-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 20/07/2012 in all areas
-
Quán vắng!
thanhdc and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Đề xuất vũ trang cho ngư dân Trung Quốc: Mưu đồ thâm hiểm! 19/07/2012 14:11 (TNO) Một quan chức hàng đầu trong ngành ngư nghiệp Trung Quốc thúc giục chính phủ nước này vũ trang và huấn luyện quân sự cho 100.000 ngư dân Trung Quốc để tràn xuống biển Đông đối đầu với các nước trong khu vực. Đề xuất cực kỳ thâm hiểm về việc biến những ngư dân Trung Quốc thành dân quân được ông Hạ Kiến Bân, Chủ tịch Tập đoàn quốc doanh Ngư nghiệp Bảo Sa tại tỉnh Hải Nam, đưa ra trong một bài bình luận trên tờ Thời báo Hoàn cầu ngày 28.6. Ông Hạ Kiến Bân tuyên bố: “Nếu chúng ta đưa 5.000 tàu cá ra biển Đông, sẽ có 100.000 ngư dân tại đó… Và nếu chúng ta biến họ thành những dân quân, cấp vũ khí cho họ, chúng ta sẽ có một lực lượng quân sự mạnh hơn tất cả các nước khác ở biển Đông gộp lại”. Tàu cá Trung Quốc tại cảng Tam Á ở tỉnh Hải Nam - Ảnh: Reuters Quan chức ngành ngư nghiệp Trung Quốc kín đáo tiết lộ rằng Trung Quốc không gặp vấn đề gì với việc triển khai nhiều tàu cá. “Chỉ riêng tại tỉnh Hải Nam, chúng ta hiện có hơn 23.000 tàu cá, với 225.000 ngư dân lão luyện”, ông Hạ phát biểu. “Mỗi năm, từ tháng 5 đến tháng 8, khi hoạt động đánh bắt tạm ngưng, chúng ta nên huấn luyện các ngư dân/dân quân kỹ năng đánh bắt, sản xuất và hoạt động quân sự, biến họ thành lực lượng dự bị trên biển, và sử dụng họ để giải quyết các vấn đề tại biển Đông”, ông này tiếp tục. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc đã liên tục sử dụng tàu cá để gia tăng khiêu khích với gần như tất cả các nước trong khu vực, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam và Philippines. Các tàu cá Trung Quốc dưới sự hộ tống của những tàu ngư chính và hải giám đã ồ ạt đổ xuống biển Đông, làm gia tăng căng thẳng tại khu vực. Cụ thể, trong vài tháng qua, hàng chục tàu cá Trung Quốc liên tục xuất hiện tại bãi cạn Scarborough, khu vực tranh chấp với Philippines tại biển Đông. Mới đây nhất, một đội 30 chiếc tàu cá Trung Quốc đã xuất hiện tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam và đánh bắt trái phép tại đây. Hoạt động phi pháp này hiện vẫn tiếp diễn bất chất những phản đối của phía Việt Nam. Các tàu cá Trung Quốc thường rất hung hăng khi đối đầu với các tàu công vụ nước ngoài, không ngần ngại đâm tàu vào lực lượng tuần duyên của các nước. Vào hôm 17.7, lực lượng tuần duyên Nga đã bắt giữ hai tàu cá Trung Quốc sau khi buộc phải nổ súng để khống chế các tàu này, theo truyền thông Nga. Các tàu cá Trung Quốc bị tố cáo đã đâm vào tàu tuần duyên Nga. Các ngư dân Trung Quốc cũng liên tục đụng độ với lực lượng tuần duyên các nước Nhật Bản, Hàn Quốc. Vào ngày 30.4, nhà chức trách Hàn Quốc cho biết 9 ngư dân Trung Quốc đã bị bắt sau khi dùng dao đâm khiến bốn cảnh sát biển Hàn Quốc bị thương. Vào ngày 19.4, một ngư dân Trung Quốc tên Trần Đại Vị đã bị tuyên án 30 năm tù vì đâm chết một cảnh sát biển Hàn Quốc vào tháng 12.2011. Thậm chí, tại một đất nước bé nhỏ và xa xôi như Palau, nằm cách tỉnh Hải Nam hơn 2.900 km, các ngư dân Trung Quốc cũng đối đầu với nhà chức trách địa phương. Vào ngày 2.4, cảnh sát đảo quốc Palau đã bắn chết một ngư dân Trung Quốc và bắt giữ 25 người khác, những người bị Palau tố cáo đánh bắt trộm trong vùng biển nước này. Nhà chức trách Palau khi đó đã tố cáo các ngư dân Trung Quốc cố tình đâm vào tàu tuần duyên của họ. Sơn Duân http://www.thanhnien...-tham-hiem.aspx ================================== Chính phủ Trung Quốc có đồng ý thực hiện việc này hay không thì không biết. Nhưng qua ý kiến đề xuất của ông Hạ Kiến Bân thì đây là một khả năng thực hiện. Vào thời kỳ đầu thành lập nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, chính phủ Trung Quốc Lục địa đã có ý định dùng thuyền buồm - tất nhiên công với số tàu chiến ít ỏi của họ - tấn công Đài Loan. Và việc này không khả thi, nên họ đã nhờ Liên Xô giúp đỡ để thực hiện cuộc chiến. Liên Xô đã từ chối và trao lại Mãn Châu cho Trung Quốc để đổi lấy ý định đó. Nay chiến thuật này lại được đề xuất ở biển Đông. Thực ra thì vấn đề không phải 100. 000 ngư dân Trung Quốc mạnh hơn tất cả lực lương hải quân các nước trong khu vực. Mà là đằng sau 100. 000 ngư dân đó là cả một lực lượng hùng hậu của Hải Quân Trung Quốc so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, vấn đề nó không phải chỉ ở chỗ mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước có quyền lợi liên quan ở biển Đông. Mà là mối quan hệ quốc tế liên quan đến biển Đông. Bởi vậy Trung Quốc không thể muốn làm gì thì làm. Những đề xuất của ông Hạ Kiến Bân chỉ thể hiễn rõ hơn và mạnh mẽ hơn quyết tâm bành trướng và bá chủ khu vực hoặc thế giới của Trung Quốc. Tất nhiên điều này sẽ đụng chạm tới tất cả các siêu cường khác và tất nhiên với siêu cường hùng mạnh nhất thế giới hiện nay là Hoa Kỳ. Những gì đang xảy ra đã cho thấy sự chuẩn bị chiến tranh khi Hoa Kỳ đưa quân xuống Tây Thái Bình Dương và một thế trận có tính chiến lược quốc tế đã hình thành. Đến giờ này thì không cần có khả năng tiên tri , ai cũng thấy thế. Tất nhiên trong trận chiến này thì mặt trận chính sẽ không bao giờ ở biển Đông cả. Vì biển Đông chỉ là mặt trận có tính phụ họa, không phải nơi quyết chiến chiến lược dứt điểm. Người Trung Quốc đừng hy vọng rằng Nga sẽ ủng hộ họ chống lại Hoa Kỳ. Bởi vì người Nga sẽ chẳng thể yên tâm sống bên cạnh một siêu cường chiến thắng cả Hoa Kỳ - và tất nhiên sau đó đến lượt họ. Ngược lại, họ sẽ là đồng minh của Hoa Kỳ trong cuộc chiến dứt điểm này. Mấy thủ thuật ngoại giao nhỏ lẻ của Trung Quốc, như: xin lỗi Nga vì tàu cá xâm phạm bờ biển, chấp nhận bồi thường...chỉ là trò vớ vẩn, không làm thay đổi được tư duy chiến lược đẳng cấp của các nhà lãnh đạo Nga. Nước Nga chưa hề có chiến tranh trực tiếp với Hoa Kỳ - qua những thời kỳ lịch sử khác nhau....Nhưng nước Nga đã thấy được tham vọng của Trung Quốc. Họ cũng là nạn nhân của tình đồng chí bị phản bội từ một siêu cường xuống hàng thứ 6. 7 gì đó của Trung Quốc. Chẳng có "cơ sở khoa học " nào để họ liên minh với Trung Quốc chống Hoa Kỳ cả. Cho dù Trung Quốc thiện chí nộp phạt và xin lỗi vì vụ đánh cá nhầm vùng biển. Tóm lại, Trung Quốc đang bị bao vây. Điều này thì ai cũng thấy rõ và không cần phải xem bói (Cái này Thiên Sứ "bói" lâu rồi). Trong lịch sử Trung Hoa cũng có một trường hợp tương tự là nước Thục bị bao vây và Khổng Minh tìm cách hóa giải. Nhưng qua cách ứng xử của Trung Quốc hiện nay thì tầm cỡ Khổng Minh thời đại không thấy đâu, thậm chí cỡ Bàng Thống, Quách Gia cũng không có. Có người cho rằng: Sở dĩ Trung Quốc ứng xử như vậy vì để không gây chú ý đến mâu thuẫn nội bộ. Cũng có thể là như vậy. Nhưng nhầm rồi. Đây là thời đại internet, chứ không phải thời phong kiến lạc hậu. Bởi vậy, bất cứ xuất phát từ suy nghĩ nào, hành vi của họ cũng đã và sẽ gậy một hậu quả xấu cho mối quan hệ trong tương lai của Trung Quốc với quốc tế. Nó đang dẫn đến một nguy cơ chiến tranh dứt điểm để xác định sự thống trị thế giới - Mà đáng nhẽ sự hội nhập toàn cầu có thể tiến tới bằng một con đường lịch sử khác. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Thiên Sứ tui nhắc đi nhắc lại rằng: Không có chiến tranh thế giới thứ III - hiểu theo nghĩa hai phe đánh nhau. Nhưng không loại trừ một cuộc chiến tranh lớn xảy ra. Đến hôm nay thì tôi nói toạc móng lợn rằng: Đó chính là cuộc chiến giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ và Đồng minh, trong đó có Nga. Thời gian còn lại để tránh một cuộc chiến như vậy rất ít. Sẽ chẳng có nước nào ở biển Đông này muốn chiến tranh với Trung Quốc cả. Điều này khiến họ có thể huyênh hoang hơn với những ý tưởng - thí dụ như thành lập thành phố Tam Sa, trang bị vũ khí cho 100. 000 ngư dân đánh cá trên biển Đông. Hoặc còn có thể đẻ ra nhiều ý tưởng khác nữa, như: xây đảo nhân tạo , lập căn cứ quân sự...vv ...và ...vv. So với tầm nhìn đại cục thì cái đó chỉ là mấy chuyện vặt. Mấy trò vớ vẩn. Vấn đề chính là Hoa Kỳ đang chuẩn bị tới đâu. Và các nước bị Trung Quốc lấn chiếm, chỉ cần luôn xác định chủ quyền của họ là đủ nói chuyện tương lai. Thôi! Rút mấy cái tàu cá về đi. Tử tế với Việt Nam thì may ra để lại cái hậu.3 likes -
Hạ Vũ (2)
ReQuat liked a post in a topic by Lãn Miên
Hạ Vũ Sự ra đời của Vũ có nhiều thuyết: 1.Truyền thuyết kể rằng sau khi Cổn 鯀 chết thì Vũ 禹 mới ra đời. Cổn do lấy trộm (Trộm = Triệt = Thiết 竊 , trộm nghĩ = thiết nghĩ) đất thu tô của thượng đế để lấp hồng thủy nên bị thượng đế xử tội, lệnh cho thần Chúc Dung giết chết (theo sách 《Sơn hải kinh. Hải nội kinh 山 海 經.海 內 經》). Cổn chết ba năm mà xác không rữa nát , mổ xác Cổn ra thì lấy được Vũ sinh ra. 《山 海 經.海內 經》 : Hoàng Đế sinh Lạc Minh 駱 明, Lạc Minh sinh Bạch Mã 白 馬. Bạch Mã thị vi Cổn 鯀. … Đế lệnh Chúc Dung giết Cổn ở Vũ Giao. Cổn phục sinh Vũ) 2. Cổn 鯀 là người đàn bà, sinh ra Vũ. Sách 《Sở giản.Tử Cao biên 楚 簡.子 羔 篇 》 ghi Khổng Tử luận Vũ sinh ra do mổ ở lưng mẹ mà lấy ra, mẹ Vũ mang thai đến ba năm, Vũ sinh ra đã biết nói ngay. “ Hoàng Đế đẻ Xương Ý, Xương Ý đẻ Cao Dương thị vi Đế Chuyên Húc, Chuyên Húc đẻ Cổn, Cổn đẻ Văn Mệnh thị vi Vũ”. 3.Từ thời nhà Hán về sau, thư tịch ghi lại truyền thuyết, và cho rằng Vũ 禹 là một người đàn ông, ghi theo phả hệ dòng bố như kiểu đích tôn cha truyền con trai nối, rằng Cổn 鯀 là bố của Vũ 禹 (Tư Mã Thiên viết về sử nhà Tây Hán trong “Sử ký. Hạ bổn kỷ 史 記.夏 本 紀”: Bố của Vũ là Cổn, bố của Cổn là “đế Chuyên Húc 帝 顓 頊”, bố của Chuyên Húc là Xương Ý, bố của Xương Ý là “Hoàng đế 黃 帝”, “ Vũ giả, Hoàng đế chi huyền tôn nhi đế Chuyên Húc chi tôn dã 禹者,黃帝之玄孫而帝顓頊之孫也” - Kẻ Vũ là cháu 5 đời của Hoàng đế, còn Chuyên Húc là cháu 3 đời của Hoàng đế” [ Đọc trong nguyên bản hành văn trên, thấy cú pháp lẫn lộn khi Hán, khi Việt. Tất cả dựa vào truyền thuyết, nhưng lại muốn qui cho ông Tổ đầu tiên là Hoàng đế, gọi theo cú pháp Hán, nhưng cháu nội đích tôn của ông ấy lại không gọi là Chuyên Húc đế mà lại gọi là “đế Chuyên Húc”, gọi theo cú pháp Việt; đến hàng mấy ngàn năm sau (theo như sử này nói Hoàng Đế là Tổ của người Hán cách nay 5000 năm), cái ông vua đang chỉ đạo viết sử này, chính ông ấy lại được gọi là Hán Vũ đế, gọi theo cú pháp Hán. Vậy chứng tỏ là sử cổ đại (truyền thuyết) trên Hán thư ghi lại là do người Hán chép lại và có xào nấu lại sử cổ đại của Việt. Cổn 鯀 được cho là bố của Vũ 禹. Vậy mà chữ Vũ 禹là chữ đơn thể, tự nó gốc gác là từ tượng hình trên giáp cốt văn, diễn tả hình người bắt rắn (Thuyết Văn đọc: lướt “Vương 王 Cụ 矩 = Vũ 禹, giải thích là loài 蟲 Trùng; Trùng=Trùn=Tròn=Trăn=Rắn (loài không có chân); nếu Hán ngữ mà lướt thì thành “Váng 王Chuy 矩”= = Vuy, không thành Uỷ như pinyin “Yu 禹” được). Trong khi chữ Cổn 鯀 là chữ ghép biểu ý, là kiểu chỉ có từ khi có qui tắc lục thư do soạn ra từ thời nhà Tần, chữ Cổn này gồm chữ Hệ 系( từ nguyên là Họ) và chữ Ngư 魚là cá, ám chỉ dân sông nước, giải thích là một loài cá, ( Ngư 魚 Hệ 系 thì có thể hiểu là con Cá Hô . Thuyết Văn đọc: lướt. “Cổ 古 Bổn 本” = Cổn 鯀, nếu Hán ngữ mà lướt thì thành “Củ 古 Pẩn 本” = Cẩn, không thành Cun như pinyin “Gun 鯀” được). Chữ Cổn 鯀phát âm Hán là “Cun” (pinyin “gun”), nó có từ nguyên chính là từ Con của Tiếng Việt mà thôi, nhưng Con ở đây là Con Mẹ hay Con Mụ, tức là một Bà, vì thời cổ đại hàng vạn năm trước ấy vẫn còn là thời mẫu hệ gọi là Thị Tộc; U=Vú=Vũ=Mụ=Mẹ=Mẫu. QT Tơi-Rỡi: Cả = Con = Quan = Quân = Cun = Khun = Khôn = Khuông = Vuông = Vua = Văn = Vũ = Vương = = Tướng = Hường = Hoàng = Voòng = Vàng = Lang = Lớn = Cổn = Cả. Pò Khun là Bố Cả hay Bố Cái. Sông Cả cũng gọi là sông Cái. Tên thường gọi trong truyền thuyết chuyện kể là “Đại Vũ” là do những cái tên Lang Vũ, Lớn Vũ, Cổn Vũ, Cả Vũ, Đà Vũ (chuyện cổ tích “ông Đùng bà Đà”), nên khi viết lại sử từ truyền thuyết dân gian, nghe tiếng Cổn Vũ thì dễ coi như bố Vũ là Cổn, hay nghe thấy tên Đà Vũ thì dễ coi như mẹ Vũ là bà Đà hay bà nữ Oa. Những từ có sau như Chu Văn Vương là ông Vua họ Chu, Chu Vũ Vương cũng là ông Vua họ Chu, Lưu Hướng là ông Vua họ Lưu, Hán Vũ Đế là ông “Đứa Vua nước Hán” hay “Đức Vương nước Hán” cũng là một. Ngôn ngữ dân gian thì nó là như vậy, dù là Vua hay Quân hay Vương hay Tướng thì cũng là Con, tức là từ đẻ cái chửa mà ra, mà lướt “Đẻ cái Chửa” = Đứa. Từ nguyên của chữ Đế là Nước, do Té = Tức = Tế = Đế = Đức = Đác = Nác = Nước. Người đứng đầu Vùng gọi là Vua hay Vương thì người đứng đầu Nước gọi là Đế hay Đức (tiếng Khơ Me gọi là Xăm Đéc). Thời Văn Lang lập Nước cách nay gần 5000 năm, đó là thời Đế Minh. Căn theo cái âm tiết, thì nguyên thủy từ Đế Minh chưa có nghĩa là Vua Sáng, nó có nghĩa là “Đức của Mẹ Kinh”, tức người đứng đầu quốc gia của người Kinh, Đầu Nước = Đầu Tức = Đức; Mẹ Kinh = Minh; chế độ là mẫu hệ; người đứng đầu nước là do cộng đồng bầu lên, là đàn bà hoặc đàn ông, thay đổi cũng là do bầu, gọi là Thiền nhượng (Thay Hiền = Thiền). Khái niệm “Sáng” khởi thủy là do từ Trời và từ Trăng. Trời = Rọi = Chói = Chiếu 照 = Triêu 朝 = Diệu 耀 (Hán ngữ phát âm khái niệm Rọi là “Rừ” viết là chữ Nhật 日; phát âm chữ Nhiệt 热 có bộ hỏa là “Rừa”, do từ lướt của tiếng Việt là “Rực Lửa” = “Rừa”, nghĩa là nóng, mà Nóng = Nắng = Dàng = Dương = “Yáng 阳” ); Trăng = Rạng = Sáng = Láng = =Lượng 亮. Rọi sáng là một câu, nhưng Sáng Soi là một từ đôi, do lướt Sáng + Sáng Rọi = Sáng Soi, lướt “Sáng Rọi” = Soi. Do người Kinh, cũng tức là người Việt, nên từ Mẹ Kinh = Minh người ta viết bằng hai chữ Việt ghép lại với nhau (để mang ý là nhiều, theo kiểu có âm có dương thì đẻ ra nhiều), hai chữ Việt đó là chữ Nhiệt 日 và chữ Nguyệt 月( QT Tơi-Rỡi: Việt = Nguyệt 月= Nhiệt = Nhật 日, để nói là dân xứ nóng, dân mặt trời), thành ra chữ Minh 明.Chữ này chẳng có tá âm "inh" gì cả mà lại gọi là Minh, vậy nó chỉ có thể là do "Mẹ Kinh" = Minh , thiết mà thôi. Do ghép như vậy nên chữ Minh 明 gồm Nhật 日và Nguyệt 月 mới đại diện cho cái nghĩa do biểu ý của chữ, nghĩa là Sáng, nó là cái khái niệm có sau từ Sáng, chỉ có nghĩa trên mặt chữ, tức là dùng chữ Minh 明 nghĩa là sáng cho ý văn học như từ minh chứng, minh bạch. Khẩu ngữ Hán ngữ chỉ dùng chữ Lượng 亮 (“liang”), khẩu ngữ Tiếng Việt chỉ dùng chữ Sáng]. Mẹ của Vũ là Nữ Hỉ 女 嬉 (theo “Ngô Việt Xuân Thu. Việt vương Vô Dư ngoại truyện 吳 越 春 秋.越 王 無 余 外 傳”, soạn giả là Triệu Hoa 趙 曄 thời Đông Hán 25-220 ) : Vũ phụ Cổn giả, đế Chuyên Húc chi hậu 禹父鯀者,帝顓頊之後 Cha Vũ là Cổn, con của đế Chuyên Húc. Cổn 鯀 lấy con gái họ Tân 莘 tên là Nữ Hỉ 女 嬉 . ( Có vùng đất thuộc Thượng Hải tên Tân 莘, cũng có vùng đất thuộc Sơn Đông tên Tân 莘). [ Nguyên văn: “hữu Tân thị 有 莘 氏”, hữu Tân nghĩa là họ Tân, chữ Thị 氏 sau thì sách nói là do ý tôn kính đối với họ quí tộc, ví dụ như viết “hữu Hùng thị 有 熊 氏” nghĩa là "họ Hùng quí tộc". Chú ý lối ghép này là cú pháp Việt, mà chữ Hữu 有, (hoặc có thể dùng chữ Hệ 系), chỉ là tá âm cho chữ Họ, tức là dùng chữ nho đang sử dụng thời người soạn, có âm na ná để phiên dịch âm tiết Họ được viết bằng chữ khoa đẩu dùng trước đó; nếu là lối ghép cú pháp Hán thì phải viết là “Tân tính 莘 姓”, “Hùng tính 熊 姓,雄 姓”. Vì ghép là theo cú pháp Việt, nên từ nguyên lại phải đẩy lùi về đến Tiếng Việt mà tìm: “hữu Tân thị” có từ nguyên là “họ Tân chị”, tức là họ Tân, mà lấy theo họ mẹ, chứng tỏ thời đó là thời mẫu hệ, người ta lấy họ theo họ Mẹ (nhiều nhóm người Hoa ở Việt Nam đến ngày nay vẫn còn lấy họ theo họ Mẹ). Thời Hùng Vương chắc là vẫn còn dùng chế độ mẫu hệ, lấy họ theo họ Mẹ, nên người Việt có tục thờ Mẫu. Phật giáo truyền vào thì Phật một mặt giữ nguyên, mặt khác Phật còn bị Việt hoá mà hóa thân thành Phật Bà Quan Âm. Chế độ mẫu hệ có lẽ còn kéo dài đến tận thời Hai Bà Trưng, nên người Hoa Nam có tục thờ Vua Bà. Địa danh trên đất nước thì Bà nhiều hơn là Ông, đền thờ Bà Chúa thì thấy nhiều chứ đền thờ ông Hoàng Tử thì nghe hiếm. Tuy nhiên chế độ mẫu hệ nhưng Vua có thể là đàn bà hoặc đàn ông, bình đẳng chọn theo “thiền nhượng” để kén hiền tài. Tiếng Việt thì cá nhân mỗi con người là Kẻ. Kẻ = Cả = Cha = Giả 者 = Gia 家, chỉ người đàn ông. Kẻ = Mẹ = Đẻ = Đĩ = Chị = Kỹ 妓 = Thị 氏 = Thư 姐, chỉ người đàn bà. Những từ như Đĩ hay Kỹ Nữ 妓 女 cổ xưa nó chưa biến nghĩa thành nghĩa xấu, chẳng qua là về sau do xã hội qui định. Nhiều nơi người Việt vẫn gọi Mẹ là Đẻ hoặc là Chị. Từ đôi là hai từ đồng nghĩa ghép với nhau để nhấn mạnh ý. Khi chửi “Mẹ mày !”, để nhấn mạnh ý người ta còn dùng từ đôi là “Đĩ Mẹ mày !”. Chế độ mẫu hệ lấy họ Mẹ, chế độ phụ hệ lấy họ Cha, là do qui định của cộng đồng xã hội, chẳng phản ánh gì về sự tiến bộ hay thoái hóa xã hội, miễn là không cận hôn. Thông thường xã hội qui định sau năm đời thì hết cận hôn. Ở Việt Nam có họ còn qui định riêng là muôn đời cùng họ không được lấy nhau, mà vẫn được mọi người trong họ đó chấp hành nghiêm, hoặc như liền anh liền chị của quan họ Bắc Ninh dù khác họ, dù yêu nhau say đắm đến mấy vẫn chấp hành nghiêm lệ của quan họ là không được lấy nhau, vẫn coi nhau là bạn và vui mừng cho hạnh phúc riêng của nhau. Thế mới thấy cái ứng xử văn hóa “phép Vua còn thua lệ Làng” nó có uy lực đến nhường nào. Ngày nay có kẻ đến phép Quốc Tế nó còn chẳng coi là cái đinh gì, muốn chiếm biển, cướp đảo của người ta là chiếm, cho nên nó bị “mất mặt”, Hán ngữ gọi là “tiu liẻn 丟 臉”; Mất = Thất 失 (“sư”) = Tốt 卒 (“zú”) = Toi = Tiêu 消(“xieo”) = Điệu 掉 (“tieo”) = Đu = Đéo = Đểu = “丟 Tiu”; Mặt = Miện 冕 (“mien”) = Diện 面(“mian”) = Liễn 臉 = “Liẻn 臉”. ( Các phát âm có ngoặc kép trong ngoặc đơn là phát âm của Hán ngữ , không hoàn toàn thể hiện được QT Tơi-Rỡi của một nôi khái niệm, nếu đọc theo âm Việt thì nó liền một mạch theo QT Tơi-Rỡi của một nôi khái niệm, chứng tỏ chúng đều có gốc là từ Việt , có những từ được viết bằng chữ nho. Qua đó cũng thấy rõ: Muốn tìm từ nguyên của Hán ngữ thì lui về “cổ Hán ngữ” mà tìm, muốn tìm từ nguyên của “cổ Hán ngữ thì lùi nữa về Tiếng Việt mà tìm, ngôn ngữ Việt là nền tảng của Hán ngữ). Đi từ Âm Dương thì cặp đối nghịch 0/1 = Mô/Một, Mô=Mất, Một=Mãi=Mai=Lai; giữ Một nguyên tắc Quốc Tế thì còn trong tương lai Mãi Mãi, chứ “mất mặt” thì Mất hẳn, bằng Mô=Vô là con số 0. Mặt, Mắt, Mũi, Môi, Mồm, Mép đều ở trên cái Mặt và làm nên cái Mặt của con người.] Nữ Hỉ 女 嬉 đến tuổi chững (niên tráng 年 壯, chứ chưa đến tuổi chiều) rồi mà vẫn không có chửa, một hôm ở Để Sơn 砥 山 (núi toàn những hòn đá mài nhỏ) nhặt được cây ý dĩ 薏 苡, nhai nuốt vào thế là có thai, phải mổ đẻ ra Cao Mật 高 密. Nhà ở Tây Dương 西 羌, đất ấy là Thạch Nữu 石 紐. Thạch Nữu tại Thục Tây Xuyên ạ 石 紐 在 蜀 西 川 也. Nơi sinh của Vũ thì nhiếu sách viết khác nhau. Sách “Đế Vương thế kỷ” của Hoàng Phó Bật 皇 甫 謐 thời Tây Tấn viết: Chuyên Húc 顓 頊 sinh Cổn 鯀, Cổn được Nghiêu 堯 phong làm Sùng Bá 崇 伯 [tước ưu huệ thứ ba], Cổn 鯀 lấy vợ họ Tân tên là Chí 志, thị vi Tu Kỷ 修 己 [ “Tu Kỷ” = Tý = Chí = Hỉ ]. Chí 志 lên núi ngửa mặt thấy sao bay, mà cảm hứng, rồi nuốt thần châu ý dĩ, chuyển dạ đẻ ra Vũ 禹 ở Thạch Nữu 石 紐. Sách “Sử ký. Lục quốc niên biểu tự” của Tư Mã Thiên thời Tây Hán viết Vũ sinh ở Tây Dương. Sách thời Nam Tống 《Thế thuyết tân ngữ. Ngữ ngôn biên 世 說 新 語‧語 言 篇》 viết: Vũ sinh ở Đông Di. Sách 《Tùy sào tử 隋 巢 子》 viết: Vũ lấy vợ Đồ Sơn, trị hồng thủy.1 like -
Cảm ơn chị requat đã nhắc nhở lần trc , bà em có quen 1 thầy xem tử vi xem cho em sinh h thìn : bảo năm 2011 , có dấu hiệu xấu về thay đổi tính nết , tham gia chơi bời bắt đầu mầm họa về sau , cần cảnh tỉnh về mọi mặt . ( lại còn mong em báo sai h sinh , cuộc sống lành mạnh , .... ) Em tưởng là mình sinh h tỵ , nên ko quan tâm mấy . Nhưng thực chất : cả năm 2011 , bạn gái thì chưa có , thuốc lá thì ko , rượu cũng ko , xe máy cũng chưa biết đi ( chắc trên đời này chỉ có thằng ất như em -- năm thứ 2 đại học chưa biết đi xe máy ), cả ngày bị bố mẹ kìm kẹp , sáng 6h đi học tối 6h có mặt ở nhà ( có khi nghỉ cả buổi chiều ) chưa biết thế nào là chơi và thế nào là bời Lạ thật !1 like
-
Trích dịch vài danh ngôn để đời của Đức Dalai Lama Ngày 14-5-2012, Đức Dalai Lama, lãnh tụ tinh thần của Phật giáo Tây Tạng được trao giải thưởng Templeton, một giải thưởng uy tín trên thế giới trong một buổi lễ trang trọng được tổ chức tại thánh đường St Paul ở thủ đô Luân Đôn. Giải thưởng nhằm ghi nhận những đóng góp không mệt mỏi của ngài trong lĩnh vực tâm linh vì cuộc sống bình yên của nhân loại. Nhân sự kiện này, Chùa Phúc Lâm online xin trích dịch vài danh ngôn để đời của ngài giới thiệu bạn đọc cùng suy ngẫm: 1. Happiness is not something ready made. It comes from your own actions. Hạnh phúc không phải là cái gì đó đã được tạo ra sẵn, mà nó đến từ chính hành động của chúng ta. 2. If you think you are too small to make a difference, try sleeping with a mosquito. Nếu bạn cho rằng mình quá nhỏ bé để có thể tạo nên sự khác biệt, xin hãy thử ngủ với một con muỗi. 3. Love is the absence of judgment. Tình yêu là sự vắng bóng trừng phạt. 4) My religion is very simple. My religion is kindness. Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó là sự tử tế. 5. Remember that the best relationship is one in which your love for each other exceeds your need for each other. Hãy nhớ rằng mối quan hệ tốt đẹp nhất là mối quan hệ mà trong đó tình yêu của bạn dành cho nhau vượt qua nhu cầu của bạn dành cho nhau. 6. “Silence is sometimes the best answer” Sự im lặng đôi khi là câu trả lời hay nhất. 7. This is my simple religion. There is no need for temples; no need for complicated philosophy. Our own brain, our own heart is our temple; the philosophy is kindness. Đây là tôn giáo đơn giản của tôi: không có nhu cầu đối với chùa chiền và những triết lý phức tạp. Khối óc ta, trái tim ta là ngôi chùa của chúng ta; triết lý là sự tử tế. 8. Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them. Mục đích quan trọng nhất trên đời này của chúng ta là giúp đỡ người khác. Nếu bạn không thể giúp người, chí ít cũng đừng làm thương tổn họ. 9. Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive. Tình yêu và lòng từ là nhu cầu cần thiết, không phải là xa xỉ phẩm. Không có nó nhân loại không thể tồn tại được. 10. We can live without religion and meditation, but we cannot survive without human affection. Chúng ta có thể sống không có tôn giáo và thiền định, nhưng chúng ta không thể tồn tại mà không có tình cảm của con người. 11. If you want others to be happy, practice compassion. If you want to be happy, practice compassion. Nếu bạn muốn người khác hạnh phúc, hãy tu tập lòng từ. Nếu bạn muốn hạnh phúc, hãy tu tập lòng từ. 12. Remember that not getting what you want is sometimes a wonderful stroke of luck. Nên nhớ rằng không đạt được cái mà bạn mong muốn đôi khi lại là một điều may mắn tuyệt vời. 13. The ultimate authority must always rest with the individual’s own reason and critical analysis. Quyền lực tối hậu luôn phải dựa vào chính lý trí và sự phân tích mang tính phê bình của cá nhân. 14. We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves. Chừng nào chúng ta chưa tạo được hòa bình trong chính chúng ta thì chừng đó chúng ta không thể đạt được hòa bình trên thế giới xa hơn nữa. 15. Be kind whenever possible. It is always possible. Hãy sống tử tế với nhau bất cứ khi nào có thế. Đó là cái luôn luôn có thể. 16. If you have fear of some pain or suffering, you should examine whether there is anything you can do about it. If you can, there is no need to worry about it; if you cannot do anything, then there is also no need to worry. Nếu bạn có sự lo sợ về sự đau đớn hay đau khổ, bạn nên kiểm tra xem có bất cứ điều gì mà bạn có thể làm để vượt qua nỗi lo sợ đó hay không. Nếu có thì bạn không cần lo lắng; nếu không thì bạn cũng không nên để tâm đến nó làm gì. 17. If you don’t love yourself, you cannot love others. You will not be able to love others. If you have no compassion for yourself then you are not able of developing compassion for others. Nếu không thương mình, bạn không thể thương người và cũng sẽ không thể yêu người. Nếu bản thân bạn không có lòng từ thì bạn cũng không thể giúp người khác phát triển nó. 18. Human potential is the same for all. Your feeling, “I am of no value”, is wrong. Absolutely wrong. You are deceiving yourself. We all have the power of thought – so what are you lacking? If you have willpower, then you can change anything. It is usually said that you are your own master. Tiềm năng của con người tất cả đều như nhau. Bạn cảm thấy “tôi không có giá trị” là sai lầm, sai lầm tuyệt đối và bạn đang lừa dối chính mình. Tất cả chúng ta đều có khả năng tư duy. Vậy bạn đang thiếu cái gì? Nếu bạn có sức mạnh ý chí, bạn có thể thay đổi bất cứ cái gì. Người ta thường nói rằng bạn là đạo sư của chính mình. 19. We must recognize that the suffering of one person or one nation is the suffering of humanity. That the happiness of one person or nation is the happiness of humanity. Chúng ta phải thừa nhận, rằng sự đau khổ của một người hay của một quốc gia là sự đau khổ của nhân loại; rằng hạnh phúc của một người hay của một quốc gia là hạnh phúc của nhân loại. 20. Through violence, you may ‘solve’ one problem, but you sow the seeds for another. Bạn có thể giải quyết một vấn đề bằng bạo lực, nhưng bạn sẽ gieo rắc những hạt giống bất thiện đó cho người khác. 21. To conquer oneself is a greater victory than to conquer thousands in a battle. Tự thắng mình là chiến thắng vĩ đại, hơn cả chiến thắng hàng ngàn quân địch trong một trận chiến. 22. There is a saying in Tibetan, “Tragedy should be utilized as a source of strength.” No matter what sort of difficulties, how painful experience is, if we lose our hope, that’s our real disaster. Người Tây Tạng có một câu nói: “Bi kịch nên được tận dụng như là một nguồn sức mạnh.” Cho dù đó là khó khăn gì đi chăng nữa, sự trải qua khổ đau như thế nào, nếu mất hy vọng thì đó mới chính là thảm họa thật sự của chúng ta. 23. The creatures that inhabit this earth-be they human beings or animals-are here to contribute, each in its own particular way, to the beauty and prosperity of the world. Các chúng sinh sống trên hành tinh này – dù là người hay vật, mỗi mỗi đều có cách đóng góp riêng của bản thân chúng để làm đẹp và làm giàu cho thế giới. 24. In our struggle for freedom, truth is the only weapon we possess. Trong cuộc đấu tranh vì tự do của chúng ta, sự thật là vũ khi duy nhất chúng ta có. Quần Anh chuyển ngữ.1 like
-
năm sau anh chị sinh luôn nhé. Con út 2018.1 like
-
Đúng rồi, số chết sớm, khoảng 70 tuổi là vào hòm gỗ.1 like
-
PHONG THỦY LẠC VIỆT TẠI CẦN THƠ - CÙNG XÂY TỔ ẤM VỚI XI MĂNG HOLCIM anh Thanhphuc (người mặc áo đen) Du Cần Thơ vi hành Miền Tây vi hành xem đàn em làm ăn thế nào!! cũng phải ngồi vào tư vấn http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/41.gif Do buổi sáng dậy sớm đi chợ nổi nên cũng không muốn chụp nữa, do vậy chỉ có ít ảnh thư giãn, mời mọi người thưởng thức Đoàn PTLV đang tám vấn Cái gì đây? tuần này: ??? Câu trả lời sẽ được đưa ra trong ngày hôm nay, xin các bạn liên tục cập nhật. http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/eyelash.gif :P1 like
-
1 like
-
Chữ ký này chỉ thuận lợi lúc khởi động càng đường dài càng khúc khuỷu gian nan về sau lại teo tóp có vẻ như vận mệnh đã hoạch định nên thuận tay thuận ý mà thể hiện qua chữ ký này! chút hiểu biết góp lời với bạn, hy vọng đến lúc bạn hết thích và tự đổi thì cơ hội sẽ theo chiều khác! Diễn đàn này làm gì có tăng mà cao thấp e rằng bạn có nhầm lẫn khi dùng từ ở tựa bài viết!1 like
-
Buồn Nhỉ!
ReQuat liked a post in a topic by Thiên Đồng
Áp lực khủng khiếp của những cô gái lỡ thì (VietNamNet) Xu, một phụ nữ xinh đẹp trong độ tuổi 30, thận trọng bước vào một câu lạc bộ độc thân ở Bắc Kinh trong một nỗ lực nhằm thoát khỏi tình trạng ế ẩm của mình. Những cô gái tới các câu lạc bộ kết bạn vì chịu nhiều áp lực từ gia đình và xã hội. (Ảnh minh họa: AP) Xu đã không tới "Garden of Joy" hơn một năm nhưng do áp lực xã hội quá lớn, cô trở lại với hy vọng mong manh. "Tôi hy vọng sẽ tìm được một tấm chồng," cô nói, khi đang ngồi trước một bàn mạt chược và đợi người đàn ông mà cô hẹn hò vào buổi tối, người được câu lạc bộ lựa chọn cho cô dựa trên hồ sơ của hai người. "Tôi chỉ muốn một người nào đó có nhiều điểm chung với tôi nhưng có kinh tế khá giả hơn." Ở tuổi này, Xu bị coi là một trong những "Sheng Nu" tại Trung Quốc. Thuật ngữ "Sheng Nu", được dịch từ từ "Unwanted" (không ai cần đến) trong tiếng Anh, xuất phát từ một hiện tượng trong xã hội Trung Quốc, có liên quan tới hàng trăm ngàn phụ nữ, đặc biệt là ở thành thị, có học vấn và độc lập. Thuật ngữ này chỉ dành cho phụ nữ và xuất hiện trong từ điển chính thức của Trung Quốc dùng để chỉ "tất cả những phụ nữ độc thân trên 27 tuổi". Đây là lần đầu tiên cô gái 27 tuổi với biệt danh Summer tới "Garden of Joy". Cô đã quyết định đi gặp một người đàn ông trước khi trở thành một "Sheng Nu" "Không có thứ gì trên thế giới cho phép tôi trở thành Sheng Nu," cô nói. "Đàn ông không thích một phụ nữ trên 30 tuổi. Điều quan trọng đối với họ là cô ta vẫn xinh đẹp." Một cuộc khảo sát vào năm 2010 do Liên đoàn Tất cả phụ nữ Trung Quốc thực hiện đã xác nhận "Sheng Nu" là một hiện tượng mới của xã hội. Kết quả khảo sát cho thấy có khoảng 180 triệu đàn ông và phụ nữ độc thân tại Trung Quốc trên tổng số 1,3 tỷ dân và 92% những người đàn ông được hỏi tin rằng một người phụ nữ cần kết hôn trước 27 tuổi. Từ đó trở đi, "Sheng Nu" trở thành chủ đề được nhắc tới thường xuyên trên sách báo và phim ảnh, nhiều tạp chí phụ nữ thậm chí còn tìm cách lý giải tại sao lại có nhiều người độc thân như vậy. "Một mặt, giới trẻ ngày nay làm việc rất chăm chỉ và có ít nơi để gặp gỡ ngoài công sở..." Wu Di, một nhà xã hội học cho biết. "...Mặt khác, những người Trung Quốc truyền thống nói rằng một cô gái nên "biết chấp nhận" khi cưới chồng. Hôn nhân không bao giờ đồng nghĩa với hạnh phúc. Phụ nữ thế hệ mới không thích "chấp nhận". Nhiều phụ nữ độc thân có cuộc sống khá tốt và không quan tâm tới những người có mức sống thấp hơn mình để kết hôn..." Tuy vậy, áp lực đối với những người phụ nữ lớn tuổi chưa chồng vẫn rất lớn. Một phần áp lực này xuất phát từ chính sách một con của Trung Quốc. Các bậc phụ huynh luôn giục đứa con độc nhất của mình sớm kết hôn để họ có cháu bế. "Lý do thực tế mà tôi tới câu lạc bộ này là không muốn khiến bố mẹ thất vọng. Tôi muốn làm họ hạnh phúc," Xu thừa nhận. Câu lạc bộ "Garden of Joy", được mở vào năm 2003, đã có hai chi nhánh tại Bắc Kinh và hơn 12.000 thành viên. Câu lạc bộ đã mang tới một bầu không khí thân thiện trong tầng hầm của một trung tâm thương mại cao cấp, nơi phụ nữ có thể gặp người chồng tương lai của mình với 80 hoạt động khác nhau. Shelly, 34 tuổi, một chuyên gia tư vấn quan hệ công chúng có học vấn cao, mới trở về từ Mỹ, là một trong những thành viên của câu lạc bộ. Từ khi về nước, cô đã tránh mặt người thân và thậm chí một số bạn thân của mình để không phải tới những cuộc hẹn hò sắp đặt. "Tôi chịu áp lực từ mọi phía. Tôi cảm thấy mẹ tôi rất thất vọng và buồn bã khi bà nhìn thấy những đứa cháu của bạn mình," cô nói. Tuy nhiên, do không tìm được đối tượng tiềm năng, Shelly lại chuẩn bị quay lại Mỹ để học tiếp nhằm thoát khỏi những áp lực từ đồng nghiệp, cha mẹ và bạn bè. "Tôi nghĩ tôi sẽ trở về Trung Quốc khi tôi 40 tuổi. Tôi ước mình trở thành một bà lãi ngay bây giờ như vậy họ sẽ để cho tôi được yên," cô nói. Sầm Hoa (Theo divaasia) ======================= Lý học Lạc Việt giải thích cho hiện tượng xã hội Trung Quốc chỉ bằng một ý của nguyên lý Âm Dương: "Dương khắc Âm tắc bế". Buồn thiệt! Thiên Đồng1 like -
Sinh Quý Tỵ khắc mẹ mạnh lắm đấy, Tý Tỵ Tuyệt nhau, mẹ mạng Kim bị con mạng Hỏa khắc (theo Lạc Thư Hoa Giáp). Nhà này có thể sinh gần nhất là năm Ất Mùi 2015 nhé. Thân mến.1 like
-
Quán vắng!
Tuyết Minh liked a post in a topic by nhatd
Biên tập viên Tân Hoa xã phản đối "thành phố Tam Sa" Biên tập viên Chu Phương của Tân Hoa xã thẳng thắn bày tỏ quan điểm cực lực phản đối chính sách sử dụng vũ lực ở Biển Đông, đòi xóa bỏ cái gọi là “thành phố Tam Sa” của Trung Quốc. Gần đây, khi tình hình Biển Đông căng thẳng, nhất là sau khi Trung Quốc có những bước đi ngang ngược, bất chấp lẽ phải và sự thật như khẳng định yêu sách về “Đường Lưỡi bò”, lập ra cái gọi là “thành phố Tam Sa”, biên tập viên Chu Phương của Tân Hoa xã đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm cực lực phản đối chính sách sử dụng vũ lực ở Biển Đông, đòi xóa bỏ cái gọi là “thành phố Tam Sa”... Nhà báo Chu Phương sinh năm 1960, Cử nhân Anh văn (1982), Thạc sỹ Báo chí truyền thông (1989), từ 1989 đến nay là biên tập viên công tác tại Ban biên tập đối ngoại của Tân Hoa xã. Ông là nhân vật nổi tiếng có quan điểm thẳng thắn trong làng báo Trung Quốc, hồi tháng 3 năm nay, từng gây chấn động dư luận bởi là người viết những bài đầu tiên đăng trên Blog Sina.com phê phán Bạc Hy Lai và “mô hình Trùng Khánh” ngay từ khi nhân vật này còn đang trên đỉnh cao danh vọng và quyền lực. Ngày 17-7, ông cho đăng bài viết “Hiện trạng Nam Hải (Biển Đông) có lẽ sẽ kéo lùi cải cách chính trị của Trung Quốc”. Trong đó ông viết: “Ý nghĩa lớn nhất của việc lập ra “thành phố Tam Sa” là chường cho bàn dân thiên hạ thấy nỗi nhục của Trung Quốc; đồng thời cũng sẽ buộc chính phủ và quân đội Trung Quốc phải giở bài ngửa với các quốc gia xung quanh và quốc tế... Chúng ta từ nhỏ đã được nhìn thấy tấm bản đồ Nam Hải (Biển Đông). Một đường biên giới đứt đoạn rất thô màu hồng đưa toàn bộ Nam Hải vào trong bản đồ Trung Quốc. Cho đến ngày nay chúng ta mới biết sự thực không phải như vậy. Cái đường biên giới quốc gia ấy không những các nước láng giềng và cả quốc tế không công nhận, mà ngay chính phủ và các học giả nước ta (Trung Quốc) cũng không giải thích rõ được”. Trước đó, ngày 29-6, Chu Phương viết bài: “Thiết lập “thành phố Tam Sa” là trò cười quốc tế, mạnh mẽ yêu cầu hủy bỏ ngay!”. Bài này đã được nhiều diễn đàn mạng đăng lại. Chu Phương viết: “Nhiều người dân nước ta đến giờ vẫn không hiểu Nga tại sao lại lần đầu tiên tham gia cuộc diễn tập quân sự lớn Thái Bình Dương do Mỹ chủ đạo. Kỳ thực, đó chính là sự phản ứng mạnh mẽ của quốc tế trước hành động thiết lập “thành phố Tam Sa” đi ngược lại luật quốc tế và vô trách nhiệm của Trung Quốc. Nếu giai tầng lãnh đạo Trung Quốc đến giờ vẫn không đọc hiểu được thứ ngôn ngữ quốc tế chung đó thì sẽ kéo nhân dân Trung Quốc sa vào một cuộc chiến tranh không thể thoát ra. Việc thiết lập “thành phố Tam Sa” là một trò cười quốc tế điển hình. Chính phủ Trung Quốc cần sớm nhận sõ sai lầm to lớn của mình, sớm có hành động sửa chữa sai sót. Bản thân tôi mạnh mẽ kêu gọi: hãy lập tức hủy bỏ “thành phố Tam Sa”, triển khai sớm nhất có thể được việc đối thoại mang tính xây dựng với các nước xung quanh Nam Hải (Biển Đông), dốc sức cho việc làm dịu tình hình căng thẳng ở Nam Hải, loại bỏ nguy cơ chiến tranh, đưa Trung Quốc quay trở lại với đại gia đình quốc tế”. Chu Phương viết: “Trung Quốc đã trải qua kiểu hành động tùy tiện thời “Cách mạng văn hóa”, đã tự mình nếm trải thời kỳ “chính trị thống soái”, cần phải nhận thức được mình là thành viên của đại gia đình quốc tế, cần phải tuân thủ các chuẩn tắc và quy phạm mà cả cộng đồng quốc tế tuân theo. Trong xử lý công việc quốc tế, nhất là xử lý các vấn đề phức tạp, tồn tại tranh chấp nghiêm trọng giữa các quốc gia, tuyệt đối không được tự mình hành động một mình theo quan niệm giá trị, quan niệm lịch sử và lập trường của mình, chỉ nói điều mình nghĩ; như thế không những không giúp gì cho việc giải quyết tranh chấp quốc tế, mà còn làm tình hình xấu thêm, gia tăng thêm quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc với các nước xung quanh. Đồng thời cũng làm tổn hại đến hình ảnh và địa vị quốc tế của Trung Quốc, làm suy yếu tiếng nói của Trung Quốc trên trường quốc tế. Trong vấn đề ngoại giao, trong xử lý công việc quan hệ quốc tế, chúng ta cần phải có thêm nhiều nhà ngoại giao, nhà chiến lược quốc tế và những chính trị gia thực sự có tầm để tham gia vào việc quyết sách; quyết không nghe theo tiếng gào thét của những “cuồng nhân chiến tranh” hay để cho quân sự chỉ huy chính trị. Kinh nghiệm lịch sử của tất cả các quốc gia cho thấy rõ: quân nhân can dự chính trị chỉ đem lại tai họa cho đất nước”. Về việc chính phủ Trung Quốc vội vàng tuyên bố lập ra cái gọi là “thành phố Tam Sa” bao gồm toàn bộ vùng biển trong “Đường biên giới 9 đoạn” mà họ tự vạch ra một cách vô căn cứ, Chu Phương thẳng thắn bày tỏ quan điểm: “Việc thiết lập “thành phố Tam Sa” là bước đi sai lầm nhất và không sáng suốt nhất của Trung Quốc trong việc giải quyết vấn đề Nam Hải (Biển Đông), khiến cả quốc tế chê cười những nhà quyết sách Trung Quốc thiếu kiến thức về luật quốc tế muốn thông qua việc thiết lập “thành phố”, ngang nhiên đưa công hải (vùng biển quốc tế) vào lãnh hải của nước mình. Cách làm sai trái ấy không chỉ tạo ra tiền lệ quốc tế, mà còn trở thành trò cười quốc tế, tất sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh quốc tế của Trung Quốc. Quá trình thiết lập “thành phố Tam Sa” thể hiện sự nóng vội và cẩu thả, rõ ràng là quyết định được đưa ra thiếu luận chứng khoa học và không sáng suốt. Hành động này không chỉ đi ngược lại luật pháp và tập quán quốc tế, mà cũng trái với những quy định pháp luật của chính Trung Quốc về việc thành lập thành phố, càng đi ngược lại quốc sách và chiến lược phát triển hòa bình phù hợp mà Trung Quốc cần có”. Ông phân tích: “Hành động sai lầm nguy hiểm vô trách nhiệm của một số người trong việc thiết lập “thành phố Tam Sa” đang đẩy nhân dân Trung Quốc sa vào miệng hố chiến tranh. Nhân dân Trung Quốc cần hòa bình, không cần chiến tranh. Trong việc xử lý vấn đề quốc tế và xử lý vấn đề quan hệ với các nước, Trung Quốc cần phải tỉnh táo, không được cuồng nhiệt. Trung Quốc cần làm một dân tộc có trách nhiệm, đứng thẳng giữa khu rừng các dân tộc thế giới; quyết không thể làm một “cô nhi thế giới” hành động ngang bướng. Trong việc giải quyết công việc quốc tế, Trung Quốc cần phải học cách tuân theo quy tắc trò chơi đã được cả quốc tế công nhận, tránh một mình một kiểu, mình khen mình hay, đừng để trở thành Triều Tiên thứ hai”. Chu Phương thẳng thắn đề xuất ý kiến cá nhân: “Đối với vấn đề “thành phố Tam Sa”, chính phủ Trung Quốc cần sớm nhận ra sai lầm lớn lao của mình, xin đừng ngại mất thể diện mà bỏ lỡ thời cơ. Trung Quốc cần sớm hành động, sửa chữa sai sót... Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta thấy, một Trung Quốc cô lập sẽ không có tiền đồ. Việc Nga tham gia cuộc diễn tập quân sự Thái Bình Dương vẫn chưa khiến một số chính khách và quân nhân của ta tỉnh ra. Trong thế giới ngày nay, sự phát triển của một quốc gia càng cần có sự quan tâm, tham dự và giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Đừng nói gì Trung Quốc đang tự coi mình là “quốc gia đang phát triển”, mà ngay cả Mỹ, “Siêu cường quốc duy nhất thế giới” hiện cũng đang ngày càng biết cách lợi dụng và dựa vào cộng đồng quốc tế để đạt được mục đích của mình”. Ông kết luận: “Thiết lập “thành phố Tam Sa” là hành động tự cô lập mình của Trung Quốc, là một sai lầm chiến lược to lớn cần phải nhanh chóng sửa chữa!”. Theo Thu Thủy Dân trí/Tiền phong/Sina.com, Zhoufang.blshe.com1 like -
Kính thưa quí vị. Tác giả bài viết này tỏ ra hiểu biết hơn nhiều các bài báo khác viết về hạt Higgs, chứng tỏ tác giả có chuyên môn sâu về ngành khoa học này. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng, ông ta không biết gì về Lý học Việt. Bởi vì, nếu ông ta biết về Lý học Việt thì ví dụ về tắc đường ở trong bài viết sẽ không dẫn tới ý niệm về hạt Higgs , mà dẫn tới một gợi ý về khí bị bế - một trường hợp có thể ví dụ cho "Khí tụ thành hình " trong Lý học Việt. Và một điều quan trọng nữa để tôi tin rằng tác giả không nghiên cứu sâu về Lý học chính là ông đã tỏ ra chia sẻ với kết quả đạt được. ============================ Hạt Higgs: Vũ trụ trong hạt bụi? Thứ Tư, 18/07/2012, 10:57 (GMT+7) TTCT - Vũ trụ trong một hạt bụi, theo nghĩa những tính chất cơ bản nhất của vũ trụ có thể tìm thấy trong một hạt bụi nhỏ, là một ám ảnh không chỉ của phương Đông mà còn của nhiều người làm khoa học. Phải chăng hạt boson Higgs vừa được tìm thấy tuần qua là một hạt như vậy? Giáo sư Peter Higgs - Ảnh: reuters Ngược dòng lịch sử Từ xa xưa, con người đã có tham vọng tìm hiểu cấu trúc sâu xa nhất của vật chất. Mỗi trường phái đều đưa ra những giả thiết khác nhau tùy thuộc vào trải nghiệm và văn hóa của chính họ. Chẳng hạn trong thời Hi Lạp cổ đại, Thales (624-546 trước Công nguyên - TCN) cho rằng vạn vật được tạo thành từ nước, Anaximenes (585-528 TCN) lại cho rằng vạn vật được tạo thành từ không khí, Heraclitus (khoảng 535-475 TCN), người nổi tiếng với câu nói “Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”, cho rằng vạn vật được tạo thành từ lửa vì lửa linh động và thay đổi không ngừng, còn Empedocles (490-430 TCN) lại cho rằng vạn vật được tạo thành bởi bốn nguyên tố là đất - nước - lửa - không khí, được liên kết với nhau bởi hai loại lực hút và lực đẩy. Ở phương Đông cũng có những giả thiết tương tự. Nổi bật nhất là hai trường phái âm - dương và ngũ hành. Phái âm - dương cho rằng vạn vật đều do hai yếu tố âm và dương tương tác mà thành. Còn phái ngũ hành thì cho rằng vạn vật là do năm yếu tố kim - mộc - thủy - hỏa - thổ tương hợp với nhau theo luật tương sinh - tương khắc mà tạo thành. Tuy nhiên, đáng lưu ý là Anaxagoras (500-428 TCN) khi cho rằng vạn vật được cấu thành từ vô vàn những vật rất nhỏ, và đặc biệt là quan điểm của Democritus (460-370 TCN) khi cho rằng vạn vật được tạo thành từ các nguyên tử - tức các phần tử nguyên, nhỏ bé đến mức không thể phân chia thành nhỏ hơn được nữa. Giả thiết về sự tồn tại của nguyên tử như là thành phần cấu tạo nên vật chất cuối cùng cũng được khoa học kiểm nghiệm sau hơn 20 thế kỷ. Chẳng hạn, năm 1808, Dalton đã tiến hành những thí nghiệm khẳng định sự tồn tại của nguyên tử. Nhưng phải sang thế kỷ 20, lý thuyết về vật lý nguyên tử mới có được những cơ sở chắc chắn, và cuối cùng phải đến những năm 1980 con người mới có thể trực tiếp nhìn được các nguyên tử thông qua kính hiển vi lực nguyên tử. Như vậy trong 2.500 năm qua, con người đã đi qua những nấc thang nhận thức khác nhau về cấu trúc của vật chất. Ban đầu chỉ dừng lại ở những giả thuyết về sự tồn tại của các nguyên tố cơ bản cấu thành vạn vật, sau đó đi xa hơn bằng việc kiểm chứng bằng thực nghiệm sự tồn tại của không chỉ các nguyên tố, mà còn ở đơn vị cấu trúc nhỏ nhất của nó là các nguyên tử, và cuối cùng là ở mức hạ nguyên tử, tức các hạt cơ bản. Máy gia tốc hạt lớn LHC - Ảnh: cms.desy.de Thế giới của nhà Vật lý Nhờ sự phát triển của vật lý ở thế kỷ 20, con người biết được nguyên tử không phải là đơn vị nhỏ nhất để cấu tạo nên vật chất - như gợi ý từ tên gọi của nó. Trên thực tế, các nguyên tử lại được cấu tạo từ các hạt nhỏ bé hơn nữa gọi là các hạt cơ bản. Các hạt này được chia làm hai nhóm lớn: nhóm hạt Fermion tạo ra vật chất, như các quarks trong hạt nhân nguyên tử và các electron ở vỏ nguyên tử..., và nhóm các hạt boson tạo ra trường lực như các gluon (hạt truyền lực mạnh), W & Z boson (hạt truyền lực yếu), photon (hạt truyền lực điện từ) và graviton (hạt truyền lực hấp dẫn). Mọi vật trong vũ trụ, cả dưới dạng chất và trường, đều được tạo thành từ các hạt cơ bản này. Kích thước của các hạt cơ bản vô cùng nhỏ bé, cỡ một phần triệu tỉ mét. Vì thế, muốn hiểu các hạt này thì phải có các lý thuyết để khảo sát ở kích thước này. Lý thuyết đó là cơ học lượng tử. Theo lý thuyết này thì các hạt nhỏ bé trên có các hành xử vô cùng khác lạ so với vật thể vĩ mô trong thế giới thông thường. Chẳng hạn, chúng vừa là sóng, tức có khả năng lan truyền, lại vừa là hạt, tức đứng yên tại chỗ. Thực tế chúng nhảy múa không ngừng. Không gian càng hẹp, chúng nhảy múa càng dữ dội. Lực ngự trị trong thế giới lượng tử là lực mạnh, lực yếu và lực điện từ, tùy thuộc vào đối tượng khảo sát. Ở đầu kia của biên giới, tức ở khoảng cách cực lớn, thường chỉ hiện hữu trong các nghiên cứu thiên văn, thì thế giới lại được mô tả bởi một lý thuyết khác. Đó là thuyết tương đối. Theo thuyết này thì không gian và thời gian gắn chặt với nhau và không thể tách rời, năng lượng và khối lượng có thể quy đổi cho nhau và vận tốc ánh sáng là vận tốc giới hạn của vũ trụ. Lực ngự trị trong thế giới thiên văn là lực hấp dẫn. Như vậy là có bốn loại lực ngự trị trong tự nhiên là lực mạnh, lực yếu, lực điện từ và lực hấp dẫn. Hẳn nhiên là bất cứ nhà vật lý nào cũng mong muốn tìm được một lý thuyết có thể thống nhất được cả bốn loại lực trên. Điều này thật cám dỗ, nhưng không dễ. Thực tế việc thống nhất bốn loại lực trong tự nhiên được coi là thách thức lớn nhất của vật lý hiện đại. Tuy nhiên, họ đã thành công trong việc thống nhất ba lực yếu, lực mạnh và lực điện từ bằng một lý thuyết gọi là mô hình chuẩn - một trong những thành tựu đáng nể của vật lý thế kỷ 20. Mô hình chuẩn cho phép giải thích được nhiều điều trong thế giới lượng tử. Chẳng hạn, lý thuyết này đòi hỏi sự tồn tại của các hạt gluon, boson và photon. Thực nghiệm đã kiểm chứng điều này với độ chính xác rất cao. Trên thực tế, mô hình chuẩn đóng vai trò dẫn dắt trong các nghiên cứu về vật lý hạt. Trước khi tìm kiếm một hạt mới, người ta có thể tiên đoán chính xác tính chất của hạt đó ra sao. Nhưng có nhiều câu hỏi còn bỏ ngỏ mà mô hình chuẩn chưa có câu trả lời. Chẳng hạn, vì sao các hạt cơ bản lại có khối lượng? Rõ ràng, cách thông minh nhất để trả lời câu hỏi này là giả thiết rằng tồn tại một loại hạt mới, có trách nhiệm mang lại khối lượng cho các hạt cơ bản khác thông qua tương tác với chúng. Ý tưởng này được sáu nhà vật lý đưa ra vào năm 1964. Hạt này sau được gọi là hạt boson Higgs. Tuy nhiên, sự tồn tại của hạt boson Higgs này rất khó kiểm chứng. Một trong những lý do là mô hình chuẩn không tiên đoán được chính xác khối lượng của hạt này, nên thực nghiệm chỉ còn cách mò mẫm! Nếu tìm ra được hạt boson Higgs thì không chỉ giải thích được vì sao các hạt cơ bản khác lại có khối lượng, mà còn chứng minh được mô hình chuẩn là khả tín, vì hạt Higgs được coi là mảnh ghép cuối cùng trong bức tranh thế giới mà mô hình chuẩn vẽ ra. Sâu xa hơn, nó cũng giúp con người hiểu rõ hơn về cấu trúc của vật chất và do đó là sự hình thành của vũ trụ, đặc biệt là ở giai đoạn khởi đầu khi bốn loại lực trong tự nhiên còn thống nhất với nhau. Đó là lý do vì sao hàng chục nghìn nhà khoa học đã dành nhiều nỗ lực hàng chục năm ròng để vượt qua vô vàn khó khăn trong việc tìm kiếm hạt Higgs trong các máy gia tốc lớn. Boson Higgs: Hạt của chúa? “Hạt của Chúa” là tên gọi của boson Higgs trong truyền thông đại chúng. Tiếc thay tên gọi này không giúp gì cho việc hiểu bản chất của hạt boson Higgs, mà chỉ phủ thêm một màn huyền bí giật gân lên hạt Higgs vốn đã rất khó hiểu. Trên thực tế, hạt này ban đầu bị Leon M. Lederman, nhà vật lý hạt đoạt giải Nobel năm 1988, gọi là “hạt chết tiệt” (goddamn particle) trong một cuốn sách khoa học đại chúng nhưng biên tập viên tòa soạn e ngại từ goddamn vốn hay dùng để chửi thề nên sửa thành “God particle” - tức hạt của Chúa. Không ai biết được vì sao những hạt cơ bản lại có khối lượng. Nói cách khác, cơ chế sinh ra khối lượng còn là điều bí ẩn. Nhưng rõ ràng là chúng ta đều có khối lượng và nhiều người còn theo dõi chúng một cách sát sao. Nên rõ ràng hiểu được vì sao các hạt lại có khối lượng là một điều quan trọng. Đó chính là lý do vì sao việc truy tìm hạt Higgs và qua đó làm rõ bằng cách nào các hạt lại có khối lượng, để từ đó hình thành nên vật chất có cấu trúc lại thu hút sự quan tâm lớn như vậy của cộng đồng khoa học. Để hình dung xem bằng cách nào mà hạt boson Higgs mang lại khối lượng cho các hạt khác, bạn có sẵn lòng ra đường phố Hà Nội hoặc TP.HCM vào giờ tan tầm? Nếu đường thông thoáng ở mức lý tưởng, xe bạn sẽ chạy như bay. Bạn có thể tiếp tục nhấn ga và mơ đến vận tốc ánh sáng. Xe lướt nhẹ tênh như không trọng lượng. Nhưng vào giờ tan tầm, đường phố chật cứng, xe bạn nhích từng mét hoặc giậm chân tại chỗ hàng giờ, bạn phải nghiêng bên nọ, lách bên kia nên không còn ở trạng thái đối xứng hoàn hảo nữa. Bỗng nhiên cả bạn và xe bỗng trở nên chậm chạp nặng nề như bị một khối lượng hàng trăm tấn kéo lại, không thể di chuyển hay nhúc nhích được. Sự thật là sao? Có phải là bạn và xe bỗng nhiên nặng nề hơn vào giờ tan tầm nên di chuyển chậm hơn? Chắc hẳn là không. Nhưng nếu bạn hiểu khối lượng không phải là chỉ số trên bàn cân mà là độ chậm chạp khi di chuyển thì lại đúng là bạn đã bị tăng cân. Chính tắc đường đã làm cho bạn di chuyển chậm chạp, vì phải tương tác với các phương tiện giao thông khác. Điều này đồng nghĩa với việc xe bạn bỗng nhiên nặng nề hơn hàng chục lần, bằng chứng là bạn không di chuyển được! Đó chính là cách hạt boson Higgs mang lại khối lượng cho các hạt cơ bản khác. Nói cách khác, hạt Higgs tương tác với các hạt cơ bản khác làm chúng chuyển động chậm lại, không còn tự do bay với vận tốc ánh sáng được nữa. Và các hạt khác tìm thấy khối lượng của mình thông qua tương tác đó. Nếu không có hạt boson Higgs sẽ không có Trái đất, Mặt trăng, Mặt trời, các ngôi sao..., vì khi đó tất cả các hạt cơ bản đều không có khối lượng, chuyển động với vận tốc ánh sáng, nên không có gì có thể giữ chúng lại với nhau để hình thành vật chất có cấu trúc được. Chúng ta, tất nhiên cũng sẽ không tồn tại. Đó có thể là lý do vì sao đại chúng lại chấp nhận gọi đây là “hạt của Chúa”, dù được khai sinh một cách ngẫu nhiên và không hề có ẩn ý tôn giáo. Kỷ nguyên khoa học mới Trong buổi báo cáo kết quả nghiên cứu ngày 4-7, giáo sư Joe Incandela của nhóm CMS là người trình bày trước. Khi bảng kết quả tổng hợp cho thấy độ tin cậy của kết quả thực nghiệm đạt mức 5 sigma, cả khán phòng đã vỗ tay hoan hô vang dội. Cần nói thêm, độ tin cậy 5 sigma tương ứng với sai số là ba phần mười triệu (độ tin cậy >99.9999%), là mức mà các nhà vật lý hạt cơ bản sử dụng để công nhận một phát hiện mới. Hiện giờ nhà khoa học còn thận trọng, chỉ xác nhận đó là một loại hạt mới, có nhiều đặc điểm của hạt boson Higgs, chứ chưa thể khẳng định đó là hạt boson Higgs theo tiên đoán của mô hình chuẩn. Trong thông cáo báo chí CERN viết: Hai nhóm ATLAS và CMS đã giới thiệu những kết quả thực nghiệm mới nhất trong việc tìm kiếm hạt Boson Higgs. Các thực nghiệm này cho thấy những chỉ dấu mạnh về sự tồn tại của một loại hạt mới, có thể là hạt boson Higgs, có khối lượng khoảng 126 GeV (giga electron volts). Nhưng giới chuyên môn đều cho rằng đây là một đại sự kiện trong khoa học đương đại và là khởi đầu của một kỷ nguyên khoa học mới. Chưa ai có thể nói chính xác mọi chuyện sẽ diễn ra như thế nào vì một lẽ đơn giản: đây là một sự khởi đầu chứ không phải là một kết cục. Nhưng có thể dự đoán những nghiên cứu trong máy gia tốc LHC thời gian tới sẽ tập trung vào làm rõ tính chất của hạt mới được khám phá, để khẳng định xem đó có phải là hạt boson Higgs theo dự đoán của mô hình chuẩn hay không. Việc tìm ra hạt Higgs sẽ mở ra một kỷ nguyên mới cho khoa học trong hành trình khám phá vật chất và vũ trụ, có thể cả nhiều lĩnh vực khác nữa. GIÁP VĂN DƯƠNG1 like
-
1 like
-
Hạ Vũ
ReQuat liked a post in a topic by Lãn Miên
Hạ Vũ Từ thời nhà Hán về sau, thư tịch ghi lại truyền thuyết, và cho rằng Vũ 禹 là một người đàn ông, ghi theo phả hệ dòng bố như kiểu đích tôn cha truyền con trai nối, rằng Cổn 鯀 là bố của Vũ 禹 (Tư Mã Thiên viết về sử nhà Tây Hán trong “Sử ký. Hạ bổn kỷ 史 記.夏 本 紀”: Bố của Vũ là Cổn, bố của Cổn là “đế Chuyên Húc 帝 顓 頊”, bố của Chuyên Húc là Xương Ý, bố của Xương Ý là “Hoàng đế 黃 帝”, “ Vũ giả, Hoàng đế chi huyền tôn nhi đế Chuyên Húc chi tôn dã 禹 者,黃 帝 之 玄 孫而 帝 顓 頊 之 孫 也” - Kẻ Vũ là cháu 5 đời của Hoàng đế, còn Chuyên Húc là cháu 3 đời của Hoàng đế” [ Đọc trong nguyên bản hành văn trên, thấy cú pháp lẫn lộn khi Hán, khi Việt. Tất cả dựa vào truyền thuyết, nhưng lại muốn qui cho ông Tổ đầu tiên là Hoàng đế, gọi theo cú pháp Hán, nhưng cháu nội đích tôn của ông ấy lại không gọi là Chuyên Húc đế mà lại gọi là “đế Chuyên Húc”, gọi theo cú pháp Việt; đến hàng mấy ngàn năm sau (theo như sử này nói Hoàng Đế là Tổ của người Hán cách nay 5000 năm), cái ông vua đang chỉ đạo viết sử này, chính ông ấy lại được gọi là Hán Vũ đế, gọi theo cú pháp Hán. Vậy chứng tỏ là sử cổ đại (truyền thuyết) trên Hán thư ghi lại là do người Hán chép lại và có xào nấu lại sử cổ đại của Việt. Cổn 鯀 được cho là bố của Vũ 禹. Vậy mà chữ Vũ 禹là chữ đơn thể, tự nó gốc gác là từ tượng hình trên giáp cốt văn, diễn tả hình người bắt rắn (Thuyết Văn đọc: lướt “Vương 王 Cụ 矩 = Vũ 禹, giải thích là loài 蟲 Trùng; Trùng = Trùn = Tròn = Trăn = Rắn (loài không có chân); nếu Hán ngữ mà lướt thì thành “Váng 王Chuy 矩” = Vuy, không thành Uỷ như pinyin “ Yu 禹 ” được). Trong khi chữ Cổn 鯀 là chữ ghép biểu ý, là kiểu chỉ có từ khi có qui tắc lục thư do soạn ra từ thời nhà Tần, chữ Cổn 鯀 này gồm chữ Hệ 系( từ nguyên là Họ) và chữ Ngư 魚là cá, ám chỉ dân sông nước, giải thích là một loài cá, ( Ngư 魚 Hệ 系 thì có thể hiểu là con Cá Hô . Thuyết Văn đọc: lướt. “Cổ 古 Bổn 本” = Cổn 鯀, nếu Hán ngữ mà lướt thì thành “Củ 古 Pẩn 本” = Cẩn, không thành Cun như pinyin “ Gun 鯀 ” được). Chữ Cổn 鯀 phát âm Hán là “Cun” (pinyin “gun”), nó có từ nguyên chính là từ Con của Tiếng Việt mà thôi, nhưng Con ở đây là Con Mẹ hay Con Mụ, tức là một Bà, vì thời cổ đại hàng vạn năm trước ấy vẫn còn là thời mẫu hệ gọi là Thị Tộc; U = Vú = Vũ = Mụ = Mẹ = Mẫu. QT Tơi-Rỡi: Cả = Con = Quan = Quân = Cun = Khun = Khôn = Khuông = Vuông = Vua = Văn = Vũ = Vương = Tướng = Hường = Hoàng = Voòng = Vàng = Lang = Lớn = Cổn = Cả. Pò Khun là Bố Cả hay Bố Cái. Sông Cả cũng gọi là sông Cái. Tên thường gọi trong truyền thuyết chuyện kể là “Đại Vũ” là do những cái tên Lang Vũ, Lớn Vũ, Cổn Vũ, Cả Vũ, Đà Vũ (chuyện cổ tích “ông Đùng bà Đà”), nên khi viết lại sử từ truyền thuyết dân gian, nghe tiếng Cổn Vũ thì dễ coi như bố Vũ là Cổn, hay nghe thấy tên Đà Vũ thì dễ coi như mẹ Vũ là bà Đà hay bà nữ Oa. Những từ có sau như Chu Văn Vương là ông Vua họ Chu, Chu Vũ Vương cũng là ông Vua họ Chu, Lưu Hướng là ông Vua họ Lưu, Hán Vũ Đế là ông “Đứa Vua nước Hán” hay “Đức Vương nước Hán” cũng là một. Ngôn ngữ dân gian thì nó là như vậy, dù là Vua hay Quân hay Vương hay Tướng thì cũng là Con, tức là từ đẻ cái chửa mà ra, mà lướt “Đẻ cái Chửa” = Đứa. Từ nguyên của chữ Đế là Nước, do Té = Tức = Tế = Đế = Đức = Đác = Nác = Nước. Người đứng đầu Vùng gọi là Vua hay Vương thì người đứng đầu Nước gọi là Đế hay Đức (tiếng Khơ Me gọi là Xăm Đéc). Thời Văn Lang lập Nước cách nay gần 5000 năm, đó là thời Đế Minh. Căn theo cái âm tiết, thì nguyên thủy từ Đế Minh chưa có nghĩa là Vua Sáng, nó có nghĩa là “Đức của Mẹ Kinh”, tức người đứng đầu quốc gia của người Kinh, Đầu Nước = Đầu Tức = Đức; Mẹ Kinh = Minh; chế độ là mẫu hệ; người đứng đầu nước là do cộng đồng bầu lên, là đàn bà hoặc đàn ông, thay đổi cũng là do bầu, gọi là Thiền nhượng (Thay Hiền = Thiền). Khái niệm “Sáng” khởi thủy là do từ Trời và từ Trăng. Trời = Rọi = Chói = Chiếu 照 = Triêu朝 = Diệu 耀 (Hán ngữ phát âm khái niệm Rọi là “Rừ” viết là chữ Nhật 日; phát âm chữ Nhiệt 热 có bộ hỏa là “Rừa”, do từ lướt của tiếng Việt là “Rực Lửa” = “Rừa”, nghĩa là nóng, mà Nóng = Nắng = Dàng = Dương = “ Yáng 阳 ” ); Trăng = =Rạng = Sáng = Láng = =Lượng 亮. Do người Kinh, cũng tức là người Việt, nên từ Mẹ Kinh = Minh người ta viết bằng hai chữ Việt ghép lại với nhau (để mang ý là nhiều, theo kiểu có âm có dương thì đẻ ra nhiều), hai chữ Việt đó là chữ Nhiệt 日 và chữ Nguyệt 月( QT Tơi-Rỡi: Việt = Nguyệt 月= Nhiệt = Nhật 日, để nói là dân xứ nóng, dân mặt trời), thành ra chữ Minh 明. Do ghép như vậy nên chữ Minh 明 gồm Nhật 日 và Nguyệt 月 mới đại diện cho cái nghĩa do biểu ý của chữ, nghĩa là Sáng, nó là có sau từ Sáng, chỉ có nghĩa trên mặt chữ, tức là dùng chữ Minh 明 cho ý văn học như từ minh chứng, minh bạch. Khẩu ngữ Hán ngữ chỉ dùng chữ Lượng 亮 (“liang”), khẩu ngữ Tiếng Việt chỉ dùng chữ Sáng]. Tham khảo thêm đoạn dưới đây,( nguồn: Viện Việt học): -Hồ Động Đình và Đại Hàn Khi nghe chúng tôi nói Long Vương Động Đình Quân là ông ngoại của Lạc Long Quân Lạc Việt, người hướng dẫn viên rất ngạc nhiên. Chị cho biết một số du khách Đại Hàn đến đây cũng bảo là Long Vương liên hệ với vua tổ của họ. Đúng vậy, Việt Nam và một vài tộc Đại Hàn có một tổ chung. Trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt tôi đã chứng minh rõ điểm này. Xin tóm lược vài điểm chính ở đây. “Đời Tây Chu các sử gia nhà Chu gọi người Korea là Lai Di. Sử ấy cũng cho biết Lai Di là rợ Tam Hàn trước kia” (Bình Nguyên Lộc, sđd). Ở chỗ khác Bình Nguyên Lộc viết “Sử đời Chu cho biết rợ Tam Hàn vốn là dân Lạc viết với bộ trãi, tức là dân Đông Di, gốc ở cực đông bắc Trung Hoa thời thượng cổ”. Ta thấy dân Đại Hàn có chi Lạc viết với bộ trãi y hệt chữ Lạc trong tên Lạc Long Quân cũng viết với bộ trãi. Trãi là con sâu không có chân tức thuộc dòng rắn. Theo tr=d (tràn = dàn) ta có trãi = dải, con vật giống như dải dây là con rắn. Cổ sử Đại Hàn và cổ sử của chúng ta cũng gặp nhau ở cái bọc Trứng Thế Gian. Các tộc phía nam của Tam Hàn cũng có huyền thoại cho rằng vua tổ của họ do trứng nở ra y hệt truyện Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng nở ra các vua tổ Hùng vương. Cổ sử Đại Hàn có nói tới vị vua huyền sử đầu tiên là Tankun hay Thankun đẻ ra vị vua đầu tiên là Ki-ja, vị tổ lập quốc của triều đại thứ nhất. Không có tài liệu nào nói rõ về thời vua huyền sử (legendary king) Tankun hoặc ngay cả giai đoạn Kija sau đó. Korea chỉ còn các tài liệu về ngôn ngữ trong và sau thời đại Samhan (Three Han States, Tam Hàn). Ta thấy -kun liên hệ với Mường ngữ Cun. Cun, kun, khun, cổ ngữ Việt khuấn và với Mông Cổ ngữ khan (Gengis Khan), Anh ngữ king… có nghĩa là người cầm đầu, người số một, vua. Tankun, Thankun là vua Tan, vua Than. Theo chuyển hóa t=s, th=s (thẹo = sẹo), ta có Tan, Than = San, Sáng. Vị vua tổ huyền sử của Đại Hàn là Tankun, Thankun là Cun Sáng, vua Sáng tương đương với Đế Minh. Ta có thể thấy rõ điều này qua cái tên Triều Tiên có nghĩa là ánh Chiêu Dương đầu tiên của ngày, tức ánh bình minh. Ngày nay người Đại Hàn dịch chữ Triều Tiên ra Anh ngữ là “Morning Calm” cho thấy còn mang dấu tích vua tổ của họ là vua Sáng Tankun liên hệ với Vua Ánh Sáng Đế Minh. Bình Nguyên Lộc cũng đã nhận ra sự liên hệ này: ”Nhưng người Tầu đã sai lầm mà phân biệt Đông Di và Nam Man vì cứ theo lời họ tả thì Đông Di giống hệt Nam Man cũng xâm mình và nhuộm răng đen và ta sẽ thấy… rằng rợ Đông Di, đích thị là Việt” (Bình Nguyên Lộc, sđd tr.136). Đại Hàn có một cái gốc chung với Việt Nam chúng ta. Tên nước Triều Tiên, ánh Chiêu dương gần cận với Hừng rạng. Họ cũng có Kinh Dương vương. Tankun tương đương với Đế Minh sinh ra vị vua đầu tiên là Ki-ja, vị tổ lập quốc của triều đại thứ nhất. Ki-ja chính là Ki-jang, Kì Dương! Kinh Dương vương, vua đầu tiên của Việt Nam và Ki-ja là vua đầu tiên của Đại Hàn. Như thế Tam Hàn Lạc bộ trãi và Lạc Việt Lạc Long Quân có Lạc bộ trãi có cùng vua Ánh Sáng Tankun-Đế Minh, cùng vua Ki-Ja, Kì Dương, có cùng bọc Trứng Thế Gian sinh ra các vua tổ Đại Hàn-Hùng Vương thì cùng có gốc tổ ở hồ Động Đình là chuyện tất nhiên. Đại Hàn có các tộc có gốc Bách Việt. Điểm này là điểm hết sức quan trọng vì nó chứng thực, xác quyết là nguồn cội của Bách Việt là ở hồ Động Đình không phải chỉ có trong truyền thuyết Việt mà còn thấy ở Đại Hàn.1 like -
KIM ĐỊNH VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU VĂN HÓA VIỆT NAM GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm[1] Đây là bài viết (có bổ sung) đã trình bày tại Tọa đàm tưởng niệm 15 năm ngày mất của GS. Lương Kim Định do Trung tâm Minh triết phối hợp với Trung tâm Lý Học Đông Phương tổ chức ngày 14-7-2012 tại Văn miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội. Bài viết gồm bốn nội dung: (1) Hiện tượng Kim Định; (2) Những điểm mạnh và những đóng góp của Kim Định; (3) Những điểm yếu và những hạn chế của Kim Định; (4) Cơ hội, thách thức và những trách nhiệm của chúng ta. 1. Hiện tượng Kim Định 1.1. Trong lịch sử nghiên cứu văn hóa Việt Nam, có bốn cái mốc quan trọng được tạo nên bởi bốn nhân vật. Người đầu tiên viết sách về văn hóa Việt Nam là Lê Quý Đôn với “Vân đài loại ngữ” (9 quyển, 1773), và sách đó mang tính bách khoa thư. Người đầu tiên viết chuyên luận về văn hóa Việt Nam và bảo vệ lấy bằng tiến sĩ tại phương Tây (Đại học Sorbonne, Paris, 1934) là Nguyễn Văn Huyên với luận án chính là “Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam” và luận án phụ “Nhập môn nghiên cứu nhà sàn ở Đông Nam Á”, hai luận án này được xếp loại xuất sắc và được xuất bản ở Pháp với sự hoan nghênh của giới dân tộc học châu Âu. Người đầu tiên viết sách giáo khoa về văn hóa Việt Nam theo tiêu chuẩn phương Tây là Đào Duy Anh, và sách đó là “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938); ông cũng là một nhà bách khoa thư trong nhiều lĩnh vực. Tất cả những sách bách khoa thư, sách chuyên luận, và sách giáo trình nêu trên đều được soạn thảo rất công phu và đều là những sách rất có giá trị (cho đến tận ngày nay), nhưng cả về hình thức và nội dung đều tuân theo những chuẩn mực của thời đại mình. Vì vậy các tác giả của chúng đều sống một cuộc đời suôn sẻ. Con đường quan lộ của Lê Quý Đôn có phần lận đận nhưng ông cũng từng nhiều lần giữ các trọng trách, khi mất được truy phong là thượng thư Bộ Công. Đào Duy Anh là một nhà giáo khả kính. Nguyễn Văn Huyên là người giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam lâu nhất (gần 29 năm). Trong lịch sử nghiên cứu văn hóa Việt Nam, người đầu tiên làm nên một hiện tượng, gây nên một phong trào, và sống một cuộc đời không thể nói là suôn sẻ, ấy là Kim Định (1914-1997). 1.2. “Hiện tượng” là một sự kiện hay sự việc đặc biệt và bất thường. Điều bất thường về hình thức nằm ở chỗ Lương Kim Định là người đầu tiên và cho đến nay là duy nhất viết nhiều sách nhất về văn hóa Việt Nam. Nếu không kể 7 cuốn chưa in, 5 cuốn in rồi mà bị thất lạc, thì Kim Định có tổng cộng 32 cuốn mà ngày nay chúng ta có thể tiếp cận được[2]. Trong đó có 20 cuốn được xuất bản trong giai đoạn 1965-1975, và 12 cuốn được xuất bản trong giai đoạn 1979-2000. Có hai năm ông xuất bản tới 4 quyển mỗi năm (1970, 1973) và hai năm ông xuất bản 3 quyển mỗi năm (1969, 1987), x. bảng 1. Bảng 1: Tình hình xuất bản sách của Kim Định Giai đoạn 1 - 20 năm Năm...............Số lượng.......Tên sách 1965..................1..............Cửa Khổng 1967..................1..............Chữ Thời 1969..................3............. Vũ trụ nhân linh; Định hướng văn học; Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây 1970..................4..............Tâm tư; Việt lý tố nguyên; Dịch Kinh linh thể; Hiến chương giáo dục 1971..................2...............Lạc Thư minh triết; Triết lý Cái Đình 1972..................1...............Cơ cấu Việt Nho 1973..................4...............Loa Thành đồ thuyết; Vấn đề nguồn gốc văn hóa Việt Nam; Vấn đề Quốc học; Tinh hoa Ngũ Điển 1975..................1...............Triết lý giáo dục 1979..................1............... Hồn Nước với lễ Gia Tiên Giai đoạn 2. 12 năm 1982.....................1................Văn Lang vũ bộ 1984.....................2................Hùng Việt sử ca; Sứ điệp trống đồng 1986.....................1................Hoa Kỳ và thế chiến lược toàn cầu 1987.....................3................Đạo trường chung cho Đông Á; Cẩm nang Triết Việt; Hưng Việt 1988.....................2................Gốc rễ Triết Việt; Việt Triết nhập môn 1997.....................1...............Thái bình minh triết 2000.....................1...............Phong thái An Vi Không rõ năm....3...............Nhân chủ; Kinh Hùng khải triết; Pho tượng đẹp nhất của Việt Tộc Trong 32 cuốn đó, cuốn dày nhất, cũng được chính ông đánh giá cao nhất, là “Chữ Thời” dày 700 trang. Có 2 cuốn dày 430 trang là “Việt lý tố nguyên” (430 tr.) và “Sứ điệp trống đồng” (431 tr.). Hai cuốn mỏng nhất là “Đạo trường chung cho Đông Á” (111 tr.) và “Cẩm nang Triết Việt” (80 tr.). 27 cuốn còn lại dày trung bình khoảng 200-250 trang. 1.3. Dù dày mỏng thế nào thì những gì Kim Định để lại cũng thực sự là một di sản vô cùng đồ sộ. Tuy là một di sản đồ sộ, nhưng điều làm nên HIỆN TƯỢNG KIM ĐỊNH không phải là ở hình thức số lượng và khối lượng, mà là ở nội dung: Trong những cuốn sách đó, Kim Định đã đưa ra những “đề quyết động trời” (như người ta thường nói và chính Kim Định cũng thừa nhận). Ông khẳng định rằng giống người Việt là một sắc tộc đã đến ăn ở trên khắp nước Tàu trước giống người Hoa. Người Việt từng là chủ nhân không chỉ của nước Tàu, mà còn là của phần lớn các giá trị văn hóa tinh thần quan trọng đã bị người Hán dần dần thâu tóm hết là Nho giáo và Ngũ kinh. Theo cách nói của Kim Định, tộc Việt đã xây nền văn hóa minh triết nhân bản rồi người Hoa học theo và chiếm đoạt. Nếu đang tự nhiên mà có người tuyên bố như vậy hẳn sẽ bị xã hội xem là kẻ không bình thường. Và cách ứng xử thông thường với kẻ không bình thường là không ai thèm để ý đến, nếu có nhắc đến thì là để đem ra chế diễu như người ta đã từng làm đối với ông đạo Dừa. Với Kim Định cũng đã từng có cách ứng xử tương tự ở Sài Gòn trước năm 1975 và ở hải ngoại sau năm 1975. Song với một người điên bình thường thì sau đó sẽ là quên lãng, như người Tây Nam Bộ từng quên lãng vô số các ông đạo Đi, đạo Đứng, đạo Nằm, đạo Ngồi, v.v. đến rồi lại đi ở vùng Tây Nam Bộ trong các năm đầu thế kỷ XX. Nhưng với Kim Định thì tình hình không phải như thế mà tệ hơn rất nhiều. Giới học giả giễu cợt chê bai đã đành, người ta “đánh” Kim Định bằng lời nói và ngòi bút đã đành, ngay cả các cha bề trên trong đạo của ông cũng quay lưng lại với ông. Hà Văn Thùy nhận xét rằng “Gần như suốt cuộc đời, Kim Định sống giữa hai làn đạn” [Hà Văn Thùy 2011b]. Theo tôi, phải nói là “Kim Định sống giữa rất nhiều làn đạn” mới đúng! Vì sao người ta lại sợ ông đến thế? Câu trả lời hình như rất đơn giản: Là vì ông có quá nhiều người theo. Mà số người theo này lại mỗi ngày một đông. Mà số người mỗi ngày một đông này lại không phải là người bình dân, gần như tuyệt đại bộ phận họ là trí thức (tuy phần nhiều là những người không chuyên sâu trong lĩnh vực này), và là sinh viên, tức những chủ nhân của tương lai. Tất cả những cái bất thường đó đã làm nên “hiện tượng Kim Định”. 1.4. Lôi kéo được nhiều người theo, ấy hẳn là vì ông có những điểm mạnh. Bị nhiều người chống đối, ấy chắc là vì ông có những chỗ yếu. Những điểm mạnh sẽ là cơ sở để gặt hái các thành công. Những điểm yếu sẽ là nơi xuất phát dẫn đến những hạn chế. Chúng ta hãy lần lượt xác định những điểm mạnh và những thành công cùng những điểm yếu và những hạn chế ấy của Kim Định. 2. Những điểm mạnh và những đóng góp của Kim Định 2.1. Có thể thấy Kim Định có tất cả năm điểm mạnh. Điểm mạnh thứ nhất của Kim Định là ông tốt nghiệp chuyên ngành Triết Tây; nghĩa là ông đã được đào tạo rất bài bản và có phương pháp. Điểm mạnh thứ hai là ông lại còn học cao học chuyên ngành Trung Quốc học (ngành Đông phương học) tại Pháp: Nhờ đó mà ông am hiểu lịch sử và văn hóa Trung Hoa, tiếp xúc được với các tác phẩm nghiên cứu Trung Quốc của người phương Tây; trong ông tri thức Tây và Đông đã bổ sung khá hoàn hảo cho nhau. Điểm mạnh thứ ba là Kim Định làm linh mục tại nhà thờ: do vậy dễ hiểu rằng ông là người ham muốn truyền đạo và rất có phương pháp, kinh nghiệm trong việc tổ chức truyền đạo, gây dựng phong trào. Nếu chỉ hoạt động tôn giáo, chỉ truyền đạo, thì chỉ cần có một niềm tin. Nhưng ông còn có điểm mạnh thứ tư là tham gia giảng dạy triết học tại đại học; điều đó có nghĩa là ông có may mắn sống trong môi trường đại học khuyến khích tư duy sáng tạo. Trong ngành triết học, tư duy sáng tạo ấy đòi hỏi một năng lực suy luận, không loại trừ cả năng lực tưởng tượng phong phú nữa. Điểm mạnh thứ năm nằm ở chỗ Kim Định là người sinh ra ở Bắc Kỳ, song lại sống ở Nam Kỳ. Sinh ra ở đất Bắc (Nam Định) nên trong con người ông có cái “máu” thích làm lý luận. Nhưng chính cái môi trường sống Nam Kỳ mới là yếu tố mang tính quyết định trong việc tạo ra “hiện tượng Kim Định”. Nam Kỳ là nơi mà vào đầu thế kỷ XX từng có một công tử Bạc Liêu sắm máy bay để đi thăm đồng (lúc ấy cả nước chỉ có hai người có máy bay riêng là vua Bảo Đại và công tử Trần Trinh Huy), còn nay thì có những nông dân “Hai Lúa” to gan dám tự mình chế tạo máy bay (như Lê Văn Danh, Trần Quốc Hải ở Tây Ninh). Kim Định học được ở họ lối tư duy phóng khoáng, cách hành xử năng động và mạnh dạn, “dám nghĩ dám làm”. Nam Kỳ lại là nơi ở xa Đất Tổ; mà người trí thức như Kim Định càng ở xa Đất Tổ bao nhiêu thì tấm lòng và tình cảm hướng về nguồn càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Nam Kỳ thời Kim Định còn là mảnh đất tư bản tự do. Cái chất “tư bản tự do” này nếu đặt trong môi trường phương Tây thì sẽ phát triển mạnh xu hướng quốc tế mà coi nhẹ dân tộc quốc gia; nhưng nếu đặt trong môi trường phương Đông thì ngược lại, lại tạo điều kiện cho việc phát huy tinh thần quốc gia dân tộc. Tổng hợp của tất cả năm điểm mạnh ấy đã làm nên ba thành công lớn, cũng là những đóng góp của Kim Định. 2.2. Thành công và đóng góp lớn thứ nhất là trên lĩnh vực hoạt động nghiên cứu khoa học, Kim Định là người đi tiên phong trong việc tìm kiếm những giá trị tinh thần đặc thù của dân tộc. Trong một bài viết công bố năm 2005 nhân dịp 40 năm ngày thống nhất đất nước [Trần Ngọc Thêm 2005], chúng tôi đã nhận xét rằng phe Tư bản Chủ nghĩa hình thành trước ở khu vực phía Tây, nên mang đậm những giá trị đã định hình của văn hóa phương Tây là coi trọng cá nhân, phát huy dân chủ và phổ biến Kitô giáo. Phe Xã hội Chủ nghĩa thì hình thành muộn hơn ở khu vực phía Đông, nên tư tưởng của K. Marx cùng với kinh nghiệm của V.I. Lenin, được thực hiện bởi I.V. Stalin và Mao Trạch Đông đã kết hợp với những giá trị cổ truyền của văn hóa phương Đông mà thành ba cột trụ là coi trọng cộng đồng, tập trung quyền lực (“chuyên chính vô sản”), và đề cao vô thần luận. Bởi vậy mà ở các nước Xã hội Chủ nghĩa trước đây không có chỗ đứng cho các tư tưởng dân tộc, nếu có sẽ lập tức bị coi là “dân tộc hẹp hòi” (Nguyễn Ái Quốc đã từng bị Quốc tế Cộng sản phê phán như thế). Bởi vậy mà trong khi ở miền Nam, Tổng thống họ Ngô vẫn sử dụng trang phục khăn đóng áo dài trong các dịp quốc lễ, thì cán bộ miền Bắc giai đoạn này lại dùng bộ “đại cán” của người Tàu! Chính trong bối cảnh ấy mà ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã có nhiều người quan tâm nghiên cứu văn hóa dân tộc như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, Toan Ánh, Lê Văn Siêu, Kim Định... và đã xuất bản được nhiều công trình nghiên cứu văn hóa dân tộc có giá trị. Trong khi đó, ở miền Bắc giai đoạn này duy nhất chỉ có ngành khảo cổ học gặt hái được nhiều thành công trong việc tìm về cội nguồn, còn những công trình nghiên cứu văn hóa dân tộc tương tự như của các đồng nghiệp miền Nam thì hầu như vắng bóng. Trong số những tác giả vừa nêu, Kim Định đã nổi lên một cách khác thường, nổi lên như một hiện tượng đặc biệt. Với thành công này, không ai có thể phủ nhận rằng ông là một người có tinh thần dân tộc đầy nhiệt huyết trong số những người yêu nước, yêu dân tộc. 2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng học thuật, với tất cả những thuận lợi và khó khăn vào thời đại của mình, trên cơ sở những tư liệu và tài liệu chưa phải là nhiều, Kim Định đã đưa được cái tinh thần phóng khoáng “dám nghĩ dám làm” của người Nam Bộ vào trong nghiên cứu khoa học để đưa ra những nhận định khái quát rất mạnh bạo, rất tiên phong, và, tuy còn chứa nhiều sai lầm mang tính bộ phận, nhưng về cơ bản và trên những nét tổng thể thì có thể nói là đúng hướng. Đó là nhận xét về vai trò và đóng góp của văn hóa Bách Việt đối với văn hóa Trung Hoa. Những nhận định này đã góp công khai phóng, giải thoát người Việt khỏi thứ tư duy nô lệ coi cái gì cũng từ Trung Hoa mà ra; chúng trở thành nguồn cảm hứng và động viên cho rất nhiều người tiếp tục bỏ công sức đi theo hướng này. Đó là thành công và đóng góp lớn thứ hai của Kim Định. 2.4. Thành công và đóng góp lớn thứ ba của Kim Định là trên lĩnh vực phong trào. Trong hơn 30 năm (1965-1997), với những sức chống phá dữ dội từ nhiều phía, nhưng Kim Định đã không chỉ nghiên cứu một mình, mà ông đã khởi tạo ra được một phong trào nghiên cứu văn hóa Việt, tư tưởng Việt..., ông đã khơi gợi lên được lòng yêu nước, yêu dân tộc trong một phạm vi rộng lớn trí thức và lớp trẻ. Hội An Việt tại Vương Quốc Anh (do ông Vũ Khánh Thành thành lập năm 1982), Hội An Việt toàn cầu, phong trào Hùng Việt là những minh chứng. Đúng như GS. Trần Văn Ðoàn, nguyên trưởng khoa triết học tại Đại học Quốc gia Đài Loan, đã nhận xét: “Từ các tiểu bang bên Mỹ, cho tới các nước tại Âu Châu, từ Gia Nã Ðại cho tới Âu Châu, nơi đâu cũng có phong trào Hùng Việt hấp dẫn cả ngàn người. Thật là một hiện tượng chưa từng thấy”. “Có thể nói mà không sợ lịch sử chê bai, cụ Kim Ðịnh có lẽ là một người trí thức Việt duy nhất có thể gây lên một ảnh hưởng như vậy” [Trần Văn Ðoàn 1997]. Là người khá gần gũi với GS. Trần trong định hướng nghiên cứu (nên được ông mời làm một trong năm thành viên nòng cốt của Ủy ban Nghiên cứu Tư tưởng Việt [Trần Văn Đoàn 1999]) và cũng gần gũi với GS. Trần trong cách đánh giá về Kim Định, tôi chỉ có thể xin ký thêm một chữ vào nhận định rất xác đáng của ông. Đóng góp này của Kim Định là vô cùng lớn lao. Nếu chỉ đơn thuần là một trí thức, một nhà giáo, một nhà khoa học thì không dễ gì làm được. Đóng góp đó rất đáng tôn vinh, ca ngợi và noi theo. Khơi gọi lên được tinh thần yêu nước ở mọi người, thì cái tinh thần ấy ở người khởi xướng phải lớn gấp chừng nào. Khơi gọi lên được nhiệt tâm của những người khác, thì cái nhiệt tâm ấy ở Kim Định phải lớn biết chừng nào! 3. Những điểm yếu và những hạn chế của Kim Định 3.1. Những cơ sở làm nên các điểm mạnh của Kim Định vừa nêu trên cũng chính là nơi bắt nguồn những điểm yếu của ông. Thứ nhất, việc Kim Định đã ở xa đất tổ trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, mọi thông tin (kể cả thông tin khoa học) bị ngăn chặn, thành ra rất thiếu thốn về tư liệu, lại cộng thêm đối tượng nghiên cứu là môn triết học trừu tượng rất dễ khiến ông sa vào tư biện. Thứ hai, thập niên 1960 là lúc mà ở Sài Gòn gần như có một “phong trào” nghiên cứu về triết Việt với sự tham gia của một số người tự học triết, thậm chí là không chuyên về triết như Nguyễn Ðăng Thục, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Thọ, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, v.v. [Trần Văn Ðoàn 2000]. Môi trường thiếu chuyên nghiệp này cộng với việc hành nghề tôn giáo (động, coi trọng phong trào) là những lý do dẫn đến khả năng làm giảm tính khoa học, làm phai nhạt tính nghiêm túc hàn lâm, làm nảy sinh tính dễ dãi, lãng mạn ở Kim Định, một người mặc dù đã được đào tạo triết học một cách bài bản. Thứ ba, việc Kim Định thụ hưởng một nền giáo dục Tây phương tại đất phương Tây cộng với văn hóa Ki-tô giáo tạo nên chất văn hóa phương Tây quá mạnh rất dễ khiến ông sinh ra cực đoan. Thứ tư, việc Kim Định nghiên cứu triết học (liên quan đến tư tưởng), nghiên cứu văn hóa (liên quan đến dân tộc), cộng với hoạt động phong trào (liên quan đến quần chúng) rất dễ khiến ông bị hiểu lầm là làm chính trị. Bốn điểm yếu vừa nêu đã dẫn đến hậu quả là các công trình nghiên cứu của Kim Định mắc phải ba hạn chế: Dễ dãi, lãng mạn, tư biện; Cực đoan; và Bị coi là làm chính trị. 3.2. Hạn chế thứ nhất trong các công trình nghiên cứu của Kim Định là tính dễ dãi, lãng mạn và tư biện. Đây chính là hạn chế lớn nhất mà các nhà khoa học thực sự khó có thể chấp nhận được. Và đây cũng là lý do chính đáng dẫn đến sự phản ứng và quay lưng của nhiều người trong giới khoa học. Từ phản ứng dẫn đến mỉa mai châm chọc quá đà chỉ là một bước ngắn. Bài “Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam?” của Tạ Chí Đại Trường đăng trên mạng talawas.org (sau đăng lại trên tạp chí Xưa và Nay số 377, 378) tuy chứa đựng cái sự mỉa mai châm chọc (đáng tiếc là rất không nghiêm túc!) ấy ngay từ trong tên bài, nhưng một số sự kiện mà ông sử gia họ Tạ đưa ra phê phán không phải là sai. Những suy luận kiểu như ngày giỗ tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3 được đọc thành “Tam Miêu và Bách Việt”, vì “Tam Miêu là tháng 3, còn Bách Việt là mồng 10. Mười là số chẵn [chục nên] có thể thay số chẵn trăm” (Triết lí cái đình, mục “VII. Việt Hùng”) rõ ràng là quá dễ dãi. Hoặc từ khẳng định “người Việt từng cư trú trên khắp đất Tàu” dẫn đến khẳng định Ðông Di (tổ tiên người Mãn Châu, Triều Tiên) là một chi của Việt; mặt khác, Khổng Tử theo Nghiêu Thuấn, mà Thuấn là người Ðông Di, cho nên kết luận sách Khổng Tử là của Việt cả (Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc) [Tạ Chí Đại Trường 2008] thì rõ ràng là quá dễ dãi. Không cứ gì Tạ Chí Đại Trường, Hà Văn Thùy cũng chỉ ra những trường hợp mà khi hăng hái quá đà, Kim Định đã sa vào tư biện, dẫn tới sai lầm. Quá say sưa với phương pháp của mình, ông đã viết cả một cuốn sách “Loa thành đồ thuyết” giảng giải về thành Cổ Loa chín vòng, hình trôn ốc là biểu trưng tuyệt vời của văn hóa Việt. Khi khảo cổ học phát hiện thành chỉ có hai vòng do An Dương vương xây, còn vòng thứ ba do Mã Viện đắp, hóa ra không những không có chín vòng thành mà chả làm gì có cái thành hình trôn ốc [Hà Văn Thùy 2011b]. Ngay trong bài viết tưởng niệm Kim Ðịnh vào năm ông ra đi (1997), Trần Văn Đoàn có viết một câu khiến tôi phải suy nghĩ mãi: “Kim Ðịnh vượt xa Trần Ðức Thảo trong lãnh vực suy tư và trong tinh thần ái quốc, cũng như sự nhiệt tâm của kẻ sỹ” [Trần Văn Ðoàn 1997]. Tôi cho rằng với cụm từ “vượt xa Trần Ðức Thảo” này, điều mà vị giáo sư triết học ở Đài Loan muốn nói chính là vượt xa về sự dễ dãi và lãng mạn. Ở một chỗ khác trong chính bài này, ông viết rõ hơn: “tôi tuy khẳng định triết học của cụ, song cũng phê bình tính chất thiếu nghiêm túc và quá lãng mạn trong nền triết học An Vi của cụ” [Trần Văn Ðoàn 1997]. Trong “Việt Triết luận tập”, Trần Văn Đoàn đánh giá cụ thể hơn nữa: “Ngay các tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Ðăng Thục, Kim Ðịnh cũng đều vướng vào những lỗi lầm căn bản như thiếu hệ thống, phân tích rời rạc, lý luận thiếu vững chắc, đôi khi mâu thuẫn, sử liệu mơ hồ, vân vân” [Trần Văn Ðoàn 2000]. Cái tinh thần năng động “dám nghĩ dám làm” Nam Bộ thì quý thật, nhưng dù là để tư duy triết học sáng tạo ra triết Việt hay để thực hành kỹ thuật chế tạo ra máy bay, đều cần phải có một cơ sở lý luận vững chắc mang tính hệ thống chặt chẽ, phi mâu thuẫn như nhau. 3.3. Hạn chế thứ hai trong các công trình nghiên cứu của Kim Định là tính cực đoan. Như đã phân tích ở trên, việc Kim Định được thụ hưởng một nền giáo dục Tây phương tại đất phương Tây cộng với văn hóa Ki-tô giáo đã tạo nên trong ông chất văn hóa phương Tây quá mạnh. Một người ủng hộ ông rất mực, trong một bài viết đăng trên trang mạng “An Việt toàn cầu” cũng phải thốt lên rằng: “Lời văn trong sách [của Kim Định] chứa đầy tinh thần yêu nước mà cái gì Việt Nam cũng nhứt, và tôi sợ quan niệm quá cực đoan thì rất khó dung nạp trong các nước tự do phương Tây” [Lê Hùng 2012]. Trong cuốn “Việt lý tố nguyên” (và nhiều nơi khác) Kim Định từng viết rằng “hễ mình chống đối cái gì thì cuối cùng sẽ sa vào cái đó, trong triết quen gọi là nhị nguyên” (Việt lý tố nguyên, mục XIII). Bản thân Kim Định trong tư duy nghiên cứu, cả đời luôn có nhận thức rất đúng về vai trò tối thượng của sự “quân bình”, luôn có ý thức rất rõ về vai trò của tỷ lệ “tham thiên lưỡng địa”, luôn có chủ trương hành động hướng tới “thái hòa”, luôn mong muốn thông qua con đường “an vi” để tạo nên “An Việt”, thế nhưng nhiều kết luận khoa học của ông lại quá cực đoan. 3.4. Hạn chế thứ ba trong các công trình nghiên cứu cũng như trong cuộc đời của Kim Định là để người đời cho rằng ông “làm chính trị”. Làm chính trị ở mức cao nhất là tìm cách tác động đến tư tưởng của một dân tộc nhằm tạo ra một phong trào quần chúng rồi vạch ra đường lối mà dẫn dắt họ. Như chúng tôi đã phân tích ở trên, sự đan xen và hội tụ của những hoạt động khác nhau mà Kim Định đã thực hiện trong cuộc đời đã tạo nên một thứ rất giống với việc “làm chính trị”: Ông nghiên cứu triết học là cái liên quan đến tư tưởng, ông nghiên cứu văn hóa là cái liên quan đến dân tộc, ông tạo nên các phong trào là cái liên quan đến quần chúng. Quan sát các tác phẩm của ông, một số người cảm thấy cái “chính trị” bao trùm hình như là tinh thần chống cộng. Lê Hùng nhận xét rằng “Kim Định thường lấy cái Duy Vật cộng sản ra diễu cợt nhiều nhất” [Lê Hùng 2012]. Theo Tạ Chí Đại Trường thì “Bị đẩy ra khỏi nước, Kim Ðịnh tức giận, căm thù người cộng sản” [Tạ Chí Đại Trường 2008]. Chúng tôi đã thử thống kê, chỉ trong một cuốn “Việt lý tố nguyên” (bản có bổ sung)[3], đã có 48 lần tác giả nhắc đến từ “cộng sản”. Nếu bỏ ra một bên những từ ngữ mang tính mỉa mai giễu cợt, thì có thể thấy ông chỉ đơn thuần coi đó là một mảng tài liệu thực tế được đưa ra phân tích dưới ánh sáng lý thuyết của mình. Trong suốt cuốn “Việt lý tố nguyên”, Kim Định đã chỉ ra rằng người cộng sản đã đúng khi nhìn ra được vai trò của dân chúng nên không những đã dùng “tiếng dân” (ngôn ngữ bình dân) để tuyên truyền, mà còn trao vào tay thợ thuyền quyền lãnh đạo (mục VI). Theo Kim Định, người cộng sản đã “độc quyền chuyên chế”, “nghi kỵ tự do”, nhưng ông lại tỏ ý đồng tình: “nghi kỵ là phải, vì nếu ai cũng đòi tự do tự trị cả thì làm sao tổ chức xã hội cho mạnh được” (mục XI). Kim Định chỉ ra rằng sở dĩ “Trung cộng, Việt cộng” đã thắng thế là bởi, thay vì chỉ dựa vào thợ thuyền như cộng sản phương Tây thì họ dã biết dựa vào thôn dân: “Mao ... có lý vì đã giữ được y nguyên cái lương tri lành mạnh của thôn dân miền Giang Nam” mà “Tây Âu gọi sự thành công này là một sự Tàu hóa cộng sản (sinisation du coummunisme)”. “Thôn dân (trước kia là Viêm Việt) có một nền triết lý đặc trưng rất ơn ích cho con người và nhờ đó đã trở thành một sức mạnh ghê gớm không một bạo lực nào có thể đàn áp được”. Chính là nhờ biết “đi sát dân, đúng hơn là ở ngay trong lòng dân” mà người cộng sản đã phát động được tinh thần yêu nước của dân chúng, “đoàn kết để đánh bật ngoại bang”. Trong khi “phía quốc gia chỉ là mấy nhóm chính trị tuy thành tâm ... nhưng thiếu hẳn triết lý của quốc gia”, “ý thức thì lại là Tây: lơ mơ như thế ... thì có thua cộng sản cũng là chuyện bình thường” (mục XV). Dù đúng hay sai, thì những phân tích như thế – trong hoàn cảnh thông tin một chiều, rất thiếu thốn về tư liệu cũng như thực tiễn – thực sự là những cố gắng suy tư khách quan của một người làm khoa học. Cuối cùng, nếu nói rằng Kim Định “làm chính trị” (để phủ định những đóng góp của ông) thì phải chỉ ra được ông thuộc phe phái nào? Nhưng điều đó là không thể: “Làm chính trị” kiểu gì mà đứng ở giữa những làn đạn đến từ mọi phía? Sau năm 1975, tên ông từng bị đưa vào danh sách 10 tác giả bị cấm đọc ở Việt Nam. Những người xếp mình vào phái “quốc gia” thì “đánh” Kim Định từ trong nước (trước 1975) ra đến nước ngoài (sau 1975). Còn những người đồng đạo với ông thì đã giam lỏng ông trong những năm cuối đời tại một nhà tu ở nước Mỹ. “Học trò muốn gặp ông phải giả xin xưng tội để hỏi thêm về triết lý, trong sự chứng kiến của người giám sát. Lúc bị đột qụy, bất tỉnh, máy tính của ông bị mất, trong đó có chứa hơn mười tác phẩm đã viết xong hay chưa hoàn tất để chờ xuất bản” [Hà Văn Thùy 2011b]. “Cổ xúy duy trì nền Văn hoá Việt Nam trong cộng đồng hải ngoại và việc làm cuả Linh mục Kim Định trên phương diện văn hoá đã bị hiểu lầm là người làm chính trị, điều mà Giáo hội Thiên chúa giáo không muốn các vị tu sĩ công khai, sợ động chạm, hiểu lầm” [Lê Hùng 2012]. Đến đây thì việc Kim Định có “làm chính trị” hay không, có viết sách theo chỉ thị của một phe phái nào hay không thiết tưởng đã đủ rõ: Cái “lỗi” từ phía chủ quan của ông chỉ là “tạo điểu kiện” để từ phía khách quan người ta vô tình hoặc cố ý “quy tội” cho ông là làm chính trị! 4. Cơ hội, thách thức và những trách nhiệm của chúng ta 4.1. Hiện nay, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hoá. Khi mà yếu tố quốc tế gia tăng thì yếu tố dân tộc, quốc gia có nguy cơ bị suy giảm, lấn át. Chính trong bối cảnh ấy mà vai trò của văn hóa dân tộc đang được chú trọng hơn bao giờ hết. Kỷ nguyên toàn cầu hoá là kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật. Khi mà yếu tố khoa học kỹ thuật gia tăng thì yếu tố con người có nguy cơ bị suy giảm, lấn át. Chính trong bối cảnh ấy mà vai trò của văn hóa nói riêng và chất nhân văn nói chung đang được đề cao. Giới trẻ Việt Nam làm việc trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật mang tính toàn cầu thấy rất rõ nhu cầu trở về với truyền thống, với văn hóa, với dân tộc. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao mà những tư tưởng kiểu như của Kim Định hấp dẫn họ đến thế. 4.2. Trong bối cảnh đó, những gì mà Kim Định đã viết ra và đã tạo dựng là một di sản có giá trị; nó có ảnh hưởng trong một phạm vi công chúng trí thức khá rộng, thực sự không thể coi thường. Liên quan đến di sản của Kim Định, chúng ta cần làm ba việc: (1) Đánh giá đúng Kim Định. Đây là việc dễ mà khó. Dễ, vì mọi thứ khá rõ ràng. Khó, vì Kim Định cực đoan nên sinh ra những người ủng hộ và chống đối Kim Định cũng cực đoan, nhiều khi còn cực đoan hơn cả chính ông. Mà sự ủng hộ và chống đối một cách cực đoan thì sẽ có nguy cơ mắc phải những sai lầm của chính Kim Định ở một mức độ trầm trọng hơn. Cái khó không nằm ở việc xác định chân lý mà nằm ở sự đối kháng giữa những tư tưởng cực đoan chứa đựng sai lầm ấy. (2) Khi đã đánh giá đúng rồi thì với những gì là đóng góp của Kim Định, chúng ta cần giới thiệu, phát huy. Cái cần giới thiệu ở đây là ý tưởng xác định những đóng góp của văn hóa Bách Việt trong nền văn hóa chung của Trung Hoa (việc này lần đầu tiên đã được chúng tôi thực hiện vào năm 1995, khi đưa 9 cuốn sách của Kim Định vào danh mục “Tài liệu tham khảo” trong bản in chính thức cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” do Trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh xuất bản, x. hình 1). Cái cần phát huy ở đây trước hết là một ý thức dân tộc lành mạnh trên cơ sở một tinh thần đoàn kết rộng rãi mọi người Việt Nam trong và ngoài nước, xếp lại quá khứ, cùng góp công sức hướng đến tương lai. Hình 1: Trích trang 490 cuốn “Cơ sở văn hóa ViệtNam” (1995) (3) Và với những gì chưa rõ ràng, chưa chính xác ở Kim Định, chúng ta cần phải kiểm chứng, cụ thể hóa và chính xác hóa. Với những sai sót, hạn chế của Kim Định, chúng ta cần phải uốn nắn, chỉnh sửa. Công việc này cần tiến hành một cách chu đáo, thận trọng, với sự góp sức của nhiều người. Từ phía mình, chúng tôi đã chỉnh sửa và chứng minh quan niệm về nguồn gốc Đông Nam Á (không phải Việt Nam) của triết lý âm dương và đã trình bày thành công tại Hội thảo quốc tế về Dịch học thời tảo kỳ tổ chức tại Đại học Sơn Đông (Trung Quốc) tháng 10-2011 [x.: Khoa Văn hóa học 2011]. Các quan niệm cực đoan cho rằng Dịch học, Nho học Trung Hoa là của người Việt đã được chúng tôi điều chỉnh và chỉ ra là có hai con đường phát triển của triết lý âm dương; có sự tích hợp văn hóa phương Bắc với văn hóa phương Nam trong Nho giáo nguyên thủy [Trần Ngọc Thêm 1996/2004: 118-121, 481-493]. Tương tự, tương quan “văn hóa nông nghiệp / văn hóa du mục” đã được chúng tôi phát triển thành lý luận về ba loại hình văn hóa trọng tĩnh, văn hóa trọng động, và văn hóa trung gian [Trần Ngọc Thêm 2010], v.v. Thiếu sự thận trọng, cái dễ dãi của Kim Định sẽ có nguy cơ không những không được chỉnh sửa mà còn có thể bị nhân lên. Câu chuyện “người Việt vào nước Tàu trước” là một ví dụ. Nếu nói đơn giản rằng người nguyên thủy sau khi phát sinh tại châu Phi đã men theo bờ biển đi về phía Đông, tới Đông Nam Á thì rẽ ra làm hai nhánh, một nhánh đi lên phía Bắc, nhánh kia rẽ xuống phía Nam, thì hầu như không có gì phải bàn, cũng không cần phải viện dẫn đến những nghiên cứu di truyền học để chứng minh. Song nếu nói như Kim Định là “người Việt vào nước Tàu trước”, hoặc như Hà Văn Thùy [2007; 2011] rằng “con đường ven biển Ấn Độ đã đưa người tiền sử tới Việt Nam rồi từ Việt Nam, người Việt cổ đi lên khai phá Trung Quốc” thì lại không chuẩn xác; đơn giản là vì vào lúc đó (khoảng 7-8 vạn năm trước, lúc người nguyên thủy từ châu Phi di cư đến Đông Nam Á rồi rẽ lên Đông Bắc Á) thì làm gì đã có “Việt Nam” với “Trung Quốc” hay “nước Tàu”? Làm gì đã có “tộc Việt” hay “tộc Hoa”? Kể cả “người Việt cổ” lúc ấy cũng chưa hề có. Gán ghép sai lệch về tọa độ giữa chủ thể với không gian và thời gian diễn ra sự kiện như vậy sẽ có nguy cơ kéo theo nhiều kết luận sai lầm khác, kiểu như “Không chỉ sách Dịch mà ngay cả ngôn ngữ người Trung Hoa đang dùng cũng là sản phẩm của tộc Việt” [Hà Văn Thùy 2011a; 2011b]. Đóng góp thực sự của Kim Định không phải ở những khẳng định cực đoan như thế, mà là ở việc khai phóng, giải thoát người Việt khỏi thứ tư duy bị trói buộc. Vào thời của Kim Định, căn bệnh đề cao một chiều văn hóa Trung Hoa là tư duy nô lệ, phát ngôn dễ dãi là đáng trách. Còn vào thời điểm hiện nay – 15 năm sau khi Kim Định đã ra người thiên cổ, những đóng góp của ông cần được đánh giá một cách bình tĩnh, khoa học, khách quan để phát huy những gì có thể phát huy được, trong những phạm vi và theo những cách thức phù hợp. Những hạn chế của ông cần được rút ra làm bài học để tránh lặp lại trong những nghiên cứu khoa học về sau. Tinh thần khoa học, khách quan đòi hỏi phải tránh không chỉ sự phê phán ông một cách cực đoan, mà cả sự ca ngợi ông một cách quá đà. Cần coi chừng quả lắc sau khi đã lắc quá mức sang tả sẽ rơi vào trạng thái ngược lại là vượt khung về bên hữu! Tài liệu trích dẫn 1. Hà Văn Thùy 2007: Hành trình tìm lại cội nguồn. – H.: NXB Văn học. 2. Hà Văn Thùy 2011a: Tìm cội nguồn qua di truyền học. – H.: NXB Văn học. 3. Hà Văn Thùy 2011b: Lần thứ ba thưa chuyện với ông Tạ Chí Đại Trường. - http://lethieunhon.c...ad.php/4987.htm 4. Khoa Văn hóa học 2011: Hội thảo quốc tế Dịch học 2011 - Sơn Đông, Trung Quốc. - http://vanhoahoc.vn/...trung-quoc.html 5. Lê Hùng 2012: Triết Gia Kim Định Dưới Ngòi Viết Sắt. - http://www.anviettoa...Itemid=99999999 6. Tạ Chí Đại Trường 2008: Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam? - http:// www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12188&rb=0302 7. Trần Ngọc Thêm 1995: Cơ sở văn hóa Việt Nam. - Trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh xuất bản. 8. Trần Ngọc Thêm 1996/2004: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. – NXB Tp. Hồ Chí Minh. 9. Trần Ngọc Thêm 2005: Quá trình hoà nhập văn hoá ở Việt Nam trước và sau 1975. - Tạp chí “Văn hoá Nghệ thuật”, số 4 (250), tr. 11-16. 10. Trần Ngọc Thêm 2010: Sự phát triển của Đông Á từ góc nhìn hệ thống - loại hình. - http://vanhoahoc.vn/...-loai-hinh.html 11. Trần Văn Ðoàn 1997: Tưởng niệm cụ Kim Định. - http://www.dunglac.o...v=detailarticle &id=90&ia=1417 12. Trần Văn Đoàn 1999: Chương trình nghiên cứu tư tưởng trong văn hóa Việt và Ủy ban nghiên cứu tư tưởng Việt. - http://www.dunglac.o...le&id=90&ia=355 13. Trần Văn Ðoàn 2000: Việt Triết luận tập, Thuợng tập: Truy nguyên bản chất của Việt triết. - http://www.catholic....t/viettriet.htm <br clear="all"> [1] Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH và NV thuộc ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh. [2] Danh mục toàn bộ sách và bản mềm toàn văn các tác phẩm hiện có của Kim Định có thể xem tại: http://anviettoancau...sk=view&id=1223 hoặc http://www.dunglac.o...id=71&m=module2 [3] X. tại: http://anviettoancau...ask=view&id=9461 like
-
Vài lời chia xẻ / hỡi các bạn mới tập xem tử vi ! tử vi không phải đơn giản như bạn nghĩ , dẫu bạn có có nghiên cứu trong nhiều năm ,nhưng chắc những gì nhận định của bạn có đúng không ? như vậy đừng vội vàng kết luận rằng sai trật ,các bạn càng đi sâu vào sẽ khám phá càng nhiều mới lạ + thêm bạn phải có kiến thức suy luận phải chạy kịp theo thời thế và văn hóa + cuộc sống hiện đại ...2 chữ định mệnh sẽ gắn bó suốt cuộc đời các bạn mà bản tử vi là những gì sẽ xảy ra ,nhưng điều kiện có ai hội đủ kiến thức để phán đoán ra lịch trình của nó / khi xảy ra rồi ngẫm nghĩ lại lúc đó bạn mới thấy sự chính xác tử vi /nhưng điều kiện xảy ra sẽ thay đổi do phúc đức hay nghiệp quả mình đang tạo ra / thí dụ khi 1 tai nạn xảy ra của 1 người người thọ nạn như trong hạn tử vi nói sẽ bị thương tích bị đâm chém đỗ máu ... nhưng khi bạn tạo nghiệp tốt hay nói chung bạn làm lành hướng thiện thì nạn sẽ xảy ra nhẹ hơn mà theo hình thức khác để đổi nghiệp ... nghĩa là bạn vẫn bị đâm chích dù 1 cây đinh hay cây kim và điều tất nhiên không thể thiếu máu dù nó vài giọt... đây là kết quả những gì tôi đã trãi nghiệm qua ...1 like
-
Thầy nào coi vo trách nhiệm vậy? 2014 điều cơ bản nhất con mạng Kim khắc mẹ mạng Mộc, tối kỵ sinh con khắc mạng mẹ! Nên sinh con năm Đinh Dậu 2017 là tốt nhất, kém hơn nhưng ko xấu là sinh con năm Quý TỴ 2013. Thân mến.1 like
-
Bên Suối Thơ Hồng
ATN liked a post in a topic by Thiên Sứ
Kính bác Mây Ngàn. Đa tạ bác vì những nhận xét của bác giành cho tôi. Chỉ vì cảm xúc trước chân lý bị vùi dập mà chẳng quản tài hèn cũng múa may mà thôi. Cũng xin cảm tác vì bài thơ của bác: BẠN QUÝ ........................Chuyện không hợp ý cười thêm gượng. ........................Đời thiếu tri âm sống cũng thừa. ..........................................................Ngân Giang Một đời hồ hải kiếp long đong. Còn có chi đâu - Một tấm lòng. Đã lạnh song thu buồn mắt biếc. Đành trao thiên cổ mảnh hồn son. Tìm đâu tri kỷ trong chiều vắng? Lạc điệu cung đàn chốn chợ đông. Cười gượng chuyện đời không hợp ý. Bên mình chiếc bóng dưới trăng trong. Cảm ơn bác chia sẻ1 like -
Sáng chiều thứ 7 hằng tuần, đến gặp Truyền Nhân của Thần Y Võ Hoàng Yên bấm huyệt trị bệnh. Hướng dẫn đi: đi đường Trường Chinh đến tới cổng Khu công nghiệp Tân Bình, quẹo vô đó, đi chậm nhìn bên trái tìm đường D13, vừa vô D13 khoản 50m thấy liền ngã 04, liền quẹo ngay tay trái, hỏi nhà chị Trà, cuối đường, khoản 100m thôi. Vào đó trị bệnh. Chúc mạnh khỏe. Thiên Đồng1 like
-
1 like
-
PHONG THỦY LẠC VIỆT VÀ VỊ TRÍ NGỒI NƠI LÀM VIỆC Thiên Đồng - Bùi Anh TuấnThành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương. Vị trí ngồi ngoài ý nghĩa tiện ích, tiện lợi cho công việc trong một không gian nhất định, còn thể hiện vị thế, năng lực và uy quyền của người ngồi, của cấp quản lý, của người chủ doanh nghiệp, của cấp lãnh đạo. Nhất là trong các cơ quan làm việc, công sở, doanh nghiệp, hội nghị…vị trí ngồi thể hiện tầm quan trọng của người ngồi. Tuy vậy ,một vị trí gọi là tốt theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt không những giúp cho ngồi nơi ấy làm việc có hiệu quả tốt đẹp mà còn mang lại những thuận lợi, những phát triển trong vị thế công việc. Như Thế Nào Là Vị Trí Tốt? Vị trí tốt theo quan niệm của Phong thủy Lạc Việt, trước tiên là cần tránh những vị trí sau đây: 1.Ngồi đối diện cửa ra vào: Người quản lý đối diện của ra vào thường sẽ chịu những áp lực trong công việc, bị động và chịu nhiều khó khăn trong công việc, hiệu quả kém. 2. Lưng hướng ra cửa phòng, cửa bên hông: Kém hiệu quả và năng lực trong công việc, cấp dưới lấn lướt và thường chủ quan trong quyết định. 3. Cửa ra vào đâm hông: Công việc nhiều rắc rối, chịu áp lực vô cớ, quyết định bộp chộp, hiệu quả công việc kém hay thời vụ. 4. Ngồi đối diện cửa toillette: Người quản lý ngồi đối diện cửa toa lét thường có những quyết định sai lầm trong công việc và dễ thất bại trước đối tác. 5. Ngồi đối diện cửa thoát hiểm: Sẽ không có những ý tưởng mới, quyết định sai lầm hay trì trệ trong hành động. 6. Sau lưng ngồi là cửa toillette: Thường gặp thất bại về tài chính, công nợ không giải quyết được và vị thế trong công việc có nguy cơ lung lay. 7.Sau lưng ngồi là cửa thoát hiểm: Dễ có ý tưởng biển thủ, hiệu quả công việc kém, không được lòng cấp dưới và vị thế thăng tiến gặp nhiều nguy cơ. 8.Sau lưng ngồi là cửa sổ. Thường gặp những quyết định sai lầm, chịu nhiều áp lực hay kẻ tiểu nhân cản trở, dễ thất thế trong ngoại giao, thất bại với đối tác hay cạnh tranh. 9.Cửa toillette đâm hông: Tài chính kém, người xấu dễ làm hại, cơ hội trong ngoại giao hay công việc dễ vuột mất, vị trí thăng tiến kém. 10.Cửa thoát hiểm đâm hông: Cấp dưới dễ chống đối, công việc chịu nhiều áp lực và cơ hội thăng tiến kém. 11.Hai cửa hai bên tường sau: Có thể gọi là "nhị quỷ trương khẩu" (hai quỷ há miệng). Hoàn toàn thất thế, sẽ là cấp quản lý hay lãnh đạo bù nhìn, thường quyết định sai lầm, năng lực kém và không tồn tại lâu trong vị thế đảm nhiệm, thuộc cấp coi khinh hay tiếm quyền. 12. Cửa phòng thông cửa hậu: Hiệu quả công việc kém, không phát huy được năng lực cá nhân, nhân sự luôn bất ổn, biến động, luôn trong tình trạng đối phó với công việc, vị trí công việc dễ gặp nguy cơ. 13. Phòng làm việc có trần thấp: Dầu cho vị trí ngồi tốt, nhưng trần nhà thấp cũng sẽ tạo ảnh hưởng xấu đối với người ngồi. Với vị trí ngồi như thế thì người ngồi không có sáng kiến năng động hay táo bạo, kém quyết đoán và thường ở "dưới cơ" đối với thuộc cấp hay đối tác trong công việc. Vị Trí Lý Tưởng Theo Phong Thủy Lạc Việt Vị trí lý tưởng cho cấp quản lý, người chủ hay cấp lãnh đạo ngoài việc tránh những sai phạm nêu trên thì phải là vị trí cát vượng, phía sau có tường dựa và nền sàn nơi ngồi hay phòng riêng phải cao hơn nền sàn chung ít nhất 3cm. Có thể nâng nền sàn cao hơn hoặc chỉ cần trải một thảm dầy và quan trọng hơn nữa là trần nhà phải cao thoáng hài hòa với không gian làm việc. Vị trí góc chéo với cửa luôn là vị trí vượng cát, vị trí lý tưởng tạo mọi sự tốt lành theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt. Tóm lại: Theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt có nguồn gốc là Văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ, phong thủy cho vị trí ngồi là thể hiện quy luật tương tác mang hiệu quả tốt xấu với không gian và môi trường nhất định, tận dụng quy luật tương tác tốt phục vụ cho mục đích của con người là một cách hòa hợp với quy luật tự nhiên khách quan đầy uyển chuyển. ngày 24 tháng 10 năm 2011 Thiên Đồng Tham khảo: - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ. - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam.1 like
-
Kỉ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam: Những bức hình chưa từng công bố về Đại tướng Võ Nguyên Giáp Thứ Tư, 22/12/2010 - 12:43 (Dân trí) - Những khoảng khắc đời thường về vị Đại tướng của Nhân dân - Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được tác giả Trần Tuấn thể hiện một các rõ nét trong một cuộc triển lãm về Đại tướng tại Hà Nội Chúc mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân ngày thành lập Quân đội Ảnh mừng sinh nhật Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần thứ 99 Những hình ảnh mà phóng viên Trần Tuấn ghi nhận thật bình dị một con người vĩ đại trong cuộc sống thường ngày, những góc nhìn rất đỗi gần gũi, thân thuộc… Tác giả Trần Tuấn là phóng viên TTXVN. Trong cuộc đời làm báo của mình, ông đã có nhiều dịp được làm việc và chụp ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, những bức ảnh của ông chứa đựng tình yêu và lòng kính trọng đối với một vị tướng tài ba của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Những hình ảnh của Đại tướng không chỉ là ghi lại dấu ấn cá nhân mà nó còn là nguồn tư liệu vô cùng quý giá cho lịch sử vẻ vang của Quân Đội NDVN. Mời các bạn cùng chiêm ngưỡng những hình ảnh bình dị nhất, những góc nhìn mới lần đầu tiên được ra mắt những người yêu mến và cảm phục Anh Văn - người anh cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam qua những bức ảnh của tác giả Trần Tuấn. Trong vòng tay của các thế hệ quân đội Nhân dân Việt Nam Đại tướng Võ Nguyên Giáp tập thể dục buối sáng tại quảng trường Ba Đình Một người thợ cắt tóc tại Vũng Tàu vô cùng hạnh phúc khi được phục vụ Đại tướng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại bãi biển Vũng Tàu Đại tướng trong một chuyến thăm Thụy Sỹ Món bánh chay bình dị, món quà của các cụ tại đền Hát Môn Phút nghỉ ngơi của con người vĩ đại Cái bắt tay xóa tan mọi thù địch giữa đại tướng và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara năm 1997 Đại tướng tại chân tượng đài giải phóng Điện Biên năm 2004 Trên cầu Mường Thanh Tại làng Ngọc Hà, bên hồ Ngọc Tiệp với xác chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi Bên nhà ga xe lửa tại Thụy Sỹ Hòa mình trong khung cảnh miền quê thanh bình của vùng đất không bị ảnh hưởng nhiều của các cuộc chiến tranh Đại tướng Võ Nguyên Giáp lắng nghe các giai điệu do các binh lính tại Thụy Sỹ thể hiện Giây phút suy tư khi làm mẫu cho các họa sỹ Việt Hưng1 like
-
ĐỊA CHI VÀ PHƯƠNG HUỚNG Dần Mão Thìn phương Đông, Mão thuộc chính Đông Tỵ Ngọ Mùi thuộc phương Nam, Ngọ thuộc chính Nam Thân Dậu Tuất thuộc phương Tây, Dậu thuộc chính Tây Hợi Tị Sửu thuộc phương Bắc, Tị thuộc chính Bắc Các Chi khác tuy vị trí thuộc phương xen kẻ thiên về phương chính gần mình, ví dụ Dần thuộc Đông Bắc thiên Đông ĐỊA CHI LỤC XUNG (TƯƠNG XUNG) Tí và Ngọ tương xung (Dương Thủy khắc Dương Hỏa) Dần và Thân xung (Dương Kim khắc Dương Mộc) Mão và Dậu xung (Âm Kim khắc Âm Mộc) Tỵ và Hợi xung (Am Thủy khắc Âm Hoa) Còn Sửu và Mùi xung, Thìn và Tuất xung trong một số sách đã coi là tương hóa nhau vì đều thuộc hành Thổ, hoặc coi là đồng lọai tương xung hay bằng hữu tương xung Nhận xét: Khi hai Chi xung nhau thì cùng Âm Dương, Phương Hướng đối nhau và hành tương khắc. Địa Chi Tương xung thì Cách 6 giống như thiên can. Như vậy giong như thiên can, phải có sự cùng Âm Dương (vá hành tương khắc) thì mới có tương xung Bất cứ Chi nào khởi đếm theo thứ tự , Chi đó là 1 tới vị trí thứ 7, ta có Chi xung, xung tất khắc nên gọi là Thất Sát (Thất là 7, Sát là hung thần). Người xưa giải thích số 7 này là số tận cùng của Trời Đất, là khí cực Âm Dương Tương xung thực chất là xung khắc nhau, tương khắc nên không tốt Giải Thích: Thiệu Vĩ Hoa cho rằng Lục xung là sự đối địch giữa các ngôi của 12 Đia Chi, cũng tức là sự tương khắc của ngũ hành Tí Ngọ tương xung: Quí Thủy ẩn tàng trong Tị khắc Đinh Hỏa ẩn tàng trong Ngọ. Kỷ Thổ ẩn tàng trong Ngọ phân khắc lại Quí Thủy ẩn tàng trong Tị nên nói Tị Ngọ tương xung Sửu Mùi tương xung: Kỷ Thổ ẩn tàng trong Mùi khắc Quí Thủy ẩn tàng trong Sửu. Đinh Hỏa ẩn tàng trong Mùi khắc Tân Kim ẩn tàng trong Sửu nên nói Sửu Mùi tương xung Dần Thân tương xung: Giáp Mộc ẩn tàng trong Dần khắc Mậu Thổ ẩn tàng trong Thân. Canh Kim ẩn tàng trong Thân phân khắc lại Giáp Mộc ẩn tàng trong Dần nên nói Dần Thân tương xung Mão Dậu tương xung: Tân Kim ẩn tàng trong Dậu khắc Ất Mộc ẩn tàng trong Mão, nhưng Đông xung Tây mà không xung được (nghĩa là Mão Mộc chỉ có thể xung Dậu Kim chứ không thể khắc Dậu Kim) Thìn Tuất tương xung: Quí Thủy ẩn tàng trong Thìn khắc Đinh Hỏa ẩn tàng trong Tuất. Tân Kim ẩn tàng trong Tuất phân khắc lại Ất Mộc ẩn tàng trong Thìn nên nói Thìn Tuất tương xung Tỵ Hợi tương xung: Canh Kim ẩn tàng trong Tỵ khắc Giáp Mộc ẩn tàng trong Hợi. Nhâm Thủy ẩn tàng trong Hợi phân khắc lại Bính Hỏa ẩn tàng trong Tỵ nên nói Tỵ Hợi tương xung ĐỊA CHI NHỊ HỢP (ĐỊA CHI LỤC HỢP, ĐỊA CHI TƯƠNG HỢP) VÀ ĐỊA CHI LỤC HỢP HÓA Tương hợp với nhau thì tốt Tí (+ Thủy) hợp Sửu (- Thổ) Dần (+ Mộc) hợp Hợi (- Thủy) Mão (- Mộc) hợp Tuất (+ Thổ) Thìn (+ Thổ) hợp Dậu (- Kim) Tỵ (- Hỏa) hợp Thân (+ Kim) Ngọ (+ Hỏa) hợp Mùi (- Thổ) Nhận xét: Cung nhị hợp thì đối xứng qua trục tháng đứng, hai cung đối nhau theo hàng ngang trên Địa Bàn Chi Dương thì hợp với chi Âm và ngược lại (khắc khi thì hút nhau). Như vậy thì phải khắc Âm Dương mới có sự hợp nhau (và phải có sự tương sinh hoặc tương khắc về ngũ hành như đã đề cập bên trên ) Chú ý: Thiệu Vĩ Hoa còn chia tương hợp ra thành trong hợp có khắc và trong hợp có sinh. Trong hợp có khắc nghĩa là hai Chi tuy hợp nhau nhưng ngũ hành thì khắc nhau như Tị (Thủy) hợp Sửu (Thổ). Trong hợp có sinh thì hai Chi hợp nhau và ngũ hành tương sinh như Dần (Mộc) hợp Hợi (Thủy). Hợp có khắc thì trước tốt sau xấu, hợp có sinh thì càng ngày càng tốt. Có người giải thích rằng: Theo sự sắp xếp của Địa Chi trong 12 cung thì: Tí Sửu ở dưới làm đất hợp Thổ Ngọ Mùi ở trên làm trời [Ngọ ở trên làm mặt trời (Thái Dương), Mùi làm mặt trăng (Thái Âm)] hợp Hỏa Thiên Khí của trời tỏa xuống, Địa Khí của đất bốc lên tạo ra 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông Dần Hợi ở dưới ngang hợp Xuân Mộc Xuân rồi đến Hạ nên Mão Tuất hợp Hạ Hỏa Hạ đến Thu nên tiến lên Thìn Dậu hợp Thu Kim Thu đến Đông nên Tỵ Thân hợp Đông Thủy Một số người viết: Tí Sửu hợp hóa Thổ Dần Hợi hợp hóa Mộc Mão Tuất hợp hóa Hỏa Thìn Dậu hợp hóa Kim Tỵ Thân hợp hóa Thủy Ngọ Mùi hợp hóa Hỏa Thiệu Khang Tiết thì cho rằng: Tí và Sửu hợp hóa thành Thổ Dần và Hợi hợp hóa Mộc Mão và Tuất hợp hóa Hỏa Thìn và Dậu hợp hóa Kim Tỵ và Thân hợp hóa Thủy Ngọ và Mùi hợp, Ngọ là Thái Dương, Mùi là Thái Âm, hợp với nhau thành Thổ Nhưng đa số các sách cho rằng Địa Chi thì chỉ hợp không có hóa, 6 cặp trên là lục hợp, căn cứ vào hợp với 4 mùa rồi từ đó hợp luôn với ngũ hành của 4 mùa, không có hóa như Thiên Can Nhận xét Theo nguyên tắc đã đề cập trên , khi hợp thì sẽ có hóa, nên Địa Chi khi hợp thì phải có Hỏa) ĐỊA CHI TƯƠNG HÌNH Là cản trở lẩn nhau, không hòa hợp Tí (+ Thủy) Ngọ (+ Hỏa), Mão (- Mộc) Dậu (- Kim) Dần (+ Mộc) Thân (+ Kim) Tỵ (- Hỏa) Hợi (- Thủy) Thìn (+ Thổ) Tuất (+ Thổ) Sửu (- Thổ) Mùi (- Thổ) Nhận định: Ít nhất cần phải có sự cùng Âm Dương mới có sự tượng hình Theo Thiên y thì tượng hình cần phải cùng Âm Dương và ngũ hành khắc nhau, do đó Thìn và Tuất, Sửu và Mùi không tượng hình ĐỊA CHI TƯƠNG HẠI (ĐỊA CHI LỤC HẠI, ĐỊA CHI NHỊ HẠI) Là hại lẫn nhau, là chịu hại, bị hại tức là tương khắc. Tương hại thì không tốt. Trên Địa Bàn thì Nhị hại là hai cung đối nhau theo hàng dọc Tị (+ Thủy) Mùi (- Thổ) tương hại Sửu (- Thổ) Ngọ (+ Hỏa) tương hại Dần (+ Mộc) Tỵ (- Hỏa) tương hại Mão (- Mộc) Thìn (+ Thổ) tương hại Thân (+ Kim) Hợi (- Thủy) tương hại Dậu (- Kim) Tuất (+ Thổ) tương hại Giải thích: Thiệu Vĩ Hoa căn cứ vào sách Khao Nguyên ghi rằng phàm bất cứ việc gì tốt nhất là gặp hợp, kỵ gặp Xung. Lục Hại phát sinh từ Lục hợp Tí hợp với Sửu bị Mùi xung: Sửu bị xung, Tị không còn gì để hợp cho nên Tị Mùi tương hại Sửu hợp với Tị bị Ngọ xung: Tị bị xung, Sửu không còn gì để hợp cho nên Sửu Ngọ tương hại Dần hợp với Hợi bị Tỵ xung: Hợi bị xung, Dần không còn gì để hợp cho nên Dần Tỵ tương hại Mão hợp với Tuất bị Thìn xung: Tuất bị xung, Mão không còn gì để hợp cho nên Mão Thìn tương hại Thìn hợp với Dậu bị Mão xung: Dậu bị xung, Thìn không còn gì để hợp cho nên Thìn Mão tương hại Tỵ hợp với Thân bị Dần xung: Thân bị xung, Tỵ không còn gì để hợp cho nên Tỵ Dần tương hại Ngọ hợp với Mùi bị Sửu xung: Sửu bị xung, Ngọ không còn gì để hợp cho nên Ngọ Sửu tương hại Mùi hợp với Ngọ bị Tị xung: Ngọ bị xung, Mùi không còn gì để hợp cho nên Mùi Tị tương hại Thân hợp với Tỵ bị Hợi xung: Tỵ bị xung, Thân không còn gì để hợp cho nên Thân Hợi tương hại Dậu hợp với Thìn bị Tuất xung: Thìn bị xung, Dậu không còn gì để hợp cho nên Dậu Tuất tương hại Tuất hợp với Mão bị Dậu xung: Mão bị xung, Tuất không còn gì để hợp cho nên Tuất Dậu tương hại Hợi hợp với Dần bị Thân xung: Dần bị xung, Hợi không còn gì để hợp cho nên Hợi Thân tương hại ĐỊA CHI TƯƠNG HÌNH (PHẠT) Hình là do Mãn cực tức đầy quá, đầy quá thì sẽ đưa đến sự tổn hại. Địa Chi có ba hình gọi là Địa Chi tam hình TRÌ THẾ CHI HÌNH Dần hình Tỵ Tỵ hình Thân Thân hình Dần Gọi là trì thế chi hình hay đắc thế chi hình (tức là do có quyền thế, quyền bính, thế lực mà bị phạt) Giải thích: Dần chứa Giáp Mộc, Tỵ chứa Mậu Thổ, Mộc khắc Thổ Tỵ chứa Bính Hỏa, Thân chứa Canh Kim, Hỏa khắc Kim Thân chứa Canh Kim, Dần chứa Giáp Mộc, Kim khắc Mộc Ba chi các hành đó đều ở thời kỳ đắc Lộc (vị trí Lâm Quan), can Dương mãnh liệt, các hành y vào vị trí đắc lộc mạnh mẽ mà ức chế nhau nên gọi là trí thế chi hình VÔ ÂN CHI HÌNH Sửu hình Tuất Tuất hình Mùi Mùi hình Sửu gọi là vô ân chi hình (bị hình phạt vì vô ân, chịu ơn nhưng không báo đáp, lại còn hại ân nhân) Giải thích: Sửu chứa Quí Thủy, Tuất chúa Đinh Hỏa, Thủy khắc Hỏa Tuất chứa Tân Kim, Mùi chứa Ất Mộc, Kim khắc Mộc Mùi chứa Đinh Hỏa, Sửu chứa Tân Kim, Hỏa khắc Kim Ba chi này dùng tòan can Âm ức chế nhau, đặc tính của Âm là tiêu nhận, gia trả vô ân bạc nghĩa nên gọi là vô ân chi hình VÔ LỄ CHI HÌNH Tị hình Mão Mão hình Tị gọi la` vô lễ chi hình (hình phạt do vô lễ) Giải Thích: Mão Mộc vượng, Tị Thủy vượng, nước vượng quá cây úng sẽ chết, cây vượng quá sẽ hút hết nước, nên dù Thủy sinh Mộc nhưng nếu quá thịnh sẽ hình nhau, không biết lễ nghĩa để nhường nhịn để sinh nhau nên gọi là vô lễ chi hình. Ngoài ra hai sao này còn chứa Đào Hoa là một sao chủ tửu sắc dâm dục TỰ HÌNH CHI HÌNH Ngọ hình Ngọ Dậu hình Dậu Thìn hình Thìn Hợi hình Hợi gọi là tự hình chi hình vì tự mình hình mình Nếu xếp vào từng cặp và phương huớng ta có Dần Ngọ Tuất Tỵ Dậu Sửu Thân Tị Thìn Hợi Mão Mùi Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Dần Mão Thìn Hợi Tị Sửu Dần Ngọ Tuất Hỏa cục, Quí với Tỵ Mão Mùi ở Nam Phương thuộc Hỏa, Hỏa mãn cục nên hình. Tỵ Dậu Sửu Kim cục, Quí với Thân Dậu Tuất ở Tây Phương thuộc Kim, Kim mãn cục nên hình. Thân Tị Thìn Thủy cục, nước chảy về Đông thì thịnh, Dần Mão Thìn phương Đông nên Thân Tị Thìn hình với Dần Mão Thìn. Hợi Mão Mùi Mộc cục, Thủy sinh Mộc nhưng nước nhiều làm lở đất hại cây. Hợi Tị Sửu ở dưới thuộc Phương Bắc Thủy, cây đổ ngã xuống dưới, nên Hợi Mão Mùi hình Hợi Tị Sửu. Có sách nói số 10 là số lớn nhất của Hà Đồ, thịnh cực, trừ những chi tự hình, các Chi khác đếm bắt đầu từ Chi đó đến chi thứ 10 là Chi hình. Thí Dụ Mão là cung thứ 1 đếm theo chiều thuận cung thứ 10 là Tí, Mão Tị tương hình. Tị theo chiều nghịch đến cung thứ 10 lại là Mão Nếu chi căn cứ vào cục và Phương, có thuyết cho rằng các Chi sau hình lẫn nhau: Thân Tị Thìn Hợi Mão Mùi Dần Ngọ Tuất Tị Dậu Sửu Hợi Tị Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Thân Tị Thìn thuộc Thủy cục, lại qui về Hợi Tị Sửu ở Phương Bắc thuộc Thủy, Thủy mãn cực nên hình. Lý luận tương tự cho các Chi sau. Thiệu Vĩ Hoa thì giải thích căn cứ vào sách Âm Phù Kinh như sau: Tam hình sinh ở Tam hợp, giống như Lục Hại sinh ở Lục Hợp. Theo đạo Trời mà nói tam hình là số cực, tức tội ác đầy rẫy khắp nơi nên phải dẫn đến sự đổ xập. Thân Tị Thìn tam hợp, thêm ba ngôi Dần Mão Thìn thì Thân hình khắc Dần, Tị hình khắc Mão, Thìn tự hình Thìn Dần Ngọ Tuất tam hợp, thêm ba ngôi Tỵ Ngọ Mùi thì Dần hình Ty, Ngọ tự hình Ngọ, Tuất hình Mùi Tỵ Dậu Sửu tam hợp, thêm ba ngôi Thân Dậu Tuất thì Tỵ hình Thân, Dậu tự hình Dậu, Sửu hình Tuất Hợi Mão Mùi tam hợp, thêm ba ngôi Hợi Tị Sửu thì Hợi tự hình Hợi, Mão hình Tị, Mùi hình Sửu Tượng hình chủ về hung, chủ về các việc như bị tổn hại, bệnh tật, lao tù. Nguyên tắc của tượng hình giống như Tam Hợp Cục. Chổ khắc nhau là ba Tí có thể hình một Mão, một Mão có thể hình ba Tí, còn hai Mão không thể hình một Tí, hoặc một Tí không hình được hai Mão. Ngoài ra có trường hợp tham hợp vong hình, tham sinh vong hình đều là nhũng trường hợp có cừu ĐỊA CHI VÀ TAM HỢP HỢI CỤC (TAM HỢP CỤC) Dần Ngọ Tuất thuộc tam hợp Dương Hỏa (Hỏa cục) (hay Dần Ngọ Tuất hợp thành Hỏa cục) Thân Tị Thìn thuộc tam hợp Dương Thủy (Thủy cục) Tỵ Dậu Sửu thuộc tam hợp Âm Kim (Kim cục) Hợi Mão Mùi thuộc tam hợp Âm Mộc (Mộc cục) Giải thích tam hợp cục theo lý thuyết vận khí: Lục Khí theo Đông Y gồm có Quyết Âm Phong Mộc là sơ khí Thiếu Âm Quân Hỏa là nhị khí Thiếu Dương Tướng Hỏa là tam khí Thái Âm Thấp Thổ là tứ khí Dương mình Táo Kim là ngũ khí Thái Dương Hàn Thủy là lục khí hay chung khí Thân Tị Thìn bắt đầu cùng giờ Dần Hợi Mão Mùi bắt đầu cùng gio Hợi Dần Ngọ Tuất bắt đầu cùng giờ Thân Tỵ Dậu Sửu bắt Dậu cùng giờ Tỵ căn cứ vào đó người ta cho Thân Tị Thìn hợp thành một cục, đó là Thủy cục Hợi Mão Mùi hợp thành một cục, đó là Mộc cục Dần Ngọ Tuất hợp thành một cục, đó là Hỏa cục Tỵ Dậu Sửu hợp thành một cục, đó là Kim cục cục và Phương Huớng đều lấy Tị Ngọ Mão Dậu xếp vào giữa hai chi khắc, nhưng phương là khí thịnh, cục là khí chuyển vào Chú ý: Thiệu Vĩ Hoa cho rằng: Tam hợp cục là lấy Sinh Vượng Mộ để hợp thành cục. Thủy Tràng Sinh tại Thân, để Vượng ở Tí, Mộ ở Thìn nên ba Chi Thân Tị Thìn hợp thành Thủy cục. Mộc Tràng Sinh ở Hợi, để Vượng ở Mão , Mộ ở Mùi nên ba Chi Hợi Mão Mùi hợp thành Mộc cục. Hỏa Tràng Sinh ở Dần, để Vượng ở Ngọ, Mộ ở Tuất nên ba Chi Dần Ngọ Tuất hợp thành Hỏa cục. Kim Tràng Sinh ở Tỵ, Đế Vượng ở Dậu, Mộ ở Sửu nên ba Chi Tỵ Dậu Sửu hợp thành Kim cục. Tam hợp hóa cục có cát có hung tùy theo quan hệ sinh khắc. Nếu bị khắc mà được Tam hợp cục tương sinh cứu giúp thì lại cát, nếu bị khắc mà lại bị tam hợp cục khắc thêm vào thì lại là hung MÙA VÀ ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH ÂM DƯƠNG: Xuân Hạ Dương Khí tăng trưởng, Âm Khí tiêu giảm thuộc Dương Thu Đông Âm Khí tăng gia, Dương Khí tiêu tán, thuộc Âm NGŨ HÀNH Xuân thuộc Mộc vì lúc đó cây cỏ sanh tươi, đang phát triển Hạ thuộc Hoả vì lúc đó khí trời nóng nực Thu thuộc Kim vì lúc đó cây cỏ tàn tạ do Kim khắc Mộc Đông thuộc Thủy vì lúc đó khí trời lạnh lẽo, nước lạnh Tứ Qúi tức 18 ngày cuối giao của 4 mùa thuộc Thổ nên gọi là tạp khí Mùa Vượng (Tràng) Tướng(Sinh) Hữu(Lão) Tử Tuyệt(Tu?) Xuân Mộc Hỏa Thủy Kim Thổ Hạ Hỏa Thổ Mộc Thủy Kim Thu Kim Thuỷ Thổ Hoả Mộc Đông Thuỷ Mộc Kim Thổ Hoả Tứ Quí Thổ Kim Hoả Mộc Thuỷ Mùa Xuân: Mộc Khí thịnh vượng nên Mộc Vượng (Tràng), Mộc sinh Hoả nên Hoả Tướng, Thuỷ Khí già nua vì đã qua mùa Đông, cây rút hết nước, nên Thuỷ Hữu (Lão), Kim Khắc Mộc nên Kim Tử, Mộc khắc Thổ nên Thổ Tuyệt. SỰ SUY VƯỢNG CỦA NGŨ HÀNH TRONG NĂM THEO MÙA Hành Vượng Tướng Hữu Tử Tuyệt Mộc Mùa Xuân Mùa Đông Mùa Hạ Tứ Quí Mùa Thu Hoả Mùa Hạ Mùa Xuân Tứ Quí Mùa Thu Mùa Đông Thổ Tứ Quí Mùa Hạ Mùa Thu Mùa Đông Mùa Xuân Kim Mùa Thu Tứ Quí Mùa Đông Mùa Xuân Mùa Hạ Thuỷ Mùa Đông Mùa Thu Mùa Xuân Mùa Hạ Tứ Quí SỰ SUY VƯỢNG CỦA NGŨ HÀNH THEO THIÊN CAN Sự dụng vòng Tràng Sinh để theo dõi, năm Dương thì Tràng Sinh bắt đầu từ Dần Thân Tỵ Hợi và Địa Chi đi Thuận, năm Âm thì Tràng Sinh bắt đầu từ Tí Ngọ Mão Dậu và Địa Chi đi nghịch để tiếp tục ghi các giai đoạn kế tiếp của vòng Tràng sinh: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng VÒNG TRÀNG SINH Toàn bộ các Hành đều sinh trưởng theo chu kỳ như sau: Thai (Hành khí mới bắt đầu kết tinh, thời kỳ gây mầm mống) Dưỡng (Hành khí đang tăng lên, như con được nuôi trong bụng mẹ) Tràng Sinh (Hành khí được sinh ra, như trẻ con mới sinh, thời kỳ manh nha phát động của Hành) Mộc Dục (Hành khí còn non yếu, như con còn ấu thơ, được tạm gọi cho sạch sẽ, chân tay còn vô lực, không chống đỡ cầm giữ được gì cả, còn non yếu dễ chết, gọi là BẠI ĐỊA) Quan đới (Hành khí đã lớn, như con đã lớn cho đội mũ) Lâm Quan (Hành khí ở trong thời kỳ mạnh mẽ, tràng vượng, con phát triển được, như con trai đã trở thành thanh niên lớn khỏe đi làm quan, nên đương cần vị trí của Lâm Quan còn gọi là LỘC VỊ) Đế Vượng (Hành khí vượng đến cực điểm, sắp sửa đi vào giai đoạn suy, gọi là VƯỢNG ĐỊA) Suy (Hành khí bước vào giai đoạn bắt đầu suy yếu, là dư khí vì lúc đó khí thịnh của đế vượng vẫn còn sót lại) Bệnh (Hành khí suy yếu lắm rồi, như già bị ốm đau) Tử (chết, Hành khí tan) Mộ (chôn vùi, tạo hoá thấu táng, có dư khí, hồi quang phản chiếu) Tuyệt (khí tuyệt, hoàn toàn hết không còn gì cả) Trong chu kỳ trên, Hành khí có sức ảnh huởng đến ngoài đáng kể là Tràng Sinh, Mộc Dục, Lâm Quan, Đế Vượng và Mộ) Phân định ảnh huởng: trong chu kỳ 12 trên thì chỉ có vị trí của Tràng Sinh, Mộc Dục, Lâm Quan, Đế Vượng và Mộ là có khí sức để có thể ảnh hưởng ra bên ngoài Phân định Âm Dương: Thai, Dưỡng, Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan thuộc về Dương, huớng thịnh, theo chiều thuận. Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt thuộc Âm, huớng suy, theo chiều nghịch Giáp Dương Mộc thì Tràng Sinh tại Hợi (Mộc Dục ở Tí vì đi thuận) Ất Âm Mộc thì Tràng Sinh tại Ngọ (Mộc Dục ở Tỵ vì đi nghịch) Bính Dương Hoả thì Tràng Sinh tại Dần Đinh Âm Hoả thì Tràng Sinh tại Dậu Mậu Dương Thổ thì Tràng Sinh tại Dần Kỷ Âm Thổ thì Tràng Sinh tại Dậu Canh Dương Kim thì Tràng Sinh tại Tỵ Tân Âm Kim thì Tràng Sinh tại Tí Nhâm Dương Thuỷ thì Trang Sinh tại Thân Qúi Âm Thuỷ thì Tràng Sinh tại Mão VÒNG VƯỢNG TƯỚNG HỮU TỬ CỦA KHÍ NGŨ HÀNH LƯU CHUYỂN TRÊN 12 CUNG ĐỊA CHI (Giải thích trên cơ sở Mùa trong năm) Mộc Khí: là khí của Mùa Xuân, sẽ bắt đầu sinh vào lúc bắt đầu Mùa Đông, để kịp thịnh vượng vào Mùa Xuân, Thuỷ sinh Mộc nên Mộc sinh ở Hợi (Hợi là tháng 10, tháng bắt đầu Mùa Đông, Hợi thuộc Thuỷ). Theo chiều thuận, Tràng Sinh ở Hợi, Mộc Dục ở Tí...Tử Dậu (Thai) đến Dần thì theo chiều tiến, huớng vượng thuộc Dương là vị trí của Giáp (Dương) Mộc, còn từ Mão đến Thân theo chiều thóai, hướng suy thuộc Âm là vị trí của Ất (Âm) Mộc Hoả Khí: là khí của Mùa Hạ, sinh ở Dần, Tràng sinh ở Dần, Thai ở Tí. Giải thích như trên Tử Tí đến Tỵ (?) là vị trí Bính (Dương) Hoả, từ Ngọ đến Hợi là vị trí Đinh (Âm) Hoả Kim Khí: là khí của Mùa Thu, sinh ở Tỵ, Tràng Sinh ở Tỵ, Thai ở Mão Từ Mão đến Thân là vị trí của Canh (Dương) Kim, từ Dậu đến Dần là vị trí của Tân (Âm) Kim Sự giải thích Kim sinh ở Tỵ không thể đúng tháng bắt đầu cho Mùa mà khi chủ về ngũ Hành tương sinh để giải thích cho vị trí trường sinh, nên một số người giải thích như sau: Kim khí nảy sinh vào tháng Tỵ đầu Mùa Hạ để kịp thịnh vượng vào đầu Mùa Thu, Mùa mà Kim khí làm chủ. Hạ thuộc Hoả, nhưng Hoả sinh Thổ, mà Thổ sinh Kim, qúi Hạ Thổ thịnh nhất trong 4 qúi, vậy Kim khí sinh tại Tỵ Hạ Hoả Thuỷ Khí: là khí của Mùa Đông, giải thích sự bắt đầu sinh như Mộc Khí. Thuỷ khí sinh ở Thân, Tuyệt ở Tỵ, Thai ở Ngọ... Từ Ngọ đến Hợi là vị trí của Nhâm Thuỷ, từ Tí đến Tỵ là vị trí của Qúi Thuỷ Thổ Khí: theo bài Bát Quái thì vượng ở Trung Tâm, tàn ra 4 gốc ở Thìn Tuất Sửu Mùi, vậy Thổ vượng ở Thìn Tuất Sửu Mùi, phù vào Thuỷ và Hoả nên sinh ở Thân Dần SỰ SUY VƯỢNG CỦA NGŨ HÀNH CÁC ĐỊA CHI Hành Mộc Tràng Sinh ở Hợi, Đế Vượng ở Mão, Tử ở Ngọ, Mộ ở Mùi Hành Hoả Tràng Sinh ở Dần, Đế Vượng ở Ngọ, Tử ở Dậu, Mộ ở Tuất Hành Kim Tràng Sinh ở Tỵ, Đế Vượng ở Dậu, Tử ở Tí, Mộ ở Sửu Hành Thuỷ Thổ Tràng Sinh ở Thân, Đế Vượng ở Tí, Tử ở Mão, Mộ ở Thìn SỰ SUY VƯỢNG CỦA NGŨ HÀNH CÁC ĐỊA CHI CĂN CỨ VÀO NGŨ HÀNH BỐN MÙA (Thiệu Vĩ Hoa) Mùa Xuân, Hành Mộc sinh ở Hợi, Vượng ở Mão, Mộ ở Mùi Mùa Hạ, Hành Hoả và Thổ sinh ở Dần, Vượng ở Ngọ, Mộ ở Tuất Mùa Thu, Hành Kim sinh ở Tỵ, Vượng ở Dậu, Mộ ở Sửu Mùa Đông, Hành Thuỷ sinh ở Thân, Vượng ở Tí, Mộ ở Thìn Ngũ Hành của các Địa Chi vượng ở cuối bốn Mùa, và Mộ ở Thìn Tuất Sửu Mùi, nghĩa là sự thịnh suy đều do trật tự của bốn Mùa và thuộc tính của ngũ Hành quyết định, cũng như Xuân đi thì Hạ đến, Hạ đi thì Thu đến PHONG (GIÓ) Phong là gió, tuy ngũ Hành phối hợp phương huớng và 4 Mùa ta suy ra: Xuân: Đông Phong làm chủ Hạ: Nam Phong làm chủ Thu: Tây Phong làm chủ Đông: Bắc Phong làm chủ Đông Xuân giao nhau, Đông Bắc Phong làm chủ Xuân Hạ giao nhau, Đông Nam Phong làm chủ Hạ Thu giao nhau, Tây Nam Phong làm chủ Thu Đông giao nhau, Tây Bắc Phong làm chủ NGŨ KHÍ Mùa Xuân, Phong khí làm thời lệnh Mùa Hạ, Thử khí làm thời lệnh Mùa Thu, Táo khí làm thời lệnh Mùa Đông, Hạn khí làm thời lệnh KHÍ HẬU Mùa Xuân ấm, muôn vật phát sinh Mùa Hạ nóng, muôn vật trưởng thành Mùa Thu mát, muôn vật thu nhóm Mùa Đông lạnh, muôn vật ẩn táng NGŨ HÀNH VÀ TÍNH TÌNH (Theo Thiệu Vĩ Hoa) Mệnh Kim thì nghĩa khí Mệnh Hoả chủ về lễ, trong cư xử thường có lễ. Nếu Hoả nhiều, Hoả vượng thì nóng nảy dễ hỏng việc Mệnh Thổ giữ chữ tín, nói một là một, hai là hai, giữ lời. Thổ vượng thì thích tịnh, không thích động, do đó để mất thời cơ Mệnh Mộc thì hiền từ, tấm lòng tốt. Nhưng Mộc vượng thì tính cách không khuất phục, đặc biệt Tang Đố Mộc thì thà chết chứ không chịu sống quì gối Mệnh Thuỷ thì mưu trí, thông minh ham học, nhưng phải trải qua nhiều gian khổ. Thuỷ vượng thì tính tình gặp nóng, hung bạo dễ gây ra tai họa ĐỊA CHI VÀ TẠNG PHỦ Tí, bàng quang Sửu Mùi, lá lách Dần, mật Mão, gan Thìn Tuất, dạ dày Tỵ, tim Ngọ, ruột non Thân, ruột già Dậu, phổi Hợi, thận CHIA NHÓM CỦA CÁC CUNG Cung Dần Thân Tỵ Hợi gọi la Tứ Sinh Cung Tí Ngọ Mão Dậu gọi là Tứ Tuyệt Cung Thìn Tuất Sửu Mùi gọi là Tứ MộNguon:caydavietnam1 like