-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 14/07/2012 in all areas
-
Chào anh Chính Khí /để minh định lại lời nói trên của tôi có lẽ tôi dùng từ không chính xác nên anh hiểu nhầm >trông hơi trẻ con > là vẻ mặt trẻ hơn cái tuổi chứ không phải nói về tâm tính hay sự hiểu biết /anh bạn cũng đã hiểu lầm cách xem của tôi ,vì bởi có sự so sánh giữa A-B ,nhưng chắc chắn tôi đang dùng 1 phương pháp khác mà tôi không phân định người A là lá số Thất sát , vì tôi đã nói tôi dùng phương pháp xem cho 2 người cùng chung 1 giờ ngày tháng năm để tÁCH BIỆT giữa 2 người A-B ,có nghĩa là không khác nhau hoàn toàn nhưng sẽ có cái khác về cuộc đời của 2 đương số có cùng 1 lá số , mà trước đây tôi đã có lần đề cập với Tuyết Minh về cách nầy , vì phương cách nầy khác với 2 người sanh đôi , nhân tiện cho Tuyết Minh thấy cách đó nó đã thể hiện qua lời khai của đương số về gia đình và bản thân ; tôi cũng không tin là những lời giải của tôi là hoàn toàn cho mỗi người đó . Nếu ban đầu không có sự khác nhau về ngày sinh khi tôi thấy ảnh của cô đó thì tôi cũng cho rằng là khuôn mẶT CỦA NGƯỜI pHÁ Quân ,NHƯNG CŨNG CÓ VÀI SAO cũng có khuôn mặt gần như vậy /như vậy giữa anh và tôi có khác nhau quan điễm về nhận hình người qua vì sao Phá QUÂN rồi ! cô ta nói là khuôn mặt trái soan ,nhưng tôi nói hơi dài mà anh cho là thuôn dài ,theo tôi thuôn dài thì còn dài hơn hình người trong ảnh [ có lẽ cách dùng chữ của tôi ] còn theo tôi nhận dạng người khi tôi nói dài hay thuôn dài thì phải người có Vũ khúc hay tham lang hãm địa.Với tôi sao Hồng loan khoog thể hiện về cái dáng sang của người đó mà theo tôi đã nói mặt sáng sủa và tươi,mà là phượng -long và thai -tọa ,còn về vai và xương là tôi nhận định theo sao tướng quân .3 likes
-
LỜI KHAI MẠC TỌA ĐÀM TƯỞNG NIỆM TRIẾT GIA LƯƠNG KIM ĐỊNH Gs. Nguyễn Khắc Mai Giám đốc Trung tâm Minh triết Việt Giáo sư Nguyễn Khắc Mai đọc lời khai mạc Kính thưa các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhà báo, các bạn thanh niên, sinh viên quan tâm đến lĩnh vực văn hóa của nước nhà, Kính thưa các vị đại diện của Ủy ban đoàn kết Công giáo Kính thưa TS Đặng kim Ngọc GĐ TTVHVMQTG, Chúng tôi vinh dự được chào đón các quý vị trong cuộc Tọa đàm tưởng niệm cố Triết gia Linh mục Lương Kim Định. Trong sách Thi thiên của Kinh thánh, quyển III, mục 75, câu 6 có nói: “Vì chẳng phải phương Đông, phương Tây. Hay là từ phương Nam mà có sự tôn cao đến”. Có thể câu này là của Thiên chúa dành cho một người con của ngài, mà chúng ta tôn kính và hôm nay họp mặt để tưởng nhớ, để tìm hiểu những đống góp nhằm tôn cao cổ văn hóa Việt từ phương Nam đến. Cố triết gia linh mục Lương Kim Định sính ngày 15 – 6 – 1915 tại làng Trung Thành, Nam Định, tốt nghiệp Triết học tại Chủng viện Albert le grand. Từ năm 1944 – 1946 dạy Triết học tại Chủng viện Bùi Chu. Năm 1947 đi học ở Pháp tại Học viện cao học Trung Quốc học – Institut des Hautes e’tudes Chinoises – Paris. Năm 1958 về nước, dạy Triết học ở Học viện Lê Bảo Tịnh – Gia Định,và ỏ nhiều trường ĐH ở MN. Sau 1975, cụ định cư tại Hoa Kỳ, từ trần ngày 25 – 3 – 1977 tại Missouri Hoa Kỳ, hưởng thọ 82 tuổi. Thưa các quý vị, Triết gia Lương Kim Định, một gương mặt văn hóa lớn của đất nước. Ông là Linh mục, là triết gia, nhưng trước hết là nhà nghiên cứu cổ văn hóa sử Việt Nam, từng để lại một di sản văn hóa đồ sộ với 46 đầu sách về những lĩnh vực trên. Ông đề xướng thuyết Việt Nho với những cột trụ triết lý: an vi, nhân bản, thái hòa, bình sản ... Lập thuyết của ông từng có dư luận khen – chê mà ông từng đề cập trong các trước tác của mình. Tuy nhiên, nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong làng An Việt đang tiếp tục cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng trân trọng. Riêng về hai chữ Minh Triết thì có thể coi Lương Kim Định là người hiện đại đầu tiên đã cho sống lại khái niệm ấy và đã cho nó một hàm nghĩa khá có lý. Trước đó vào thế kỷ XVIII, Ngô Thì Nhậm đã đề cập đến khái niệm này trong bài phú Thiên quân thái nhiên. Trung tâm Minh triết cho rằng việc tổ chức nghiên cứu những tác gia và tác phẩm của họ là một nhiệm vụ văn hóa, vừa là để tỏ lòng biết ơn vừa là sự trân trọng đối với những giá trị học thuật mà họ để lại cho đời. Với tinh thần ấy, hôm nay chúng tôi xin mời quý vị lắng nghe hai diễn giả: Nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy và GsTs Trần Ngọc Thêm trình bày những kiến giải của mình về học giả Triết gia Lương Kim Định. Đồng thời là những ý kiến của Giáo sư Sử học Chương Thâu, của nhà Lý học Đông phương Nguyễn Vũ Tuấn Anh và của Ts triết học Trần Ngọc Linh. Ban Tổ chức cũng sẽ dành thì giờ để nghe những ý kiến trao đổi. Xin gửi cho chúng tôi phiếu đăng ký phát biểu. Cuộc Tọa đàm này mở đầu cho những nghiên cứu tiếp theo về những vấn đề học thuật mà Triết gia Lương Kim Định đã đề xuất, Tọa đàm sẽ kết thúc vào lúc 12 giờ phút sáng hôm nay.Xin cảm tạ các quý vị2 likes
-
Người cả đời tìm triết lý trên trống đồng Đông Sơn 13/07/2012 16:45 | Phóng sự - Khám phá | (VTC News) - Mới đây, bên ấm trà đậm hương Việt, các nhà nghiên cứu cổ sử Việt Nam, trầm ngâm kể về một người, mà họ tôn vinh là triết gia bị quên lãng của nước Việt. Người ấy dành cả cuộc đời nghiên cứu cổ sử Việt, viết tới 46 đầu sách, chỉ để khẳng định rằng, nền minh triết Việt đã có từ mấy ngàn năm trước, trước cả người Trung Hoa. Chuyện này thật lạ! Người Việt là một phần của cái nôi nhân loại Người ấy là giáo sư Lương Kim Định, người trọn đời chỉ làm một việc, ấy là giải mã những thông điệp của người xưa, để tuyên bố với thế giới rằng, người Việt không phải là một dân tộc nhỏ bé, nước Việt cũng là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Cố GS. Lương Kim Định. Cố GS. Lương Kim Định sinh ra và lớn lên ở Nam Định. Từng giảng dạy ở Việt Nam. Sau này, ông du học sáng Pháp, rồi Mỹ. Mấy chục năm sống ở nước ngoài, nhưng ông vẫn miệt mài nghiên cứu cổ sử Việt. Ông đã chứng minh cho thế giới này hiểu rằng, nền triết lý Việt đã có từ rất lâu đời, thậm chí có trước cả Trung Hoa. Bằng những nghiên cứu của mình, ông khẳng định tổ tiên người Việt chính là người Viêm Việt. Dân tộc này vốn ngự trị ở giữa vùng châu thổ sông Dương Tử và đã làm nên văn hóa Việt Nho, một nền văn hóa tinh thần, lấy nhu thuận là cốt lõi, đại biểu cho văn minh nông nghiệp. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng từng chứng minh Kinh Dịch là của người Việt qua bãi đá cổ Sapa. Sau này, bộ tộc du mục, ấy là người Hoa, đã tràn từ phương Bắc xuống. Họ mang tinh thần võ biền, đàn áp, đẩy người Viêm Việt xuống phía Nam. Người Viêm Việt di tản đến khắp vùng Đông Nam Á rồi phân hóa thành nhiều chủng tộc khác nhau. Luận thuyết này được ông đưa ra từ rất lâu rồi, nhưng chẳng ai thèm đếm xỉa. 45 năm sau khi ra đời luận thuyết của ông, khi khoa học hiện đại phát triển, ngành khảo cổ nghiên cứu qua nhiễm sắc thể (ADN), đã chứng minh rằng, dân cư Đông Nam Á xuất phát từ một chúng tộc khác người Trung Nguyên. Theo bản đồ di dân qua nhiễm sắc thể, được các nhà khoa học thế giới công nhận, thì con người hiện đại Homo Sapien, đã xuất phá từ châu Phi đi khắp thế giới. Một nhánh người đi qua Tây Tạng, một nhánh qua Bắc Mông Cổ, gặp nhau ở châu thổ Hoàng Hà, lập ra nền văn minh Trung Nguyên, khởi thủy nền văn hóa Trung Hoa bây giờ. Một nhánh di chuyển theo ngả Ấn Độ, dừng lại ở châu thổ sông Hồng, và lập ra nền văn hóa Hòa Bình (20.000 – 5.000 năm TCN). Từ đây, họ di cư lên phương Bắc, đến tận sông Dương Tử, ra tận biển, định cư ở các đảo Đài Loan, Nam Dương, Mã Lai. Lương Kim Định nhìn thấy Việt triết sống động trong đời sống hàng ngày của dân tộc. Nó là những nếp sống, những tư tưởng nằm trong tiềm thức được thấm nhuần qua tiếng nói, ca dao, lời ru, phong tục. Việt triết được thể hiện và phát huy qua những bước chân âm thầm của các bà mẹ Việt, những người bố Việt trên những nẻo đường mòn của dân tộc trong bao thế hệ. Trống đồng là báu vật của người Việt. Theo nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, từ những phát hiện này, cùng hàng ngàn chứng cứ mà ông nêu trong các cuốn sách của mình, ông khẳng định rằng, người Việt đã xây dựng một nền văn hóa nông nghiệp Việt nhân bản và minh triết, mà ông gọi là Việt Nho. Người Hoa đã học rồi thể chế thành kinh điển, đồng thời cũng làm sa đọa Việt Nho theo tư tưởng của văn minh du mục Mông Cổ. Từ chứng lý rất mong manh, GS Lương Kim Định cho rằng, chính người Việt là chủ nhân của kinh Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc... Không những thế, tiếng Trung Hoa và cả chữ vuông Hán ngữ cũng là của người Việt! Đề xuất của GS. Lương Kim Định quả đã gây chấn động, như sấm giữa trời quang khiến những đầu óc yếu đuối hoảng hốt và chống trả ông quyết liệt. Triết Việt trên trống đồng GS. Lương Kim Định gần như cả cuộc đời nghiên cứu chiếc trống đồng của người Việt. Tinh hoa văn hóa của người Việt đều dồn tụ vào những hình ảnh trên mặt trống. Ông nhìn thấy cả lịch sử Việt, văn hóa Việt, triết lý Việt trên chiếc trống đó. Theo GS. Định, những hình người có cánh trên mặt trống đồng đại diện cho Mẹ Tiên, còn hình ảnh vòng ngoài vận hành ở tang trống chính là Rồng Cha. Mẹ Tiên và Rồng cha hợp nhau biểu thị đất trời hòa hợp, là thứ minh triết uyên bác xa xưa. Mặt trống đồng biểu trưng của nguyên lý thống nhất từ vũ trụ. Nét dọc tang trống là Trời, nét ngang là mặt trống là Đất. Hai thứ ấy làm nên thực thể gọi là nhạc khí vũ trụ. Vũ trụ thể hiện kích thước bao la của trời với đất. Cuộc hòa âm này chiếu giải lên toàn thân trống, tả lại một xã hội hạnh phúc tưng bừng đang ca múa gồm cả trời (mặt trời), đất (thuyền rồng, các con vật) và cả người. GS. Lương Kim Định đã giành cả cuốn sách chỉ để mô tả triết lý Việt trên chiếc trống đồng. Đã có vô vàn phát hiện thú vị của ông. Thậm chí, những con số cũng đều theo quy ước bí ẩn của văn hóa cổ. Mặt trời ở giữa mặt trống thay cho trời làm trung tâm lan tỏa sức sống. Mặt trời tỏa ra 14 tia sáng. Rồi đến các vòng ngoài đều chia ra 2 bên chẵn lẻ. Bên chẵn thì trên nóc nhà có 2 con chim, 6 người, đàn chim 4 cặp. Bên lẻ thì trên nóc nhà có 1 con chim, đoàn người 7, đàn chim 3 cặp. Vòng ngoài cùng chia làm 4 chỉ 4 chiếc hoa quỳ 9 cánh: 4x9=36, cũng có thể chỉ 4 phương. Nhưng mặt trời ở giữa, còn gợi ra suy nghĩ là bông hoa. Mặt trống đồng chính là bộ sử hạnh phúc loài người. Hoa quỳ lại có 9 cánh. Số 9 là tiên thiên của huyền sử, dân Lạc Việt lấy số 9 làm quan trọng, nhân với 2 thành 18. 18 chim to, 18 chim nhỏ. Số 18 là huyền số như: 18 ngàn năm Bàn Cổ, 18 đời Hùng Vương, 18 thước cao của ngựa Thánh Gióng... Từ những hình ảnh trên trống đồng, đã hiện ra đời thực. Trên các đình làng Việt Nam thể hiện rõ nhất triết lý đó. Ðình là cái nhà có ba tầng kiểu nhà sàn: Nóc có chim đậu chỉ trời, người ở sàn giữa, bên dưới là đất. Trong đình cũng có 3 tầng như vậy, tức gồm cả tế tự cho trời, hành chính chia ruộng đất, còn người thì vui sống đình đám chơi xuân. Điều đặc biệt, là cả trên trống đồng và đình làng Việt, đều thể hiện vạn vật giao hòa, trời và người là một, chẳng có gì tục với thiêng mà phải riêng rẽ. Cuộc sống đời thường luôn tưng bừng đình đám, chấp nhận mọi sinh thú ở đời. Từ hình ảnh trên trống đồng, có thể thấy cuộc sống sinh động của người Việt xưa. Người Việt có hàng trăm điệu hò, điệu múa, nào là múa sinh tiền, múa sắc búa, múa chai, múa trống, múa đèn, múa dậm, múa bông lau... Rồi các trò đua thuyền, kéo chữ, đánh cờ người, rối nước, rối cạn… Đó là những cuộc vui bất tận tỏa ra khắp cả nước. Chỉ có một thứ văn hóa, ấy là văn hóa toàn dân, không hề có chiến tranh tôn giáo hay ý thức hệ. Hơn 50 sắc dân thiểu số với những tín ngưỡng rất khác nhau, mà vẫn sống bên nhau suốt bao nhiêu ngàn năm hạnh phúc. Đó chính là nét đặc sắc của nền văn minh Lạc Việt, nền văn minh được khắc họa cụ thể trên mặt trống đồng. Mặt trống đồng chính là bộ sử hạnh phúc loài người. Đó có lẽ cũng là khát vọng mà người Việt hướng đến. Triết lý Việt chính là sự thăng hoa tột cùng của hạnh phúc loài người. Tưởng niệm 15 năm ngày mất của GS Lương Kim Định Sáng 14/7/2012, tại Văn miếu Quốc Tử Giám, nhân 15 năm ngày mất của triết gia Kim Định, Trung tâm Minh triết phối hợp với Trung tâm Lý Học Đông Phương lần đầu tiên tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm về ông. Triết gia Kim Định (tên đầy đủ Lương Kim Định, sinh ngày 15/6/1915, mất ngày 25/3/1997) là một gương mặt văn hóa lớn của đất nước, đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ hơn 40 đầu sách về những lĩnh vực triết học, văn hóa, đặc biệt là cổ sử Việt Nam… Ông có công lớn trong việc xây dựng nền tảng cho triết học Việt Nam và là người đề xướng thuyết Việt triết (Việt Nho) với những trụ cột triết lý: an vi, nhân bản, thái hòa, bình sản. Nhiều học giả trong nước tiếp nhận hướng nghiên cứu và phương pháp luận của ông đã có những công trình học thuật có giá trị. Môn đệ của ông ở nước ngoài trong làng An Việt đang tiếp tục công cuộc nghiên cứu của ông và theo đuổi một lối sống minh triết đáng quý. Buổi tọa đàm có sự góp mặt của 30 nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, những người yêu sử Việt trong đó đáng chú ý sẽ có các tham luận của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, TS Trần Ngọc Linh, nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Các nhà nghiên cứu đánh giá đúng công sức của triết gia Kim Định trong công cuộc truy tìm cổ văn hóa sử và minh triết của Việt tộc. Ông đã có những dự đoán tài tình, ngày càng được khoa học liên ngành khảo cổ, cổ thư, nhân chủng xác minh luận điểm của ông là có cơ sở.2 likes
-
Quán vắng!
HungNguyen and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Người Cam pu chia đã quên mất rằng: Nếu không có người Việt Nam, thì cánh đồng chết của họ không chỉ có hai triệu người Khơ me nằm ở đó. Người Lào cũng cần phải nhớ đến mối quan hệ lịch sử từ hàng trăm năm trước. Người Việt không đòi hỏi gì lãnh thổ của họ mà lịch sử để lại, cũng không có đồng hóa văn hóa của họ - và đây là vấn đề cốt lõi của sự tôn trọng và bình đẳng giữa các dân tộc. Đúng lúc vào thời điểm nhạy cảm thì người Căm pu chia tỏ ra thiếu kiên quyết ủng hộ Việt Nam. Điều này chứng tỏ có một sự chuẩn bị khá đồng bộ từ lâu của những âm mưu ngoại bang liên quan, trong việc thâm nhập hai nước láng giềng của Việt Nam này. Nhưng đấy là tôi phân tích chơi cho vui vậy thôi. Với cái nhìn Lý học thì đấy chỉ là những trò lặt vặt ở cõi trần gian. Nhưng nó làm rõ một quyết tâm chi phối thế giới - mà không chỉ những phó thường dân dự khuyết hạng hai như tôi nhìn thấy - mà những chiến lược gia quốc tế cũng thấy rõ điều này. Từ đó sẽ dẫn đến mốt sự đụng độ quy mô lớn trong "Canh bạc cuối cùng". Hùng Nguyen khuyên tôi bỏ chữ "nếu". Thực ra thì tôi khiêm tốn vậy thôi. Bỏ hay không bỏ không phải do chủ quan của tôi muốn hay không. Mà là tàu của Trung Quốc thể hiện như thế nào ở biển Đông. Tôi đã nhiều lần nói rằng: Quỹ thời gian của họ để tránh cuộc sát phạt cuối cùng trong canh bạc còn lại rất ít. Hải quân Hoa Kỳ đến Tây Thái Bình Dương không phải để hát KaraOke.2 likes -
GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc TTNC LHDP www.lyhocdongphuong.org.vn Kính thưa các vị đại biểu. Kính thưa các vị khách quý có mặt nơi đây. Những lời đầu tiên của bài tham luận này tôi xin được thể hiện sự thành tâm ngưỡng vọng tới anh linh giáo sư Lương Kim Định, người chỉ đường đến kho tàng minh triết Việt. Chính vì những giá trị của giáo sư để lại cho hậu thế về một nền minh triết Việt mà chúng ta có mặt nơi đây. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến với ban tổ chức đã cho tôi có điều kiện thể hiện những suy tư của mình về những giá trị của cội nguồn minh triết Việt và giáo sư Lương Kim Định – một người mà tôi rất tôn trọng và quý mến, khi được biết đến những trước tác của ông. Tôi cũng xin được bày tỏ sự cảm ơn đối với các vị khách quí đã quan tâm đến chủ đề này và có mặt nơi đây. Kính thưa quí vị. Bài tham luận của chúng tôi xin được bắt đầu với phần thứ nhất có tựa là : I - GIÁO SƯ LƯƠNG KIM ĐỊNH - NGƯỜI CHỈ ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG MINH TRIẾT VIỆT. Có lẽ tất cả chúng ta ở đây đều biết đến câu ca dao nổi tiếng của nền văn hóa truyền thống Việt:“Ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn”. Đây cũng chính là câu ca dao mà giáo sư Lương Kim Định nhắc tới trong lời tựa cuốn sách của ông : “Triết lý cái Đình”. Câu ca dao tưởng như rất trực quan, rất bình thường, dân dã ấy, như chỉ là một ngạn ngữ khuyên con người Việt Nam hãy dùng những gì mình có. Vì nó là của ta. Cho nên nó tự do hơn và khoáng đạt hơn khi phải mượn tạm những gì của người khác. Sâu xa hơn, vì nó là của ta, nên nó là những giá trị đích thực. Nhưng ai cũng biết cái “ao ta” ấy chỉ là một hình tượng cho sự sở hữu của ta. Và chỉ khi nó là của ta thì ta mới có tự do vùng vẫy trong cái “ao ta” ấy, “dù trong, dù đục”. Trong hay đục thì chưa biết. Nhưng đoạn chót của câu ca dao ấy đã khẳng định : “ao nhà vẫn hơn”. Như vậy, nó đã xác định rằng: “Ao ta” hơn hẳn “ao người”. Nhưng “ao ta” ở đâu và “ao người” ở đâu? Phải chăng để đi tìm cái “ao ta” ấy người xưa đã muốn nhắc nhở con cháu tìm về cội nguồn? Và cội nguồn của Việt tộc, chính là cái “ao ta” ấy sẽ hơn hẳn “ao người”!? Một sự tương đồng, nhưng rõ ràng và thẳng thắn hơn với nội dung minh triết sâu xa của câu ca dao trên, chính là bài ca của cô Tấm. Mỗi khi cho cá ăn - tài sản ít ỏi và duy nhất của cô - để chia sẻ tâm tư khi phải sống chung với mụ dì ghẻ độc ác, cô Tấm lại cất tiếng gọi: Bống bống bang bang. Bống ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta. Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người. Như vậy, đến bài ca của cô Tấm thì những cái gì của ta, nó không còn mơ hồ giữa “trong” hay “đục”. Mà nó đã là sự khẳng định giá trị đích thực của nền minh triết Việt: Cũng là cơm. Nhưng cơm của Tấm là “cơm vàng, cơm bạc” là giá trị đích thực chói sáng của nền minh triết Việt. Còn cái giống như thế, cũng là “cơm”, nhưng là “cơm hẩm, cháo hoa nhà người”. Nhưng những hạt cơm vàng, cơm bạc của cô Tâm từ ngày xửa, ngày xưa ấy, đã rơi vãi đâu đây trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc? Có cái gì để thay thế phép lạ của Bụt sai khiến đàn chim đến nhặt hết những hạt sạn sỏi trộn chung với thóc , để trả lại một màu vàng óng, nguyên sơ của thúng thóc được tạo ra với bao công sức cần lao của con người? Phải chăng đấy là những giá trị minh triết Việt, được mã hóa trong những câu chuyện cổ tích, huyền thoại gửi gấm lại đời sau? Nhưng những hình ảnh minh triết ấy đưa chúng ta về đâu và nó muốn nói đến một giá trị đích thực gì ẩn chứa đằng sau của cái “ao nhà vẫn hơn”; của cái “cơm vàng, cơm bạc nhà ta” ấy? Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rồi một ngàn năm nữa qua đi với bao thăng trầm của Việt sử. Những ngọn lửa chiến chinh khốc liệt đã không chỉ một lần thiêu đốt, tàn phá nền văn hóa đầy minh triết của Việt tộc. Câu chuyện “cơm vàng cơm bạc nhà ta” của cô Tấm đã trở thành chuyện cổ tích thuộc về “ngày xửa, ngày xưa”. Cái “ ao nhà vẫn hơn “ ấy cũng lùi vào dĩ vãng. Trong cuộc sống náo nhiệt, phồn vinh của nền văn minh kỹ thuật, Việt sử với 5000 năm văn hiến đã trở nên huyễn ảo từ nơi cội nguồn. Đã không ít những học giả lóa mắt trước ánh sáng đèn của nền văn minh Tây phương, nên không nhìn thấy những gía trị đích thực của nền minh triết Việt. Cũng không ít những học giả cả trong và ngoài nước, đặt câu hỏi phản biện những giá trị văn hóa sử Việt 5000 năm văn hiến rằng: Tại sao gọi là văn hiến mà nền văn hiến truyền thống đầy tự hào ấy, thiếu vắng những gía trị minh triết? Tại sao những nền văn minh tồn tại ngắn hơn về thời gian, lại ghi nhận những gía trị minh triết với những triết gia tên tuổi và những di sản như là những kỳ tích của nền văn minh nhân loại? Còn 5000 năm văn hiến Việt được ghi nhận trong lịch sử và truyền thống đầy tự hào ấy còn có gì đâu? Vấn đề đã được đặt ra cho những con người Việt Nam đau đáu đi tìm cội nguồn minh triết Việt. Một trong những con người Việt Nam ấy là giáo sư linh mục Lương Kim Định. Với hàng chục đầu sách nổi tiếng một thời , giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách sâu sắc về minh triết Việt. Ông đã nhìn thấy linh hồn của nền văn minh Việt trong những giá trị căn bản của văn hóa Phương Đông - Trong đó có Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Lạc Thư minh triết” và được nhắc lại trong nhiều tác phẩm khác của ông. Trong “Lạc thư minh triết”, ông đã tìm thấy mối liên hệ tương đồng giữa những truyền thuyết về huyền sử Việt với những đồ hình biểu kiến mang tính căn để của Lý học Đông phương. Đó là Lạc Thư và Hà Đồ. Ông cũng đã tìm thấy những điểm tương đồng của minh triết Đông phương bàng bạc, lưu truyền trong những di sản văn hóa truyền thống Việt. Từ đó ông đã đặt vấn đề về một “Cơ cấu Việt Nho” để xác định một nền minh triết Việt đầy nhân bản và tách ra khỏi Hán Nho. Trong tác phẩm “Cơ cấu Việt Nho” – với một trí thức uyên bác, ông đã so sánh hầu hết những tư tưởng minh triết Đông Tây Kim cổ với những mảnh lấp lánh còn lại trong di sản truyền thống văn hóa sử Việt, qua những truyền thuyết , huyền thoại, những câu chuyện cổ tích, trong những câu ca dao và so sánh với hầu hết những giá trị của Lý Học Đông phương, kể cả thuyết Âm Dương Ngũ hành và với hệ thống Thi, Thư vốn được coi là của Hán tộc. Trên những cơ sở đó ông đã mặc định về một hệ thống Việt Nho bàng bạc tương đồng từ thời cổ sử. Trong tác phẩm “Triết lý cái Đình”, ông đã xác định ngay từ đầu: “Việt Nam đã có một nền minh triết”. Có thể nói rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra một vấn đề trải rộng trên nhiều mặt của những giá trị văn hóa Đông phương - từ hàng thiên niên kỷ nay vẫn được mặc định thuộc về nền văn minh Hán – và ông đã tìm thấy một sự tương đồng đến kỳ lạ ở nền văn hiến Việt. Ông đã khai phá trong sự hỗn độn, huyền bí của nền văn minh Đông phương để chỉ ra một gía trị minh triết Việt tương đồng. Nhưng giáo sư Lương Kim Định vẫn chưa đạt được đến đích. Đây là cái khó của giáo sư. Cái khó ấy ông đã viết ngay trong mục I, phần thứ nhất của cuốn “Cơ cấu Việt Nho”. Ông viết: 1. Tại sao không Việt lại Nho? Thưa vì Nho với Việt là một. Nói Nho hay Việt, Việt hay Nho cũng thế. Đây là một lời quyết đoán khó có thể chấp nhận. Vì chữ Nho tuân theo một cú pháp ngược với cú pháp Việt và nó xuất phát từ nước Tàu chứ có phải của vô thừa nhận đâu, để cho ai muốn kéo về với mình cũng được. Vâng! Thưa quí vị. Đây chính là điều cản trở gây khó cho giáo sư khi tìm về cội nguồn minh triết Việt. Mặc dù ông đã đặt vấn đề một cách hoàn mỹ và toàn diện về sự tương đồng giữa những di sản truyền thống của văn hiến Việt với những giá trị mình triết Đông phương. Nhưng điều cản trở ông, chính là ông vẫn cho rằng những giá trị cốt lõi của minh triết Đông phương vẫn thuộc về người Hán. Vẫn có một thứ Hán nho sừng sững bên cạnh Việt Nho. Một thứ “ao người” bên cạnh cái “ao ta” đầy huyễn ảo giữa hai dòng trong đục. Tuy nhiên, đến đây tôi cũng cần phải nói rõ rằng: Bằng một sự mẫn cảm của một học giả uyên bác, giáo sư Lương Kim Định cũng đã đặt ra vấn đề cội nguồn lịch sử của Hán Nho. Ngay tiếp theo đoạn trích dẫn ở trên, ông đã viết: Thế nhưng lại có thể trả lời rằng: Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa? Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu. Đến đây, quí vị cũng thấy rằng: Giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề một cách rất xác đáng: Lịch sử của nền minh triết Hán Nho – vốn được coi là cội nguồn của văn minh Đông phương – cũng rất huyễn ảo. Nhưng giáo sư chỉ dừng lại ở đây và vẫn vì sự cản trở của quan niệm cho rằng có một nền minh triết Hán Nho xuất phát từ văn minh Hán. Cội nguồn minh triết Việt vẫn còn đầy huyễn ảo. Cái “ao ta” mầu nhiệm ấy vẫn còn chờ “gạn đục, khơi trong”, khi nó vẫn hỗn mang giữa hai dòng “trong”, “đục”. Miếng “cơm vàng, cơm bạc” của cô Tấm ngày xưa vẫn còn trộn lẫn trong sỏi đá và chờ phép màu của Đức Phật. Phép màu nói theo ngôn ngữ của thời “ngày xửa, ngày xưa”, nhưng diễn ra ngôn ngữ hiện đại thì chúng ta cần một phương pháp đúng để tìm về cội nguồn. Phần tiếp theo đây, chúng tôi xin được đề cập đến là: II – TÌM VỀ CỘI NGUỒN MINH TRIẾT VIỆT Kính thưa quí vị. Tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết đến những câu nổi tiếng của bài Bình Ngô Đại cáo, do đại danh nhân, anh hùng dân tộc Việt - Nguyễn Trãi viết: Như nước Đại Việt ta thuở trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Trải Triệu, Lê, Lý , Trần xây nền độc lập. Cùng Hán , Đường, Tống , Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau. Nhưng hào kiệt thời nào cũng có. Và trong Hoàng cung Huế, một bức thi pháp của vua Minh Mệnh cũng viết: Văn hiến thiên niên quốc. Xa thư vạn lý đồ. Hồng Bàng khai tịch hậu. Nam phục nhất Đường Ngu. Kính thưa quí vị. Có thể nói rằng: Trong lịch sử văn minh nhân loại, chỉ duy nhất có Việt sử ghi nhận với niềm tự hào là quốc gia văn hiến. Vậy thì cội nguồn văn hiến đó từ đâu, khi mà chính nền văn minh Hán cũng khiêm tốn và chưa sốt sắng lắm khi nhận mình là một quốc gia văn hiến trong lịch sử? Các văn bản còn lại trong chính sử, trong truyền thống văn hóa sử Việt, đã chỉ thẳng đến thời Hùng Vương với quốc hiệu Văn Lang - là quốc gia đầu tiên của Việt tộc - lập quốc vào năm 2879 trc CN và chính là cội nguồn của danh xưng văn hiến Việt. Nhưng – như chúng tôi đã trình bày: Lớp bụi thời gian của hơn 1000 năm Bắc thuộc và tiếp đó là 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của Việt sử, đã phủ dày lớp lớp rêu phong lên cội nguồn văn hiến Việt. Hàng ngàn năm không phải là con số để đọc trong một giây. Chỉ với ngay cuộc đời của những vị cao niên có mặt nơi đây, đã đủ chứng kiến bao nhiêu cuộc bể dâu trong cuộc sống của chúng ta. Hàng ngàn năm đã trôi qua. Việc tìm về nguồn cội Việt tộc không thể dễ dàng. Nhưng có một câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng trong nền minh triết Việt mà chắc tất cả chúng ta có mặt nơi đây đều biết, mà nội dung của nó như đã an ủi những con người Việt Nam đau đáu tìm về cội nguồn; đó là câu truyện Trê Cóc. Câu chuyện kể lại rằng: Đàn con của cóc là bầy nòng nọc, bị vợ chồng cá trê vốn hiếm muộn thấy nòng nọc giống mình, nên đã bắt về làm con của Trê. Mẹ Cóc thấy mất con và biết Trê đã lấy con của mình, bèn đi kiện. Nhưng trước hình thức khác hẳn Cóc và giống Trê của bầy nòng nọc, nên quan cá Chép đã xử cho Trê thắng kiện. Cóc đau buồn trở về thì Nhái Bén khuyên Mẹ Cóc hãy chờ đợi. Thời gian sẽ làm bày nòng nọc tiến hóa và sẽ trở về với Mẹ Cóc, trở về với cội nguồn. Kính thưa quí vị. Theo cách hiểu hoàn toàn chủ quan của chúng tôi thì đây chính là một câu truyện đầy tính minh triết của Việt tộc. Nòng nọc – tức là nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc, bị Hán hóa trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó ở miền Nam sông Dương tử, nên đã mang một hình thức khác là văn tự Hán . Cho nên nó có một vẻ bề ngoài thuộc về văn minh Hán – đó là hình tượng trong câu chuyện Trê Cóc, khi nòng nọc có bề ngoài giống Trê. Với hình thức bề ngoài đó và sự mạo nhận của đế chế Hán , khi nền văn hiến Việt sụp đổ ở bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước, khiến ai cũng tưởng nó thuộc về văn minh Hán. Nhưng bản chất di truyền tế vi, mà không dễ ai cũng nhận thức được thì nòng nọc vẫn là con của Cóc. Câu chuyện dân gian Việt Nam độc đáo ấy, muốn chuyển tải một thông điệp vượt thời gian đầy minh triết cho chúng ta thấy rằng: Với sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại thì chính những tri thức của nền khoa học hiện đại, sẽ thấy được bản chất của cội nguồn nền minh triết Đông phương thuộc về nền văn minh Khoa đẩu. Bầy nòng nọc sẽ biến thành cóc và trở về với cội nguồn Việt sử. trong sự chờ đợi mỏi mòn của Mẹ Cóc. Nhưng thời gian ấy là bao lâu trong sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miền nam sông Dương tử? Kính thưa quí vị. Có vẻ như là một lời mặc khải huyền vĩ - cách đây xấp xỉ 70 năm về trước - trong nhạc phẩm nổi tiếng của nền âm nhạc hiện đại Việt, như là câu trả lời cho vấn nạn thời gian của việc tìm về cội nguồn Việt sử. Đó là nhạc phẩm bất hủ “Hòn vọng phu” nổi tiếng của nhạc sĩ Lê Thương. Chắc nhiều quý vị lớn tuổi ngồi đây đều biết nội dung một đoạn lời nhạc này trong nhạc phẩm nổi tiếng nói trên: Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua. Đến khi núi lở, sông mòn. Mới mong tới hòn Vọng phu. Kể từ khi Việt sử chìm trong bóng tối dưới sự thống trị của đế chế Hán, đến nay hơn 2000 năm đã trôi qua. Qua hơn hai ngàn năm ấy, sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những tri thức khoa học, kỹ thuật vượt trội. tri thức khoa học đã tìm thấy những cấu tạo tế vi của vật chất, cũng như sự vận động của những thiên hà khổng lồ. Nó đã tìm thấy được bản chất của sự di truyền. Nó đã kết nối các nền văn minh cổ xưa trong sự hội nhập toàn cầu vĩ đại. Nó đã soi ánh sáng của tri thức hiện đại vào những giá trị của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Phải chăng, đây chính là thời gian được mặc khải trong lời nhạc phẩm Hòn Vọng phu, để đàn nòng nọc tiến hóa trở thành cóc và về với cội nguồn Việt sử? Đến đây, chúng tôi cần nói rõ để mong được quí vị lưu ý rằng: Chúng tôi không coi việc giải mã những truyền thuyết, truyện cổ, ca dao tục ngữ dân gian…vv….. làm bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử. Đấy không phải là phương pháp được khoa học công nhận - Chí ít là trong giai đoạn này hiện nay. Bởi vì tri thức khoa học ngày nay, chưa có một tiêu chí để làm chuẩn mực, xác định một phương pháp giải mã những di sản văn hóa phi vật thể truyền thống được coi là đúng. Chúng tôi cũng không dùng sự suy luận chủ quan, hoặc nhân danh ngoài khoa học để xác định luận điểm của chúng tôi, khi chứng minh cội nguồn minh triết Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Kính thưa quí vị. Chúng ta đang tiếp bước theo các bậc tiền nhân để đi tìm về cội nguồn văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử, mà một trong các vị tiền bối khả kính ấy chính là giáo sư Lương Kim Định – là nguyên nhân để chúng ta có mặt ngày hôm nay - cùng chia sẻ những giá trị mà ông đã để lại, trong công cuộc tìm về cội nguồn văn hiến Việt. Chúng ta có thuận lợi hơn so với thời đại của giáo sư Lương Kim Định đã sống. Đó chính là sự tiến bộ vượt bậc của những tri thức khoa học hiện đại, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Đó là những phương pháp luận khoa học, những tiêu chí khoa học , cùng với những thành tựu của khoa học hiện đại, để so sánh, đối chiếu thẩm định một lý thuyết, một giả thuyết, một phương pháp ứng dụng được coi là đúng. Từ những giá trị đó của tri thức khoa học hiện đại , chúng tôi coi như là những phương tiện hữu hiệu để tiếp bước các bậc tiền bối tìm về cội nguồn minh triết Việt và khám phá những giá trị thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Phần tiếp theo đây, chúng tôi sẽ trình bày về: III. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN NHỮNG GÍA TRỊ CỦA NỀN VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG. Kính thưa quý vị. Chúng ta đang sống trong một thời đại chuyển tiếp của sự hội nhập toàn cầu vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử tiến hóa của nền văn minh nhân loại với những thành tựu khoa học tiên tiến nhất tính đến ngày hôm nay. Tất cả những gía trị của các nền văn minh từ thời cổ đại đến nay đều được chia sẻ và được biết đến qua mạng thông tin toàn cầu. Nhưng có một nền văn minh cổ xưa vẫn sừng sững một cách huyền vĩ, thách đố tất cả tri thức của nền văn minh nhân loại trong thời hội nhập. Đó chính là nền văn minh Đông phương huyền bí. Phải chăng đó là vì người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Cái sai đầu tiên và cũng rất phổ biến trong tất cả các nghiên cứu về cội nguồn văn minh Đông phương - mà trong quá trình nghiên cứu về Lý học Đông phương, chúng tôi đã nhận thấy rằng: Đó chính là sự mặc định nó thuộc về văn minh Hán . Từ đó, khiến dẫn đến một hệ quả đương nhiên cho rằng: Những giá trị của nền văn minh Đông phương ghi nhận trong các bản văn chữ Hán là những thành tựu của nền văn minh này. Và đó chính là nguyên nhân khiến người ta sẽ không thể phục chế được một cách có hệ thống và tính nhất quán những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương. Mà nền tảng căn bản của là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Đây cũng chính là điều mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề - tôi xin được nhắc lại như sau: Phải, Nho xuất phát từ nước Tàu. Nhưng nước Tàu ở thời đại nào mới được chứ? Có phải từ thời Hán trở đi hay trước nữa. Và không một học giả nào dám chối rằng nó đã xuất phát từ thời trước, thời còn khuyết sử. Thời mà Bách Việt còn làm chủ hầu khắp nước Tàu. Kính thưa quí vị! Để xác định cội nguồn Việt tộc và phủ nhận sự mặc định phổ biến từ ngàn xưa về nguồn gốc Hán của nền minh triết Đông, chúng ta phải viện dẫn đến tri thức khoa học hiện đại và nhân danh khoa học. Tiêu chí khoa học hiện đại đã xác định một học thuyết thuộc về nền văn minh nào đó thì nó phải thỏa mãn ba yếu tố sau: 1/ Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. 2/ Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. 3/ Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Trên cơ sở tiêu chí khoa học này chúng tôi đã xác định: Những minh chứng một cách chi tiết cho luận điểm này và mọi vấn đề liên quan, chúng tôi đã trình bày trong các tác phẩm đã xuất bản và trong các tiểu luận được trình bày trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. Quí vị quan tâm có thể tham khảo ở website trên. Trong phạm vi bài nói hôm nay, chúng tôi xin trình bày một cách tóm tắt như sau: Yếu tố thứ nhất (1). Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. Trên cơ sở này chúng ta xem xét lịch sử phát triển thuyết Âm Dương Ngũ hành trong nền văn minh Hán. Trước hết chúng ta hãy xem xét nội dung của cuốn Hoàng Đề nội kinh tố vấn. Đây là cuốn sách về lý luận căn bản của Đông y nổi tiếng với thời gian hình thành được xác định vào thời Hoàng Đế, hơn 3000 năm trước CN. Nội dung của cuốn sách này hoàn toàn sử dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành như là hệ quả của một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh. Ở đây, nếu có vị nào đã một lần xem được cuốn Hoàng Đế nội kinh sẽ nhận thấy điều này. Nhưng 1000 năm sau đó - Đây cũng không phải là con số được đọc trong một giây – thì vua Đại Vũ theo cổ thư chữ Hán mới tìm ra Lạc Thư và phát minh ra thuyết Ngũ hành. Sau đó 1000 năm nữa cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Văn Vương nhà Chu mới sáng tạo ra Hậu Thiên Bát quái Văn Vương và làm ra cuốn Chu Dịch. 500 năm sau đó, theo cổ thư chữ Hán thì một vị danh sư được coi là Khổng tử mới bổ sung vào cuốn Chu Dịch và khái niệm Âm Dương trong văn bản cổ nhất xuất hiện vào thời kỳ này. Tóm lại, thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện trong lịch sử văn minh Hán với một tiến trình ngược theo kiểu : Sinh con rồi mới sinh cha. Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. Để xác định rõ hơn: Ngay cả những nhà nghiên cứu lịch sử và Lý học Trung Hoa hiện đại cho đến tận ngày hôm nay - khi chúng ta gặp nhau ở đây - vẫn không thể xác định được Thuyết Âm Dương Ngũ hành xuất hiện vào thời kỳ nào trong lịch sử văn minh Hán. Đúng như giáo sư Lương Kim Định đã đặt vấn đề từ hơn 40 năm trước. Yếu tố thứ hai (2): Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. Về vấn đề này thì chúng tôi đã chứng minh rằng: Toàn bộ lịch sử của nền văn minh Hán từ hàng ngàn năm nay không chứng tỏ được một nền tảng tri thức xã hội tạo nên thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chỉ tính riêng sự phát triển bất hợp lý trong quá trình hình thành học thuyết này theo bản văn chữ Hán, đã cho thấy nó không thể thuộc về nền văn minh Hán. Còn những hệ quả ứng dụng của nó - tôi thí dụ như bảng Lục thập Hoa giáp – thì chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại cũng phải phát biểu rằng: “Không hiểu từ cơ sở nào để các tiền nhân Trung Hoa đặt ra bảng Lục thập hoa giáp này? Từ hàng ngàn năm nay đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về nó, nhưng đến nay vẫn cứ là huyền bí, khó hiểu !” (Thiệu Vĩ Hoa. “Chu Dịch và Dự đoán học”& “Dự đoán theo tứ trụ”) Tóm lại từ hàng ngàn năm nay, chính những người Trung Hoa cũng chỉ biết học thuộc lòng và ứng dụng. Họ không thể phục hồi lại được một học thuyết nền tảng của nền minh triết Đông phương – thuyết Âm Dương Ngũ hành – tiền đề cho các bộ môn ứng dụng là hệ quả của nó. Nếu như nền tảng tri thức của nền văn minh Hán chính là cơ sở hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành và những giá trị của nó chính là thành tựu đạt được trên cơ sở nền tảng tri thức đó - cho dù giải thích bằng tính thất truyền - thì – người ta đã phục hồi được nó từ lâu. Chứ không thể huyền bí hơn 2000 năm nay cho đến tận ngày hôm nay – khi chúng ta đang ngồi ở đây để tưởng niệm giáo sư Lương Kim Định và bàn về những di sản của giáo sư tìm về cội nguồn minh triết Việt. Nòng nọc về bản chất không phải con của Trê. Yếu tố thứ ba (3) là: Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Về vấn đề này thì chúng tôi cần xác định rằng: Cấu trúc của thuyết Âm Dương Ngũ hành thể hiện trong các bản văn chữ Hán thậm chí không thể chứng tỏ đó là một học thuyết hoàn chỉnh. Chưa nói đến tính hợp lý, tính hệ thông và nhất quán của nó. Chúng đầy rẫy những mâu thuẫn và có tính tự phủ định trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hiện tượng này đã khiến cho những nhà nghiên cứu chuyên môn sâu của chính nền văn minh Trung Hoa từ hàng ngàn năm nay, cũng mâu thuẫn nhau khi giải thích những vấn đề liên quan đến nó. Theo kiểu “thày bói xem voi”, mà một câu truyện nổi tiếng của nền minh triết Việt đã nói đến. Những chứng minh rất cụ thể và chi tiết về vấn đề này, quí vị có thể tham khảo tại website lyhocdongphuong.org.vn của chúng tôi. Ở đây chúng tôi chỉ xin dẫn chứng một số những ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong các bản văn cổ chữ Hán, tương đối phổ biến. Đầu tiên là môn phong thủy. Có lẽ hầu hết những người quan tâm đến phong thủy - được coi là xuất phát trong lịch sử văn minh Hán - đều biết rằng có đến 4 trường phái phong thủy lưu truyền. Những trường phái này có những luận điểm mâu thuẫn lẫn nhau trong những ứng dụng cụ thể. Ông thày thuộc trường phái này thì phản đối phương pháp của ông thày theo trường phái khác. Và hệ quả của nó là nội cái bếp của gia chủ, nếu có nhiều ông thày theo cổ thư chữ Hán đến sửa thì nó quay đủ các hướng khác nhau. Hoặc cụ thể hơn chính là câu chuyện được ghi nhận trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, có tựa là “Nhật giả liệt truyện”. Trong câu chuyện này, Tư Mã Thiên đã miêu tả việc các thày bói Trung Hoa được Hán Vũ Đế triệu tập, để chọn ngày cưới vợ cho nhà vua. Nhưng các thày cãi nhau ỏm tỏi cả ngày, đỏ mặt tía tai, mà vẫn không thống nhất được ngày nào được coi là tốt để cưới vợ cho vị Hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa. Như vậy, với sự giới thiệu những luận cứ tiêu biểu, căn cứ vào tiêu chí khoa học , chúng tôi đã xác định rằng: Cội nguồn minh triết Đông phương không thể thuộc về văn minh Hán. Tiếp theo đây, chúng tôi xin giới thiệu một cách nghiêm túc những cách giải thích khác cho sự bí ẩn của nền văn minh Đông phương, nhằm làm sáng tỏ them tính bế tắc khi xác định sai lầm về cội nguồn văn minh Đông phương thuộc về văn minh Hán. Kính thưa quí vị. Cách giải thích thứ nhất, mà có lẽ các quí vị ít được nghe, cho rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là do người ngoài hành tinh có một nền văn minh vượt trội đã đem đến trái Đất. Vì kiến thức vượt trội của nền văn minh ngoài trái Đất, nên chúng ta không thể hiểu nổi!? Chúng tôi bác bỏ giả thuyết này, vì những giá trị của nó phục vụ cho con người và xuất phát từ những thực tại khách quan trên chính trái Đất này. Do đó nó không thể là của người ngoài hành tinh ban cho trái Đất này. Nhưng còn một giả thuyết nữa thì đã có từ lâu và có thể ít nhiều trong chúng ta được nghe nói tới. Đó là việc cho rằng: thuyết Âm Dương Ngũ hành do các bậc tiên thánh làm ra, nên người phàm không thể hiểu nổi. Một câu “thành ngữ” thuộc về “ chuyên ngành bói toán” tồn tại từ cách đây mới ngót nửa thế kỷ trờ về trước, mà những vị lớn tuổi đều biết, đó là: “Theo quẻ này thì Thánh dạy rằng:….”. Và Thánh ở đây được hiểu là những bậc siêu phàm từ cõi trên, không thuộc về cõi trần gian này. Tất nhiên đây không phải cách giải thích nhân danh khoa học. Nhưng nó gián tiếp phủ nhận nền tảng tri thức của nền văn minh Hán không phải là cơ sở tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ hành. Vì nó thuộc về trí tuệ của tiên thánh. Tất cả hai cách giải thích trên, cũng mặc nhiên xác định cội nguồn lý học Đông phương thuộc về văn minh Hán. Và nó đã phản ánh sự bế tắc, khi không thể khám phá được những bí ẩn của lý học Đông phương bằng một tư duy khoa học. Bởi vì bản chất của nền minh triết Đông phương không thuộc về văn minh Hán. Tiếp theo đây chúng tôi minh chứng sự xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt trong phần III của bài tham luận này: III .THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH THUỘC VỀ VĂN HIẾN VIỆT Kính thưa quí vị. Khi xác định cội nguồn Lý học Đông phương không thuộc về văn minh Hán, chúng tôi đã xóa bỏ được sai lầm ngay từ dữ kiện đầu vào của việc đi tìm cội nguồn minh triết Đông phương. Từ đó, chúng tôi xác định với một giả thiết có cơ sở là nó thuộc về nền văn hiến Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử. Đây cũng chính là vấn đề mà giáo sư Lương Kim Định đã đặt ra trong các trước tác của ông. Cũng trên cơ sở của giả thuyết này thì vấn đề hợp lý tiếp theo được đặt ra là: Những gì được ghi nhận trong cổ thư chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành có thể sai lệch và không phản ánh đúng nội dung nguyên thủy của nó – khi nền văn minh Việt đã sụp đổ ở miền nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Điều này đã phản ánh trên thực tế bằng những thất bại của những học giả nghiên cứu theo hướng này, không phải bây giờ, hoặc vài chục, vài trăm năm. Mà là đã hàng thiên niên kỷ. Kính thưa quí vị. Những tiêu chí khoa học được trình bày ở trên với những luận cứ phù hợp đã xác định rằng: Cơ sở nền minh triết Đông phương mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về nền văn minh Hán. Đồng thời những tiêu chí khoa học đó , cũng chính là những yếu tố cần để xác định những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương và tìm về cội nguồn minh triết Việt - một cách sòng phẳng, công bằng và nhân danh tính khách quan khoa học. Nhưng để chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, còn cần phải đối chiếu, so sánh với nhiều tiêu chí khoa học khác với những luận cứ khách quan có thể kiểm chứng. Cụ thể là: *Sử dụng những tiêu chí khoa học hiện đại gồm những yếu tố cần và đủ cho việc xác minh tính khoa học của một giả thuyết, một phương pháp, một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. *Những tiêu chí khoa học kết hợp với những thành tựu của tri thức khoa học hiện đại đã được kiểm chứng làm cơ sở so sánh, đối chiếu với những gía trị còn lại của nền minh triết Đông Phương . Đồng thời kết quả nghiên cứu phải phù hợp với tiêu chí khoa học. Việc chứng minh cội nguồn thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về văn hiến Việt, chúng tôi cũng bắt đầu so sánh với ba tiêu chí xác định một học thuyết thuộc sở hữu của nền văn minh nào, đã trình bày ở trên. Yếu tố thứ nhất (1). Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ một cách hợp lý thuộc về nền văn minh đó. Chúng tôi đã xác định rằng : Nền văn hiến Việt chính là cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Và đây chính là giả thiết mà chúng tôi đặt ra nhân danh khoa học, sau khi bác bỏ cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về văn minh Hán. Những tiêu chí khoa học xác định rằng: Một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách nhất quán, có tính hệ thống, tính hoàn chính, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Đây chính là cơ sở cho những luận cứ phù hợp với tiêu chí khoa học của một giả thuyết nhân danh khoa học, xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt tộc. Vấn đề lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt là một giả thuyết nhân danh khoa học. Do đó, chúng tôi phải chứng minh giả thuyết này phù hợp với tất cả những tiêu chí khoa học xác định một giả thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, thông qua hai yếu tố còn lại của tiêu chí xác định cội nguồn văn minh cho một học thuyết đã trình bày ở trên. Yếu tố thứ hai (2): Nền tảng tri thức xã hội phải phù hợp với sự hình thành nên nội dung của học thuyết đó. Chứng minh được giả thuyết này là một việc cực kỳ khó khăn. Vì lịch sử thăng trầm với hơn một ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và 1000 năm hưng quốc sau đó với bao cuộc chiến tranh xâm lược hủy diệt văn hóa Việt, đã xóa nhòa những dấu ấn của nền văn minh Việt tộc. Nhưng chính bề dày của nền văn hiến có cội nguồn từ thời Hùng Vương dựng nước từ gần 5000 năm trước, đã để lại cho chúng ta những dấu ấn qua những di sản văn hóa phi vật thể - mà những dấu ấn đó chính là những phát hiện của giáo sư Lương Kim Định trong các tác phẩm của ông – đã được chúng tôi đã bổ sung, làm sáng tỏ hơn trong những luận cứ của mình. Ở đây chúng tôi cũng xin được lưu ý các quí vị quan tâm là: Vào tháng 5. 2002, cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã thống nhất xác định rằng: Những di sản văn hóa phi vật thể là những bằng chứng khoa học để chứng minh cho lịch sử. Như vậy, di vật khảo cổ, tư liệu văn bản cổ..vv… không phải là bằng chứng không thể thay thế chứng minh cho lịch sử. Kính thưa quý vị. Chúng tôi đã chứng minh một cách chi tiết nền tảng minh triết Việt là cơ sở phục hồi và phù hợp với sự hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành, trong các sách đã xuất bản với những tiểu luận được đăng tải trên website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu một di sản văn hóa phi vật thể quen thuộc với tất cả những con người Việt Nam, trong kho tàng di sản văn hóa Việt còn lại qua hơn 2000 năm thăng trầm của lịch sử Việt tộc. Xin quý vị xem bức tranh dân gian dưới đây: Kính thưa quí vị. Tôi tin chắc rằng bức tranh dân gian đầy chất dân dã này , quá quen thuộc với tất cả con người Việt Nam - Từ những đứa trẻ bắt đầu có nhận thức cho đến những vị cao niên. Tùy theo góc nhìn, chúng ta có thể hiểu nội dung bức tranh dưới nhiều góc độ. Nhưng chúng tôi xin lưu ý quí vị về biểu tượng chiếc vòng xoáy trên bụng con lợn mẹ trong tranh và so sánh với một biểu tượng gần giống cũng rất đỗi quen thuộc với chúng ta, là đồ hình dưới đây: Tất cả chúng ta đều biết rằng đồ hình trên chính là biểu tương cho sự minh triết Hán nho thể hiện trong Kinh Dịch và những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nó có mặt ở khắp nơi và mang dấu ấn của nền văn hóa Hán. Nó ăn theo sự bí ẩn huyền vĩ của minh triết Đông phương và trở thành vật thiêng để trấn yểm trước của nhiều ngôi nhà ngay ở Hanoi này. Tất nhiên nó là sản phẩm của văn hóa Hán, trong quá trình nghiên cứu minh triết Đông phương . Bản quyền phát minh ra đồ hình này là Chu Đôn Di vào đời Tống cách đây ngót 1000 năm. Nhưng như một sự mặc khải, cũng trong lời bài hát của nhạc phẩm nổi tiếng Hòn Vọng phu của nhạc sĩ Lê Thương, chắc nhiều vị còn nhớ đoạn này: Từ bóng cây, gốc rạ ven đường. Từ mái tranh, góc đình trong làng. Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống…. Nhưng trong di sản văn hóa truyền thống Việt – nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống ấy lại tồn tại một đồ hình minh triết khác hẳn cho đồ hình Âm Dương có nguồn gốc Hán trên. Đó chính là Đồ hình Âm Dương Lạc Việt thể hiện một nền minh triết Việt khác hẳn minh triết Hán nho. Xin quý vị so sánh hai hình như sau: Rõ ràng chúng có một hình thức khác hẳn nhau , mặc dù bề ngoài có vẻ gần giống, như Trê với Nòng nọc vậy. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt, không phải chỉ duy nhất thề hiện ở bức tranh Đàn lợn nổi tiếng của làng tranh Đông Hồ. Mà chúng tôi còn thấy rải rác ở nhiều nơi đình chùa cổ và trên các di sản văn hóa khác trong kho tàng văn hóa truyền thống Việt. Dưới đây là những hình ảnh mô tả đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên các di sản mà chúng tôi sưu tầm được. Đồ hình Âm Dương Việt trong đền thờ Mẫu thân sinh ra Thánh Gióng tại Bắc Ninh Đồ hình Âm Dương Việt ở chùa Bạch Y Tuyết Sơn Bồ Tát - được xây dựng vào năm đầu tiên của thế kỷ XIX 1801, tại Xóm 8, xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc (Nghệ An). Đồ hình Âm Dương Việt trên chùa Vô Vi Tự. Chùa nằm ở phía Bắc núi Tử Trầm, thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Hình Âm Dương Lạc Việt ở chùa Bối Khê thuộc xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hanoi. Đồ hình âm - dương Lạc Việt trên cái giá đặt văn tế (Đền thờ tướng quân Lê Thành - một vị tướng thời Lê Lợi , Làng Định Hòa - Đông Cương - Thanh Hóa) Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trên văn bia "Khiêm Cung Ký" trong lăng Vua Tự Đức. Kính thưa quí vị. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt không chỉ có trong di sản văn hóa Việt,mà còn ở những cộng đồng người Hoa có nguồn gốc Nam Dương tử, lãnh thổ của nước Văn Lang, cội nguồn nền minh triết đầy huyền vĩ của Việt tộc. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở Hội quán Phúc Kiến tại Hội An. Đồ hình Âm Dương Lạc Việt trong chùa cổ Trung Hoa trên đất Malaysia. Trên đây, chúng tôi chỉ xin giới thiệu những Đồ hình Âm Dương Lạc Việt tiêu biểu sưu tầm được trong di sản văn hóa truyền thống Việt và các vùng lãnh thổ quôc gia lân bang. Việc thể hiện những đồ hình Âm Dương Lạc Việt ở đây – vốn không hề có mặt trong bất cứ bản văn chữ Hán nào tìm được tính đến ngày hôm nay ,liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch - để so sánh với Đồ hình Âm Dương Hán, chúng tôi muốn trình bày mấy vấn đề sau đây: * Đồ hình Âm Dương nói chung là hình tượng biểu kiến của Thuyết Âm Dương Ngũ hành, một học thuyết nền tảng của Lý học Đông phương. Như vậy, nền minh triết Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử, đã có một đồ hình biểu kiến riêng tồn tại trong di sản văn hiến Việt, bên cạnh đồ hình Âm Dương biểu kiến của văn minh Hán. Điều đó chứng tỏ rằng nền minh triết Việt đã quan niệm khác hẳn về nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành qua hình tượng biểu kiến về học thuyết này, qua đồ hình Âm Dương Lạc Việt. * Những di sản còn lại sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong lịch sử thăng trầm của Việt tộc, nhưng đủ để xác định bề dày của nền tảng minh triết Việt liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hệ thống luận cứ chứng minh nền tảng tri thức của Lý học Đông phương có cội nguồn minh triết Việt – mà đồ hình Âm Dương Lạc Việt là chỉ là một thí dụ - chúng tôi không thể trình bày một cách hoàn chỉnh trong bài tham luận này. Nên cũng xin trân trọng kính mới quý vị quan tâm quán xét trên website lyhocdongphuong.org.vn. * Lịch sử xuất hiện của Đồ hình Âm Dương Việt ở khắp các vùng lãnh thổ và trong nước Việt Nam hiện nay cho thấy một di sản văn hóa còn lại mang tính phổ biến ở Nam Dương tử và phải có trước đồ hình Âm Dương Hán - Vốn xuất hiện từ thời Tây Hán. * Trên cơ sở những di sản văn hóa truyền thống Việt mà chúng tôi phát hiện trong quá trình nghiên cứu văn hóa cổ và Lý học Đông phương , chúng tôi đã xác định và chứng tỏ rằng: Lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành phải thuộc về cội nguồn văn hiến Việt và chính những di sản còn lại, dù tan tác với thời gian hơn 2000 năm thăng trầm của Việt sử, cũng đủ phục hồi lại một cách có hệ thống, nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này trên cơ sở so sánh, đối chiếu những thành tựu của khoa học hiện đại và những tiêu chí khoa học. Đây chính là bằng chứng sắc sảo – nhân danh khoa học - xác định một cách chắc chắn - nền tảng tri thức Việt là chủ nhân đích thực của nền minh triết Đông phương. Bây giờ chúng ta quán xét đến yếu tố cuối cùng theo tiêu chí khoa học để tìm về những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Dông phương. Yếu tố thứ ba (3): Nội dung của học thuyết phải thỏa mãn tính hợp lý, tính hệ thống, tính nhất quán trong cấu trúc của nó. Đây chính là vấn đề cực kỳ khó khăn. Sự bế tắc trải trên 2000 năm trong lịch sử khám phá những bí ẩn của Lý học Đông phương của tất cả các triết gia Đông phương từ cổ đại và cả trí tuệ của nền văn minh hiện đại , trong sự hội nhập của các nền văn minh đã chứng tỏ điều này. Bởi vậy, khi những di sản còn lại của nền văn minh Lạc Việt được xác định chính là nền tảng tri thức còn lại của Lý học Đông phương – mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành được xác định thuộc về nền văn hiến Việt - thì nó phải chứng tỏ là một học thuyết có tính hệ thống, tính nhất quán và tính hợp lý trong cấu trúc nội dung và khả năng phục hồi một cách hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống lý thuyết này. Nếu xác định đó là một học thuyết khoa học thì còn phải thỏa mãn những yếu tố về tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri….và còn rất nhiều những tiêu chí khoa học khác cho một học thuyết nhân danh khoa học, như: Khả năng phản biện, khả năng tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong việc giải thích các vấn đề liên quan đến nó…vv…. Kính thưa quí vị. Đến đây, tôi cần xác định một yếu tố rất quan trọng nữa, mang tính đặc thù trong việc tìm hiểu nghiên cứu thuyết Âm Dương Ngũ hành - vì đây là trường hợp chưa có tiền lệ trong sự phát triển của lịch sử văn minh nhân loại. Trên thực tế quá trình phát triển của lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được - thì - tất cả mọi học thuyết dù khoa học hay phi khoa học, duy vật hay duy tâm….vv…đều hình thành bắt đầu từ những nhận thức trực quan, được tổng hợp với tư duy trừu tượng và sau đó mới hình thành nên cấu trúc một học thuyết nào đó, để giải thích những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó. Đây là một quy luật. Do đó, bất cứ một học thuyết nào - kể các các học thuyết mang tính tôn giáo, thần quyền, hay khoa học – khi hình thành trong lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại, đều có thể kiểm chứng được và xác định tính chân lý của trên cơ sở nền tảng tri thức xã hội của nền văn minh tạo ra nó,hoặc thẩm định được tính chân lý trong lịch sử phát triển tiếp theo của nền văn minh liên quan đến nó.. Nhưng ở đây thì thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết đã có sẵn. Mặc dù sự hình thành học thuyết này cũng không nằm ngoài quy luật lịch sử và phát triển nội tai của nó . Và nếu như giả thuyết nó thuộc về nền văn minh Việt là đúng thì đấy lại là một nền văn minh đã sụp đổ bên bờ nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước. Tất cả những nền tảng tri thức duy trì học thuyết này cũng bị vùi lấp trong hơn 1000 năm Bắc thuộc và 1000 năm sau đó của Việt sử. Ở đây chúng tôi chưa nói đến nó còn có thể thuộc về một nền văn minh xa xôi hơn nữa, từ hàng vạn năm trước mà chúng tôi đã chứng minh sau này. Đây chính là tính đặc thù rất quan trong của việc nghiên cứu Lý học Đông phương. Chính vì vậy mà việc chứng minh cho nội dung của học thuyết này khó khăn hơn rất nhiều . Một khó khăn dễ nhận thấy là những khái niệm, biểu tượng, ký hiệu, tiên đề, nguyên lý…vv…thuộc về thuyết Âm Dương Ngũ hành , mà người xưa đúc kết từ những hiện tương khách quan và trên nền tảng tri thức của nền văn minh đã tạo ra nó nhận thức được và kiểm chứng được - thì - nó lại không thuộc về nền tảng tri thức của nền văn minh hiện đại. Nhưng những tiêu chí khoa học đòi hỏi: Sự phục hồi học thuyết này phải chứng tỏ được tính hợp lý trong toàn bộ cấu trúc thuộc hệ thống của nó một cách nhất quán và khả năng hoàn chỉnh học thuyết này. Nếu không chứng minh được điều này và vượt qua được sự cách biết giữa nền tảng tri thức của các nền văn minh , thì hệ quả vẫn là dẫn đến sự bế tắc. Cho dù chúng ta đã bắt đầu từ một giả thuyết có cơ sở và đáng tin cậy là cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt, sau khí đã chứng minh tính mâu thuẫn trong nội dung và lịch sử cội nguồn của học thuyết không thuộc về văn minh Hán. Một yếu tố cần quan tâm và là hệ quả của tính chất đặc thù trong việc khám phá bí ẩn của nền Lý học Đông phương – chính là nó không đơn giản chỉ là tính thất truyền và những mảng còn lại đều chính xác là những thành tựu của nó - thì - người ta đã phục hồi được lý thuyết này từ lâu rồi. Nhưng ở đây đã hơn 2000 năm trôi qua trong lịch sử văn minh nhân loại, để cho đến tận ngày hôm nay những gía trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương vẫn sừng sững thách đố trí tuệ của văn minh nhân loại. Như vậy, cần phải xác định rằng đã có những sai lệch cần phải hiệu chỉnh trong những giá trị còn lại của Lý học Đông phương - thể hiện trong những bản văn chữ Hán – khi xác định rằng: Nền văn minh Hán không phải là cội nguồn đích thức của Lý học Đông phương. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết và phương pháp khoa học, chúng tôi đã chứng minh rằng chính những di sản văn hóa truyền thống Việt – là nền tảng tri thức Việt qua những di sản văn hóa truyền thống còn sót lại - là những yếu tố quan trọng góp phần hiệu chỉnh nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành có tính hệ thống, tính nhất quán và sự hợp lý lý thuyết trên toàn bộ những vấn đề liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Những cơ sở của những luận điểm có tính hệ thống chứng minh cho vấn đề này, chúng tôi không thể chuyển tại trong nội dung một bài tham luận ngắn và có tính giới hạn về thời gian. Một lần nữa chúng tôi trân trọng mời các quí vị quan tâm tham khảo website lyhocdongphuong.org.vn. Nhưng ở đây tôi có thể minh họa qua một thành tựu của chúng tôi. Kính thưa quí vị. Cuộc Hội thảo “ Tính khoa học trong Phong thủy” do TTNC LHDP tổ chức thành công tại Hanoi vào ngày 15. 12 . 2009, trước khoảng 400 đại biểu với sự tham dự của nhiều nhà khoa học tên tuổi thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau. Đây chính là một thành tựu xác định tính đúng đắn và khoa học của việc chứng minh cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về lịch sử văn hiến Việt. Những mảnh vụn còn sót lại thể hiện trong các phương pháp ứng dụng của ngành Phong thủy - được miêu tả trong các bản văn chữ Hán như là những trường phái và mâu thuẫn với nhau – đã được chúng tôi đã hệ thống hóa và chứng minh tính nhất quán và khả năng lý giải một cách hợp lý mọi vấn đề liên quan đến nó của ngành phong thủy học thuộc về văn minh Việt và xác định nó hoàn toàn phù hợp với những tiêu chí khoa học hiện đại. Chính sự phù hợp với tiêu chí khoa học của Phong Thủy Lạc Việt xác định tính khoa học của ngành Phong thủy có cội nguồn từ văn minh Việt. Tuân thủ theo những tiêu chí khoa học cho việc thẩm định một lý thuyết, hoặc một giả thuyết, một phương pháp, một ý tưởng khoa học được coi là đúng – chúng tôi đã chứng minh và xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một hệ thống lý thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh và những ứng dụng của nó – miêu tả từ sự hình thành vũ trụ, từ những cấu trúc vật chất không khối lượng cho đến những thiên hà khổng lồ, những quy luật tương tác hoàn toàn khách quan trong sự vận động của vũ trụ ảnh hưởng đến thiên nhiên, cuộc sống và con người. Không chỉ dừng lại ở ngành phong thủy học, chúng tôi cũng xác định rằng Thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về cội nguồn văn hiến Việt là một học thuyết khoa học, hoàn chỉnh và thỏa mãn đầy đủ những tiêu chí khoa học cho một học thuyết nhân danh khoa học. Tiến xa hơn nữa và cũng chứng tỏ sự phát triển tất yếu từ một giả thuyết ban đầu đúng đăn – Cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến – chúng tôi đã xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà những nhà khoa học đang mơ ước. Ra ngoài khoa học một chút - thì - thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nền văn minh trong tương lai của nhân loại, mà bà Vanga đã tiên đoán. Kính thưa quí vị. Đây chính là cái “ao ta” hơn hẳn “ao người”;, đây cũng chính là ”cơm vàng , cơm bạc” từ ngày xửa, ngày xưa mà tổ tiên đã để giành cho những hậu duệ của nền văn minh Việt một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương tử. Những gía trị huyền vĩ của nền văn minh đó đã bắt đầu tỏa sáng sau hơn 2000 năm bị vùi lấp trong cuộc bể dâu của lịch sử. Và chính sự phát triển theo những quy luật của tự nhiên, sự tiến bộ của tri thức khoa học hiện đại với sự xuất hiện của những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và đó cũng là sự tiến hóa của tự nhiên, để nền văn minh Khoa Đẩu, những con nòng nọc trở về với Mẹ Cóc , trở về với cội nguồn. Kính thưa quí vị Những thành tựu của chúng tôi có được ngày hôm nay. Chính là bắt đầu từ những sự nghiệp của các bậc tiến bối, đã đặt những viên gạch nền tảng cho công cuộc trở về cội nguồn vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt. Bởi vậy, trước khi kết thúc bản tham luận này, chúng tôi xin được một lần nữa kính cẩn nghiêng mình bày tỏ lòng ngưỡng mộ với những bậc tiên liệt của dân tộc Việt đã dày công tạo dựng nên một nền văn hiến sử huyền vĩ, trải gần 5000 năm và là cội nguồn của Lý học Đông phương. Chúng tôi kính cẩn bày tỏ sự ngưỡng vọng trước công lao của giáo sư Lương Kim Định với những đóng góp của ông cho công cuộc tìm về cội nguồn Việt sử. Chúng tôi cũng bày tỏ sự cảm ơn với ban tổ chức và các quí vị có mặt ngày hôm nay, đã quan tâm đến công trình nghiên cứu của TTNC LHDP. Xin trân trọng kính chào quí vị. T/p HCM. 12. 7. 20121 like
-
Quan lộc của bạn có thất sát toạ thủ, hội tứ sát tinh kèm hoá kỵ thì không tránh khỏi thăng trầm trong công việc. Chả cần nói điều này chắc bạn tự nghiệm thấy rồi, quan trọng là cố gắng mà học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm để biết cách xử lý tình huống, tránh va chạm không cần thiết. Vì vậy mà công việc càng về sau sẽ thuận lợi hơn cho bạn. Chúc thành công!1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
Đây có là một phần tài liệu tìm được ở Trung Tâm, phần tài liệu này được Sư Phụ Thiên Sứ tìm được trong một dịp tình cờ, nay đánh máy lại phổ biến lên cho các bậc học giả, nghiên cứu và cho ý kiến, nếu có bậc học giả nào có được bản hoàn chỉnh và muốn công bố cho mọi người biết xin liên hệ với TT NC Lý Học Đông Phương. -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- THUYẾT MINH 1.CHỮ KHOA-ĐẨU TỪ THỜI HỒNG-BÀNG: Kể từ đời Hồng-Bàng (-2879 trước Công-nguyên), đã có chữ khoa-đẩu. Sách Kim Cổ Kì Quan có kể chuyện rằng vào thời vua Đường Minh-Hoàng (713-756) có man-sứ dâng sớ bằng chữ khoa-đẩu, thứ chữ này có hình dạng như con nòng-nọc ( khoa đẩu=con nòng-nọc). Bấy giờ, trăm quan đại-thần không ai đọc được, chỉ có Lí Bạch là đọc được tờ sớ của man-sứ, bởi vì mẹ Lí Bạch là người Tây-vực (bấy giờ thường được gọi là man-bà). Từ năm 1599 ( Lê Thế-Tông),Quang-Hưng (năm 22), Trịnh Tùng thế-tập tước vương, lấy tước là An-Bình Vương.Tùng bí mật dùng riêng chữ khoa-đẩu để chép gia-phả và các tài-liệu giữ kín trong nội-phủ. Từ khi Trịnh Sâm và Trịnh Cán mất năm 1782, Trịnh Khải tự sát 1786, Trịnh Bồng bỏ chạy trốn mất biệt, không còn tung-tích gì nữa, thì coi như nhà Trịnh mất hẳn. Hiện nay, có người họ Trịnh còn giữ lại được gia-phả của Trịnh-phủ, mà lại nói rằng gốc từ bà Chúa Chè. Như vậy có thể là hậu-duệ của Trịnh Bồng còn giữ được gia-phả họ Trịnh, bởi vì Trịnh Sâm ắt phải dặn Tuyên-Phi (Đặng Thị Huệ) nhận Bồng làm con nuôi, đề phòng trường-hợp Cán không sống lâu. Do đó hậu-duệ của Trịnh-Bồng ắt phải thờ bà Chúa Chè coi như tổ-mẫu. Chữ khoa-đẩu phát-xuất từ thời Hồng-Bàng,trước cả đời Nghiêu Thuấn và chữ khoa-đẩu Trịnh-gia đều thuộc loại chữ phiên-âm và đều có đuôi nòng-nọc như nhau, mà chúng tôi sẽ mặc-ước gọi là: CHỮ KHOA-ĐẨU HỒNG-BÀNG (kí-hiệuKD-HB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ KD-HBlà: 2.CHỮ NÔM TỪ THỜI LÝ-TRẦN: Chữ nôm là một thứ chữ quốc-ngữ, gồm có một số hán-tự đọc theo quốc- âm và một số chữ biến-chế từ chữ Hán để đọc các thổ-âm. Thí-dụ: Câu “Phong-Trần mài một lưỡi gươm Những phường giá áo túi cơm sá gì”. Viếttheo chữ nôm như sau đây: ___ ___ mài ___ lưỡi gươm Những ___ ___ áo túi cơm sá gì Trong câu đó, các chữ không phiên-âm là chữ Hán, các chữ có phiên-âm là chữ nôm. Muốn sử-dụng được chữ nôm thì cũng phải tinh-thông chữ Hán. Từ thế kỉ 12, chúng ta đã biết dùng chữ nôm, sau đây là những niên-kỉ sớm nhứt: Năm 1209, niên-hiệu thứ 5 đời vua Lý Cao-Tông dựng bia Báo-ân khắc bằng chữ nôm (Yên Lãng, Vĩnh Phú). Năm 1282, niên-hiệu Thiệu-bảo thứ 4,đời vua Trần Nhân-Tông, Hàn Thuyên làm văn-tế đuổi cá sấu. Sử chép: Hàn Thuyên có tài làm thơ phú quốc-ngữ, trong Phi-sa tập có nhiều thơ quốc-âm vân vân . .. Chữ nôm cùng với chữ Hán suy-tàn dần dần từ khi bãi-bỏ khoa-cử bằng chữ Hán, tức là sau khóa thi hội cuối cùng ( Kỉ Mùi 1919). 3.CHỮ ĐẮC LỘ VÀ VẦN ĐẮC LỘ: Khi giáo-sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đến Hội-An vào tháng 12 năm 1624 thì kể từ 1625 một thứ chữ quốc-ngữ mới xuất hiện, dần dần hình-thành do việc truyền-giáo. Chữ quốc-ngữ này được xây-dựng từ những phần-tử của bốn thứ chữ Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào. Chúng ta sẽ mặc-ước gọi thứ chữ ấy là: CHỮ ĐẮC LỘ (ký hiệu DR) Đồng thời, giáo-sĩ Đắc Lộ cũng dùng một cách ráp vần riêng mà chúng ta sẽ là: CÁCH RÁP VẦN ĐẮC LỘ (kí-hiệu RV-DR) Chữ Đắc Lộ tuy được khai-sáng từ năm1625, nhưng thực ra chỉ được thịnh-hành từ năm 1921 (Tân Dậu) bởi vì năm Khải-Định thứ 6, mới bắt đầu qui-định chương-trình mới cho Quốc-tử-giám bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ quốc-ngữ và chữ Pháp. 4.BẰNG-CÔNG DỰ-TRÙ ĐẶT RA CHỮ MỚI: Năm Bính-Ngọ (1786), vua Lê Hiển-Tông (niên hiệu Cảnh-Hưng 47) mời Hữu Chỉnh ra Thăng-Long để giúp vua Lê. Bấy giờ chúa Trịnh đã dùng chữ khoa-đẩu trong vương-phủ từ hai thế-kỷ trước (-187 năm từ năm Trịnh Tùng đượcban tước An-Bình Vương). Bằng-công bèn luận về chữ khoa-đẩu:Chữ khoa-đẩu vốn là chữ của nước ta từ thời Hồng-Bàng. Vần khoa-đẩu vốn rất hợp-lí và thích-hợp với truyền thống ngàn xưa. Tuy-nhiên biểu tượng chữ khoa-đẩu không được toàn- thiện, hình khoa-đẩu là hình con nòng-nọc cụp đuôi xuống là biểu-tượng hèn-hạ cam phận cố-thủ trong một nước nhược-tiểu. Bởi thế chữ khoa-đẩu không thể dùng làm thư-pháp cho một bậc bá-vương. Vậy ta truyền cho các bồi-thần và con cháu đời sau chớ nên dùng chữ khoa-đẩu để tránh vết xe cũ đưa tới nô-lệ và diệt-vong. Vào thời đó (cuối đời Cảnh-Hưng) thì chữ Đắc Lộ đã được biết trên 160 năm từ đời Lê Thần-Tông (niên-hiệu Vĩnh-Tộ thứ7). Bằng-công bèn luận về chữ Đắc-Lộ:Chữ Đắc Lộ là những chữ cũ sẵn có, lấy từ các nước văn-hóa suy tàn (Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào . . . ). Giáo-sĩ Đắc Lộ chưa từng thiết-trí các chữ ấy bao giờ. Thêm nữa, chữ Đắc Lộ có những khiếm khuyết quá nhiều và vần mà giáo-sĩ đà dùng nhiều khi không được hợp-lí, và không phù-hợp với vần truyền-thống tự ngàn xưa. Bởi thế, chữ Đắc-Lộ cũng không thể dùng cho một sự-nghiệp lâu dài. Vậy ta truyền cho các bồi-thân và con cháu đời sau không nên dùng chữ Đắc Lộ, để tránh vết xe củ đưa tới suy-vong. Bằng-công bèn luận giềng mối cho thứ chữ ngày sau: Muốn thiết-trí một thứ chữ mới dùng để làm cơ sở cho một quốc-gia giàu mạnh thì trước hết bộ chữ phải có biểu-tượng cát-tường, âm dương ngũ-hành phải đầy đủ, không được khuyết-phạp, hình-thế thăng-bằng và hòa-hợp,đường nét cương-kiện và súc-tích. Hành kim, càng mạnh và càng nhiều thì nước càng giàu, nhưng đừng để cho các đường nét cắt phá nhau. Hành mộc càng sung-túc phồn-vinh thì nhân-lực càng mạnh ,việckiến-thiết càng dễ-dàng. Hành thủy đừng cho phân-tán, mà cần qui-tụ và được chế-ngự thì việc kinh-doanh càng phát-triển. Hành hỏa càng mạnh thì học-thuật càng rộng, văn-minh càng cao. Hành thổ càng vượng thì lòng người càng trung-hậu và tín-thực, biết giữ-gìn căn-bản. Nếu nhà Lê còn cơ-hội hưng-phấn thì ta nhất định đặt ra chữ mới để tương-lai nước nhà được vinh-quang sán-lạn,không còn lệ-thuộc các nước lớn, ắt gần đây bước lên hang bá-chủ. 5.CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG: Bởi vì chữ khoa-đẩu Hồng-Bàng, còn được gọi là hoành-đẩu, xem không được đẹp lắm nên Bằng-công đặt ra thứ chữ phi-đẩu, viết từ dưới lên trên, đơn-giản hơn và đẹp hơn, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệu PD-CB) Thí-du, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ PD-CB tức là cột đứng ở bên mặt trên đây. 6.VẦN CÔN-BẰNG: Trong chữ phi-đẩu Côn-Bằng, Bằng-công đã dùng một phép ráp vần khác hẳn cách ráp vần của Đắc Lộ, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là: CÁCH RÁP VẦN CÔN-BẰNG (Kí hiệu RV-CB) Thí dụ, danh-từ sau đây: ráp vần theo Đắc-Lộ là: LƯỠI GƯƠM ráp vần theo Côn-Bằng là: LƯAI GƯAM 7.HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG: Tiên-sinh Nguyễn Hữu Lâm vốn là hậu-duệ xa của tiên-tổ Bằng-công nên hiểu rành chữ phi-đẩu Côn-Bằng và quen dùng cách ráp vần Côn-Bằng. Đến năm Kỉ Mùi (1919), tiên-sinh vào được tam trường, nhưng lại không ra làm quan, bèn bỏ Hán-học, đổi qua học chữ quốc-ngữ Đắc Lộ và chữ Pháp. Bởi vì từng chịu ảnh-hưởng Hán-học và lí-học á-đông nên tiên-sinh chú-ý chữ nghiên-cứu lại vấn-đề hình-thành của chữ Đắc Lộ. Về mặt lí-thuyết thì tiên-sinh không thừa-nhận cách ráp vần của Đắc Lộ là hoàn toàn hợp-lí, mà cũng không thừa-nhận phần lớn các chữ Đắc Lộ đã mang quá nhiều khiếm- khuyết. Do đó tiên-sinh đã dùng lí-học, và nói rõ hơn đã dùng Chu-dịch, Thái-huyền và chỉ-số Lưu-Cơ để thiết-trí một chữ quốc-ngữ mới mà tiên-sinh gọi là CHỮ HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệuHD-CB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết chữ Hoành-đẩu Côn-Bằng như sau: 8.HỌC-THUYẾT BIỂU-TƯỢNG (PHENOMENOLOGY) CỦA HUSSERL: Từ khi tiếp-thu những khái-niệm sơ-đẳng về hoc-thuyết biểu-tượng (phenomenology) của triết-gia Đức Edmond Husserl (1859-1938), chúng tôi càng tin-tưởng vào chủ-trương của tiên-sinh Hữu Lâm cho rằng biểu-tượng, hơn là bản-chất, đã chi-phối mọi thành-bại trên đời. Nói rõ hơn, ngũ-quan và trực-giác có thể giúp chúng ta tiên-liệu được tương-lai. Nhiều khi sự-viêc thực là mỉa-mai và chua-chát khi phải thừa-nhận rằngchỉ cần ngửi một chương-trình hay kế-hoạch, cũng đủ biết kết-cuộc sẽ ra sao! Bây giờ nếu chúng ta hạn-chế vấn-đề mà chỉ xét riêng chữ quốc-ngữ thì những chữ cái đang sử-dụng cho tên họ một cá-nhân, bảng hiệu một cửa hàng, thương-hiệu một công-ty, quốc-danh của một nước, v.v… có thể giúp chúng ta dự-kiến về tương-lai của cá-nhân hay tập-thể liên-hệ. Có gì đau-đớn cho bằng khi chúng ta thấy tên họ hay bảng hiệu của một người thân mà lại phạm vào một chữ cái có khuyết-điểm lớn lao, cho nên hậu-vận của người ấy không thể thăng-tấn thêm mãi. 9.LÍ-DO TẠI VÌ SAO NGƯỜI VIẾT BÀI THUYẾT-MINH NÀY KHÔNG NÓI RÕ HẾT NGỌN-NGÀNH GỐC RỄ: Khi Bằng-công luận về chữ Đắc Lộ (đã được sử-dụng 160 năm về trước) ngài không nói rõ là những chữ nào có những khuyết-điểm nào, đó là vì ngài cảm thấy bất-tiện không nói ra được, sợ rằng xúc-phạm tới cá-nhân nào đó hay tập-thể nào đó. Đằng khác, khi luận về ngũ-hành, Bằng-công không nói rõ là chữ nào thuộc về hành nào, đó là vì ngài không dám bộc-lộ tất cả chân-lí, nếu bộc-lộ hết như thế tức là “vạch áo cho người xem lưng”. Ngài chỉ luận khái-quát về ngũ-hành để cho người dựng nước ngày sau biết cách thiết-trí chữ mới. Bây giờ khi xét những tiếng đồng-âm giữa chữ Côn-Bằng và chữ Đắc-Lộ, thì tiên-sinh N.H. Lâm có những khuynh hướng như sau: - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phân-tán bằng một chữ Côn-Bằng có tánh qui tụ; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh luân-lưu vô-định bằng một chữ Côn-Bằng có tánh trung-kiên, bền-vững; - Thay một chữ Đắc Lộ có ngũ hành vô-ích bằng một chữ Côn-Bằng có ngũ-hành hữu-dụng; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh nhu-nhược hơn bằng một chữ Côn-Bằng có tánh hùng-cường hơn; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phá-hoại bằng một chữ Côn-Bằng có tánh xây-dựng - Thay một chữ Đắc Lộ bất lợi thành một chữ Côn-Bằng ích lợi, vân vân … 10.CHỮ O CÓ CHƯNG VUÔNG: Từ ngày Bằng-công thua trận tại Thanh-quyết, chịu khổ-hình bốn ngựa phanh thây tại Thăng-Long (Đinh Mùi 1787),Bái đình hầu Nguyễn Hữu Du chết trận, vì chánh-nghĩa nhà Lê; Từ ngày bà Hoàng-phi nhịn ăn để chết theo chồng khi quan-tài vua Lê Chiêu-Thống được đưa về nước; Từ ngày giáo-thụ Cao Bá Quát bị hành-quyết vì khởi-nghĩa theo Lê Duy Cự. Từ ngày các vong-thần nhà Lê đều tuẫn-tiết,thì các trung-thần, nghĩa-sĩ theo nhà Lê không còn được ai nhắc-nhở tới nữa. Từ khi văn-sĩ Yukio Mishima không nhận giải văn-học Nobel 1967, nhường vinh-dự đó cho văn-sĩ Yasunari Kawabata, rồi đến cuối năm 1970 tự mổ bụng tự sát theo nghi-lễ truyền-thống võ-sĩ-đạo, để phản đối tinh-thần hiếu-lợi cực-đoan của người Nhật-bổn ngày nay, bỏ quên mất tinh-thần trượng nghĩa khinh-tài thuở xưa, đến nỗi mọi việc trên đời biến thành thương-mãi tất cả … Chúng ta không biết hoc giả Nguyễn Hữu Lâm có giữ vững lập trường dùng chữ O có chưng vuông của bộ chữ Côn-Bằng, chống lại nối chữ O tròn vình, có tánh thương mãi cực đoan của bộ chữ Đắc Lộ ? NHÓM NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CỔ HỌC HỒNG-BÀNG -HỒNG THỊ PHƯƠNG DANH -LÊ XUÂN TÙNG -LÊ XUÂN MAI Sưu tầm và thuyết minh.1 like
-
Bây h em mới biết mặt anh Hạt Gạo Làng ạ Em ở xa chỉ biết online qua ảnh thôi ạ1 like
-
bác Haithienha ở nước ngoài, cũng khó mà gặp được!1 like
-
Mẫu tầm tử ko đúng anh nhé. Vì pp đó chỉ dựa trên địa chi mà bỏ quên thiên can và mệnh. Và pp đó dựa vào địa chi nhưng cũng ko đúng. Nhà anh mà sinh 2013 thì rất đẹp, nhưng tiếc quá. Con đầu nhà anh rất ngoan, hợp bố mẹ. Vợ chồng anh cũng khá hòa thuận (CCB nói dựa trên xem tuổi, chứ ko biết tính cách 2 người nhé- trừ khi 2 người ko biết nhường nhịn nhau thì ko thể hòa thuận). Nhưng bé thứ 2 sẽ ko đc như bé đầu, nghe bố chứ ko nghe mẹ. Gia đạo ở mức trung bình.1 like
-
@Chưa mời được Bác Hai Thiên Hà về Trung Tâm họp mặt.1 like
-
Nếu chỉ có 2 giờ 5 và 7 ,bác chọn 7 ,vì phá quân hãm địa là người thấp ,đà -la khuôn mặt hơi vuông và có cạnh ,xương hơi to so với dáng người ,mắt cận nặng , da mặt hồng hào hay trắng là do phá quân hay hồng loan , phụ mẫu vcd có lộc tồn nên trong cha hay mẹ có người khá giả có nhiều của cất giấu nhưng con không hợp với cha mẹ , cung tật có bạch hổ + địa kiếp thườnghay thú dữ cắn hay bị châm chích . Tánh cô đọc ít giao lưu , chơi với bạn rất kén chọn ,ít bạn bè thân , thâm trầm ít nói , nhưng gan dạ lì ,dễ nỗi nóng kho bị người thách đố khi bị áp bức thì có thể dám liều mạng ăn thua đủ,giọng hơi trầm và chát ... hay nghĩ ngơi đa tư , đúng không ?1 like
-
Anh Chính Khí nói đúng đấy ạ ! có trời mới biết người đó sanh giờ nào khi mà đương số không biết rỏ / tôi chỉ nhìn vào lá số thấy giờ nào phù hợp nhất rồi chọn ...Thế anh chưa thấy những nhà đại kỳ tài khác à ? có lần tôi đi thăm các diễn đàn khác ,cũng có vài khổ chủ có giờ sinh mà không biết chắc giờ nào ,đưa ra 2-3 giờ để nhờ người xác nhận ,thế mà có các đại kỳ nhân không cần xem tướng hay nhìn lá số sem sao như tôi mà họ bốc quer hoa mai ,quỷ cốc v.v tuyên bố khổ chủ là giờ đó ,tôi phục họ sát đất , tự thấy mình tủi hổ kiến thức mình chỉ là hạt cát so với họ là cả 1 sa mạc mênh mông .1 like
-
Sách có câu nữ mệnh Tham lang đa tật đố / nam kỵ thái dương hãm ,nữ kỵ hóa kỵ hãm .tính cách của sao hóa kỵ như sau ; độc hiễm ,ghen ghét ,đa nghi hay nhầm lẫn /1 like
-
Theo bác nghĩ ; 3 lá số kia đều có mang khuôn mặt của người trong hình ,là thất sát -phá quân - và thiên cơ ; không thể là Thiên Dồng được.1 like
-
Đi làm mới về mở ra thấy có sự tranh luận nên có vài dòng với cháu ... Tôi cũng nghĩ cháu sanh giờ Tuất vì những lời trình bạch của cháu về cha me.ở topic trước ; lý do tôi phận định cặn kẻ giữa lá số của 2 người ; như tôi đã nói ở trên tôi phân định ra sự khác biệt của 2 người cùng 1 lá số mà không phải là chị em sinh đôi ,mà phải dụng một phương pháp khác ,tất nhiên giữa 2 người A-B PHẢI CÓ SỰ KHÁC BIỆT NÀO ĐÓ NHƯNG KHÔNG HOÀN TOÀN KHÁC ,sự khác biệt về tính cách phản ánh sự khác biệt giữa 2 người ,về chuyện anh chị em của cháu và người đó đương nhiên sẽ có sự khác biệt mà tôi quên đề cập và nó sẽ phản ngược lại với lời giải của người kia , ở chỗ chi em thuận hòa . Nhắc lại đây là phương pháp tách rời 2 người có cùng 1 lá số giống .1 like
-
Xin lỗi bác Chim chích bông nhưng ở bên mục "Sinh con năm nào thì tốt" http://diendan.lyhoc.../page__st__6220 bác lại tư vấn như thế này ạ: ................. mèo con 24, on 22 Tháng sáu 2012 - 01:15 PM, said:Kính nhờ các bác xem hộ vợ chồng cháu nên sinh con năm nào ? Chồng: 02/09/1983 Vợ: 22/01/1985 Ngày cưới: 22/07/2012 Cháu xin cảm ơn các bác Con đầu chị sinh 2013 nhé. 2014, 2015 còn xấu hơn. Con út sinh 2020. ........................ => Như vậy liệu có mâu thuẫn gì không ạ? Có gì bác bỏ qua cho cháu.1 like
-
Cô đã gởi cho saigonmemory chiều nay 10 bản chú, tuy nhiên tâm nguyện của cô làm việc này mang lợi lạc nhiều người con đừng dùng lời lẽ "đội ơn" tổn phước cả cô và con nữa!1 like
-
quên đi tình yêu đó là phương thuốc đắc lực nhất, bạn đừng có buồn nản, năm 37 hoặc 38 tuổi là bạn sẽ có vợ, số bạn lấy sớm thì đau khổ hơn bị chết, lấy tầm này hơi muộn nhưng vận số chưa tới lúc chín, mới chỉ đang ương ương thôi. Bạn cố gắng lên. Rồi chuyện tình cảm sẽ được toại nguyện, vợ là người hiền hậu, chất phác, bạn có thể lấy vợ xa và ở rể. Bạn chưa có vợ thì đừng nghĩ tới chuyện dư tièn thừa bạc. Ngành nghề kinh doanh phù hợp: đất (bao gồm chuyện buôn bán bất động sản, những thứ hành thổ hoặc liên quan đến thổ), nhà hàng, khách sạn, nghỉ dưỡng, xây dựng (làm thầu xây dựng hoặc các vấn đề liên quan đến xây dựng)1 like
-
1 like
-
Quán vắng!
Tuyết Minh liked a post in a topic by Vi Tiểu Bảo
Theo cháu thì thật ra bên Tung Cẩu cũng có nhiều người tốt thật, nhưng cái đám mang tư tưởng Háng thì không chấp nhận được, chúng nó lúc nào cũng muốn bá quyền bá vương, xưng bá thiên hạ, rồi thì đủ các loại1 like -
Người nhìn thấy khối u, giấc mơ và cái chết… AndrewJackson Davis, một trong những người nổi tiếng nhất nước Mỹ, sinh năm 1826 trong gia đình ông thợ giày nát rượu và bà thợ giặt mù chữ ở New York. Có vẻ như cuộc sống giữa những người thất học và thô thiển không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cho cậu bé ốm yếu, gầy gò và nhút nhát. Nhưng không. Trí thông minh tự nhiên, tính tò mò ham hiểu biết và… phép lạ đã giúp Andrew Davis trở thành người nổi tiếng. Từ thuở ấu thơ, Andrew Davis đã luôn khát khao kiến thức. Mặc dù cho đến năm 16 tuổi chỉ đọc mỗi sách giáo lý nhưng năm 20 tuổi, Davis đã viết một trong những tác phẩm triết học độc đáo nhất của mình. Cần biết rằng ông chưa từng học qua một trường đại học nào.Người ta cho rằng kể từ khi ra đời, cậu bé đã có sẵn trong đầu toàn bộ kho kiến thức của loài người. Tất nhiên, kho kiến thức đó không phải do cha mẹ hay các cư dân vùng ngoại ô bẩn thỉu của New York cung cấp, mà Davis có được nó từ đâu không ai biết.Từ thời thơ ấu ông luôn nghe tiếng nói của ai đó trong đầu và có thể dự đoán các sự kiện, phát hiện căn bệnh tiềm ẩn ở người khỏe mạnh… Ông nhìn thấy cái chết của mẹ mình trước một tuần, biết chính xác người cha say xỉn của mình sẽ nguyền rủa người vợ vừa qua đời như thế nào, hàng xóm sẽ an ủi ra sao và linh mục sẽ đòi bao nhiêu tiền cho lễ cầu nguyện trong đám tang… Khả năng thấu thị Khi còn là một cậu bé, một lần Andrew Davis được xem một nhà ảo thuật biểu diễn và tình nguyện làm người phụ tá cho ông ta trong một số tiết mục. Thế rồi bỗng nhiên ở cậu bé xuất hiện khả năng lạ thường: cậu có thể nhìn thấy những gì mà người khác không thể thấy, chẳng hạn vết loét trong dạ dày của một người hàng xóm, thai nhi trong tử cung của một cô gái chưa lập gia đình, thậm chí cả tế bào ung thư mới hình thành trong vú một người đàn ông rất khỏe mạnh…Mọi tiên đoán của cậu đều trở thành sự thật, vì thế có rất nhiều người kéo đến nhờ cậu “chẩn đoán” bệnh tật. Một người thợ may hàng xóm tên là Livingston rất khâm phục khả năng này của cậu bé, bèn bỏ nghề để đi theo Davis làm phụ tá. Andrew Jackson Davis thời trẻ Họ kiếm sống bằng việc đọc những dòng chữ viết trên một tờ giấy được niêm trong một phong bì dán kín, đoán tên và số phận của những người nông dân quanh vùng. Nhưng công việc chẩn đoán bệnh mới thực sự mang lại nhiều tiền. Tiếng lành đồn xa, từ khắp nước Mỹ người ta tìm đến nhờ Davis đoán bệnh. Sức mạnh của lòng tin Khi được hỏi tại sao có thể chẩn đoán bệnh một cách chính xác đến thế, Davis giải thích rằng cơ thể con người trở nên trong suốt dưới con mắt của cậu. “Tôi thấy rõ ràng từng cơ quan nội tạng; trong mắt tôi, chúng tự phát sáng… Nếu cơ quan nào đang ủ bệnh, nó sẽ mờ dần …”.Tất nhiên, các thầy thuốc không tin vào khả năng chẩn đoán bệnh của Davis, nhưng khi cần, họ vẫn thường nhờ cậu giúp mà không cho biết mình là ai. Ông tổ nghề y Hippocrates từng nói: “Bằng đôi mắt nhắm chặt, linh hồn vẫn có thể nhìn thấy những căn bệnh đang hành hạ cơ thể”.Phải chăng ông ngụ ý về khả năng đặc biệt tương tự như của Davis? Davis còn có thể đoán bệnh từ xa bằng cách “xuất hồn” để đến với bệnh nhân. Khi tỉnh lại, Davis không thể nhớ ngay tức khắc mọi chuyện trước đó, nhưng một lát sau, trong tiềm thức, mọi hình ảnh từ từ phục hồi đến từng chi tiết nhỏ nhất.Trong đời Davis có một sự kiện lạ thường: một đêm nọ trong năm 1844, Davis, lúc bấy giờ đã 18 tuổi, bất ngờ bị một lực vô hình nào đó tác động lên thân mình khiến chàng bay ra khỏi thị trấn nhỏ của mình đến một nơi nào đó trong thung lũng giữa những ngọn núi và gặp hai người lạ. Một cách đầy thú vị, Davis trò chuyện với họ suốt đêm về y học, về đạo đức, về khả năng đặc biệt của mình… Khi tỉnh dậy, Davis thấy mình ở cách xa nhà đến 40 dặm. Sự kiện này đã làm thay đổi hẳn cuộc đời Davis. Andrew Jackson Davis lúc về già Không phải là lang băm! Sau lần gặp gỡ lạ thường với hai người lạ mặt nọ, Davis đã viết một cuốn sách mà về sau trở thành tuyên ngôn của mình. Tất nhiên, rất nhiều người khẳng định rằng Davis chỉ là lang băm không hơn không kém. Nhưng cũng có nhiều người có ý kiến ngược lại.Tiến sĩ George Bush, giáo sư giảng dạy tiếng Do Thái cổ tại Đại học New York, đã nhiều lần chứng kiến những pha “xuất hồn” hoặc “lên đồng” của Davis. Sau đó ông cho biết: “Tôi có thể xác nhận với đầy đủ trách nhiệm của mình rằng tôi đã tận tai nghe Davis nói bằng tiếng Do Thái cổ, về những chuyện mà ở tuổi của mình, cậu ấy không thể tìm hiểu trong một thời gian quá ngắn như vậy.Davis đã bàn luận về những sự tích cổ xưa trong Kinh Thánh và thần thoại, về các nguồn gốc xuất xứ của ngôn ngữ và nền văn minh của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Bất kỳ trường đại học nổi tiếng nào cũng có thể tự hào về những hiểu biết như vậy. Không thể có được chiều sâu kiến thức như vậy kể cả sau khi đọc tất cả sách của tất cả các thư viện Kitô giáo trên thế giới. Không một bộ óc nào trên thế giới này có thể so sánh với Davis về sự uyên thâm kiến thức”. Học giả thất học Trong khi đó, những người quen biết Davis lại mô tả rất kỳ lạ về ông: vụng về, thô kệch, chẳng bao giờ đọc sách, không biết ngữ pháp, xấu xí và xấc láo, không quan tâm đến tiện nghi…Tóm lại, bức chân dung không dễ mến chút nào. Một số người cho rằng ông là kẻ vô thần, số khác lại cho là hữu thần. Có lẽ, theo nghĩa thông thường, ông là người không tin vào Thiên Chúa, ít nhất là ông luôn có thái độ chỉ trích đối với sự mặc khải của Kinh Thánh.Nhưng ông đặc biệt tin vào sức mạnh vô hình của một thế giới khác. Tuy nhiên, những dự đoán khoa học của Davis thật đáng ngạc nhiên: chẳng hạn, chính ông đưa ra khái niệm sức nâng của khí quyển và cho biết rằng ông “tin tưởng chắc chắn rằng con người sẽ phát minh ra một cơ chế bay đặc biệt có thể sử dụng dòng đối lưu không khí để thực hiện việc bay một cách dễ dàng, an toàn và thoải mái như loài chim”.Ngoài ra, khi “nhập đồng”, ông đã “nhìn thấy” một vài phát minh của tương lai, chẳng hạn, từ năm 1856, ông đã dự đoán chi tiết sự xuất hiện của xe hơi và máy đánh chữ. Quả là năng lực dự báo tuyệt vời của một người chưa qua bất kỳ trường lớp nào! Ngợi ca cái chết Ông đã dành nhiều thời gian ở bên cạnh giường của người sắp chết để theo dõi cách thức hồn lìa khỏi xác. Kết quả của những quan sát này được đưa vào cuốn sách Great Harmony (Sự hài hòa vĩ đại). Davis cho biết có lần ông đã thấy rõ phần vía rời đi, để lại phần xác của cơ thể như một vỏ tàu trống rỗng.Ông cũng nói về sự tập trung năng lượng tinh thần trong não của người sắp chết, khiến não đột nhiên “phát sáng” dữ dội. Ông mô tả chi tiết khi phần vía chuẩn bị rời phần xác: “Nó (vía) còn kết nối một lúc với thân xác bằng một sợi chỉ phát sáng lung linh, trông từa tựa dây rốn. Sau đó, tôi nhìn thấy nó bay qua phòng bên và thoát ra ngoài theo đường cửa ra vào rồi tan vào khí quyển”.Ông mô tả cái chết như là một chuyến bay, một sự giải thoát, sự mô tả này đã giúp nhiều người bớt đau khổ và sợ hãi khi chờ đợi cái chết đang đến gần.Davis đã viết rất nhiều về tội lỗi.Ông cho rằng phương pháp tốt nhất để nhân loại đạt được tiến bộ là đấu tranh với tội lỗi. Ông rất căm ghét cuộc sống đường phố tầm thường: tiền bạc, rượu chè, bạo lực, không quan tâm đến trí tuệ và cho rằng đó chính là những trở ngại lớn cho sự hòa hợp của nhân loại.Cần biết rằng Davis đã sống như một người công chính: ông nghèo nhưng trung thực và đầy lòng từ bi đối với những kẻ bất hạnh. Ông chịu đựng các rắc rối cá nhân bằng một nụ cười thanh thản. Trong số các rắc rối đó có thể kể đến hai cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Ông qua đời năm 1910 ở tuổi 84, khi đang sở hữu của một cửa hàng sách nhỏ ở Boston. Theo Anh Tâm (Tạp chí Thế giới mới) vtc.vn1 like
-
** Giải thích về các giáo lý, câu minh chú, mạn đà la và hình ảnh in trên “Mền Giải Thoát:” 1. Giáo lý Dzogchen- Đại Viên Mãn: “Bốn Giáo Pháp Vĩ Đại” [của đức Longchenpa] thuộc hệ giảng Longchen Nyingtik (hình thu nhỏ của các trang sách về giáo lý Đại Viên Mãn viết bằng Tạng văn). 2. Biểu hiện cho Tâm viên mãn của đấng Đạo Sư (đây chính là oai lực hoá độ của Đạo Sư) (hai mạn đà la hình tròn nằm ở bên trái và phải của đức Kim Cang Tát Đỏa). 3. Đức Kim Cang Tát Đoả (Phạn: Vajrasattva/ Tạng: Dorje Sempa): vị Phật chủ trong mạn đà la - sắc tướng của ngài là hiện thân cho tinh túy của 100 vị Phật; oai lực của ngài là tịnh hoá được nghiệp chướng của những ai mặc hoặc đắp hình ngài trên thân, giúp cho họ đạt được giải thoát trong những giai đoạn khác nhau của cõi trung giới “Bardo” (hình đức Kim Cang Tát Đỏa ở giữa) 4. Tinh Túy của Giáo Lý Đại Viên Mãn Dzogpa-Chenpo (mạn đà la hình tròn, lớn, nằm ở giữa). 5. Một Trăm Vị Hộ Phật An Bình và Hung Nộ trong “Bardo” [theo hướng dẫn] của ngài Karma Lingpa (mạn đà la hình vuông, lớn, nằm ở cuối). 6. Chùy Kim Cang và Kim Cang lục tự minh chú (chú giải thoát 6 âm của đức Kim Cang) (hình viền chung quanh). “Mền Giải Thoát” đã được rút tỉa ra từ tinh tuý của Kinh điển và Mật điển. Trong Mật điển có nói rằng, bất cứ ai có đủ phước duyên để nghe được, nhìn được, chạm được hoặc khoác được vào người tấm “Áo Giải Thoát” thì sẽ có thể được giải thoát xuyên qua Thân trung Ấm, hoặc tái sinh vào cõi Tịnh Độ. Ngoài ra, ngay cả loài súc sinh nếu có đủ phước duyên để đeo được giáo lý của “giải thoát qua cái mặc” quanh cổ (***) thì cũng có thể sẽ được sinh vào các cõi cao hoặc được giải thoát trong các giai đoạn chuyển tiếp. Loài súc sinh còn được như vậy, huống chi là loài người, lợi lạc thật khó nghĩ bàn. Ngay cả những kẻ đã tạo ác nghiệp khi còn sống và những kẻ đã qua đời mà không hề có được bất cứ ai trì chú hay cầu nguyện hồi hướng cho, thì họ cũng vẫn có thể được tái sinh vào cõi Tịnh Độ, và sau đó đạt được giải thoát. (***) Những giáo lý, câu minh chú, biểu tượng, hình ảnh, mạn đà la, v.v. in trên “Mền Giải Thoát” có khi được in thành một tập sách tí hon, thu nhỏ, có thể đeo quanh cổ hay đeo trước ngực, cho cả người lẫn thú vật khi còn sống. . Tinh Túy của Đại ViênMãn 6. Liberation covers – Full length. Mền giải thoát (mền quang minh) - Toànthể chiều dài Mạn đà la của 100 Vị Hộ PhậtAn Bình và Hung Nộ trong [Chonyi] Bardo (giai đoạn chuyển tiếp sau khi chết).. .. 3. Đức Kim Cang Tát Đỏa Biểu hiện của Tâm: Mạn đàla bên trái và bên phải 1. Dzogchen - Great Perfection Teachings: Dzogchen - Đại Viên Mãn:“BốnGiáo Pháp ** Cách thức sử dụng “MềnGiải Thoát:” 1. Trong giờ phútlâm chung, nếu không có đủ thời giờ để thay quần áo hay tẩm liệm cho người sắpqua đời, hãy dùng “Mền Giải Thoát” để đắp lên trên toàn thân. Trong trường hợpngười chết ra đi vì tai nạn, nếu “Mền Giải Thoát” có chạm phải máu trên thâncũng không có gì phải lo ngại. 2. Khi chúng ta cầu nguyện cho người quá cố, hãy đắp “Mền Giải Thoát” lên toànthân của người quá cố. Nếu cần thay quần áo hay làm lễ tẩm liệm cho người quácố thì có thể tạm thời dời “Mền GiảiThoát’ qua một bên. Sau đó thì đắp lên trở lại. 3. Cũng có thểđắp trên nắp quan tài sau khi đã đậy nắp quan tài. Khi cần mở nắp quan tài rathì tạm thời dời “Mền Giải Thoát” qua một bên, sau đó có thể đắp lên trở lại. 4. Theo Lamchen Gyalpo Rinpoche, khi bắt đầu cử hành lễ hoả thiêu, hãy dời“Mền Giải Thoát” để qua một bên. Khi lễhoả thiêu đã hoàn tất, dùng “Mền Giải Thoát” để gói tro lại. Sau đó, có thể đểtất cả vào trong hủ đựng tro. Khi dùng“Mền Giải Thoát” để gói tro lại, hãy cẩn thận, đừng để hình ảnh của vị Phật[Kim Cang] nằm úp xuống dưới. Nếu hủ đựng tro quá nhỏ thì có thể gấp “Mền GiảiThoát” lại thật nhỏ và để vào phía trên tro bên trong hủ đựng tro, hoặc dùng“Mền Giải Thoát” để gói hủ đựng tro lại. 5. Theo Garchen Rinpoche thì khi làm lễ hoả thiêu, có thể giữ nguyên “MềnGiải Thoát” trên xác người quá cố và thiêu chung tất cả một lúc. Đây cũng làtruyền thống thường được làm trước đây bên Tây Tạng khi cử hành lễ hỏa thiêu. 6. Nếu chôn cất (thayvì hoả thiêu), có thể giữ nguyên “Mền Giải Thoát” trên xác người quá cố (hoặctrên nắp quan tài) và chôn chung với quan tài. ** Cách thức sử dụngcát mạn đà la để giúp người hấp hối hay quá cố: Ngoài ra, xin nói thêmvề cách thức sử dụng cát mạn đà la để giúp người hấp hối hay đã qua đời. 1. Trongtrường hợp có những bệnh nhân đang nằm trongbệnh viện vào giờ phút cận tử, hãy để một ít cát mạn đà la trong túi áo củabệnh nhân, hoặc đặt cát vào một túi vải nhỏ đeo vào trên ngực của bệnh nhân, đểtránh không cho các vong linh đang lãng vãng trong bệnh viện đến được gần thânxác của người hấp hối. 2. Có thể đặt một ítcát mạn đà la trên đỉnh đầu của người hấp hối, cũng như trên đỉnh đầu của ngườiquá cố. 3. Trước khi tẩm liệm,rắc một ít cát mạn đà trên xác người quá cố. Sau khi tẩm liệm, rắc một ít cátmạn đà la lên trên toàn thân. Sau khi hỏa thiêu, đặt tro vào bên trong hủ đựngtro và rắc một ít cát mạn đà vào bên trên hủ đựng tro. 4. Nếu chôn cất thayvì hoả thiêu thì sau khi đậy nắp quan tài, rắc một ít cát mạn đà la trên nắpquan tài (ở vị trí đặt đầu của người qua cố). Cũng có thể để một chút hồ keo lênchỗ đó rồi rắc một ít cát lên trên hồ keo để cát có thể dính được trên nắp quantài. 5. Sau khi chôn cất,rắc một ít cát mạn đà la lên trên phần mộ (ở vị trí đặt đầu của người quá cố). 6. Sau thời gian 3, 7hoặc 10 năm, nếu phải cải táng theo tục lệ Á đông thì có thể rắc một ít cát mạnđà la lên trên xương sọ. Nhữngtấm “Mền Giải Thoát” theo mẫu thiết kế trên đây đã được thiết kế và ấn tống dựatrên những hướng dẫn của đại sư Drikung Kagyu Nangchenpa Gyalpo Rinpoche cùng với chư vị LạtMa khác. Tài liệu giới thiệu về “MềnQuang Minh” hay “Mền Giải Thoát” bằng Việtngữ được Tâm Bảo Đàn biên soạndựa trên những lời giải thích nguyên thủy bằng Hoa ngữ (doSteven Tung và Theresa Stevenson dịch qua Anh ngữ), cùng với những lời chỉ dạytrực tiếp của đại sư Garchen Rinpoche (do Ina Bieler dịch qua Anh ngữ), TulkuJigme Rinpoche, Khenpo Tsultrim và Gapé Lama. Mọi sai sót là của người soạn Việtngữ. (2/2010) Quý đạo hữu muốn thỉnh “MềnGiải Thoát,” xin liên lạc điện thư Viet Nalanda Foundation vietnalanda@ymail.comhoặc điện thoại 240-238-1903 (website: www.vietnalanda.org). Riêng ở California, xinliên lạc maithylam@yahoo.com,điện thoại 714-889-1081 hoặc 714-443-1210. Ngoài cước phí bưu điện, mọiđóng góp khác đều là tùy hỉ và có thể gửi về địa chỉ: Viet Nalanda Foundation,14905 Coles Chance Road, North Potomac, MD 20878, USA. Tất cả tịnh tài đónggóp, nếu có, một phần sẽ được dùng để hỗ trợ cho các vị tăng ni người Việt đượcĐề Án Zangpo bảo trợ qua tu học tại các trung tâm Phật Giáo Tây Tạng ở tại Ấn Độ.Phần còn lại sẽ được sử dụng để tiếp tục ấn tống “Mền Giải Thoát” trong tươnglai. Nguyện xin hồi hướng côngđức đến toàn thể pháp giới chúng sinh, nhất là các chúng sinh đang trải qua cáckinh nghiệm chuyển tiếp đầy hoang mang và sợ hãi sau khi lìa đời; nguyện cho họcó được lòng từ bi và luôn sáng suốt để mau chóng nhận ra được ánh sáng giải thoát trong “Bardo.” (Hoặc có thể liên hệ qua Wild tại Topic này)1 like
-
NHỮNG BÍ ẨN CỦA ĐỜI NGƯỜI Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bệnh để cứu giúp mọi người, ông Cayce đã cứu chữa cho hàng mấy chục ngàn bệnh nhân, và điều này xác nhận sự thật về năng khiếu thần nhãn của ông. Với năng khiếu thần nhãn này, ông Cayce có thể nhìn thấu suốt tận trong nội tạng của người bệnh, những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người mà thông thường người ta không nhìn thấy được. Trong nhiều năm sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu thần nhãn có thể soi thấu vào bên trong cơ thể con người, thì chắc nó cũng có thể chuyển hướng ra bên ngoài vũ trụ để nhìn thấy những mối liên quan giữa con người và vũ trụ, và tìm sự giải đáp cho những vấn đề bí ẩn của đời người. Việc đó đã xảy ra trong trường hợp sau đây. Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở Dayton, thuộc miền tây nam tiểu bang Ohio, có nghe một người cộng sự nói chuyện về ông Cayce. Ông lấy làm thích thú và tò mò đến nỗi lên đường đi đến tận nơi để quan sát công việc của ông Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông Cayce đang trú ngụ. Sau khi quan sát những cuộc khám bệnh của ông Cayce trong nhiều ngày liên tiếp, ông Lammers mới nhìn nhận sự thật về năng khiếu thần nhãn của ông này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng, nếu một người có nhãn quang nhìn thấy những sự vật ẩn giấu đối với cặp mắt phàm, thì người ấy chắc hẳn có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn thuộc về vũ trụ và nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan hay bộ máy tiêu hóa của người bệnh mà thôi. Chẳng hạn như những vấn đề: Trong tất cả mọi ngành triết học và tôn giáo thì ngành nào gần nhất với chân lý? Mục đích của đời người là gì? Giả thuyết cho rằng linh hồn con người bất diệt có đúng hay không? Nếu là đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Liệu thần nhãn của ông Cayce có thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy hay chăng? Ông Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề ấy. Những vấn đề trừu trượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời, v.v... chưa từng thoáng qua trong bộ óc chất phác của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách mặc nhiên những giáo lý mà người ta giảng cho ông ở nhà thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lý đó với triết học, khoa học và các tôn giáo khác đều là hoàn toàn xa lạ đối với ông. Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ thôi miên là do lòng mong muốn giúp đỡ những kẻ bệnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu tiên nghĩ đến việc dùng thần nhãn vào những mục đích khác hơn là chữa bệnh cho nhân loại, và điều này càng làm tăng thêm lòng hứng khởi của ông Cayce. Trong những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi được nêu ra. Vậy thì không có lý do gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về các vấn đề vũ trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bệnh. Ông Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời gian ở Selma nên đề nghị ông Cayce hãy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài tuần. Ông Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ đấng thiêng liêng muốn kêu gọi ông vào những công việc phụng sự khác nữa. Gần đây ông Lammers có chú ý đến khoa chiêm tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa chiêm tinh là đúng đắn thì nó có thể là một ngành khoa học nối liền con người với vũ trụ, và giúp chúng ta có thể hiểu được rõ ràng hơn về vũ trụ. Ông bèn có ý định bắt đầu thí nghiệm thần nhãn của ông Cayce về khoa này. Một ngày vào tháng mười năm 1923, khi ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên trong một gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì người ta dẫn dụ cho ông hãy lấy một lá số chiêm tinh cho ông Lammers. Tuân theo như thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Cayce bèn đưa ra những chi tiết về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế, ông nói ra một câu lạ lùng: – Thuở xưa, người này là một tu sĩ. Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đã từng đọc nhiều và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng về nhân sinh và định mệnh con người thì câu nói ấy làm cho ông giựt mình chẳng khác nào như bị điện giật! Phải chăng câu ấy có nghĩa là thần nhãn của ông Cayce đã xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề luân hồi? Thay vì làm thỏa mãn sự tò mò của ông Lammers, cuộc khám nghiệm đó lại càng làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm nhiều điều khác. Khi ông Cayce thức tỉnh, ông thấy ông Lammers đang bàn luận sôi nổi với cô thư ký Linden Shroyer về những lời nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng, nếu người ta có thể chứng minh thuyết luân hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả những quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và tâm lý học! Nếu ông Cayce tiếp tục thí nghiệm về điều này thì những cuộc quan sát của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta thấy rõ ràng lý thuyết luân hồi thực sự diễn ra như thế nào. Chẳng hạn như mối liên hệ giữa luân hồi và khoa chiêm tinh là như thế nào? Và từ đó người ta có thể biết thêm nhiều điều về linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người. Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu ông Cayce quan sát thêm về vấn đề này. Mặc dầu ông Cayce lấy làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc thí nghiệm. Những câu hỏi của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một cách đúng đắn và với đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí ẩn của đời người mà từ lâu ông đã khảo cứu, tìm tòi. Theo kết quả những cuộc quan sát đó, khoa chiêm tinh có chứa đựng một phần nào sự thật. Linh hồn con người trải qua nhiều kiếp sống và được tiến hóa thông qua những cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ đời sống. Con người thâu thập kinh nghiệm trong cuộc sống và tích lũy nó trong tâm thức, rồi mang theo những điều đó vào những kiếp sống tiếp theo sau đó. Khoa chiêm tinh dựa vào những mối quan hệ giữa con người với vũ trụ để nhận biết được những chuyển biến quan trọng trong đời người. Tuy nhiên, khoa chiêm tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi hiện tại chỉ đúng một phần nào thôi, chứ không hoàn toàn đúng, bởi vì có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người ta chưa khám phá được một cách trọn vẹn. Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Cayce, nhưng sự tò mò khiến ông cứ tiếp tục những cuộc quan sát thử nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Rồi sau đó những người tham gia tổ chức nghĩ rằng những gì họ muốn biết về tiền kiếp có thể sẽ được đầy đủ hơn nếu họ đừng đòi hỏi lấy một “lá số” chi tiết, và nếu ông Cayce nhận một sự dẫn dụ thích nghi hơn. Vì thế, người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên ông Cayce hãy tự đưa ra một cách thức dẫn dụ thích nghi hơn đối với ông. Và đây là cách dẫn dụ mà ông Cayce đã đưa ra: – Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh ngày... tại... Ông sẽ nói cho biết thân thế và sự nghiệp của người này và vai trò của ông ta trong cuộc đời là như thế nào, cùng những khuynh hướng và khả năng của ông ta trong kiếp sống hiện tại này. Ông cũng cho biết những tiền kiếp của ông ta với những chi tiết về tên tuổi, quê quán và thời kỳ nào đã trải qua những tiền kiếp đó. Và ông cũng cho biết luôn những nguyên nhân nào trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm trì trệ sự tiến hóa tâm linh của người này. Từ đó, những cuộc quán sát bắt đầu chuyển hướng nhằm vào những tiền kiếp của đương sự. Những cuộc quan sát đặc biệt này được gọi là những cuộc “soi kiếp”, để phân biệt với những cuộc khám bệnh, chỉ nhằm quan sát cơ thể của bệnh nhân nhằm mục đích chữa bệnh mà thôi. Đối với hai loại quan sát kể trên, ông Cayce đều áp dụng một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này: Mỗi khi ông Cayce tuần sự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp thì ông bắt đầu cảm thấy chóng mặt dữ dội! Chính ông cũng đã tự khám nghiệm mình để tìm nguyên nhân của sự chóng mặt, thì ông nhận thấy rằng cần phải đổi hướng nằm quay đầu về hướng bắc, chân về hướng nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì sao cần phải thay đổi như thế thì ông không giải thích được, mà chỉ cảm thấy như vậy là thuận dòng “nhân điện” trong người ông. Những cuộc soi kiếp cho chính ông Cayce tiết lộ rằng cách đây nhiều thế kỷ ông đã từng làm một vị tăng lữ bậc cao ở các đền cổ bên Ai Cập và có nhiều năng lực thần thông, nhưng ông đã bị vấp ngã vì tánh kiêu căng và thói ưa sắc dục. Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác, có lần ông bị thương trong một trận chiến trên sa mạc và bị bỏ nằm lại trên bãi cát, vì những người đồng đội tưởng rằng ông đã chết. Nằm một mình, không có nước uống, không lương thực và không một mái che, ông đã chịu khổ rất nhiều suốt ba ngày ba đêm, đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất lớn để xuất thần ra khỏi thể xác. Ông đã xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần nào mà ngày nay ông có khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của thể xác. Tất cả những đức tánh và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đúng đắn và đều có thể truy nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc đời hiện tại luôn là một thử thách lớn cho bất cứ ai. Ông Cayce đã có cơ hội phụng sự nhân loại một cách vị tha để cứu chuộc những lỗi lầm trong quá khứ là thói kiêu căng, đắm mê vật chất và ưa thích sắc dục. Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng rất lớn, và vì thế người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng lớn hơn về vấn đề này. Ông liền đề nghị ông Cayce hãy đem gia quyến từ Selma về ở Dayton và tình nguyện đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia đình ông, gồm bà Cayce, hai người con trai và cô thư ký Gladys Davis. Cô này từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia đình ông. Cả gia đình đều bằng lòng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những gì xảy ra thì họ đều có sự phản ứng giống như của ông Cayce là: lúc đầu họ còn ngạc nhiên và nghi ngại, kế đó họ càng trở nên tò mò muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy làm thích thú cho đến say mê. Ông Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia đình ông. Trong mỗi trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một cách công khai và ông cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu cũng như mỗi đức tánh đều có nguyên nhân sâu xa từ trong tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai, ông nói: – Trong bốn tiền kiếp, con là một nhà khảo cứu khoa học; con đã trở nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi. Khi soi kiếp cho người con trai kia, ông nói: – Con có tánh rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con nhiều bất lợi trong những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh quốc. Kiếp này con nên tập lấy sự tự chủ và tánh kiên nhẫn. Những sự diễn tả tánh tình đó đều hoàn toàn đúng đắn và chân thật, dầu cho đương sự là những người thân thích hay những người lạ như ông Lammers, cô Linden Shroyer hoặc những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng làm cho ông này thêm phần hứng khởi và tin tưởng. Nhưng ông Cayce cảm thấy thắc mắc về những điều tiết lộ đó, đến nỗi ông đâm ra nghi ngờ về chính ông và ông đã tự xét lương tâm mình một cách nghiêm khắc. Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu thần nhãn của mình, bằng những cuộc khám bệnh và soi kiếp, ông đã làm một công việc phụng sự chính đáng và thiêng liêng chứ không phải là một điều tà vạy. Nhưng những tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như... “phản đạo”. Làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là những điều đúng với sự thật? Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng vì ông vốn sinh trưởng trong một gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được biết một chút gì về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong lúc này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo Cơ đốc với những tôn giáo khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh sáng đạo lý tỏa chiếu từ những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của mình. Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn giáo và Phật giáo nói về vấn đề luân hồi. Hơn nữa, chính danh từ này đối với ông cũng không được hấp dẫn cho lắm, vì ở phương Tây thời ấy người ta thường có một quan niệm sai lầm về thuyết luân hồi. Chính những cuộc soi kiếp đã giải tỏa mọi sự nghi ngờ cho ông Cayce. Trong những cuộc quan sát về các tiền kiếp, ông Cayce được biết rằng luân hồi không chỉ đơn giản là sự đầu thai trở lại làm thú vật, và càng không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn bản vững vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hàng triệu người trí thức ở Ấn Độ và ở các xứ Phật giáo tin tưởng vào thuyết ấy một cách sáng suốt và lấy đó làm nền tảng cho mọi sự ứng xử trong đời sống hằng ngày của họ. Tự nhiên là có nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á châu cũng chủ trương thuyết Thoái bộ luân hồi, cho rằng con người tội lỗi tái sinh làm kiếp thú, nhưng đó chỉ là một chủ trương sai lầm phiến diện về thuyết luân hồi. Vài tôn giáo cũng có những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một chân lý căn bản và trọng đại. Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ trong những cuộc soi kiếp. Ông giải thích rằng luân hồi có nghĩa là khả năng tiến hóa liên tục về tâm linh dành cho mọi sinh vật: sự tiến hóa của tâm thức con người trải qua nhiều kiếp sống, khi thì làm đàn ông, khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi thì làm vua chúa; kiếp này đầu thai làm giống dân này, kiếp kia làm một giống dân khác.v.v... nhưng với sự tu dưỡng hướng thiện thì sẽ luôn vươn lên mãi cho đến khi tâm thức đạt tới sự toàn thiện. Tâm thức con người khi biết hướng thiện qua từng kiếp sống cũng ví như một nghệ sĩ sân khấu đóng nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y phục khác nhau từ đêm này qua đêm khác, nhưng vẫn luôn trau giồi và phát triển tài nghệ, kinh nghiệm nghề nghiệp của mình. Nhiều bậc hiền triết và các nhà thông thái, trí thức của Âu Tây cũng chấp nhận thuyết luân hồi và đã viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số đó có Pythagore, Platon, Plotin, Giordano Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và Schopenhauer. Về vấn đề này, ông Cayce bày tỏ ý kiến: – Những điều đó hiển nhiên là đúng sự thật rồi; nhưng còn giáo lý của đạo Cơ Đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết luân hồi thì phải chăng điều đó có nghĩa là tôi phủ nhận đấng Christ và giáo lý của Ngài? Ông Lammers đáp: – Không phải vậy đâu. Ta hãy xét lại giáo lý căn bản của đấng Christ thì rõ. Một luật gia trong số những người Pharisiens đã đưa câu hỏi đó cho đấng Christ, và Ngài đáp rằng: “Ngươi hãy kính yêu Chúa ngươi một cách hết lòng và hết cả tâm hồn. Và ngươi hãy thương yêu kẻ đồng loại của ngươi cũng như ngươi vậy. Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy của các nhà tiên tri.” (Mathieu 22:35-40.) Những lời dạy giản dị và sâu xa về tình bác ái đó có khác gì với lời dạy về sự tiến hóa qua tu dưỡng trong thuyết luân hồi? Và nó có khác gì với những giáo lý của bất cứ tôn giáo nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: “Đừng làm hại kẻ khác nếu không muốn kẻ khác làm hại mình.” (Kinh Pháp cú, kệ số 129, 130) Và những Thánh kinh của Ấn giáo cũng dạy rằng: “Ngươi đừng làm điều gì cho người khác mà ngươi không muốn người khác làm cho ngươi.” Ấn giáo cũng như Phật Giáo, đều không thấy có sự khác biệt, dị đồng giữa sự bác ái và sự tiến hóa tâm linh trong luân hồi. Những tôn giáo ấy chỉ nhấn mạnh ở luân hồi nhiều hơn mà thôi, chứ không cho rằng hai điều ấy tương phản nhau. Nhưng ông Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục. Năm lên mười tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Kinh Thánh (Bible) và ông rất lấy làm say mê. Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần, suốt đời ông. Trong những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó có nói về luân hồi. Vậy thì tại sao bộ Kinh Thánh, và điều quan trọng hơn nữa, là đấng Christ lại không hề nói đến vấn đề này? Ông Lammers nghĩ rằng: – Có lẽ đấng Christ có nói về vấn đề luân hồi. Trước hết, ta nên nhớ rằng đấng Christ đã truyền dạy cho các vị môn đồ nhiều giáo lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dầu cho Ngài có dạy thuyết luân hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải qua nhiều thế kỷ, phần chánh giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến thiên dời đổi do những sự diễn đạt của người đời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng. Bởi vậy, có thể rằng nhiều giáo lý nguyên thủy của Ngài đã bị thất truyền. Tuy nhiên, ở một vài đoạn trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề luân hồi. Đấng Christ có lần nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Baptiste là Elie tái sinh (Mathieu 17:12-13). Ngài không dùng chữ luân hồi tái sinh, nhưng Ngài đã nói một cách rõ ràng không úp mở, rằng: “Elie đã trở lại...” Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài đang nói với họ về Thánh Jean-Baptiste. Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: “Bạch thầy, ai đã gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã phạm tội, khiến cho y sinh ra đã bị mù?” Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng ám chỉ, hoặc hàm chứa ý nghĩa về sự luân hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse, chương 13, câu thứ 10: “Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao sẽ chết vì gươm đao.” Câu ấy ngụ ý rằng có một định luật quả báo tác động từ kiếp này sang kiếp khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ Đốc giáo đã dần dần góp nhặt và tu chỉnh những phần giáo lý của đấng Christ không có nói về vấn đề luân hồi; nhưng làm sao người ta có thể chắc rằng sự diễn đạt và chọn lọc của phe chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và không thiên lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Gia Tô thời cổ, người ta thấy rằng có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết luân hồi trong những tác phẩm của họ, và đã công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin, Thánh Jerome, Clement d’Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa. Những vị này đã từng sống vào thời kỳ gần với thời đại của đấng Christ. Phải chăng các vị ấy đã biết và truyền bá những phần giáo lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà đấng Christ chỉ dạy riêng cho mười hai vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi? Theo ông Lammers thì đức giám mục Mercier tuy không tin tưởng nơi thuyết luân hồi nhưng đã tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo điều căn bản của đạo Gia Tô. Những điều kể trên đã giải tỏa bớt những nỗi thắc mắc băn khoăn của ông Cayce, vì ông luôn sợ rằng ông đã dùng những năng lực lạ lùng của mình một cách trái đạo, tức là đi ngược với tôn giáo của ông. Ngoài ra, ông cũng còn có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ khác về năng lực của mình, nhưng điều này lại có một cơ sở khoa học. Một thí dụ là làm sao giải thích sự gia tăng dân số quá lớn trên thế giới hiện nay nếu người ta cho rằng tất cả linh hồn đều đã sống trên mặt đất? Vậy thì số sai biệt tăng thêm đó ở đâu mà ra? Tất cả gia đình ông Cayce, cùng ông Lammers, các cô thư ký Gladys Davis và Linden Shroyer đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những vấn đề ấy. Khi tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự quan sát bằng năng khiếu thần nhãn của ông Cayce để tìm ra sự giải đáp; và khi những cuộc quan sát đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham khảo tài liệu ở các sách trong thư viện quốc gia. Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới thì tìm ra một lời giải thích cũng không phải khó. Một người trong nhóm cho rằng, dầu sao chúng ta cũng không biết chắc rằng quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc khảo cứu gần đây có đề cập đến những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu Atlantide nay đã biệt tích. Ở nhiều nơi như Mexico, Ai Cập và một phần của Đông phương, những di tích khảo cổ đã xác nhận rằng có nhiều nền văn minh lớn cổ xưa đã từng xuất hiện trên những vùng lãnh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ còn là những bãi sa mạc hoang vắng. Như thế, người ta có thể hình dung được rằng ở vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sử, có những lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng chưa hẳn đã có sự thay đổi tổng số các sinh linh trong vũ trụ. Có thể rằng có hàng triệu tâm thức vẫn trôi giạt trong cõi vô hình, trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không tạo ra đủ điều kiện cho họ đầu thai làm người. Tuy ông Cayce vẫn chưa hết hoài nghi, nhưng ông đã hài lòng về sự giải thích hợp lý như trên. Nhưng còn vấn đề châu Atlantide cũng là một vấn đề nan giải khác nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantide là có thật? Hay đó chẳng qua chỉ là một chuyện hoang đường? Những cuộc quan sát bằng thần nhãn của ông Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ mỉ và với rất nhiều chi tiết. Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đã tường thuật về sự hiện hữu trước đây của châu Atlantide, nay đã chìm dưới đáy Đại Tây Dương. Và mặc dầu quần chúng ngày nay không còn chú ý đến, nhưng những nhà địa chất học cũng đã từng quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người thì phủ nhận, kẻ thì quả quyết về sự hiện diện của châu Atlantide. Dầu sao, một số lớn sách vở của những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và đã đưa ra rất nhiều bằng chứng lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ túc cho nhau để chứng minh vấn đề. Ông Cayce đã đọc một quyển sách nhan đề “Châu Atlantide, một thế giới thời kỳ tiền sử” của tác giả Ignatius Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng những cuộc quan sát của ông đã mô tả đúng y như những bằng chứng căn bản nêu trong quyển sách ấy. Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch sử, khoa học, tôn giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantide và về khía cạnh tâm lý của khoa thôi miên, là những vấn đề được nêu ra trong các cuộc quan sát bằng thần nhãn, đã giúp cho ông Cayce dần dần có được một tầm kiến thức rộng rãi về văn hóa và lịch sử mà ông vẫn thiếu sót do trình độ học vấn. Dần dần, ông bớt sợ hãi và thắc mắc về những điều mà ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng những điều ấy có thể chứa đựng một phần nào sự thật. Với một sự tò mò xen lẫn với óc phê phán, ông bắt đầu phân tách những cuộc quan sát trong trạng thái thôi miên để kiểm soát nó một cách hoàn hảo hơn. Trước hết, ông nhận thấy rằng những cuộc quan sát ấy đều có sự mạch lạc và liên quan chặt chẽ với nhau. Không bao giờ một cuộc quan sát này lại cho kết quả tương phản với một cuộc quan sát khác, dầu là cách nhau bao lâu cũng vậy. Vì thế, một người có thể được ông quan sát lần thứ nhì nhiều tháng hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất nhưng những tài liệu ghi nhận kết quả đều ăn khớp với nhau và nối tiếp theo nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào người ta lật ra một quyển sách ở chỗ trang đã được làm dấu để đọc tiếp theo đoạn sách đã bỏ dở trong lần đọc trước. Phần nhiều những cuộc “soi kiếp” giúp đưa ra được những tài liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantide. Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau, thì thấy rằng những chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bổ khuyết cho nhau và trở nên hoàn chỉnh hơn. Do đó, mỗi cuộc soi kiếp thường lặp lại một phần những gì đã được nói ra trong lần trước, rồi thêm vào một số chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện. Không những các cuộc soi kiếp đều cho kết quả phù hợp với nhau, mà còn xác nhận lẫn nhau trên nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch sử, dầu cho đó là những sự việc bí ẩn thuộc về phần ngoại sử. Thí dụ, một trong những cuộc soi kiếp nói rằng một người kia trong tiền kiếp đã từng làm người “phóng ghế”. Ông Cayce không hề biết “phóng ghế” nghĩa là gì. Chỉ khi tra cứu tự điển, ông mới thấy rằng danh từ đó chỉ cho một phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ. Người ta trói chặt những mụ phù thủy trên những chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược đầu để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh, gọi là “phóng ghế”. Một thí dụ khác là trong cuộc soi kiếp cho một người thanh niên, ông Cayce nói rằng trong một kiếp trước anh ta đã sống ở Pháp. Tại đây, anh ta đã gặp gỡ và làm bạn với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đã giúp đỡ người này trong sự thực hiện một vài phát minh khoa học. Ông Cayce biết rõ Robert Fulton nhưng không tin rằng ông này đã từng sống ở bên ngoài nước Mỹ. Sau khi tra cứu một quyển tự điển về tiểu sử các danh nhân, ông mới biết rằng ông Fulton quả thật đã có ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và khuyến khích trong các hoạt động của ông. Ngoài những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những tiền kiếp, còn có rất nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Cayce biết rằng những sự phân tách tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những đối với ông và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với những người hoàn toàn xa lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khám bệnh, dầu cho đương sự có quen biết với ông hay không, điều đó không quan hệ gì cả. Họ có thể là những người hoàn toàn xa lạ, hoặc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của những người ấy, ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại cùng những điều bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính, năng lực cùng những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền kiếp. Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông Cayce có thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ về tánh chất và khả năng nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ. Một cuộc soi kiếp vào ngày sinh của một đứa trẻ tại Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó càng ngày càng biểu lộ một cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách nào để sửa đổi được. Một trường hợp lý thú hơn nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc soi kiếp cho biết rằng về sau có thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu mà cuộc soi kiếp cho biết trước cũng đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng lúc với sự thích thú đặc biệt về ngành y học. Vào năm tám tuổi, nó đã bắt đầu mổ xác những con thú đã chết để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, nó đã xem một cách say mê những bộ sách tự điển y khoa, và năm mười hai tuổi, nó nói rõ với cha mẹ rằng nó rất muốn vào trường Đại học John Hopkins để theo ngành y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh ở New York; mẹ nó là một nữ diễn viên. Lúc đầu, cha mẹ đứa bé đều phản đối ý định theo học y khoa và khuyên nó hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ vẫn cương quyết giữ lập trường và sau cùng đã thắng mọi trở lực. Hiện nay nó đang học lớp dự bị về khoa Sinh hóa tại một trường Đại học lớn ở miền đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về năng khiếu thần nhãn thật sự của ông Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biệt của nó sẽ biểu lộ ra ở kiếp này. Những thí dụ kể trên cho thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một giá trị rất lớn trong việc tiên đoán tương lai, không những của những đứa trẻ sơ sinh mà còn cho cả những người lớn. Một cô thư ký điện tín viên ở Bưu điện thành phố New York vô cùng ngạc nhiên về những bức điện tín với những lỗi sai lệch một cách lạ lùng mà cô thường xuyên mắc phải nhiều lần khi gửi đi. Khi được nghe biết về ông Cayce, cô liền quyết định nhờ ông soi kiếp cho cô. Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ mất thì giờ vô ích khi theo đuổi nghề điện tín viên, và tốt hơn cô nên học ngành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp trước cô đã là một nghệ sĩ có tài trong ngành này. Cô ấy từ trước chưa hề có ý nghĩ sẽ theo đuổi một ngành nghệ thuật nào, dầu là hội họa hay bất cứ ngành nào khác. Nhưng cô ấy có đủ niềm tin vào đề nghị của ông Cayce nên đã ghi tên học thử ở một lớp hội họa. Cô vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình rất có năng khiếu và đã thành công mau chóng trong ngành hội họa, đồng thời cô cũng cải thiện rất nhiều cả về nhân cách. Với thời gian trôi qua, ông Cayce càng nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững lòng tin hơn trước khi thấy rằng công việc của ông làm là chánh đáng vì tạo ra được những kết quả tốt đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp hơn; những người khác nhận được những lời chỉ dẫn có thể giúp họ san bằng nhiều sự khó khăn trong đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập hòa mình một cách thích nghi với đời sống xã hội. Những điều nói trên đã dần dần thuyết phục ông Cayce về tính cách chân thật và xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng thần nhãn cũng như sự giải thích mà nó đưa ra về số phận con người hay ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng điều làm cho ông tin tưởng hơn hết là tinh thần Gia Tô giáo tiềm tàng trong những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Gia Tô giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết luân hồi. Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn trong Kinh Thánh hay một điều giảng dạy của đấng Christ. Những câu dẫn chứng thông thường nhất là những lời dạy của đấng Christ như sau: Và: – Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi. Đôi khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên văn hoặc phác họa thêm ít nhiều tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như: – Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo với Chúa Trời! Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy. Và: – Con người luôn luôn là cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều lành cho những kẻ đã phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những tội lỗi mà chính ngươi đã gây ra cho kẻ khác. Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bệnh tật đau khổ, do hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một kiếp trước. Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu, thì nhóm người chung quanh ông Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều đã tiết lộ trong các cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết, họ muốn biết tại sao có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc soi kiếp. Vì sao nhiều người lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau? Nói tóm lại, những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn khổ. Các cuộc soi kiếp thường nêu ra một loạt các thời kỳ như Thời đại Atlantide, Đế quốc La Mã, Thời kỳ Thánh chiến (Croisades) và lúc khởi đầu thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có Châu Atlantide, Ai Cập, La Mã, nước Pháp thời vua Louis 14, 15 và 16, và cuộc nội chiến ly khai (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ tự nhiên, cũng còn có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Miến Điện, Pérou, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản và nhiều xứ khác... Nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau. Theo ông Cayce, lý do của sự kiện trên là vì những tâm thức thuộc về một thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường ra đời cùng lúc ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, thì những tâm thức khác lại tái sinh theo cách tuần tự. Sự luân phiên tái sinh thành từng nhóm như vậy là do sự tương đồng về nghiệp lực, cũng giống như sự thay phiên của những toán thợ có cùng một phận sự trong một công xưởng. Vì thế, ông Cayce tin rằng phần nhiều những tâm thức đang tái sinh trên thế gian hiện nay đều đã cùng sống với nhau trong những thời kỳ quá khứ. Ngoài ra, những chúng sinh nào đã từng có những mối liên hệ gia đình, bè bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã cùng có những nhân duyên với nhau trong những kiếp trước. Một câu hỏi khác được nêu ra: – Những nhận xét đó dựa vào đâu mà có? <br style="font-family: Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px; text-align: left; "><br style="font-family: Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif; font-size: 13px; line-height: 17px; text-align: left; ">Câu trả lời là: Khi ông Cayce rơi vào trạng thái thôi miên, ông có khả năng đưa ra những nhận xét đó dựa vào hai yếu tố. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi kiếp. Trạng thái vô thức này lưu giữ ký ức của tất cả những kinh nghiệm mà đương sự đã trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm cả những kinh nghiệm trong những kiếp trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn tàng trong phần sâu kín nhất của tiềm thức, gọi là tàng thức, nằm ngoài vòng hiểu biết và thực nghiệm của khoa tâm lý học hiện đại. Tàng thức của một người là lãnh vực có thể được thăm dò bằng ý thức của người khác, khác với trạng thái ý thức, vốn luôn có những đề kháng đối với mọi sự thăm dò từ bên ngoài, tương tự như trong một thành phố lớn, người ta có thể đi từ nơi này đến nơi kia bằng những đường ngầm dễ dàng hơn những phương tiện khác ở trên mặt đất. Vì thế, trong trạng thái thôi miên, ông Cayce có thể nhìn sâu vào tàng thức của đương sự một cách trực tiếp. Sự giải thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là phần nào, với những phát minh của khoa phân giải tâm lý (Psychanalyse) về cuộc đời và về trạng thái vô thức. Nhưng còn yếu tố thứ hai đã giúp ông Cayce đưa ra các nhận xét thì dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những “ký ức của không gian” (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh vần từng chữ trong trạng thái thôi miên của ông như akasha: danh từ; akashique: tính từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải thích danh từ ấy như sau: “Akasha là danh từ dùng để chỉ một trạng thái vật chất tối sơ và căn bản của vũ trụ. Loại vật chất ấy có tác dụng như một kiểu băng từ tính trên đó ghi nhận một cách rõ ràng không bao giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất cả mọi sự kiện đã từng xảy ra trong vũ trụ. Chính nhờ có sự lưu giữ trong kiểu “ký ức không gian” đó mà những ai có năng khiếu thần nhãn có thể nhìn ngược về dĩ vãng như đọc một quyển sách mở ra từng trang trước mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra đã cách xa bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Loại vật chất akasha có chức năng tương tự như một máy ghi hình vĩ đại của vũ trụ. Khả năng nhìn thấy ký ức của thiên nhiên dựa trên loại “máy ghi hình” đó vốn tiềm tàng ở tất cả mọi người, nhưng sự bộc lộ của nó tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm của mỗi người, và cũng tùy nơi việc chúng ta có thể tự đặt mình vào một trạng thái thụ cảm thích nghi đến mức nào, cũng giống như khi ta bắt đúng tần số vô tuyến trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong những lúc thức tỉnh, ông Cayce không thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi để “bắt đúng tần số” như nói trên, nhưng trong trạng thái giấc ngủ thôi miên thì ông có thể làm được điều ấy. Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Cayce đã thốt ra trong trạng thái thôi miên thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông luôn trả lời giống như nhau, có khi thì dùng những danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi, ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất akasha cũng có thể gọi là “ký ức của vũ trụ”. Ông Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế kỷ trước về chất akasha. Nền triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật chất vốn là hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp thần giao cách cảm; và những điều này gần đây đã được khoa học Âu Tây xác nhận. Vậy tại sao chúng ta không có một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất akasha, cũng là một quan niệm khác của triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao giải thích hiện tượng ông Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, tuôn tràn như suối chảy trong những cuộc quan sát sưu tầm về những thời đại cổ xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ đầu Công nguyên? Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đã từng sống vào những thời kỳ đó chăng, mặc dầu họ không phải là những người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đã khám phá ra những điều đó trong ký ức của lịch sử, được ẩn giấu, tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những cõi vô hình huyền bí của vũ trụ? Sau cùng ông Cayce đã chấp nhận quan niệm về chất akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về điều ấy, mà bởi vì nó đã được xác nhận trong những cuộc quan sát bằng thần nhãn; và những cuộc quan sát của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn toàn đáng tin cậy. Có lẽ việc dùng thần nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và cũng có lẽ trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về chất akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn những hiện tượng đã có, chẳng hạn như sóng vô tuyến hay tính chất phóng quang của chất radium; như nguyên tử lực hoặc trí nhớ của bộ óc con người và sự truyền cảm của hệ thần kinh. Dầu sao, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và sự đúng đắn một cách lạ lùng của nó là một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng hai mươi hai năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi, là năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khám bệnh bằng thần nhãn, cho đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho khoảng hai ngàn năm trăm người. Cũng như những cuộc khám bệnh bằng thần nhãn, những cuộc soi kiếp đều được ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thư từ văn kiện đã chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ. Những ai muốn tìm biết sự thật về những điều này còn có thể chất vấn nhiều người hiện nay đang còn sống và đã từng được ông Cayce soi kiếp. Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tính cách chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những bài toán bí hiểm của cuộc đời, thì ta đã có trong tay một số tài liệu khổng lồ và hiếm có về vấn đề này. Trước hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về thuyết luân hồi, là một nguyên tắc tồn tại căn bản trong vũ trụ. Và nếu tất cả những yếu tố kể trên cũng chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít nhất nó cũng đáng để cho ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học. Có biết bao cuộc phát minh lớn lao vĩ đại mà ban đầu cũng chỉ căn cứ trên những giả thuyết lạ lùng và khó tin. Khi người ta hỏi nhà bác học Einstein bằng cách nào ông ta đã phát minh ra thuyết tương đối, ông đáp: – Tôi chỉ thử đặt một nghi vấn về một định lý. Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi dào về tâm lý, y lý và triết lý, đem đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi và khác hẳn về cuộc đời. Trong khoảng hai mươi hai năm đó, có biết bao nhiêu người đau khổ tuyệt vọng đã tìm đến ông Cayce và đã được ông săn sóc giúp đỡ do sự hiểu biết thâm sâu và năng khiếu thần nhãn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bệnh tật về thể xác lẫn tinh thần, và tất cả đều muốn tìm sự giải đáp cho những câu hỏi sau đây: – Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi? – Nguyên nhân vì đâu mà tôi phải chịu sự đau khổ này? Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt vọng. Có nhiều người xem ra thì những kiếp trước của họ cũng tầm thường như kiếp này, và không có gì đặc biệt. Nhưng, dầu cho sự đau khổ của họ nặng hay nhẹ, các cuộc soi kiếp đã chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện thời của họ là kết quả của bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những cái khoen của một sợi dây xích và bắt đầu từ vô thủy. Tất cả đều đã được chỉ cho thấy rằng những bệnh tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên nhân xa hay gần, do sự tác động của một định luật căn bản gọi là luật nhân quả. Những gì họ đã nghe và học hỏi đã làm cho họ thay đổi cuộc đời; sự hiểu biết thâm sâu về bài học nhân quả đã giúp cho họ một nguồn an ủi cũng như tìm thấy sự thăng bằng và an tĩnh của tâm hồn. Nếu người ta chấp nhận tánh cách chân thật của những cuộc soi kiếp đó, người ta cũng còn phải nhìn nhận sự kiện là nó đã làm đảo lộn trí óc và quan niệm của hầu hết mọi người về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việc kể trên không phải là đem đến cho ta một giả thuyết mới, vì đó là một lý thuyết rất cổ xưa và đã từng là một điều tín ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều lục địa trên quả địa cầu. Nhưng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng vì hai điều sau đây: Thứ nhất, đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ người ta có được những bản phúc trình đúng đắn, mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về những kiếp trước của một số đông người. Thứ hai, đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, những bản phúc trình đó được ghi chép và sắp xếp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho mọi người đều có thể tra cứu, sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã hợp nhất triết lý Đông phương với những giáo lý Gia Tô, và làm cho cả hai nền triết lý Đông Tây càng thêm phần sống động. Nhờ đó, chúng ta đã có một sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông phương và Tây phương. Những cuộc soi kiếp bằng thần nhãn của ông Cayce cũng đã tổng hợp khoa học và tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cảnh giới tinh thần chịu sự tác động của luật nhân quả một cách đúng đắn cũng giống như thế giới vật chất. Nó cho ta thấy rằng sự đau khổ của con người không phải là do một sự rủi ro tình cờ như nhiều người lầm tưởng, mà là do những tư tưởng và hành động sai lầm trong quá khứ. Nó cũng chỉ ra rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế, hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc đoán của Thượng Đế hay là do ảnh hưởng hoàn toàn của sự di truyền, mà chỉ là kết quả của những hành vi và cung cách ứng xử của mỗi người trong những kiếp trước. Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý nghĩa và mục đích rèn luyện chúng ta trên con đường hướng thiện; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta đều có một nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại đau khổ đều là những bài học quí giá mà nếu chúng ta biết cách nhận lấy trong trường học lớn của thế gian thì trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đi đến mục đích minh triết và toàn thiện. rongmotamhon.net1 like
-
Các bác có tư vấn năm sinh con, nhưng mình để tâm trước mắt vụ cưới sinh đã, khi nào dự định có con sẽ xem lại bài tư vấn. Mình chọn ngày 9/3 đãi nhà gái, 10/3 làm lễ, rước dâu và đãi nhà trai. Thật ra nhà hàng ko quan trọng, bạn chỉ cần chọn ngày đẹp, giờ đẹp cho làm lễ thôi. Mình share cho bạn thông tin giờ chi tiết nhé+ Ngày 17 tháng Giêng ( 26/02/2013 Dương Lịch). Giờ : 17:20 -> 19:20 + Ngày 28 tháng Giêng ( 09/03/2013 Dương Lịch). GIờ : 15:20 ->17:20 + Ngày 29 tháng Giêng ( 10/03/2013 Dương Lịch). Giờ : 09:20 -> 11:20 Chúc bạn sớm tìm được ngày tốt cho hỷ sự :)1 like
-
Lạ kỳ cuộc chiến cây thị tiêu diệt mọi xe ủi mon men lại gần Mọi máy ủi, máy xúc cứ đến gần định “triệt hạ” cây thị thì lần nào cũng vậy, khi thì xích bỗng nhiên đứt, khi thì máy móc đang gầm rú bỗng nhiên chết lặng… Nhiều năm nay, du khách đi qua khu vực trung tâm thành phố Móng Cái (Quảng Ninh) đều không khỏi tò mò đặt câu hỏi vì sao trước Trung tâm Văn hóa – Thông tin – Thể thao (TTVHTTTT) thành phố lại có một cây thị lù lù “án ngữ”. Lạ một điều là khu vực trước đây đầy bóng cây xanh, nhưng kể từ khi quy hoạch thì chỉ duy nhất cây thị này là không ai dám đụng đến, nay nằm chơ vơ giữa bãi đất trống thênh thang. Mọi loại máy móc đều “quy hàng” Câu chuyện bắt đầu từ hơn 10 năm trước đây, ngày ấy khu vực còn sum suê những cây cổ thụ tựa như một cánh rừng. Ông Lê Việt Cường, Phó Giám đốc trung tâm cho biết, tại khu đất định xây dựng nhiều công trình lớn này, máy móc ầm ào san bằng mọi chướng ngại vật, mọi cây cổ thụ đều đã được di dời nhưng riêng cây thị thì “có vấn đề”. Máy ủi, máy xúc cứ đến gần định “triệt hạ” cây thì lần nào cũng vậy, khi thì xích bỗng nhiên đứt, khi thì máy móc đang gầm rú bỗng nhiên chết lặng. Ảnh minh họa Chuyện lạ này lặp đi lặp lại nhiều lần, đến khi cả khu vực đã hóa thành bãi đất trống thì riêng cây thị vẫn “kiên cường bám trụ”. Bỏ phương án dùng máy móc di dời cây, người ta thuê nhân công chặt gốc nhưng “có cho vàng cũng không ai dám làm”. “Cuộc chiến” giữa cây và máy tiếp tục giằng co, cơ quan chức năng tiếp tục nhiều lần điều máy móc đến thì những chuyện lạ nêu trên cứ lặp lại. “Chỉ riêng trong năm 2011, chúng tôi đã 3 lần định di dời cây, một lần đầu năm, hai lần giữa năm nhưng lần nào cũng thế, cứ tiến đến gần cây là tự dưng máy… sinh bệnh”, ông Cường nói. Ông Bùi Bá Quảng, Giám đốc Trung tâm xác nhận sự việc: “Một số cây cổ thụ lớn hơn cây thị rất nhiều đã được di dời đi nơi khác nhưng riêng cây thị thì bất di bất dịch”. Người ta tuân thủ nguyên tắc “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” nên đã thắp hương “xin cây” nhiều lần nhưng “thần cây” có lẽ không chấp nhận. “Lúc đầu chúng tôi cho rằng xe hỏng là do máy móc hoặc có vấn đề từ người lái xe. Chúng thôi đã khắc phục bằng cách thay xe nhiều lần, đổi lái xe liên tục, vậy mà xe vẫn không sao đến gần được. Nếu có đến gần thì bỗng nhiên chết máy, nhưng khi đưa xe đến khu vực khác làm việc thì lại nổ ầm ầm bình thường như chưa từng có chuyện gì xảy ra”, vẫn lời ông Quảng. Theo lời vị giám đốc này, thậm chí còn có lần xe đứt hẳn xích khiến người ta phải thay toàn bộ xích mới cho xe. Có lần người lái xe hoa mắt, khi đến gần cây bỗng nhiên rời vô lăng nhảy xuống đất ra về. Có người lái xe sau khi không “tấn công” được cây thì hoảng sợ nhất quyết xin chuyển công trình. “Vậy “tương lai” của cây thị sẽ ra sao?”. “Chúng tôi đành thống nhất giữ nguyên cây thị ở vị trí đó”, ông Giám đốc trả lời. Cây gieo rắc tai họa? Để phần nào “giải mã” những bí ẩn của cây thị, chúng tôi hỏi địa chỉ của gia đình đã từng sở hữu mảnh vườn có cây thị trên thì được biết, khi thành phố bồi thường để giải phóng mặt bằng, gia đình đó đã chuyển sang một vùng khác định cư. Cụ Hoàng Xuân Thâm (80 tuổi, một người dân ngụ phường Hòa Lạc) là một trong số it người biết chuyện kể lại, cây thị vốn của một gia đình hàng xóm nhà bố mẹ vợ ông. Khi khu đất trên là khu dân cư, cụ thấy chủ nhân hay thắp hương bên gốc cây nhưng chưa khi nào thấy người chủ hái quả hay chặt cành. Cụ Nguyễn Thị Bẩu (81 tuổi), người ngày trước từng ở gần khu vực cho biết trước đây khi vùng này chưa được quy hoạch, cây thị mọc trong vườn của một gia đình người Hoa Kiều. Lúc đó, cây sai trĩu trịt quả và to một cách lạ thường, có thể lớn như quả bưởi, tròn xoe thơm lừng cả xóm. Sau khi những người Hoa Kiều này rời đi thì một gia đình người Việt Nam đến ở. Bất thường xảy ra kể từ khi đến ở, người trong nhà ấy chẳng ai khỏe khoắn bình thường. “Họ cứ suốt ngày ốm đau, có người bị dị tật. Bà mẹ già có một cái bướu rất to ở cổ, miệng thì méo xệch; cô cháu gái thì đôi chân dị dạng. Nhất là ông bố suốt ngày ho như muốn nổ phổi. Họ đã thuốc thang chạy chữa rất lâu, còn lập cả bát hương trên cây thị nhưng những căn bệnh ấy đã không thuyên giảm mà còn gây hoang mang, sợ hãi cho cả làng”, bà lão thuật lại. Không hiểu những căn bệnh kỳ quái đó có phải do họ “sống chung” với cây thị lạ nên bị, hay đó chỉ là số đen đủi nên mắc bệnh? “Chẳng ai dám động đến cây thị dù hàng năm nó vẫn đơm hoa kết trái và cho rất nhiều quả”, cụ trầm tư nhớ lại. Bí ẩn chưa lời giải Không một người dân địa phương nào biết cây thị có từ lúc nào. Riêng cụ Khâm thì nhớ lại một vài chuyện lạ liên quan đến cái cây khẳng khiu “chẳng hiểu chứa điều thần bí gì mà quanh nó có những chuyện khó có thể giải thích”. Ông cụ cho biết, những năm kháng chiến chống Pháp, ngày ấy Móng Cái còn có tên huyện Hải Ninh và bọn giặc “trời đánh” không có chuyện gì xấu xa là không làm, từ cướp của, giết người dân vô tội cho đến hãm hiếp con gái nhà lành. Rồi nghe người dân kháo nhau về cây thị linh thiêng mọc ở bên kia sông, chúng cười khẩy khinh bỉ, cho rằng đó chỉ là lời đồn đại của những kẻ nhát gan, yếu bóng vía. Để ra oai, một tên quan Tây đã trèo lên bẻ cành thị rồi “phóng uế” ngay dưới gốc cây. Sáng ngày hôm sau, bọn lính giặc nháo nhác vì không thấy tên quan Tây đó đâu nữa. Chúng hò nhau đi tìm, lục tung từng con phố, từng nhà dân nhưng dấu vết đồng bọn vẫn biệt tăm. Vài ngày sau đó, xác tên giặc được tìm thấy ở bờ sông cách cây thị một quãng đường. “Không ai rõ tên giặc chết vì du kích ta trừ khử hay hắn mất mạng vì nguyên nhân nào. Chỉ biết là đêm hôm đó, gió cứ rít lên từng cơn dài trên ngọn cây thị. Từ đó, quân Pháp cấm bọn lính bén mảng đến gần cây thị”, ông cụ thuật lại. Chuyện xưa thì ít người chứng kiến nên dù sao cũng có hơi hướng truyền thuyết. Nhưng câu chuyện cách đây khoảng hai năm thì người dân sống xung quanh cây thị thì ai ai cũng quả quyết “Đừng có dại mà trêu vào cây thị”. Cuối năm 2009. Một tốp thanh niên địa phương kế bên đi qua, nghe người dân kể và để “chứng tỏ bản lĩnh” liền dừng xe trèo lên cây thị hái quả, rồi ra chơi ở bãi biển Trà Cổ cách đó không xa. Ngay đêm đó, những tai ương liên tiếp xảy ra với họ, người thì bị đánh, bị cướp; người thì bỗng dưng lăn đùng ra ốm sốt vật vã. Tra hỏi rõ ngọn ngành câu chuyện, vài ngày sau người thân của các thanh niên vội vã đội “mâm lớn mâm bé” ra thắp hương nghi ngút bên gốc cây, còn mời cả “thầy cúng cao tay” về cúng giải hạn. “Nào là ngựa giấy, thuyền giấy, tiền vàng âm phủ và đồ vàng mã khác cứ cháy ngùn ngụt. Những tưởng cúng khấn xong thì sẽ được bình an. Ai ngờ chính người thanh niên bị đánh và cướp xe ấy chưa đầy hai tháng sau mất mạng vì gặp tai nạn giao thông”, một người dân thuật lại. Cũng không ai kiểm chứng được việc nhóm thanh niên bị cây “trả thù” hay đó chỉ là những tai nạn rủi ro có thể gặp trong cuộc sống, nhưng từ đó cây cổ thụ ngày càng “nổi tiếng” hơn, ai ai cũng tránh xa. Người ta cũng lấy làm lạ về sức sống diệu kỳ của cây: Toàn bộ gốc cây mục ruỗng, chỉ còn trơ phần vỏ dày khoảng nửa gang tay, bốn cành lớn thì đã gãy do nắng mưa dầu dãi, do gió bão quật đổ. Vào mùa rụng lá, cây như một cây chết với bốn “cánh tay” khẳng khiu vươn lên nền trời ở độ cao khoảng 8m. Vậy mà đến mùa ra lá, “cây chết” này lại bật ra những mầm xanh li ti, những cành non lại đâm trồi nảy lộc như chứng tỏ sức sống bất diệt. Không ai rõ cây “có hồn” hay không, nhưng câu chuyện máy móc cứ đến gần cây là chết lặng thì có lẽ rất cần các nhà khoa học kiểm chứng, để du khách ngang qua khỏi phải đặt câu hỏi ngạc nhiên: “Vì sao hàng chục năm qua, cây vẫn “ngang nhiên án ngữ” như “trêu ngươi” con người giữa trung tâm thành phố?”. Nguyễn Hường/Pháp luật & Thời đại1 like
-
NĂM TỚI không thấy có sự thay đổi di chuyển ,những tháng đàu năm cháu vẫn còn thấy nhiều áp lực và bực bội nơi việc mình làm ,kiên nhẫn 1/2 những tháng dần đến cuối năm thì cảm thấy áp lực nhẹ đi và thoải mái hơn ,có thể sẽ được tăng lương vào những tháng cuối năm / sức khỏe những tháng đầu năm kém tránh tranh luận hay bàn cãi .1 like
-
Nhà ngoại cảm ngườiMỹ Sal Rachele bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực tâm linh từ những năm 1970. Bằngpháp môn yoga kết hợp cùng rung động với các rung động bí ẩn của âm thanh, ôngthanh lọc thân tâm, khám phá và khai mở những khả năng tiềm ẩn bên trong cơ thểmình. Ông thừa nhận mình có khả năng liên lạc với các linh hồn cao cả và đượcủy thác truyền tải những thông điệp tâm linh của các đấng tối cao đến nhânloại. Sal Rachele còn đưara một số phương pháp phát triển tiềm năng con người, nâng cao nhận thức tâmlinh, chữa bệnh... bằng năng lượng vũ trụ như “chương trình Alpha-Theta”, nhữnggiai điệu âm nhạc thần thánh “Angel Dance”, phương pháp tự thôi miên bằng âmnhạc "The Series Leonard", hay đang chuẩn bị xây dựng một trang trạirộng 40 mẫu được cho là nằm ngoài sự ảnh hưởng của năng lượng vũ trụ - một nơidành cho thiền định. Linh hồn cũng là vật chất Cũng giống như kháiniệm “linh hồn” hay “cõi vô hình” của các trường phái yoga Ấn Độ, Sal Rachelecho rằng linh hồn cũng là vật chất và bao gồm khoảng 12 lớp khác nhau, tức làtồn tại cõi không gian lên đến 12 chiều. Chiều không gian thấp hơn không thểnhìn thấy chiều không gian cao hơn. Ví dụ, không gian 3 chiều của con ngườihiện tại không thể nhìn thấy không gian 4 chiều của “hồn ma bóng quế”. Và caonhất là chiều thứ 12, tại đây các linh hồn phát triển cao và những rung độngvật chất tương đương với Thượng Đế ngôi 2. Tuy nhiên trong mộtbài nói chuyện về lịch sử Trái đất, Sal Rachele nói Địa cầu có tuổi đời khoảng4,5 tỷ năm, và con người có mặt trên hành tinh này muộn hơn, vào khoảng 10triệu năm trước. Điều đó làm cho các linh hồn chỉ phát triển đến chiều khônggian thứ 7 (tương đương với 7 luân xa của yoga), và cõi cao nhất là cõi Bồ đề,tức lã cõi Đức Phật đạt được tâm thức Niết Bàn. Nhà ngoại cảm ngườiMỹ thừa nhận mình thường xuyên nhận được thông điệp từ các đấng cao cả nhưng sựkhác biệt rung động vật chất đôi khi làm sự kết nối này bị ngắt quãng. SalRachele có nhiều bài “nói chuyện” về lịch sử địa cầu, các nền văn minh đã mất,các hành tinh trong Thái Dương Hệ… và dự đoán những thay đổi lớn cho Trái đấtvào các năm 2012, 2017, 2030. Có tồn tại người ngoài hành tinh Sal Rachele cho rằngđang có một nhóm nhỏ người ngoài hành tinh đang sống chung với loài người, họcó thân thể vật lý và luôn tránh né chúng ta vì lòng ít hiếu khách và bởi sự vôminh. Một số chủng tộcngười ngoài hành tinh đến để giúp đỡ nhân loại, một số đến theo chương trìnhriêng, số khác thì khai thác lén tài nguyên, nguy hiểm hơn là âm mưu tiếp quảnTrái đất khi loại người tự hủy diệt mình, tìm cách nghiên cứu mã gen và lai tạovới loài người để cải thiện tầm vóc chủng tộc, hay hiếm hơn hơn là “bọn” xemloài người như món “đặc sản” trên bàn ăn. Trái đất đổi cực Trong một bài nóichuyện về lịch sử địa cầu, Sal Rachele khẳng định giả thuyết trái đất đổi cựclà hoàn toàn có thật. Mỗi 26.000 năm, cực bắc của hành tinh chúng ta sẽ nghiênvề một chòm sao bắc cực mới để nhận năng lượng từ trường thuộc về chòm sao nàyvà khi đó mức độ tâm linh của con người sẽ phát triển khác đi. Sự chuyển đổicực sẽ làm rối loạn điện từ trường trên trái đất. Trong quá khứ các vị trưởnglão của nền văn minh Maya đã dự đoán trước thời điểm đổi cực và thời đại cũ sẽchấm dứt vào ngày 21/12/2012. Sal Rachele nói sựchuyển đổi này xảy ra trong một thời gian dài từ 20 đến 30 năm, tính từ năm2012. Đa số nhân loại nếu không thay đổi nhận thức về tâm linh sẽ bị chết dầnchết mòn bởi dịch bệnh, chiến tranh, hay thảm họa thiên nhiên. Sự thay đổi nàykhông phải là sự trừng phạt của Thượng Đế mà do sự rối loạn “tâm lý” do TráiĐất đã nhận một luồng năng lượng từ trường của một sao Bắc Cực khác và sự rungđộng này không phù hợp với lớp tâm thức dưới số 4. Sự phân chia lớp tâm thứcnày dựa trên khái niệm hệ thống 7 Luân xa của yoga. - Luân xa số 1, tâmthức thuộc về đòi hỏi thỏa mãn ăn uống. - Luân xa số 2, tâmthức thuộc về đòi hỏi thỏa mã dục tình, sợ hãi, căm ghét, giận dữ và bạo hành. - Luân xa số 3, tâmthức thuộc về hoài nghi và suy nghĩ. - Luân xa số 4, tâmthức thuộc về tưởng tượng và mơ mộng. - Luân xa số 5, tâmthức thuộc về tình thương, lòng từ bi. Sal Rachele nói cácrung động vật chất dưới lớp số 4 sẽ không có cơ hội phát triển tiếp tại cõitrần, các linh hồn chưa tiến hóa sẽ bị hút qua một bầu hành tinh khác có mứcrung động thuộc về cõi giới này, thông qua một con đường vũ trụ tại các Kim tựtháp của Ai Cập. Nhà ngoại cảm dẫn sốliệu của cơ quan khảo sát địa lý Bắc Mỹ nói rằng, cực bắc của Trái đất đã dịchchuyển liên tục trong thời gian gần đây, từ vị trí ban đầu ở phía bắc Canada nóđang chuyển dần đến vùng Siberia của Nga. Sự thay đổi từ trường đã gây ra nhiềuđại thảm họa thiên nhiên trong thời gian gần đây, như siêu bão Katrina, trậnsóng thần Nam Á, động đất tại Nhật Bản… Sự nguy hại của bom hạt nhân Sal Rachele cho biếttác hại của các vụ nổ hạt nhân không chỉ ảnh hưởng đến thể vật lý, mà còn tạora các chấn động vật chất cao hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến sự tiến hóa của các linhhồn và có khả năng lan ra tới các hành tinh khác. Vì vậy, người ngoài hành tinhđang xúc tiến một công tác tại Địa cầu để ngăn chặn sự tự hủy diệt của nhânloại. Điển hình như trong cuộc chiến tại Iraqmới đây, một nhóm cực đoan Iranđã phóng vũ khí hủy diệt về lãnh thổ quốc gia láng giềng nhưng sự can thiệp kịpthời của người ngoài hành tinh đã làm cho vũ khí này tịt ngòi. Chi tiết hơn xem tàiliệu tổng hợp “Thông điệp từ các Đấng sáng tạo” tại website:http://www.2012.vn/tai-lieu/1333-tong-hop-cac-thong-diep-tu-cac-dang-sang-tao.html1 like
-
Phá tướng cả cuộc đời vì hình xăm không đúng chỗ? Xăm hình còn được gọi là Thích thanh (dùng mực xanh chích lên người) là tục người xưa thường dùng khắc chữ lên mặt hoặc lên người phạm nhân... Xăm hình còn được gọi là Thích thanh (dùng mực xanh chích lên người) là tục người xưa thường dùng khắc chữ lên mặt hoặc lên người phạm nhân. Trước đây, chỉ những thành phần ra tù vào khám, “tiền án nhiều hơn tiền túi” mới xăm trổ đầy mình, vì vậy khi thấy ai đó có hình xăm trên người là bị liên tưởng ngày đến những thành phần bất hảo trong giới giang hồ. Ngày nay, hình xăm thậm chí còn được coi là mốt của 1 số bạn trẻ, nhưng ít ai biết có quan niệm cho rằng nếu xăm không đúng chỗ sẽ là một kiểu phá tướng. Mạng nhỏ đòi gánh… rồng Theo quan niệm của một số bạn trẻ ngày nay, hình xăm thậm chí đã trở thành một trào lưu trong giới trẻ, là một hình thức thẩm mỹ, gây ấn tượng, thể hiện đẳng cấp, ghi dấu tình yêu của các bạn trẻ hoặc xua đuổi vận hạn… Thế nhưng, một nhà nghiên cứu cho biết, nếu bạn nghĩ rằng mình có thể tùy tiện xăm lên cơ thể bất kỳ hình thù gì mình muốn thì nên bỏ ngay suy nghĩ đó, vì nó hoàn toàn sai lầm trong quan niệm của thuật phong thủy và nhân tướng học: Xăm hình thường là xấu nhiều tốt ít, xăm hình mà không thận trọng, hậu quả tai hại sẽ theo mình suốt đời. Bởi vậy, có người xăm hình xong thì mọi việc hanh thông thuận lợi (số này rất ít), có người xăm xong thì làm gì cũng gặp rắc rối, nhẹ thì có chút khó khăn rồi cũng qua, nặng thì tai nạn xe cộ phạm đến thân thể. Một nam thanh niên từng đến than thở với một chủ tiệm hình xăm tại Hà Nội: “Từ lúc xăm hình con rồng này, cháu thấy mình số đen lắm, làm gì cũng “chết”, chắc tại con rồng nhỏ quá. Chú xem cháu đang định sửa con rồng to hơn, xăm từ bắp tay đến ngực luôn có được không”. Chủ tiệm nhìn thoáng qua đã có thể nói được ngay, vấn đề ở chỗ không phải con rồng to hay nhỏ, mà chẳng qua vì mạng của bạn không thể gánh nổi con rồng đó thôi. Nói không gánh được tức là mệnh lý khắc, xăm lên xong không những không đem lại may mắn, mà ngược lại toàn đem đến những điều đen đủi. Vì vậy, dù sao mọi người cũng nên suy nghĩ trước vì xăm thì dễ mà xóa thì khó. Kỳ thực, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cuộc sống của một con người, trên đây chỉ là một cách nhìn về hình xăm trên góc độ phong thủy học và nhân tướng học. Nói về xăm hình, không đơn thuần chỉ là người thợ xăm dán hình xăm lên người bạn rồi chấm mực di mũi kim mà nó có nguyên lý của nó, nguyên lý ấy là giữa người xăm và hình xăm. Theo những người trong nghề, trong dòng xăm chính thống, khó xăm nhất là hình Quan Công, Thanh Long, Tà Long vì không phải ai cũng gánh được mấy hình này. Có người xăm hình Thanh Long quá vai chưa đến 1 tháng thì bị ngã xe gãy tay, mọi ngày chạy bạt mạng thì không sao, hôm ấy chỉ đi từ từ một tay rút cái điện thoại trong túi quần, không để ý quệt vào đuôi xe đằng trước, ngã rất nhẹ mà gẫy tay. Một người khác sau khi xăm hình cá chép hóa rồng trên vai bỗng nhiên làm ăn rất thuận lợi, chưa đến 1 năm gặp lại mà đã mua nhà, mua xe. Nhưng từ khi xăm chữ nhẫn ở sau lưng thì lại xuống dốc không phanh, tài sản hầu như tiêu tán hết, may là còn giữ được cái mạng.Trước khi xăm, người này đã được cảnh báo là không hợp với chữ nhẫn nhưng không tin, thấy thích thì cứ xăm lên, giờ lại phải xóa hình đi, người chằng chịt vết xóa. Phải đến lúc đó, người này mới đi tìm hiểu và biết được ý nghĩa của chữ nhẫn: bên trên là cây đao đè lên tim, nhúc nhích là đao đâm vào tim ngay. Với những người tính hay vội vàng, dễ kích động và hơi có chút giảo hoạt không nên xăm chữ này. “Trước khi xăm chữ nhẫn tuyệt đối phải nên xem tính cách của mình có hợp với ý nghĩa hay không”, một nhà nghiên cứu phong thủy cho biết. Suýt chết vì “phạm thượng” Theo một chủ tiện xăm lâu năm am hiểu về phong thủy, hình xăm phải tương thích với thực lực, tính cách, mệnh lý của từng người, nếu không hiểu biết thì may mắn và đại họa chỉ cách nhau gang tấc. “Cách đây không lâu có một thanh niên cùng bạn đến tiệm nằng nặc đòi xăm hình “Quan âm ngồi đài sen” trên lưng, tôi hỏi liệu cậu có gánh được không, người thanh niên quát bảo tôi có tiền thích xăm gì chẳng được, ông cứ xăm cho tôi, không phải lằng nhằng. Lúc ấy, tôi nói không phải do vấn đề tiền nong mà thấy cậu còn trẻ giống một anh bạn giang hồ mới nổi chỉ nên xăm hình “hổ hạ sơn” là hợp lý, ra ngoài gặp giang hồ cộm cán thấy cậu chỉ là con hổ mới xuống núi, vừa bước chân vào xã hội thì họ cũng không gây khó dễ cho cậu. Cậu thanh niên kia nhất quyết không chịu, còn đe dọa quậy phá để cho tôi đóng cửa tiệm để xăm hình bằng được mới thôi, tôi cũng đã cảnh báo trước nếu có chuyện gì xảy ra thì đừng trách không nói trước”, vị chủ tiệm này kể lại. Hôm đó, xăm mất 8 tiếng đồng hồ mới xong, chủ tiệm cũng đã nhắc nhở thanh niên đó phải tắm rửa sạch sẽ, thắp hương chay tịnh 1 tuần rồi sau làm gì thì làm. Ai ngờ, 4 hôm sau anh ta đi mát xa, thư giãn, đến lúc dẫm lưng bỗng nhiên thanh sắt là tay bám bên trên tuột ốc rơi xuống, cô gái mát xa trượt chân ngã, khuỷu tay của cô gái chống thẳng vào gáy cậu thanh niên kia. Hậu quả ai cũng đoán ra, cậu thanh niên đó bị tổn thương đốt sống cổ, điều trị hơn 3 tháng mới đỡ. Vị chủ tiệm xăm giải thích: “Anh thử nghĩ xem liệu có thể dẫm lên mặt Quan âm được không, như vậy là bất kính với Phật. Tuy cậu thanh niên kia đã xăm hình Phật lên người nhưng trong tâm niệm không có thần phật tồn tại, thường hay tà niệm, tính tình ngang ngược vốn đã không có duyên với Phật rồi, tôi đã biết trước thế nào cũng có ngày xảy ra chuyện nhưng cậu thanh niên kia không tin”. Một chủ tiệm xăm khác tại Hà Nội cũng cho rằng: “Chỉ lấy một vài ví dụ đa phần mang tính trùng hợp này để chứng minh thì không có tính thuyết phục lắm, bạn có thể tin hoặc không tin, chỉ muốn nhắc nhở các bạn rằng không phải cứ thích xăm hình gì là xăm, vì có nhiều cái mệnh của bạn không hợp, may mắn không thấy đâu, có khi còn bị nó…vật”. Ông giải thích: “Nghĩa là người như thế nào thì xăm hình ấy, không thể tùy tiện, cái này một phần có nguyên lý bắt nguồn từ Chu Dịch. Ví dụ người mệnh kim thì dương khí tương đối vượng nên không thể xăm Thanh Long (thuộc tính dương), nếu xăm lên sẽ thành ra lửa cộng lửa, âm dương không điều hòa, sớm muộn gì cũng tự… đốt chết mình. Một số quan niệm về xăm hình trong phong thủy và nhân tướng học Xăm hình “tứ thú” có thể gây tổn nguyên khí: Nhiều bạn trẻ lý giải về xăm hình “tứ thú” trong thuật phong thủy và cho rằng khi đã xăm thì phải là: tả Thanh Long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ (bên cánh tay trái xăm hình rồng xanh, cánh tay phải xăm hình hổ trắng, ngực trước xăm hình chim công, sau lưng xăm hình Huyền vũ (Huyền vũ là một trong tứ tượng của thiên văn học Trung Quốc, là linh vật thiêng liêng có tượng là hình con rắn quấn quanh con rùa màu đen)). Nhưng trước khi xăm, bạn nên cân nhắc kỹ vì tuy nó là 4 linh vật thánh đem lại may mắn nhưng không phải cho tất cả mọi người, chỉ một số người gánh được 4 linh vật này, còn lại với đa số người thì được coi là hung. Xăm ngực hoặc phần dưới cơ thể dễ loạn hậu thế: Hiện nay có nhiều người xăm vào ngực, bụng, eo, đùi,… quả thật những hình xăm rất tinh tế, nhưng trong quan niệm của thuật phong thủy thì những hình xăm phá tướng đó khiến phần hạ thế, nơi cất giữ phong khí lớn nhất của con người bị tổn hại, khí thoát ra ngoài nên nếu chưa có gia đình thì ảnh hưởng đến tình duyên, nếu không thì sau này ảnh hưởng đến sinh nở hoặc sẽ phát sinh rắc rối trong mối quan hệ giữa con cái và bản thân. Xăm hình ở ngón tay sẽ khắc chồng, khắc vợ. Nữ xăm hình ở ngón tay của cánh tay trái, chồng bạc duyên; xăm ở ngón tay của cánh tay phải thì nhân duyên kém; con trai thì ngược lại. Xăm vào mông có thể gặp nhiều điều thị phi: Theo vị lý học phong thủy thường đề cập đến các “luân đầu”, phần mông trên cơ thể người là nơi “luân đầu” quan trọng nhất của con người, một khi luân đầu này bị “tấn công”, bị cắt đứt, thị phi cũng theo đó mà đến (giống như bị triệt long mạch). Đi đến đâu bạn cũng sẽ gặp “quỷ con – chỉ vận hạn nhỏ nhưng thường xuyên”, khó mà dứt ra được. Xăm hoa văn bên đùi khiến đường đời gập ghềnh: Nếu bạn vốn có vận may rất tốt bỗng nhiên trở nên gặp khó khăn sau khi xăm hình trên đùi thì có thể bạn bị phạm rồi. Xăm hình để che vết sẹo: Nhiều bạn vì trên cơ thể có vết sẹo xấu nên xăm hình nhằm che đi chỗ xấu ấy nhưng lại không biết rằng sẹo trong phong thủy vốn dĩ đã là chỗ gây tổn hại đến khí, xăm hình lên chỗ sẹo thành ra là loạn lại càng thêm loạn; nếu vết sẹo không ảnh hưởng nhiều thì không nên can thiệp. Xăm ở vai, ở cổ gây mệnh khổ: Xăm hình sau lưng biểu thị cả đời lúc nào cũng vất vả, gánh vác, áp lực lớn. Trong nhân tướng học, vai, cổ là đại diện cho hệ thống hô hấp vì vậy khi xăm hình lên bộ phận này dễ gặp vấn đề liên quan đến hệ hô hấp. Xăm hình động vật dễ gây hỗn loạn trong tâm tưởng: Xăm hình nhân vật, động vật hoặc côn trùng biểu thị suốt đời bị người khác sai khiến, chỉ huy, không có chủ kiến. Đồng thời khi xăm hình động vật cần chú ý đến vấn đề xung khắc các con giáp. Người tuổi Thìn, Tuất, Mão, Hợi đặc kị xăm hình Rồng; người tuổi Thân, Tỵ đặc kị xăm hình Hổ; người tuổi Mão, Dậu, Tuất đặc kị xăm hình bướm. Xăm thực vật, cây cỏ: Thực vật thuộc hành Mộc, da thuộc hành Thổ, Mộc khắc Thổ vì vậy dễ gây ra sự cố bất thường, tai bay vạ gió, bị thương tích. Xăm hình thần phật: Một số người thích xăm hình thần phật trên người vì nghĩ rằng làm như vậy sẽ luôn được thần phật bên cạnh phù hộ, nhưng thử nghĩ xem, lúc tắm rửa, đi vệ sinh và các hoạt động phòng the thì sao? Thực ra là toàn cho thần “xơi” những thứ xú uế, trần tục. Xăm lên xong mà không biết chay tịnh, kiềm chế thì ắt rước họa vào thân. Xăm lên tay chân gây điều tiếng thị phi: Khi xăm lên tay chân, bất kể là màu sắc gì đều đem lại thị phi suốt đời, phong ba luôn ập tới bất ngờ, làm việc gì cũng không được thuận lợi. Xăm ở bắp chân trở xuống dễ gây tranh chấp trong chuyện tình cảm nam nữ, luôn trong trạng thái bị áp lực, căng thẳng, tài vận đi xuống. Tục xăm hình xuất hiện cách đây vài chục ngàn năm, tồn tại song song cùng nhiều làn sóng văn minh nhân loại. Xăm hình không chỉ thể hiện sự nhận dạng sắc tộc, mà trong nhiều trường hợp còn là phương cách chữa bệnh. Tại eo biển Bering, nhà dân tộc học George B. Gordon từng gặp nhiều người ở đảo Diomede với vết xăm ở gò má và thái dương đó là những sẹo nhỏ sau khi người ta châm ra hút máu độc. Ở Alaska, hiện vẫn có tục chích da để “rút máu độc” cho vài căn bệnh. Dân Chugach Eskimo cũng có cách chữa tương tự. Khi bị đau mắt, họ chích ra lấy máu ở chóp mũi và thái dương…. (Theo Pháp luật & Thời đại)1 like
-
Người có khả năng Thôi miên là người thông qua phương pháp tập luyện đặc biệt , tạo ra năng lượng trường sinh học rất lớn. Người Thôi miên có thể sử dụng năng lượng đó thông qua ý chí và tinh thần để điều khiển và khống chế ý chí và tinh thần của người khác. Điều khiển mọi suy nghĩ và hành động của họ. Người bị thôi miên rơi vào trạng thái vô thức, không làm chủ được bản thân, bị chi phối hoàn toàn hành vi bởi người thôi miên. Người bị thôi miên phải là người tự nguyện tham gia, chấp nhận bị điều khiển trong quá trình điều trị bệnh hoặc theo yêu cầu nghiên cứu, khai thác thông tin của người thôi miên. Nếu không phải là tự nguyện thì không thể tiến hành việc thôi miên được. Trong một số trường hợp đặc biệt, đối với người thôi miên giỏi, họ không cần phải phụ thuộc ý chí và tinh thần của người khác mà vẫn có thể thôi miên được họ. Việc này gọi là thôi miên cưỡng bức. Đây nếu như không phải là người có tư cách và phẩm chất hơn người, thì sẽ rất dễ rơi vào tình trạng người thôi miên lợi dụng tài năng vào mục đích phi pháp hoặc các mục đích xấu xa khác. Thôi miên có khả năng chữa trị được một số loại bệnh tật . Thôi miên cũng có khả năng đuổi được một số vong ma ra khỏi cơ thể của người bị ma nhập, vì năng lượng trường sinh học tác động mạnh mẽ và trực tiếp lên hệ thống trung ương thần kinh, mà vong ma xâm nhập vào cơ thể thông qua con đường trung ương thần kinh này. Tuy nhiên không phải bất cứ tà ma yêu quỷ nào cũng bị khuất phục bởi thôi miên. Ngược lại đối với các loài yêu tinh và quỷ vì chúng có năng lượng thần thức lớn nên chúng có thể tác động ngược lại người thôi miên. Trong trường hợp đó bản thân người thôi miên sẽ bị ma nhập và bị điều khiển. Người có khả năng thôi miên mặc dù có năng lượng trường sinh học lớn, vẫn có thể bị ma nhập và thậm chí còn dễ bị ma nhập hơn là các đối tượng bị áp vong. Trong trường hợp này thì không biết đâu là khả năng thôi miên, đâu là năng lượng thần thức của loài yêu quỷ. Đặc biệt, người thôi miên phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, nếu không họ rất dễ rơi vào tình trạng lợi dụng người bị thôi miên để làm các việc bỉ ổi, xấu xa, tồi tệ, thậm chí làm hại người bị thôi miên mà họ không thể nào biết được. Đây nếu như người thôi miên làm cho người bị thôi miên lâm vào tình trạng hoang tưởng, tự kỷ ám thị, thì chỉ người có khả năng thôi miên mới có thể chữa trị cho họ . Bản chất không phải là bị ma làm nên việc cúng kính, làm pháp đuổi tà ma là vô dụng. Người bị thôi miên không thể có khả năng tìm mộ, nhưng lại có khả năng cung cấp các thông tin bí mật về bản thân và những người thân khác trong gia đình nếu người thôi miên muốn khai thác thông tin. Sau khi bị thôi miên, người tham gia tự nguyện hoặc bị thôi miên cưỡng bức cũng không thể nhớ nổi những gì mình đã nói và làm. Người bị thôi miên có thể có khả năng múa, hát, đánh võ... mà bình thường không thể làm được. Người đã bị thôi miên nhiều lần thì rất dễ bị vong nhập vì Thể Vía được khai thông, tương thích với năng lượng cõi âm. Đã có những trường hợp người đang bị thôi miên liền bị ngay một con quỷ xâm nhập vào và dùng năng lượng thần thức của nó khống chế ngược lại người thôi miên, khiến cho người thôi miên bị mất hết năng lượng sinh học và trở thành ngơ ngẩn, hoang tưởng, tự kỷ. Tóm lại, người biết thuật thôi miên chỉ nên áp dụng trị liệu các loại bệnh tật thông dụng và một số việc khác. Nếu dùng vào viêc có liên quan đến lĩnh vực Tâm linh thì giống như con dao hai lưỡi, mặt xấu nhiều hơn là mặt tốt. Đối với người bị Áp vong : Người bị áp vong nhất định phải là người có Thể Vía tương thích với năng lượng thần thức của người cõi âm. Người khi bị áp vong sẽ rơi vào trạng thái vô thức, nhờ có vong áp vào mà có thể biết được mọi việc đã, đang và sẽ xảy ra đối với các thành viên của gia đình . Bất cứ ai có Thể Vía tương thích với người cõi âm, vong đều nhập vào được mà không cần phụ thuộc ý chí và tinh thần của người đó. Vong cũng có vong tốt, vong xấu. Vong nhập vào người đi áp vong nhiều khi cũng không hẳn là người thân của gia đình đi gọi hồn. Có những vong có năng lực thần thức lớn có thể biết rõ về gia đình "Khổ chủ" mà không phải là vong người thân thật sự của họ. Thực tế vong biết rõ phần mộ bị thất lạc và có thể chỉ ra nơi phần mộ đó, nhưng nếu là vong khác nhập vào thì sẽ chỉ dẫn bậy bạ, lung tung không đúng phần mộ. Trường hợp này thường chỉ xảy ra với những nhà ngoại cảm tự phát giống như trường hợp của nhà ngoại cảm có tên Lê Thành Trung. Người đi áp vong cũng có thể bị xảy ra hiện tượng vong ma khác tiếp tục nhập vào sau khi áp vong xong và trở về nhà. Vong ma này sẽ quấy đảo, khiến cho cả gia đình một phen hỗn loạn. Vì thế thực tế việc đi áp vong cũng lợi bất cập hại nếu người đi áp vong không đến đúng những nơi áp vong có thờ phụng Thánh Thần theo đúng phép tắc, lễ nghi. Những người có bệnh hoang tưởng, nhưng người tự kỷ ám thị cũng dễ áp vong. Nhưng nếu là vong xấu xâm nhập thì bệnh còn nặng hơn nữa, thời gian trị liệu và hồi phục rất lâu. Đối với những người bị vong ma nhập thì người biết thôi miên có thể chữa trị ( đuổi tà ma ) cũng có trường hợp không thể chữa nổi do vong có năng lượng thần thức quá mạnh. Trong những trường hợp bị vong ma nhập thì tốt nhất là mời Pháp sư , vừa an toàn lại hiệu quả.1 like
-
Vinhvinh thân mến. Ông Hồ Ngọc Đức là một chuyên gia có kiến thức rất sâu về lịch pháp. Nhưng ông ta vẫn có thể sai lầm về phương pháp làm lịch. Việc xuất hiện một cuốn Âm lịch trên cơ sở Lịch Đông phương dành riêng cho Nam bán cầu là một sai lầm rất cơ bản về phương pháp làm lịch. Chú lấy một thí dụ: Lấy cái gì để phân biệt lịch Nam Bắc bán cầu? Lấy đường xích đạo chăng? Vậy đường xích đạo là nới phân chia mùa và năm của Địa cầu chăng? Sinh ra ở khu vực xích đạo thì người đó vừa có tuổi Kỷ Sửu vừa có tuổi Mậu Tý chăng? Phía trên Xích đạo thì mùa Xuân tười trẻ, bước qua xích đạo thì đã mùa thu lá bay chăng? Bởi vậy, chú luôn khẳng định rằng: Lạc Việt độn toán và tất cả các môn cổ học Đông phương chỉ dùng một loại lịch duy nhất là Van niên lịch - thói quen gọi là lịch Tàu - do Nhà xuất bản Dân tộc xuất bản thôi. Còn ờ thì ở địa phương nào tính theo giờ và ngày ở địa phương đó. Vinhvinh lưu ý điều này. Chú rất quí Vinhvinh, nhưng chú buồn về một việc vô lý như vậy mà bao người ủng hộ, còn vấn đề 5000 năm văn hiến Việt và Lý học Đông phương nhân danh văn minh Việt hợp lý và rất chặt chẽ thì lại chịu sự thờ ơ của con người. Thật là buồn, Nếu không vì một mục đích cuối cùng là minh chứng cho 5000 năm vvăn hiến Việt, chắc chú sẽ sống qua ngày bằng nghề thích hợp và chẳng quan tâm gì đến chuyện thế nhân.1 like
-
Tặng ThanhTrang 8 chữ vàng "Kiên trì - nhiệt tình - khiêm tốn - đảm đang" và 8 chữ ngọc "thông minh - nghĩa tình - tham vọng - cầu tiến". Càng ngày trình độ luận của ThanhTrang càng lên tay. Còn LacTuong thật ra cũng chỉ lẹt đẹt thôi, lại lười luyện, lại tẩu hỏa nữa. Hic1 like
-
Hehe Lactuong à, quả là đúng như LạcTuong nói Tử tiểu cát thì đúng là không được như ý nhưng câu hỏi là "đến khi nào mình có người yêu " kia mà . nếu ứng với quẻ thì đúng là hiện thời không có tình yêu "tử" mặc dù đối tượng "tiểu cát" cũng rất mong muốn có tình yêu và cũng có tình cảm quý mến với 1 ai đó. qua hè thì hỏa sẽ khắc được tử/kim nhưng thiệt hại nặng cho tiểu cát/mộc sinh hỏa , qua mùa thu thì Kim vượng không có cơ hội nhưng qua đông, xuân thì tình hình lại khác, còn khác như thế nào thì TT còn chưa biết vì cơ hội đến nhưng đối tượng không nắm bắt thì cũng như không. chính vì thế TT nói nên chờ đến đó xem thế nào. còn tình yêu không nhất thiết là với người bạn mà đối tượng hỏi. hì hì Không lẽ gặp quẻ tử tiểu cát thì trả lời là không bao giờ có người yêu sao???? hic hic Hỏi thiệt nhen, LacTuong dạo này có bị tẩu hỏa nhập ma không vậy?????? bảo trọng nhé! :P TT1 like