• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 15/07/2012 in Bài viết

  1. Tiêu chí khoa học: Hệ biểu hiện của một học thuyết phải phản ánh một thực tại cói thể kiểm chứng được. Bạn có thể so sánh hình ảnh vài thiên hà trong vũ trụ với đồ hình Âm Dương Lạc Việt
    5 likes
  2. GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc TTNC LHDP www.lyhocdongphuong.org.vn Kính thưa các vị đại biểu. Kính thưa các vị khách quý có mặt nơi đây. Những lời đầu tiên của bài tham luận này tôi xin được thể hiện sự thành tâm ngưỡng vọng tới anh linh giáo sư Lương Kim Định, người chỉ đường đến kho tàng minh triết Việt. Chính vì những giá trị của giáo sư để lại cho hậu thế về một nền minh triết Việt mà chúng ta có mặt nơi đây. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến với ban tổ chức đã cho tôi có điều kiện thể hiện những suy tư của mình về những giá trị của cội nguồn minh triết Việt và giáo sư Lương Kim Định – một người mà tôi rất tôn trọng và quý mến, khi được biết đến những trước tác của ông. Tôi cũng xin được bày tỏ sự cảm ơn đối với các vị khách quí đã quan tâm đến chủ đề này và có mặt nơi đây. Kính thưa quí vị. Bài tham luận của chúng tôi xin được bắt đầu với phần thứ nhất có tựa là : I - GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH - NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT. Có lẽ tất cả chúng ta ở đây đều biết đến câu ca dao nổi tiếng của nền văn hóa truyền thống Việt:“Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn”. Đây cũng chính là câu ca dao mà giáo sư Lương Kim Định nhắc tới trong lời tựa cuốn sách của ông : “Triết lý cái Đình”. Câu ca dao tưởng như rất trực quan, rất bình thường, dân dã ấy, như chỉ là một ngạn ngữ khuyên con người Việt Nam hãy dùng những gì mình có. Vì nó là của ta. Cho nên nó tự do hơn và khoáng đạt hơn khi phải mượn tạm những gì của người khác. Sâu xa hơn, vì nó là của ta, nên nó là những giá trị đích thực. Nhưng ai cũng biết cái “ao ta” ấy chỉ là một hình tượng cho sự sở hữu của ta. Và chỉ khi nó là của ta thì ta mới có tự do vùng vẫy trong cái “ao ta” ấy, “dù trong, dù đục”. Trong hay đục thì chưa biết. Nhưng đoạn chót của câu ca dao ấy đã khẳng định : “ao nhà vẫn hơn”. Như vậy, nó đã xác định rằng: “Ao ta” hơn hẳn “ao người”. Nhưng “ao ta” ở đâu và “ao người” ở đâu? Phải chăng để đi tìm cái “ao ta” ấy người xưa đã muốn nhắc nhở con cháu tìm về cội nguồn? Và cội nguồn của Việt tộc, chính là cái “ao ta” ấy sẽ hơn hẳn “ao người”!? Một sự tương đồng, nhưng rõ ràng và thẳng thắn hơn với nội dung minh triết sâu xa của câu ca dao trên, chính là bài ca của cô Tấm. Mỗi khi cho cá ăn - tài sản ít ỏi và duy nhất của cô - để chia sẻ tâm tư khi phải sống chung với mụ dì ghẻ độc ác, cô Tấm lại cất tiếng gọi: Bống bống bang bang. Bống ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người. Như vậy, đến bài ca của cô Tấm thì những cái gì của ta, nó không còn mơ hồ giữa “trong” hay “đục”. Mà nó đã là sự khẳng định giá trị đích thực của nền minh triết Việt: Cũng là cơm. Nhưng cơm của Tấm là “cơm vàng, cơm bạc” là giá trị đích thực chói sáng của nền minh triết Việt. Còn cái giống như thế, cũng là “cơm”, nhưng là “cơm hẩm, cháo hoa nhà người”. Nhưng những hạt cơm vàng, cơm bạc của cô Tâm từ ngày xửa, ngày xưa ấy, đã rơi vãi đâu đây trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc? Có cái gì để thay thế phép lạ của Bụt sai khiến đàn chim đến nhặt hết những hạt sạn sỏi trộn chung với thóc , để trả lại một màu vàng óng, nguyên sơ của thúng thóc được tạo ra với bao công sức cần lao của con người? Phải chăng đấy là những giá trị minh triết Việt, được mã hóa trong những câu chuyện cổ tích, huyền thoại gửi gấm lại đời sau? Nhưng những hình ảnh minh triết ấy đưa chúng ta về đâu và nó muốn nói đến một giá trị đích thực gì ẩn chứa đằng sau của cái “ao nhà vẫn hơn”; của cái “cơm vàng, cơm bạc nhà ta” ấy? Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rồi một ngàn năm nữa qua đi với bao thăng trầm của Việt sử. Những ngọn lửa chiến chinh khốc liệt đã không chỉ một lần thiêu đốt, tàn phá nền văn hóa đầy minh triết của Việt tộc. Câu chuyện “cơm vàng cơm bạc nhà ta” của cô Tấm đã trở thành chuyện cổ tích thuộc về “ngày xửa, ngày xưa”. Cái “ ao nhà vẫn hơn “ ấy cũng lùi vào dĩ vãng. Trong cuộc sống náo nhiệt, phồn vinh của nền văn minh kỹ thuật, Việt sử với 5000 năm văn hiến đã trở nên huyễn ảo từ nơi cội nguồn. Đã không ít những học giả lóa mắt trước ánh sáng đèn của nền văn minh Tây phương, nên không nhìn thấy những gía trị đích thực của nền minh triết Việt. Cũng không ít những học giả cả trong và ngoài nước, đặt câu hỏi phản biện những giá trị văn hóa sử Việt 5000 năm văn hiến rằng: Tại sao gọi là văn hiến mà nền văn hiến truyền thống đầy tự hào ấy, thiếu vắng những gía trị minh triết? Tại sao những nền văn minh tồn tại ngắn hơn về thời gian, lại ghi nhận những gía trị minh triết với những triết gia tên tuổi và những di sản như là những kỳ tích của nền văn minh nhân loại? Còn 5000 năm văn hiến Việt được ghi nhận trong lịch sử và truyền thống đầy tự hào ấy còn có gì đâu? Vấn đề đã được đặt ra cho những con người Việt Nam đau đáu đi tìm cội nguồn minh triết Việt. Một trong những con người Việt Nam ấy là giáo sư linh mục Lương Kim Định. Với hàng chục đầu sách nổi tiếng một thời , giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách sâu sắc về minh triết Việt. Ông đã nhìn thấy linh hồn của nền văn minh Việt trong những giá trị căn bản của văn hóa Phương Đông - Trong đó có Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Lạc Thư minh triết” và được nhắc lại trong nhiều tác phẩm khác của ông. Trong “Lạc thư minh triết”, ông đã tìm thấy mối liên hệ tương đồng giữa những truyền thuyết về huyền sử Việt với những đồ hình biểu kiến mang tính căn để của Lý học Đông phương. Đó là Lạc Thư và Hà Đồ. Ông cũng đã tìm thấy những điểm tương đồng của minh triết Đông phương bàng bạc, lưu truyền trong những di sản văn hóa truyền thống Việt. Từ đó ông đã đặt vấn đề về một “Cơ cấu Việt Nho” để xác định một nền minh triết Việt đầy nhân bản và tách ra khỏi Hán Nho. Trong tác phẩm “Cơ cấu Việt Nho” – với một trí thức uyên bác, ông đã so sánh hầu hết những tư tưởng minh triết Đông Tây Kim cổ với những mảnh lấp lánh còn lại trong di sản truyền thống văn hóa sử Việt, qua những truyền thuyết , huyền thoại, những câu chuyện cổ tích, trong những câu ca dao và so sánh với hầu hết những giá trị của Lý Học Đông phương, kể cả thuyết Âm Dương Ngũ hành và với hệ thống Thi, Thư vốn được coi là của Hán tộc. Trên những cơ sở đó ông đã mặc định về một hệ thống Việt Nho bàng bạc tương đồng từ thời cổ sử. Trong tác phẩm “Triết lý cái Đình”, ông đã xác định ngay từ đầu: “Việt Nam đã có một nền minh triết”. Có thể nói rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra một vấn đề trải rộng trên nhiều mặt của những giá trị văn hóa Đông phương - từ hàng thiên niên kỷ nay vẫn được mặc định thuộc về nền văn minh Hán – và ông đã tìm thấy một sự tương đồng đến kỳ lạ ở nền văn hiến Việt. Ông đã khai phá trong sự hỗn độn, huyền bí của nền văn minh Đông phương để chỉ ra một gía trị minh triết Việt tương đồng. Nhưng giáo sư Lương Kim Định vẫn chưa đạt được đến đích. Đây là cái khó của giáo sư. Cái khó ấy ông đã viết ngay trong mục I, phần thứ nhất của cuốn “Cơ cấu Việt Nho”. Ông viết: 1. Tại sao không Việt lại Nho? Thưa vì Nho với Việt là một. Nói Nho hay Việt, Việt hay Nho cũng thế. Đây là một lời quyết đoán khó có thể chấp nhận. Vì chữ Nho tuân theo một cú pháp ngược với cú pháp Việt và nó xuất phát từ nước Tàu chứ có phải của vô thừa nhận đâu, để cho ai muốn kéo về với mình cũng được. Vâng! Thưa quí vị. Đây chính là điều cản trở gây khó cho giáo sư khi tìm về cội nguồn minh triết Việt. Mặc dù ông đã đặt vấn đề một cách hoàn mỹ và toàn diện về sự tương đồng giữa những di sản truyền thống của văn hiến Việt với những giá trị mình triết Đông phương. Nhưng điều cản trở ông, chính là ông vẫn cho rằng những giá trị cốt lõi của minh triết Đông phương vẫn thuộc về người Hán. Vẫn có một thứ Hán nho sừng sững bên cạnh Việt Nho. Một thứ “ao người” bên cạnh cái “ao ta” đầy huyễn ảo giữa hai dòng trong đục. Tuy nhiên, đến đây tôi cũng cần phải nói rõ rằng: Bằng một sự mẫn cảm của một học giả uyên bác, giáo sư Lương Kim Định cũng đã đặt ra vấn đề cội nguồn lịch sử của Hán Nho. Ngay tiếp theo đoạn trích dẫn ở trên, ông đã viết: Thế nhưng lại có thể trả lời rằng: Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa? Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu. Đến đây, quí vị cũng thấy rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách rất xác đáng: Lịch sử của nền minh triết Hán Nho – vốn được coi là cội nguồn của văn minh Đông phương – cũng rất huyễn ảo. Nhưng giáo sư chỉ dừng lại ở đây và vẫn vì sự cản trở của quan niệm cho rằng có một nền minh triết Hán Nho xuất phát từ văn minh Hán. Cội nguồn minh triết Việt vẫn còn đầy huyễn ảo. Cái “ao ta” mầu nhiệm ấy vẫn còn chờ “gạn đục, khơi trong”, khi nó vẫn hỗn mang giữa hai dòng “trong”, “đục”. Miếng “cơm vàng, cơm bạc” của cô Tấm ngày xưa vẫn còn trộn lẫn trong sỏi đá và chờ phép màu của Đức Phật. Phép màu nói theo ngôn ngữ của thời “ngày xửa, ngày xưa”, nhưng diễn ra ngôn ngữ hiện đại thì chúng ta cần một phương pháp đúng để tìm về cội nguồn. Phần tiếp theo đây, chúng tôi xin được đề cập đến là: II – TÌM VỀ CỘI NGUỒN MINH TRIẾT VIỆT Kính thưa quí vị. Tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết đến những câu nổi tiếng của bài Bình Ngô Đại cáo, do đại danh nhân, anh hùng dân tộc Việt - Nguyễn Trãi viết: Như nước Đại Việt ta thuở trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Trải Triệu, Lê, Lý , Trần xây nền độc lập. Cùng Hán , Đường, Tống , Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau. Nhưng hào kiệt thời nào cũng có. Và trong Hoàng cung Huế, một bức thi pháp của vua Minh Mệnh cũng viết: Văn hiến thiên niên quốc. Xa thư vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu. Nam phục nhất Đường Ngu. Kính thưa quí vị. Có thể nói rằng: Trong lịch sử văn minh nhân loại, chỉ duy nhất có Việt sử ghi nhận với niềm tự hào là quốc gia văn hiến. Vậy thì cội nguồn văn hiến đó từ đâu, khi mà chính nền văn minh Hán cũng khiêm tốn và chưa sốt sắng lắm khi nhận mình là một quốc gia văn hiến trong lịch sử? Các văn bản còn lại trong chính sử, trong truyền thống văn hóa sử Việt, đã chỉ thẳng đến thời Hùng Vương với quốc hiệu Văn Lang - là quốc gia đầu tiên của Việt tộc - lập quốc vào năm 2879 trc CN và chính là cội nguồn của danh xưng văn hiến Việt. Nhưng – như chúng tôi đã trình bày: Lớp bụi thời gian của hơn 1000 năm Bắc thuộc và tiếp đó là 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của Việt sử, đã phủ dày lớp lớp rêu phong lên cội nguồn văn hiến Việt. Hàng ngàn năm không phải là con số để đọc trong một giây. Chỉ với ngay cuộc đời của những vị cao niên có mặt nơi đây, đã đủ chứng kiến bao nhiêu cuộc bể dâu trong cuộc sống của chúng ta. Hàng ngàn năm đã trôi qua. Việc tìm về nguồn cội Việt tộc không thể dễ dàng. Nhưng có một câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng trong nền minh triết Việt mà chắc tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết, mà nội dung của nó như đã an ủi những con người Việt Nam đau đáu tìm về cội nguồn; đó là câu truyện Trê Cóc. Câu chuyện kể lại rằng: Đàn con của cóc là bầy nòng nọc, bị vợ chồng cá trê vốn hiếm muộn thấy nòng nọc giống mình, nên đã bắt về làm con của Trê. Mẹ Cóc thấy mất con và biết Trê đã lấy con của mình, bèn đi kiện. Nhưng trước hình thức khác hẳn Cóc và giống Trê của bầy nòng nọc, nên quan cá Chép đã xử cho Trê thắng kiện. Cóc đau buồn trở về thì Nhái Bén khuyên Mẹ Cóc hãy chờ đợi. Thời gian sẽ làm bày nòng nọc tiến hóa và sẽ trở về với Mẹ Cóc, trở về với cội nguồn. Kính thưa quí vị. Theo cách hiểu hoàn toàn chủ quan của chúng tôi thì đây chính là một câu truyện đầy tính minh triết của Việt tộc. Nòng nọc – tức là nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc, bị Hán hóa trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó ở miền Nam sông Dương tử, nên đã mang một hình thức khác là văn tự Hán . Cho nên nó có một vẻ bề ngoài thuộc về văn minh Hán – đó là hình tượng trong câu chuyện Trê Cóc, khi nòng nọc có bề ngoài giống Trê. Với hình thức bề ngoài đó và sự mạo nhận của đế chế Hán , khi nền văn hiến Việt sụp đổ ở bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước, khiến ai cũng tưởng nó thuộc về văn minh Hán. Nhưng bản chất di truyền tế vi, mà không dễ ai cũng nhận thức được thì nòng nọc vẫn là con của Cóc. Câu chuyện dân gian Việt Nam độc đáo ấy, muốn chuyển tải một thông điệp vượt thời gian đầy minh triết cho chúng ta thấy rằng: Với sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại thì chính những tri thức của nền khoa học hiện đại, sẽ thấy được bản chất của cội nguồn nền minh triết Đông phương thuộc về nền văn minh Khoa đẩu. Bầy nòng nọc sẽ biến thành cóc và trở về với cội nguồn Việt sử. trong sự chờ đợi mỏi mòn của Mẹ Cóc. Nhưng thời gian ấy là bao lâu trong sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miền nam sông Dương tử? Kính thưa quí vị. Có vẻ như là một lời mặc khải huyền vĩ - cách đây xấp xỉ 70 năm về trước - trong nhạc phẩm nổi tiếng của nền âm nhạc hiện đại Việt, như là câu trả lời cho vấn nạn thời gian của việc tìm về cội nguồn Việt sử. Đó là nhạc phẩm bất hủ “Hòn vọng phu” nổi tiếng của nhạc sĩ Lê Thương. Chắc nhiều quý vị lớn tuổi ngồi đây đều biết nội dung một đoạn lời nhạc này trong nhạc phẩm nổi tiếng nói trên: Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua. Đến khi núi lở, sông mòn. Mới mong tới hòn Vọng phu. Kể từ khi Việt sử chìm trong bóng tối dưới sự thống trị của đế chế Hán, đến nay hơn 2000 năm đã trôi qua. Qua hơn hai ngàn năm ấy, sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những tri thức khoa học, kỹ thuật vượt trội. tri thức khoa học đã tìm thấy những cấu tạo tế vi của vật chất, cũng như sự vận động của những thiên hà khổng lồ. Nó đã tìm thấy được bản chất của sự di truyền. Nó đã kết nối các nền văn minh cổ xưa trong sự hội nhập toàn cầu vĩ đại. Nó đã soi ánh sáng của tri thức hiện đại vào những giá trị của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Phải chăng, đây chính là thời gian được mặc khải trong lời nhạc phẩm Hòn Vọng phu, để đàn nòng nọc tiến hóa trở thành cóc và về với cội nguồn Việt sử? Đến đây, chúng tôi cần nói rõ để mong được quí vị lưu ý rằng: Chúng tôi không coi việc giải mã những truyền thuyết, truyện cổ, ca dao tục ngữ dân gian…vv….. làm bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử. Đấy không phải là phương pháp được khoa học công nhận - Chí ít là trong giai đoạn này hiện nay. Bởi vì tri thức khoa học ngày nay, chưa có một tiêu chí để làm chuẩn mực, xác định một phương pháp giải mã những di sản văn hóa phi vật thể truyền thống được coi là đúng. Chúng tôi cũng không dùng sự suy luận chủ quan, hoặc nhân danh ngoài khoa học để xác định luận điểm của chúng tôi, khi chứng minh cội nguồn minh triết Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Kính thưa quí vị. Chúng ta đang tiếp bước theo các bậc tiền nhân để đi tìm về cội nguồn văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử, mà một trong các vị tiền bối khả kính ấy chính là giáo sư Lương Kim Định – là nguyên nhân để chúng ta có mặt ngày hôm nay - cùng chia sẻ những giá trị mà ông đã để lại, trong công cuộc tìm về cội nguồn văn hiến Việt. Chúng ta có thuận lợi hơn so với thời đại của giáo sư Lương Kim Định đã sống. Đó chính là sự tiến bộ vượt bậc của những tri thức khoa học hiện đại, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Đó là những phương pháp luận khoa học, những tiêu chí khoa học , cùng với những thành tựu của khoa học hiện đại, để so sánh, đối chiếu thẩm định một lý thuyết, một giả thuyết, một phương pháp ứng dụng được coi là đúng. Từ những giá trị đó của tri thức khoa học hiện đại , chúng tôi coi như là những phương tiện hữu hiệu để tiếp bước các bậc tiền bối tìm về cội nguồn minh triết Việt và khám phá những giá trị thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Phần tiếp theo đây, chúng tôi sẽ trình bày về: III. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN NHỮNG GÍA TRỊ CỦA NỀN VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG. Kính thưa quý vị. Chúng ta đang sống trong một thời đại chuyển tiếp của sự hội nhập toàn cầu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những thành tựu khoa học tiên tiến nhất tính đến ngày hôm nay. Tất cả những gía trị của các nền văn minh từ thời cổ đại đến nay đều được chia sẻ và được biết đến qua mạng thông tin toàn cầu. Nhưng có một nền văn minh cổ xưa vẫn sừng sững một cách huyền vĩ, thách đố tất cả tri thức của nền văn minh nhân loại trong thời hội nhập. Đó chính là nền văn minh Đông phương huyền bí. Phải chăng đó là vì người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Cái sai đầu tiên và cũng rất phổ biến trong tất cả các nghiên cứu về cội nguồn văn minh Đông phương - mà trong quá trình nghiên cứu về Lý học Đông phương, chúng tôi đã nhận thấy rằng: Đó chính là sự mặc định nó thuộc về văn minh Hán . Từ đó, khiến dẫn đến một hệ quả đương nhiên cho rằng: Những giá trị của nền văn minh Đông phương ghi nhận trong các bản văn chữ Hán là những thành tựu của nền văn minh này. Và đó chính là nguyên nhân khiến người ta sẽ không thể phục chế được một cách có hệ thống và tính nhất quán những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương. Mà nền tảng căn bản của là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đây cũng chính là điều mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề - tôi xin được nhắc lại như sau: Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa. Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu. Kính thưa quí vị! Để xác định cội nguồn Việt tộc và phủ nhận sự mặc định phổ biến từ ngàn xưa về nguồn gốc Hán của nền minh triết Đông, chúng ta phải viện dẫn đến tri thức khoa học hiện đại và nhân danh khoa học. Tiêu chí khoa học hiện đại đã xác định một học thuyết thuộc về nền văn minh nào đó thì nó phải thỏa mãn ba yếu tố sau: 1/ Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. 2/ Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. 3/ Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Trên cơ sở tiêu chí khoa học này chúng tôi đã xác định: Những minh chứng một cách chi tiết cho luận điểm này và mọi vấn đề liên quan, chúng tôi đã trình bày trong các tác phẩm đã xuất bản và trong các tiểu luận được trình bày trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. Quí vị quan tâm có thể tham khảo ở website trên. Trong phạm vi bài nói hôm nay, chúng tôi xin trình bày một cách tóm tắt như sau: Yếu tố thứ nhất (1). Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. Trên cơ sở này chúng ta xem xét lịch sử phát triển thuyết Âm Dương Ngũ hành trong nền văn minh Hán. Trước hết chúng ta hãy xem xét nội dung của cuốn Hoàng Đề nội kinh tố vấn. Đây là cuốn sách về lý luận căn bản của Đông y nổi tiếng với thời gian hình thành được xác định vào thời Hoàng Đế, hơn 3000 năm trước CN. Nội dung của cuốn sách này hoàn toàn sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành như là hệ quả của một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh. Ở đây, nếu có vị nào đã một lần xem được cuốn Hoàng Đế nội kinh sẽ nhận thấy điều này. Nhưng 1000 năm sau đó - Đây cũng không phải là con số được đọc trong một giây – thì vua Đại Vũ theo cổ thư chữ Hán mới tìm ra Lạc Thư và phát minh ra thuyết Ngũ hành. Sau đó 1000 năm nữa cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Văn Vương nhà Chu mới sáng tạo ra Hậu Thiên Bát quái Văn Vương và làm ra cuốn Chu Dịch. 500 năm sau đó, theo cổ thư chữ Hán thì một vị danh sư được coi là Khổng tử mới bổ sung vào cuốn Chu Dịch và khái niệm Âm Dương trong văn bản cổ nhất xuất hiện vào thời kỳ này. Tóm lại, thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện trong lịch sử văn minh Hán với một tiến trình ngược theo kiểu : Sinh con rồi mới sinh cha. Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. Để xác định rõ hơn: Ngay cả những nhà nghiên cứu lịch sử và Lý học Trung Hoa hiện đại cho đến tận ngày hôm nay - khi chúng ta gặp nhau ở đây - vẫn không thể xác định được Thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện vào thời kỳ nào trong lịch sử văn minh Hán. Đúng như giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề từ hơn 40 năm trước. Yếu tố thứ hai (2): Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. Về vấn đề này thì chúng tôi đã chứng minh rằng: Toàn bộ lịch sử của nền văn minh Hán từ hàng ngàn năm nay không chứng tỏ được một nền tảng tri thức xã hội tạo nên thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chỉ tính riêng sự phát triển bất hợp lý trong quá trình hình thành học thuyết này theo bản văn chữ Hán, đã cho thấy nó không thể thuộc về nền văn minh Hán. Còn những hệ quả ứng dụng của nó - tôi thí dụ như bảng Lục thập Hoa giáp – thì chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại cũng phải phát biểu rằng: “Không hiểu từ cơ sở nào để các tiền nhân Trung Hoa đặt ra bảng Lục thập hoa giáp này? Từ hàng ngàn năm nay đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về nó, nhưng đến nay vẫn cứ là huyền bí, khó hiểu !” (Thiệu Vĩ Hoa. “Chu Dịch và Dự đoán học”& “Dự đoán theo tứ trụ”) Tóm lại từ hàng ngàn năm nay, chính những người Trung Hoa cũng chỉ biết học thuộc lòng và ứng dụng. Họ không thể phục hồi lại được một học thuyết nền tảng của nền minh triết Đông phương – thuyết Âm Dương Ngũ hành – tiền đề cho các bộ môn ứng dụng là hệ quả của nó. Nếu như nền tảng tri thức của nền văn minh Hán chính là cơ sở hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành và những giá trị của nó chính là thành tựu đạt được trên cơ sở nền tảng tri thức đó - cho dù giải thích bằng tính thất truyền - thì – người ta đã phục hồi được nó từ lâu. Chứ không thể huyền bí hơn 2000 năm nay cho đến tận ngày hôm nay – khi chúng ta đang ngồi ở đây để tưởng niệm giáo sư Lương Kim Định và bàn về những di sản của giáo sư tìm về cội nguồn minh triết Việt. Nòng nọc về bản chất không phải con của Trê. Yếu tố thứ ba (3) là: Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Về vấn đề này thì chúng tôi cần xác định rằng: Cấu trúc của thuyết Âm Dương Ngũ hành thể hiện trong các bản văn chữ Hán thậm chí không thể chứng tỏ đó là một học thuyết hoàn chỉnh. Chưa nói đến tính hợp lý, tính hệ thông và nhất quán của nó. Chúng đầy rẫy những mâu thuẫn và có tính tự phủ định trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hiện tượng này đã khiến cho những nhà nghiên cứu chuyên môn sâu của chính nền văn minh Trung Hoa từ hàng ngàn năm nay, cũng mâu thuẫn nhau khi giải thích những vấn đề liên quan đến nó. Theo kiểu “thày bói xem voi”, mà một câu truyện nổi tiếng của nền minh triết Việt đã nói đến. Những chứng minh rất cụ thể và chi tiết về vấn đề này, quí vị có thể tham khảo tại website lyhocdongphuong.org.vn của chúng tôi. Ở đây chúng tôi chỉ xin dẫn chứng một số những ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong các bản văn cổ chữ Hán, tương đối phổ biến. Đầu tiên là môn phong thủy. Có lẽ hầu hết những người quan tâm đến phong thủy - được coi là xuất phát trong lịch sử văn minh Hán - đều biết rằng có đến 4 trường phái phong thủy lưu truyền. Những trường phái này có những luận điểm mâu thuẫn lẫn nhau trong những ứng dụng cụ thể. Ông thày thuộc trường phái này thì phản đối phương pháp của ông thày theo trường phái khác. Và hệ quả của nó là nội cái bếp của gia chủ, nếu có nhiều ông thày theo cổ thư chữ Hán đến sửa thì nó quay đủ các hướng khác nhau. Hoặc cụ thể hơn chính là câu chuyện được ghi nhận trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, có tựa là “Nhật giả liệt truyện”. Trong câu chuyện này, Tư Mã Thiên đã miêu tả việc các thày bói Trung Hoa được Hán Vũ Đế triệu tập, để chọn ngày cưới vợ cho nhà vua. Nhưng các thày cãi nhau ỏm tỏi cả ngày, đỏ mặt tía tai, mà vẫn không thống nhất được ngày nào được coi là tốt để cưới vợ cho vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa. Như vậy, với sự giới thiệu những luận cứ tiêu biểu, căn cứ vào tiêu chí khoa học , chúng tôi đã xác định rằng: Cội nguồn minh triết Đông phương không thể thuộc về văn minh Hán. Tiếp theo đây, chúng tôi xin giới thiệu một cách nghiêm túc những cách giải thích khác cho sự bí ẩn của nền văn minh Đông phương, nhằm làm sáng tỏ them tính bế tắc khi xác định sai lầm về cội nguồn văn minh Đông phương thuộc về văn minh Hán. Kính thưa quí vị. Cách giải thích thứ nhất, mà có lẽ các quí vị ít được nghe, cho rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là do người ngoài hành tinh có một nền văn minh vượt trội đã đem đến trái Đất. Vì kiến thức vượt trội của nền văn minh ngoài trái Đất, nên chúng ta không thể hiểu nổi!? Chúng tôi bác bỏ giả thuyết này, vì những giá trị của nó phục vụ cho con người và xuất phát từ những thực tại khách quan trên chính trái Đất này. Do đó nó không thể là của người ngoài hành tinh ban cho trái Đất này. Nhưng còn một giả thuyết nữa thì đã có từ lâu và có thể ít nhiều trong chúng ta được nghe nói tới. Đó là việc cho rằng: thuyết Âm Dương Ngũ hành do các bậc tiên thánh làm ra, nên người phàm không thể hiểu nổi. Một câu “thành ngữ” thuộc về “ chuyên ngành bói toán” tồn tại từ cách đây mới ngót nửa thế kỷ trờ về trước, mà những vị lớn tuổi đều biết, đó là: “Theo quẻ này thì Thánh dạy rằng:….”. Và Thánh ở đây được hiểu là những bậc siêu phàm từ cõi trên, không thuộc về cõi trần gian này. Tất nhiên đây không phải cách giải thích nhân danh khoa học. Nhưng nó gián tiếp phủ nhận nền tảng tri thức của nền văn minh Hán không phải là cơ sở tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ hành. Vì nó thuộc về trí tuệ của tiên thánh. Tất cả hai cách giải thích trên, cũng mặc nhiên xác định cội nguồn lý học Đông phương thuộc về văn minh Hán. Và nó đã phản ánh sự bế tắc, khi không thể khám phá được những bí ẩn của lý học Đông phương bằng một tư duy khoa học. Bởi vì bản chất của nền minh triết Đông phương không thuộc về văn minh Hán. Tiếp theo đây chúng tôi minh chứng sự xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trong phần III của bài tham luận này: III .THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH THUỘC VỀ VĂN HIẾN VIỆT Kính thưa quí vị. Khi xác định cội nguồn Lý học Đông phương không thuộc về văn minh Hán, chúng tôi đã xóa bỏ được sai lầm ngay từ dữ kiện đầu vào của việc đi tìm cội nguồn minh triết Đông phương. Từ đó, chúng tôi xác định với một giả thiết có cơ sở là nó thuộc về nền văn hiến Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử. Đây cũng chính là vấn đề mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra trong các trước tác của ông. Cũng trên cơ sở của giả thuyết này thì vấn đề hợp lý tiếp theo được đặt ra là: Những gì được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành có thể sai lệch và không phản ánh đúng nội dung nguyên thủy của nó – khi nền văn minh Việt đã sụp đổ ở miền nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Điều này đã phản ánh trên thực tế bằng những thất bại của những học giả nghiên cứu theo hướng này, không phải bây giờ, hoặc vài chục, vài trăm năm. Mà là đã hàng thiên niên kỷ. Kính thưa quí vị. Những tiêu chí khoa học được trình bày ở trên với những luận cứ phù hợp đã xác định rằng: Cơ sở nền minh triết Đông phương mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về nền văn minh Hán. Đồng thời những tiêu chí khoa học đó , cũng chính là những yếu tố cần để xác định những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương và tìm về cội nguồn minh triết Việt - một cách sòng phẳng, công bằng và nhân danh tính khách quan khoa học. Nhưng để chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, còn cần phải đối chiếu, so sánh với nhiều tiêu chí khoa học khác với những luận cứ khách quan có thể kiểm chứng. Cụ thể là: *Sử dụng những tiêu chí khoa học hiện đại gồm những yếu tố cần và đủ cho việc xác minh tính khoa học của một giả thuyết, một phương pháp, một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. *Những tiêu chí khoa học kết hợp với những thành tựu của tri thức khoa học hiện đại đã được kiểm chứng làm cơ sở so sánh, đối chiếu với những gía trị còn lại của nền minh triết Đông Phương . Đồng thời kết quả nghiên cứu phải phù hợp với tiêu chí khoa học. Việc chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, chúng tôi cũng bắt đầu so sánh với ba tiêu chí xác định một học thuyết thuộc sở hữu của nền văn minh nào, đã trình bày ở trên. Yếu tố thứ nhất (1). Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. Chúng tôi đã xác định rằng : Nền văn hiến Việt chính là cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Và đây chính là giả thiết mà chúng tôi đặt ra nhân danh khoa học, sau khi bác bỏ cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về văn minh Hán. Những tiêu chí khoa học xác định rằng: Một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách nhất quán, có tính hệ thống, tính hoàn chính, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Đây chính là cơ sở cho những luận cứ phù hợp với tiêu chí khoa học của một giả thuyết nhân danh khoa học, xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt tộc. Vấn đề lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt là một giả thuyết nhân danh khoa học. Do đó, chúng tôi phải chứng minh giả thuyết này phù hợp với tất cả những tiêu chí khoa học xác định một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, thông qua hai yếu tố còn lại của tiêu chí xác định cội nguồn văn minh cho một học thuyết đã trình bày ở trên. Yếu tố thứ hai (2): Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. Chứng minh được giả thuyết này là một việc cực kỳ khó khăn. Vì lịch sử thăng trầm với hơn một ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và 1000 năm hưng quốc sau đó với bao cuộc chiến tranh xâm lược hủy diệt văn hóa Việt, đã xóa nhòa những dấu ấn của nền văn minh Việt tộc. Nhưng chính bề dày của nền văn hiến có cội nguồn từ thời Hùng Vương dựng nước từ gần 5000 năm trước, đã để lại cho chúng ta những dấu ấn qua những di sản văn hóa phi vật thể - mà những dấu ấn đó chính là những phát hiện của giáo sư Lương Kim Định trong các tác phẩm của ông – đã được chúng tôi đã bổ sung, làm sáng tỏ hơn trong những luận cứ của mình. Ở đây chúng tôi cũng xin được lưu ý các quí vị quan tâm là: Vào tháng 5. 2002, cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã thống nhất xác định rằng: Những di sản văn hóa phi vật thể là những bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử. Như vậy, di vật khảo cổ, tư liệu văn bản cổ..vv… không phải là bằng chứng không thể thay thế chứng minh cho lịch sử. Kính thưa quý vị. Chúng tôi đã chứng minh một cách chi tiết nền tảng minh triết Việt là cơ sở phục hồi và phù hợp với sự hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành, trong các sách đã xuất bản với những tiểu luận được đăng tải trên website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu một di sản văn hóa phi vật thể quen thuộc với tất cả những con người Việt Nam, trong kho tàng di sản văn hóa Việt còn lại qua hơn 2000 năm thăng trầm của lịch sử Việt tộc. Xin quý vị xem bức tranh dân gian dưới đây: Kính thưa quí vị. Tôi tin chắc rằng bức tranh dân gian đầy chất dân dã này , quá quen thuộc với tất cả con người Việt Nam - Từ những đứa trẻ bắt đầu có nhận thức cho đến những vị cao niên. Tùy theo góc nhìn, chúng ta có thể hiểu nội dung bức tranh dưới nhiều góc độ. Nhưng chúng tôi xin lưu ý quí vị về biểu tượng chiếc vòng xoáy trên bụng con lợn mẹ trong tranh và so sánh với một biểu tượng gần giống cũng rất đỗi quen thuộc với chúng ta, là đồ hình dưới đây: Tất cả chúng ta đều biết rằng đồ hình trên chính là biểu tương cho sự minh triết Hán nho thể hiện trong Kinh Dịch và những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nó có mặt ở khắp nơi và mang dấu ấn của nền văn hóa Hán. Nó ăn theo sự bí ẩn huyền vĩ của minh triết Đông phương và trở thành vật thiêng để trấn yểm trước của nhiều ngôi nhà ngay ở Hanoi này. Tất nhiên nó là sản phẩm của văn hóa Hán, trong quá trình nghiên cứu minh triết Đông phương . Bản quyền phát minh ra đồ hình này là Chu Đôn Di vào đời Tống cách đây ngót 1000 năm. Nhưng như một sự mặc khải, cũng trong lời bài hát của nhạc phẩm nổi tiếng Hòn Vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương, chắc nhiều vị còn nhớ đoạn này: Từ bóng cây, gốc rạ ven đường. Từ mái tranh, góc đình trong làng. Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống…. Nhưng trong di sản văn hóa truyền thống Việt – nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống ấy lại tồn tại một đồ hình minh triết khác hẳn cho đồ hình Âm Dương có nguồn gốc Hán trên. Đó chính là Đồ hình Âm Dương Lạc Việt thể hiện một nền minh triết Việt khác hẳn minh triết Hán nho. Xin quý vị so sánh hai hình như sau: Rõ ràng chúng có một hình thức khác hẳn nhau , mặc dù bề ngoài có vẻ gần giống, như Trê với Nòng nọc vậy. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt, không phải chỉ duy nhất thề hiện ở bức tranh Đàn lợn nổi tiếng của làng tranh Đông Hồ. Mà chúng tôi còn thấy rải rác ở nhiều nơi đình chùa cổ và trên các di sản văn hóa khác trong kho tàng văn hóa truyền thống Việt. Dưới đây là những hình ảnh mô tả đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên các di sản mà chúng tôi sưu tầm được. Đồ hình Âm Dương Việt trong đền thờ Mẫu thân sinh ra Thánh Gióng tại Bắc Ninh Đồ hình Âm Dương Việt ở chùa Bạch Y Tuyết Sơn Bồ Tát - được xây dựng vào năm đầu tiên của thế kỷ XIX 1801, tại Xóm 8, xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc (Nghệ An). Đồ hình Âm Dương Việt trên chùa Vô Vi Tự. Chùa nằm ở phía Bắc núi Tử Trầm, thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Hình Âm Dương Lạc Việt ở chùa Bối Khê thuộc xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hanoi. Đồ hình âm - dương Lạc Việt trên cái giá đặt văn tế (Đền thờ tướng quân Lê Thành - một vị tướng thời Lê Lợi , Làng Định Hòa - Đông Cương - Thanh Hóa) Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên văn bia "Khiêm Cung Ký" trong lăng Vua Tự Đức. Kính thưa quí vị. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt không chỉ có trong di sản văn hóa Việt,mà còn ở những cộng đồng người Hoa có nguồn gốc Nam Dương tử, lãnh thổ của nước Văn Lang, cội nguồn nền minh triết đầy huyền vĩ của Việt tộc. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở Hội quán Phúc Kiến tại Hội An. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trong chùa cổ Trung Hoa trên đất Malaysia. Trên đây, chúng tôi chỉ xin giới thiệu những Đồ hình Âm Dương Lạc Việt tiêu biểu sưu tầm được trong di sản văn hóa truyền thống Việt và các vùng lãnh thổ quôc gia lân bang. Việc thể hiện những đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở đây – vốn không hề có mặt trong bất cứ bản văn chữ Hán nào tìm được tính đến ngày hôm nay ,liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch - để so sánh với Đồ hình Âm Dương Hán, chúng tôi muốn trình bày mấy vấn đề sau đây: * Đồ hình Âm Dương nói chung là hình tượng biểu kiến của Thuyết Âm Dương Ngũ hành, một học thuyết nền tảng của Lý học Đông phương. Như vậy, nền minh triết Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử, đã có một đồ hình biểu kiến riêng tồn tại trong di sản văn hiến Việt, bên cạnh đồ hình Âm Dương biểu kiến của văn minh Hán. Điều đó chứng tỏ rằng nền minh triết Việt đã quan niệm khác hẳn về nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành qua hình tượng biểu kiến về học thuyết này, qua đồ hình Âm Dương Lạc Việt. * Những di sản còn lại sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc, nhưng đủ để xác định bề dày của nền tảng minh triết Việt liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hệ thống luận cứ chứng minh nền tảng tri thức của Lý học Đông phương có cội nguồn minh triết Việt – mà đồ hình Âm Dương Lạc Việt là chỉ là một thí dụ - chúng tôi không thể trình bày một cách hoàn chỉnh trong bài tham luận này. Nên cũng xin trân trọng kính mới quý vị quan tâm quán xét trên website lyhocdongphuong.org.vn. * Lịch sử xuất hiện của Đồ hình Âm Dương Việt ở khắp các vùng lãnh thổ và trong nước Việt Nam hiện nay cho thấy một di sản văn hóa còn lại mang tính phổ biến ở Nam Dương tử và phải có trước đồ hình Âm Dương Hán - Vốn xuất hiện từ thời Tây Hán. * Trên cơ sở những di sản văn hóa truyền thống Việt mà chúng tôi phát hiện trong quá trình nghiên cứu văn hóa cổ và Lý học Đông phương , chúng tôi đã xác định và chứng tỏ rằng: Lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành phải thuộc về cội nguồn văn hiến Việt và chính những di sản còn lại, dù tan tác với thời gian hơn 2000 năm thăng trầm của Việt sử, cũng đủ phục hồi lại một cách có hệ thống, nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này trên cơ sở so sánh, đối chiếu những thành tựu của khoa học hiện đại và những tiêu chí khoa học. Đây chính là bằng chứng sắc sảo – nhân danh khoa học - xác định một cách chắc chắn - nền tảng tri thức Việt là chủ nhân đích thực của nền minh triết Đông phương. Bây giờ chúng ta quán xét đến yếu tố cuối cùng theo tiêu chí khoa học để tìm về những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Dông phương. Yếu tố thứ ba (3): Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Đây chính là vấn đề cực kỳ khó khăn. Sự bế tắc trải trên 2000 năm trong lịch sử khám phá những bí ẩn của Lý học Đông phương của tất cả các triết gia Đông phương từ cổ đại và cả trí tuệ của nền văn minh hiện đại , trong sự hội nhập của các nền văn minh đã chứng tỏ điều này. Bởi vậy, khi những di sản còn lại của nền văn minh Lạc Việt được xác định chính là nền tảng tri thức còn lại của Lý học Đông phương – mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành được xác định thuộc về nền văn hiến Việt - thì nó phải chứng tỏ là một học thuyết có tính hệ thống, tính nhất quán và tính hợp lý trong cấu trúc nội dung và khả năng phục hồi một cách hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống lý thuyết này. Nếu xác định đó là một học thuyết khoa học thì còn phải thỏa mãn những yếu tố về tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri….và còn rất nhiều những tiêu chí khoa học khác cho một học thuyết nhân danh khoa học, như: Khả năng phản biện, khả năng tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong việc giải thích các vấn đề liên quan đến nó…vv…. Kính thưa quí vị. Đến đây, tôi cần xác định một yếu tố rất quan trọng nữa, mang tính đặc thù trong việc tìm hiểu nghiên cứu thuyết Âm Dương Ngũ hành - vì đây là trường hợp chưa có tiền lệ trong sự phát triển của lịch sử văn minh nhân loại. Trên thực tế quá trình phát triển của lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được - thì - tất cả mọi học thuyết dù khoa học hay phi khoa học, duy vật hay duy tâm….vv…đều hình thành bắt đầu từ những nhận thức trực quan, được tổng hợp với tư duy trừu tượng và sau đó mới hình thành nên cấu trúc một học thuyết nào đó, để giải thích những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó. Đây là một quy luật. Do đó, bất cứ một học thuyết nào - kể các các học thuyết mang tính tôn giáo, thần quyền, hay khoa học – khi hình thành trong lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại, đều có thể kiểm chứng được và xác định tính chân lý của trên cơ sở nền tảng tri thức xã hội của nền văn minh tạo ra nó,hoặc thẩm định được tính chân lý trong lịch sử phát triển tiếp theo của nền văn minh liên quan đến nó.. Nhưng ở đây thì thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết đã có sẵn. Mặc dù sự hình thành học thuyết này cũng không nằm ngoài quy luật lịch sử và phát triển nội tai của nó . Và nếu như giả thuyết nó thuộc về nền văn minh Việt là đúng thì đấy lại là một nền văn minh đã sụp đổ bên bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Tất cả những nền tảng tri thức duy trì học thuyết này cũng bị vùi lấp trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó của Việt sử. Ở đây chúng tôi chưa nói đến nó còn có thể thuộc về một nền văn minh xa xôi hơn nữa, từ hàng vạn năm trước mà chúng tôi đã chứng minh sau này. Đây chính là tính đặc thù rất quan trong của việc nghiên cứu Lý học Đông phương. Chính vì vậy mà việc chứng minh cho nội dung của học thuyết này khó khăn hơn rất nhiều . Một khó khăn dễ nhận thấy là những khái niệm, biểu tượng, ký hiệu, tiên đề, nguyên lý…vv…thuộc về thuyết Âm Dương Ngũ hành , mà người xưa đúc kết từ những hiện tương khách quan và trên nền tảng tri thức của nền văn minh đã tạo ra nó nhận thức được và kiểm chứng được - thì - nó lại không thuộc về nền tảng tri thức của nền văn minh hiện đại. Nhưng những tiêu chí khoa học đòi hỏi: Sự phục hồi học thuyết này phải chứng tỏ được tính hợp lý trong toàn bộ cấu trúc thuộc hệ thống của nó một cách nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này. Nếu không chứng minh được điều này và vượt qua được sự cách biết giữa nền tảng tri thức của các nền văn minh , thì hệ quả vẫn là dẫn đến sự bế tắc. Cho dù chúng ta đã bắt đầu từ một giả thuyết có cơ sở và đáng tin cậy là cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt, sau khí đã chứng minh tính mâu thuẫn trong nội dung và lịch sử cội nguồn của học thuyết không thuộc về văn minh Hán. Một yếu tố cần quan tâm và là hệ quả của tính chất đặc thù trong việc khám phá bí ẩn của nền Lý học Đông phương – chính là nó không đơn giản chỉ là tính thất truyền và những mảng còn lại đều chính xác là những thành tựu của nó - thì - người ta đã phục hồi được lý thuyết này từ lâu rồi. Nhưng ở đây đã hơn 2000 năm trôi qua trong lịch sử văn minh nhân loại, để cho đến tận ngày hôm nay những gía trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương vẫn sừng sững thách đố trí tuệ của văn minh nhân loại. Như vậy, cần phải xác định rằng đã có những sai lệch cần phải hiệu chỉnh trong những giá trị còn lại của Lý học Đông phương - thể hiện trong những bản văn chữ Hán – khi xác định rằng: Nền văn minh Hán không phải là cội nguồn đích thức của Lý học Đông phương. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết và phương pháp khoa học, chúng tôi đã chứng minh rằng chính những di sản văn hóa truyền thống Việt – là nền tảng tri thức Việt qua những di sản văn hóa truyền thống còn sót lại - là những yếu tố quan trọng góp phần hiệu chỉnh nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành có tính hệ thống, tính nhất quán và sự hợp lý lý thuyết trên toàn bộ những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Những cơ sở của những luận điểm có tính hệ thống chứng minh cho vấn đề này, chúng tôi không thể chuyển tại trong nội dung một bài tham luận ngắn và có tính giới hạn về thời gian. Một lần nữa chúng tôi trân trọng mời các quí vị quan tâm tham khảo website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng ở đây tôi có thể minh họa qua một thành tựu của chúng tôi. Kính thưa quí vị. Cuộc Hội thảo “ Tính khoa học trong Phong thủy” do TTNC LHDP tổ chức thành công tại Hanoi vào ngày 15. 12 . 2009, trước khoảng 400 đại biểu với sự tham dự của nhiều nhà khoa học tên tuổi thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau. Đây chính là một thành tựu xác định tính đúng đắn và khoa học của việc chứng minh cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về lịch sử văn hiến Việt. Những mảnh vụn còn sót lại thể hiện trong các phương pháp ứng dụng của ngành Phong thủy - được miêu tả trong các bản văn chữ Hán như là những trường phái và mâu thuẫn với nhau – đã được chúng tôi đã hệ thống hóa và chứng minh tính nhất quán và khả năng lý giải một cách hợp lý mọi vấn đề liên quan đến nó của ngành phong thủy học thuộc về văn minh Việt và xác định nó hoàn toàn phù hợp với những tiêu chí khoa học hiện đại. Chính sự phù hợp với tiêu chí khoa học của Phong Thủy Lạc Việt xác định tính khoa học của ngành Phong thủy có cội nguồn từ văn minh Việt. Tuân thủ theo những tiêu chí khoa học cho việc thẩm định một lý thuyết, hoặc một giả thuyết, một phương pháp, một ý tưởng khoa học được coi là đúng – chúng tôi đã chứng minh và xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một hệ thống lý thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh và những ứng dụng của nó – miêu tả từ sự hình thành vũ trụ, từ những cấu trúc vật chất không khối lượng cho đến những thiên hà khổng lồ, những quy luật tương tác hoàn toàn khách quan trong sự vận động của vũ trụ ảnh hưởng đến thiên nhiên, cuộc sống và con người. Không chỉ dừng lại ở ngành phong thủy học, chúng tôi cũng xác định rằng Thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về cội nguồn văn hiến Việt là một học thuyết khoa học, hoàn chỉnh và thỏa mãn đầy đủ những tiêu chí khoa học cho một học thuyết nhân danh khoa học. Tiến xa hơn nữa và cũng chứng tỏ sự phát triển tất yếu từ một giả thuyết ban đầu đúng đăn – Cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến – chúng tôi đã xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà những nhà khoa học đang mơ ước. Ra ngoài khoa học một chút - thì - thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nền văn minh trong tương lai của nhân loại, mà bà Vanga đã tiên đoán. Kính thưa quí vị. Đây chính là cái “ao ta” hơn hẳn “ao người”;, đây cũng chính là ”cơm vàng , cơm bạc” từ ngày xửa, ngày xưa mà tổ tiên đã để giành cho những hậu duệ của nền văn minh Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử. Những gía trị huyền vĩ của nền văn minh đó đã bắt đầu tỏa sáng sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong cuộc bể dâu của lịch sử. Và chính sự phát triển theo những quy luật của tự nhiên, sự tiến bộ của tri thức khoa học hiện đại với sự xuất hiện của những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và đó cũng là sự tiến hóa của tự nhiên, để nền văn minh Khoa Đẩu, những con nòng nọc trở về với Mẹ Cóc , trở về với cội nguồn. Kính thưa quí vị Những thành tựu của chúng tôi có được ngày hôm nay. Chính là bắt đầu từ những sự nghiệp của các bậc tiến bối, đã đặt những viên gạch nền tảng cho công cuộc trở về cội nguồn vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt. Bởi vậy, trước khi kết thúc bản tham luận này, chúng tôi xin được một lần nữa kính cẩn nghiêng mình bày tỏ lòng ngưỡng mộ với những bậc tiên liệt của dân tộc Việt đã dày công tạo dựng nên một nền văn hiến sử huyền vĩ, trải gần 5000 năm và là cội nguồn của Lý học Đông phương. Chúng tôi kính cẩn bày tỏ sự ngưỡng vọng trước công lao của giáo sư Lương Kim Định với những đóng góp của ông cho công cuộc tìm về cội nguồn Việt sử. Chúng tôi cũng bày tỏ sự cảm ơn với ban tổ chức và các quí vị có mặt ngày hôm nay, đã quan tâm đến công trình nghiên cứu của TTNC LHDP. Xin trân trọng kính chào quí vị. T/p HCM. 12. 7. 2012
    2 likes
  3. Trước tiên xin kính chào các quý ông quý bà cùng toàn thể quý cô chiêu và quý cậu ấm. Hiện nay, mục Tử vi luận giải này rất đông khách, đại bộ phận khách khứa là quý cậu ấm và quý cô chiêu, mới 19 đôi mươi nên còn nhiều sự đời chưa hiểu, thiết tưởng mình đỗ đại học đã là nhớn, biết Hun đã là khôn nhưng khi lạc vào thế giới tiên đoán thì đúng là một kiến thức mới. Hiện nay, theo như tôi quan sát, hầu hết các anh chị, cô bác luận giải ở diễn đàn đều dùng từ ngữ tân thời, rất ít từ ngữ cổ hoặc cũ. Nhưng xem ra nhiều người Trẻ không hiểu và nhiều người xấu số (lá số không đẹp như ý) hay hỏi đi hỏi lại, người này trả lời không ưng thì tưng tưng chạy qua hỏi người khác. Giá mà khi đi học mà chăm chỉ chịu khó như thế thì tốt cho nước nhà quá. Vì vậy tôi xin mạn phép mở ra mục này để các cô bác, anh chị luận giải lá số đóng góp các kiến giải vào đây để các quý ông bà, quý cô ấm cậu chiêu đọc hiểu một vài vấn đề cơ bản. Với các quý vị nhờ bình giải lá số thì chỉ nên đọc hiểu chứ đừng View như người Anh. Bởi quý vị viết vài dòng cảm xúc vào đây thì sẽ có nhiều điều không cần thiết. Nếu thấy nhất thiết phải viết thì nên đọc kỹ trước khi đặt tay gõ phím hỏi về vấn đề mình chưa hiểu. Rào trước, Chắn sau như vậy thiết nghĩ cũng đã cạn lẽ. Xin phép quý vị cho tôi vào thẳng vấn đề cần vào như sau: 1/ Không còn là trinh nữ trước khi động phòng hoa trúc: Việc này không nhất thiết cứ phải là quan hệ với người ngoài rồi mới lấy chồng. Hoàn toàn có thể quan hệ với người chồng trước khi cưới và đăng ký kết hôn. 2/ Phải lập gia đình muộn mới tránh được hình khắc chia ly: Muộn là từ tầm 30 tuổi trở đi, Sớm là từ 24 tuổi trở về trước, Trung bình là tự hiểu. 3/ Giải pháp để tránh hình khắc ly dị: muộn lập gia đình, làm lẽ, cưới hỏi dở dang người này rồi lấy người khác, cưới đi và cưới lại 4/ Cưới đi và cưới lại: Là việc hi hữu, ví như vì ở xa nhau nên phải tổ chức cưới ở 2 nơi, bái gia tiên 2 lần, hoặc cưới chui trước khi cưới thật, tức là ra phường làm đăng ký kết hôn hoặc lấy được giấy đăng ký kết hôn rồi về nhà làm lễ bái gia tiên ở 1 trong 2 họ, Hiện nay thiên hạ rất chuộng cái vụ cưới đi rồi cô dâu lẳng lặng bỏ về nhà đẻ, sau đó chú rể mới lóc cóc đi đón dâu về lần nữa. Để gọi là qua 2 lần đò đểu. Vì là đò đểu nên chẳng có gì đảm bảo cái sự giả dối cố ý được biện hộ là chữa mẹo với chẳng méo này có tác dụng gì cả. Chồng 5 thê 7 thiếp vẫn cứ diễn ra, vợ thì có cả bộ sưu tập người tình thì vẫn chẳng tránh khỏi. Thế thì chọn giờ lành tháng tốt làm gì hay tại thầy bói dốt? 5/ Kim lâu đối với nữ nên không được lấy chồng: 1 lần ân ái cũng nên vợ chồng, nếu nói dại chỉ 1 lần nghịch dại mà có thai, vậy lúc nghịch dại ấy ai xem ngày xem giờ cho? Yêu thì Cưới, đó là nét văn hóa của dân tộc Việt, "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên?", "Ngày xưa ai cấm duyên bà, mà nay bà già bà cấm duyên tôi?", "Hùng Vương kén rể thời nay: Xe bốn bánh, Cánh 2 bên, Lên thang máy (nhà biệt thự cao hơn 5 tầng phải đi thang máy chứ ko phải loại trung cư vớ vỉn) Như vậy Kim lâu hay không, không quan trọng trong việc cưới chồng, bởi nếu quan trọng thế thì sao lúc đẻ con ko tính chuyện kim lâu, chồng thì chỉ sống được vài chục năm cùng mình (lâu hơn cha mẹ mình) nhưng thường thì chồng không sống lâu hơn con mình (Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con cái). Vậy rõ ràng cái chuyện trăm năm kia là sống với con, con cái lo ma chay - hiếu hỉ cho cha mẹ, quan trọng thế sao không Kiêng? hay sướng quá nên quên mất việc kiêng cữ? 6/ Cải số: Quả có vài trường hợp lá số phán Tử vong, đương số quả nhiên có nhìn thấy Quỷ Môn Quan. Nhưng được cứu giải. Nên không phải xuống mười mấy tầng địa ngục an dưỡng. Đó là những trường hợp hi hữu và không phải tất cả những người có cùng ngày, cùng tháng, cùng năm đó đều được cứu giải như thế. Mình không chết thì người khác chết, số trời đã định ngày hôm đó Tử thần với lưỡi hái Đầu lâu phải gom đủ 3000 đầu lâu vào cái túi đen ngòm, nếu không đủ thì bị phạt, không nhẽ cái lão Sư cọ mốc với lưỡi hái dài ngoằng đó nhận hối lộ của quý vị để giết người khác thế thân cho quý vị hoài? Rõ là không rồi. Như vậy việc cải số cũng giống như việc thi Hoa hậu thế giới vậy, cả năm chỉ có 1 người đăng quang ngôi vị cao nhất mà thôi. Chứ cải được số thì sao không làm cho lá số đẹp cả 12 cung số luôn đi, chỉ cải mỗi cái cung Phu Thê hay Tử tức xấu hoắc để làm gì? vậy cung này tốt lên thì cung nào sẽ xấu đi đây? Tử vi không phải là cái để mọi người xoay chuyển càn khôn mà chỉ để con người nhìn vào đó để chuẩn bị tâm lý cũng như cách ứng xử sao cho tốt nhất trong hoàn cảnh đó mà thôi. Nhưng không có nghĩa là khoanh tay chịu trói, Tức biết được tháng này mình bị mất tiền có thể do bị cướp hoặc bị vay đểu. Thì mình phải tự đưa ra đối xách là cướp thì phải truy hô, vay đểu thì chỉ cho vay ít thôi. 7/ Giầu có đừng vội mừng, nghèo khó đừng vội lo: Biết số mình nghèo, bon chen cũng chẳng lợi gì thì đừng lấy đó làm buồn, mà hãy nghĩ đến việc mình sống có hạnh phúc không, người ta giầu có mà con cái ăn tàn phá hại thì có hạnh phúc không? kiếm tiền nhiều để vợ chồng nem chả mà vẫn chung giường, con cái hút sách mà vẫn đi du học thì khi về già có sướng không? Giầu mà không sang chẳng bằng nghèo khó mà đứng đắn. Sống ở trên đời, cần có 1 cái tâm cùng với cái tầm chứ không phải tiền bạc và địa vị. 8/ Tuổi còn trẻ quá (dưới 25) thì không nên tìm hiểu quá sâu về tương lai xa: Tầm tuổi này chỉ nên biết tương lai gần trong 5 năm tới chứ đừng tham lam mà hỏi thông cả đến lúc vào hòm. Cuộc đời này chỉ có 18% là những điều tuyệt vời, với 2% may mắn, còn lại có đến 80% những điều không may. Vì thế hầu hết xem số nói về điềm gở nhiều và dễ hơn điềm lành. Nhưng với số lượng điềm lành nhỏ bé ấy lại làm lên cả 1 kỳ tích về cuộc sống con người. Vì vậy, hãy nhìn gần để dễ làm, đừng nhìn xa quá mà thêm mệt mỏi. 9/ Tỷ phú tại Thiên, Triệu phú nhờ tích góp, đổi giờ sinh để làm gì?: Giầu không phô, nghèo không xấu hổ. Nếu đã biết số mình nghèo thì cố mà tích góp, để một mai mưa gió đau ốm còn có cái dùng, chứ nợ nần là tự mình bán danh dự của mình đi rồi. Bởi nhỡ một mai chết đi, gánh nợ đó đổ lên đầu ai nếu ko phải là người thân ruột thịt trong nhà? Vì vậy dù giầu hay nghèo thì cũng nên khiếm tốn. Đừng xừng sực đổi giờ sinh, ngày sinh. Nếu đã không biết thì cần làm rõ trước, khi đăng tin lên cần kiểm tra lại kẻo đến lúc người giải đã luận giải cả tràng rất dài rồi mà cuối cùng là sai giờ sinh. Nếu quý vị đi xem mất phí, sẽ có bao nhiêu người nhìn quý vị? người ta đang xếp hàng chờ đến lượt mà lại bị 1 kẻ lãng nhách xếp trước. Như thế là không lịch sự. Đổi giờ sinh, chắc gì đã có lá số tốt hơn 10/ Vợ chồng có ngày xa cách: Xa cách không có nghĩa là ly dị, nhưng lại có ý nghĩa là chia ly tạm thời. vì dận nhau hoặc vì công tác, không thể luận giải chính xác được là vì sao. 11/ Bị làm sao đó: Làm sao là làm sao thì có nhiều trường hợp, nhưng tựu chung là muốn biết nguyên nhân và kết quả, Tử vi không thể chỉ rõ được vấn đề, ví như đụng xe hay đâm xe? đụng thì chỉ là va quệt nhẹ, còn đâm xe thì nặng rồi. Nhưng ai đâm ai và xe đâm là xe gì thì chịu nhé, chỉ có Chúa mới biết nó là cái gì và như thế nào. Khoa học cũng như Tử vi không bao giờ trả lời Tại sao mà chỉ giải thích như thế nào. Đừng hỏi tại sao con người lại sinh ra trên trái đất này mà không phải là ở 1 Ngôi sao cô đơn nào đó trong vũ trụ. Không ai và không bao giờ bạn có câu trả lời. 12/ Sao này và sao kia: Nếu quý vị chưa thông tường hoặc chưa thuộc được ý nghĩa cũng như sự phối kết hợp giữa các sao thì không nên đưa ra những câu hỏi về các vì tinh tú này để tránh chuyện tranh cãi nhiều hơn là trao đổi học thuật. Người luận giải thực sự không có hứng thú đàm đạo với quý vị về vấn đề này (hầu hết là thế) 13/ Học giỏi không đồng nghĩa với giầu có và ngược lại: Cuộc đời là thế đó, quý vị có 1 quá khứ học hành siêu việt, nhưng chẳng có gì đảm bảo là quý vị có 1 tương lai sáng về tiền bạc cả. Tiền và Tài không phải lúc nào cũng song hành với nhau Ngày hôm nay có thu nhập cao thì đừng vội mừng, bao giờ nghỉ hưu ở tuổi 60 thì hãy phán xét việc bói toán là trò nhảm nhí. 14/ Giầu nứt đố đổ vách mà không bền: Ai cũng có 1 thời kỳ 10 năm phát đạt, nhưng không phải cả 10 năm đều phát mà có năm được năm hòa. Nhưng tổng kết là tốt và rất tốt. Cái ngưỡng 10 năm tốt đó nó thể hiện ở con số dưới đáy và ở giữa mỗi cung số. Quý vị có thể xác định được cho mình ở khoảng tuổi nào, ví như Mệnh là số 3 và khoảng thời gian tốt nhất cho mọi vấn đề của cuộc sống có thể là từ 23 đến 32 tuổi bởi cung kế tiếp là cung 33, nếu vận hạn tốt ở cung 43 thì thời kỳ tốt đẹp đó là từ 43 đến 52 tuổi. v.v... Đời người thường chi có 1 thời ký 10 năm này thôi, thường thì chỉ có một vài trường hợp đắc cách mới có 2 vận tốt, có thể là ở cung 33 và cung 53 tuổi, tức cung 43 tuổi ko tốt hoặc hơi xấu so với bình thường. 15/ Mất điện thoại có tìm lại được không? hay các câu hỏi đại loại như thế: Vậy mất người yêu có lấy lại được không? đâu cần bói toán gì cũng đoán được mà. Rất ít trường hợp Tử vi có thể đoán được, nên đi tìm các phương pháp tiên đoán khác thì hơn. Mong các quý vị giải số tiếp phím
    1 like
  4. không, lá số đẹp, ko phải nghĩ ngợi gì nhiều, bạn mạnh mẽ thế kia, cuộc sống có một chút vất vả thì có gì mà sợ chồng tốt, giỏi giang, sống đạo đức, có quốc ấn mà lo gì, quan lộc bị triệt nên công danh ko làm to được, nhưng ko sao, lá số của bạn còn đẹp hơn khối người, lấy chồng xong sướng như tiên, chí ít đẹp hơn lá số mình, ko phải lo nghĩ gì đâu bạn bè của bạn ko tốt, hay nói xấu bạn, nói chung chơi với bạn hay ko chơi với bạn đâu có quan trọng gì, bạn bè có gì đâu, bạn ko chơi với chúng nó còn là hay ý, chơi với nhau xong khéo còn đưa nhau ra tòa tranh chấp, bạn hãy gặp nhiều chuyện buồn bực về bạn bè bạn đừng có nói như thế, tôi còn cảm thấy bản thân tôi còn chán hơn bạn nhiều, nhiều lúc tôi cũng muốn chết đi, nhưng nghĩ là nếu chết đi, kiếp sau lại đâu thai khổ hơn nên ráng sống, mà chí ít tôi cũng muốn sống kiếp này xem mặt thằng chồng của tôi thế nào rồi chết cũng chưa muộn, cuộc đời của tôi mà đôi lúc của tôi cảm giác như mình đã trải qua đủ thăng trầm,nhiều lúc tháy đáng lẽ ra tôi phải được nhiều hơn đã mất, đằng này mất nhiều hơn được cả đời bạn và ngay cả bây giờ bạn luôn lo lắng cho con cái, nhưng ko phải lo đâu, con cái bạn mai sau tốt, bạn cứ bỏ cái tính lo ít đi thì cuộc đời bạn sẽ sướng thôi
    1 like
  5. Tiếc quá đi thôi ! lâu quá mới có được người mời bác uống cà phê ,mà không uống được vì bác ở tỉnh xa huyện xả nhỏ tiền tàu xe mà đáp lên thành phố uống được ly cà phê của cháu so ra còn tốn kém nhiều hơn .Đừng vội lập gia đình nhé ! sau nầy vớ được anh chồng cũng khá điễn trai học kém hơn cháu , nhưng kiến thức anh ấy thì nhiều ,lão thông chuyện đời tứ đỗ tường môn nào cũng biết cả . Công danh ; đường quan lộ không được hanh thông ,chức vị nhỏ nhoi , sự nghiệp thăng trầm vô độ ,chắc không thể giàu có lớn được lại hay thay lên đổi xuống ít khi nào làm nơi nào lâu bền , nhà cửa gia sản bình thường phải về hậu vận mới có nhà cửa nơi ăn chốn ở chắc chắn ,không thừa hưởng của tổ nghiệp hay của phụ ấm để lại .
    1 like
  6. 1 like
  7. Đây có là một phần tài liệu tìm được ở Trung Tâm, phần tài liệu này được Sư Phụ Thiên Sứ tìm được trong một dịp tình cờ, nay đánh máy lại phổ biến lên cho các bậc học giả, nghiên cứu và cho ý kiến, nếu có bậc học giả nào có được bản hoàn chỉnh và muốn công bố cho mọi người biết xin liên hệ với TT NC Lý Học Đông Phương. -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- THUYẾT MINH 1.CHỮ KHOA-ĐẨU TỪ THỜI HỒNG-BÀNG: Kể từ đời Hồng-Bàng (-2879 trước Công-nguyên), đã có chữ khoa-đẩu. Sách Kim Cổ Kì Quan có kể chuyện rằng vào thời vua Đường Minh-Hoàng (713-756) có man-sứ dâng sớ bằng chữ khoa-đẩu, thứ chữ này có hình dạng như con nòng-nọc ( khoa đẩu=con nòng-nọc). Bấy giờ, trăm quan đại-thần không ai đọc được, chỉ có Lí Bạch là đọc được tờ sớ của man-sứ, bởi vì mẹ Lí Bạch là người Tây-vực (bấy giờ thường được gọi là man-bà). Từ năm 1599 ( Lê Thế-Tông),Quang-Hưng (năm 22), Trịnh Tùng thế-tập tước vương, lấy tước là An-Bình Vương.Tùng bí mật dùng riêng chữ khoa-đẩu để chép gia-phả và các tài-liệu giữ kín trong nội-phủ. Từ khi Trịnh Sâm và Trịnh Cán mất năm 1782, Trịnh Khải tự sát 1786, Trịnh Bồng bỏ chạy trốn mất biệt, không còn tung-tích gì nữa, thì coi như nhà Trịnh mất hẳn. Hiện nay, có người họ Trịnh còn giữ lại được gia-phả của Trịnh-phủ, mà lại nói rằng gốc từ bà Chúa Chè. Như vậy có thể là hậu-duệ của Trịnh Bồng còn giữ được gia-phả họ Trịnh, bởi vì Trịnh Sâm ắt phải dặn Tuyên-Phi (Đặng Thị Huệ) nhận Bồng làm con nuôi, đề phòng trường-hợp Cán không sống lâu. Do đó hậu-duệ của Trịnh-Bồng ắt phải thờ bà Chúa Chè coi như tổ-mẫu. Chữ khoa-đẩu phát-xuất từ thời Hồng-Bàng,trước cả đời Nghiêu Thuấn và chữ khoa-đẩu Trịnh-gia đều thuộc loại chữ phiên-âm và đều có đuôi nòng-nọc như nhau, mà chúng tôi sẽ mặc-ước gọi là: CHỮ KHOA-ĐẨU HỒNG-BÀNG (kí-hiệuKD-HB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ KD-HBlà: 2.CHỮ NÔM TỪ THỜI LÝ-TRẦN: Chữ nôm là một thứ chữ quốc-ngữ, gồm có một số hán-tự đọc theo quốc- âm và một số chữ biến-chế từ chữ Hán để đọc các thổ-âm. Thí-dụ: Câu “Phong-Trần mài một lưỡi gươm Những phường giá áo túi cơm sá gì”. Viếttheo chữ nôm như sau đây: ___ ___ mài ___ lưỡi gươm Những ___ ___ áo túi cơm sá gì Trong câu đó, các chữ không phiên-âm là chữ Hán, các chữ có phiên-âm là chữ nôm. Muốn sử-dụng được chữ nôm thì cũng phải tinh-thông chữ Hán. Từ thế kỉ 12, chúng ta đã biết dùng chữ nôm, sau đây là những niên-kỉ sớm nhứt: Năm 1209, niên-hiệu thứ 5 đời vua Lý Cao-Tông dựng bia Báo-ân khắc bằng chữ nôm (Yên Lãng, Vĩnh Phú). Năm 1282, niên-hiệu Thiệu-bảo thứ 4,đời vua Trần Nhân-Tông, Hàn Thuyên làm văn-tế đuổi cá sấu. Sử chép: Hàn Thuyên có tài làm thơ phú quốc-ngữ, trong Phi-sa tập có nhiều thơ quốc-âm vân vân . .. Chữ nôm cùng với chữ Hán suy-tàn dần dần từ khi bãi-bỏ khoa-cử bằng chữ Hán, tức là sau khóa thi hội cuối cùng ( Kỉ Mùi 1919). 3.CHỮ ĐẮC LỘ VÀ VẦN ĐẮC LỘ: Khi giáo-sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đến Hội-An vào tháng 12 năm 1624 thì kể từ 1625 một thứ chữ quốc-ngữ mới xuất hiện, dần dần hình-thành do việc truyền-giáo. Chữ quốc-ngữ này được xây-dựng từ những phần-tử của bốn thứ chữ Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào. Chúng ta sẽ mặc-ước gọi thứ chữ ấy là: CHỮ ĐẮC LỘ (ký hiệu DR) Đồng thời, giáo-sĩ Đắc Lộ cũng dùng một cách ráp vần riêng mà chúng ta sẽ là: CÁCH RÁP VẦN ĐẮC LỘ (kí-hiệu RV-DR) Chữ Đắc Lộ tuy được khai-sáng từ năm1625, nhưng thực ra chỉ được thịnh-hành từ năm 1921 (Tân Dậu) bởi vì năm Khải-Định thứ 6, mới bắt đầu qui-định chương-trình mới cho Quốc-tử-giám bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ quốc-ngữ và chữ Pháp. 4.BẰNG-CÔNG DỰ-TRÙ ĐẶT RA CHỮ MỚI: Năm Bính-Ngọ (1786), vua Lê Hiển-Tông (niên hiệu Cảnh-Hưng 47) mời Hữu Chỉnh ra Thăng-Long để giúp vua Lê. Bấy giờ chúa Trịnh đã dùng chữ khoa-đẩu trong vương-phủ từ hai thế-kỷ trước (-187 năm từ năm Trịnh Tùng đượcban tước An-Bình Vương). Bằng-công bèn luận về chữ khoa-đẩu:Chữ khoa-đẩu vốn là chữ của nước ta từ thời Hồng-Bàng. Vần khoa-đẩu vốn rất hợp-lí và thích-hợp với truyền thống ngàn xưa. Tuy-nhiên biểu tượng chữ khoa-đẩu không được toàn- thiện, hình khoa-đẩu là hình con nòng-nọc cụp đuôi xuống là biểu-tượng hèn-hạ cam phận cố-thủ trong một nước nhược-tiểu. Bởi thế chữ khoa-đẩu không thể dùng làm thư-pháp cho một bậc bá-vương. Vậy ta truyền cho các bồi-thần và con cháu đời sau chớ nên dùng chữ khoa-đẩu để tránh vết xe cũ đưa tới nô-lệ và diệt-vong. Vào thời đó (cuối đời Cảnh-Hưng) thì chữ Đắc Lộ đã được biết trên 160 năm từ đời Lê Thần-Tông (niên-hiệu Vĩnh-Tộ thứ7). Bằng-công bèn luận về chữ Đắc-Lộ:Chữ Đắc Lộ là những chữ cũ sẵn có, lấy từ các nước văn-hóa suy tàn (Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào . . . ). Giáo-sĩ Đắc Lộ chưa từng thiết-trí các chữ ấy bao giờ. Thêm nữa, chữ Đắc Lộ có những khiếm khuyết quá nhiều và vần mà giáo-sĩ đà dùng nhiều khi không được hợp-lí, và không phù-hợp với vần truyền-thống tự ngàn xưa. Bởi thế, chữ Đắc-Lộ cũng không thể dùng cho một sự-nghiệp lâu dài. Vậy ta truyền cho các bồi-thân và con cháu đời sau không nên dùng chữ Đắc Lộ, để tránh vết xe củ đưa tới suy-vong. Bằng-công bèn luận giềng mối cho thứ chữ ngày sau: Muốn thiết-trí một thứ chữ mới dùng để làm cơ sở cho một quốc-gia giàu mạnh thì trước hết bộ chữ phải có biểu-tượng cát-tường, âm dương ngũ-hành phải đầy đủ, không được khuyết-phạp, hình-thế thăng-bằng và hòa-hợp,đường nét cương-kiện và súc-tích. Hành kim, càng mạnh và càng nhiều thì nước càng giàu, nhưng đừng để cho các đường nét cắt phá nhau. Hành mộc càng sung-túc phồn-vinh thì nhân-lực càng mạnh ,việckiến-thiết càng dễ-dàng. Hành thủy đừng cho phân-tán, mà cần qui-tụ và được chế-ngự thì việc kinh-doanh càng phát-triển. Hành hỏa càng mạnh thì học-thuật càng rộng, văn-minh càng cao. Hành thổ càng vượng thì lòng người càng trung-hậu và tín-thực, biết giữ-gìn căn-bản. Nếu nhà Lê còn cơ-hội hưng-phấn thì ta nhất định đặt ra chữ mới để tương-lai nước nhà được vinh-quang sán-lạn,không còn lệ-thuộc các nước lớn, ắt gần đây bước lên hang bá-chủ. 5.CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG: Bởi vì chữ khoa-đẩu Hồng-Bàng, còn được gọi là hoành-đẩu, xem không được đẹp lắm nên Bằng-công đặt ra thứ chữ phi-đẩu, viết từ dưới lên trên, đơn-giản hơn và đẹp hơn, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệu PD-CB) Thí-du, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ PD-CB tức là cột đứng ở bên mặt trên đây. 6.VẦN CÔN-BẰNG: Trong chữ phi-đẩu Côn-Bằng, Bằng-công đã dùng một phép ráp vần khác hẳn cách ráp vần của Đắc Lộ, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là: CÁCH RÁP VẦN CÔN-BẰNG (Kí hiệu RV-CB) Thí dụ, danh-từ sau đây: ráp vần theo Đắc-Lộ là: LƯỠI GƯƠM ráp vần theo Côn-Bằng là: LƯAI GƯAM 7.HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG: Tiên-sinh Nguyễn Hữu Lâm vốn là hậu-duệ xa của tiên-tổ Bằng-công nên hiểu rành chữ phi-đẩu Côn-Bằng và quen dùng cách ráp vần Côn-Bằng. Đến năm Kỉ Mùi (1919), tiên-sinh vào được tam trường, nhưng lại không ra làm quan, bèn bỏ Hán-học, đổi qua học chữ quốc-ngữ Đắc Lộ và chữ Pháp. Bởi vì từng chịu ảnh-hưởng Hán-học và lí-học á-đông nên tiên-sinh chú-ý chữ nghiên-cứu lại vấn-đề hình-thành của chữ Đắc Lộ. Về mặt lí-thuyết thì tiên-sinh không thừa-nhận cách ráp vần của Đắc Lộ là hoàn toàn hợp-lí, mà cũng không thừa-nhận phần lớn các chữ Đắc Lộ đã mang quá nhiều khiếm- khuyết. Do đó tiên-sinh đã dùng lí-học, và nói rõ hơn đã dùng Chu-dịch, Thái-huyền và chỉ-số Lưu-Cơ để thiết-trí một chữ quốc-ngữ mới mà tiên-sinh gọi là CHỮ HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệuHD-CB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết chữ Hoành-đẩu Côn-Bằng như sau: 8.HỌC-THUYẾT BIỂU-TƯỢNG (PHENOMENOLOGY) CỦA HUSSERL: Từ khi tiếp-thu những khái-niệm sơ-đẳng về hoc-thuyết biểu-tượng (phenomenology) của triết-gia Đức Edmond Husserl (1859-1938), chúng tôi càng tin-tưởng vào chủ-trương của tiên-sinh Hữu Lâm cho rằng biểu-tượng, hơn là bản-chất, đã chi-phối mọi thành-bại trên đời. Nói rõ hơn, ngũ-quan và trực-giác có thể giúp chúng ta tiên-liệu được tương-lai. Nhiều khi sự-viêc thực là mỉa-mai và chua-chát khi phải thừa-nhận rằngchỉ cần ngửi một chương-trình hay kế-hoạch, cũng đủ biết kết-cuộc sẽ ra sao! Bây giờ nếu chúng ta hạn-chế vấn-đề mà chỉ xét riêng chữ quốc-ngữ thì những chữ cái đang sử-dụng cho tên họ một cá-nhân, bảng hiệu một cửa hàng, thương-hiệu một công-ty, quốc-danh của một nước, v.v… có thể giúp chúng ta dự-kiến về tương-lai của cá-nhân hay tập-thể liên-hệ. Có gì đau-đớn cho bằng khi chúng ta thấy tên họ hay bảng hiệu của một người thân mà lại phạm vào một chữ cái có khuyết-điểm lớn lao, cho nên hậu-vận của người ấy không thể thăng-tấn thêm mãi. 9.LÍ-DO TẠI VÌ SAO NGƯỜI VIẾT BÀI THUYẾT-MINH NÀY KHÔNG NÓI RÕ HẾT NGỌN-NGÀNH GỐC RỄ: Khi Bằng-công luận về chữ Đắc Lộ (đã được sử-dụng 160 năm về trước) ngài không nói rõ là những chữ nào có những khuyết-điểm nào, đó là vì ngài cảm thấy bất-tiện không nói ra được, sợ rằng xúc-phạm tới cá-nhân nào đó hay tập-thể nào đó. Đằng khác, khi luận về ngũ-hành, Bằng-công không nói rõ là chữ nào thuộc về hành nào, đó là vì ngài không dám bộc-lộ tất cả chân-lí, nếu bộc-lộ hết như thế tức là “vạch áo cho người xem lưng”. Ngài chỉ luận khái-quát về ngũ-hành để cho người dựng nước ngày sau biết cách thiết-trí chữ mới. Bây giờ khi xét những tiếng đồng-âm giữa chữ Côn-Bằng và chữ Đắc-Lộ, thì tiên-sinh N.H. Lâm có những khuynh hướng như sau: - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phân-tán bằng một chữ Côn-Bằng có tánh qui tụ; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh luân-lưu vô-định bằng một chữ Côn-Bằng có tánh trung-kiên, bền-vững; - Thay một chữ Đắc Lộ có ngũ hành vô-ích bằng một chữ Côn-Bằng có ngũ-hành hữu-dụng; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh nhu-nhược hơn bằng một chữ Côn-Bằng có tánh hùng-cường hơn; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phá-hoại bằng một chữ Côn-Bằng có tánh xây-dựng - Thay một chữ Đắc Lộ bất lợi thành một chữ Côn-Bằng ích lợi, vân vân … 10.CHỮ O CÓ CHƯNG VUÔNG: Từ ngày Bằng-công thua trận tại Thanh-quyết, chịu khổ-hình bốn ngựa phanh thây tại Thăng-Long (Đinh Mùi 1787),Bái đình hầu Nguyễn Hữu Du chết trận, vì chánh-nghĩa nhà Lê; Từ ngày bà Hoàng-phi nhịn ăn để chết theo chồng khi quan-tài vua Lê Chiêu-Thống được đưa về nước; Từ ngày giáo-thụ Cao Bá Quát bị hành-quyết vì khởi-nghĩa theo Lê Duy Cự. Từ ngày các vong-thần nhà Lê đều tuẫn-tiết,thì các trung-thần, nghĩa-sĩ theo nhà Lê không còn được ai nhắc-nhở tới nữa. Từ khi văn-sĩ Yukio Mishima không nhận giải văn-học Nobel 1967, nhường vinh-dự đó cho văn-sĩ Yasunari Kawabata, rồi đến cuối năm 1970 tự mổ bụng tự sát theo nghi-lễ truyền-thống võ-sĩ-đạo, để phản đối tinh-thần hiếu-lợi cực-đoan của người Nhật-bổn ngày nay, bỏ quên mất tinh-thần trượng nghĩa khinh-tài thuở xưa, đến nỗi mọi việc trên đời biến thành thương-mãi tất cả … Chúng ta không biết hoc giả Nguyễn Hữu Lâm có giữ vững lập trường dùng chữ O có chưng vuông của bộ chữ Côn-Bằng, chống lại nối chữ O tròn vình, có tánh thương mãi cực đoan của bộ chữ Đắc Lộ ? NHÓM NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CỔ HỌC HỒNG-BÀNG -HỒNG THỊ PHƯƠNG DANH -LÊ XUÂN TÙNG -LÊ XUÂN MAI Sưu tầm và thuyết minh.
    1 like
  8. Sang năm bạn đã có thể có chồng, có chửa trong lúc cưới. Đám cưới dình dang, tốn kém, khả năng lấy chồng xa là rất cao. Năm nay bạn có cơ hội có người yêu, tình duyên bất ngờ, diễn ra nhanh tróng. Từ tháng 7 âm trở đi, bạn có quyền hi vọng, vấn đề năm ở chỗ bạn quảng cáo sự cô đơn của mình đến đâu để các chàng biết mà còn tăm tia. Chồng của bạn có dáng cao gầy hoặc trung bình hơi mỏng người, tính hiền lành, bộc lộ cái hiền lành ra ngoài, hơi nhút nhát, ngại ngùng vì vậy bạn cần chủ động trong việc cưa cẩm thì mới thành công được, bằng ko người này mãi làm con rùa rụt cổ mất. Như thế thì bạn lại tiếp tục ế để chờ đợi thêm cơ hội khác ở những năm sau.
    1 like
  9. Gặp lại em bé bị bắt cóc khi mới sinh GiadinhNet - Dị nhân "đuổi mưa" Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã đích thân lấy lá số tử vi cho cậu bé đặc biệt này. Dù đã hơn 1 tháng, cậu bé Phạm Trường Hà (cháu bé bị bắt cóc ở bệnh viện Phụ sản TW vào ngày 3/11/2011) trở về nhà an toàn nhưng những người thân trong gia đình vẫn không dám rời cậu bé nửa bước vì vẫn còn ám ảnh. Dị nhân "đuổi mưa" Nguyễn Vũ Tuấn Anh cùng một số nhà nghiên cứu trong nhóm nghiên cứu tử vi "Haithienha" đã đích thân lấy lá số tử vi cho cậu bé đặc biệt này. Bé Hà trong vòng tay mẹ. Vẫn chưa dám rời con nửa bước Chúng tôi trở lại gia đình anh Phạm Xuân Chiều và chị Trần Thị Thơm ở thôn Kênh cầu, xã Đồng Than, Yên Mỹ, Hưng Yên trong một chiều hửng nắng. Căn nhà 2 tầng bề thế của anh Chiều nằm ngay sát mặt đường nên không phải mất nhiều thời gian hỏi thăm. Tuy nhiên, với nhiều người dân thôn Kênh Cầu thì chuyện cậu bé Phạm Trường Hà bị bắt cóc khi mới được một ngày tuổi vẫn là một nỗi ám ảnh đối với họ. Lúc chúng tôi đến, cậu bé Phạm Trường Hà đang ngủ rất say trong vòng tay mẹ. Trông bé thay đổi khá nhiều so với lúc còn ở bệnh viện Phụ sản TW. Bé Hà trông rất giống mẹ, nhất là khuôn mặt nhưng lại có làn da trắng giống bố. Chị Thơm cho biết, lúc bé được trao trả lại cho gia đình thì ngay chiều hôm sau bé bị sốt cao. Các bác sĩ khám và phát hiện bé bị sốt virus nên phải điều trị mất 8 ngày tại bệnh viện. Đó cũng là lý do mãi tận hơn một tuần sau bé mới được đưa về nhà. Đến nay bé đã được hơn 6kg, toàn ngủ ban ngày và thức chơi vào đêm. Bé có giấc ngủ rất sâu. "Nhà đang sửa lại công trình phụ và lắp đặt hệ thống cửa, tiếng đục, khoan, cưa... ồn ào như thế nhưng vẫn không ảnh hưởng gì đến giấc ngủ của bé. Cu cậu ăn tương đối khỏe, tôi đã cho bé kết hợp cả bú sữa mẹ với sữa ngoài. Sức khỏe của tôi nay đã hoàn toàn hồi phục nhưng vẫn chỉ quanh quẩn trong nhà chứ không dám rời con. Thi thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn bị giật mình khi nghĩ đến chuyện con bị bắt cóc" - chị Thơm chia sẻ. Anh Phạm Xuân Chiều - bố của bé Hà chia sẻ thêm, cho đến bây giờ, hàng ngày anh vẫn nhận được nhiều cuộc điện thoại từ khắp nơi gọi về hỏi thăm tình hình của cháu. Ảnh: PV Cũng theo chị Thơm thì thời điểm mới đưa cháu bé về, một phần do nhà cửa đang sửa sang chưa xong, một phần do tâm lí vẫn còn bị ám ảnh nên cả hai mẹ con được gia đình cho sang tá túc bên nhà ông anh ruột ở làng bên một thời gian rồi mới trở lại nhà. Cho đến nay, dù bé đã được gần hai tháng tuổi nhưng vẫn có rất nhiều người đến hỏi thăm. Không chỉ có chị Thơm, ngay cả bé Ngân (chị gái của bé Phạm Trường Hà) mới 6 tuổi nhưng từ ngày đưa em về nhà lúc nào cũng quấn quýt bên cậu em không rời. Tối nào Ngân cũng đòi ngủ chung với em và mẹ. Hễ có người lạ đến nhà chơi là cô bé lại theo dõi "nhất cử nhất động". Anh Phạm Xuân Chiều - bố của bé Hà chia sẻ thêm, cho đến bây giờ, hàng ngày anh vẫn nhận được nhiều cuộc điện thoại từ khắp nơi gọi về hỏi thăm tình hình của cháu Hà. Đây là động lực khiến gia đình anh luôn vui vẻ và sớm quên đi mọi chuyện đã qua. "Sau khi thông tin về cháu được đăng tải trên báo, tôi nhận được rất nhiều cuộc điện thoại đến hỏi thăm, chia sẻ. Không chỉ có người thân, bạn bè, người làng, đối tác... mà rất nhiều những độc giả bình thường không hề quen biết cũng gọi điện thoại về hỏi thăm và động viên, an ủi. Tôi rất lấy làm xúc động về tình cảm mà mọi người đã dành cho cháu và gia đình" - anh Chiều nói. Anh Phạm Xuân Chiều kết hôn với chị Trần Thị Thơm năm 2004. Đến 2005 thì chị Thơm sinh bé Phạm Thị Ngân. Khi bé Ngân được 2 tuổi chị Thơm tiếp tục mang thai nhưng thai bị lưu ở tuần thứ 8. Mãi một thời gian dài chị Thơm không có thai trở lại, gia đình hết sức lo lắng. Đích thân anh Chiều đưa vợ đi khắp các bệnh viện để chữa trị nhưng mãi đến đầu năm 2011 thì chị Thơm mới mang thai cháu Hà trở lại. Vì vậy, sự ra đời của bé Hà là sự mong đợi của cả đại gia đình. Hai bên nội ngoại đều xem cháu như báu vật. Rất đông người đang hồi hộp chờ đón giây phút bé Hà được trở về đoàn tụ với gia đình. Ảnh: Tư Liệu Từng định rút đơn xin giảm tội cho "mẹ mìn" Cũng theo anh Chiều thì sau khi đưa bé Hà về nhà được một thời gian, bố mẹ đẻ của "mẹ mìn" Nguyễn Thị Lệ có từ Bắc Giang tìm đến nhà anh đặt vấn đề xin anh rút đơn tố cáo để giảm án cho con gái họ. Trước những lời khẩn thiết của ông bà, anh cũng đã có ý định sẽ lên gặp cơ quan điều tra và tòa án xin rút đơn để Lệ có cơ hội làm lại cuộc đời. Tuy nhiên, khi chưa kịp thực hiện ý định thì anh Chiều biết được thông tin chính mẹ đẻ của Lệ biết việc con gái mình bắt cóc con người khác để về lừa nhà chồng nhưng vẫn đồng lõa với con mà không có hành động ngăn cản. Thêm nữa, Nguyễn Thị Lệ bắt cóc bé Hà không phải xuất phát từ nỗi đau bị mất con dẫn đến bấn loạn tư tưởng hoặc do áp lực nên buộc phải bắt cóc con người khác để qua mắt nhà chồng. Mà rõ ràng, ý đồ bắt cóc được cô ta lên kế hoạch từ trước. Chiếc xe đưa bé Hà trở về trong vòng vây y, bác sĩ, cán bộ bệnh viện và người dân. "Lúc đầu khi nghe nói cô ấy vừa sinh con nhưng không giữ được cháu bé nên trong lúc quẫn bách quá cô ấy đành phải bắt cóc một đứa trẻ để qua mắt nhà chồng, chúng tôi đã có đồng cảm với cô Lệ. Nhưng khi hay biết toàn bộ sự việc và cả quá khứ không lấy gì làm tốt đẹp của cô ta thì chúng tôi đã chuyển từ đồng cảm sang bức xúc. Tôi và gia đình quyết định để cơ quan điều tra xử lí đối tượng ấy. Cô ấy mang tội đến đâu thì họ sẽ xử đến đó. Cô ấy là người phụ nữ mà không đồng cảm với nỗi lòng người mẹ, người vợ của người khác chút nào" - anh Chiều bức xúc nói. Trước đó, sau khi cơ quan điều tra tìm lại được cháu Hà và trao lại cho gia đình, anh Chiều có lên cơ quan điều tra ở số 7 Thiền Quang- Hà Nội để có lời cảm ơn các chiến sĩ công an. Tại đây, anh Chiều đã gặp Nguyễn Thị Lệ nhưng ả không hề có thái độ ăn năn hay nói với lời xin lỗi nào với anh hết. "Lúc tôi đến cơ quan điều tra thì các chiến sĩ đang lấy lời khai của cô Lệ. Một chiến sĩ công an có giới thiệu tôi là cha cháu bé vừa bị cô ta bắt cóc nhưng cô ta chỉ nhìn tôi một cách hờ hững, lạnh lùng chứ không hề tỏ ra ăn năn hay nói một lời xin lỗi nào". Chị Thơm cũng cho biết thêm: "Khi tôi sinh xong, bác sĩ trao con cho tôi, tôi còn tỉnh táo hỏi mấy giờ thì được biết lúc đó đã 21h 20 phút". Sau này, trong thời gian cháu Hà bị bắt cóc chưa tìm thấy, có một bà giáo cùng quê Mỹ Hào (Hưng Yên) cũng có con dâu nằm cùng buồng với chị Thơm khi xem ngày giờ sinh của cháu cứ an ủi: "Cô yên tâm, cháu nó đi rồi cháu lại về thôi. Khoảng mấy ngày trở lại là khắc tìm thấy cháu thôi". Lúc đầu chị Thơm không tin nhưng đúng 4 ngày sau cháu Hà được tìm thấy. Đây là những chuyện mà bấy lâu chị Thơm giữ kín chưa dám thổ lộ với ai. Hà Tùng Long
    1 like
  10. Đây là đường link lá số TỬ VI LẠC VIỆT của bé Các bạn tham khảo http://www.lyhocdong...w=screen&size=2
    1 like