-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 09/08/2012 in all areas
-
NGHIỆP CHƯỚNG
longphibaccai and 6 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Gần đây, nhiều bài viết liên quan đến giết voọc, giết khỉ để ăn nhậu....Nhưng cá nhân tôi không dám đưa vào topic này, để cảnh tỉnh chia sẻ với mọi người. Chính vì nó vượt quá cả sự man rợ tối thiểu để có thể cảnh tỉnh. Tôi cũng không thấy mấy anh chị em hội viên đưa các bài đó vào đây. Có lẽ anh chị em cũng nghĩ như tôi. Nghiệp chướng trùng trùng. Biết làm sao bây giờ?. Nhà nước nên có một bộ luật khắt khe cho những kẻ giết thú vật dã man. Tôi tin rằng sẽ có tác dụng tốt nhiều mặt.7 likes -
GỬI MẸ CHỒNG TƯƠNG LAI - Mẹ đừng buồn khi anh ấy yêu con. - Bởi trước con, anh ấy là của mẹ. - Anh ấy yêu con một thời trai trẻ. - Nhưng suốt đời anh yêu mẹ, mẹ ơi! - Mẹ đã sinh ra anh ấy trên đời. - Hình bóng mẹ lồng vào tim anh ấy. - Dẫu bây giờ con được yêu đến vậy. - Con cũng chỉ là người phụ nữ thứ hai... - Mẹ đừng buồn mỗi hoàng hôn ban mai. - Anh ấy có thể nhớ con hơn nhớ mẹ. - Nhưng con chỉ là một cơn gió nhẹ. - Mẹ mãi là bến bờ thương nhớ của đời anh. - Con chỉ là một cơn gió mỏng manh. - Người đàn bà khác. - Có thể thay thế con trong trái tim anh ấy. - Nhưng một tình yêu suốt đời âm ỉ cháy. - Anh ấy chỉ dành cho mẹ mà thôi. - Anh ấy có thể cùng con đi suốt cả cuộc đời. - Cũng có thể chia tay ngày mai,có thể. - Nhưng anh ấy suốt đời yêu mẹ. - Dù thế nào con cũng chỉ thứ hai.. Ai thấm ý tâm lý này thì thank nhé!2 likes
-
NGHIỆP CHƯỚNG
lethuhien1989 and one other liked a post in a topic by Chim Chích Bông
Thú ăn chơi 'biến thái' của đại gia LINK GỐC _______________ Các cụ đã có câu: Ngày xưa quả báo thì chầy Ngày nay quả báo trước ngay nhãn tiền Hành hạ và giết 1 con vật để thỏa mãn thú tính, với mong muốn rằng thỏa mãn được sức khỏe. Bây h một vài đại gia nhẫn tâm hãy cứ vui như các ông thường làm, sau này các ông mới thấy hối hận. Cách đây lâu lâu, CCB nghe nói về 1 cô buôn gian bán lận, chặt chém, lấy người khác làm của mình. CCB nghĩ rằng rồi cô ta sẽ sớm "của Thiên trả Địa" thôi. Không cái gì đi cướp của người khác mà bền đc cả. Mấy ngày trước mới nghe thấy cô ta đánh bạc, nợ vài chục tỷ. Nhiều người cho cô ta vay đang lo mất tiền. Cô ta thì đang bị đòi nợ rất ráo riết. ____ Mong rằng, ai chưa có duyên với topic này sẽ sớm có duyên đọc được. Đọc được để mà ngộ ra dù ít dù nhiều. Để tránh làm việc xấu, năng làm việc tốt. Dù đã trót làm điều xấu thì xin cứ quay đầu là bờ, làm nhiều việc thiện, duyên tốt sẽ đến. Trên đường đời tấp nập này, vì miếng cơm manh áo, vì sống là phải chiến đấu, có đôi khi bản thân ta quên đi mất đạo đức con người, nhưng dù thế nào cũng hãy nhớ câu các cụ dạy mà tự răn: Ngày xưa quả báo thì chầy Ngày nay quả báo trước ngay nhãn tiền. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.2 likes -
NGHIỆP CHƯỚNG
Smile_at_life and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Xúc động cảnh cá heo mẹ đưa tiễn xác con 18/07/2012 11:30:51 - Con cá heo mẹ này được cho là sẽ đưa xác con mình đi xa bờ, tới "yên nghỉ" tại một vùng nước sâu hơn. Hình ảnh cảm động và hiếm thấy này đã được một đoàn khách du lịch ghi lại ở ngoài khơi vùng Guangxi Zhuang (Trung Quốc). Đây vốn là nơi nổi tiếng với tour du lịch ngắm cá heo. Xác của con cá heo con đã trượt khỏi lưng mẹ 5 lần khi nó bơi vượt qua các đợt sóng. Mặc dù vậy, cá heo mẹ không bỏ con và vẫn tiếp tục cuộc hành trình đơn độc của mình. Bất chấp sóng biển, cá heo mẹ vẫn không bỏ con. Có một vết thương dài khoảng 30cm ở bụng cá heo con. Có thể nó đã chết do chân vịt của một con tàu chém phải. Hành động này cho thấy dường như cá heo cũng có nhận thức về cái chết, thậm chí còn suy nghĩ về nó. Nhà nghiên cứu Joan Gonzalvo từ Viện Nghiên cứu Tethys (Ý) cũng từng quan sát được một cảnh tượng tương tự. Ông nói rằng cá heo mẹ dường như không thể chấp nhận cái chết của con mình. Vết thương dài 30 cm ở bụng cá heo con. Trước kia, các nhà nghiên cứu đã quan sát được những con cá heo mang hoặc đẩy xác của những con con chết non hoặc chết từ trong bụng mẹ. Đôi khi chúng ở cùng với những đứa con đã chết của mình trong vài ngày. Nghi lễ an táng khá hiếm gặp trong vương quốc của động vật, song người ta đã quan sát được chúng ở cá voi, voi, tinh tinh, khỉ đột. Lê My (theo Daily Mail) ========================== Khỉ phá bẫy, trả thù cho đồng loại 20/07/2012 11:13:13 - "Chúng thấy một chiếc bẫy khác gần đó và cũng nhanh như khi phá chiếc bẫy thứ 2, chúng kéo sợi dây lên khỏi mặt đất", một chuyên gia bảo tồn kể lại. Chỉ vài ngày sau khi chứng kiến một đồng loại bị chết khi mắc bẫy của kẻ săn trộm, các chú khỉ đột chưa trưởng thành đã cùng nhau hợp tác phá những chiếc bẫy trong khu rừng ở Vườn quốc gia núi lửa tại Rwanda, nơi chúng sinh sống. Hình ảnh này đã được nhân viên của Quỹ bảo vệ khỉ đột Dian Fossey ghi lại. Những chú khỉ đột phá bẫy mà không khiến mình bị thương. Kéo sập bẫy Vài ngày trước đó, một đồng loại của chúng đã bị những chiếc bẫy kiểu này giết chết. Một chuyên gia bảo tồn cho biết: "đây là lần đầu tiên chúng tôi thấy những động vật chưa trưởng thành làm việc này... Tôi cũng không biết tới bất cứ báo cáo nào trên thế giới về việc chúng phá bẫy". Lê My (theo Daily Mail) ========================== Tất cả mọi sinh vật trên thế gian này đều biết yêu thương và đau xót. Có điều con người không hiểu được tiếng nói của muôn loài. Nhưng ngay cả con người cũng có hiểu nhau đâu? Bởi vậy, tình yêu thương và nhân ái vẫn là sự ứng xử căn bản của con người với thiên nhiên.2 likes -
NGHIỆP CHƯỚNG
lethuhien1989 and one other liked a post in a topic by Chim Chích Bông
Chuyện lạ: Sư cô giữ núi nuôi khỉ như con ở Hải Dương Quả núi mọc lên giữa cánh đồng bát ngát ấy vốn rất nhiều khỉ vàng. Khỉ sà vào nhà dân, đi lại lững thững trên mái chùa. Nhưng rồi, các doanh nghiệp đào đá, phá núi, những quả núi mất dần, đàn khỉ bị tiêu diệt gần như sạch sẽ. Chùa Nhẫm Dương Hơn chục năm nay, sư cô Thích Diệu Mơ bất chấp tính mạng, tìm mọi cách giữ lại một góc quả núi, để khỉ có nhà ở. Sư cô là người mẹ thực sự của bọn khỉ, là người sinh ra chúng lần thứ hai. Còn đâu thuở thanh bình khỉ trêu người Nhẫm Dương (Duy Tân, Kinh Môn, Hải Dương) là ngôi chùa cổ, cùng với hệ thống hang động đã được xếp hạng Di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia. Ngọn núi Nhẫm chỉ còn một góc nhỏ xanh rờn cây lá. Các quả núi xung quanh đã bị nổ mìn phá đá sạch sẽ. Núi Nhẫm cũng đã bị bổ làm đôi. Nửa bên Tây đã thành xi măng rồi, nửa bên Đông, nơi có ngôi chùa và những hang động nổi tiếng thì vẫn còn. Sự cô Thích Diệu Mơ Sở dĩ, di tích cấp quốc gia ấy, còn tồn tại đến ngày hôm nay, là nhờ sư cô Thích Diệu Mơ. Chuyện sư cô Diệu Mơ đem cả mạng sống mình để giữ núi trước lòng tham vô đáy của con người, thì đã thành nhiều tập phim, do nhà báo Phạm Chức (Truyền hình Hải Dương) dựng rất cầu kỳ. Sư cô bảo: “Núi Nhẫm này là nơi đặc biệt không những của Việt Nam, mà của cả thế giới, vì phát hiện hóa thạch Pôn-gô, một loài vượn người cực kỳ thông minh. Bọn khỉ ở núi này cũng thông minh lắm, tình cảm lắm, chả khác gì con người. Ấy vậy mà, người ta nỡ cướp nhà của chúng, nỡ giết hết chúng”. Rồi sư cô hồi tưởng ngày xưa, khi sống cảnh đời thanh tịnh, quây quần, nô đùa với bọn khỉ. Ngày ấy, chẳng phải đâu xa, mới cách nay hơn chục năm. Sáng sớm, vừa bảnh mắt, đàn khỉ đã ríu rít trên cây thị 700 tuổi trước chùa, chạy nhảy trên mái chùa, ngồi chồm hỗm trên nóc tháp tổ. Cả dãy núi Nhẫm có cả chục đàn khỉ vàng, mỗi đàn có vài chục con. Chúng kiếm ăn khắp các rông núi. Đói thì về chùa xin ăn. Chùa như ngôi nhà của chúng. Theo sư cô Mơ, chị em phụ nữ quanh vùng vào chùa thì thoải mái, nhưng không dám vào sâu trong núi. Bọn khỉ rất nghịch ngợm, hay trêu ghẹo đàn bà con gái. Nếu có việc phải vào, thì phải rủ nhau vài người cùng đi. Nếu phát hiện có một mình, chúng xông đến giật nón, giật mũ, lôi rách cả áo. Xua đuổi chúng, chúng cáu lên, hò hét cả bọn lấy đá sỏi ném như mưa rào. “Bọn khỉ chả khác gì người, nhưng là chúa chòng ghẹo!”, sư cô Mơ kể. Nhớ nhất là cảnh chị em đi gặt lúa, vừa vui vừa tức cái lũ khỉ chúa nghịch ngợm. Lúa mọc vàng ươm, tốt bời bời, chúng không phá. Nhưng hễ chị em phụ nữ vào khe núi gặt, là chúng kéo đến trêu ghẹo. Chị em gặt lúa, xếp thẳng thớm, chúng hò nhau kéo xuống ruộng giũ cho rối tinh rối mù lên. Cầm đòn gánh đuổi, chúng lại chạy tót lên núi. Lúc gánh lúa về, mấy tên khỉ đểu cáng xông ra, nhảy lên một bên quang gánh, rồi đột ngột nhảy tót ra, khiến chị em chao đảo, gánh lúa bật tung. Trời thì nóng, tức lắm, nhưng chẳng làm gì được chúng. Đuổi chúng, chúng chạy tót lên núi rồi cả lũ hò hét như thể trêu ngươi. Có chị em đang cấy, chúng núp trong bụi rậm, lấy đá cuội nhỏ ném vào nón bùm bụp. Giật mình nhìn quanh, nhưng chẳng thấy ai, cứ ngỡ là ma, sợ lạnh cả người. Trêu cho chị em phát tức, phát sợ, chúng mới thò mặt ra cười rũ rượi. Mỗi lần bị bọn khỉ trêu chọc, chị em lại phải gọi sư cô Mơ can thiệp. Sư cô nói gì, bọn khỉ cũng nghe, bảo chúng không trêu phụ nữ nữa, thì chúng bỏ lên núi. Sư kể: “Nhiều khi tôi trêu bọn khỉ xấu như ma, cả bọn chu mỏ lên, rồi con che mặt xấu hổ, con gãi đầu gãi tai. Thế nhưng khen xinh thì cười tíu tít, nhảy cả lên vai sư, quấn lấy chân. Khen chúng xinh, thế nào chúng cũng làm xiếc cho xem. Một con bám vào cành cao, đến chục con bám vào chân nhau thành một chuỗi dài đánh đu lủng liểng trông vui mắt lắm”. Bọn khỉ vàng rất thích uống sữa tươi Nhưng rồi, những ngọn núi trong vùng lần lượt bị phá, những áng (thung lũng) đẹp nên thơ cũng biến mất. Đàn khỉ bị dồn tụ về núi Nhẫm, là quả núi duy nhất còn sót lại trong vùng, do sư cô Mơ kiên quyết giữ. Đúng lúc ấy, lại rộ lên trào lưu nuôi khỉ làm cảnh, ngâm rượu khỉ, cao khỉ, nên nhiều người vào núi bẫy khỉ, bắn khỉ. Núi Nhẫm nổi tiếng nhiều khỉ và nhiều cú mèo. Thợ săn vào núi rải bẫy hôm trước, hôm sau gánh ra cả gánh khỉ. Chăng lưới vách núi, tóm được cả gánh cú mèo. Người dân lại lên núi đốn củi, đẵn trọc quả núi. Khỉ hết dần, cú mèo cũng bỏ đi sạch. Sư cô Mơ kể, có lần nghe thấy tiếng khỉ khóc lóc chí chóe trong rừng. Sư chạy vào núi xem nguyên do. Sư thấy bầy khỉ mấy chục con, con nào cũng hung tợn, quây quanh ông Hưng, thợ săn khỉ nổi tiếng trong vùng. Bọn khỉ xông vào cắn xé ông Hưng. Ông Hưng cứ cầm cái bẫy kiềng lớn, với con khỉ dính bẫy quay tít xung quanh, để bọn khỉ sợ không dám xông vào. Nhưng bọn khỉ quyết tâm cứu 2 con khỉ con bị trói quặt tay. Chúng cắt đứt dây, cõng hai khỉ con chạy lên núi. Sư Mơ đến can thiệp, bọn khỉ mới tha cho ông Hưng. Chẳng là, ông Hưng đặt bẫy, dính ngay khỉ mẹ. Hai chú khỉ con ngồi khóc bên mẹ, bị ông tóm sống. Tuy nhiên, đàn khỉ đã kéo đến giải cứu 2 khỉ con. Khỉ mẹ dính bẫy thì chết tự bao giờ. Sư cô Mơ kêu lên: “Bác ơi, con khỉ nó như con người, sao bác nỡ giết nó!”. Sau vụ chết hụt vì bị đàn khỉ tấn công, ông Hưng hứa với sư cô sẽ không bao giờ giết khỉ nữa. Ông cũng bỏ nghề thật. Sau hôm đó, ngày nào cũng vậy, cứ sáng sớm, đàn khỉ vàng lại cùng 2 chú khỉ con, kéo về nóc chùa, quây quanh tháp tổ kêu khóc. Sư cô Mơ ra xem lại phải dỗ dành. Hai chú khỉ con khóc như đứa trẻ đòi mẹ. Sư cũng khóc cùng bầy khỉ. Khóc lóc chừng 2 tháng thì chúng bỏ đi. Rồi không thấy hai khỉ con, cùng đàn khỉ ấy quay về chùa nữa. Dù ông Hưng không bẫy khỉ, thì những người khác cũng vào núi đặt bẫy, bắn khỉ. Từ đàn khỉ vàng đông đúc, giờ chỉ còn 5 con. Thời gian sau, sư cô Mơ đếm mãi thấy có 3 con. Giờ thì chỉ thấy duy nhất một con khỉ hoang dã còn sống sót. Nhưng, con khỉ này ít xuất hiện lắm. Nó thoắt ẩn, thoắt hiện trên núi. Nó sợ hãi con người lắm rồi. Chuyện đàn khỉ hoang dã trên núi Nhẫm và cả vùng núi non lô nhô Kinh Môn dã lùi dần vào dĩ vãng, trở thành những câu chuyện cổ tích đẹp, mà buồn. Khỉ quỳ lạy khiến sư cô bật khóc Khoảng 7 hay 8 năm trước, một Phật tử đến chùa, nghe tiếng khỉ hót buồn não nề, liền hỏi sư cô Mơ: “Bạch thầy, núi này còn khỉ hả thầy”. Sư cô Mơ gật đầu bảo chỉ còn một con khỉ nữa thôi. Tức thì, Phật tử nọ khóc nấc lên. Nhà Phật tử này ở xã Minh Tân, nơi từng có những rông núi mọc lên giữa đồng bằng sông nước, chả khác gì Hạ Long trên cạn. Khỉ ở đó vốn nhiều vô kể, sống chan hòa với con người. Nhưng rồi núi bị phá sạch, con người tự dưng lại có nhu cầu thịt khỉ, cao khỉ, nên bọn khỉ đã bị tận diệt. Nhà Phật tử ấy ở cạnh nhà một tay nấu cao khỉ. Ông ta xích chú khỉ vào gốc cây, đun sôi nước, rồi múc ca nước sôi tiến về phía con khỉ. Con khỉ vàng quỳ hai chân, chắp tay vái gã đồ tể. Nó vừa vái vừa khóc, nước mắt ròng ròng. Nhưng lão đồ tể lạnh lùng hắt ca nước sôi vào nó. Con khỉ khóc ré lên, chạy vòng quanh gốc cây. Nó vừa chạy vừa khóc, vừa gãi, trợt lông lộ lớp da trắng hếu. Lão đồ tể dội đến chục ca nước sôi, nó yếu dần, rồi khuỵu xuống chết. Vừa kể, nữ Phật tử vừa khóc. Sư cô Mơ cũng nước mắt ròng ròng. Sư thương đàn khỉ quá. Để cứu con khỉ cuối cùng trên núi, sư thuê người quanh xóm trồng nhiều cây trên núi. Từ quả núi trọc, giờ núi Nhẫm xanh rờn trở lại. Sư cô nhờ nhân dân cả thôn cùng quyết tâm bảo vệ con khỉ, không cho bất kỳ ai vào núi săn thú, đốn củi. Rồi nữ Phật tử kia dẫn sư Mơ đến nhà lão đồ tể, chuyên làm thịt khỉ nấu cao. Lão đồ tể bảo, ngoài việc nấu cao khỉ, ông ta còn xuất lậu sang Trung Quốc. Người Trung Quốc thích nuôi khỉ vàng, vì nó giỏi làm trò, làm xiếc. Nuôi chán thì họ dùng dao phạt đầu, múc óc ăn sống. Thịt chế biến giả cầy, xương đem nấu cao. Nghe lão đồ tể kể, sư lạnh cả người. Sư Mơ bảo: “Anh mua được con khỉ nào thì bán lại cho tôi. Anh bán đắt thế nào tôi cũng mua. Cứu một con khỉ bằng xây 10 tòa tháp”. Gã đồ tể gật đầu. Rồi từ đó, hễ thu mua được con khỉ nào, anh ta lại gọi sư Mơ. Có chỗ bán khỉ, anh ta cũng bỏ luôn nghề làm thịt, nấu cao khỉ. Anh ta ăn nên làm ra, còn sư cô Mơ có được bao nhiêu tiền công đức, toàn đi mua khỉ về thả lên núi. Ngôi chùa Nhẫm khá khiêm tốn, nhưng xây đã chục năm chưa xong, vôi ve chưa quét, nhưng có khỉ thì đắt thế nào sư cũng mua bằng được. Cặp khỉ đầu tiên mà sư Mơ mua được từ tay đồ tể nọ là con Trố và Ngố. Sư đặt tên cho hai con này như vậy. Hôm gã đồ tể gọi, sư đến ngay. Hai con khỉ bị nhốt trong lồng sắt. Một tay buôn khỉ định chuyển đi Trung Quốc, thì ông đồ tể nọ biết, liền mua lại, rồi bán lại cho sư Mơ. Hôm chở về chùa, mở cửa lồng, cho chúng chạy lên núi, nhưng chúng cứ đứng lên lại ngã oành oạch. Hai con khỉ đói đến nỗi không đứng nổi nữa, tay chân run lẩy bẩy. Sư phải sắm mấy chuồng sắt, nhốt nó vào cho an toàn, rồi hàng ngày cho nó uống sữa. Hồi sức rồi, chúng mới ăn được các thứ khác. Khi Ngố và Trố khỏe, sư thả ra, nhưng nó nhất định không lên núi, cứ luẩn quẩn quanh chùa. Ngố và Trố nghịch ngợm không tên khỉ nào bằng. Sư nấu cơm, còn chưa kịp ăn, hai tên mở vung ăn vụng sạch sẽ. Du khách đến chùa, chẳng ngại ngùng gì, cứ trèo cả lên cổ du khách. Đuổi lên núi không chịu đi, thả ra thì nghịch ngợm, phá phách, trêu ghẹo khách viếng chùa, nên sư nhốt hai tên này vào chuồng, thi thoảng mới cho ra. Người mẹ của lũ khỉ Sư Thích Diệu Mơ chợt nhớ đến con Mi Mi, rồi đôi mắt bỗng dưng mọng nước. Nó là con thông minh, thân thiết với sư nhất. Con này là do một Phật tử mua lại từ đám buôn khỉ mang đến chùa. Điều lạ là Mi Mi cũng ăn chay như sư cô. Nó chỉ uống sữa và ăn hoa quả. Khi sư cô ăn cơm, thì nó ăn cùng. Ăn xong thì ngồi vào lòng sư. Nhiều đêm nó ngủ cùng sư. Sư dậy, nó cũng đánh răng cùng, cũng soi gương chải tóc. Bọn khỉ khi mới được mua về phải xích lại trong chuồng cho quen Đêm nào cũng vậy, sư cô phải bế nó đi đúng 3 vòng sân chùa, vừa bế vừa ru nó mới ngủ. Không ru là nó khóc. Con Mi Mi hiểu sư cô nhất, nên nói gì nó cũng nghe, cũng biết. Sư thường dẫn nó ra bờ ao. Sư và Mi Mi cùng ngồi bên cầu ao, soi bóng mặt nước. Sư cô kể: “Tôi bảo ao mát lắm, con xuống tắm đi, tức thì Mi Mi lò dò xuống bước xuống từng bậc. Tôi bảo lặn đi, Mi Mi cũng lặn. Sư nhìn rõ nó bơi dưới nước trông như con cá cảnh, rồi ngóc đầu ở giữa ao cười toe toét. Rồi tôi nói, Mi Mi ơi, bơi vào đi không chết đuối đấy, thì nó bơi về cầu ao”. Thi thoảng, Mi Mi cũng lên núi, sống cảnh hoang dã. Nhưng chỉ được một hai ngày lại mò về như trẻ con đi xa nhớ mẹ. Cũng vì có thói quen uống sữa, mà Mi Mi đã mất mạng vào năm ngoái. Chẳng là, hôm đó xây chùa, Mi Mi đã mở khóa, lục túi đồ của thợ xây, lấy tuýp keo và trèo tót lên cây mít. Bác thợ xây liền báo sư cô. Dù sư cô gọi nhưng Mi Mi không chịu xuống, cứ hí hoáy với tuýp keo. Sư cô phải mang hộp sữa ra gạ đổi, thì Mi Mi đồng ý. Thế nhưng, uống hết sữa rồi, Mi Mi lại lục túi bác thợ xây để ăn trộm tuýp keo. Đêm ấy, trời mưa to, không thấy Mi Mi về. Hôm sau, sư cô dậy sớm, nhưng gọi mãi không thấy Mi Mi đáp lời. Sư cô rụng rời tay chân khi thấy Mi Mi nằm chết cứng dưới gốc mít. Thì ra, Mi Mi tưởng tuýp keo là sữa, nên đã uống sạch. Sư cô chôn Mi Mi mà nước mắt lã chã. Ngoài Mi Mi thì con Mặt Đỏ và con Xích Lu cũng bị chết một cách đáng tiếc, khiến sư cô đau dứt ruột gan. Con Mặt Đỏ thì ho hắng, ốm đau suốt. Dù đã được sư cô chăm sóc tận tình, có bác sĩ thú y chữa trị, nhưng nó vẫn ra đi. Con Xích Lu thì chết rất đáng tiếc. Nhắc đến con Xích Lu, khuôn mặt sư cô Mơ buồn rười rượi. Cách đây chừng 5 năm, có một du khách đến vãn cảnh, thấy sư cô Mơ nuôi nhiều khỉ vàng, vị khách này bảo: “Đây là giống khỉ thông minh lắm. Con muốn đổi mấy con khỉ của con lấy một con của thầy được không ạ?”. Tất nhiên là sư cô không đổi nhưng lại đề nghị vị khách này bán lại đàn khỉ cho nhà chùa. Tuy nhiên, vị khách nọ cũng không nỡ xa đàn khỉ. Thích thú đàn khỉ trong chùa Nhẫm Dương, thi thoảng anh lại đến thăm. Khi thân thiết, sư cô đã yêu cầu vị khách đứng trước tượng Phật và thề là sẽ không giết, không bán mấy con khỉ mà anh đang nuôi. Thời gian sau, vị khách nọ mang đến 2 con khỉ và bảo với sư rằng: “Có lái buôn đang chuyển 2 con khỉ này sang Trung Quốc. Sang đó thì người ta lột da ngâm rượu hoặc róc xương nấu cao. Thương nó quá nên con mua giúp thầy”. Hai con khỉ này được sư cô đặt tên là Xích Lu và Vâu. Cả hai đều cực kỳ thông minh, sống quây quần với sư cô Mơ suốt mấy năm nay. Vâu và Xích Lu là hai người bạn thân thiết của nhau. Con Vâu có cái răng vổ, nên thi thoảng sư cô và khách viếng chùa hay trêu ghẹo nó. Khen nó xinh, thì nó cười toe toét, chạy đến bắt tay, nhưng chê nó xấu, thì nó nhăn mặt, gầm gừ. Năm kia, Xích Lu mang bầu, bụng chửa vượt mặt đi lững thững ở sân. Anh Lan, là Phật tử trông chùa cầm chổi cán dài quét sân. Mắt anh Lan hơi kém, nên không nhìn thấy con Xích Lu, đã quét vào nó. Xích Lu đang mang bầu, hơi khó tính một chút, lại tưởng anh Lan đánh nó bằng chổi, nên nó xông vào dọa cắn anh Lan. Con chó đang ngồi ở gốc thị, thấy khỉ cắn chủ mình, thì nổi giận xông đến, cắn trúng cổ Xích Lu, khiến nó chết tại chỗ. Con Vâu nhìn thấy cảnh chó cắn chết bạn cứ nhảy như cào cào kêu khóc thảm thiết. Nó buồn bã, nhảy tót lên cây thị cổ thụ. Từ đó, nó ít khi xuống sân chùa lắm. Hàng ngày, nó lên núi Nhẫm, hòa với đàn khỉ do sư cô Mơ thả lên núi. Đêm nó cùng mấy con khỉ khác về cây thị ngủ. Phải tinh mắt lắm mới nhìn thấy mấy chú khỉ như mấy con chuột trên cây thị khổng lồ 700 tuổi. Chỉ riêng sư cô Mơ mới gọi được Vâu cùng đàn khỉ xuống. Không kiếm được thức ăn, bọn khỉ tìm về cây thị và được sư cô mang hoa quả, sữa tươi cho chúng. Bọn khỉ sà xuống lấy đồ ăn, rồi lại chạy tót lên cây. Cho đến nay, sư cô Diệu Mơ cũng không nhớ nổi, đã thả bao nhiêu khỉ lên núi Nhẫm, nhưng con số phải đến vài chục. Hầu hết số khỉ này là do sư mua, một vài con do Phật tử mang đến chùa. Những chú khỉ mới về chùa, được sư cô nhốt vào chuồng sắt. Quen với khung cảnh chùa chiền rồi, sư thả chúng ra. Con nào ở lại chùa thì sư nuôi dưỡng, còn thích cuộc sống hoang dã, thì tự tìm lên núi nhập bầy kiếm ăn. Mấy năm trước sư còn mua được nhiều, giờ khỉ đã bị bắt sạch, nên có khi cả năm chẳng mua được con nào. Đàn khỉ đang hồi sinh trên núi Nhẫm và sư cô Thích Diệu Mơ vẫn đang phải căng sức bảo vệ chúng và “ngôi nhà” của chúng. Sư cô chỉ về phía tả quả núi Nhẫm vào bảo: “Mấy hôm trước, người của Công ty xi măng Phúc Sơn đưa máy móc, thuốc nổ lên định phá nốt núi, nhưng sư đấu tranh quyết liệt lắm, tố cáo tận nơi tận chốn mới giữ được đấy!”. Sư Mơ đúng là mẹ của đàn khỉ vàng núi Nhẫm!2 likes -
Trước tiên xin kính chào các quý ông quý bà cùng toàn thể quý cô chiêu và quý cậu ấm. Hiện nay, mục Tử vi luận giải này rất đông khách, đại bộ phận khách khứa là quý cậu ấm và quý cô chiêu, mới 19 đôi mươi nên còn nhiều sự đời chưa hiểu, thiết tưởng mình đỗ đại học đã là nhớn, biết Hun đã là khôn nhưng khi lạc vào thế giới tiên đoán thì đúng là một kiến thức mới. Hiện nay, theo như tôi quan sát, hầu hết các anh chị, cô bác luận giải ở diễn đàn đều dùng từ ngữ tân thời, rất ít từ ngữ cổ hoặc cũ. Nhưng xem ra nhiều người Trẻ không hiểu và nhiều người xấu số (lá số không đẹp như ý) hay hỏi đi hỏi lại, người này trả lời không ưng thì tưng tưng chạy qua hỏi người khác. Giá mà khi đi học mà chăm chỉ chịu khó như thế thì tốt cho nước nhà quá. Vì vậy tôi xin mạn phép mở ra mục này để các cô bác, anh chị luận giải lá số đóng góp các kiến giải vào đây để các quý ông bà, quý cô ấm cậu chiêu đọc hiểu một vài vấn đề cơ bản. Với các quý vị nhờ bình giải lá số thì chỉ nên đọc hiểu chứ đừng View như người Anh. Bởi quý vị viết vài dòng cảm xúc vào đây thì sẽ có nhiều điều không cần thiết. Nếu thấy nhất thiết phải viết thì nên đọc kỹ trước khi đặt tay gõ phím hỏi về vấn đề mình chưa hiểu. Rào trước, Chắn sau như vậy thiết nghĩ cũng đã cạn lẽ. Xin phép quý vị cho tôi vào thẳng vấn đề cần vào như sau: 1/ Không còn là trinh nữ trước khi động phòng hoa trúc: Việc này không nhất thiết cứ phải là quan hệ với người ngoài rồi mới lấy chồng. Hoàn toàn có thể quan hệ với người chồng trước khi cưới và đăng ký kết hôn. 2/ Phải lập gia đình muộn mới tránh được hình khắc chia ly: Muộn là từ tầm 30 tuổi trở đi, Sớm là từ 24 tuổi trở về trước, Trung bình là tự hiểu. 3/ Giải pháp để tránh hình khắc ly dị: muộn lập gia đình, làm lẽ, cưới hỏi dở dang người này rồi lấy người khác, cưới đi và cưới lại 4/ Cưới đi và cưới lại: Là việc hi hữu, ví như vì ở xa nhau nên phải tổ chức cưới ở 2 nơi, bái gia tiên 2 lần, hoặc cưới chui trước khi cưới thật, tức là ra phường làm đăng ký kết hôn hoặc lấy được giấy đăng ký kết hôn rồi về nhà làm lễ bái gia tiên ở 1 trong 2 họ, Hiện nay thiên hạ rất chuộng cái vụ cưới đi rồi cô dâu lẳng lặng bỏ về nhà đẻ, sau đó chú rể mới lóc cóc đi đón dâu về lần nữa. Để gọi là qua 2 lần đò đểu. Vì là đò đểu nên chẳng có gì đảm bảo cái sự giả dối cố ý được biện hộ là chữa mẹo với chẳng méo này có tác dụng gì cả. Chồng 5 thê 7 thiếp vẫn cứ diễn ra, vợ thì có cả bộ sưu tập người tình thì vẫn chẳng tránh khỏi. Thế thì chọn giờ lành tháng tốt làm gì hay tại thầy bói dốt? 5/ Kim lâu đối với nữ nên không được lấy chồng: 1 lần ân ái cũng nên vợ chồng, nếu nói dại chỉ 1 lần nghịch dại mà có thai, vậy lúc nghịch dại ấy ai xem ngày xem giờ cho? Yêu thì Cưới, đó là nét văn hóa của dân tộc Việt, "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên?", "Ngày xưa ai cấm duyên bà, mà nay bà già bà cấm duyên tôi?", "Hùng Vương kén rể thời nay: Xe bốn bánh, Cánh 2 bên, Lên thang máy (nhà biệt thự cao hơn 5 tầng phải đi thang máy chứ ko phải loại trung cư vớ vỉn) Như vậy Kim lâu hay không, không quan trọng trong việc cưới chồng, bởi nếu quan trọng thế thì sao lúc đẻ con ko tính chuyện kim lâu, chồng thì chỉ sống được vài chục năm cùng mình (lâu hơn cha mẹ mình) nhưng thường thì chồng không sống lâu hơn con mình (Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con cái). Vậy rõ ràng cái chuyện trăm năm kia là sống với con, con cái lo ma chay - hiếu hỉ cho cha mẹ, quan trọng thế sao không Kiêng? hay sướng quá nên quên mất việc kiêng cữ? 6/ Cải số: Quả có vài trường hợp lá số phán Tử vong, đương số quả nhiên có nhìn thấy Quỷ Môn Quan. Nhưng được cứu giải. Nên không phải xuống mười mấy tầng địa ngục an dưỡng. Đó là những trường hợp hi hữu và không phải tất cả những người có cùng ngày, cùng tháng, cùng năm đó đều được cứu giải như thế. Mình không chết thì người khác chết, số trời đã định ngày hôm đó Tử thần với lưỡi hái Đầu lâu phải gom đủ 3000 đầu lâu vào cái túi đen ngòm, nếu không đủ thì bị phạt, không nhẽ cái lão Sư cọ mốc với lưỡi hái dài ngoằng đó nhận hối lộ của quý vị để giết người khác thế thân cho quý vị hoài? Rõ là không rồi. Như vậy việc cải số cũng giống như việc thi Hoa hậu thế giới vậy, cả năm chỉ có 1 người đăng quang ngôi vị cao nhất mà thôi. Chứ cải được số thì sao không làm cho lá số đẹp cả 12 cung số luôn đi, chỉ cải mỗi cái cung Phu Thê hay Tử tức xấu hoắc để làm gì? vậy cung này tốt lên thì cung nào sẽ xấu đi đây? Tử vi không phải là cái để mọi người xoay chuyển càn khôn mà chỉ để con người nhìn vào đó để chuẩn bị tâm lý cũng như cách ứng xử sao cho tốt nhất trong hoàn cảnh đó mà thôi. Nhưng không có nghĩa là khoanh tay chịu trói, Tức biết được tháng này mình bị mất tiền có thể do bị cướp hoặc bị vay đểu. Thì mình phải tự đưa ra đối xách là cướp thì phải truy hô, vay đểu thì chỉ cho vay ít thôi. 7/ Giầu có đừng vội mừng, nghèo khó đừng vội lo: Biết số mình nghèo, bon chen cũng chẳng lợi gì thì đừng lấy đó làm buồn, mà hãy nghĩ đến việc mình sống có hạnh phúc không, người ta giầu có mà con cái ăn tàn phá hại thì có hạnh phúc không? kiếm tiền nhiều để vợ chồng nem chả mà vẫn chung giường, con cái hút sách mà vẫn đi du học thì khi về già có sướng không? Giầu mà không sang chẳng bằng nghèo khó mà đứng đắn. Sống ở trên đời, cần có 1 cái tâm cùng với cái tầm chứ không phải tiền bạc và địa vị. 8/ Tuổi còn trẻ quá (dưới 25) thì không nên tìm hiểu quá sâu về tương lai xa: Tầm tuổi này chỉ nên biết tương lai gần trong 5 năm tới chứ đừng tham lam mà hỏi thông cả đến lúc vào hòm. Cuộc đời này chỉ có 18% là những điều tuyệt vời, với 2% may mắn, còn lại có đến 80% những điều không may. Vì thế hầu hết xem số nói về điềm gở nhiều và dễ hơn điềm lành. Nhưng với số lượng điềm lành nhỏ bé ấy lại làm lên cả 1 kỳ tích về cuộc sống con người. Vì vậy, hãy nhìn gần để dễ làm, đừng nhìn xa quá mà thêm mệt mỏi. 9/ Tỷ phú tại Thiên, Triệu phú nhờ tích góp, đổi giờ sinh để làm gì?: Giầu không phô, nghèo không xấu hổ. Nếu đã biết số mình nghèo thì cố mà tích góp, để một mai mưa gió đau ốm còn có cái dùng, chứ nợ nần là tự mình bán danh dự của mình đi rồi. Bởi nhỡ một mai chết đi, gánh nợ đó đổ lên đầu ai nếu ko phải là người thân ruột thịt trong nhà? Vì vậy dù giầu hay nghèo thì cũng nên khiếm tốn. Đừng xừng sực đổi giờ sinh, ngày sinh. Nếu đã không biết thì cần làm rõ trước, khi đăng tin lên cần kiểm tra lại kẻo đến lúc người giải đã luận giải cả tràng rất dài rồi mà cuối cùng là sai giờ sinh. Nếu quý vị đi xem mất phí, sẽ có bao nhiêu người nhìn quý vị? người ta đang xếp hàng chờ đến lượt mà lại bị 1 kẻ lãng nhách xếp trước. Như thế là không lịch sự. Đổi giờ sinh, chắc gì đã có lá số tốt hơn 10/ Vợ chồng có ngày xa cách: Xa cách không có nghĩa là ly dị, nhưng lại có ý nghĩa là chia ly tạm thời. vì dận nhau hoặc vì công tác, không thể luận giải chính xác được là vì sao. 11/ Bị làm sao đó: Làm sao là làm sao thì có nhiều trường hợp, nhưng tựu chung là muốn biết nguyên nhân và kết quả, Tử vi không thể chỉ rõ được vấn đề, ví như đụng xe hay đâm xe? đụng thì chỉ là va quệt nhẹ, còn đâm xe thì nặng rồi. Nhưng ai đâm ai và xe đâm là xe gì thì chịu nhé, chỉ có Chúa mới biết nó là cái gì và như thế nào. Khoa học cũng như Tử vi không bao giờ trả lời Tại sao mà chỉ giải thích như thế nào. Đừng hỏi tại sao con người lại sinh ra trên trái đất này mà không phải là ở 1 Ngôi sao cô đơn nào đó trong vũ trụ. Không ai và không bao giờ bạn có câu trả lời. 12/ Sao này và sao kia: Nếu quý vị chưa thông tường hoặc chưa thuộc được ý nghĩa cũng như sự phối kết hợp giữa các sao thì không nên đưa ra những câu hỏi về các vì tinh tú này để tránh chuyện tranh cãi nhiều hơn là trao đổi học thuật. Người luận giải thực sự không có hứng thú đàm đạo với quý vị về vấn đề này (hầu hết là thế) 13/ Học giỏi không đồng nghĩa với giầu có và ngược lại: Cuộc đời là thế đó, quý vị có 1 quá khứ học hành siêu việt, nhưng chẳng có gì đảm bảo là quý vị có 1 tương lai sáng về tiền bạc cả. Tiền và Tài không phải lúc nào cũng song hành với nhau Ngày hôm nay có thu nhập cao thì đừng vội mừng, bao giờ nghỉ hưu ở tuổi 60 thì hãy phán xét việc bói toán là trò nhảm nhí. 14/ Giầu nứt đố đổ vách mà không bền: Ai cũng có 1 thời kỳ 10 năm phát đạt, nhưng không phải cả 10 năm đều phát mà có năm được năm hòa. Nhưng tổng kết là tốt và rất tốt. Cái ngưỡng 10 năm tốt đó nó thể hiện ở con số dưới đáy và ở giữa mỗi cung số. Quý vị có thể xác định được cho mình ở khoảng tuổi nào, ví như Mệnh là số 3 và khoảng thời gian tốt nhất cho mọi vấn đề của cuộc sống có thể là từ 23 đến 32 tuổi bởi cung kế tiếp là cung 33, nếu vận hạn tốt ở cung 43 thì thời kỳ tốt đẹp đó là từ 43 đến 52 tuổi. v.v... Đời người thường chi có 1 thời ký 10 năm này thôi, thường thì chỉ có một vài trường hợp đắc cách mới có 2 vận tốt, có thể là ở cung 33 và cung 53 tuổi, tức cung 43 tuổi ko tốt hoặc hơi xấu so với bình thường. 15/ Mất điện thoại có tìm lại được không? hay các câu hỏi đại loại như thế: Vậy mất người yêu có lấy lại được không? đâu cần bói toán gì cũng đoán được mà. Rất ít trường hợp Tử vi có thể đoán được, nên đi tìm các phương pháp tiên đoán khác thì hơn. Mong các quý vị giải số tiếp phím1 like
-
Chuyện kỳ lạ trước và sau cái chết của cô gái 'hiện hình' trên điện thoại Khi xem xét kĩ, đoàn của ông Triều phát hiện dưới nền nhà của gia đình này có linh hồn của một người con gái xưa kia bị chôn sống chưa được siêu thoát, nên thường xuyên nhập vào những người trong gia đình để hành tội. Vị khách có khả năng đặc biệt… Những ai lúc đầu mới nghe câu chuyện hình ảnh cô gái treo cổ tự vẫn ở chùa Thanh Sơn xuất hiện trong chiếc máy điện thoại của một ông khách đến chùa để ngồi thiền sẽ không thể tin nổi. Để xác minh thông tin, PV đã có cuộc gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với người đàn ông đang nắm giữ câu chuyện hết sức đặc biệt này. Ông tên là Đặng Văn Triều, hiện công tác tại Trung tâm Unesco Phương Đông. Trao đổi với PV, ông Triều cho biết: "Trong suốt cuộc đời tôi, chưa bao giờ gặp một hiện tượng kì lạ đến vậy. Hình ảnh cô gái cứ luôn ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ. Tôi vốn không phải là một chuyên gia nghiên cứu về các hiện tượng tâm linh, nên đã mang câu chuyện kỳ lạ này kể cho nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người". Nói về chuyện tại sao hình ảnh cô gái treo cổ ở chùa Thanh Sơn lại hiện trong máy điện thoại của ông, chứ không phải là một ai khác, ông Triều cho biết: "Hiện tượng này thực sự tôi cũng không thể giải thích nổi, nếu giải thích dưới góc độ tâm linh, có thể là do tôi và cô gái kia có duyên hoặc có mối liên hệ nào đó, không thể nói một cách rõ ràng được". Ông Triều, người đang nắm giữ câu chuyện kỳ bí trên đã khiến cho PV đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Ông cho biết bản thân có một khả năng đặc biệt là chữa bệnh từ xa bằng cách sử dụng năng lượng để diệt trừ "tia đất" xấu, giúp người khác có thể khỏi bệnh. Hôm PV đến gặp ông, cũng là lúc có rất nhiều bệnh nhân đến nhờ ông chữa bệnh. Theo tìm hiểu của PV, thuật ngữ chuyên ngành gọi là "tia đất", chính xác hơn là "Đại bức xạ". "Tia đất" là tổng hợp các tia phát ra từ vỏ cứng của trái đất, bức xạ lên mặt đất dưới dạng sóng điện từ và từ trường. Chúng vừa có lợi, vừa có hại cho sức khỏe của con người. Cụ thể hơn, "tia đất" là các loại tia từ vỏ trái đất phát ra, lan tỏa trên mặt đất dưới dạng trường, bao gồm các trường: Bức xạ điện từ, bức xạ phân rã phóng xạ, phát tán chất độc hóa học, dao động từ trường của các khoáng vật thuộc các tầng hệ đất đá khác nhau, từ các mạch nước ngầm và đặc biệt là mồ mả hài cốt. "Tia đất" xấu có ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe của con người không hề thua kém các tác nhân gây bệnh khác. Theo ông Triều, để nhận biết những nơi có "tia đất" xấu không hề khó, cách đơn giản nhất là quan sát giấc ngủ hàng ngày của chính mình (không ngủ sâu, chập chờn, trằn trọc, đứt quãng, hồi hộp, khó thở, ác mộng…) trong người luôn cảm thấy mệt mỏi, tính tình không ổn định, sức khỏe giảm sút mà không tìm ra nguyên nhân. Quay trở lại với câu chuyện cô gái treo cổ tự vẫn ở chùa Thanh Sơn, ông Triều cho biết: Khi được trụ trì xác nhận hình ảnh cô gái trong máy điện thoại của ông có rất nhiều nét tương đồng với cô gái đã treo cổ tự vẫn ở chùa trước đó một tháng, ông đã rùng mình, lạnh sống lưng. Để chứng minh cho những câu nói của mình, đích thân vị trụ trì chùa Thanh Sơn đã dẫn ông Triều tới nơi thờ vong cô gái để so sánh với bức ảnh nhà chùa đang thờ cúng, thì quả thực có rất nhiều nét tương đồng, dường như là 1 người nhưng là ở những thời điểm khác nhau. Sau đó, ông Triều đã được nghe nhà chùa kể rất nhiều câu chuyện kỳ lạ trước và sau cái chết của cô gái này. Lúc đó, do quá tò mò trước hiện tượng kỳ lạ trên, ông Triều đã đề nghị nhà chùa dẫn ra cổng Tam quan, nơi cô gái đã treo cổ tự vẫn để xem xét. Tại đây, ông Triều phát hiện ra "tia đất" rất xấu, linh hồn người chết không thể siêu thoát và vẫn còn quanh quẩn nơi đây. Sau đó, đích thân vị khách này đã dùng khả năng của mình, giúp nhà chùa xử lý "tia đất" xấu, tiếp đó, vào động Hương Đài, một ngôi chùa cổ nằm sâu bên trong quần thể chùa Thanh Sơn, để làm lễ cầu cho linh hồn cô gái kia được siêu thoát. Trong quá trình làm lễ tại động Hương Đài, linh hồn cô gái đã hiện về thông qua một dấu hiệu đặc biệt, đó là một vòng tròn trắng. Theo những nhà nghiên cứu tâm linh, mỗi khi gọi hồn một người đã khuất, nếu thấy xuất hiện một vòng tròn trắng tức là linh hồn người chết đang hiển hiện tại đó. Sau đó thông qua linh cảm của mình, ông Triều đã rước vong cô gái đến nơi thờ cúng của chùa để cho linh hồn cô được siêu thoát. Kể từ đó, những chuyện kỳ lạ đã không còn xảy ra. Ông Triều, người đàn ông sở hữu chiếc điện thoại, đang làm lễ trong động Hương Đài, bỗng dưng xuất hiện một vòng tròn trắng trên đỉnh đầu. Ảnh: TL Những câu chuyện chưa kể… Để minh chứng cho khả năng của mình, ông Triều đã kể ra một vài trường hợp. Trường hợp làm cho ông nhớ nhất là của một người phụ nữ tên P. ở Thái Nguyên đang sống, ăn nói bình thường, vào một ngày tự dưng không thể nói được, đi khám, chữa trị khắp nơi các bác sỹ vẫn không chẩn đoán được nguyên nhân là gì. Gia đình họ đã liên hệ và nhờ ông Triều giúp đỡ. Khi ông đến tận nơi thì phát hiện, mảnh đất gia đình cô này đang sống bị bao phủ bởi nhiều "tia đất" xấu. Theo một nhà ngoại cảm đi cùng ông Triều hôm đó, âm khí ngôi nhà này rất nặng. Khi xem xét kĩ, đoàn của ông Triều phát hiện dưới nền nhà của gia đình này có linh hồn của một người con gái xưa kia bị chôn sống chưa được siêu thoát, nên thường xuyên nhập vào những người trong gia đình để hành tội. Ngoài người phụ nữ tên P. bị câm mà không rõ nguyên nhân, còn có cậu em trai, tính cách không được bình thường, thường xuyên đau đầu. Cậu ta có thói quen đi chùa ăn chay, niệm Phật, Mỗi lần đến chùa tự dưng người này hết đau đầu, nhưng khi trở về nhà thì đâu lại vào đấy. Sau khi ông Triều sử dụng khả năng đặc biệt của mình, người phụ nữ kia lập tức nói lại bình thường như chưa hề có chuyện gì xảy ra, chứng bệnh đau đầu của cậu em trai cũng bỗng dưng biến mất. Một trường hợp khác cũng được ông Triều sử dụng năng lượng đặc biệt của mình để chữa bệnh, đó là ông N. trú tại đường Hoàng Hoa Thám, quận Ba Đình, Hà Nội từng mắc phải bệnh dạ dày đã nhiều năm chữa trị khắp nơi bằng đủ loại thuốc nhưng không khỏi. Khi ông Triều đến thăm khám cũng phát hiện địa lý của ngôi nhà này có "tia đất" xấu, đã ảnh hưởng tới sức khỏe của ông N. Sau khi làm lễ diệt trừ "tia đất" xấu và sử dụng năng lượng của mình để chữa bệnh, điều kỳ diệu là ông N. hiện tại đã hoàn toàn khỏi bệnh. Kết quả đi khám tại các BV đều cho thấy bệnh dạ dày đã không còn. Ông N. cho biết: Thật kỳ lạ, bệnh tình của tôi trước đây vốn rất xấu, đi chữa trị khắp nơi mà không khỏi, cho đến khi được ông Triều sử dụng khả năng đặc biệt để điều trị, bệnh tình của tôi hiện tại đã hoàn toàn hồi phục. Ông Triều tâm sự thêm: "Nếu là những người hợp khí, thì tôi có thể chữa được rất nhiều bệnh". (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PL&XH1 like
-
Từ cái chết ly kỳ của cô gái trẻ đến chuyện 'rắn thần' xuất hiện trước cổng chùa Thấy một con rắn bị treo cổ, cắt tiết trước cổng Tam quan của ngôi chùa Thanh Sơn, cô gái thương xót bèn đem con rắn đi chôn cất, nhang khói tử tế. Vào một buổi sáng không lâu sau đó, người nhà chùa phát hiện cô gái nọ trong tư thế treo cổ ở đúng vị trí mà trước đây con rắn bị "hành hình". Từ cái chết của cô gái trẻ… Trước hàng trăm câu chuyện mang tính ly kỳ, kiểu "liêu trai chí dị" xung quanh cái chết của cô gái tại chùa Thanh Sơn, thuộc địa phận thôn Hội Xá, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, chúng tôi đã về đây để tìm hiểu. Trao đổi với PV, sư thầy Đàm Tịnh (trụ trì chùa Thanh Sơn) với giọng nói chậm rãi, thái độ điềm tĩnh, kể lại: Thời điểm đó, nhà chùa đang khởi công xây dựng cổng Tam quan (lối vào chính của chùa). Để đảm bảo cho công việc được diễn ra suôn sẻ, nhà chùa đã khoán cho một nhóm thợ đến làm. Do đường sá đi lại khó khăn, nên nhà chùa đề nghị nhóm thợ ăn ở ngay tại chùa trong quá trình xây dựng. Sáng 17-1-2010, khi sương mù vẫn còn bao phủ, tốp thợ ra cổng Tam quan thì kinh hãi phát hiện xác một cô gái treo lơ lửng ở đó. Lập tức, những người thợ này hô hoán, cấp báo mọi người xung quanh. Khi tôi cùng những người khác trong chùa chạy ra tháo dây và hạ thi thể cô gái xuống thì ngỡ ngàng phát hiện xác chết chính là một người giúp việc trong chùa". Sự việc ngay lập tức được cấp báo lên chính quyền địa phương đến để giải quyết. Theo lời kể của một người trong chùa: "Cô gái chết trong tư thế rất nhẹ nhàng, tay chân duỗi thẳng theo thân hình. Loại dây buộc vào cổ cô gái là dây thừng. Sau đó nhà chùa và chính quyền sở tại báo cho gia đình cô gái đến để lo hậu sự. Theo nguyện vọng của gia đình, do cô đã sống ở chùa Thanh Sơn được một năm nên gia đình xin nhà chùa cho phép chôn thi thể cô gái ngay tại đây để gần cửa Phật, đúng với tâm nguyện khi còn sống của cô. Đáp ứng nguyện vọng đó của gia đình, nhà chùa đã tiến hành ma chay cho cô gái theo đúng phong tục của địa phương và thờ cúng trong chùa. Cổng Tam quan, nơi cô gái treo cổ tự vẫn. Đến chuyện rắn lạ xuất hiện…Những tưởng vụ việc sẽ dần lắng xuống theo thời gian, nhưng sau cái chết bí ẩn của cô gái trẻ, nhiều sự kiện kì lạ trước đó được mọi người nhớ lại và chắp nối tạo nên những câu chuyện mang màu sắc huyền bí rất khó giải thích. Tâm sự với PV, một sư thầy trong chùa Thanh Sơn nói nhỏ: "Các chú không biết đấy thôi! Khoảng 1 tháng trước thời điểm cô gái mất, tại sảnh cửa động Thanh Sơn, nơi thờ cúng linh hồn những người có duyên với cửa Phật bất ngờ xuất hiện một con rắn rất lớn, có độ dài khoảng 2m, màu sắc kì lạ. Vì nghĩ là con vật thiêng nên mọi người không dám xua đuổi mà để cho nó di chuyển tự do. Vài ngày sau đó, nhà chùa phát hiện có mùi lạ bốc lên từ phía sảnh trước động Thanh Sơn, khi mọi người đến kiểm tra thì bất ngờ phát hiện ra con rắn nọ đã chết tự khi nào và đang trong quá trình phân hủy. Tuy vậy, điều kỳ lạ ở đây là không hiểu bằng cách nào con rắn chui vào một sợi dây điện sau đó phần cổ bị xiết chặt không thoát ra được cho đến lúc chết tựa như bị thắt cổ. Sau đó, chính tay cô giúp việc trong chùa đã mang con rắn đi chôn cất cẩn thận tại khu đất phía sau chùa". Tiền sảnh động Thanh Sơn, nơi con rắn mắc kẹt và chết trước cô gái một tháng. Ảnh: Xuân Thắng "Kì lạ hơn nữa là trước ngày cô gái kia treo cổ ở cổng Tam quan, nhóm thợ đào móng phát hiện một con rắn rất lớn, thấy vậy những người này đã cắt tiết, treo cổ con rắn trước cổng Tam quan. Về kích thước, con rắn dài khoảng 1,2m, hình thù rất kì quái, không giống loại rắn bình thường. Sau đó, khi có một người đến chùa làm lễ thấy sự việc như vậy nên đã bảo mọi người tháo ngay con rắn xuống và mang đi chôn cất vì cho rằng đây là rắn thiêng thường cư trú tại các chùa chiền, miếu mạo. Người này còn nói những câu rất kì lạ, mọi người lúc đầu nghe đều thấy rất sợ hãi" - sư thầy này cho biết thêm.Nhà chùa đã mời thầy cúng về làm lễ để linh hồn cô gái được siêu thoát, một con rắn bỗng dưng xuất hiện mới chịu rời khỏi cổng Tam quan (!?). Một người dân bán hàng ở khu vực trước cổng Tam quan cũng xác nhận, trước khi cô gái này mất thì có chuyện nhóm thợ xây cổng chùa bắt và giết một con rắn. Xung quanh cái chết của cô gái này PV còn nghe được rất nhiều câu chuyện lạ kỳ khác. (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PL&XH Kỳ 2 Cô gái chết trước cửa thiền 'hiện hình' trong điện thoại của vị khách đến chùa ngồi thiền1 like
-
Cái này quả là kinh khủng nhất --- ( cháu cũng nghĩ nó quá ghê tởm , vượt qua mọi sự giới hạn nêncháu cũng đưa vào rồi nghĩ lại cũng phải xóa đi , giàu mà vô đạo đức ko bằng nghèo mà thanh cao ) Cái đáng sợ nhất ko phải là hổ báo xài lang mà lòng dạ hiểm độc con người là nguy hiểm nhất1 like
-
Vâng bác nói đúng ạ, cháu nghĩ những hình ảnh đó quá man rợn, nên ko copy ảnh vào diễn đàn mà chỉ để link gốc. Bản thân cháu cũng thấy thương những ai chưa biết 2 chữ "nghiệp chướng" mà phạm phải, để nghiệp xấu càng tăng, thì phúc đức càng mỏng. Việc trừng phạt nặng những ai đối xử dã man với động vật, nhà nước ta chưa có Luật này (dù nhiều nước phát triển có lâu rồi) vì Quốc Hội vẫn đang vật vã với nhiều Luật khác mà chưa xong bác ạ1 like
-
ĐỒNG DAO và TRÒ CHƠI TRẺ CON Tranh minh họa dân gian của Henry Oger và Võ Đình Đồng dao, đồng diêu: câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là định nghĩa đơn giản nhất của Huình Tịnh Paulus Của, trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cuốn tự điển đầu tiên của Việt Nam, xuất bản năm 1895 tại Sàigòn. 36 năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo Việt Nam Tự Điển, Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In Imprimarie Trung Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn. Đồng dao: câu hát trẻcon. Hơn thế kỷ sau, tức là cả 103 năm sau, Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định nghĩa đồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con, nhưng không đưa ra một câu nào. Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hẩu hết vô danh, hay nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả. Dạy con từ thuở lên ba, nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua ba tháng biết lẩy bẩy tháng biết bò cho đến khi lổm ngổm tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng bước đi, với Việt Nam ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ phần quan trọng trong giáo dục gia đình, chuẩn bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng phương pháp giúp trẻ con vừa vui chơi giải trí vừa học hỏi, phát triển các khả năng cơ thể và mở mang trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến rộng rãi. Trong hàng trăm bài đồng dao truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc, chúng tôi chỉ nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc qua Trung vào Nam, còn nhớ hoặc tìm tòi sưu tầm được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số nhạc phụ lục. Chuyện bổ túc theo đà tiếp nối rất dễ dàng thuận tiện. Chơi Diều, tranh Võ Đình, UNICEF 69 Những trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ ngày, tức vào khoảng một tháng sau khi ra đời, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể chỉ tập cho con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần trên cơ thể, cả danh từ lẫn động từ tĩnh từ: mắt mở mắt nhắm, mắt đen mắt nâu, miệng nói môi cười, răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng, tóc ngắn tóc dài, tay nắm, chân đạp … Trẻ chưa biết ngổi, có thể cùng mẹ chơi trò Cất Rớ Chống Rớ , đặt con nằm ấp trên hai ống chân mẹ, mông con an vị trên hai bàn chân mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa, vừa nâng hai chân lên cao vừa đọc: Cất rớ lên! Bỏ rớ xuống! Cá chi? Cá bống! Chống rớ! Cá chi? Cá rô! Chống rớ!! Cá chi? Cá hồng! Chống rớ! … Vẫn vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cỡi ngựa, hát mà chơi, nhún nhẩy đong đưa theo bài đồng dao: Nhong nhong nhong nhong Ngựa ông đã về Cắt cỏ bồ đề Cho ngựa ông ăn Nhong nhong nhong nhong … Mẹ tập con chơi mà học, quan sát theo dõi: Một ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy… Hai ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón tay nhúc nhích này! Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy! … và cứ thế tiếp tục cho đến mười ngón. Bài này có phần nhạc ở phụ lục. Tay mẹ tay con có nhiều trò thú vị. Hát mà chơi với bài đồng dao Kéo Cưa Lừa Xẻ, khi con biết ngồi, hai mẹ con cùng nắm tay nhau kéo qua kéo lại: Kéo cưa lừa xẻ/ ông thợ nào khỏe/ về ăn cơm trưa Ông thợ nào thua/ về bú tí mẹ hay: Cút ca cút kít/ làm ít ăn nhiều/ nằm đâu ngủ đấy Nó lấy mất cưa/ lấy gì mà kéo!!! Vẫn tay mẹ tay con: Xỉa cá mè/ đè cá chép Tay nào đẹp/ đi hái hoa Tay nào thô/ đi mót củi Tay dính bụi/ đừng dụi mắt … Cũng bài Xỉa Cá Mè nhưng chơi với hai chân: Xỉa cá mè/ đè cá chép Chân nào đẹp/ đi buôn men Chân nào đen/ ở nhà làm… chó (hay mèo) và sủa gâu gâu như chó hoặc kêu meo meo như mèo để mẹ con cùng vui. Mẹ con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài đồng dao Vuốt hột nổ nói đến những vật dụng hàng ngày. Bảo con chắp tay lai, mẹ cũng chắp tay xong mở ra vuốt hai bàn tay con, vừa vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có thể tiếp nối vô tận: Vuốt hột nổ Đổ bánh bèo Xao xác … quạ kêu Nồi đồng vung méo/ cái kéo thợ may Cái guộng đắp bờ/ cái cờ làng tế Cái ghế để trèo/ cái khoèo mót củi Cái chủi tòe loe/ cái khe nước chảy Cái xảy xảy rơm/ cái nơm chơm cá Cái ná bắn chim/ cái kim may áo Cái gáo múc nước/ cái lược chải đầu Cái câu câu cá/ cái rá vo gạo … Mẹ con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập con vỗ tay. Hát mà học, vì khi lớn lên bé sẽ cùng vui chơi với anh hoặc chị, và cách chơi khó hơn: vừa đọc bài đồng dao vừa tự vỗ tay mình xong vỗ tay trái chéo vào tay trái người kia; trở lại tự vỗ tay, rồi vỗ tay phải mình chéo qua tay phải người kia, và tiếp tục ban đầu chậm sau nhanh dần cho đến hết bài. Một bài đồng dao khác cho trò chơi này là: Tập tầm vông Chị lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn cá/ em mút xương Chị nằm giường/ em nằm đất/ chị húp mật/ em liếm ve Chị ăn chè/ em liếm bát/ chị coi hát/ em vỗ tay Chị ăn mày/ em xách bị/ chị làm đĩ/ em thâu tiền Chị đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo gỗ/ em lợp nhà Chị trồng cà/ em trồng bí/ chị tuổi Tý/ em tuổi Thân Chị tuổi Dần/ em tuổi Mẹo Chị kéo kẹo/ em nấu đường/ chị trồng thơm/ em trồng khóm Chị đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ cha/ em nuôi mẹ Chị trồng hẹ/ em trồng hành/ chị để dành/ em ăn hết Chị đánh chết/ em la làng/ chị đào hang/ em chui tuốt … Vẫn trò chơi dùng hai tay nhưng đông người hơn, có thể dùng một cái gậy hay thanh trúc để các em nắm tay chồng lên nhau lần lượt và tiếp tục cho hết bài. Không có gậy thì chỉ cần chồng tay lên nhau. Trò chơi này gọi là Hát Đúm/ Cùm nụm cùm nịu hay Tay tí tay tiên: Cùm nụm cùm nịu/ tay tí tay tiên Đồng tiền chiếc đũa/ hột lúa ba bông Ăn trộm ăn cắp trứng gà Bù xa bù xít/ con rắn con rít Thì ra tay này! Vẫn tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay chân, mẹ con cùng chơi trò thi chân đẹp hoặc mẹ giúp con theo dõi chơi Nu na Nu nống cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ tập trung theo dõi, chăm chú nghe và nhìn, lanh mắt lẹ tay nhanh chân học mà chơi theo luật chung: Nu na nu nống/ cái cống nằm trong Cái ong nằm ngoài/ củ khoai chấm mật Phật ngồi Phật khóc/ con cóc nhảy ra/ con gà ú ụ Nhà mụ thổi xôi/ nhà tôi nấu chè Tè he cống rụt! Nu na nu nống/ thằng công cái cạc Đá xỉa đá xoi/ đá đầu con voi/ đá lên đá xuống Đá ruộng bồ câu/ đá râu ông già Đá ra đường cái/ gặp gái đi đường Có phường trống quân/ có chân thì rút! Nu na nu nống/ đánh trống phất cờ/ mở cuộc thi đua Thi chân đẹp đẽ/ chân ai sạch sẽ/ gót đỏ hồng hào không bẩn tí nào/ được vào đánh trống! Khi trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và đến trường, gia nhập những trò chơi tập thể dễ dàng cũng như học những bài đồng dao dần dà dài khó hơn, và mẹ chỉ để mắt theo dõi, hướng dẫn hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần. Có những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lập đi lập lại, làm điệu bộ theo lời diễn đi diễn lại cho đến khi mệt nghỉ: Con vỏi con voi/ cái vòi đi trước Hai chân trước ịch đi ịch trước Hai chân sau ịch đi ịch sau Còn cái đuôi thì đi là sau rốt Tôi xin kể nốt cái chuyện con voi i í ị con voi Cái vòi í i ị đi trước … Con công hay múa/ nó múa làm sao? Nó rụt cổ vào/ nó xòe cánh ra Nó đỗ cành đa/ nó kêu ríu rít Nó đỗ cành mít/ nó kêu vịt chè Nó đỗ cành tre/ nó kêu bè muống Nó đỗ dưới ruộng/ nó kêu tầm vông Con công hay múa … Lúa ngô là cô đậu nành/ đậu nành là anh dưa chuột Dưa chuột là ruột dưa gang/ dưa gang là nàng dưa hấu Dưa hấu là cậu lúa ngô/ lúa ngô là cô đậu nành … Ba bài liên hoàn khác về chim: Ác- là là cha ca-cưỡng/ ca-cưỡng là dượng bồ câu Bồ câu là dâu ác- là/ ác-là là cha cà- cưỡng … Bồ-các là bác chim gi/ chim gi là dì sáo sậu Sáo sậu là cậu sáo đen/ sáo đen là em tu-hú Tu-hú là chú bồ-các/ bồ-các là bác chim gi … Cái cò mày mổ cái tôm/ cái tôm quắp lại mà ôm cái cò Cái cò mày mổ cái trai/ cái trai quặp lại mà nhai cái cò Cái cò mày mổ cái tôm … Một bài đồng dao liên hoàn khác được Đức Quỳnh phổ nhạc và hát từ Bắc vào Nam, lời lẽ ngụ ý hài hước châm biếm: Con chim chích chòe/ nó kêu chích chòe Nó đậu cành chanh/ nó kêu chích chòe Tôi ném hòn sành/ nó quay lông lốc Tôi làm một chốc/ được ba mâm đầy Ông thầy ăn một/ bà cốt ăn hai Cái đầu cái tai/ đem về biếu chúa Chúa hỏi chim gì? – Là con chim chích chòe! Nó kêu chích chòe/ nó đậu cành chanh … Bài đồng dao có nhạc trong Nam lời hát như sau: Con chim manh manh/ nó đậu cây chanh Tôi vác miểng sành/ tôi liệng nó chết Tôi làm được bảy mâm/ tôi dâng cho ông một mâm Tôi dâng cho bà một đĩa/ bà hỏi tôi con chim gì? Tôi nói con chim manh manh … Có một trò chơi trong Nam gọi là Bắc Kim thang, dùng bài đồng dao ngô nghê ngộ nghĩnh khi các em làm thành vòng tròn, chân trái xỏ rế ngoéo vào chân trái bạn, vừa vỗ tay vừa nhảy lò cò bằng chân phải và giữ không bị té, cùng hát: Bắc kim thang, cà lang bí rợ Cột qua kèo là kèo qua cột Chú bán dầu qua cầu mà té Chú bán ếch ở lại làm chi? Con le le đánh trống thổi kèn Con bìm bịp thổi tò te tí te …… Em nào không vững thăng bằng bị té là thua, bị phạt búng tai hoặc khẻ tay nếu là con gái, hoặc phải cõng bạn cùng cặp chạy một vòng nếu là con trai. Vui tếu thì phạt bằng quẹt nhọ nồi/ lọ nghẹ lên mặt. Các em trai còn bị phạt làm ngựa cho bạn cỡi, nhẹ thì dùng bài đồng dao ngắn Nhong nhong nhong nhong, mà phạt nặng hoặc trẻ lớn thì dùng bài Lý Ngựa ô. Lý Ngựa ô cũng có ba điệu phổ nhạc, Bắc, Trung và Nam. Trò trốn tìm/ ú tim/cút bắt được trẻ con khắp thế giới vui chơi, và đồng dao ta có rất nhiều bài cả đám cùng loạt đọc lên để chọn người phải đi tìm. Bài đặc biệt có tính cách một bài sấm dính đến lịch sử, nói về giai đoạn rối loạn của triều đình Nhà Nguyễn và phong trào Cần Vương, thời ta bị Pháp đô hộ: Chu tri rành rành/ Cái đanh nổ lửa Con ngựa đứt cương/ ba vương tập đế Cấp kế đi tìm/ ú tim … òa ập! Bài đồng dao trốn tìm/ thả đỉa ba ba: Thả đỉa ba ba/ con đỉa đeo bà Con gà tục tác/ mỏ-nhát cầm chầu Con mèo cầm lái/ con rái chạy buồm Con tôm tát nước/ vọc nước giỡn trăng Bài Thả đỉa ba ba khác: Thả đỉa ba ba hớ bắt đàn bà/ phải tội đàn ông Cơm trắng như bông/ gạo tiền như nước Sang sông về đò/ đổ mắm đổ muối Đổ nải chuối tiêu/ đổ niêu cứt gà Đổ phải nhà nào/ nhà ấy phải chiu! Khi đám trẻ chạy tìm chỗ nấp, em còn lại phải bịt mắt đọc bài đồng dao khác đến hết mới được mở mắt đi tìm: Mít mật mít gai/ mười hai thứ mít Đi vào ăn thịt/ đi ra ăn xôi Bởi chẳng nghe tôi/ tôi bịt mắt chú Ăn đâu ẩn kín/ lúa chín thì về! Chơi bịt mắt bắt dê, tranh Võ Đình Ngoài Bắc có bài đồng dao khác và Phạm Duy đã mượn ý phổ nhạc: Ông trẳng ông trăng Xuống chơi với tôi/ có bầu có bạn Có oản cơm xôi/ có nồi cơm nếp Có nệp bánh chưng/ có lưng hũ rượu Có chiếu bám đu/ thằng cù xí xoại Bắt trai bỏ giỏ/ cái đỏ ẵm em Đi xem đánh cá/ đem rá vo gạo Có gáo múc nước/ có lược chải đầu Có trâu cầy ruộng/ có muống thả ao Ông sao trên trời … Hoặc: Ông tiễn ông tiên Ông có đồng tiền/ ông giắt mái tai/ ông cài lưng khố Ông ra hàng phố/ ông mua miếng trầu/ ông nhai tóp tép Ông mua con tép/ về ông ăn cơm Ông mua mớ rơm/ về ông đánh thổi Ông mua cái chổi/ về ông quét nhà Ông mua con gà/ về cho ăn thóc Ông mua con cóc/ về thả gậm giường Ông mua nén hương/ về cúng ông cụ! Tranh dân gian của Henry Oger đầu thế kỷ XX,chú thích bằng chữ Nôm: Đánh Cờ Chân Chó Làm Hùm Bắt Lợn Khi trẻ đã lớn, đã đi học và có nhiều bạn cùng lứa, có rất nhiều trò chơi dùng những thứ kiếm được ngay chung quanh hoặc tự chế lấy, ví như bắn ná làm bằng nạng ổi, bắn súng bẹsống láchuối, bắn súng ống hóp đạn hạt sầu đông hoặc hạt mâm xôi, bắt chuồn chuồn, buôn bán bằng hoa lá, cái lung tung/ cái trống bỏi, chong chóng bằng lá dừa, con gà đất có gắn ống cói ống sậy thổi te te, con giống, cối xay làm bằng hạt xoài cưa hai, đánh căn với hai khúc tre hay gỗ, đánh bi, đánh cờ chân chó, cờ gánh bằng vỏ nghêu vỏ sò, đánh đáo, đánh đu dựng bằng tre, đánh trận giả với cây cành hoa lá như Cờ Lau Tập Trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở còn chăn trâu, đánh thẻ, đánh vụ làm bằng gỗ, đá kiện làm bằng đồng xu buộc lông, đá cầu lông,đạp mạng, đạp lon, đi chợ về chợ, kéo co với giây dừa, làm hùm bắt lợn, lộn cầu vồng, lộn chuồn chuồn, liệng cống, năm tiền liền quan, ném còn làm bằng vải vụn, ném vòng làm bằng tre hoặc mây vào cọc tre hay gỗ, nhảy giây làm bằng giây dừa, nhảy lò cò với mảnh ngói mảnh sành mảnh sứ , rải ô quan/ rải ô làng dùng sỏi, sạn hay hạt đậu, xây khăn/ bỏ khăn/ chuyền khăn, thả diều làm bằng tre dán giấy … vô số kể. Cờ Lau Tập Trận, tranh Võ Đình Những trò chơi hầu hết cần vận dụng đầu óc bén nhạy tinh tế tính toán chính xác, điều động tay chân nhanh nhẹn, thích nghi với môi trường thiên nhiên và luyện tập quen dần với đời sống tập thể trong cộng đồng. Hát chơi mà học thật. Bài đồng dao trò chơi Xây khăn trong Nam, trẻ ngồi thành vòng tròn, một em cầm khăn chạy ngoài, cùng đọc cho đến hết thì bỏ khăn sau lưng một bạn. Em này phải chú ý theo dõi để nhặt khăn chạy vòng, nhường chỗ cho bạn, nếu không biết sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Đá cầu bằng đồng xu, tranh dân gian của Henry Oger Xây khăn, khăn nổi khăn chìm Ba bên bốn phía đi tìm cái khăn Thằng chăn bận áo rách vai Không ai may vá, thằng chăn bận hoài Trò chơi Chuồn chuồn miền Trung và Lộn Cầu Vồng ngoài Bắc có cách chơi giống nhau nhưng khác bài đọc: - Chuồn chuồn đạp nước kim cang/ bên tê mở cửa bên ni sang lòn - Lộn cầu vồng nước trong nước chảy Có anh mười bảy có chị mười ba Hai chị em ta cùng lộn cầu vồng Bài đồng dao trò Dung giăng dung giẻ đọc khi đi quanh nhiều vòng tròn, những vòng này luôn thiếu một để đến cuối khi ngồi xệp xuống sẽ có một em chậm chạp bị loại: Dung giăng dung giẻ/ dắt trẻ đi chơi Đi tới cổng trời/ gặp cậu gặp mợ Cho cháu về quê/ cho dê đi học Cho cóc ở nhà/ cho gà bới bếp Ngồi xệp xuống đây! Một bài đồng dao về cuộc sống luẩn quẩn loanh quanh trong nhà ngoài vườn trong xóm ngoài làng là Ông Ninh Ông Nang được Lê Thương phổ nhạc: Ông Nỉnh ông Ninh/ ông ra đầu đình/ ông gặp ông Nảng ông Nang Ông Nảng ông Nang/ ông ra đầu làng/ ông gặp ông Nỉnh ông Ninh Nang Ninh đầu đình/ và Ninh Nang đầu làng Nang Ninh làng đình/ rồi Ninh Nang đình làng Nang Ninh làng đình Nang Ninh/ Ninh Nang đình làngNang Ninh Nang Ninh làng đình Ninh … Cô Chiểu cô Chiêu/ cô qua cầu Kiều/ cô gặp cô Thỏa cô Thoa Cô Thỏa cô Thoa/ cô qua vườn cà/ cô gặp cô Chiểu cô Chiêu Thoa Chiêu cầu Kiều/ và Chiêu Thoa vườn càRồi Thoa Chiêu cầu Kiều/ rồi Chiêu Thoa vườn dừa Cả Chiêu Thoa cầu Kiều Chiêu Thoa/ Thoa Chiêu vườn cà Chiêu ThoaThoa Chiêu vườn cà Thoa … Em Thở em Thơ/ em qua hàng dừa/ em gặp em hải em Hai Em Hải em Hai/ em qua vườn xoài/ em gặp em Thở em Thơ Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa Rồi Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa Cả Thơ Hai vườn xoài Thơ Hai/ Hai Thơ vườn dừa Thơ Hai Thơ Hai vườn xoài Thơ … Một bài đồng dao khác được phổ nhạc là Trằng Bờm, nói lên đầu óc thực tiễn của dân quê không cần xa hoa phù phiếm cung ngũ long lầu ngũ phụng dinh thự cao ốc hay đặc sản miếng ngon vật lạ, mà chỉ muốn no bụng: Thằng Bờm có cái quạt mo/ phú ông xin đổi ba bò chín trâu Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu/ phú ông xin đổi ao sâu cá mè Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè/ phú ông xin đổi ba bè gỗ lim Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim/ phú ông xin đổi một đôi chim mồi Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi Phú ông xin đổi nắm xôi… Bờm cười!!! Thuở nhỏ tôi nghịch ngợm hát bài đồng dao Thằng Bờm và có nhịp điệu khác: Thì ra mo cau vàng mới tinh/ phú ông lập tâm mua liền! Thằng Bờm mà biết cóc chi/ Thằng Bờm mà biết cái cóc chi! Chăng chẳng lấy trâu/ Bờm rằng thì là Bờm chăng chẳng lấy trâu đâu!!! Trò chơi tôi thích nhất hồi còn tiểu học là đánh thẻ chuyền/ đánh banh đũa, nhưng đến nay không nhớ được trọn bài đồng dao đọc đệm. Duyên may quen một gia đình nhà quê mộc mạc, bà mệ tám mươi sáu và bà mạ sáu mươi, không biết đọc biết viết nhưng còn nhớ kỹ. Bỏ một ngày thăm hỏi cùng ôn trí nhớ, ghi trọn được trò chơi này. Dùng tay phải nắm nguyên bó đũa 6 chiếc hoặc nhiều hơn, cùng một trái banh, có khi chỉ là quả chanh hay một bó vải vụn cuộn thành hình trái banh. Vừa thảy banh lên là trải đũa ra nhanh cho kịp bắt chụp lại trái banh, rồi lần lượt ném banh vừa bắt từng cây đũa một, rồi hai, ba, bốn … tức là phải tính chính xác làm sao vừa ném banh lên là phải nhanh mắt nhanh tay tính toán nắm đúng số đũa cần lấy đưa ngay sang tay kia và kịp thời bắt chụp lại trái banh. Trò chơi này hình như chỉ có trẻ Việt Nam ta yêu thích và hợp với con gái. Bài đồng dao đọc theo lúc ném banh, bắt đầu ném banh và bắt một đũa, đọc tối đa đến cuối câu phải tóm lại được trái banh, nếu trật phải nhường người kia chơi: Cái mốt (bắt một đũa) Cái mai/ con trai/ con hến Con nhện/ giăng tơ/ quả táo/ cái gáo Lên đôi (bắt hai đũa) Đôi cái mõ/ đôi nồi chõ Đôi thổi xôi/ đôi nấu chè/ đôi cành tre Lên ba (bắt ba đũa) ………. Khi nhặt hết đũa thì bỏ tất cả xuống để ném banh bốc cả nắm đổi sang các giai đoạn kế tiếp là con ba lại, con gang, sang tay cầm, kẹp nách, cầm quạt rẽ xương, sang tay giã, giã đơn hoặc giã đôi tùy giao ước ban đầu, nhập giã, rút ống, nhập ống, sang tay tao tức là chuyền. Mỗi giai đoạn này đọc tên báo sự thay đổi chuyển tiếp. Giai đoạn chuyền, một vòng hoặc hai vòng tùy giao ước trước khi chơi, vừa chuyền vừa ném banh rồi chụp banh lại và đọc: Chuyền chuyền một/ chuyền chuyền hai/ chuyền chuyền ba Chuyền chuyền bốn/ chuyền chuyền năm/ chuyền chuyền sáu Cuối cùng là nẻ hay khẻ, tức là đập cả bó đũa vào chân người thua cuộc, vừa đập vừa thảy banh vừa đọc đoạn cuối bài đồng dao: Qua cầu, lặn cỏ/ núi đỏ như ma/ hầm sa/ mây sắc Bắt con cá, chặt đuôi, chặt đầu Têm miềng trầu, hầu chén rượu Ai có tiền, ngồi liền lên ghế Ai không tiền, liệu thế liệu thần Sang tay nẻ, khẻ chân Nẻ/ khẻ chân xong là thắng, Đoạn đồng dao cuối này lại khác nếu do các nữ sinh Đồng Khánh mà nay là những mệ có cháu nội ngoại đề huề: Ai muốn cao, ngồi ghế/ ai muốn thấp, ngồi đòn Ai muốn đỏ, bôi son/ ai muốn vàng, bôi nghệ Qua cầu Chợ Kệ/ về cầu Thanh Lương Sang tay bắt con một. – Ăn! (tức là thắng) Đoạn cuối lúc nẻ, mấy mệ ngoài Bắc lại đọc khác: Đầu quạ quá giang/ sang sông về đò Cò nhẩy gãy cây/ mây bay bèo trôi Ổi xanh, hành bóc/ róc vỏ, đỏ lòng Tôm cong đít vịt Sang cành nẻ/ bẻ cành xanh Vét bàn thiên hạ (tức là thắng) Trong số 54 sắc dân sinh sống tại Việt Nam, người Mường là chị em của người Việt, cùng thờ Vua Hùng, cùng chung truyền thuyết một mẹ trăm con, cùng mặc yếm váy và áo tứ thân và đặc biệt cùng nói chung ngôn ngữ. Trẻ con Mường cũng có đồng dao kèm trò chơi. Ghi lại sau đây một: Lếu lêu làng lộc Tộc ngộc ngọn cơn bo (cây hoang nhỏ có trái trẻ hay hái ăn) Bò ăn no bò ngứa củ ráy Ngứa củ ráy ngứa cả cơn rư (cây nưa) Đưa bò về Mường Tráng Tám mươi người kiếm cỏ/ bò đỏ bò nhà lang Bò vàng, bò nhà đạo Ống Tùng tùng tùng tùng/ ai đánh trống mường trên Lền khên con ca trống gáy (con gà) Gáy gáy trong rẫy ngoài mường/ vườn như vườn nhà ai Ông mo biểu mụ máy/ trấy bín biểu trấy bù (trái bí/bầu) Măng mu biểu măng nứa/ bố đạo biểu mệ nàng Quan sang biểu kẻ khó/ bó ló biểu bó nếp (bó lúa) Cơm nếp biểu cơm chim/ cào cào biểu châu chấu (một loại gạo ngon) Cắt nứa rào cho ta chào cấm/ lấy lưỡi lấm cho ta cầm tiền Lấy lưỡi liềm cho ta cắt bái (cỏ tranh) Lấy lưỡi hái cho ta hái ló (lúa) Náng lấy chó cho ta ăn thịt/ náng con vịt cho ta ăn đùi (nướng) Nuôi con ca cho ta lấy mỡ (gà) Dệt lấy mớ lụa điều/ dệt nhiều nhiều cho ta cưới vợ … Trẻ con miền Bắc ngày trước rất thích chơi Phụ đồng Phụ chổi, có tính cách huyền bí như lên đồng. Bài đồng dao được đọc đi đọc lại cho đến khi đứa trẻ ngổi đồng được vía nhập: Phụ đồng phụ chổi/ thổi lổi mà lên Ba bề bốn bên/ sôi lên cho chóng Nhược bằng cửa đóng/ phá ra mà vào Cách chuôm cách ao/ cách ba ngọn rào Cũng vào cho lọt Cái roi von vót/ cái vọt cho đau Hàng trầu hàng cau/ hàng hương hàng hoa Là đồ cúng Phật Hàng chuối hàng mật/ hàng kẹo mạch nha Nào cô bán quế/ vừa đi vừa tế Một lũ học trò/ người cầm quạt mo Là vợ Ông Chổi Thổi lổi mà lên … Một trò chơi được đám trẻ gái yêu thích, cách chơi giống nhau nhưng ngoài Bắc gọi là là Trồng Nụ Trồng Cà/ Trồng Nụ Trồng Hoa, và miền Trung gọi là Đi Chợ Về Chợ. Phải có bốn em, chia làm hai cặp. Một cặp ngồi, lần lượt duỗi chồng từng bàn chân lên nhau rồi chồng bàn tay làm hoa, trong khi cặp kia đi qua đi lai rồi nhảy qua nhảy lại, vừa đọc: Đi chợ/ về chợ (chưa đưa chân) Đi canh một/ về canh một (đưa một bàn chân) Đi canh hai/ về canh hai (chồng thêm một chân, là hai bàn chân) Đi canh ba/ về canh ba (chồng thêm, ba bàn chân) Đi canh tư/ về canh tư (chồng thêm, bốn bàn chân) Đi sen búp/ về sen búp (chồng thêm một bàn tay chụm lại) Đi sen nở/ về sen nở (chồng thêm bàn tay hơi xòe nở) Đi sen tàn/ về sen tàn (bàn tay hoa nở xòe rộng hết cỡ) Đi Chợ Về Chợ, tranh Võ Đình, XI-07 Trong trò chơi này, hai em ngồi chồng chân và xòe tay phải giữ thăng bằng, nếu bị đổ chân là thua. Hai em đi qua đi lại nhảy qua nhảy về nếu bị đụng chân hay tay hai em kia là thua. Cặp thua bị loại để hai em khác vào thay. Nhưng trong mấy trò chơi tập thể nhân Tết Trung Thu và Ngày Nhi Đồng Việt Nam, trẻ con Bắc Trung Nam đểu thích trò Rồng Rắn, gồm một đoàn ôm eo ếch nhau nối dài đi vòng vòng quanh sân, vừa đi vừa reo hò theo một em dẫn dầu làm thầy thuốc đọc : - Này, rồng kia! - Dạ! - Rồng đen hay rồng trắng? - Rồng trắng! - Rồng trắng lấy nước gạo mùa Rồng đen lấy nước cho vua đi cày! - Anh em ta cùng kéo lúa về! Dô ô ô ô ô ô ô … Ttranh dân gian của Henry Oger Chú thích bằng chữ Nôm: Trẻ Con Làm Rồng Rắn Bài đồng dao Rồng Rắn cản thầy thuốc cầm cái quạt mo không cho ông bắt em nào trong đoàn, vừa đi vừa hát: Rồng rồng rắn rắn/ kéo rắn lên mây Thấy cây lúc lắc/ hỏi ông thầy thuốc có nhà hay không? - Có! - Mở cửa cho vào! - Vào làm gì? - Mượn cái liềm - Liềm làm gì? - Hái củi - Củi làm gì? - Nấu bánh chưng - Cho thầy ăn không? - Không! Trò chơi Rồng Rắn không rõ có từ giai đoạn lịch sử nào, có thể liên hệ đến thảm kịch thời Trịnh Nguyễn phân tranh chiến tranh đẫm máu giữa Đàng Ngoài Đàng Trong, hay gần hơn, là cuộc nội chiến Quốc Cộng xốc nổi đến tận cùng đời sống … với những nhân vật níu áo số mệnh nhau, như truyện dài Rồng Rắn của Lê Thị Huệ dẫn nhập. Trò Rồng Rắn được trẻ con tham dự đông đảo nhất, cũng ôm eo ếch nối dài làm con rồng, vừa chạy vòng vòng vừa cùng đọc: Rồng rắn lên mây có cây xúc xắc Xúc xắc xúc xẻ … Có thầy thuốc ở nhà không? Một trẻ lớn làm ông thầy thuốc cầm quạt nan phe phẩy đi ra, đủng đỉnh hỏi: Thầy thuốc: - Rồng rắn đi đâu? Rồng rắn: - Rồng rắn đi lấy thuốc cho con. Thầy thuốc: - Con lên mấy? Rồng rắn: - Dạ, con lên một. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên hai. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên ba. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên bốn. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: ….. Thầy thuốc: ….. Rồng rắn: - Con lên chín. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên mười. Thầy thuốc: - Thuốc ngon vậy! Xin khúc đầu! Rồng rắn: - Những xương cùng xẩu! Thầy thuốc: - Xin khúc giữa! Rồng rắn: - Những máu cùng me! Thầy thuốc: - Xin khúc đuôi! Rồng rắn: - Tha hồ mà đuổi! Đến đây thì đoàn rồng rắn vẫn ôm eo ếch nối nhau chạy đuổi bắt ông thầy thuốc cho kỳ được mới tan cuộc, giữa những tiếng vỗ tay reo hò cổ võ của những người đứng xem, trong số có những bà mẹ chứng kiến con mình lớn khôn trong tập thể, trong cộng đồng. Bài đồng dao này có giá trị như một bài sấm, một bài học lịch sử, và cũng là một bài luân lý giáo khoa thư nói lên tình đoàn kết nhất trí của Rồng Rắn, toàn dân quyết giữ gìn trọn khối chung, đánh đuổi quân xâm lược lăm le chiếm đất đai, đã hớt khúc đầu Nam Quan, lại xén đoạn giữa Trường Sa và gây tai hại đồng bằng Cửu Long miền Nam. Những bài đồng dao và trò chơi trẻ con góp nhặt ở đây chưa đầy đủ và cần bổ túc, nhưng có chủ đích góp phần gìn giữ kho tàng văn học dân gian trước khi bị thất truyền hay quên lãng, chôn vùi dưới hàng hàng lớp lớp đồ nhựa lắp ráp máy móc Toys ‘R’ Us, CDs, DVDs, video games, PC Games, puzzles, dominos, bingo, i-pods, cell phones … và vô số trò khác ào ạt trên mạng lưới điện tử của thời đại @ còng. Ngay tại các nước Âu Mỹ, nhiều tài liệu cũng sưu tầm ghi lại trò chơi trẻ con kèm những ballads, là thơ xưa từ thế kỷ XV/ XVI được phổ nhạc có điệp khúc lập đi lập lại, và Shakespeare từng trích dẫn vào tác phẩm. Chúng ta đang ở đầu thế kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi này mong còn được đôi khi lần giở trước đèn, để may ra có người mở trang sách cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững những trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào xã hội. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Học làm NGƯỜI. Trần thị Lai Hồng Từ tiểu bang xanh 1987 qua Hoa bang 2007 Tài liệu tham khảo: - Ban Văn Học Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt nam Tự Điển, Mặc Lâm xuất bản, Hà Nội 1931 - Henry Oger, La Technique du Peuple Annamite, NXB Jouve & Cie, Paris 1908 - Hùinh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Imprimerie Rey, Curiol &Cie, Saigon 1895 - Hướng Đạo Ca, Kỷ niệm70 năm Hướng Đạo Việt Nam 1930-2000 - Jack Maguire, Hopscotch, Hangman, Hot Potato & Ha,Ha, Ha, Rockefeller Center, 1990 - Lê thị Huệ, Rồng Rắn, Lũy Tre Xanh xuất bản, San José 1989 - Lư Nhất Vũ/ Lê Giang, Tìm Hiểu Dân ca Nam bộ, NXB TPHCM, 1983 - Mệ Bê, tài liệu sống, San Diego, CA - Mệ Nguyễn Đề, tài liệu sống, West Palm Beach, FL - Minh Hiệu, Tục ngữ Dân ca Mường Thanh Hóa, NXB Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội 1999 - Nguyễn Mạnh Hùng, Ký họa Việt nam, NXB trẻ, Saigon 1989 - Nguyễn Như Ý, Đại Tự diển Tiếng Việt, Bộ Giáo dục và Dân Tộc, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn Hóa CHXHCN, Hà Nội 1998 - Nguyễn Tấn Long/Phan Canh, Đất Lề Quê Thói, NXB Sống Mới, Saigon 1970 - Nguyễn Thuyết Phong and Patricia Shehan, From Rice Paddies and Temple Yards: Traditional Music of VietNam, World Music Press 1989 - Nguyễn Trúc Phượng, Văn học Bình dân, Nhà Sách Khai Trí, Saigon 1964 - Nguyễn Văn Vĩnh, Trẻ Con hát Trẻ Con Chơi, NXB Alexandre de Rhodes, Hà Nội 1943 - Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Thi Ca Bình Dân Việt Nam, NXB Sống Mới, Saigon 1978 - Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Tục Ngữ Phong Dao, NXB Vĩnh Hưng Long, Hà Nội 1928 - Trần Quang Đức, 175 Trò Chơi Tập thể, NXB Thanh Niên, Hà Nội 2006 - Trương Anh Thụy, Trường ca Lời Mẹ Ru, NXB Cành Nam 1989 - Trương Tửu, Kinh Thi Việt Nam, Tủ Sách Văn Hóa Hàn Thuyên, Saigon 1940, Xuân Thu tái bản Houston, TX - Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ và Dân ca Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội 1956 - William Wells Newell, Games and Songs of American Children, Dover Publications, Inc. New York 1903 Nguồn: http://www.gio-o.com/TranThiLaiHong1 like
-
Mẩu truyện Thiền số 1 KHÔNG NƯỚC - KHÔNG TRĂNG Ni cô Chiyono đã tu học nhiều năm, nhưng vẫn chưa đạt được gì cả. Một đêm, cô quẩy đôi thùng xuống suối múc nước. Khi cô gánh nước trở về tu viện, cô vừa đi vừa ngắm ánh trăng soi rọi xuống mặt nước trong thùng. Bất thình lình, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng trăng tan biến, không còn gì nữa và Chiyono hoát nhiên giác ngộ tâm linh. Cô đã viết bài thơ: Bằng cách này hay cách khác, tôi đã kềm giữ đôi thùng nước, Mong rằng chiếc đòn gánh giòn yếu kia sẽ không gãy Bất chợt, dây đứt thùng văng, Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước, Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì, Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì!".1 like
-
Bắc Kim Thang Bắc kim thang cà lang bí rợ Cột qua kèo là kèo qua cột (có người hát là: "Cột bên kèo là kèo bên cột") Chú bán dầu qua cầu mà té Chú bán ếch ở lại làm chi Con le le đánh trống thổi kèn Con bìm bịp thổi tò tí te tò te. ____ Thưa bác Thiên Sứ, không biết có phải bài này không ạ?1 like
-
NÉT ĐẸP TRUYỀN THỐNG TRONG CÁC TRÒ CHƠI DÂN GIAN Cập nhật: 25/1/2012 14:24 Mỗi khi tết đến xuân vê, những người dân quê lúa Thái Bình lại nô nức đón xuân vui tết bằng những lời ca tiếng hát và những trò chơi dân gian độc đáo đặc trưng riêng của vùng quê chiêm chũng, thuần nông. Việc tổ chức trò chơi dân gian truyền thống trong dịp tết Nguyên đán không chỉ tạo ra không khí vui tươi, phấn khởi mà còn góp phần gìn giữ nét đẹp văn hoá truyền thống quê hương. Cứ vào ngày mùng 2, mùng 3 tết hàng năm, tại một cái ao lớn trước sân đình tại xã Vũ Chính, tỉnh Thái Bình, lại diễn ra trò chơi “cơm thi - bắt vịt”. Người tham gia chơi được chia thành hai đội cả nam và nữ, mỗi đội 10 người. Ban tổ chức cắm 10 cây tre ở dưới ao và để 2 quả trứng vào bất kỳ chân của cây tre nào, sau đó thả 2 con vịt xuống ao. Khi nghe hiệu lệnh từ Ban tổ chức, bỏ qua cái lạnh cắt da cắt thịt của thời tiết, 2 người của 2 đội chơi nhảy xuống ao để mò trứng ở các chân cây tre, đội nào mò được trứng trước thì đưa về cho Ban tổ chức. Lúc này, Ban tổ chức cho phép những người còn lại của đội đó được đổ thóc vào cối giã để lấy gạo, đồng thời lúc này người ở dưới ao mới được phép vây bắt vịt. Khi người ở dưới ao bắt được vịt thì đồng đội ở trên bờ bắt đầu cuộc đua lấy bật lửa. Việc lấy bật lửa là phần chơi vô cùng khó khăn và được chờ đợi nhất vì nó được để ở ngọn một cây chuối hột cao khoảng 4 mét, trên thân cây được trát bùn xung quanh. Trong tiếng trống đánh dồn đập và tiếng hò reo cổ vũ của người xem, người trèo lên cây chuối phải rất khó khăn mới lấy được bật lửa vì cứ trèo lên một bước thì lại bị tụt xuống 2 đến 3 bước vì thân cây quá trơn. Khi lấy được bật lửa cũng là lúc bộ phận giã gạo đã xong, lúc này gạo được sàng sảy sạch sẽ, vo thật trắng và cho vào nồi đất, đổ nước nấu cùng với quả trứng vừa mò được ở dưới ao. Nồi đất được đưa vào quang sắt, hai người khiêng ở hai đầu đòn khênh, một người cầm đuốc đốt ở dưới, việc nấu cơm phải di chuyển trên đoạn đường dài 500m. Khi quay trở lại vị trí ban đầu cũng là kết thúc trò chơi. Các đội chơi mang vào khu Di tích lịch sử văn hoá thắp hương, sau đó Ban tổ chức kiểm tra, chấm điểm, đội nào cơm chín đều, dẻo, ngon, không khê, sống; trứng phải chín là thắng cuộc. Phần thưởng rất khiêm tốn, chỉ vài chục ngàn đồng song đội nào đội ấy rất vui vẻ, họ kéo nhau về tập trung giết vịt liên hoan. Ngoài trò chơi “Cơm thi - bắt vịt” thì vào các ngày từ mùng 3 đến mùng 8 tết, nơi đây còn diễn ra nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn khác như: leo cầu phao, vần củ chuối, vật võ, đánh cờ, cướp cầu… Các trò chơi đều được tổ chức trên nền hình thức hát trống quân, đối đáp nhau về các sản vật chỉ có ở trong làng mình. Nhưng có lẽ trò chơi được đông đảo bạn trẻ, trai gái trong làng, thậm trí là các em bé “mê” nhất là “Đánh đu”. Ngay từ những ngày trước tết (khoảng 27-28 tháng Chạp), làng cử một nhóm trai đinh khoẻ mạnh đi tìm chọn những cây tre to, đẹp nhất và không bị sâu bệnh về để dựng cột đu. Cây đu thường được dựng ở khu bãi đất rộng trước sân đình, chùa của làng. Cây đu được cấu tạo gồm 4 cây tre lớn tạo thành 2 trụ đu, bàn đu và thượng đu. Thượng đu làm bằng thanh tre ngang nối 2 phần trụ đu với nhau. Tay đu là 2 cây tre già, nhỏ vừa với tay cầm và được chốt rất chắc chắn để người đu cầm được khi đu, bàn đu là chỗ để người chơi đặt chân đứng lên đó. Có nhiều cách đu nhưng phổ biến nhất vẫn là đu đơn và đu đôi; đu đơn là đu một người, đu đôi là đu hai người. Đu đơn nữ thường thể hiện sự nhịp nhàng, nhẹ nhàng và duyên dáng của người chơi, đu đơn nam thường thể hiện sự khoẻ mạnh, bay bổng và thường đu cao tít lên. Đu đôi gồm có đôi nam, đôi nam nữ. Tuy nhiên đẹp nhất, hấp dẫn và thích thú nhất vẫn là chơi đu đôi nam nữ, bởi giữa đất trời mùa xuân, vạn vật, hoa cỏ đang khoe sắc đua hương, những đôi trai gái đang độ tuổi xuân thì đều phơi phới đam mê muốn kết duyên, tìm bạn. Chơi đu đôi nam - nữ thể hiện rất rõ quan niệm cổ xưa có âm -dương, trời - đất, núi - sông, nam - nữ giao hoà… khiến cho cảnh vật, không khí ngày xuân thêm bay bổng, nhịp nhàng và hứng khởi hơn. Hai người lên đu quay mặt vào nhau, dùng tay vịn thân đu, dùng sức nhún từ đôi chân đẩy cho đu bay bổng, càng vượt cao càng hay và giật giải treo trên ngọn đu. Nhiều nơi treo giải thưởng ở ngang ngọn đu để người đu giật giải. Nhún đu cũng là một sinh hoạt giao đãi tình cảm của trai gái. Chơi đu là trò chơi mang tính phổ biến và dân dã ở nhiều vùng nông thôn, không phân biệt đẳng cấp, giới tính, lứa tuổi…, ai cũng có thể tham dự. Chính vì vậy, trò chơi này luôn thu hút đông người tham gia, cổ vũ làm không khí ngày xuân ở những làng quê thêm sôi động, vui tươi. Không khí đua tài náo nhiệt của các trò chơi dân gian trong lễ hội đầu năm còn diễn ra ở khắp các vùng khác trong tỉnh như: xã Kiến Xương có trò vần củ chuối, đấu cờ người; xã Đông Hưng có trò ném pháo đất, cơm thi - bắt vịt… Mặc dù phần thưởng dành được trong những cuộc chơi ngày Xuân có giá trị kinh tế chẳng đáng là bao nhiêu nhưng người chơi nào cũng cố gắng hết sức để giành được giải thưởng cao nhất, vì theo quan niệm dân gian nếu giành giải thưởng đầu xuân năm mới thì sẽ gặp được nhiều điều may mắn trong năm đó. Cứ mỗi dịp tết đến, xuân về nam thanh, nữ tú trong làng Tống Vũ quê tôi lại rủ nhau chọn lựa những cây tre ưng ý, tìm những con vịt to khoẻ, những mẻ gạo ngon để chờ ngày khai hội đình làng. Ông Trần Văn Tín, Trưởng ban Văn hóa xã Vũ Chính, tấm tắc: “Qua các trò chơi dân gian ở mỗi lễ hội giáo dục tinh thần đoàn kết tình làng nghĩa xóm của người dân quê tôi, dù cuộc sống hiện đại với nhiều trò chơi công nghệ cao nhưng đã là con em xã Vũ Chính thì dù đi làm ăn nơi đâu, đến ngày tết cũng tha thiết nhớ về quê hương, nhớ về các trò chơi dân gian đã gắn bó với họ suốt thời thơ ấu…”. Bởi thế mà đến ngày nay, các trò chơi dân gian ấy vẫn được duy trì và ngày càng được tổ chức phổ biến ở nhiều vùng miền khác trên cả nước như: Nam Định, Bắc Giang, Hải Dương… Ngọc Hà, http://www.anhp.vn1 like
-
Bài thơ này RQ đã đọc qua và cảm thấy rất thích. Giá người con nào cũng yêu thương người mẹ Nhưng nhiều người con lại yêu thương vợ/chồng họ hơn mẹ của họ và sẵn sàng bất hiếu (hay họ ko biết họ đang bất hiếu?) Cô Wild có xem chương trình này bao giờ chưa ạ Cháu coi và hoàn toàn không đồng tình với clip này chút nào http://www.youtube.com/watch?v=sZYJQZKsODo1 like
-
Năng Lượng Của Sự Sống
Guest liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tốt lắm! Cứ việc tư duy sáng tạo, kể cả ý tưởng bị coi là thần kinh. Miễn là không phạm pháp và không xâm phạm quyền lợi người khác. Bản thân tôi nếu không thành công cũng có thể bị coi là thần kinh nặng. Hi.1 like -
Nhớ tuổi thơ quá ! Bắn bi. (Ảnh trong chủ đề Ha Noi) Trò nhảy nụ xoè hoa. (Ảnh trên trang cá nhân Lê Hà Phương) Trò rồng rắn lên mây. (Ảnh trên trang Ấu thơ trong tôi là...) Trò ô ăn quan. (Ảnh trên trang cá nhân Annabel Nguyen) Ngày bé được mẹ/bà chở đi chợ, ngồi trong giỏ xe. (Ảnh trong chủ đề Ha Noi) Một trong những chiêu trò "dữ dội" nhất tuổi thơ: bắt chuồn chuồn cắn rốn để biết bơi. (Ảnh trên trang cá nhân Bống Xinh) Trò chơi trốn tim, ai đã từng "ti hí" như thế này? (Ảnh trên trang cá nhân Hưng Nguyễn) Chọi cỏ gà. (Ảnh trên trang Ha Noi) Tết hình lá dứa, lá cọ. (Ảnh trên trang Ha noi) Chiếc phiếu bé ngoan đơn giản, in hình bông sen hoặc hình Bác Hồ, cùng chữ "Bé Ngoan" rất có thể sẽ chỉ còn là kỷ niệm. (Ảnh trên trang Ha Noi) Kẹo kéo. Ngày trước, trẻ em đem đổi nhôm đồng, sắt vụn và giày dép hỏng lấy kẹo. (Ảnh đăng trên trang cá nhân Nguyễn Hiệp) Nhớ kẹo kéo xưa. Chương trình quen thuộc dành cho trẻ em tuổi 8X, phát sóng vào giờ ăn cơm buổi tối. (Ảnh trên trang cá nhân Việt Anh) Lớn lên, nhiều bạn trẻ vẫn đi tìm những lý giải cho hồi ức tuổi thơ.1 like
-
Trò chơi ném còn Quả "còn" hình cầu to bằng nắm tay trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông cho sợi dệt vải). Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và có tác dụng định hướng trong khi bay. Sân ném còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây tre (hoặc vầu) cao, trên đỉnh có “vòng còn” hình tròn (khung còn), khung còn một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Cả mặt giấy là biểu tượng cho sự trinh trắng của người con gái. Người chơi đứng đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột là thắng cuộc Mở đầu cuộc chơi là phần nghi lễ, thầy mo dâng hai quả còn làm lễ giữa trời đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no ấm. Sau phần nghi lễ, thầy mo cầm hai quả còn đã được “ban phép” tung lên cho mọi người tranh cướp, khai cuộc chơi ném còn năm đó. Các quả còn khác của các gia đình lúc này mới được tung lên như những con chim én. Trước khi khép hội, thầy mo rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ (âm - dương). Ném còn làm cho người trong cuộc hào hứng, người đứng ngoài hò reo cổ vũ khiến không khí cuộc chơi rất sôi nổi, hấp dẫn. Ném còn là trò chơi không những thu hút nam nữ thanh niên mà nhiều người lớn tuổi cũng rất thích. Trò vui này mang ý nghĩa phồn thực, cầu mong giao hoà âm - dương, mùa màng tươi tốt. Thiếu nữ chơi trò ném Còn truyền thống. Đánh quay (đánh cù) Gọi là đánh quay, chơi quay, đánh cù. Trẻ em miền Nam gọi là chơi đánh bông gụ hay chơi gụ. Đánh quay là trò chơi dành cho con trai. Chơi thành nhóm từ 2 người trở lên, nếu đông có thể chia thành nhiều nhóm. Một người cũng có thể chơi quay, nhưng nếu chơi nhiều người và có nhiều người ở ngoài cổ vũ thì sẽ sôi nổi và hấp dẫn hơn nhiều. Đồ chơi là con quay bằng gỗ hay sừng hình nón cụt, có chân bằng sắt. Dùng một sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh cho quay tít. Con quay của ai quay lâu nhất, người đó được. Có thể dùng một con quay khác bổ vào con quay đang quay mà nó vẫn quay thì người chủ của con quay đó được nhất. Trẻ nhỏ đánh quay Trổ tài đánh quay1 like
-
Hé lộ bí ẩn vì sao cô gái chết trước cổng chùa mặc đồ tu 'hiện hình' trên điện thoại Những câu chuyện liên quan đến cái chết của cô gái treo cổ tự vẫn ở cổng Tam quan, chùa Thanh Sơn đến tai nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, và những điều bí ẩn dần dần được hé mở… Sự trùng hợp kỳ lạ… Ông Đặng Văn Triều, công tác tại tổ chức Unesco Phương Đông, chủ nhân của chiếc điện thoại xuất hiện hình ảnh người con gái kì lạ cho biết: "Sau khi trở về từ chùa Thanh Sơn, tôi đã mang những hiện tượng kỳ lạ như cái chết của con rắn lạ tại sảnh trước lối vào động Thanh sơn; chuyện nhóm thợ xây giết, cắt tiết và treo cổ con vật kỳ quái tại cổng Tam quan trước khi cô gái mất một ngày và việc hình ảnh cô gái ấy xuất hiện trong điện thoại của mình cùng chuyện ông sử dụng "năng lượng tia lửa đất" để cầu siêu cho linh hồn cô gái trẻ ra sao, trao đổi với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Sau khi nghe xong câu chuyện, lập tức ông Hải đã thuyết phục tôi trở lại chùa Thanh Sơn một lần nữa. Khi tôi cùng nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải và một số người khác trong đoàn trở lại chùa Thanh Sơn để nghiên cứu sâu hơn về sự việc thì đã phát hiện ra rất nhiều sự trùng hợp kỳ lạ". Trước thông tin còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn này, PV đã liên hệ và có cuộc trao đổi trực tiếp với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải: "Quả thực sau khi nghe ông Triều kể lại toàn bộ những hiện tượng kì lạ xung quanh cái chết của cô gái treo cổ tự vẫn tại cổng Tam quan, chùa Thanh Sơn, tôi rất tò mò và cho rằng đây là một hiện tượng kỳ lạ, hiếm gặp nên đã đề nghị ông Triều cùng một số người tổ chức một chuyến đi về chùa Thanh Sơn để nghiên cứu rõ hơn về những hiện tượng kì lạ này. Tại đây, khi đối chiếu hình ảnh xuất hiện trong chiếc điện thoại của ông Triều và bức hình nhà chùa thờ vong cô gái xấu số thì có rất nhiều điểm tương đồng, như cùng một người nhưng ở độ tuổi khác nhau. Khi hỏi tên tuổi cô gái, tôi đã hết sức bất ngờ khi phát hiện tên của người đàn bà này trùng khớp hoàn toàn với tên người vợ đã quá cố của tôi: Nguyễn Thị Yến. Điều kỳ lạ hơn, tên chính xác của vợ tôi khi mới sinh ra được bố mẹ đặt là Nguyễn Định Yến, nhưng khi đi làm giấy khai sinh, không hiểu vì lý do gì người ta lại ghi nhầm sang Nguyễn Thị Yến. Thứ hai, ngày mất của cô gái lại trùng với ngày cưới của vợ chồng tôi. Thứ ba, khi chết cô gái treo cổ tự vẫn ở cổng Tam quan, chùa Thanh Sơn, có đội một chiếc mũ len, mặc bộ quần áo màu nâu trong khi đó lúc thời điểm trước khi vợ tôi qua đời cũng có trùm một chiếc khăn nâu, nhìn tựa giống chiếc mũ mà cô gái kia đội và cũng mặc một bộ quần áo tương tự. Hình dáng lúc cô gái mất, cũng gầy gò, nhỏ bé như vợ tôi vậy. Lúc đó, tôi có linh cảm rằng giữa tôi và cô gái này chắc chắn có một mối liên hệ vô hình nào đó, khó giải thích nổi". Bà NguyễnThị Dận, mẹ của cô Yến. Ảnh: Xuân Thắng. Đi tìm lời giải…Trước những sự trùng hợp hết sức kỳ lạ đó, ông Hải đã gặng hỏi sư thầy Đàm Tịnh, trụ trì chùa Thanh Sơn địa chỉ quê quán nhà cô gái kia. Sau đó, sư thầy Đàm Tịnh đã dùng một mảnh giấy ghi chi tiết những thông tin liên quan, cùng địa chỉ nhà cô gái này để cung cấp cho nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải với nội dung: Tên cô gái là Nguyễn Thị Yến, sinh năm Quý Sửu, thọ 37 tuổi, mất ngày mùng 2 tháng chạp, năm KS (tức ngày 16-1-2010). Địa chỉ quê quán tại xóm Ải, thôn Phí Trạch, xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội và còn cho biết thêm, người nhà đến nhận xác cô Yến tại chùa Thanh Sơn là anh trai Nguyễn Văn Doanh. Khi đã có đầy đủ thông tin về quê quán của cô gái, lập tức đoàn nghiên cứu gồm có 4 người: ông Hải, ông Triều, một luật sư, cùng một nhà ngoại cảm lập tức lên đường tìm về địa chỉ nhà cô gái để tìm những câu trả lời cho những vấn đề còn đang bị bỏ ngỏ. Hôm đoàn nghiên cứu do nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải dẫn đầu về thăm hỏi gia đình cô Yến và tìm hiểu thêm về những vấn đề xung quanh vụ việc thì lại đúng vào ngày gia đình đang làm cơm cúng 100 ngày cho cô gái. Khi được hỏi về bức ảnh xuất hiện trong máy của ông Triều có phải là cô Yến không, thì phía gia đình xác nhận chính là cô Yến nhưng có điều hình ảnh trong chiếc điện thoại không phải là hình ảnh của cô thời điểm khi mất mà là cách đó 10 năm, tức là vào năm cô 27 tuổi", ông Hải cho biết. Trước những câu chuyện hết sức kỳ lạ trên, nhằm cho bạn đọc có một cái nhìn đa chiều và xác thực, PV đã lặn lội tìm về đúng nhà cô gái bí ẩn để tìm hiểu thêm thông tin xung quanh vụ việc. Trao đổi với PV về đề vấn này, bà Nguyễn Thị Dận, 83 tuổi, mẹ đẻ cô Yến cho biết: "Hôm gia đình tôi đang làm cơm cúng 100 ngày cho cháu Yến thì có một vài người đến hỏi chuyện xung quanh cái chết của con gái tôi. Những người này hỏi rất nhiều như ngày tháng năm sinh của con gái tôi là bao nhiêu, tên chính xác là gì, tại sao lại giúp việc ở chùa Thanh Sơn… Khi họ đưa ra một bức hình trong chiếc điện thoại di động và bảo gia đình chúng tôi xác định xem có phải là cháu Yến không. Khi đó, con trai tôi là Nguyễn Văn Doanh, đã xác định hình ảnh trong chiếc điện thoại của những người này chính là cháu Yến, con gái tôi". Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cùng những người bạn của mình thắp hương trước mộ cô gái trẻ. Ảnh: TL Có duyên với cửa Phật…"Tôi sinh hạ được 5 người con, Yến là con gái út. Khi còn trẻ, nó vẫn phát triển bình thường như bao người khác. Đến năm 20 tuổi cháu Yến vào miền Nam để làm ăn, được 2 năm thì trở về. Sau đó, không hiểu tại sao Yến thường xuyên đi chùa chiền, miếu mạo. Thậm chí còn ở lại giúp việc cho các chùa nơi nó đến, rất ít khi về nhà. Mỗi lần về nhà tôi cùng những người trong gia đình thường động viên cháu nên ít đi chùa và lo chuyện chồng con để làm ăn buôn bán. Tuy vậy, Yến không chịu và còn nói nếu mọi người còn nhắc đến chuyện kết hôn lần nữa thì nó sẽ bỏ hẳn nhà lên chùa, không bao giờ về nữa. Nhiều thầy ở các chùa còn bảo, cháu Yến có căn duyên với cửa Phật nên không sống được tại gia mà phải đi các đền chùa, miếu mạo để ở. Trước thái độ cương quyết của Yến, mọi người trong gia đình tôi đành chấp nhận và không dám nhắc đến chuyện đó nữa. Trước khi treo cổ tự vẫn tại chùa Thanh Sơn, Yến đã đi giúp việc cho rất nhiều chùa, trong quãng thời gian 9 năm", bà Dận cho biết thêm. Cô Nguyễn Thị Yến đã giúp việc ở chùa Thanh Sơn được hơn 1 năm trước khi cô treo cổ tự vẫn tại cổng Tam quan vào ngày 16-1-2010. (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PLXH1 like
-
Cô gái chết trước cửa thiền 'hiện hình' trong điện thoại của vị khách đến chùa ngồi thiền Sau khi cô gái chết được khoảng 1 tháng, vào một ngày đầu năm 2010, có một vị khách cùng người bạn của ông đến chùa Thanh Sơn để ngồi thiền.Trong quá trình ngồi thiền, ông khách này đã tắt nguồn chiếc điện thoại di động mang theo. Khi thiền xong ông này vào chùa ăn cơm, khởi động lại máy thì phát hiện trên màn hình điện thoại của mình xuất hiện hình ảnh một cô gái lạ, đang trong tư thế chắp tay lễ Phật… Điềm báo… "Sau khi nhóm thợ xây dựng giết hại và treo cổ con rắn lạ trên cổng Tam Quan trước lối ra vào, sau đó, có một nhà ngoại cảm đến chùa để làm lễ thấy vậy liền khiển trách những người thợ, rằng tại sao ở chốn cửa Phật linh thiêng lại có những hành động sát sinh như vậy. Người này đã yêu cầu nhóm thợ làm cổng hạ ngay xác con rắn xuống và bảo người mang đi chôn cất cẩn thận. Chỉ sau một ngày, cô Yến, người giúp việc trong chùa ra đúng cổng Tam quan treo cổ tự vẫn. Vị trí cô gái treo cổ lại trùng với vị trí mà trước đó nhóm thợ đã treo con rắn lên. Lúc này, mọi người mới sực nhớ đến lời nói của nhà ngoại cảm phán trước đó. Một người giúp việc trong chùa cho biết: "Vì chùa nằm sát núi, nên việc nhìn thấy rắn là chuyện bình thường. Nhưng trường hợp con bị mắc kẹt và chết trước sảnh động Thanh Sơn và con rắn bị nhóm thợ giết treo trước cổng Tam quan thì chưa bao giờ thấy, vì hình dáng của hai con này rất lớn, màu sắc kì lạ". Hình ảnh kỳ lạ… Nhưng có lẽ câu chuyện kỳ lạ, khó giải thích nhất xung quanh cái chết của cô gái trẻ là việc, sau khi mất được một tháng. Vào một ngày đầu năm 2010, khi có một vị khách đến viếng chùa, ngồi thiền trong động Hương Đài, thiền xong người này về nhà ăn chùa Thanh Sơn nghỉ ngơi, khi khởi động điện thoại thì bất ngờ xuất hiện hình ảnh một cô gái trẻ, đầu đội mũ len, đang chắp tay niệm phật. Trước câu chuyện mang nhiều bí ẩn này, PV đã có cuộc trao đổi với chủ nhân của câu chuyện này. Di ảnh cô Nguyễn Thị Yến Người đàn ông này là ông Đặng Văn Triều, làm việc tại Trung tâm Unesco Phương Đông, đồng thời là cộng tác viên thân thiết của Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Trao đổi với PV, ông Triều vẫn nhớ như in cái ngày kỳ lạ đó: Hôm đó là một ngày đầu năm 2010, ông Triều cùng người bạn của mình là ông Nguyễn Đức Chính, có đến chùa Thanh Sơn, thuộc địa phận huyện Mỹ Đức, Hà Nội để ngồi thiền. Do đây là chốn linh thiêng, đặc thù của ngồi thiền cần phải yên tĩnh, nên ông Triều đã tắt điện thoại để tránh bị làm phiền trong quá trình ngồi tĩnh tâm. Hai vị khách ngồi thiền trong chùa Đậu - động Hương Đài, một ngôi chùa cổ nằm sâu bên trong quần thể chùa Thanh Sơn suốt hai, ba tiếng đồng hồ. Ngồi thiền xong, hai vị khách đi ra ngoài nghỉ ngơi và ăn cơm, trên đường đi về nhà ăn của chùa, bất ngờ ông Triều cùng ông Chính nhìn thấy bên vách núi xuất hiện một con rắn màu nâu, hình thù kỳ quái chặn ngang lối đi, lúc đó con rắn còn dựng đứng dậy, mắt nhìn trừng trừng nhìn về phía hai người. Nghĩ chắc là rắn thiêng nên ông Chính đã chắp tay vái còn ông Triều chỉ đứng quan sát, được một lúc con rắn bỏ đi. Thời điểm đó, ông Triều mới lấy điện thoại ra để khởi động lại nguồn, thì lạnh người phát hiện ra trên màn hình điện thoại của mình xuất hiện một cô gái trẻ, đầu đội mũ len, quần áo màu nâu như màu áo của các tăng ni phật tử trong chùa mặc, đang trong tư thế chắp tay niệm Phật. Ông Đặng Văn Triều, chủ nhân của chiếc điện thoại xuất hiện hình ảnh giống với cô Yến. Thấy câu chuyện kỳ lạ, ông Triều đã kể lại với vị trụ trì ở đây thì sư thầy này cũng hết sức kinh ngạc. Lúc đầu, vị trụ trì quan sát rất lâu và có nói với ông Triều rằng, nhìn hình ảnh rất quen không biết đã gặp ở đâu. Sau khi cơm nước xong, ông Triều được trụ trì gọi lên gặp riêng và cho biết, hình ảnh xuất hiện trong điện thoại của ông có rất nhiều nét tương đồng với người con gái đã treo cổ tự vẫn tại chùa trước đó một tháng. Để khẳng định cho những lời nói của mình, trụ trì đã dẫn vị khách đến sảnh trước cửa động Thanh Sơn nơi thờ vong cô gái. Lúc này, khi mang tấm hình xuất hiện trong chiếc điện thoại di động so sánh với bức ảnh cô gái nhà chùa đang thờ thì có rất nhiều nét tương đồng, ông Triều cho biết thêm. Dù gặp phải câu chuyện hết sức kỳ lạ khi đến ngồi thiền tại chùa Thanh Sơn, nhưng đây lại không phải là lĩnh vực ông Triều quan tâm, nghiên cứu nên ông không thật sự để tâm. Cho đến một ngày, ông đem câu chuyện này kể lại với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thì những bí ẩn đằng sau đó dần dần được hé mở… (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PL&XH1 like
-
Nét riêng ngày Tết Đoan Ngọ ở Hàn Quốc Ngày lễ diễn ra vào mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, tương đương với Tết Đoan Ngọ ở ta đã có từ rất lâu đời tại Hàn Quốc. Người dân xứ sở kim chi này gọi nó là ngày lễ Dano, hay Suritnal. Mỗi ngày lễ có một đặc trưng riêng khác biệt mà chỉ cần nhắc tới, ta cũng có thể dễ dàng nhận ra. Và Dano cũng không phải trường hợp ngoại lệ… Số 5: Với người Hàn Quốc, con số 5 là biểu tượng của sức mạnh, sự cường tráng. Ngày lễ Dano cũng diễn ra vào ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, sau khi thu hoạch lúa mạch và bắt đầu cấy lúa. Đây là lúc người dân Hàn cầu nguyện cho một mùa màng bội thu, không bị sâu bệnh phá hoại. Cùng với Tết Nguyên Đán (Seol) và Tết Trung Thu (Chuseok), Dano là một trong ba ngày lễ lớn nhất của Hàn Quốc. Mọi người có thể nghỉ ngơi thư giãn, ca hát, vui chơi sau một mùa vụ để chuẩn bị bước vào giai đoạn mới. Gạo: Gạo là nguyên liệu chính của Suritteok và Yaktteok - hai món bánh truyền thống trong mỗi dịp lễ Dano. Suritteok làm từ lá ngải cửu luộc chín, đem nấu chung với loại gạo không dính. Bánh có màu xanh và được nặn thành hình bánh xe. Còn Yaktteok là một loại bánh gạo với nhiều loại hạt khác nhau, được coi là một đặc sản của vùng phía Nam tỉnh Jeolla. Cây diên vĩ. Cây diên vĩ: Theo phong tục, trong ngày lễ Dano, phụ nữ Hàn Quốc phải gội đầu bằng nước cây diên vĩ đun sôi. Bởi họ tin rằng loại dầu gội đầu bằng thảo mộc này sẽ làm tóc suôn mượt óng ả. Những chiếc cặp tóc cũng mang màu đỏ nhuộm bằng rễ cây diên vĩ. Đàn ông thì quấn rẽ cây này xung quanh thắt lưng để bảo vệ mình khỏi tà ma và những linh hồn xấu rình rập. Mặc dù bắt nguồn từ Tết Đoan Ngọ của người Trung Quốc, song lễ Dano của người Hàn lại có những điểm khác biệt về cơ bản. Đu quay: Trò chơi dành riêng cho phụ nữ. Cũng như nhiều nước châu Á khác, ở Hàn Quốc đu quay là trò chơi dân gian đã tồn tại từ rất lâu đời. Và đây cũng là trò chơi được ưa thích trong dịp Tết Dano. Ssireum: Đấu vật - Ssireum tên một môn thể thao lâu đời nhất của Hàn Quốc, là biểu tượng cho nhuệ khí, tinh thần của người dân xứ Hàn. Đây là trò chơi dành cho nam giới, thể hiện kĩ thuật và sức mạnh cơ bắp. Ssrieum cũng phân ra làm 3 hạng cân: Han La – hạng nhẹ, Baek Du – hạng nặng và Chun Ha – hang mở rộng. Khu vực thi đấu là một vòng tròn viền cát dày. Hai đối thủ quỳ trên cát, nắm chặt satba (một loại thắt lưng của người Hàn Quốc) của đối phương. Hai đấu vật sẽ phải đứng dậy trong khi vẫn nắm chặt satba của đối phương. Người thắng cuộc sẽ là người hạ đo ván đối thủ dưới đất, với điều kiện không một bộ phận nào của cơ thể đối thủ được cao hơn gối của người thắng. Phần thưởng cho nhà vô địch trong cuộc thi này là một con bò to khỏe. Quạt: Người Hàn Quốc có câu “Dano tặng quạt, đông chí tặng lịch”. Bởi lễ Dano được tổ chức trùng với những ngày đầu mùa hè, nên quạt được coi là món quà truyền thống mà người Hàn vẫn tặng nhau trong dịp này. Phong tục này đã đươc hình thành và duy trì từ thời kì vua Joseon. Thậm chí, chính nhà vua cũng tặng quạt cho các cận thần theo chức vụ từ cao tới thấp. Di sản văn hóa: Tuy vẫn được cho rằng có nguồn gốc từ ngày lễ Dragon Boat của Trung Quốc và giống với Tết Đoan Ngọ của Việt Nam, nhưng Dano vẫn mang trong mình những ấn tượng riêng khác biệt. Phong tục truyền thống này của xứ Hàn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Nguon MonngonHanoi.com ================================== Theo bài trên, dễ dàng thấy rằng có 3 điểm hoàn toàn tương đồng với văn hóa người Việt 1. Tết Đoan Ngọ của Hàn Quốc diễn ra vào ngày mồng 5 tháng 5. 2. Dùng gạo làm bánh có hình bánh xe (hình tròn) 3. Chơi đu quay 4. Đấu vật Tổng lại ta có nhưng hình ảnh tương đồng rỏ nét của 3 dân tộc Việt - Nhật - Hàn: Hình ảnh đấu vật của người Việt xưa Hình ảnh đấu vật của người Việt nay Sumo Nhật Bản đấu vật Hàn Quốc Thiên Đồng1 like
-
VẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI Phan Quỳnh Đấu vật là một hoạt động dùng sức không có phương tiện , dụng cụ nào ngoài tài khéo nhanh nhẹn , nghệ thuật , dẻo dai và sức lực nhằm thi thố tài năng quật ngã nhau giữa hai đối thủ gọi là Đô hay Đô Vật . Khác với đánh võ bàn tay luôn luôn cứng, khi giao đấu các đô vật hai bàn tay mở xòe và mền mại , hầu dễ dàng cầm nắm , quăng quật . Những đô vật nổi tiếng hay bậc thầy được tôn là Trạng Vật . Tại những làng thôn có nhiều đô vật giỏi , hoặc có nơi đào tạo được nhiều đô vật , có thầy dạy hẳn hoi , gọi là Lò Vật . Vật là một bộ môn thể thao rất được ưa chuộng trong giới nông dân Việt Nam thời xưa . Những ngày đầu của mùa Xuân thuở thanh bình hay những buổi hội hè đình đám nơi thôn dã, dân làng thường tổ chức những cuộc vui như hát quan họ, thi nấu cơm, chọi trâu, đá gà, đánh đu, kéo co, bắn nỏ, đánh gậy trung bình tiên, đấu vật, v.v... Nhất là đấu vật, mở hội ngày Xuân mà không có thi vật thì thật là thiếu thú vị của những ngày Tết. Trống vật nổi lên là có sức thu hút mọi người , già , trẻ , gái , trai , đủ mọi tầng lớp nô nức đến bao quanh đấu trường ; người ta bình luận say sưa , chê khen rành rọt từng thế , từng miếng vật , từng keo vật từng tác phong của mỗi đô . Bộ môn vật , ngoài tính cách giải trí vui chơi , còn là một môn thể thao hữu ích, giúp thanh niên trong làng thêm cường tráng, thêm nghị lực , lòng dũng cảm , để giữ làng , giữ lúa và giữ nước. Đấu vật đã trở thành một tục lệ , một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam . Bức tranh dân gian Du Xuân Đồ đã miêu tả sống động cảnh tượng sinh hoạt văn nghệ , thể thao của nhân dân Việt Nam xưa vào dịp đầu Xuân với lời thơ chú thích : Một cảnh vật của Sumo Nhật Bản có nét hoàn toàn tương đồng với mộn đấu vật của người Việt Thái bình mở hội xuân , Nô nức quyết xa gần , Nhạc dâng ca trong điện , Trò thưởng vật ngoài sân Ca dao vùng Sơn Nam có câu : Ba năm chúa mở khoa thi Đệ nhất thi vật , đệ nhì thi bơi, Đệ tứ thi đánh cờ người , Phường Bông tứ xứ mồng Mười tháng Ba . Ngay từ thời xa xưa, khi mới có của bộ môn này tại nước ta , vật đã được coi là một phương pháp dùng để luyện sức , đo tài , chọn người ra giúp dân giúp nước . Điều đó đã thể hiện ngay trong kỹ thuật , phong cách và lối chơi . Theo Pierre Gourou, tác giả sáchø "Les Paysans Du Delta Tonkinois" tái bản tại Paris năm 1965 (1), thì tại đồng bằng sông Hồng có nhiều làng, ví dụ làng Hà Lỗ tỉnh Bắc Ninh, có tục "đặt ruộng", dành riêng một số Công điền của làng cho làm rẽ, cho thuê thu tô để có tiền tổ chức Hội Vật hàng năm. Thật vậy , xưa kia ở nước ta chẳng mấy nơi không có lò vật . Có những lò vật vang lừng xứ Bắc như lò vật Guột , Tri Nhị , Gia Lương (Bắc Ninh), lò vật Đông Kỵ (Đồng Quang, Từ Sơn , Bắc Ninh) lò vật Thụy Lâm (Đông Anh, Cổ Loa) , lò làng Yên ( Yên Mẫn, Châm Khê , Võ Giàng ) lò Liễu Đôi (Nam Hà) , lò Phú Thọ , Vĩnh Phúc Yên , Nam Định, Hưng Yên ,Hải Phòng, lò vật Thường Tín, lò Thanh hóa, Nghệ An , vân vân . Hội Vật làng Sình (xã Phú Mậu , huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên) hàng năm mở hội vào ngày 10 tháng Giêng Âm lịch thu hút nhiều đô danh tiếng miền Trung. Lại có lò cứ 12 năm mới mở Hội Vật một lần, ví dụ lò vật Trà Lữ thuộc trấn Sơn Nam cũ, cứ đúng năm Mùi mới lại mở thi Vật, nơi tranh hùng của các đô vật bốn phương , háo hức về giật giải. Nhưng cũng có làng khi mở hội đình rángù tổ chức đấu vật vẫn không thành , theo các cụ già xưa , nếu nơi naò không phải là đất vật thì khó có thể lập nổi sân vật mà các tay đô vật giỏi cũng không đến tranh giải. Đền Lý Bát Đế , thờ tám vị vua nhà Hậu Lý (từ năm 1010 đến năm 1225) tại Đình Bảng (Bắc Ninh), có tượng hai ông Đá Rãi, hai đô vật nổi tiếng. Các bô lão Trường Yên Ninh Bình rất tự hào về những ngày hội lớn hàng năm ở địa phương mình : Hội đền vua Đinh , Hội chùa Trường Yên , Hội Cờ Lau tập trận. Trò vui lớn nhất của những hội này là trò đấu võ, đấu vật. Những đô và những thày dậy võ họ Đinh, họ Bùi, họ Vũ cha truyền con nối, làm vẻ vang làng xóm . Dưới đây, chúng ta thử hướng về lối vật của người nông dân Việt Nam thời xa xưa. I/. TẬP LUYỆN. 1/. Quanh năm, xong việc đồng áng , được lúc nào rảønh rỗi, trai tráng trong làng thường rủ nhau tập dượt võ thuật hay vật, họ chỉ bào lẫn nhau, ai có miếng võ nào hay, ngón vật nào độc đáo thì lại truyền dậy cho anh em cùng tập. Những ngày giáp Tết Nguyên Đán, nếu trong làng có ông thày võ, họ đến tụ tập tại nhà ông thày để luyện tập thêm ; làng nào không có thì cử người đi đón thày ở lò võ , lò vật các làng lân cận về để dậy. Trang phục khi tập luyện cũng như khi lên đài đấu của các đô vật là đóùng có mỗi một cái khố và ởû trần, không có đai đẳng gì cảø, trên đầu chít khăn đầu rìu hay chít khăn bỏ tua . Khố là một miếng vài dài được cuốn vào như một cái quầøn sì-líp. Khố có nhiều màu, nào đỏ, nào xanh, nâu hay vàng, hồng, tím, . . . 2/. Kỹ thuật và Nghi lễ . Trước hết, các đô vật được tập cách luyện thể lực cho dai sứ, mạnh tay mạnh chân, cách đứng thủ thế nào cho vững chắc , cách “lồng tay tư”sao cho có ưu thế và những bộ pháp như cách di chuyển từng bước chân, khi tới, khi lui, khi bước ngang, bước xéo, xoay vòng, ... Họ còn được tập luyện cách té ngã thế nào cho khỏi đập đầu xuống đất , khỏi gẫy tay, tập cách né tránh, thoát hiểm, “ cầu vồng “, kể cả những nghi thức có tính cách tôn giáo dành riêng cho mỗi lò vật, như Múa Hoa, Xe Đài hay còn gọi là Ra Giàng, hoặc Múa Hạc v.v... Ra Giàng , Múa Hạc hay Xe Đài là một lễ nghi thành kính của các đô vật , và còn một hình thức khởi động của đô vật có mang tính dân tộc , vừa là cách trình diễn của đô vật với khán giả, tạo một không khí hào hứng lành mạnh trước khi vào cuộc đấu thực sự. Ngoài ra Ra Giàng , hai bên vờn nhau , còn đánh đòn tâm lý , gây cho đối phương tư tưởng hoang mang , giao động với những lối Ra Giàng hùng dũng , chân đứng hình con hạc , hay đứng theo kiểu con phượng nhích chân , con dang cất cánh hoặc con công múa xòe, cổ tay uốn lượn , ngón tay múa may mền dẻo , uốn éo , giống như những nghi thức tay Ấn tay Quyết của các thầy tế , pháp sư hay phù thủy . Có lẽ nó có nguồn gốc của lễ nghi Tế Thần sau những chiến thắng của các dân tộc Á đông thời thượng cổ bên ngọn lửa thiêng bập bùng trên thuyền chiến hay đồng nội ven ao hồ, sông biển . (Xem Luyện Võ của Phan Quỳnh) . Phải chăng có sự liên hệ nào đó giữa những hình ảnh Ra Giàng hay Múa Hạc của các đô vật vùng đồng bằng Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt Nam mà nhịp chân tiến lên lùi xuống ba bước, bước ngang hai bước với những cảnh chim chóc , cảnh người múa (múa võ?) chạm đúc trang trí trên trống đồng Đông Sơn, hay rõ hơn trống đồng Hoàng Hạ , Ngọc Lũ hay trên thạp đồng Đào Thịnh ? Điểm đáng chú ý là động tác bàn tay những người múa trên trống đồng, thạp đồng đã được thể hiện một cách cường điệu, bàn tay xòe ra hình ba chạc to quá khổ so với người . (Xin mở một ngoặc đơn là một số các dân tộc ở Nam Á và ở châu Á hải đảo chạy dài từ phía nam quần đảo Nam Dương đổ lên vùng đa đảo cực bắc Thái Bình Dương cũng có những nghi thức Ra Giàng giống như các đô vật vùng châu thổ sông Hồng , sông Mã : nghi thức Kanbangan của các võ sĩ Pukalam Pentjack cổ điển ở Indonesia, ở vùng hải đảo Celebes , nghi thức Nagdadasal của các đô vật Dommoq nhóm bộ lạc Tagalog vùng đảo Luzon Phi Luật Tân , nghi lễ Suat-Mon hay Wai-Pá thành kính cầu nguyện lúc thượng đài của các võ sĩ Muay-Tai Thái Lan , các võ sĩ Tỷ-Môi xa xưa ở Ai Lao hay của các đô vật Sumo ở Hokkaido Nhật Bản) . Vật không phải chỉ cần có sức khỏe , có lực để thắng được đối phương , nó còn đòi hỏi phải có thế , có miếng , có kỹ thuật , có mánh lớùi , cộng với sự nhanh nhẹn , chính xác của từng đô vật. Do đó , vật có nhiều thế , nhiều miếng , có những miếng đánh trong tư thế bất ngờ , có những miếng đánh trong lúc giằng co , hoặc đánh trong tư thế nằm (nằm bò) . Dưới đây là một số đòn miếng vật thông dụng : - Kê : dùng hông hoặc vai làm điểm tựa để quăng ngã đối thủ. - Ngáng (hay Cản) : dùng chân quét hay gạt, cản chân đối thủ làm mãt thăng bằng cho té ngã. - Đệm : dùng đầu gối, hay bắp đùi , lót đằng sau chân đối thủ rồi dùng sức mạnh của mình gait , đẩy, sô đối phương té ngửa ra. - Vét : đang vờn nhau, nhử cho đối thủ tiến lại gần, nhanh chóng cúi người xuống, chân trái gập hạ thấp, chân phải rút về sau duỗi thẳng, đồng thời tay phải đưa lên ấn mạnh vào vai trái đốùi thủ, bàn tay bắt chặt lãy khoeo sau chân trái đối thủ giật mạnh về phía mình. - Bắt Để Hớt Gót : Hai đô vật đối diện sát vào nhau (mà chưa lồng tay tư) một người bất ngờ dùng hai tay bắt chặt lấy cánh tay phải đối phương . Chân phải và người lập tức xoay chếch sang phía bên phải , người cúi thấp hai chân dạng ra hai bàn chân rê mạnh và nhanh , lùi chếch về phía sau , đồng thời dùng hai tay kéo mạnh đối phương về phía mình. Khi đối phương đang mất đà hơi chúi về phía trước thì lập tức ta hạ tay trái xuống , từ phía trong dùng bàn tay phải bắt và hất mạnh cổ chân trái đối phương ra đằng sau. Thuận bên nào , làm bên ấy. -Bốc Một Chân : a/ Tư thế bất ngờ : Hai đô vật đứng sát và đối diện , một trong hai người bất ngờ hất hai tay của đối phương lên và người phải nhanh chóng chuồi dài ra phía sau, lúc này chân trái đặt trước , chân phải đặt ở phía sau , đầu cúi xuống , dùng vai ấn vào thân thể đối phương, đồng thời dùng hai tay bốc khoeo chân phải đối phương giật mạnh về phía mình , đối phương bị mất thăng bằng bởi hai lực nên ngã ngửa. b/ Tư thế giằng co : Tay phải bá cổ đối phương , tay trái nắm cánh tay trên , tay phải đối phương, dầu cúi xuống dựa vào gáy phía phải đối phương, chân trái phía trước , chân phỉ phía sau. Đối phương dùng sức nay ta , ta dùng sức nay lại . Đối phương lại cố dùng sức nay ta , ta bất ngờ hạ thấp người xuống và đánh như miếng bốc một chân trong tư thế bất ngờ. -Sườn tay trong : còn gọi là đánh đòn dọc , bất ngờ biến thế thật nhanh, luồn luồn cánh tay phải vào phía trong cánh tay trái đối phương , bàn tay phải lồng vào nách trái đối phương . Tay trái nắm vào cánh tay phải đối phương , ghì vào sát người mình . Đồng thời bước nhanh chân phải về phía trong lòng đối phương , cúi người xuống dùng hông mình hất mạnh đối phương ra phía sau cho ngã . -Đánh Gãy : Đang lồng tay tư , bất ngờ đổi hai tay vào phía trong cánh tay đối phương , bàn tay trái mở nay mạnh vào cổ bên phải , bàn tay phải xốc nách trái đối phương , kéo mạnh về phía mình , đồng thời nghiêng người dùng sườn trái hất mạnh , chân phải hất chân đối phương cho té ngã. -Tay Quai : Đang lồng tay tư , bất ngờ chuyển hai tay vào phía trong hai cánh tay đối phương , tay phải luồn qua dưới nách trái đối phương, tay trái luồn qua trên vai đối phương đều ra sau long và hai bàn tay nắm chắc lấy nhau ghì chặt đối phương . Rồi bất ngờ dùng tay phải nay mạnh đối phương ra sau , cánh tay trái kéomạnh đối phương về phía mình . Đồng thời nghiêng mình dùng sườn phải đánh mạnh và châm phải hất chân đối phương cho té ngã . - Nằm Bò (hay Hạ Thổ) : khi bị xa cớ lỡ miếng hay khi gặp đối thủ mạnh hớn, họ thường nằm sãp xuống mặt đãt, tay chân dang rộng ra, mặc cho đối thủ tha hồ đẩêy, bê, bứng, nhấõc hổng, để rồi liệu cơ hội đánh lừa đối thủ, lợi dụng lúc đối thủ sơ hở thì lập tức chồm dậy tấn công lại. Các miếng Bốc , miếng Gồng , miếng Sườn , ... , có lại có nhiều thế khác nhau : Gồng Đứng , Gồng Quỳ , Gồng Ngồi , Sườn Tay Trong , Sườn Tay Ngoài , Bốc Hai Chân , Bốc Một Chân , vân vân .(2) Tuy nhiên , mỗi lò vật , mỗi địa phương , lại có những thế vật độc đáo , đặc biệt riêng , phong cách riêng , mạnh mẽ , ác hiểm hay uyển chuyển , bay bướm riêng , nổi tiếng trong vùng , nhất là những thế “đánh dịp nhì” . nghĩa là kỹ thuật đánh chống lại , phản lại : chống Bốc , chống Gồng ngồi , chống Mói , chống Cầu vồng , chống Sườn trong , vân vân , ví dụ xưa kia : lò Mỹ Độ (tổng Mỹ Cầu , Phủ Lạng Thương) có miếng chống Vét, chống Gẫy , Lấy Bò , lò Mai Động có miếng Giồng , miếng Mói , lò Yên Sở có miếng Sườn miếng Móc , lò Đồng Tâm (Vụ Bản Nam Định) lại nổi tiếng với những ngón Móc-Chảo, Vỉa Lộn Cối , Giát Bốc , Bỏ Thuốc , Sườn Cặp Cổ , . . . II/-. LỆ VẬT Muốn đánh bại đối thủ trong cuộc đãu vật thì các đô vật phải theo những luật lệ sau đây : 1/. Nhấc bổng địch thủ hổng cảø hai chân lên khỏi mặt đất (“Túc Ly Địa”) được coi là thắng , hổng một chân không kể . 2/. Vật đối phương té ngã ngửa, lưng vai chạm mặt đất thì thắng (“Lấm Lưng Trắng Bụng”), ngã sấp không kể . Vật không có hòa, phải xác định một thắng một thua (thắng tuyệt đối hay thắng điểm). Ngoài ra không được đấm đá , bãm huyệt, móc xương quai xanh , chẹn hàm , bẻ cổ , lên gối, nắm tóc, móc mắt, cù léc, thọc cắn,..., phun nưôc miếng, văng tục, xé khố đối thủ, hay khi bị té ngã rồi không được móc chân cho đối thủ ngã theo, v.v... Thí sinh thượng đài đấu vật không tính tuổi tác hay cân lượng. III/. GIẢI VẬT. Tùy theo địa phương tổ chức, vật có nhiều giải khác nhau, chia hai loại : Giải Thờ và Giải Chính. 1/. Giải Thờ (hay Giải Hàng) Giải thờ còn được gọi là Giải Xông Sới , không có người giữ giải . Ai muốn lên vật thì ghi tên rồi bắt cặp. Ai thắng thì được làng thưởng. Tranh Giải Thờ chỉ là mở• đầu cho ngày Hội Vật, để cho những ai muốn khảo sức nhau thì lên bắt cặp, và có nhiều Giải Thờ trong một ngày. Ở giải này khi vật hai đối thủ thường không dùng hết sức, chỉ cốt phô bày nghệ thuật, vật cho đẹp, cho vui, có khi cả hai cùng té ngã cho cả làng cùng cười. Thay vì họ lừa miếng nhau thì họ lại múa may cho thật mền dẻo để người xem vui mắt.(3) 2/. Giải Chính. Giải Chính có ba giải : giải nhất, giảøi nhì và giảøi ba. Ba giải này đều có người xin giữ . Các đô vật tứ xứ muốn phá giải nào thì xin ghi tên để vật với người giữ giải ấy. Nếu không có ai xin phá giải trong ba ngày, theo lệ làng, thì người giữ giải đương nhiên được lãnh giải mình giữ (Giải Cạn). Trong ba Giải Chính này thì giải ba phải được phá trước rồi mới tới giải nhì, và giải nhất. Về số đối thủ phải đấu thì lệ làng định như sau : - Giải nhất : trong sáu ngoài năm. - Giải nhì : trong bốn ngoài ba. - Giải ba : trong ba ngoài hai. "Trong sáu ngoài năm" nghĩa là ai giữ giải nhất thì phải vật thắng đủ liền sáu người mới được coi là chiếm giải, còn người phá giải thì chỉ cần vật ngã năm đối thủ kể cả người giữ giải . Nếu người giữ giải đã thắng năm keo mà bị thua keo chót thì cũng không được nhận giải . "Trong bốn ngoài ba" hay "Trong ba ngoài hai" cũng tính tương tự như thế.Giải thưởng cho đô vật có nhiều loại cho giải chính , giải hàng , lại có giải chung cuộc cho đô vật nào thắng nhiều điểm nhật trong những ngày Hội Vật Thường thường Giải Chính do đô vật hạng nhất trong làng hay ở các làng khác đến xin giữ . IV/. THƯỢNG ĐÀI . Ngày Hội Vật đầu Xuân đã đến. Trống vật thúc dục làm nao nức lòng người. Già trẻ, trai gái đều bỏ mặc hết mọi công việc nhà, rủ nhau tụ tập đông đảo trưôc sân đình để dự khán. Các đô trong làng đều ghi tên dự thí. Những đô tứ xứ, ở các làng lân cận muốn xin dự thí phải mang lễ vật đến để xin cúng thần . Tùy theo lệ làng, có nơi lễ vật là đĩa sôi gấc, hay nhánh cau với vài lá trầu , hoặc bó hoa, trái cây hoa quả ø, hoặc thẻ nhang,... Bãi cỏ phẳng rộng trước sân đình làng được dùng làm đấu trường , ở giữa được kẻ vạch một vòng tròn , đường kính khoảng 6 mét bằng vôi trắng, vòng tròn này được gọi là sới vật. Có nơi sới vật là hình vuông mỗi cạnh tám mét , có nơi sới vật được đóng dóng bằng tre chung quanh , có nơi sới vật nằm dưới đáy ao nông cạn đã tát hết nước và khơi khô trước sân đình để dân làng , khán giả đứng chung quanh bờ xem cho rõ (sân này còn được dùng để đánh cờ người) . Hai bên sới vật là hai hàng cờ đuôi nheo ngũ hành gồm năm mầu xanh, đỏ đen vàng trắng, mỗi bên năm lá cờ . Các đô vật trong thiên hạ ởû trần trùng trục, chỉ đóng mỗi một cái khố , đầu chit khăn , ngồi thành hai hàng dưôi hai dẫy cờ . Người nào cũng lực lưỡng, bắp thịt nỏ nang rắn chắc. Hai bên tả hữu trước sới vật là hai cái trống cái (trống lớn) , có nơi chỉ dùng một trống thôi , và những hàng ghế danh dự dành cho quí vị chức sắc trong làng và hàng tổng. Hai vị đàn anh trong dân được cử đánh trống cái , gọi là "cầm chịch" , nghĩa là làm nhiệm vụ của trưởng ban Trọng tài cuộc đấu . Giữa hai trống cái đó là bàn thờ thần , và phía dưới , trước mặt bàn thờ , được trải một chiếc chiếu cạp điều để các đô lễ thần trưôc và sau khi giao đãu. Có điều họ lễ thần không bằng cả hai tay như bình thường mà chỉ lễ lên gối xuống gối chống một tay trái thôi. Sau khi múa Ra Giàng , hai đô vật bắt đầu giao đấu. Trống vật liên tục mỗi hồi là ba tiếng. Hai người cầm chịch cứ người nọ đánh ba tiếng dứt thì người kia lại đánh ba tiếng tiếp theo. Các đô vật tài hoa thường dùng các miếng vật vừa đẹp mắt mà vẫn quyết liệt , nghiêm túc và chính xác . Ngay giữa sới vật có ba người tuần đinh, làm nhiệm vụ của trọng tài phụ . Hai trong ba người này , mỗi người cầm một lá cờ đuôi nheo nhỏ phất phẩy làm hiệu lệnh vật, người thứ ba cầm một trống lưng (trống nhỏ) để gõ nhẹ khuyến khích , thúc dục hai đô tấn công tiếp. Keo vật càng trở nên gây cấn, tiếng trống lại mau hơn, người tuần đinh kề hẳn trống vào mang tai các đô để thúc , để cổ võ để nhắc nhở , hai lá cờ đuôi nheo cũng nhộn nhịp phe phẩy không ngừng để giữ trật tự, giãn các khán giả vây vòng mỗi lúc một quá chặt. Khán giảø reo hò , la hét khuyến khích yểm trợï tinh thần "gà nhà", họ dán mắt vào từng miếng bốc , miếng sườn , miếng gồng của các đô , rồi reo lên khi đô nào đó hạ đối phương bằng một miếng đẹp mắt . Keo vật vào hồi quyết liệt , họ , những khán giả sát gần sới vật , nằm xoài ra đất để xem cho rõ . Hai đối thủ nào bá cổ, nào tay nắm tay , hoặc thủ thế, giữ miếng , vờn nhau , . . . Họ ôm lưng, bá vai, ngáng chân, có lúc họ nắm tay nhau giật mạnh rồi buông ra cho té ngã. Cuộc đấu mỗi lúc một gay go, sôi động và hào hứng. Họ lừa nhau từng miếng, từng bưôc chân, từng cách di chuyển, rồi gặp cơ hội thuận tiện họ quật ngã ngửa nhau “lấm lưng trắng bụng” giữa tiếng reo hò ầm ĩ vui vẻ của mọi người ... Giải nhất vừa được phá . Kẻ chiến thắng hiên ngang kiêu hãnh lên lãnh giải . Phần thưởng đôi khi chỉ là ba vuông vải nhiễu điều, gói trà mạn sen (có những Hội Vật lớn , giải chính là một con bò hay con nghé) và một phong pháo toàn hồng được xé ra đốt ngay sau cuộc đấu như chào mừng người vô địch thiên hạ . Sau ba ngày tận sức, tận lực chiến đấu trong tinh thần thượng võ , huynh đệ , các đô lại quây quần dưới mái đình cùng nhau chè chén vui vẻ . V/ TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI Vật cổ truyền Việt Nam đã có từ thời thượng cổ . Truyền thuyết và giai thoại về vật cũng phong phú và đa dạng . Một truyền thống cao đẹp của vật là ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước , các anh hùng dân tộc cứu dân giúp nước phần lớn đều là những đô vật nổi tiếng trong dân gian , được nhân dân kính trọng và thờ phụng mà ngày nay vẫn còn đền thờ : như Lý Ông Trọng (Lý Thân) được thờ ở Chèm , (ngoại ô Hà Nội), như Đô Lỗ (Cao Lỗ) , Đô Nồi (Nồi Hầu) , giúp vua Thục An Dương Vương (năm 257-207 trước Tây lịch) , ngày nay nhân dân vẫn hương khói thờ phụng tại Cổ Loa. Theo Thần tích đền Nghè (Hải Phòng) bà Lê Chân dựng đài thi võ , luyện vật cho ba quân , chiến đấu giúp Hai Bà Trưng (năm 40-43 sau Tây lịch) đánh đuổi quân Đông Hán Trung quốc . Đô Dương , Đô Chinh (Nguyễn Tam Chinh) đã là những bậc thày nổi tiếng trong làng xã trước khi ra giúp Hai Bà Trưng cứu nước . Khi chết , Đô Chinh được nhân dân nhớ ơn, vinh tôn là Thần Hoàng làng làng Mai Động (ngoại thành Hà Nội), thờ phụng cho đến ngày nay và được xưng tụng là ông tổ lò vật Mai Động . Nhân đây cũng xin nêu lên một chi tiết cần tìm hiểu thêm về Thành Hoàng làng Mai Động của các tác giả Văn Hạc trong bài “Lai Lịch Và Ý Nghĩa Hội Vật Làng Mai Động” đăng trong báo Trung Bắc Chủ Nhật , số 100 phát hành tại Hà Nội ngày 1 tháng 3 năm 1942 (trang 15 , 16) và tác giả Toan Ánh trong tác phẩm Hội Hè Đình Đám, quyển thượng xuất bản tại Saigon năm 1969 (trang 61) , các tác giả này đều cho Thành Hoàng Làng Mai Động là Bà Lê Chân , nhưng thần phả làng Mai Động và nhân dân làng này lại cho biết Thành Hoàng làng là lão đô Nguyễn Tam Chinh . (Bà Lê Chân và lão đô Nguyễn Tam Chinh đều là tướng lãnh của Hai Bà Trưng). Thần phả làng Mai Động ghi : Nguyễn Tam Chinh vốn người Thanh Hóa , vì chán cảnh mất nước , bỏ ra bắc tới Động Mơ tức Mai Động , thấy vùng đất lạ mới dừng lại mở trường dậy học . Ông thu nhận được 30 môn đồ , có sức khỏe , có kiến thức ,truyền dậy cả văn cả võ để đợi thời cơ . Trong các môn võ thuật , ông chú ý dậy cho học trò cách thức đấu vật . Ngày ngày , trước sân trường , ông ngồi xem từng cặp luyện tập , chỉ cho họ những ngón sơ hở và truyền cho họ những miếng hiểm ác để hạ thủ đối phương . Lớp học càng ngày càng tấn tới . Khi Hai Bà Trưng hiệu triệu nhân dân nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi quân Tô Định , ông làm lễ tế trời đất rồi cùng học trò kéo quân lên phụ giúp Hai Bà Trưng và lập được nhiều chiến công . Già trẻ trai gái mở hội đón rước và tình nguyện xin theo Đô Chinh rất đông . Cũng từ đó môn vật được lưu truyền lại trong vùng . Hàng năm mỗi lần Tết đến , nhân dân ở nay lại tổ chức Hội Vật vào những ngày mồng 4, 5, 6 để tưởng nhớ người xưa . Truyền thuyết cũng kể rằng khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa , nhiều đô vật Kinh Bắc (Bắc-giang, Bắc-ninh) đã cùng bà Thánh Thiên hưởng ứng nhiệt liệt và đã trở thành những tướng giỏi của Hai Bà . Thánh Thiên công chúa sau khi hy sinh đền nợ nước đã được nhân dân Ngọc Lâm (huyện Yên Dũng , Bắc Giang) thờ làm Thần Hoàng làng . Trước khi phát động quần chúng khởi nghĩa đánh giặc Đông Ngô , Bà Triệu (năm 248) đã lên núi Nưa mở trường thi võ, đấu vật , luyện kiếm , bắn cung nỏ , huấn luyện nghĩa quân sao cho mỗi người vừa có thể lực dồi dào , vừa tinh thông các môn võ nghệ , chiến đấu chống giặc, khiến kẻ địch khiếp vía phải thốt lên : Hoành qua đương hổ dị Đối diện Bà vương nam ! (múa giáo chống hổ dễ , giáp mặt với vua Bà thực khó!) Dân gian ngày nay còn truyền tụng câu ca dao nói lên sự ủng hộ của quần chúng đối với “Nhụy Kiều tướng quân” Triệu Thị Trinh và ca ngợi tài đức của bà : Ru con con ngủ cho lành Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi Muốn coi lên núi mà coi Coi bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng. Lý Bôn tức Lý Nam Đế (năm 544-5480), Triệu Quang Phục , Mai Thúc Loan tức Mai Hắc Đế (năm 722) . . . đều có sức khỏe hơn người và nổi tiếng về vật đã lãnh đạo toàn dân nổi lên chống quân Trung quốc xâm lược . Phùng Hưng giỏi vật và quật chết được cọp dữ dược nhân dân tôn là Đô Quân , vua của các đô vật , và người em ruột của ông là Phùng Hải , giỏi vật không kém anh , được nhân dân tôn là Đô Bảo , tướng của các đô vật trong thiên hạ (4) Lò vật làng Quỳnh Đô đã nổi tiếng trong vùng ngay từ thế kỷ thứ VI , thời kỳ nhà Lương đang đô hộ Giao Châu. Tục ngữ có câu : “Lò vật Quỳnh Đô , rỏ cua Cổ điển” , Quỳnh Đô thuộc huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông . Hồi còn son trẻ , lão đô Phạm Tu trước khi ra giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân nhà Lương , khai sáng nhà nước Vạn Xuân năm 544, đã từng học vật tại Quỳnh Đô . ông người làng Quang (tức làng Thanh Liệt , Thanh Trì, cùng quê hương với thày đồ cương trực Chu Van An) đã sang tập vật làng bên là Quỳnh Đô và trở thành một đô vật nổi tiếng trong vùng, nhân dân thường gọi là Đô Tu (có tài liệu ghi là Đô Hồ, vì tương truyền thần thánh đất Tây Hồ đã “ứng điềm lành” trong việc ông ra đời) (5) Nhân dân vùng Thanh Hóa ngày nay vẫn còn truyền tụng về lò vật nổi tiếng của Dương Đình Nghệ , nơi sản xuất ra nhiều đô vật giỏi ra giúp Ngô Vương Quyền đánh đuổi quân Nam Hán (năm 939), dựng nền độc lập lâu dài cho đất nước . Ngay khi giành được nền tự chủ lâu dài cho dân tộc , các triều đại Đinh Lê Lý Trần và tiếp theo sau nữa , trong việc tổ chức quân đoiä gìn giữ bờ cõi , nhà nước đều coi trọng bộ môn vật , đã thiết lập trong quân ngũ nhiều đội vật , tổ chức thường xuyên đấu vật nhằm rèn luyện thể lực , lòng dũng cảm , tuyển lựa nhân tài và giải trí trong quân sĩ . Đội Đô vật Xuân Trường thời Trần đã góp phần tạo chiến công hiển hách thắng quân Mông Nguyên, một đoàn quân hung hãn , có lối vật Mông cổ nổi tiếng đương thời . Bà Liệt , Hoài Đức Vương , con tư sinh của Trần Thừa , em cùng cha khác mẹ của vua Trần Thái Tông , cũng đã từng là một đô vật có hạng trong đội vật nổi tiếng tại kinh đô Thăng Long . Sử cũ chép : “ Nhâm Thìn , năm Thiên Ứng chính bình thứ I (1232) (nhà Tống , năm Thiệu Định thứ 5) . Tháng Giêng , mùa Xuân mới sắp xếp nghi lễ trong triều : Phong cho em là Bà Liệt tước Hoài Đức Vương. Thượng hoàng lúc còn hàn vi , có lấy một người con gái ở thôn Bà Liệt , huyện Tây Chân , khi đã có thai thì bỏ , sau sinh con trai , Thượng hoàng không nhìn nhận gì đến . Người con trai ấy lúc lớn lên , mặt mũi khôi ngô , giỏi nghề võ , sung vào đội đánh vật . Một hôm , cùng với người trong đội đánh cầu , rồi lại cùng nhau đánh vật , người kia vật người con trai ấy ngã , chẹn lấy cổ , gần tắt thở , Thượng hoàng tự nhiên quát to lên rằng : “ Nó là con ta đấy ! “ Anh kia sợ , buông ra , nhân thế gọi tên là Bà Liệt . Nay có lệnh phong tước cho (6) Trong binh đội của triều đình nhà Lê, đô vật được chia làm nhiều loại từ thấp đến cao với những cấp bậc , tên gọi khác nhau , lịch trình đấu vật hàng năm và cách thi vật tại kinh đô Thăng Long được Phan Huy Chú ghi rõ ràng trong sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí : “Hàng năm , khi Tế cờ xong , sai hai viên quan võ coi thi đánh vật (một viên quản binh thị hậu , một viên quản ngoại binh) . Trước khi thi Đô và Sứ ba keo , rồi Đô và Sứ mới cử tử đệ rat hi . Những người mới tiến cử cùng đấu với nhau , ai thắng ba keo thì cho đấu với Xa . Thắng Xa ba keo thì cho đấi với Dù . Tuy thắng Dù ba keo , cũng không được đấu với Sứ . Lực đấu với Lực thắng ba keo thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ . Tuy thắng Sứ ba keo , cũng không được đấu với Đô. Nội lực sĩ đấu với Nội lực sĩ , thắng ba keo , thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ , thắng Sứ ba keo , cho đấu với Đô . Người mới tiến cử đấu với Dù thắng hai keo trở lên , thì cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Lực thắng hai keo trở lean , cho làm danh tướng ở Lực . Lực đấu với Dù thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa . Nội lực sĩ đấu với Xa , thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Dù thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Dù . Người nào thắng Sứ hai keo , cho chức phó đề hạt ; thắng Đô hai keo , cho chức đô úy . Ngày Hội Vật đầu Xuân đã đến. Trống vật thúc dục làm nao nức lòng người. Già trẻ, trai gái đều bỏ mặc hết mọi công việc nhà, rủ nhau tụ tập đông đảo trưôc sân đình để dự khán. Các đô trong làng đều ghi tên dự thí. Những đô tứ xứ, ở các làng lân cận muốn xin dự thí phải mang lễ vật đến để xin cúng thần . Tùy theo lệ làng, có nơi lễ vật là đĩa sôi gấc, hay nhánh cau với vài lá trầu , hoặc bó hoa, trái cây hoa quả ø, hoặc thẻ nhang,... Bãi cỏ phẳng rộng trước sân đình làng được dùng làm đấu trường , ở giữa được kẻ vạch một vòng tròn , đường kính khoảng 6 mét bằng vôi trắng, vòng tròn này được gọi là sới vật. Có nơi sới vật là hình vuông mỗi cạnh tám mét , có nơi sới vật được đóng dóng bằng tre chung quanh , có nơi sới vật nằm dưới đáy ao nông cạn đã tát hết nước và khơi khô trước sân đình để dân làng , khán giả đứng chung quanh bờ xem cho rõ (sân này còn được dùng để đánh cờ người) . Hai bên sới vật là hai hàng cờ đuôi nheo ngũ hành gồm năm mầu xanh, đỏ đen vàng trắng, mỗi bên năm lá cờ . Các đô vật trong thiên hạ ởû trần trùng trục, chỉ đóng mỗi một cái khố , đầu chit khăn , ngồi thành hai hàng dưôi hai dẫy cờ . Người nào cũng lực lưỡng, bắp thịt nỏ nang rắn chắc. Hai bên tả hữu trước sới vật là hai cái trống cái (trống lớn) , có nơi chỉ dùng một trống thôi , và những hàng ghế danh dự dành cho quí vị chức sắc trong làng và hàng tổng. Hai vị đàn anh trong dân được cử đánh trống cái , gọi là "cầm chịch" , nghĩa là làm nhiệm vụ của trưởng ban Trọng tài cuộc đấu . Giữa hai trống cái đó là bàn thờ thần , và phía dưới , trước mặt bàn thờ , được trải một chiếc chiếu cạp điều để các đô lễ thần trưôc và sau khi giao đãu. Có điều họ lễ thần không bằng cả hai tay như bình thường mà chỉ lễ lên gối xuống gối chống một tay trái thôi. Sau khi múa Ra Giàng , hai đô vật bắt đầøu giao đấõu. Trống vật liên tục mỗi hồi là ba tiếng. Hai người cầm chịch cứ người nọ đánh ba tiếng dứt thì người kia lại đánh ba tiếng tiếp theo. Các đô vật tài hoa thường dùng các miếng vật vừa đẹp mắt mà vẫn quyết liệt , nghiêm túc và chính xác . Ngay giữa sới vật có ba người tuần đinh, làm nhiệm vụ của trọng tài phụ . Hai trong ba người này , mỗi người cầm một lá cờ đuôi nheo nhỏ phất phẩy làm hiệu lệnh vật, người thứ ba cầm một trống lưng (trống nhỏ) để gõ nhẹ khuyến khích , thúc dục hai đô tấn công tiếp. Keo vật càng trở nên gây cấn, tiếng trống lại mau hơn, người tuầøn đinh kề hẳn trống vào mang tai các đô để thúc , để cổ võ để nhắc nhở , hai lá cờ đuôi nheo cũng nhộn nhịp phe phẩy không ngừng để giữ trật tự, giãn các khán giả vây vòng mỗi lúc một quá chặùt. Khán giảø reo hò , la hét khuyến khích yểm trợï tinh thần "gà nhà", họ dán mắt vào từng miếng bốc , miếng sườn , miếng gồng của các đô , rồi reo lên khi đô nào đó hạ đối phương bằng một miếng đẹp mắt . Keo vật vào hồi quyết liệt , họ , những khán giả sát gần sới vật , nằm xoài ra đất để xem cho rõ . Hai đối thủ nào bá cổ, nào tay nắm tay , hoặc thủ thế, giữ miếng , vờn nhau , . . . Họ ôm lưng, bá vai, ngáng chân, có lúc họ nắm tay nhau giật mạnh rồi buông ra cho té ngã. Cuộc đấu mỗi lúc một gay go, sôi động và hào hứng. Họ lừa nhau từng miếng, từng bưôc chân, từng cách di chuyển, rồi gặp cơ hội thuận tiện họ quật ngã ngửa nhau “lấm lưng trắng bụng” giữa tiếng reo hò ầm ĩ vui vẻ của mọi người ... Giải nhất vừa được phá . Kẻ chiến thắng hiên ngang kiêu hãnh lên lãnh giải . Phần thưởng đôi khi chỉ là ba vuông vải nhiễu điều, gói trà mạn sen (có những Hội Vật lớn , giải chính là một con bò hay con nghé) và một phong pháo toàn hồng được xé ra đốt ngay sau cuộc đấõu như chào mừng người vô địch thiên hạ . Sau ba ngày tận sức, tận lực chiến đấõu trong tinh thần thượng võ , huynh đệ , các đô lại quây quần dướâi mái đình cùng nhau chè chén vui vẻ . V/ TRONG LỊCH SỬ VÀ GIAI THOẠI Vật cổ truyền Việt Nam đã có từ thời thượng cổ . Truyền thuyết và giai thoại về vật cũng phong phú và đa dạng . Một truyền thống cao đẹp của vật là ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước , các anh hùng dân tộc cứu dân giúp nước phần lớn đều là những đô vật nổi tiếng trong dân gian , được nhân dân kính trọng và thờ phụng mà ngày nay vẫn còn đền thờ : như Lý Ông Trọng (Lý Thân) được thờ ở Chèm , (ngoại ô Hà Nội), như Đô Lỗ (Cao Lỗ) , Đô Nồi (Nồi Hầu) , giúp vua Thục An Dương Vương (năm 257-207 trước Tây lịch) , ngày nay nhân dân vẫn hương khói thờ phụng tại Cổ Loa. Theo Thần tích đền Nghè (Hải Phòng) bà Lê Chân dựng đài thi võ , luyện vật cho ba quân , chiến đấu giúp Hai Bà Trưng (năm 40-43 sau Tây lịch) đánh đuổi quân Đông Hán Trung quốc . Đô Dương , Đô Chinh (Nguyễn Tam Chinh) đã là những bậc thày nổi tiếng trong làng xã trước khi ra giúp Hai Bà Trưng cứu nước . Khi chết , Đô Chinh được nhân dân nhớ ơn, vinh tôn là Thần Hoàng làng làng Mai Động (ngoại thành Hà Nội), thờ phụng cho đến ngày nay và được xưng tụng là ông tổ lò vật Mai Động . Nhân đây cũng xin nêu lên một chi tiết cần tìm hiểu thêm về Thành Hoàng làng Mai Động của các tác giả Văn Hạc trong bài “Lai Lịch Và Ý Nghĩa Hội Vật Làng Mai Động” đăng trong báo Trung Bắc Chủ Nhật , số 100 phát hành tại Hà Nội ngày 1 tháng 3 năm 1942 (trang 15 , 16) và tác giả Toan Ánh trong tác phẩm Hội Hè Đình Đám, quyển thượng xuất bản tại Saigon năm 1969 (trang 61) , các tác giả này đều cho Thành Hoàng Làng Mai Động là Bà Lê Chân , nhưng thần phả làng Mai Động và nhân dân làng này lại cho biết Thành Hoàng làng là lão đô Nguyễn Tam Chinh . (Bà Lê Chân và lão đô Nguyễn Tam Chinh đều là tướng lãnh của Hai Bà Trưng). Thần phả làng Mai Động ghi : Nguyễn Tam Chinh vốn người Thanh Hóa , vì chán cảnh mất nước , bỏ ra bắc tới Động Mơ tức Mai Động , thấy vùng đất lạ mới dừng lại mở trường dậy học . Ông thu nhận được 30 môn đồ , có sức khỏe , có kiến thức ,truyền dậy cả văn cả võ để đợi thời cơ . Trong các môn võ thuật , ông chú ý dậy cho học trò cách thức đấu vật . Ngày ngày , trước sân trường , ông ngồi xem từng cặp luyện tập , chỉ cho họ những ngón sơ hở và truyền cho họ những miếng hiểm ác để hạ thủ đối phương . Lớp học càng ngày càng tấn tới . Khi Hai Bà Trưng hiệu triệu nhân dân nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi quân Tô Định , ông làm lễ tế trời đất rồi cùng học trò kéo quân lên phụ giúp Hai Bà Trưng và lập được nhiều chiến công . Già trẻ trai gái mở hội đón rước và tình nguyện xin theo Đô Chinh rất đông . Cũng từ đó môn vật được lưu truyền lại trong vùng . Hàng năm mỗi lần Tết đến , nhân dân ở nay lại tổ chức Hội Vật vào những ngày mồng 4, 5, 6 để tưởng nhớ người xưa . Truyền thuyết cũng kể rằng khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa , nhiều đô vật Kinh Bắc (Bắc-giang, Bắc-ninh) đã cùng bà Thánh Thiên hưởng ứng nhiệt liệt và đã trở thành những tướng giỏi của Hai Bà . Thánh Thiên công chúa sau khi hy sinh đền nợ nước đã được nhân dân Ngọc Lâm (huyện Yên Dũng , Bắc Giang) thờ làm Thần Hoàng làng . Trước khi phát động quần chúng khởi nghĩa đánh giặc Đông Ngô , Bà Triệu (năm 248) đã lên núi Nưa mở trường thi võ, đấu vật , luyện kiếm , bắn cung nỏ , huấn luyện nghĩa quân sao cho mỗi người vừa có thể lực dồi dào , vừa tinh thông các môn võ nghệ , chiến đấu chống giặc, khiến kẻ địch khiếp vía phải thốt lên : Hoành qua đương hổ dị Đối diện Bà vương nam ! (múa giáo chống hổ dễ , giáp mặt với vua Bà thực khó!) Dân gian ngày nay còn truyền tụng câu ca dao nói lên sự ủng hộ của quần chúng đối với “Nhụy Kiều tướng quân” Triệu Thị Trinh và ca ngợi tài đức của bà : Ru con con ngủ cho lành Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi Muốn coi lên núi mà coi Coi bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng. Lý Bôn tức Lý Nam Đế (năm 544-5480), Triệu Quang Phục , Mai Thúc Loan tức Mai Hắc Đế (năm 722) . . . đều có sức khỏe hơn người và nổi tiếng về vật đã lãnh đạo toàn dân nổi lên chống quân Trung quốc xâm lược . Phùng Hưng giỏi vật và quật chết được cọp dữ dược nhân dân tôn là Đô Quân , vua của các đô vật , và người em ruột của ông là Phùng Hải , giỏi vật không kém anh , được nhân dân tôn là Đô Bảo , tướng của các đô vật trong thiên hạ (4) Lò vật làng Quỳnh Đô đã nổi tiếng trong vùng ngay từ thế kỷ thứ VI , thời kỳ nhà Lương đang đô hộ Giao Châu. Tục ngữ có câu : “Lo øvật Quỳnh Đô , rỏ cua Cổ điển” , Quỳnh Đô thuộc huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông . Hồi còn son trẻ , lão đô Phạm Tu trước khi ra giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân nhà Lương , khai sáng nhà nước Vạn Xuân năm 544, đã từng học vật tại Quỳnh Đô . ông người làng Quang (tức làng Thanh Liệt , Thanh Trì, cùng quê hương với thày đồ cương trực Chu Van An) đã sang tập vật làng bên là Quỳnh Đô và trở thành một đô vật nổi tiếng trong vùng, nhân dân thường gọi là Đô Tu (có tài liệu ghi là Đô Hồ, vì tương truyền thần thánh đất Tây Hồ đã “ứng điềm lành” trong việc ông ra đời) (5) Nhân dân vùng Thanh Hóa ngày nay vẫn còn truyền tụng về lò vật nổi tiếng của Dương Đình Nghệ , nơi sản xuất ra nhiều đô vật giỏi ra giúp Ngô Vương Quyền đánh đuổi quân Nam Hán (năm 939), dựng nền độc lập lâu dài cho đất nước . Ngay khi giành được nền tự chủ lâu dài cho dân tộc , các triều đại Đinh Lê Lý Trần và tiếp theo sau nữa , trong việc tổ chức quân đoiä gìn giữ bờ cõi , nhà nước đều coi trọng bộ môn vật , đã thiết lập trong quân ngũ nhiều đội vật , tổ chức thường xuyên đấu vật nhằm rèn luyện thể lực , lòng dũng cảm , tuyển lựa nhân tài và giải trí trong quân sĩ . Đội Đô vật Xuân Trường thời Trần đã góp phần tạo chiến công hiển hách thắng quân Mông Nguyên, một đoàn quân hung hãn , có lối vật Mông cổ nổi tiếng đương thời . Bà Liệt , Hoài Đức Vương , con tư sinh của Trần Thừa , em cùng cha khác mẹ của vua Trần Thái Tông , cũng đã từng là một đô vật có hạng trong đội vật nổi tiếng tại kinh đô Thăng Long . Sử cũ chép : “ Nhâm Thìn , năm Thiên Ứng chính bình thứ I (1232) (nhà Tống , năm Thiệu Định thứ 5) . Tháng Giêng , mùa Xuân mới sắp xếp nghi lễ trong triều : Phong cho em là Bà Liệt tước Hoài Đức Vương. Thượng hoàng lúc còn hàn vi , có lấy một người con gái ở thôn Bà Liệt , huyện Tây Chân , khi đã có thai thì bỏ , sau sinh con trai , Thượng hoàng không nhìn nhận gì đến . Người con trai ấy lúc lớn lên , mặt mũi khôi ngô , giỏi nghề võ , sung vào đội đánh vật . Một hôm , cùng với người trong đội đánh cầu , rồi lại cùng nhau đánh vật , người kia vật người con trai ấy ngã , chẹn lấy cổ , gần tắt thở , Thượng hoàng tự nhiên quát to lên rằng : “ Nó là con ta đấy ! “ Anh kia sợ , buông ra , nhân thế gọi tên là Bà Liệt . Nay có lệnh phong tước cho (6) Trong binh đội của triều đình nhà Lê, đô vật được chia làm nhiều loại từ thấp đến cao với những cấp bậc , tên gọi khác nhau , lịch trình đấu vật hàng năm và cách thi vật tại kinh đô Thăng Long được Phan Huy Chú ghi rõ ràng trong sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí : “Hàng năm , khi Tế cờ xong , sai hai viên quan võ coi thi đánh vật (một viên quản binh thị hậu , một viên quản ngoại binh) . Trước khi thi Đô và Sứ ba keo , rồi Đô và Sứ mới cử tử đệ rat hi . Những người mới tiến cử cùng đấu với nhau , ai thắng ba keo thì cho đấu với Xa . Thắng Xa ba keo thì cho đấi với Dù . Tuy thắng Dù ba keo , cũng không được đấu với Sứ . Lực đấu với Lực thắng ba keo thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ . Tuy thắng Sứ ba keo , cũng không được đấu với Đô. Nội lực sĩ đấu với Nội lực sĩ , thắng ba keo , thì cho đấu với Xa , thắng Xa ba keo , cho đấu với Dù , thắng Dù ba keo , cho đấu với Sứ , thắng Sứ ba keo , cho đấu với Đô . Người mới tiến cử đấu với Dù thắng hai keo trở lên , thì cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Lực thắng hai keo trở lean , cho làm danh tướng ở Lực . Lực đấu với Dù thắng hai keo trở lên , cho làm danh tướng ở Dù , đấu với Xa thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa . Nội lực sĩ đấu với Xa , thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Xa , đấu với Dù thắng hai keo , cho làm danh tướng ở Dù . Người nào thắng Sứ hai keo , cho chức phó đề hạt ; thắng Đô hai keo , cho chức đô úy . Sứ thắng Sứ ba keo , cho đấu với Đô ; thắng Đô một keo , dẫu có thua một keo , cũng cho thăng chức . Đô mà thắng Đô , không thua keo nào , cho chức Đô úy. (chú giải : Đô , Sứ : các tay vật cao cấp ; Xa : có lẽ là quân ở các độ Tứ xa ; Dù : có lẽ là quân các độ Bả dù ; Lực : tên những đội quân, ví như Lực, Hành)” (7) Một giai thoại về Trạng Vật dưới triều vua Lê Thánh Tông đã được Vũ Phương Đề ghi lại năm 1755 trong tác phẩm Công-Dư Tiệp-Ký : Ông Võ-Phong người làng Mộ-Trạch là em quan Thượng Võ-Hữu, nguyên người có tướng ngũ-đoản (chân tay , tai , mắt , miệng , mũi , 5 thứ đều ngắn và nhỏ , còn người thì thấp) nhưng rất giỏi về môn đấu vật . Đời vua Lê Thánh-Tông (1460-70) nhân có một hôm ông ra kinh thành Tràng-An gặp lúc vua đang ngự triều , ông thấy có viên Đô-lực sĩ vác chiếc chùy đồng đứng hầu có vẻ dương dương tự đắc ! ông bèn quay lại hỏi bạn : này bác người kia là ai ? có tài cán chi ? mà dám ngang nhiên như vậy . Bạn đáp : Người đó là một võ sĩ sở trường về môn đánh vật , hiện thời không ai địch nổi ! như vậy cũng là một cách để tiến thân đó ! Nghe bạn kể xong ông lại hỏi rằng : nếu vậy ngày mai tôi muốn cùng y so tài cao thấp phỏng có được không ? Bạn nghe xong vội vàng can rằng : người ta cao lớn thế kia mà bác thì bé loắt choắt như vậy ! sợ khi đối thủ lại làm trò cười cho thiên hạ đó thôi ! Ông mỉm cười đáp : điều đó xin Bác đừng ngại . Tôi đây bản lĩnh rất cao cường ! từ trước đến giờ chưa ai thắng nổi . Còn y chẳng qua chưa gặp địch thủ nên mới nổi danh , nhưng nay gặp tôi rồi Bác thử coi tôi sẽ thắng y một cách rất dễ đó ! Nói xong ông bèn viết một bản tấu xin cùng lực sĩ so tài . Hoàng Thượng xem tấu phán rằng : lực sĩ của ta tuyển lựa trong muôn ngàn người mới được có một ! hỏi có ai hơn được nữa ? thế mà anh kia tài nghệ ra sao lại giám to gan lớn mật như vậy ? nhưng rồi Ngài cũng phê chuẩn và định ngày giờ tỉ thí để Ngài thân ngự ra coi . Thế rồi đến hôm tỉ thí , trong lúc đôi bên còn đương vờn nhau biểu diễn , thì ông quờ ngay xuống đất lấy một ít cát nắm kín trong lòng bàn tay , thừa lúc vô tình ném thẳng vào mặt địch thủ . Lực sĩ vừa nhắm mắt lại thì nhanh như chớp , ông đã dùng miếng Xuyên Trừu , một tay thọc nách một chân đệm phía sau lưng , đẩy mạnh một cái khiến cho Lực sĩ mất đà bị nằm phơi bụng ngay trên mặt đất (Theo lệ đua vật , hễ ai bị nằm ngửa bụng mới gọi là thua , còn nằm sấp bụng thì không kể) . Thế là ông đã thắng cuộc một cách dễ dàng ! khán giả hoan hô nhiệt liệt . Lúc ấy Hoàng-Thượng ở trên đài trông xuống thấy ông quật đổ Lực sĩ mau lẹ như vậy , Ngài cũng tấm tắc khen là một tay Thần dũng , rồi sai lột chức Đô Lực-sĩ để phong cho ông ; dần dần ông được thăng đến Cẩ-Y Thị-Vệ Úy-ty Chỉ-huy-Sứ , nổi tiếng là người chính trực siêng năng . . . . làm Trạng đô vật . . . (8) Sử cũ cũng ghi chuyện Mạc Đăng Dung , người tạo dựng triều đại nhà Mạc (1527-1667), từng là một ngư phủ nghèo hèn , nhờ tài vật khéo léo mà nổi danh, bước tiến vào quan trường leo từ võ tướng lên đến bậc đế vương (9) Một giai thoại nữa về vật có liên quan đến Mạc Đăng Dung được hai tác giả Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án trong tác phẩm Tang Thương Ngẫu Lục thế kỷ XIX ghi lại như sau : Triều trước , ông Lê Tuấn Mậu , người làng Xuân Lội , huyện Yên Phong làm quan đến chức Đô Ngự Sử . Bấy giờ Mạc Đăng Dung do sự đánh vật mà được làm nên quan to. Ông nhiếc hắn rằng : -Anh đừng cậy sức , ta rất có thể như thế được , nhưng không thèm làm nay thôi. Đăng Dung tức , xin với vua cùng ông thou sức , ông hăng hái nhận lời , bôi mỡ vào mình , cài kim vào tóc và khố , vật cho Đăng Dung ngã suýt chết. Khi Đăng Dung cướp ngôi , ông thác bệnh không ra . Y cố mời mãi , ông bảo người đỡ vực vào triều , rồi nhổ vào mặt hắn mà chết . (10) Vào thế kỷ XVI , có một giai thoại về quan Thượng thư mê vật như sau : Thượng thư Nguyễn Doãn Khâm thời nhà Mạc ,vốn là một đô vật . Một ngày Xuân nọ đi qua làng Giao Tất (Gia Lâm Bắc Ninh) mởù hội đầu năm , thấy một đô vật đã ba ngày liền giữ giải làng . Ông dừng lại và xin vào đọ sức . Đô vật đang giữ giải giận lắm , định bụng vật ông ngã ngay tức khắc . Song chỉ một keo , ông đã làm cho đô vật ấy lấm lưng , trở tay không kịp . Anh ta liền bái phục , xin nhường lại giải cho ông . Nhưng ông không nhận . Đó là một giai thoại mà nhân dân hay truyền tụng để nói lên tinh thần thượng võ và tính khiêm tốn , thương yêu lẫn nhau giữa các đô vật (11) Trên phần lớn các cột kèo , hoành phi , bình phong bằng gỗ quí tại đình , chùa , đền , miếu ở miền Bắc xưa các nghệ sĩ dân gian thường trang trí , chạm trổ , tạc khắc những cảnh sinh hoạt , hội hè đương thời , và đấu vật là một đề tài không thể thiếu trong những trang trí này . Tác giả Bàng Bá Lân có bài thơ "Vô Địch" nói về đấu vật như sau : Vô Địch Trên sân cỏ trưôc đình, hai đấu thủ. Hai tượng đồng - đối mặt đứng khom khom. Bốn cánh tay dang thẳng đợi giao đòn; Bốn chân vững như chôn liền xuống đất. Họ lăn lẳn nhìn nhau vào tận mặt. Bắp thịt căng, cuồn cuộn nổi như thừng. Mắt gườm gườm như cọp dữ tranh hùng. Cằm chành bạnh, tay chờn vờn giữ miếng. Bỗng như chớp, cà hai cùng chồm đến. Nắm tay nhau giật, lắùc, vặn tơi bời.. Tùng, tùng ... tùng. Trống vật giục liên hồi. Cuộc giao đấu đã tới màn gay cấn : Anh "Khố Đỏ", to con hơn chèn lấn Ghì đối phưóng muốn nghẹt thởû rơi xương. Nhưng "Khố Đen" luồn mau lẹ dị thường Như lươn trạch, thoát vòng tay địch thủ. Cuộc đấu sức vẫn chưa phân thắng phụ, Mọi ngón đòn ác liệt được đưa ra. Mồ hôi nồng thoa mỡ bóng làn da. Bỗng "Khố Đỏ" vung tay như trăn gió. Quấn chặt cứng lấy cánh tay đối thủ, Còn tay kia quờ rộng bắt ngang chân "Khố Đen" vùng nhẩy vọt vượt qua tầm Tránh thoát kịp, và tung đòn hiểm độc. Hắn húc mạnh đầu đối phương nghe "cộp" "Khố Đỏ" bất ngờ lộng óc, chùn chân, Mắt hoa lên, lỏng hở cánh tay thần "Khố Đen" lẹ luồn nhanh vào bụng địch, Chuyển thần lực, đội bổng trăm cân thịt Quay một vòng và quật ngửa tênh hênh Tiếng hò reo vang rộn cảø sân đình. Hoan hô kẻ vừa thắng vòng chung kết . (12) VI/ ĐOẠN KẾT Xuân đã hết, ai nấy lại tiếp tục công việc đồng áng và hẹn gặp nhau trong những ngày Xuân năm sau. Điểm ghi nhận nơi đây là các đô vật nông dân xưa có một tinh thần thượng võ đáng kính trọng, họ ganh đua nhau trong tài cao thấp, kẻ thắng người bại đều hảø hê vui vẻ, khâm phục nhau thật sự, không hận thù ghen ghét. Mặc dù phần thưởng các giải vật không đáng giá bao nhiêu so với công lao lặn lội từ xa xôi và sắm sửa lễ vật mang đến, họ vẫn nao nức, hăng say rủ nhau đến phá giải. Hễ nghe thấy nơi nào, làng nào mở Hội Vật nhất nhất họ cũng hẹn hòø, lặn lội rủ nhau đến dự để đua sức, để xem mặt biết tên người vô địch. Vật cổ truyền Việt Nam có xu thế thiên về các đánh và đỡ ở thế thấp . Tuy nhiên , vật Việt Nam cũng có sử dụng các miếng ở thế đánh cao như Đội, Sườn , và nhiều miếng đánh khác đòi hỏi kỹ thuật cao , nhưng nói chung ít được dùng . Và dù ở thế , miếng nào , thấp hay cao , đều dùng tài nghệ làm cho đối phương té ngã “lấm lưng trắng bụng” . loại trừ những lối đánh ác hiểm . Điều này đã trở thành đạo lý và phong tục trong làng vật Việt Nam xưa . Nhờ vậy , tuy trong từng làng xã chưa có luật lệ đấu vật thành văn rõ ràng , nhưng từ các đô vật tới người xem trước nay đều coi những lối đánh ác hiểm là xấu , là hèn , trái với tinh thần thượng võ chân chính . Những đô vật có kỹ thuật cao , có miếng đánh sáng tạo , điêu luyện , được nhân dân quí mến, tuổi trẻ tin theo , triều đình mộ dụng vậy. _____ Chú thích (1) Pierre Gourou , Les paysans du delta tonkinois , Paris, Monton et Ce Lahay , 1965 . (2)Vật Việt Nam , Tổng cục Thể Dục Thể Thao, Ha Nội, 1974 , trang 9. (3) Toan Ánh , Phong Tục Việt Nam , nhà XB Xuân Thu tái bản tại Los Alamitos USA , trang 230. (4) Lý Tế Xuyên , Việt Điện U-Linh Tập , bản dịch của Lê Hữu Mục , Saigon , nhà sách Khai Trí , 1960 , trang 49 . (5) Trần Quốc Vượng (chủ biên), Nghìn Xưa Văn Hiến, tập I , tái bản lần 1, Hà Nội, nhà xuất bản Hà Nội , 2000, trang 133.. (6) Quốc Sử Quán thế ky XIX , Việt Sử Thông Giám Cương Mục ,(chinh tên là “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”) Chính biên, quyển 6-8, tập V , Tổ Biên Dịch : “Ban Nghiên Cứu Văn Sử Địa “ biên dịch và chú giải, Hà Nội, nhà xuất bản Văn Sử Địa, 1958 , trang 455 . (7) Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, tập IV Binh Chế Chí, Văn Tịch Chí, Bang Giao Chi, bảng sách dẫn, Viện Sử Học Việt Nam phiên dịch và chú giải, Đào Duy Anh hiệu đính, Hà Nội, nhà Xuất bản Sử Học, 1961, trang 34-35 . (8) Vũ Phương Đề , Công-Dư Tiệp-Ký , quyển I, dịch giả Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, in lần thứ nhất, Saigon , Bộ Quốc Gia Giáo Dục xuất bản, 1961, trang 17-19 . (9) Đại Việt Sử Ký Toàn Thư , mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 , tập III , Hoàng Văn Lâu và Ngô Thế Long dịch và chú thích , Hà Nội , nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội , 1993 , trang 109 (10) Phạm Đình Hổ & Nguyễn Án , Tang Thương Ngẫu Lục , dịch giả Đạm Nguyên , quyển nhất, Saigon , Bộ QGGD xuất bản , 1962 , trang 85-86. (11)Lê Đại , Nét Đẹp Của Tinh Thần Thượng Võ, tuần báo Thể Dục Thể Thao số 7(577) , Hà Nội , thứ bẩy 12 tháng 2 năm 1976, trang 4. (12) Bàng Bá Lân , Vào Thu, Thơ , Saigon , nhà xuất bản Ánh Sáng , 1969 , trang 48 . http://son-trung.blogspot.com ==================== Bổ sung vài hình ảnh của đấu vật Nhật Bản. Tương đồng với hình ảnh đấu vật Việt1 like
-
Trò chơi dân gian - thế giới tâm hồn trẻ thơ Chơi chuyền Mỗi người chúng ta ai cũng đã từng là một đứa trẻ và đã từng chơi những trò chơi của trẻ. Những vòng quay của con quay (chơi cù) hay những bước nhảy lò cò của trò chơi ăn quan... tất cả như một bức tranh sinh động của cuộc sống. Những điệu nhảy mềm mại, những cánh diều bay nhè nhẹ trên cao như đưa văn hóa VN đến khắp năm châu. Trò chơi trẻ em VN thường bắt nguồn từ những bài đồng dao, một thể loại văn vần độc đáo của dân tộc. Đấy là những bài ca có nhịp điệu đơn giản gieo vần một cách thoải mái, có thể ngắn dài bất kỳ hoặc lặp đi lặp lại không dứt. Chơi chọi gà là một trong những thú chơi được trẻ em thích thú vì không chỉ nó là con vật gần gũi với đời sống của trẻ mà nó còn mang ý nghĩa như một chiến binh khát vọng chiến thắng: “Con gà cục tác cục ta/ Hay đỗ đầu hè hay chạy rông rông/ Má gà thì đỏ hồng hồng/ Cái mỏ thì nhịn, cái mồng thì tươi/ Cái chân hay đạp hay bơi/ Cái cánh hay vỗ lên trời gió bay”. Hay bài đồng dao của trò chơi ô ăn quan: “Hàng trầu hàng cau/ Là hàng con gái/ Hàng bánh hàng trái/ Là hàng bà già/ Hàng hương hàng hoa/ Là hàng cúng Phật...”. Vì đặc tính của trò chơi rất đơn giản, chỉ là những hòn sỏi được rải trên nền đất và khi chơi phải đếm từng hòn sỏi một nên nó là trò chơi hiền lành, không đòi hỏi nhiều lắm vào trí tuệ, sức lực nhưng lại yêu cầu tính kiên nhẫn nên người chơi chủ yếu là các em gái. Rồng rắn lên mây là trò chơi gắn với đồng dao nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp, có liên quan đến nghi thức cầu mưa của cư dân nông nghiệp: “Rồng rắn lên mây/ Có cây núc nắc/ Có nhà khiển binh/ Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không...” . Đồng dao được cấu trúc theo một lôgic riêng, đôi khi không có nghĩa gì cả, nhưng bằng tư duy liên tưởng, trẻ em vẫn có thể nhập vào câu hát để dẫn đến những kết cục bất ngờ: cái ngược đời, cái phi lý, lại có thể chấp nhận vì đấy là bài hát của trẻ em. “Cây mốt, cây mai, lá trai, lá hến, con nhện chăng tơ, quả mơ có hạt...” là bài đồng dao mà các cô bé thường hát để chơi chuyền. Đây là trò chơi chủ yếu dành cho bé gái, dụng cụ là một quả bóng (có thể được thay bằng một hòn đá hoặc quả ổi xanh) và 10 que tre được vót tròn (có thể thay bằng đũa). “Cút ca cút kít/ Làm ít ăn nhiều/ Nằm đâu ngủ đấy/ Nó lấy mất cưa/ Lấy gì mà kéo...” là bài đồng dao của trò chơi quay (cù) cũng được trẻ em yêu thích. Ta có thể bắt gặp những đứa trẻ túm năm tụm ba, bỏ quên hết nhọc nhằn của cuộc sống, những bài học khó để cuốn theo vòng xoáy của những con quay. Từng vòng, từng vòng xoay tít, vui thú với những cú đánh lắc bổ nhào trúng quay của đối phương, cuộc sống của chúng dường như chỉ có vậy. Con quay được tiện hay đẽo bằng gỗ, hình giống quả ổi; tuỳ theo từng địa phương, dân tộc mà con quay có thể có hoặc không có núm (còn gọi là tu) ở phía trên. Bên dưới thân quay có “chân” làm bằng gỗ hoặc bằng đinh hình chóp nón hoặc không có “chân”. Khi chơi, các em quấn dây một vòng quanh tu, sau đó quấn dần xuống thân. Kẹp đầu dây còn lại có nút thắt vào giữa hai ngón tay để giữ dây, sau đó vung tay liệng hoặc bổ quay rơi xuống đất. Lúc này, theo quán tính con quay sẽ quay tít, gần như đứng yên (ngủ), sau đó các em khác ra bổ quay hoặc cứu quay và xác định người thắng cuộc. Rồng rắn lên mây Trò chơi dân gian có nhiều thể loại phù hợp với các sở thích, cá tính khác nhau của nhiều đối tượng người chơi như sôi nổi, điềm đạm hay trầm tĩnh. Mỗi trò lại có một quy luật riêng, mang những sắc thái khác nhau khiến trẻ em chơi suốt ngày mà không thấy chán. Rồng rắn lên mây, cướp cờ... là trò chơi nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp. Đẩy gậy lại có nhiều nét tương đồng và gần gũi với môn thi đấu vật hay chọi trâu của người lớn. Trò kéo co cũng thể hiện tinh thần thượng võ, rèn luyện thể lực và sự nhanh nhẹn, khéo léo. Đánh đáo, chơi chuyền, chơi ô ăn quan lại rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cá nhân, khả năng tính toán, phán đoán chính xác. Từ chỗ ganh đua mang tính chất tượng trưng, dần dần các trò chơi trở thành những cuộc thi tài, thi khéo, các cuộc thi đấu thể thao như bi sắt, nhẩy ngựa, đá cầu... Trò chơi dân gian chủ yếu dành cho trẻ em ở các vùng nông thôn nên cái tên cũng giản đơn, nôm na như tên thằng Tí, con Na, thằng Ốc, cái Hến vậy: nào là đánh đáo, đánh quay, nào là đi cà kheo, nổ pháo đất... Hơn nữa, các trò chơi dân gian VN thường giản tiện, không cầu kỳ, tốn kém nên có thể dễ dàng chơi mọi lúc, mọi nơi, dụng cụ dễ kiếm, dễ làm, chủ yếu lấy từ trong tự nhiên, thậm chí chỉ là cái gậy, hòn đá, hòn bi chúng có thể nhặt trong vườn, dưới ruộng là có thể lập được một hội chơi. Người chơi thường là những trẻ chăn trâu lê la túm tụm ngoài bãi cỏ, ngoài việc vui đùa, rèn luyện thân thể, còn thể hiện nỗi khát khao chiến thắng tiềm ẩn trong mỗi đứa trẻ. PGS.TS Nguyễn Văn Huy, Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học VN cho rằng: “Cuộc sống đối với trẻ em không thể thiếu những trò chơi. Trò chơi dân gian không đơn thuần là một trò chơi của trẻ con mà nó chứa đựng cả một nền văn hóa dân tộc VN độc đáo và giàu bản sắc. Trò chơi dân gian không chỉ nâng cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, sự khéo léo mà còn giúp các em hiểu về tình bạn, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. Trẻ em ở một xã hội công nghiệp, chỉ quen với máy móc và không có khoảng trống để chơi cũng là một thiệt thòi. Thiệt thòi hơn khi các em không được làm quen và chơi những trò chơi dân gian của thiếu nhi thuở trước - đang ngày càng bị mai một và quên lãng, không chỉ ở các thành phố mà còn ở cả các vùng nông thôn, nơi mà đang dần bị đô thị hóa mạnh mẽ. Vì thế giúp các em hiểu và tìm về cội nguồn với những trò chơi dân gian là một việc làm cần thiết”. Theo Văn hóa, http://vietbao.vn/1 like
-
Kính thưa quí vị và anh chị em hội viên diễn đàn Lý học Đông phương. Ngày mùng 3. 8. 2012, Ban giám đốc TTNC LHDP vừa nhận được công văn của cơ quan có trách nhiệm là Cục Quản Lý Phát Thanh, Truyền Hình và Thông Tin Điện Tử (Bộ Thông Tin và Truyền Thông) về một bài viết liên quan đến một doanh nghiệp lớn kinh doanh thực phẩm của Việt Nam, đã đăng tải trên một số web. Bài viết này đã được chép lại và đưa lên diễn đàn Lý học Đông phương từ khoảng nửa cuối năm 2011, gây ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp này. Chúng tôi đã vô hiệu hóa tất cả những bài viết trong topic liên quan trên diễn đàn. Bởi vậy, để rút kinh nghiệm và tránh những hiểu lầm sau này, Ban giám đốc TTNC LHDP đề nghị quý hội viên từ nay post những thông tin thời sự, xã hội....không liên quan đến mục đích nghiên cứu của TTNC LHDP và chép từ một trang web khác phải có nguồn gốc từ những trang có đăng ký chính thức với cơ quan nhà nước - cụ thể là có đuôi vn; hoặc những trang web chính thức được cấp phép hoạt động. Ngoài ra với những bài viết có nội dung học thuật và liên quan đến mục đích nghiên cứu của TTNC LHDP thì cần có nguồn gốc rõ ràng. Thông báo này bổ sung cho những nội quy trước đó của diễn đàn. Cảm ơn sự cộng tác của quí vị và anh chị em.1 like
-
Xuân xưa - Tết nay với những trò chơi dân gian, cổ truyền Chơi cướp cờ. Các trò vui chơi ngày Tết của nhân dân ta xưa được sử gọi là Trăm Trò Chơi (Bách Hí), ngày nay đã chìm vào bóng đêm của thời gian, nhiều trò vui không còn dấu tích gì trong sử sách và phong tục nhưng vẫn có những trò vui để lại nhiều dấu vết. Năm hết Tết đến, chúng ta hãy thử tìm hiểu một số trò chơi ấy theo các thư tịch xưa để gọi là “ôn cố” chút ít nhân dịp mùa Xuân truyền thống của dân tộc đã về… Chơi đánh khăng. Đầu tiên là trò chơi đánh phết. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép việc năm Bính Ngọ (1126): “Tháng Hai, ngày mùng 1, vua ngự điện Thiên An xem các vương hầu đá cầu”. Đá cầu ấy như thế nào? Hoàng Xuân Hãn đã cho biết rõ hơn trong sách “Lý Thường Kiệt”: “Hai bên tả hữu dựng hai cửa gỗ gọi là cầu môn cao độ hơn một trượng. Vương hầu dự chơi chia làm hai phe mặc áo vóc màu sắc khác nhau. Trước thềm bày hai giá cờ, hễ bên nào được thì cắm vào giá bên ấy một lá cờ. Có khi thì chơi chạy bộ đánh phết, có khi thì chơi cưỡi ngựa đánh phết. Người ngồi trên ngựa một tay cầm cương, tay kia cầm gậy dài để đánh quả phết. Đánh phết có nhạc đi kèm. Bắt đầu chơi thì nhạc nổi lên. Lúc tranh quả phết thì trống đánh rây. Quả phết đến gần thì trống giục càng mau. Lúc quả phết lọt qua cửa thì gióng lên 3 hồi trống. Chơi được một hồi lâu, vương hầu lại nghỉ uống rượu, xong lại đánh tiếp”. Chơi U Các trò vui lúc ấy, nhân dân ta - nhất là giới trẻ - rất ưa chuộng đó là chọi gà, đánh đu, và chơi tam cúc. Trước năm 1945, các trò vui này vẫn thịnh hành ở hầu hết các thôn xã Việt Nam. Chọi gà đã đi vào nghệ thuật dân gian và là trò vui sôi động vào các dịp đầu năm, hội hè, đình đám. Trò vui chọi gà này đến thế kỷ 13 đã thành một tục lệ tràn lan trong giới thanh niên đến độ khi cả nước ta phải thực hiện cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, Trần Hưng Đạo Vương phải nhắc nhở quân sĩ nên hạn chế bớt, như trong Hịch tướng sĩ: “…Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển…”. Đu đôi - Bắt trạch Riêng trò chơi Đánh đu (gồm nhiều loại như Đu tiên, Đu vân xa, v.v…) là một trò chơi phổ thông được hầu hết trai gái ưa chuộng. Bởi vậy mới có câu ca dao: Tháng giêng giai tiết ở đầu. Bao nhiêu mỹ nữ đá cầu, đánh đu. Theo tư liệu và hình ảnh cũ, chúng ta có thể mô tả như sau: Người ta trồng hai cột gỗ cao song song nhau giữa một bãi đất trống và ở giữa treo một bàn nhún (để đủ 2 người nam - nữ cùng đứng). Có làng phải trồng đến hai, ba cây đu trong dịp Tết để đáp ứng yêu cầu vui chơi giải trí của đôi trai gái. Các nam thanh nữ tú kéo tới rủ nhau lên đánh đu, thường thường mỗi cặp đu là một nam một nữ mới thêm phần thú vị, như bài thơ của Hồ Xuân Hương: “Bốn cột khen ai khéo khéo trồng Kẻ thì lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phất phới Đôi hàng chân ngọc duỗi song song Chơi Xuân ai biết Xuân chăng tá? Cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không”. Chơi Ô ăn quan. Còn chơi Tam cúc vào dịp Tết là thú vui giải trí hơn thấp cao chứ không có tính sát phạt như cờ bạc ngày nay. Thử soát xét các cuộc vui trong dịp Xuân về trong lịch sử, ta có thể xếp thứ tự theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: Lễ đua thuyền tổ chức vào đời Lê Hoàn. Mùa Xuân hằng năm, con trai con gái họp nhau đánh đu ở đất Đà Dương (Châu Hóa)… Đến thế kỷ thứ 15 thì trong dân gian, cái phong tục cỗ bàn xa xỉ đã lậm lắm rồi nên điều lệ năm Kỷ Dậu (1429) mới có lệnh: “Người nào du thủ du thực, đánh cờ đánh bạc, thì quan tư và quân dân bắt đem nộp để trị tội, đánh bạc thì chặt 5 phân ngón tay, đánh cờ vây thì chặt 1 phân ngón tay…”. Và đến năm Ất Tỵ (1665) lại có lệnh nhắc lại lệnh cấm chọi gà, đánh cờ, đánh bạc… Trò chơi "Trồng nụ trồng hoa". Xem như vậy, các cuộc vui mùa Xuân càng ngày càng quá lạm, mặc dù lề thói cổ truyền của dân tộc ta là không phải vậy. Ngay cả tục uống rượu, trong đại bộ phận nhân dân ta đến đầu triều Nguyễn vẫn có cái phong thú tao nhã như lời của Phạm Đình Hổ trong “Vũ Trung tùy bút”: “Khi nào có khách thết rượu thì chỉ dùng cái chén nhỏ bằng đầu ngón tay cái, mà uống vài chén rồi thôi ngay, nếu người uống quá thì ai cũng chê là say đắm”. Trò chơi "Rồng rắn lên mây". Một nhà nghiên cứu hiện đại đã có một ý kiến xác đáng về các hội Xuân của dân tộc: “Đi hội Xuân để vui Xuân, ngày vui nhàn rỗi, người dân quê thường đi hội Xuân để tham dự hoặc thưởng thức những trò vui của ngày hội. Và những hội Xuân này, tuy gọi là hội làng nhưng vẫn hằng lôi cuốn được rất nhiều khách thị thành hàng năm tới xem hội với những trò vui hấp dẫn và lành mạnh” (theo Toan Ánh, Làng Xóm Việt Nam). Có lẽ ý kiến ấy là “có lý có tình” khi chúng ta đang muốn trở về với những mỹ tục truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bội San1 like
-
Con cá tra dầu “khủng” đã chết (Dân trí) - Sáng 11/7, người đang sở hữu con cá tra dầu nặng trên 71kg báo tin con cá "khủng" này đã chết vào ngày 5/7, trên thân cá có nhiều vết trầy xước. >> An Giang: Bắt được cá tra dầu nặng 71kg Con cá tra dầu thuộc dạng quí hiếm này được một người dân đánh bắt được trên sông Hậu vào tuần trước ở đoạn bến đò Cây Me, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Sau đó con cá "khủng" được anh Huỳnh Thanh Hồng mua lại với giá gần 12 triệu đồng với mục đích nuôi làm cảnh cùng với cá hô tại ao nhà. Nhưng sau mấy ngày được nuôi dưỡng, con cá tra dầu đã chết. Khi đoàn công tác liên ngành thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Chi cục Thủy sản tỉnh đến nhà anh Hồng kiểm tra tình trạng sức khỏe của con cá, định đưa về nuôi dưỡng rồi thả lại môi trường tự nhiên, thì phát hiện cá đã chết cứng và đang bốc mùi hôi thối. Toàn thân con cá tra dầu có nhiều vết trầy xước (Ảnh: Báo An Giang) Theo nhận định ban đầu của các ngành chuyên môn, nhiều khả năng con cá chết do kiệt sức sau hơn một ngày bị ngư dân vây bắt, toàn thân bị nhiều vết lở loét. Ngay sau đó đoàn kiểm tra và UBND huyện An Phú đã yêu cầu các đơn vị chức năng thành lập Hội đồng thẩm định và tiến hành tiêu hủy con cá theo quy định. Theo ngành chức năng cho biết, loài cá tra dầu đang có nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên vì hiện nay loài giống này chưa nhân tạo được. Đây là loài cá sống vùng nước chảy thích hợp ở vùng thượng lưu. Cá tra dầu là loài cá có tên trong sách đỏ Việt Nam. Nguyễn Hành ____________________Qua 2 bài báo cho ta thấy rằng: Đừng bao giờ cố bắt các vật của tự nhiên để mang về nhà nuôi cho vui. Chúng là của tự nhiên, hãy để chúng sống và chết tự do theo cách của tự nhiên.1 like
-
Lúc nào rảnh Tôi đều vào trang web này đọc, hôm nay Tôi mới vừa đọc xong đến trang cuối của topic này, cảm thấy rùng rợn và xót xa cho những cảnh khổ của những đứa trẻ chưa thành hình bị cha mẹ chúng bỏ rơi, từ trong xâu thẳm lòng tôi thấy đau đớn vô cùng, đã làm mẹ rồi thì nhìn thấy những những việc này mà không giúp ích được gì cảm giác mình lực bất tòng tâm tự thấy buồn vô cùng,. Những người đã cứu giúp bằng cách này hay cách khác, họ thật vĩ đại trong mắt tôi, thật khâm phục. Đôi khi tôi cảm giác sợ hãi vì đang sống để làm một con người phải nghe, phải thấy, phải nhìn những cảnh khổ trên cuộc đời này mà mình không làm được gì để giúp đỡ, tự nguyện rằng nếu có kiếp sau tôi xin không làm kiếp người để không bị đay đáy giày xéo vì phải đau khổ vì những việc do con người làm ra.1 like