-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 08/08/2012 in Bài viết
-
Gửi Mẹ Chồng Tương Lai:
maket171 and 4 others liked a post in a topic by wildlavender
GỬI MẸ CHỒNG TƯƠNG LAI - Mẹ đừng buồn khi anh ấy yêu con. - Bởi trước con, anh ấy là của mẹ. - Anh ấy yêu con một thời trai trẻ. - Nhưng suốt đời anh yêu mẹ, mẹ ơi! - Mẹ đã sinh ra anh ấy trên đời. - Hình bóng mẹ lồng vào tim anh ấy. - Dẫu bây giờ con được yêu đến vậy. - Con cũng chỉ là người phụ nữ thứ hai... - Mẹ đừng buồn mỗi hoàng hôn ban mai. - Anh ấy có thể nhớ con hơn nhớ mẹ. - Nhưng con chỉ là một cơn gió nhẹ. - Mẹ mãi là bến bờ thương nhớ của đời anh. - Con chỉ là một cơn gió mỏng manh. - Người đàn bà khác. - Có thể thay thế con trong trái tim anh ấy. - Nhưng một tình yêu suốt đời âm ỉ cháy. - Anh ấy chỉ dành cho mẹ mà thôi. - Anh ấy có thể cùng con đi suốt cả cuộc đời. - Cũng có thể chia tay ngày mai,có thể. - Nhưng anh ấy suốt đời yêu mẹ. - Dù thế nào con cũng chỉ thứ hai.. Ai thấm ý tâm lý này thì thank nhé!5 likes -
Nhập từ Tam muội phóng sinh Sông nước mênh mông… Thả cá ở đây thật tuyệt! Tha hồ bơi lội sau khoảng ngột ngạt trong bao ny-lông. Giăng lưới bắt cá cũng tuyệt(1). Tha hồ rộng rãi… Bên thả. Bên giăng. Trước thả. Sau giăng. Nhìn hai cảnh ấy cũng thấy ngồ ngộ. Thế gian là thế. Ai thả thì thả. Ai bắt thì bắt. Gieo quả nào gặt quả đó. Rồi cứ theo nghiệp mà đi. Còn chúng sinh sống hay chết là do phước đức của chúng. Tôi không chú tâm với việc phóng sinh. Là không chú tâm bỏ tiền mua cá mua chim về thả. Đủ duyên thì làm. Chú tâm và tập thành thói thì không. Có lẽ quá khứ không huân tập nhiều. Hiện đời, có những nghi ngại khiến mình không thấy hứng thú. Cá ếch ngoài chợ không có người thả, chúng vẫn bị bắt ăn thịt, mình thả còn thấy có chút lợi ích cho vật cho người. Nhưng mấy chú chim, không vì nhờ mình cầu phước cho mình, chắc không có chim bị bắt, cũng không có người tạo nghiệp bắt chim. Thả nhiều, bị bắt càng nhiều, người tạo nghiệp bắt chim càng mạnh? Đại sư Trí Giả ngày xưa làm đầm phóng sinh, thuyết pháp cứu vật, cứu luôn nghiệp sát cho người. Người nghe thuyết pháp, chuyển nghề chài lưới khá nhiều. Cho nên, tập trung cho việc chuyển tâm trước đã. Còn việc phóng sinh, khi nào có duyên mới làm. Mấy chục năm trước, chị em chồng tôi bị bắt vì bán vàng chui. Thiên hạ bày mua chim thả. Ừ thì mua chim về thả. Trong cơn hoạn nạn bày gì làm đó, mong sự may mắn xảy ra. Niệm Phật mở lồng, chim bay hết còn lại hai con. Vỗ mấy cũng không ra. Phải cho tay vào bắt. Cái điềm khiến mình suy ngẫm nhân quả ở đời. Nhân gieo một khi đủ duyên thành quả, có phóng cũng chẳng chịu ra. Mà thiệt! Ở hết một năm. Lần hai là vào tháng Bảy năm ngoái. Ngồi mua nấm mà con cá ở hàng bên cứ phóng vào mình. Quá ba bận, không thể không bận tâm. Mấy bà chung quanh không cho phóng sinh, nói chết. Nhảy dữ vậy mà chết? Nhảy vậy nhưng chết giờ. Phóng sinh không phải là nghiệp của mình, lại nghe phóng rồi cũng chết không sinh, lại càng không thấy hứng thú. Niệm Phật và nhủ với nó vài lời rồi đi. Nhưng đi một đoạn lại thấy hối hận: “Chuyện sống hay chết chưa biết. Nhưng nó đã nhảy qua mình mấy bận... Dù gì, không do chặt đầu làm vẩy mà chết, đỡ đau đớn hơn”. Nghĩ rồi, trở lui mua cá, thả ở cái cầu gì đó không biết. Vừa đi vừa niệm. Tha thiết mà niệm cho chúng sống sót, cho chúng an bình. Có chết cũng được một câu niệm Phật hồi hướng gieo duyên. Thiên hạ vẫn nói: “Dân thường tụng niệm phóng sinh không linh, phải có Tăng Ni mới linh”. Cũng biết, dân thường tụng niệm phóng sinh không linh, do tâm dân thường không tịnh. Là do thân tâm, không do đầu áo nhãn mác. Nhưng trong cái duyên lóp ngóp của chúng bấy giờ, mạng treo chỉ mành, gặp được Tăng chúng thanh tịnh, biết còn để hưởng phước không? Thôi thì dồn tâm tụng niệm cho chúng. Quan trọng ở chỗ hữu duyên, có duyên liền ứng. Quan trọng ở chỗ nhất tâm, có tâm liền cảm. Hết lòng niệm Phật nhất tâm hồi hướng cho chúng trước đã. Tôi tu thiền đâu có niệm Phật. Chỉ niệm khi cầu gia bị hồi hướng cho ai. Bởi nghĩ lực mình không đủ, phải cầu các Ngài gia bị cho chắc. Tôi thấy tha thiết và có lòng thành, niệm Phật sẽ được nhất tâm. Ít nhất là vào lúc đó. “Năng lễ, sở lễ tánh không tịch. Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn”. Tôi tin như thế và đã làm như thế. Tới đây, không biết có còn duyên nào khiến làm những việc đó không. Không thì chắc cũng không làm. Không làm, nhưng không phản đối khi thấy người làm. Nói “ít” thì chính xác hơn là “không”. Với những cái duyên mình thấy chỉ còn hình thức, trở thành tệ nạn cho chính người đó quá rõ, thì cũng lên tiếng ít nhiều. Còn nghe hay không là việc của người. Nói không phản đối vì nhiều lý do: 1. Thế giới này rộng lớn và còn rất nhiều bí ẩn mà với cái trí hiện nay của tôi, tôi không dám chắc là đã thấy đúng bản chất của mọi hiện tượng để mà phản đối. Quá khứ bản thân lầm lẫn đã có. Người hiểu không đúng về mình cũng nhiều. Đâu thể y cứ một vài hiện tượng nào đó để mà thị phi. Cho nên, duyên nào thiện ác đã phân rõ rồi thì nói, không thì cũng tránh khởi tâm, khỏi tổn đức, mình cũng tránh hại người. 2. Chim cá thả rồi, có thể bị bắt lại liền sau đó, nhưng được một lần chú nguyện, cũng là duyên tốt về sau cho chúng. 3. Sáng nào tôi cũng đi chợ. Chợ đời lắm nỗi nhiêu khê. Ếch bị đập đầu vẫn còn chắp tay lại lạy, cá bị chà đất văng bọt tung tóe… Bao nhiêu oan khiên xảy ra trước mắt như chuyện thường ngày ở huyện. Khoanh một vùng nhỏ, đã thấy chúng sinh khổ nạn rất nhiều. Vật đau hiện tại. Người khổ tương lai. Phóng sinh để chúng thoát khỏi những cảnh đau đớn lầm than, thấy cũng nên làm. Với kẻ đồng lương ba đồng ba cọc lương thiện, dành dụm ít tiền phóng sinh, cho dù mục đích quy ngã vẫn là đáng quý. 4. Chúng sinh cang cường, không phải dạy cho điều hay lẽ phải là đã chịu nghe. Hòa thượng ngày trước, vì lòng bi mẫn, khuyên người bạn tôi hãy thôi quyên tiền cúng chùa làm phước, để tâm cho việc tu hành. Vậy mà bực bội bỏ đi. Trong tâm còn sinh oán giận. Đi cho đủ hết Ta-bà khổ nạn, người đuổi, người chê, mới tỉnh quay về sám hối cạo đầu. Mới thấy, đâu phải nói đúng là đã chịu nghe. Cho nên, Đức Phật ngày trước, còn phải lập bày phương tiện, không thể chỉ thẳng con đường thẳng tắt. Huống thời mạt pháp, chúng sinh mê muội càng dữ, cố chấp tự mãn càng kinh, sơ tâm nếu không thuận theo tính dục của họ, khó mà gần gũi độ họ dài lâu. Cho nên, có khi thấy chim chưa thả đã chết, thấy cá thả rồi có cơ bắt lại tức thì… cũng không có ý phê bình các bậc tôn đức vì sao chú nguyện mà không khuyên người đừng thả? Phương tiện độ sinh không thể nghĩ bàn, kẻ ngoài làm sao biết được. 5. Có khi thấy việc phóng sinh đi quá cái mức bình thường, không còn mang nghĩa phóng sinh, hoặc cầu hết bệnh, an lành, thoát nạn, tức vì tự ngã mà làm, không vì thương tưởng chúng sinh… đúng lý thì thấy không hay cho lắm, nhưng xét trên sự, với kẻ sơ tâm vẫn có mặt hơn. Điều đó cho thấy chư vị đã tin nhân quả, không còn nương tựa tháp miếu cô cậu, van lạy cầu xin mê tín dị đoan. Đã biết xả của, mở lòng… Đó là cái nhân tốt đẹp mở đường cho những suy nghĩ, hành động mang tính nhân quả, phước thiện sau này. Nghĩ vậy, tôi ít khởi tâm phê bình, cản trở khi thấy người muốn phóng sinh. Nhưng làm thì tùy. Tôi chú tâm hơn với việc không giết sinh vật quanh mình. Con rết có cắn, không tâm sát hại đã đành, cũng không khởi tâm oán hận bực bội. Con chuột phá phách cũng không có tâm giết nó. Muỗi mòng các thứ… Tập không khởi tâm bực bội để rồi phải giết. Bạn nói bệnh tật? Tại mình có tâm giết hại mới sinh tai họa bệnh tật. Không tâm, duyên tụ vào đâu để sinh? Nếu sinh, là do nghiệp cũ đủ duyên. Phải trả thì trả, không thích tạo thêm nhân mới. Có khi nhờ vậy lại xóa nghiệp cũ cũng nên. Tôi tin như thế và tập làm dần những việc như thế. Cũng là một cách giải nghiệp cho mình. Nghiệp tịnh thanh rồi, ứng duyên, lợi vật sẽ có lợi ích thiết thực cho đời. Hình thức cần có nội dung Người người thích việc phóng sinh là có nhân duyên. Có người do huân cái nghiệp phóng sinh từ đời quá khứ, giờ đã thành tập, cứ nghe phóng sinh là thích rồi làm, không cần lý do. Có người nghe nói phóng sinh có thể sống lâu, hết bệnh, thoát nạn… nên thích phóng sinh. Tính ra, không phải tu thân, tịnh tâm, giữ miệng mà được cái quả như thế còn gì khỏe bằng. Hiện đời lỡ gieo cái nhân bất thiện cũng thoát tù tội thì sao không làm? Có khi phóng sinh cả mấy trăm triệu cũng vì lý đó. Phóng sinh chỉ vì thương vật, không vì cầu phước, cầu lợi cho mình, chỉ có Thánh nhân làm được. Vì phần tự lợi tương đối hoàn chỉnh, thân tâm như hóa như huyễn cầu chi? Chỉ do bi tâm xuất hiện ở đời độ sinh, vì người vì vật là chính. Còn lại đa phần chúng ta, những việc vị tha đều có vị ngã ít nhiều trong đó. Thành nếu mua cá, thả chim để cầu phước lợi cho mình hay cho người thân là việc tự nhiên. Vẫn là đáng quý, vì mình đã tin nhân quả. Có điều, nên nhìn vấn đề đúng như những gì kinh dạy. Có vậy việc làm mới không hư vọng. Chỉ có hình thức, không đúng bản chất, đến khi cái quả nghịch ý xảy ra, lại trách Phật Tổ nói sai, dang dở niềm tin đối với Tam bảo, không còn hành thiện, đọa ba đường dữ nhanh chóng, uổng phí cho mình. Cho nên, cần hiểu cái lý cho đúng, trên sự làm được đến đâu thì làm. Có làm, dù chỉ chút ít cũng là rất quý. Không nên phương tiện đến nỗi chỉ còn hình thức, trở thành dối mình gạt người. Tôi thấy một đoạn, không biết tác giả là ai, ghi vầy: “Dược Sư Lưu Ly Bổn Nguyện Công Đức dạy rằng cứu thả các sinh mạng, tiêu trừ được bệnh tật, thoát khỏi các nạn tai”. Nói vậy, chỉ cần hình thức phóng sinh, sẽ được cái quả tiêu trừ tật bệnh… Phật tử cũng truyền miệng nhau như vậy. Nhưng khi đọc vào bản kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Ðức,(2) những phần liên quan đến việc phóng sinh, thì thấy không hẳn như vậy. Kinh ghi: “Nếu có người muốn thoát bệnh khổ, nên vì người đó 7 ngày 7 đêm thọ trì 8 phần trai giới. Tùy lực làm được, sắm sửa đồ ăn, thức uống cùng các vật dụng cúng dường chư Tăng, ngày đêm sáu thời lễ bái cúng dường Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đọc tụng kinh này 49 biến…(3) cũng cần phóng đến 49 tạp loại chúng sinh, thì người bệnh có thể qua khỏi ách nạn, không bị các quỷ ngang ác nhiễu hại”. Hoặc “Nếu các quốc vương dòng Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh mà gặp nạn tai, như dân chúng bị dịch, nước khác xâm lăng, nội loạn, quá thời chẳng mưa... thì lúc ấy các vị phải đem lòng từ thương xót tất cả hữu tình, ân xá tội nhân, y theo pháp cúng dường đã nói mà cúng dường Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Do thiện căn đó cộng với lực bản nguyện của Như Lai, trong nước liền được an ổn, mưa gió thuận thời, lúa thóc được mùa, tất cả chúng hữu tình đều vui vẻ, không bịnh hoạn, không bị thần Dược Xoa bạo ác não hại. Tất cả tướng ác đều ẩn. Các vị quốc vương sống lâu, không bịnh, tự tại, mọi việc đều thêm lợi ích”. Theo đó thì thấy, phóng sinh súc vật chỉ là duyên phụ giúp cho yên ổn, hết bệnh, thoát nạn. Duyên chính vẫn là giữ giới, trì tụng kinh điển, niệm danh chư Phật như lời thệ nguyện mà hàng Dược Xoa nói ở cuối kinh: “Nơi làng, xóm, thành, nước, hoặc trong rừng cây vắng vẻ, nếu có lưu bố kinh này hoặc lại có người thọ trì danh hiệu Dược Sư Lưu Ly, cung kính cúng dường, quyến thuộc chúng con nguyện đều hộ vệ thoát khỏi khổ nạn, các việc mong cầu khiến được thành tựu. Có ai bịnh hoạn khổ ách muốn cầu cho khỏi, cũng nên đọc tụng kinh này, lấy chỉ ngũ sắc kết tên chúng con, sau như ý rồi thì mở kết ra”. Cái chính của việc thoát khổ hết nạn là nhờ từ tâm, không chỉ nằm trên hình thức phóng sinh. Tuy nhờ từ tâm, nhưng sao lại phải trì tụng kinh điển…? Từ tâm là thứ có sẵn trong mỗi chúng sinh, vì bị cái tôi chất đầy phân biệt, ái dục che đậy mà ẩn. Giữ giới, niệm Phật, ngồi thiền, trì chú, hồi hướng tất cả chúng sinh đều được an vui, đều thành Phật đạo, chính là phương tiện giúp xóa cái tôi, hiển phát lòng từ. Ngày xưa, khi Phật ở nước Câu-viêm-di. Vua nước ấy tên Ưu-dà-diên. Đệ nhất phu nhân tên là Xá-ma, là một tín nữ trung thành của Phật và hàng Thánh chúng. Bà thường thân cận cúng dường Như Lai, ca ngợi công đức của Ngài hết mực. Đệ nhị phu nhân thì không. Một lần bà tâu với vua: “Như Lai và hàng đệ tử có chỗ không chánh đối với phu nhân Xá-ma”. Nhà vua nghe xong, nổi giận, lấy cung bắn vào Xá-ma. Vì thương xót vua, Xá-ma nhập Từ tam muội. Mũi tên bắn ra, quay lại dừng trước trán vua. Tên ấy cháy đỏ như một khối lửa trong rất đáng sợ. Vua bắn ba phát, thảy đều như vậy(4). Nói “Từ tam muội” là nói tâm từ bình đẳng. Mong muốn người thân cũng như người oán đều được an vui, vui rồi càng vui thêm nữa. Chính nhờ phát được tâm Từ tam muội nói đó mà mọi nạn tai thoát hết, ngục tù cũng không. Không phải chỉ có hình thức phóng sinh mà thành tựu được. Kinh Phạm Võng nói: “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm phóng sinh…”. Đại sư Phật Ấn cũng nói: “Giới sát, niệm Phật kiêm phóng sinh…”. Mọi việc đều cần “từ tâm”. Không với từ tâm, cái quả nhận được chưa hẳn như kinh đã nói. Nếu có từ tâm không cần phóng sinh, bệnh tật, tai ương, hoạn nạn cũng tiêu. Song, có từ tâm cũng không từ chối làm việc phóng sinh. Phóng sinh với một tâm từ, mọi thứ sẽ được chăm chút, sẽ vì sự sống muôn loài phóng sinh đàng hoàng, cũng không sinh tâm ngã mạn thấy mình hơn người… Phóng sinh, phương tiện giúp ta hiển phát tâm từ, cũng là hệ quả tất yếu khi tâm từ hiển phát. Phóng tâm bất thiện đừng để nó sinh Từ tâm, thể hiện qua việc giữ gìn 5 giới của người tại gia. 1. Không vì một miếng ăn ngon mà giết mạng sống của vật. Chẳng qua vì nghiệp huân tập quá lâu, ừ thì chưa thể ăn chay, nhưng bỏ cái tâm sát hại muốn ăn cho tươi, cho bổ. Bỏ được là đã phóng sinh. Phóng đi cái tâm vì mình hại người hại vật. Bỏ rồi, từ từ hướng tới ăn chay. Tập tháng 2 bữa, 3 bữa… cứ thế dần lên. Một lúc nào đó chay tịnh thành nghiệp, thói quen ăn mặn liền lùi. Giữ được không giết dù với vật nhỏ là đang làm việc phóng sinh. Bỏ tiền phóng sinh thêm nữa càng quý. 2. Không vì cái lợi của mình mà nói gian dối, nói lời đâm thọc, chia rẻ, nguyền rủa, phá nát gia cang nhà người. Giữ gìn khẩu nghiệp, không phạm những lỗi như vậy là đang phóng sinh. Phóng đi cái tâm nói dối, gian tham hại người, không để nó sinh. 3. Không vì lợi lộc cho mình mà sinh thu gom, trộm cắp, tham nhũng, nhiễu nhương, khiến người khổ sở vô vàn, rồi đi phóng sinh cầu phước cho mình thoát nạn thoát khổ. Phước vật không bằng phước người. “Cung dưỡng cho hàng súc sinh được phước trăm lần, cho người phạm giới được phước ngàn lần, cho người trì giới được phước vạn lần…”(5). Làm sao phóng sinh cứu vật với tâm vị ngã mà đủ phước đức trả được cái nghiệp mình đã gây khổ cho người? Cho nên, vì do vô minh từ đời quá khứ, không biết mới làm. Giờ đã biết rồi, phóng sinh với tâm hối lỗi vẫn là cái phước gỡ bớt oan khiên, nhưng nhớ chừng đó chưa đủ. Cần phải có tâm ngừa lỗi. Những gì vì tiền mà khiến người khổ, nhất định không làm. Bố thí, xây chùa cho chúng Tăng ở, phước vẫn không bằng chính mình quy y, giữ giới đầy đủ(6). Đừng bán cái đức mà mua cái phước. Vất vả vô ngần! Cố gắng phát huy thiện nghiệp, hồi hướng ác nghiệp tiêu bớt. Đó là phóng đi cái tâm trộm cắp, là giới mà người Phật tử tại gia phải giữ. 4. Không vì tham ái của mình mà làm khổ người. Cái chuyện một vợ một chồng mà vẫn duyên thừa duyên thiếu là chuyện thường tình. Trôi lăn sinh tử bao đời, kết ân, kết oán cũng nhiều, duyên thừa sao mà tránh khỏi. Nhưng có lòng từ, không vì vui riêng mà làm khổ chồng, khổ vợ, khổ con. Ngưng được là đang phóng sinh. Phóng đi cái tâm tham ái tà dâm không để nó sinh cái nhân đau khổ cho người hiện tại, cho mình tương lai. Cái chuyện tà dâm, trong kinh Tăng Nhất A-hàm quyển I, Phật nói: “Hai thứ khiến người tham đắm, đó là dâm ái rượu chè”. Vì thế cần tỉnh ngay từ lúc đầu. Đừng vì một chút lao xao, hồn xiêu phách tán mà bước chân vào, để phải dính chùm với nhau rồi dừng không được. 5. Phật nói: “Ta không thấy một pháp nào đã thực hành, thực hành nhiều mà chịu quả báo súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, còn nếu sinh trong loài người thì bị cuồng si, ngu hoặc, không biết chân ngụy… như là uống rượu. Tâm thích uống rượu thì chỗ sinh ra không có trí tuệ, thường chịu ngu si. Vì thế cẩn thận, chớ có uống rượu”(7). Phật nêu cái nhân, nói luôn cái quả, và khuyên đừng có uống rượu. Uống rượu được… ngu. Ở đời không gì thê thảm bằng “được cái ngu”. Đầu mối của mọi khổ nạn. Cứ nhìn tình trạng uống rượu của toàn thế giới hiện nay, có thể kết luận tương lai thế giới sẽ như thế nào. Không tin nhân quả chính là hệ quả của ngu. Châm ngòi mở rộng kho tàng khổ nạn không dứt. Sống không nghiện rượu, không làm khổ mình khổ người là có từ tâm. Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh. Nếu thêm niệm Phật, tham thiền, bố thí… thì không gì bằng. Làm rồi hồi hướng. Nguyện cho tất cả người thân kẻ oán đều được an vui, nghĩ thiện làm thiện để tránh khổ đau. Hồi hướng được vậy, từ tâm đang hiển, sở nguyện đều thành. Không kiếp này thì những kiếp sau cũng thành. Cho nên, không tiền phóng sinh mà chịu giữ giới, niệm Phật, hành thiền, tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, lợi ích cho đời, rồi đem hồi hướng cho mình và người, sở nguyện sẽ thành, nghiệp cũ sẽ tiêu (dù là định nghiệp, tuy vẫn xảy ra, nhưng chuyển ít nhiều)(8). Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện Công Đức cũng nói đến mặt lợi ích của việc thọ trì tụng niệm như sau: “Nếu có người nam người nữ với niềm tin thanh tịnh, nghe được danh hiệu Phật kia, chí tâm lễ kính, ân cần cúng dường, thọ trì, niệm, tụng … nghiệp chướng trừ diệt, được tâm Bồ-đề bất thối chuyển, đầy đủ trí túc mạng, chỗ sinh ra thường được thấy Phật, không bệnh, trường thọ, sau khi mạng chung sinh vào nước đó…”(9). Cho nên, phương tiện chư Phật đưa ra có rất nhiều đường. Quan trọng là hợp với căn cơ mình. Hợp rồi, chịu hành, liền ứng. Nhưng nhớ, thế gian duyên khởi, tùy cơ ứng pháp. Có khi niệm Phật lợi ích cho mình, nhưng phải tham thiền, trì chú… mới lợi cho người. Không phải mình lợi thì người cũng lợi. Mọi thứ tùy duyên. Bố thí, phóng sinh… cũng vậy. Song dù ứng dụng pháp nào, nên tránh tình trạng chỉ có hình thức. Cần rõ nội dung chính xác. Đừng như nhân vật trong kinh Bách Dụ, khổ nhọc cất công đi tìm kho báu. Tìm ra, chỉ lấy tấm chăn phủ ngoài, kho tàng bỏ lại. Nhưng lại không biết, dương dương tự đắc, thỏa mãn cho đã đủ rồi. Chăn ngoài, có thể giúp ta ít nhiều qua cơn lạnh giá, nhưng không cứu nỗi những việc lớn hơn. Cái chính vẫn là làm sao khai phát kho báu trong mỗi chúng ta. Chú thích (1) Chỉ là một câu nói bông đùa. Nó không có giá trị nếu được tách ra khỏi bài viết này. (2)Đại Tạng Kinh, tập 14, kinh hiệu 450, Ngài Huyền Trang dịch sang Hán văn. (3) Còn nhiều thứ khác. (4) Kinh Đại Bảo Tích quyển 6, phẩm Pháp Hội Vua Ưu-đà-diên. (5) Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển I, Phẩm Địa Chủ. (6) Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển II, Phẩm Tứ Đế. (7) Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển I, Phẩm Ngũ Giới. (8) Kinh Đại Bát Niết Bàn, hệ A-hàm cũng nói đến tu tâm, tu giới, tu thân, tu tuệ chuyển nghiệp. (9)Đại Tạng Kinh, tập 14, kinh hiệu 451, Ngài Nghĩa Tịnh dịch sang Hán văn. Chân Hiền Tâm4 likes
-
Năng Lượng Của Sự Sống
Đại Phúc and 2 others liked a post in a topic by Guest
@Bác HGL: Vâng, bài này là nghiên cứu của Em ạ. Có ghi tên em ở dưới cùng mà. Hỳ hục mất cả tháng trời mới làm xong cái đó. @Chim chích bông: Không có gì là bí mật cả em ạ. Tuy nhiên vẫn đang trong quá trình thử , đo đạc và chứng nghiệm thực tế. Em yên tâm, phải có kiến thức về KHÍ trong PTLV thì mới làm được món này. Tạm thời trước mắt, nguyên lý thì sẽ trình bày ở các mục tiếp theo. Còn sử dụng thì ngoài mục đích nó là phong thủy luân thì việc nước chảy tạo ra một dòng tương tự như dòng Điện tư nhiên, kết hợp với hợp chất bao gồm các chất Organic, kim loại, Thạch anh và cuộn cảm ứng bên trong đó . Nó sẽ tạo ra một năng lượng SỐNG (OR) để thay đổi năng lượng chết (DOR) tạo ra từ các thiết bị điện tử. Tác dụng và các thông tin khác , HTH sẽ trình bày ở bài viết tiếp theo. Thân chào hth3 likes -
Hé lộ bí ẩn vì sao cô gái chết trước cổng chùa mặc đồ tu 'hiện hình' trên điện thoại Những câu chuyện liên quan đến cái chết của cô gái treo cổ tự vẫn ở cổng Tam quan, chùa Thanh Sơn đến tai nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, và những điều bí ẩn dần dần được hé mở… Sự trùng hợp kỳ lạ… Ông Đặng Văn Triều, công tác tại tổ chức Unesco Phương Đông, chủ nhân của chiếc điện thoại xuất hiện hình ảnh người con gái kì lạ cho biết: "Sau khi trở về từ chùa Thanh Sơn, tôi đã mang những hiện tượng kỳ lạ như cái chết của con rắn lạ tại sảnh trước lối vào động Thanh sơn; chuyện nhóm thợ xây giết, cắt tiết và treo cổ con vật kỳ quái tại cổng Tam quan trước khi cô gái mất một ngày và việc hình ảnh cô gái ấy xuất hiện trong điện thoại của mình cùng chuyện ông sử dụng "năng lượng tia lửa đất" để cầu siêu cho linh hồn cô gái trẻ ra sao, trao đổi với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Sau khi nghe xong câu chuyện, lập tức ông Hải đã thuyết phục tôi trở lại chùa Thanh Sơn một lần nữa. Khi tôi cùng nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải và một số người khác trong đoàn trở lại chùa Thanh Sơn để nghiên cứu sâu hơn về sự việc thì đã phát hiện ra rất nhiều sự trùng hợp kỳ lạ". Trước thông tin còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn này, PV đã liên hệ và có cuộc trao đổi trực tiếp với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải: "Quả thực sau khi nghe ông Triều kể lại toàn bộ những hiện tượng kì lạ xung quanh cái chết của cô gái treo cổ tự vẫn tại cổng Tam quan, chùa Thanh Sơn, tôi rất tò mò và cho rằng đây là một hiện tượng kỳ lạ, hiếm gặp nên đã đề nghị ông Triều cùng một số người tổ chức một chuyến đi về chùa Thanh Sơn để nghiên cứu rõ hơn về những hiện tượng kì lạ này. Tại đây, khi đối chiếu hình ảnh xuất hiện trong chiếc điện thoại của ông Triều và bức hình nhà chùa thờ vong cô gái xấu số thì có rất nhiều điểm tương đồng, như cùng một người nhưng ở độ tuổi khác nhau. Khi hỏi tên tuổi cô gái, tôi đã hết sức bất ngờ khi phát hiện tên của người đàn bà này trùng khớp hoàn toàn với tên người vợ đã quá cố của tôi: Nguyễn Thị Yến. Điều kỳ lạ hơn, tên chính xác của vợ tôi khi mới sinh ra được bố mẹ đặt là Nguyễn Định Yến, nhưng khi đi làm giấy khai sinh, không hiểu vì lý do gì người ta lại ghi nhầm sang Nguyễn Thị Yến. Thứ hai, ngày mất của cô gái lại trùng với ngày cưới của vợ chồng tôi. Thứ ba, khi chết cô gái treo cổ tự vẫn ở cổng Tam quan, chùa Thanh Sơn, có đội một chiếc mũ len, mặc bộ quần áo màu nâu trong khi đó lúc thời điểm trước khi vợ tôi qua đời cũng có trùm một chiếc khăn nâu, nhìn tựa giống chiếc mũ mà cô gái kia đội và cũng mặc một bộ quần áo tương tự. Hình dáng lúc cô gái mất, cũng gầy gò, nhỏ bé như vợ tôi vậy. Lúc đó, tôi có linh cảm rằng giữa tôi và cô gái này chắc chắn có một mối liên hệ vô hình nào đó, khó giải thích nổi". Bà NguyễnThị Dận, mẹ của cô Yến. Ảnh: Xuân Thắng. Đi tìm lời giải…Trước những sự trùng hợp hết sức kỳ lạ đó, ông Hải đã gặng hỏi sư thầy Đàm Tịnh, trụ trì chùa Thanh Sơn địa chỉ quê quán nhà cô gái kia. Sau đó, sư thầy Đàm Tịnh đã dùng một mảnh giấy ghi chi tiết những thông tin liên quan, cùng địa chỉ nhà cô gái này để cung cấp cho nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải với nội dung: Tên cô gái là Nguyễn Thị Yến, sinh năm Quý Sửu, thọ 37 tuổi, mất ngày mùng 2 tháng chạp, năm KS (tức ngày 16-1-2010). Địa chỉ quê quán tại xóm Ải, thôn Phí Trạch, xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội và còn cho biết thêm, người nhà đến nhận xác cô Yến tại chùa Thanh Sơn là anh trai Nguyễn Văn Doanh. Khi đã có đầy đủ thông tin về quê quán của cô gái, lập tức đoàn nghiên cứu gồm có 4 người: ông Hải, ông Triều, một luật sư, cùng một nhà ngoại cảm lập tức lên đường tìm về địa chỉ nhà cô gái để tìm những câu trả lời cho những vấn đề còn đang bị bỏ ngỏ. Hôm đoàn nghiên cứu do nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải dẫn đầu về thăm hỏi gia đình cô Yến và tìm hiểu thêm về những vấn đề xung quanh vụ việc thì lại đúng vào ngày gia đình đang làm cơm cúng 100 ngày cho cô gái. Khi được hỏi về bức ảnh xuất hiện trong máy của ông Triều có phải là cô Yến không, thì phía gia đình xác nhận chính là cô Yến nhưng có điều hình ảnh trong chiếc điện thoại không phải là hình ảnh của cô thời điểm khi mất mà là cách đó 10 năm, tức là vào năm cô 27 tuổi", ông Hải cho biết. Trước những câu chuyện hết sức kỳ lạ trên, nhằm cho bạn đọc có một cái nhìn đa chiều và xác thực, PV đã lặn lội tìm về đúng nhà cô gái bí ẩn để tìm hiểu thêm thông tin xung quanh vụ việc. Trao đổi với PV về đề vấn này, bà Nguyễn Thị Dận, 83 tuổi, mẹ đẻ cô Yến cho biết: "Hôm gia đình tôi đang làm cơm cúng 100 ngày cho cháu Yến thì có một vài người đến hỏi chuyện xung quanh cái chết của con gái tôi. Những người này hỏi rất nhiều như ngày tháng năm sinh của con gái tôi là bao nhiêu, tên chính xác là gì, tại sao lại giúp việc ở chùa Thanh Sơn… Khi họ đưa ra một bức hình trong chiếc điện thoại di động và bảo gia đình chúng tôi xác định xem có phải là cháu Yến không. Khi đó, con trai tôi là Nguyễn Văn Doanh, đã xác định hình ảnh trong chiếc điện thoại của những người này chính là cháu Yến, con gái tôi". Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cùng những người bạn của mình thắp hương trước mộ cô gái trẻ. Ảnh: TL Có duyên với cửa Phật…"Tôi sinh hạ được 5 người con, Yến là con gái út. Khi còn trẻ, nó vẫn phát triển bình thường như bao người khác. Đến năm 20 tuổi cháu Yến vào miền Nam để làm ăn, được 2 năm thì trở về. Sau đó, không hiểu tại sao Yến thường xuyên đi chùa chiền, miếu mạo. Thậm chí còn ở lại giúp việc cho các chùa nơi nó đến, rất ít khi về nhà. Mỗi lần về nhà tôi cùng những người trong gia đình thường động viên cháu nên ít đi chùa và lo chuyện chồng con để làm ăn buôn bán. Tuy vậy, Yến không chịu và còn nói nếu mọi người còn nhắc đến chuyện kết hôn lần nữa thì nó sẽ bỏ hẳn nhà lên chùa, không bao giờ về nữa. Nhiều thầy ở các chùa còn bảo, cháu Yến có căn duyên với cửa Phật nên không sống được tại gia mà phải đi các đền chùa, miếu mạo để ở. Trước thái độ cương quyết của Yến, mọi người trong gia đình tôi đành chấp nhận và không dám nhắc đến chuyện đó nữa. Trước khi treo cổ tự vẫn tại chùa Thanh Sơn, Yến đã đi giúp việc cho rất nhiều chùa, trong quãng thời gian 9 năm", bà Dận cho biết thêm. Cô Nguyễn Thị Yến đã giúp việc ở chùa Thanh Sơn được hơn 1 năm trước khi cô treo cổ tự vẫn tại cổng Tam quan vào ngày 16-1-2010. (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PLXH3 likes
-
Cô gái chết trước cửa thiền 'hiện hình' trong điện thoại của vị khách đến chùa ngồi thiền Sau khi cô gái chết được khoảng 1 tháng, vào một ngày đầu năm 2010, có một vị khách cùng người bạn của ông đến chùa Thanh Sơn để ngồi thiền.Trong quá trình ngồi thiền, ông khách này đã tắt nguồn chiếc điện thoại di động mang theo. Khi thiền xong ông này vào chùa ăn cơm, khởi động lại máy thì phát hiện trên màn hình điện thoại của mình xuất hiện hình ảnh một cô gái lạ, đang trong tư thế chắp tay lễ Phật… Điềm báo… "Sau khi nhóm thợ xây dựng giết hại và treo cổ con rắn lạ trên cổng Tam Quan trước lối ra vào, sau đó, có một nhà ngoại cảm đến chùa để làm lễ thấy vậy liền khiển trách những người thợ, rằng tại sao ở chốn cửa Phật linh thiêng lại có những hành động sát sinh như vậy. Người này đã yêu cầu nhóm thợ làm cổng hạ ngay xác con rắn xuống và bảo người mang đi chôn cất cẩn thận. Chỉ sau một ngày, cô Yến, người giúp việc trong chùa ra đúng cổng Tam quan treo cổ tự vẫn. Vị trí cô gái treo cổ lại trùng với vị trí mà trước đó nhóm thợ đã treo con rắn lên. Lúc này, mọi người mới sực nhớ đến lời nói của nhà ngoại cảm phán trước đó. Một người giúp việc trong chùa cho biết: "Vì chùa nằm sát núi, nên việc nhìn thấy rắn là chuyện bình thường. Nhưng trường hợp con bị mắc kẹt và chết trước sảnh động Thanh Sơn và con rắn bị nhóm thợ giết treo trước cổng Tam quan thì chưa bao giờ thấy, vì hình dáng của hai con này rất lớn, màu sắc kì lạ". Hình ảnh kỳ lạ… Nhưng có lẽ câu chuyện kỳ lạ, khó giải thích nhất xung quanh cái chết của cô gái trẻ là việc, sau khi mất được một tháng. Vào một ngày đầu năm 2010, khi có một vị khách đến viếng chùa, ngồi thiền trong động Hương Đài, thiền xong người này về nhà ăn chùa Thanh Sơn nghỉ ngơi, khi khởi động điện thoại thì bất ngờ xuất hiện hình ảnh một cô gái trẻ, đầu đội mũ len, đang chắp tay niệm phật. Trước câu chuyện mang nhiều bí ẩn này, PV đã có cuộc trao đổi với chủ nhân của câu chuyện này. Di ảnh cô Nguyễn Thị Yến Người đàn ông này là ông Đặng Văn Triều, làm việc tại Trung tâm Unesco Phương Đông, đồng thời là cộng tác viên thân thiết của Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Trao đổi với PV, ông Triều vẫn nhớ như in cái ngày kỳ lạ đó: Hôm đó là một ngày đầu năm 2010, ông Triều cùng người bạn của mình là ông Nguyễn Đức Chính, có đến chùa Thanh Sơn, thuộc địa phận huyện Mỹ Đức, Hà Nội để ngồi thiền. Do đây là chốn linh thiêng, đặc thù của ngồi thiền cần phải yên tĩnh, nên ông Triều đã tắt điện thoại để tránh bị làm phiền trong quá trình ngồi tĩnh tâm. Hai vị khách ngồi thiền trong chùa Đậu - động Hương Đài, một ngôi chùa cổ nằm sâu bên trong quần thể chùa Thanh Sơn suốt hai, ba tiếng đồng hồ. Ngồi thiền xong, hai vị khách đi ra ngoài nghỉ ngơi và ăn cơm, trên đường đi về nhà ăn của chùa, bất ngờ ông Triều cùng ông Chính nhìn thấy bên vách núi xuất hiện một con rắn màu nâu, hình thù kỳ quái chặn ngang lối đi, lúc đó con rắn còn dựng đứng dậy, mắt nhìn trừng trừng nhìn về phía hai người. Nghĩ chắc là rắn thiêng nên ông Chính đã chắp tay vái còn ông Triều chỉ đứng quan sát, được một lúc con rắn bỏ đi. Thời điểm đó, ông Triều mới lấy điện thoại ra để khởi động lại nguồn, thì lạnh người phát hiện ra trên màn hình điện thoại của mình xuất hiện một cô gái trẻ, đầu đội mũ len, quần áo màu nâu như màu áo của các tăng ni phật tử trong chùa mặc, đang trong tư thế chắp tay niệm Phật. Ông Đặng Văn Triều, chủ nhân của chiếc điện thoại xuất hiện hình ảnh giống với cô Yến. Thấy câu chuyện kỳ lạ, ông Triều đã kể lại với vị trụ trì ở đây thì sư thầy này cũng hết sức kinh ngạc. Lúc đầu, vị trụ trì quan sát rất lâu và có nói với ông Triều rằng, nhìn hình ảnh rất quen không biết đã gặp ở đâu. Sau khi cơm nước xong, ông Triều được trụ trì gọi lên gặp riêng và cho biết, hình ảnh xuất hiện trong điện thoại của ông có rất nhiều nét tương đồng với người con gái đã treo cổ tự vẫn tại chùa trước đó một tháng. Để khẳng định cho những lời nói của mình, trụ trì đã dẫn vị khách đến sảnh trước cửa động Thanh Sơn nơi thờ vong cô gái. Lúc này, khi mang tấm hình xuất hiện trong chiếc điện thoại di động so sánh với bức ảnh cô gái nhà chùa đang thờ thì có rất nhiều nét tương đồng, ông Triều cho biết thêm. Dù gặp phải câu chuyện hết sức kỳ lạ khi đến ngồi thiền tại chùa Thanh Sơn, nhưng đây lại không phải là lĩnh vực ông Triều quan tâm, nghiên cứu nên ông không thật sự để tâm. Cho đến một ngày, ông đem câu chuyện này kể lại với nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, chủ nhiệm bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thì những bí ẩn đằng sau đó dần dần được hé mở… (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PL&XH3 likes
-
Nghe cụ bà 99 tuổi kể chuyện sống lại sau 7 ngày viếng thăm 'âm phủ' Cụ ngưng thở trong vòng bảy ngày rồi bỗng nhiên tỉnh lại. Sau sự cố đó, cuộc đời của bà có quá nhiều điều đổi thay và kỳ lạ. Khi trở về tỉnh Bến Tre, chúng tôi thực sự bất ngờ câu chuyện về cụ già Phạm Thị Tưởng, ở ấp 1, xã Hưng Nhượng, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, đã 99 tuổi có mái tóc dài 3,5 m lại từng ngưng thở suốt 7 ngày, rồi sau đó đột nhiên sống lại. Mặc dù đã 99 tuổi, nhưng cụ Tưởng vẫn khỏe mạnh, đi lại không cần dùng đến gậy. Nhắc đến những chuyện trong quá khứ, cụ vẫn còn nhớ rất rõ. Năm 9 tuổi, trong một lần nằm ngủ, cụ Tưởng mơ thấy có người bảo một thời gian ngắn nữa, bà sẽ phải "lên trời". Người trong giấc mơ bảo, nếu cụ vẫn có “căn” với cuộc sống thì sẽ trở về, nếu không thì sẽ ra đi mãi mãi. Sau đêm mơ đó khoảng chừng mười ngày, trong khi sức khỏe đang bình thường, vẫn chơi đùa với lũ bạn hàng xóm, bỗng nhiên sức khỏe của cô bé Tưởng trở nên yếu ớt. Bởi bị ám ảnh bởi giấc mơ và cho rằng đó chính là điềm báo, cô bé bảo với cha mẹ: “Con 'lên trời' đây. Nếu bảy ngày sau, con không trở về thì hãy làm ma chay”. Chỉ mới nói dứt lời, cô bé Tưởng tắt thở. Mặc dù đã 99 tuổi nhưng cụ Tưởng vẫn đi lại một cách bình thường Khi đó, cả gia đình cụ rất đau buồn, dù không dám tin lời của con đã nói trước khi chết, nhưng mọi người trong gia đình vẫn nuôi hy vọng mong manh con mình sẽ sống lại nên không làm ma chay. Hồi đó, cha mẹ cô bé Tưởng đi khắp các chùa chiền để khấn cầu con mình có thể trở về.Bảy ngày trôi qua, thấy cô bé Tưởng bắt đầu cử động một cách yếu ớt, mắt dần dần hé mở. Mọi người lúc này vui mừng khôn xiết, cố gắng đút từng thìa cháo cô bé ăn. Cụ Tưởng chuẩn bị thắp nhang ở miếu của mình Cụ Tưởng chia sẻ, mình không hề biết gì trong bảy ngày ngưng thở. Trí nhớ của cụ trong suốt bảy ngày đó chỉ là một khoảng trống không có bất kỳ hình ảnh nào còn lưu lại.Sau lần chết hụt đó, cô bé Tưởng không thể ăn bất kỳ thứ gì liên quan đến động vật, thức ăn chủ yếu đến nay của cụ là thực vật. “Tui không thể nào ăn sướng được. Cứ mỗi lần ăn thịt là lại nôn thốc nôn tháo”, cụ rành rõ chia sẻ. Về già, bên cạnh ăn hoa quả, cụ còn có thể ăn sống mì tôm chay chay. Cụ không hề cảm thấy cuộc đời của mình là kham khổ. Một điều kỳ lạ là từ sau khi chuyện ngưng thở bảy ngày rồi sống lại, ngoài việc không ăn được thức ăn động vật, thì hễ ai động đến mái tóc hay mái tóc chạm vào nước là đầu của cụ lại bị đau. Ban đầu, vẫn chưa biết chuyện này, cha mẹ cụ vẫn cho con tắm rửa một cách bình thường. Tuy nhiên, sau mỗi lần tắm, họ lại thấy con ốm nặng, phải chừng mười ngày sau mới khỏi. Sau nhiều lần như vậy, cha mẹ mới phát hiện những cơn ốm "thập tử nhất sinh" của con là do động đến nước. Cũng từ đó, bé Tưởng “cạch” nước. Cụ Tưởng lau nước mắt khi nhớ lại những chuyện đã qua Trên cơ thể cụ Tưởng, chỉ có hai tay và hai chân là có thể tiếp xúc với nước, còn những bộ phận khác thì không. Đã gần 90 năm trôi qua, cụ không hề tắm gội. Hàng ngày, cụ chỉ dùng khăn lau cơ thể và thay áo quần rồi giặt. Nhưng cơ thể của cụ vẫn không hề bị "bốc mùi".Cũng chừng đó năm, mái tóc của cụ Tưởng cũng không được cắt. Sau khi hồi sinh, mỗi khi cắt tóc là cụ đau đầu đến mức không chịu đựng nổi. Đến năm mười tuổi, mái tóc của cụ bỗng nhiên bết dính lại với nhau. Không được tắm gội, cắt tỉa, nên đến nay, mái tóc ấy đã dài 3,5 m. Để mái tóc không làm ảnh hưởng đến cuộc sống của mình, cụ Tưởng may một túi màu nâu để đựng tóc rồi quấn xung quanh cổ của mình. Chúng tôi ngỏ ý muốn tận mắt chứng kiến mái tóc kì lạ thì cụ từ chối và cho rằng: “Đã mấy chục năm rồi không ai có thể nhìn thấy mái tóc của tui. Đến những người bà con cũng không được”. Theo lời cụ, mặc dù sắp bước sang tuổi 100 nhưng mái tóc của cụ chỉ có một vài sợi bạc, còn lại có màu nâu hạt dẻ. Khi hỏi về bí quyết sống trường thọ mà vẫn khỏe mạnh, cụ từ tốn chia sẻ: “Tui không có bất kỳ bí quyết gì. Có lẽ do tui không ăn thức ăn động vật mà chỉ ăn thức ăn thực vật và thường xuyên đi lại, nên mới có sức khỏe như thế này. Không chỉ thế, tui vẫn thường đọc kinh Phật để ngẫm về cuộc sống”. Theo ông Phạm Văn Lâm (người cháu gọi cụ Tưởng bằng cô ruột, 62 tuổi) cho biết, cụ Tưởng luôn bảo cháu chắt trong gia đình phải thường xuyên đọc kinh Phật. Điều cụ dạy con cái không có gì cao xa mà chỉ bảo cuộc đời chỉ có một chữ không. Cứ lấy chữ “không” trong kinh phật mà sống. Bởi con người đến với cuộc đời từ một con số không và khi trở về cát bụi cũng chỉ là một con số không. Do đó, không nên chạy theo danh lợi hay để lòng mọi chuyện, không suy nghĩ quá nhiều để khiến tâm não không được yên bình. Đến nay, cả gia đình cụ đều theo đạo Phật. Mặc dù không lên chùa để tu, nhưng cháu chắt cụ luôn tâm niệm nghe theo lời dạy của cụ để sống tốt với mọi người. Như ông Tâm, thường xuyên ăn chay tịnh, đọc sách Phật… mặc dù đã bước sang tuổi lục tuần nhưng nhìn cứ ngỡ chưa tới năm mươi. Không chỉ thế, cụ Tưởng rất vui khi kể về khoảng thời gian mình vẫn còn trẻ. Lúc bước vào độ tuổi trăng tròn, cụ phải quấn mái tóc lên cổ ra đồng để giúp bố mẹ cấy, cắt lúa. Với tính nết hiền lành lại xinh đẹp nên cụ có khá nhiều người thanh niên chọc ghẹo và tán tỉnh. Chính cụ cũng không thể nào hiểu được tại sao mỗi lần bị những người thanh niên này chọc ghẹo về chuyện trai gái thì đầu cụ rất đau. Những điều này chỉ kết thúc khi cụ quyết định lên chùa đi tu. Cụ Tưởng luôn giữ cho mình giấc ngủ trưa mỗi ngày Được biết, trước đây, cụ tu ở chùa Phước Huệ. Cách đây hai năm, do nhận thấy mình đã già nên cụ xin trụ trì được trở về gia đình để thờ phụng Phật. Khi cụ trở về, các phật tử yêu mến, góp tiền và đã xây cho cụ một ngôi miếu khang trang trong mảnh đất của chính gia đình để cụ tụng kinh. Chính vì vậy, người dân ở địa phương gọi cụ với một cái tên thân thương là cụ Tư Miễu.Mặc dù xin trụ trì chùa Huệ Phước được về gia đình để cháu chắt của mình chăm sóc, nhưng cụ luôn muốn tự làm tất cả mọi chuyện. Đồng thời, do sức vẫn còn khỏe mạnh nên việc vệ sinh thân thể, cụ vẫn có thể tự làm không cần sự giúp đỡ của người thân. Không chỉ thế, việc cơm nước, thờ phụng, hương khói, cúng bái trong ngôi miếu của mình, cụ đều tự lo cho mình. “Tui không muốn phụ thuộc vào mọi người. Dù già, nhưng vẫn còn chút sức lực nên tui vẫn tự làm việc. Tui chỉ chấp nhận ngồi không khi không thể nhúc nhích. Các cháu có việc của các cháu, tui có việc của tui”, cụ hóm hỉnh, cười tươi tâm sự. Cụ Tưởng chia sẻ, mình từng được đi rất nhiều nơi như Hà Nội, Huế, Tây Ninh… Mỗi chuyến đi với cụ là cả một niềm vui. Cụ có thể kể hết những nơi mình đã đi qua, những kỉ niệm có được trong chuyến đi đó. Tuy nhiên, nơi cụ thích đến nhất là Hà Nội vì ở đó là thủ đô của đất nước. Mỗi lần cụ ra Hà Nội, nơi cụ đến sớm nhất là lăng Hồ Chủ Tịch. Bên cạnh đó, cụ có thể kể chi tiết từng lăng tẩm ở Huế như thế nào… Cụ Tưởng men theo con đường nhỏ ra đường lớn tiễn chúng tôi trở về thành phố Cụ Tưởng cho biết mình rất thì rất thích đi leo núi. Cách đây hai năm, tức 97 tuổi, cụ đã cùng cháu của mình tự leo lên núi ở Tây Ninh để lên thăm chùa Bà. Trong lần đi này, các cháu sợ cụ đã già nên khẩn khoản xin được cõng, nhưng cụ vẫn một mực không đồng ý, leo một mình và cuối cùng lên được đỉnh.Chúng tôi chia tay cụ Tưởng sau một khoảng thời gian nói chuyện. Cụ tiễn chúng tôi ra đến đường đi rồi cầm tay nói “lúc nào có cơ hội về Bến Tre, các con nhớ trở lại miễu để thăm bà nhé!”. Theo Duy Ca - Xzone/TTTĐ3 likes
-
Từ cái chết ly kỳ của cô gái trẻ đến chuyện 'rắn thần' xuất hiện trước cổng chùa Thấy một con rắn bị treo cổ, cắt tiết trước cổng Tam quan của ngôi chùa Thanh Sơn, cô gái thương xót bèn đem con rắn đi chôn cất, nhang khói tử tế. Vào một buổi sáng không lâu sau đó, người nhà chùa phát hiện cô gái nọ trong tư thế treo cổ ở đúng vị trí mà trước đây con rắn bị "hành hình". Từ cái chết của cô gái trẻ… Trước hàng trăm câu chuyện mang tính ly kỳ, kiểu "liêu trai chí dị" xung quanh cái chết của cô gái tại chùa Thanh Sơn, thuộc địa phận thôn Hội Xá, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, chúng tôi đã về đây để tìm hiểu. Trao đổi với PV, sư thầy Đàm Tịnh (trụ trì chùa Thanh Sơn) với giọng nói chậm rãi, thái độ điềm tĩnh, kể lại: Thời điểm đó, nhà chùa đang khởi công xây dựng cổng Tam quan (lối vào chính của chùa). Để đảm bảo cho công việc được diễn ra suôn sẻ, nhà chùa đã khoán cho một nhóm thợ đến làm. Do đường sá đi lại khó khăn, nên nhà chùa đề nghị nhóm thợ ăn ở ngay tại chùa trong quá trình xây dựng. Sáng 17-1-2010, khi sương mù vẫn còn bao phủ, tốp thợ ra cổng Tam quan thì kinh hãi phát hiện xác một cô gái treo lơ lửng ở đó. Lập tức, những người thợ này hô hoán, cấp báo mọi người xung quanh. Khi tôi cùng những người khác trong chùa chạy ra tháo dây và hạ thi thể cô gái xuống thì ngỡ ngàng phát hiện xác chết chính là một người giúp việc trong chùa". Sự việc ngay lập tức được cấp báo lên chính quyền địa phương đến để giải quyết. Theo lời kể của một người trong chùa: "Cô gái chết trong tư thế rất nhẹ nhàng, tay chân duỗi thẳng theo thân hình. Loại dây buộc vào cổ cô gái là dây thừng. Sau đó nhà chùa và chính quyền sở tại báo cho gia đình cô gái đến để lo hậu sự. Theo nguyện vọng của gia đình, do cô đã sống ở chùa Thanh Sơn được một năm nên gia đình xin nhà chùa cho phép chôn thi thể cô gái ngay tại đây để gần cửa Phật, đúng với tâm nguyện khi còn sống của cô. Đáp ứng nguyện vọng đó của gia đình, nhà chùa đã tiến hành ma chay cho cô gái theo đúng phong tục của địa phương và thờ cúng trong chùa. Cổng Tam quan, nơi cô gái treo cổ tự vẫn. Đến chuyện rắn lạ xuất hiện…Những tưởng vụ việc sẽ dần lắng xuống theo thời gian, nhưng sau cái chết bí ẩn của cô gái trẻ, nhiều sự kiện kì lạ trước đó được mọi người nhớ lại và chắp nối tạo nên những câu chuyện mang màu sắc huyền bí rất khó giải thích. Tâm sự với PV, một sư thầy trong chùa Thanh Sơn nói nhỏ: "Các chú không biết đấy thôi! Khoảng 1 tháng trước thời điểm cô gái mất, tại sảnh cửa động Thanh Sơn, nơi thờ cúng linh hồn những người có duyên với cửa Phật bất ngờ xuất hiện một con rắn rất lớn, có độ dài khoảng 2m, màu sắc kì lạ. Vì nghĩ là con vật thiêng nên mọi người không dám xua đuổi mà để cho nó di chuyển tự do. Vài ngày sau đó, nhà chùa phát hiện có mùi lạ bốc lên từ phía sảnh trước động Thanh Sơn, khi mọi người đến kiểm tra thì bất ngờ phát hiện ra con rắn nọ đã chết tự khi nào và đang trong quá trình phân hủy. Tuy vậy, điều kỳ lạ ở đây là không hiểu bằng cách nào con rắn chui vào một sợi dây điện sau đó phần cổ bị xiết chặt không thoát ra được cho đến lúc chết tựa như bị thắt cổ. Sau đó, chính tay cô giúp việc trong chùa đã mang con rắn đi chôn cất cẩn thận tại khu đất phía sau chùa". Tiền sảnh động Thanh Sơn, nơi con rắn mắc kẹt và chết trước cô gái một tháng. Ảnh: Xuân Thắng "Kì lạ hơn nữa là trước ngày cô gái kia treo cổ ở cổng Tam quan, nhóm thợ đào móng phát hiện một con rắn rất lớn, thấy vậy những người này đã cắt tiết, treo cổ con rắn trước cổng Tam quan. Về kích thước, con rắn dài khoảng 1,2m, hình thù rất kì quái, không giống loại rắn bình thường. Sau đó, khi có một người đến chùa làm lễ thấy sự việc như vậy nên đã bảo mọi người tháo ngay con rắn xuống và mang đi chôn cất vì cho rằng đây là rắn thiêng thường cư trú tại các chùa chiền, miếu mạo. Người này còn nói những câu rất kì lạ, mọi người lúc đầu nghe đều thấy rất sợ hãi" - sư thầy này cho biết thêm.Nhà chùa đã mời thầy cúng về làm lễ để linh hồn cô gái được siêu thoát, một con rắn bỗng dưng xuất hiện mới chịu rời khỏi cổng Tam quan (!?). Một người dân bán hàng ở khu vực trước cổng Tam quan cũng xác nhận, trước khi cô gái này mất thì có chuyện nhóm thợ xây cổng chùa bắt và giết một con rắn. Xung quanh cái chết của cô gái này PV còn nghe được rất nhiều câu chuyện lạ kỳ khác. (Còn nữa) Theo Xuân Thắng - PL&XH Kỳ 2 Cô gái chết trước cửa thiền 'hiện hình' trong điện thoại của vị khách đến chùa ngồi thiền2 likes
-
Năng Lượng Của Sự Sống
Guest and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tốt lắm! Cứ việc tư duy sáng tạo, kể cả ý tưởng bị coi là thần kinh. Miễn là không phạm pháp và không xâm phạm quyền lợi người khác. Bản thân tôi nếu không thành công cũng có thể bị coi là thần kinh nặng. Hi.2 likes -
bé thứ 2 nhà chị rất tốt đấy, bây h còn bé chắc cũng chưa kiểm chứng được. Đợi cháu lớn sẽ thấy dần dần công việc của bố sẽ tốt. Bé khá ngoan và nghe lời bố mẹ. Anh trai 2010 thì theo mẹ chứ ko theo bố nhỉ. Anh nhà cũng ít có điều kiện gần con. Con đầu hợp mẹ nhg ko hợp bố. Công việc của chồng chị cũng khó thuận. Gia đình đành cố gắng nhiều hơn vậy. Tuy nhiên các con đều khá ngoan, bé út sẽ làm giảm xung khắc giữa 2 bố mẹ. Sức khỏe bố cũng tốt hơn.2 likes
-
Trò Chơi Dân Gian Việt Nam
ReQuat and one other liked a post in a topic by Thiên Đồng
Nhớ tuổi thơ quá ! Bắn bi. (Ảnh trong chủ đề Ha Noi) Trò nhảy nụ xoè hoa. (Ảnh trên trang cá nhân Lê Hà Phương) Trò rồng rắn lên mây. (Ảnh trên trang Ấu thơ trong tôi là...) Trò ô ăn quan. (Ảnh trên trang cá nhân Annabel Nguyen) Ngày bé được mẹ/bà chở đi chợ, ngồi trong giỏ xe. (Ảnh trong chủ đề Ha Noi) Một trong những chiêu trò "dữ dội" nhất tuổi thơ: bắt chuồn chuồn cắn rốn để biết bơi. (Ảnh trên trang cá nhân Bống Xinh) Trò chơi trốn tim, ai đã từng "ti hí" như thế này? (Ảnh trên trang cá nhân Hưng Nguyễn) Chọi cỏ gà. (Ảnh trên trang Ha Noi) Tết hình lá dứa, lá cọ. (Ảnh trên trang Ha noi) Chiếc phiếu bé ngoan đơn giản, in hình bông sen hoặc hình Bác Hồ, cùng chữ "Bé Ngoan" rất có thể sẽ chỉ còn là kỷ niệm. (Ảnh trên trang Ha Noi) Kẹo kéo. Ngày trước, trẻ em đem đổi nhôm đồng, sắt vụn và giày dép hỏng lấy kẹo. (Ảnh đăng trên trang cá nhân Nguyễn Hiệp) Nhớ kẹo kéo xưa. Chương trình quen thuộc dành cho trẻ em tuổi 8X, phát sóng vào giờ ăn cơm buổi tối. (Ảnh trên trang cá nhân Việt Anh) Lớn lên, nhiều bạn trẻ vẫn đi tìm những lý giải cho hồi ức tuổi thơ.2 likes -
CẦU NGUYỆN LÀ CHÁNH TÍN HAY MÊ TÍN? Trong nhà chùa mỗi khi tụng kinh, mọi Phật sự đều có cầu nguyện. Sự cầu nguyện này là chánh tín hay mê tín? Câu hỏi này không thể trả lời một chiều, tùy chỗ hiểu biết của mỗi người, sự cầu nguyện là mê tín, cũng là chánh tín. a) Mê tín Nếu chúng ta khẳng định rằng mọi sự cầu nguyện đều được toại nguyện, đó là mê tín. Vì sao? Bởi vì, nếu cầu nguyện mà được, thì không cần nói đến nhân quả nghiệp báo. Nếu mọi sự kiện xảy ra đều do nhân quả thì sự cầu nguyện khó mà toại nguyện. Bởi lẽ, thế gian có kẻ tạo nghiệp lành, người tạo nghiệp dữ. Người tạo nghiệp lành khi phước báo đến thì được như nguyện. Kẻ tạo nghiệp dữ khi nghiệp báo đến, dù có nguyện cầu cũng khó thoát khỏi quả khổ. Thế thì làm sao dám cố định cầu nguyện là được như ý. Người chấp cố định, là sai lầm không hợp lý, nên thuộc mê tín. b) Chánh tín Chúng ta chỉ xem cầu nguyện như những lời chúc lành là chánh tín. Vì quí kính cha mẹ, quí kính người thân, chúng ta hằng cầu nguyện cho những vị ấy song có được như nguyện hay không, còn tùy thuộc phước duyên dày mỏng của những vị ấy. Mặc dù không được như nguyện, cũng nói lên được lòng hiếu thảo chân thành của chúng ta. Cũng như vì hiếu kính những người trưởng thượng, những bạn bè thân hữu, đầu năm mọi người chúc lành cho nhau. Những lời chúc lành này không hẳn thể hiện được, nhưng cũng nói lên được lòng quí mến nhau.Hơn nữa, người tu Phật cầu nguyện với mục đích phá tan tâm niệm vị kỷ của mình. Bất cứ một Phật sự nào, chúng ta đều hồi hướng nguyện cầu cho tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo. Mới nghe qua dường như những lời nguyện suông, không thể thực hiện được. Song trên tinh thần phá ngã, cứ lập tới, lập lui mãi tâm niệm vì tất cả chúng sanh, khiến người ta quên bẵng bản ngã riêng tư của mình. Mọi việc làm đều không phải vì mình, không được nghĩ lợi ích riêng cho mình, mà phải vì nhân loại, vì tất cả chúng sanh. Hằng ngày cứ huân tập mãi tâm niệm này, đến một khi nào đó, chúng ta không còn thấy bản ngã riêng, đồng hóa mình và chúng sanh không khác. Thế là chúng ta phá được chấp ngã và phát tâm đại từ bi, xem mọi khổ vui của người như của chính mình. Hiểu cầu nguyện và ứng dụng cầu nguyện như vậy, quả thật là chánh tín.1 like
-
Năng Lượng Của Sự Sống
Chim Chích Bông liked a post in a topic by Guest
Năng lượng của sự Sống Năng lượng sống được tạo ra bởi sự vận động của trái đất và Thái dương hệ. Lý thuyết về năng lượng bí ẩn của thiên nhiên đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu và đưa ra các lý thuyết cơ bản từ những năm cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ 20. Cho tới những năm 1930, nhà khoa học –tâm lý học người Áo Wilhelm Reich đã xuất bản rất nhiều ấn phẩm về năng lượng sinh học, năng lượng của sự sống. Sau khi rời khỏi châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ 2, ông tới Mỹ và chính thức đưa ra lý thuyết cũng như phát minh về cách tái tạo năng lượng sống cái mà ông cho rằng nhờ đó mà con người,động thực vật sống và tồn tại. Theo lý thuyết này thì năng lượng sống bị hủy diệt do cácthiết bị phát sóng như điện thoại di động, các cột thu phát sóng, tivi, tủ lạnh, đèn neon, thiết bị điện..vv Đều là nơi phá hủy và biến năng lượng sống thành chết(DOR). Reich cho rằng, có thể dùng hỗn các chất liệu hữu cơ và kim loại sẽ biếnđổi từ DOR sang năng lượng Sống (OR). Reich đã ứng dụng thành công trong đó cóviệc ứng dụng cho sản xuất nông nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp mang lại năng suất và đặc biệt là với kích thước lớn hơn rất nhiều mà không cần dung hóa chất hay các chất tăng trưởng. Tất nhiên, lý thuyết này không được chấp nhận bởi số nấp dưới danh nghĩa khoa học cho là mơ hồ và đã nảy sinh ra rất nhiều tranh cãi, thậm trí ông bị FDA (cục quản lý thuốc vàthực phẩm ) của Mỹ bắt giữ điều tra và bị tịch thu , phá hủy toàn bộ các phòng thí nghiệm cho dù các phát mình của ông đã được ứng dụng và đem lại kết quả mỹ mãn. Lý thuyết và các ứng dụng của Reich vẫn tồn tại và đượcnhiều người trên thế giới mở rộng, phát triển các nghiên cứu của Ông. Cho dù đã ra đời thiết bị đo năng lượng sống này, nhưng nó vân không được chính thức công nhận bởi đa số các nhà khoa học Mỹ và thế giới. Tại Việt Nam Tôi đã cố tìm kiếm tư liệu về lĩnh vực này tại Việt nam nhằm bổ xung thêm vào ứng dụng trong phong thủy nhưng không tìm được. Tôi bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu về lý thuyêt nàycủa Reich từ 3 tháng trước. Việc dùng lý thuyết Âm Dương ngũ hành để giải thíchvề Năng lượng sống chưa thực sự chặt chẽ bởi lý thuyết của Reich còn quá mới mẻ với tôi. Tuy nhiên, với lý thuyết Âm Dương ngũ hành để ứng dụng vào việc tạo ramáy phát năng lượng sống thì lại đơn giản. Khi bắt tay vào làm, tôi mới hiểu vì sao giới khoa học trên thế giới lại cho lý thuyết này là mơ hồ. Nếu họ tin vào Âm Dương ngũ hành, chắc họ cũng sẽ tin lý vào thuyết này như tôi. Sản phẩm đầu tay là phong thủy luân cũng là một máy phát năng lượng sống. Nguyên liệu bao gồm đá thạch anh trắng, kim loại các loại, cuộn cảm, Hoàng triệu Hải1 like -
Và cũng bởi "anh ấy chỉ yêu con nông nổi 1 thời, mà yêu Mẹ suốt 1 đời tần tảo" Cô chấp bút 2 câu này nhé!1 like
-
Mình chỉ biết phần vầng trán là cung quan lộc, mũi là cung tài bạch phần chính giữa 2 lông mày là cung mệnh, và 1 số cung khác.. Và cung tốt hay không là phụ thuộc vào độ láng của da mặt ^^ (ko nên quá rỗ và sẹo hay nếp nhăn hay núm đồng tiền..), và cung tài bạch tốt là sống mũi phải thẳng. cung mệnh tốt là lông mày ko mọc đâm vào cung mệnh và khoảng cách giữa 2 lông mày phải bằng 2 ngón tay trỏ và giữa chụm lại và cũng nên cao 1 chút. cung thê là cung bên dưới 2 thái dương chổ đuôi mắt chiếu qua, cung thê không nên khi cười có đuôi mắt đâm vào. cung cha mẹ là 2 bên thái dương Mình chỉ biết vậy1 like
-
PHỤ NỮ THỰC SỰ MUỐN GÌ? Vua Arthur vị vua trẻ tuổi của nước Anh, bị quân Pháp phục kích và bắt giữ. Lẽ ra vua nước Pháp sẽ giết ngài, nhưng vẻ trẻ trung dễ mến của Arthur đã làm cho vua Pháp cảm động. Ông ta hứa sẽ trả tự do cho Arthur nếu ngài giải được một câu đố cực khó. Thời hạn để Arthur đưa ra câu trả lời là một năm. Nếu sau một năm không tìm ra lời giải, Arthur sẽ phải chết. Câu đố là: Phụ nữ thật sự muốn gì? Đó là câu đố mà có lẽ đến nhà thông thái nhất thế gian này cũng phải bó tay. Và với Arthur câu đố này quả là một thử thách quá lớn. Nhưng dù sao nó vẫn tốt hơn là cái chết. Arthur đành chấp nhận mạo hiểm. Khi trở về Anh Quốc, ngài hỏi tất cả mọi người từ các công chúa, các cô gái mại dâm, các vị cha xứ đến cả các quan toà, nhưng không ai có thể đưa ra một câu trả lời hoàn hảo. Điều mọi người khuyên vua là đến hỏi bà phù thuỷ già bởi vì có lẽ chỉ còn bà ta mới giải được câu đố hóc búa này. Những ngày cuối năm cũng đã tới gần. Arthur không còn cách nào khác là đến xin ý kiến của mụ phù thuỷ. Bà ta đồng ý sẽ đưa câu trả lời nhưng với một điều kiện. Đó là bà ta muốn lấy Garwain hiệp sĩ dũng cảm của Hội bàn tròn, người bạn thân nhất của vua.Arthur thất kinh. Bà ta vừa xấu vừa bẩn thỉu. Ngài chưa từng bao giờ thấy một ai đáng tởm như mụ ta. Không, ngài sẽ không để bạn thân của mình phải chịu thiệt thòi như vậy. Khi biết chuyện, Garwain nói với Arthur rằng sự hi sinh đó của chàng làm sao có thể so sánh được với sự sống của vua, sự tồn tại của hội bàn tròn và vương quốc Anh. Và chàng hiệp sĩ quyết định hy sinh. Cuộc hôn nhân được chấp thuận và vua Arthur cũng nhận được câu trả lời. Điều phụ nữ thật sự muốn đó là “Có toàn quyền quyết định mọi việc trong cuộc sống của mình”. Ngay lập tức ai cũng nhận ra rằng mụ ta vừa thốt ra một chân lý. Vua của họ nhất định sẽ được cứu. Quả thật vua nước láng giềng rất hài lòng với lời giải đáp và cho Arthur khỏi cái án tử hình. Lại nói về đám cưới của mụ phù thuỷ và chàng hiệp sĩ. Tưởng chừng như không có gì có thể khiến Arthur hối hận và đau khổ hơn nữa. Tuy nhiên chàng hiệp sĩ Garwain của chúng ta vẫn cư xử hết sức chừng mực và lịch sự. Mụ phù thuỷ thì trái lại, trong tiệc cưới, mụ ta làm nháo nhào mọi thứ lên. Thỉnh thoảng mụ lại lấy bàn tay bẩn thỉu của mụ nhón cái này một chút, bốc cái kia một tý. Thật chẳng ra làm sao cả. Mọi người thì hết sức khó chịu.Đêm tân hôn, Garwain thu hết can đảm bước vào động phòng hoa chúc. Nhưng, gì thế này? Trên giường không phải là mụ phù thuỷ già nua xấu xí mà là một cô gái vô cùng xinh đẹp đợi chàng tự bao giờ. Nhận thấy sự ngạc nhiên trên nét mặt chàng hiệp sĩ, cô gái từ tốn giải thích là vì chàng rất tốt với cô lúc cô là phù thuỷ, nên để thưởng cho chàng hiệp sĩ, cô sẽ trở thành một người xinh đẹp dễ thương đối với chàng trong một nửa thời gian của 24 giờ một ngày. Vấn đề là chàng phải lựa chọn hình ảnh đẹp của nàng vào ban ngày hay là ban đêm. Chao ôi sao mà khó thế? Garwain bắt đầu cân nhắc: Ban ngày nếu nàng là một cô gái xinh đẹp thì ta có thể tự hào cùng nàng đi khắp nơi, nhưng ban đêm làm sao mà ta chịu cho nổi? Hay là ngược lại nhỉ, ta đâu cần sỹ diện với bạn bè cơ chứ, cứ để nàng ta xấu xí trước mặt mọi người đi, nhưng khi màn đêm buông xuống, ta sẽ được tận hưởng những giây phút chồng vợ với thiên thần này. Sau đó Garwain đã trả lời “Nàng hãy tự quyết định lấy số phận của mình. Nàng muốn đẹp hay xấu vào lúc nào cũng được”. Tất nhiên câu trả lời này đã làm cho mụ phù thuỷ đội lốt cô gái xinh đẹp kia hài lòng và nàng nói với chàng rằng nàng sẽ hóa thân thành một cô gái xinh đẹp suốt đời cho chàng. Đó là phần thưởng cho người biết tôn trọng ý kiến của phụ nữ.....khà ...khà ...1 like
-
Mật Tông
Huỳnh Nghĩa liked a post in a topic by Thiên Đồng
Đại thành tựu giả Naropa Theo cuốn “Cây Tích Trượng Khai Tâm Nhãn và Tiêu Trừ Màng Vô Minh” (cuốn sách tóm tắt tiểu sử các đời hóa thân chuyển thế của Pháp Vương Gyalwang Drukpa), Đại Thành Tựu Giả Naropa đản sinh khoảng năm 956 sau CN và viên tịch khoảng năm 1050 sau CN. Tuy nhiên, nhiều nguồn tư liệu khác lại cho rằng Ngài sống vào khoảng từ năm 1016 tới 1100 sau CN. Naropa đản sinh trong một gia đình hoàng tộc ở xứ Bengal, Ấn Độ. Phụ thân Ngài là Shantivarman, tộc trưởng của vùng, còn mẫu thân là Srimati. Ngay từ khi mới lên tám, lòng khao khát tìm cầu khai mở tâm linh của Ngài mạnh mẽ đến mức, Ngài đã lên đường đi Kashmir (một trong những chiếc nôi tu học Phật pháp trong lịch sử) để học đạo từ đạo sư Gaganakirti. Ngài đã được đạo sư thụ tam quy ngũ giới. Naropa đã ở lại Kashmir trong ba năm để tu học giáo lý và triết học Phật pháp từ nhiều đạo sư. Cuối cùng, Ngài đã trở thành một học giả trứ danh. Sau khi trở về nhà đã có rất nhiều đệ tử theo học và tôn kính Ngài là đạo sư. Ba năm sau khi trở về nhà từ chuyến tham học Phật Pháp tại Kashmir, Naropa đã bị cha mẹ ép buộc phải cưới công chúa Bà la môn là Vimaladipi (tên đẳng cấp của nàng là Niguma). Mặc dù, họ sống hạnh phúc nhưng Naropa luôn nhất tâm hướng tới việc dành trọn cuộc đời cho việc tu tập tâm linh trong môi trường tự viện ngày càng trở nên mạnh mẽ còn Niguma cũng bắt đầu thực hành tâm linh một cách cơ bản. Sau tám năm thành thân, hai người đã quyết định chia tay và thọ giới tu tập. Sau đó Niguma trở thành một trong những đệ tử cao cấp nhất của Naropa và trở thành người đồng hành tâm linh. Bà đã phụng sự Naropa trong thời gian Ngài sống ở Pullahari, Kashmir. Sau khi dời bỏ cuộc sống gia đình, Naropa đã tới nơi ẩn cư Anadarama, tại đây Ngài đã được phương trượng Buddhasarana và bậc thầy Jnanaprabha truyền giới Sa di. Trong ba năm, Ngài đã tu học với hai đạo sư, Ngài đã tinh thông triết học Mật thừa và Đại thừa. Sau đó, Ngài ở lại Pullahari trong sáu năm và đã viết một vài bộ luận giải về Guhyasamajatantra, Abhidharma – uttaratantra, Samvara – udbhava và Hevajratantra, Ngài soạn nhiều tác phẩm dựa trên giáo lý Phật Pháp. Pullahari sau này trở thành một trong những nơi triều bái thánh địa quan trọng trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Bởi vì đó là một trong những nơi mà Marpa đã thụ nhận giáo huấn khai thị từ Naropa. Sau khi ở Pullahari, Naropa đã tới đại học Nalanda. Tại đây với trí tuệ, tài hùng biện và sự hiểu biết tâm linh của mình, Naropa đã được phong làm viện trưởng đại học Nalanda. Ngài cũng trở thành vị “Bảo Hộ Trấn Cửa Phương Bắc”. Trong suốt tám năm cư trú tại Nalanda, Ngài đã thường phải đối mặt với những cuộc tranh biện khó phân thắng bại với Tirthikas, và Ngài luôn giành phần thắng trong tất cả những cuộc tranh biện đó. Vào thời gian này, ngài được tôn kính là Mahapandita Ahbaya Kirti (Tiếng Tạng là Jigme Dragpa). Những năm tháng của Naropa tại đại học Nalanda hầu hết là tham dự vào những hoạt động tri thức tới tận khi một người phụ nữ già và xấu – hiện thân chân thực của Vajra Yogini đã xuất hiện trước Ngài. Bà đã giúp Ngài nhận ra rằng, Ngài vẫn chưa thể đánh đổ hết những hiểu biết sai lầm và tà kiến trên con đường tâm linh của mình. Bà đã khai thị rằng Naropa nên tìm cầu bậc đạo sư Tilopa tiền định nếu Ngài mong nguyện đạt được Giải Thoát Tuyệt Đối. Sau lần hạnh ngộ này, Naropa đã rời Nalanda, Naropa đã nhiệt thành tìm cầu đấng Tilopa, đại đạo sư có thể giúp Ngài chứng ngộ tự tính bản tâm tuyệt đối. Sau bao nhiêu thử thách cuộc hành trình hướng về phương đông, cuối cùng Naropa đã hạnh ngộ được căn bản thượng sư tiền định Tilopa. Naropa đã phải vượt qua 12 thử thách lớn, 12 thử thách nhỏ để tịnh hóa ác nghiệp và những ám chướng. Nhờ thụ nhận sự gia trì vĩ đại từ Tilopa và thành tựu tịnh hóa của chính mình, Naropa đã chứng ngộ bản tâm quang minh hỷ lạc, thể nhập cảnh giới Kim Cương Trì. Sau khi đã thành tựu chứng ngộ siêu việt, Naropa đã truyền dạy Phật Pháp cho vô số đệ tử ở rất nhiều nơi, đặc biệt tại vùng Kashmir và Zanskar, nơi Ngài kiến lập rất nhiều tự viện. Theo như Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII, Sani cũng là một thánh địa, nơi đức Naropa đã bay lên không trung thành tựu giác ngộ trong khi Ngài đang khoác Sáu Sức Trang Hoàng Bằng Xương nổi tiếng. Naropa đã thiền định trong một am thất nhỏ đối diện với tháp Kanishka, Ngài đã truyền dạy Phật Pháp cho người dân vùng Sani trong rất nhiều năm. Khi thời điểm Naropa phải dời vùng Sani đã tới, người dân địa phương đã chân thành thỉnh Ngài an cư tại đây. Đức Naropa đã lấy ra bức tượng Kim Cương Trì bằng vàng khỏi lọn tóc trên đỉnh đầu và nói rằng: “Không có sự khác biệt giữa Kim Cương trì và ta. Hãy tôn kính bức tượng Kim Cương Trì này như là các con đang tôn kính ta, các con sẽ nhận được ân phúc gia trì như nhau không khác”. Đức Naropa đã rời đi sau khi trao bức tượng bằng vàng cho người dân địa phương. Ngày nay bức tượng này vẫn còn được giữ và yểm tâm trong một bức tượng Naropa rất đặc biệt, bức tượng này đã được trưng bày mỗi năm một lần cuối tháng 7 vào đêm trước của đại pháp hội Naro-Nasjal. Người dân từ tất cả vùng thung lũng Zanskar đều tham dự pháp hội này. Vào khoảng thời gian pháp hội diễn ra, chư tăng từ tự viện Bardan cử hành những vũ điệu mặt nạ cùng những nghi lễ cúng dường. Đức Naropa đã giành 12 năm phụng sự bản sư Tilopa tới tận khi Tilopa viên tịch. Người ta cho rằng chính Tilopa đã sống tới tận năm 1050 hoặc 1100 SCN (theo nhiều nguồn tư liệu khác nhau) và sau đó Ngài đã thị tịch hóa quang ánh sáng cầu vồng không để lại nhục thân. Tilopa và Naropa đều được công nhận là hai trong số 84 đại thành tựu giả trong lịch sử Phật giáo. Marpa là một trong những đại đệ tử chân truyền thành tựu của Naropa. Ngài là một đại dịch giả, là bậc truyền nhân kế tục Naropa trong dòng truyền thừa đã đem toàn bộ giáo pháp chuyển giao vào Tây Tạng. http://www.drukpacouncil.org1 like -
Trò chơi ném còn Quả "còn" hình cầu to bằng nắm tay trẻ nhỏ, được khâu bằng nhiều múi vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bông (thóc nuôi sống con người, bông cho sợi dệt vải). Quả còn có các tua vải nhiều màu trang trí và có tác dụng định hướng trong khi bay. Sân ném còn là bãi đất rộng, ở giữa chôn một cây tre (hoặc vầu) cao, trên đỉnh có “vòng còn” hình tròn (khung còn), khung còn một mặt dán giấy đỏ (biểu tượng cho mặt trời), mặt kia dán giấy vàng (biểu tượng cho mặt trăng). Cả mặt giấy là biểu tượng cho sự trinh trắng của người con gái. Người chơi đứng đối mặt với nhau qua cây còn, ném quả còn lọt qua vòng còn trên đỉnh cột là thắng cuộc Mở đầu cuộc chơi là phần nghi lễ, thầy mo dâng hai quả còn làm lễ giữa trời đất, cầu cho bản làng yên vui, mùa màng tươi tốt, nhà nhà no ấm. Sau phần nghi lễ, thầy mo cầm hai quả còn đã được “ban phép” tung lên cho mọi người tranh cướp, khai cuộc chơi ném còn năm đó. Các quả còn khác của các gia đình lúc này mới được tung lên như những con chim én. Trước khi khép hội, thầy mo rạch quả còn thiêng (đã được ban phép) lấy hạt bên trong, tung lên để mọi người cùng hứng lấy vận may. Người Tày quan niệm hạt giống này sẽ mang lại mùa màng bội thu và may mắn, vì nó đã được truyền hơi ấm của những bàn tay nam nữ (âm - dương). Ném còn làm cho người trong cuộc hào hứng, người đứng ngoài hò reo cổ vũ khiến không khí cuộc chơi rất sôi nổi, hấp dẫn. Ném còn là trò chơi không những thu hút nam nữ thanh niên mà nhiều người lớn tuổi cũng rất thích. Trò vui này mang ý nghĩa phồn thực, cầu mong giao hoà âm - dương, mùa màng tươi tốt. Thiếu nữ chơi trò ném Còn truyền thống. Đánh quay (đánh cù) Gọi là đánh quay, chơi quay, đánh cù. Trẻ em miền Nam gọi là chơi đánh bông gụ hay chơi gụ. Đánh quay là trò chơi dành cho con trai. Chơi thành nhóm từ 2 người trở lên, nếu đông có thể chia thành nhiều nhóm. Một người cũng có thể chơi quay, nhưng nếu chơi nhiều người và có nhiều người ở ngoài cổ vũ thì sẽ sôi nổi và hấp dẫn hơn nhiều. Đồ chơi là con quay bằng gỗ hay sừng hình nón cụt, có chân bằng sắt. Dùng một sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh cho quay tít. Con quay của ai quay lâu nhất, người đó được. Có thể dùng một con quay khác bổ vào con quay đang quay mà nó vẫn quay thì người chủ của con quay đó được nhất. Trẻ nhỏ đánh quay Trổ tài đánh quay1 like
-
1 like
-
Phá Quân luôn có cách làm riêng của mình. Tuy rất sáng tạo nhưng thường khó có thành tựu lớn không phải ý tưởng tồi mà do tố chất của bản thân chưa phù hợp. Rất khó để rèn luyện. Ngoại cảnh lại hay có nhiều thách thức. Tính bất nhẫn hầu hết làm đổ bể mọi thứ. Thiếu những thứ xúc tác tinh tế để đi đến thành công như sở nguyện. Vì vậy bạn cũng nên cân nhắc về những điều mình mong muốn (được - mất và thái độ với nó) trước khi thực hiện. Chúc thành công!1 like