đăn – Cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến – chúng tôi đã xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà những nhà khoa học đang mơ ước. Ra ngoài khoa học một chút - thì - thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nền văn minh trong tương lai của nhân loại, mà bà Vanga đã tiên đoán. Kính thưa quí vị. Đây chính là cái “ao ta” hơn hẳn “ao người”;, đây cũng chính là ”cơm vàng , cơm bạc” từ ngày xửa, ngày xưa mà tổ tiên đã để giành cho những hậu duệ của nền văn minh Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử. Những gía trị huyền vĩ của nền văn minh đó đã bắt đầu tỏa sáng sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong cuộc bể dâu của lịch sử. Và chính sự phát triển theo những quy luật của tự nhiên, sự tiến bộ của tri thức khoa học hiện đại với sự xuất hiện của những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và đó cũng là sự tiến hóa của tự nhiên, để nền văn minh Khoa Đẩu, những con nòng nọc trở về với Mẹ Cóc , trở về với cội nguồn. Kính thưa quí vị Những thành tựu của chúng tôi có được ngày hôm nay. Chính là bắt đầu từ những sự nghiệp của các bậc tiến bối, đã đặt những viên gạch nền tảng cho công cuộc trở về cội nguồn vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt. Bởi vậy, trước khi kết thúc bản tham luận này, chúng tôi xin được một lần nữa kính cẩn nghiêng mình bày tỏ lòng ngưỡng mộ với những bậc tiên liệt của dân tộc Việt đã dày công tạo dựng nên một nền văn hiến sử huyền vĩ, trải gần 5000 năm và là cội nguồn của Lý học Đông phương. Chúng tôi kính cẩn bày tỏ sự ngưỡng vọng trước công lao của giáo sư Lương Kim Định với những đóng góp của ông cho công cuộc tìm về cội nguồn Việt sử. Chúng tôi cũng bày tỏ sự cảm ơn với ban tổ chức và các quí vị có mặt ngày hôm nay, đã quan tâm đến công trình nghiên cứu của TTNC LHDP. Xin trân trọng kính chào quí vị. T/p HCM. 12. 7. 20121 like