-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 11/07/2012 in all areas
-
Đừng Quên Họ!
Thiên Anh and 3 others liked a post in a topic by wildlavender
Chuyến đi này chúng tôi đã thực tế qua cầu có 2 câu thần chú và lục tự đại minh chú. Mỗi người qua cầu với những tâm trạng khác nhau.... Lê Phương "giấu nỗi sợ hãi" công khai nỗi sợ hãi thong dong ngắm cảnh trời mây Đã sợ lại khọm người nhìn xuống dưới nên nỗi sợ càng tăng Tự tin từ phút đầu... Đôi câu Thần Chú Giải Thoát làm cổng cho người dân đi qua đã 5 năm nay không còn số thương vong vì chết đuối! Cảm tạ vô lượng công đức Thầy. Bữa thọ trai tại chùa ....vội vã để còn lên đường Chúng con Xin Cảm ơn Thầy Thích Trí Khánh người đã tạo duyên cho chúng con đến với những mãnh đời vô nhận thức Chúng tôi xin cảm tạ những nhà hảo tâm, những tấm lòng đã đóng góp tài vật công sức cho chuyến đi hoàn toàn viên mãn. Chúng con xin nguyện hồi hướng công đức và phước báu này đến tất cả chúng sinh còn đang chịu nhiều khổ đau mất mát bệnh tật trên thế gian này nhận được an lạc hạnh phúc. Nam mô công đức lâm bồ tát ma ha tát4 likes -
Cầu Mưa!
thanhphuc and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Lâu lâu đoán một wẻ, chẳng may cũng trúng đấy nhỉ? Hi.Cảm ơn nhà tiên tri của người da đỏ Tecumshe, vị thần bảo hộ đất nước này .3 likes -
Vài lời chia xẻ / hỡi các bạn mới tập xem tử vi ! tử vi không phải đơn giản như bạn nghĩ , dẫu bạn có có nghiên cứu trong nhiều năm ,nhưng chắc những gì nhận định của bạn có đúng không ? như vậy đừng vội vàng kết luận rằng sai trật ,các bạn càng đi sâu vào sẽ khám phá càng nhiều mới lạ + thêm bạn phải có kiến thức suy luận phải chạy kịp theo thời thế và văn hóa + cuộc sống hiện đại ...2 chữ định mệnh sẽ gắn bó suốt cuộc đời các bạn mà bản tử vi là những gì sẽ xảy ra ,nhưng điều kiện có ai hội đủ kiến thức để phán đoán ra lịch trình của nó / khi xảy ra rồi ngẫm nghĩ lại lúc đó bạn mới thấy sự chính xác tử vi /nhưng điều kiện xảy ra sẽ thay đổi do phúc đức hay nghiệp quả mình đang tạo ra / thí dụ khi 1 tai nạn xảy ra của 1 người người thọ nạn như trong hạn tử vi nói sẽ bị thương tích bị đâm chém đỗ máu ... nhưng khi bạn tạo nghiệp tốt hay nói chung bạn làm lành hướng thiện thì nạn sẽ xảy ra nhẹ hơn mà theo hình thức khác để đổi nghiệp ... nghĩa là bạn vẫn bị đâm chích dù 1 cây đinh hay cây kim và điều tất nhiên không thể thiếu máu dù nó vài giọt... đây là kết quả những gì tôi đã trãi nghiệm qua ...2 likes
-
Bị ngăn cản kết hôn vì không hợp tuổi Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. From: Xuân Thu Sent: Thursday, November 25, 2010 2:44 PM Kính gửi các anh chị Ban biên tập mục Tâm sự! Tôi viết câu chuyện của tôi với mong muốn duy nhất là có thể chia sẻ lòng mình cả với những người tôi không hề quen biết dù câu chuyện của tôi có lẽ đã thuộc vào đề tài quá cũ. Hơn 4 năm trước đây tôi đã gặp và nhận lời yêu người yêu tôi bây giờ. Tình cảm của chúng tôi đã trải qua rất nhiều sóng gió với hiểu lầm, không liên lạc và xa cách. Nhưng khi gặp lại nhau vào năm ngoái, cả hai chúng tôi đã quyết định quay lại. Chúng tôi là tình yêu đầu đời trong sáng và đã có rất nhiều kỷ niệm vui buồn, những lúc vượt qua khó khăn luôn ở bên nhau. Giờ đây khi cả hai có công việc ổn định và có thể tiến đến hôn nhân thì tình yêu của chúng tôi cũng đang đi đến lúc bế tắc vô cùng chỉ vì một lý do duy nhất: tôi và anh kỵ tuổi nhau. Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Đọc đến đây có thể rất nhiều người sẽ nói rằng thời buổi nào rồi mà còn coi trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nhưng có thể các anh chị nằm trong số ít không coi trọng chuyện này. Trong khi đó người Việt Nam rất xem trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nếu lấy nhau trong sự ngăn cản quyết liệt của gia đình 2 bên hẳn tôi và anh đều sẽ không thực sự hạnh phúc. Tôi có thể khẳng định chúng tôi yêu nhau rất nhiều và tình yêu đã đủ lớn, đã được thời gian chứng minh. Nhưng tôi cũng không hiểu sao giờ đây tôi đang quyết định không liên lạc với anh để chúng tôi suy nghĩ lại chuyện này. Tôi có cảm nhận rằng tình yêu của tôi sắp ra đi. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. Các anh chị ai đã có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này xin hãy chia sẻ cùng tôi. Hiện tại tôi cảm thấy hụt hẫng trong lòng. Rất mong Ban biên tập đăng bài viết này của tôi để tôi có thể tìm ra hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Chân thành cảm ơn anh chị! Thu http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/11/3BA237EF/ Hai mối tình của tôi đều tan vỡ vì không hợp tuổi Khi cô ấy nghe nói không hợp như vậy thì tinh thần yêu đương tan biến đi đâu mất và xoay 180 độ. Cô ấy nói thôi mình chỉ có duyên phận tới đó, dừng lại là đúng mức rồi. Tôi nghe mà không tin vào tai mình nữa. (Hung) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23EAB/ Đau khổ khôn nguôi sau mối tình kỵ tuổi Phải chia tay anh, tôi hụt hẫng, đau khổ, mất niềm tin. Hơn một năm đầu tiên tôi đã đi tìm anh, nấp ở một góc nào đó để đợi anh đi làm về, để thấy bóng dáng anh cho đỡ nhớ, cho đến ngày anh có người khác thì tôi không còn đến tìm anh nữa. (Hien) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23E2C/ -------------------------------------- Bài trả lời của TTNC Lý Học Đông Phương Kính gửi ban biên tập mục Tâm sự và quý bạn đọc, Mấy hôm nay chúng tôi theo dõi mục tâm sự và cảm thấy khá bức xúc vì các vấn đề về tuổi hợp hay không hợp trong hôn nhân. Là những người đã và đang nghiên cứu văn hóa truyền thống, nghiên cứu hệ thống lý học Phương Đông nên chúng tôi cũng muốn có đôi lời chia sẻ với quý bạn đọc.Chúng tôi viết bài này nhằm cung cấp cho quý vị quan tâm một cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tuổi và tương tác tuổi trong mối quan hệ nam nữ. Trong truyền thống văn hóa Á Đông, lúc cưới vợ gả chồng thì những người có tuổi trong gia đình đều quan tâm đến vấn đề luận tuổi. Nhưng qua thời gian cũng như thăng trầm của lịch sử, ngày nay, việc luận tuổi đã bi thất truyền dẫn tới những quan niệm chưa chính xác, lệch lạc và trở thành một nỗi lo sợ vô lý cho các cặp trai gái yêu nhau muốn tiến đến hôn nhân. Và cũng qua cả ngàn năm nay, sự thất truyền, tam sao thất bản đã dẫn đến những phương pháp luận tuổi không đầu không đuôi, gây ra những cảnh dở khóc dở cười, chia ly vô cớ và đầy nước mắt của những đôi yêu nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay đa số các “thầy” xem tuổi đều áp dụng phương pháp cung phy. Có 8 cung phi cho nam (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn) và 8 cung phi tương tự cho nữ, kết hợp lại sẽ cho ra 64 trường hợp, hay còn gọi là 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Khảm, Đoài – Ly, Cấn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ : Sinh Khí – Diên Niên – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy chỉ có 64 trường hợp tương tác tuổi. Chúng ta thử làm phép tính nhỏ, với nhân loại mấy tỷ người mà chỉ có 64 trường hợp để xem tốt xấu thì xác xuất giống nhau là rất lớn. Cứ 64 cặp thì có 1 cặp giống nhau. Có thể thấy rằng đây là điều thiếu logic. Ngoài ra, còn có phương pháp ít phổ biến hơn, đó là phương pháp Cao Ly Đồ Hình. Phương pháp này lấy 10 thiên can theo tuổi nam phối 12 địa chi theo tuổi nữ, sau đó sẽ có 1 bảng phân loại và định tuổi cát-hung. Nếu ta lấy 6 tỷ người trên thế giới và giả định có 1 tỷ cặp vợ chồng với trung bình có 4 con một cặp (ứng với 6 tỷ), đem chia cho 120 trường hợp thì ta sẽ có: 1000. 000. 000: 120 = Gần 8.300.000 triệu cặp vợ chồng có chung một hoàn cảnh. Chỉ cần 3/ 10 trong số 120 trường hợp phối cung đó chia ly hoặc chết thì ta sẽ có 8.300.000 x 36 = 298. 800. 000 cặp vợ chồng ly tan. Và hơn 1 tỷ trẻ em mồ côi trên thế gian này. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng trong dân gian vẫn lưu giữ và truyền miệng những câu như “Dần Thân Tỵ Hợi” “Tý Ngọ Mão Dậu” “Thìn Tuất Sửu Mùi” là Tứ hành xung, hoặc “Canh cô Mậu Quả”, “gái tuổi Dần”, nhưng người ta quên rằng đằng sau những câu trên là cả 1 hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh các mối quan hệ của Thiên can, Địa chi, mạng. Qua các phương pháp trên, các bạn cũng có thể nhận thấy thiếu sự hợp lý và khập khiễng trong phương pháp luận tuổi. Nhưng đáng tiếc là sự coi tuổi khập khiểng này đã tồn tại trên thực tế và ăn vào tiềm thức của các bậc ông bà cha mẹ, làm họ tin một cách mù quáng. Các phương pháp coi tuổi vợ chồng khập khiễng trên từ những vị thầy nửa mùa, chẳng hiểu thấu lý, nên vô tình đã để lứa đôi tan nát. Để thay đổi những quan niệm sai lầm trên, chúng tôi cần thấy phải có một phương pháp hoàn chỉnh, logic, nhằm giúp cho những đôi lứa yêu nhau đến được với nhau. Chính vì vậy chúng tôi, những người làm công việc nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã tổng hợp, nghiên cứu và kiểm nghiệm để có được một phương pháp luận tuổi đúng đắn, hợp lý và mang tính khái quát cao nhất. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Luận Tuổi Lạc Việt” với sự điều chỉnh mạng Thủy – Hỏa trong Lạc Thư Hoa Giáp so với Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc nhằm chứng mính cách so tuổi vợ chồng còn sót lại trong dân gian hiện nay chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hoàn chỉnh dẫn đến những sai lầm tai hại. “Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy” là quan điểm của chúng tôi. Ngoài ra, tương quan vợ chồng chỉ là những điều kiện ban đầu, khi gia đình có con thì tương quan này sẽ thay đổi tốt hoặc xấu phụ thuộc vào tuổi đứa con có hợp với cha mẹ hay không, đặc biệt là con út! Ông bà ta có câu “giàu con út, khó con út” Theo phương pháp này, tương tác giữa người với người xảy ra ở cả 3 yếu tố Thiên can, Địa chi và Mạng thông qua mối quan hệ về ngũ hành sinh khắc và nguyên lý âm dương. Như vậy, để dể hình dùng, ta có thể làm phép tính như sau : 60 tuổi nam phối 60 tuổi nữ, cùng với tuổi của 60 đứa con út có khả năng sinh ra theo tương quan tuổi vợ chồng, Tức là ta sẽ có: 60 x 60 x 60 = 216.000 trường hợp khác nhau. Xác xuất để tinh toán cao hơn nhiều lần so với các phương pháp trên. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến các cách cục tốt trong việc phối tuổi vợ chồng và con cái trong gia đình. Nhưng vấn đề không dừng lại ở những con số khô khan và phương pháp lạnh lùng. Phương pháp “Luận tuổi Lạc Việt” còn có tính nhân bản ở chỗ là nó khẳng định một cách hợp lý theo thuyết Âm Dương Ngũ hành về tình yêu nam nữ -"Yêu nhau cứ lấy" và sinh đứa con chính là nguồn hạnh phúc gia đình, dù tuổi cha mẹ có khắc nhau đi chăng nữa. Và một vấn đề chúng tôi cũng muốn chia sẻ với quý bạn đọc, đó là “tuổi tác” là một trong những điều kiện tương tác mang tính căn bản ảnh hưởng đến một hoặc nhiều mối quan hệ giữa người với người, chứ không có nghĩa tuổi tác sẽ quyết định mọi thứ diễn ra xung quanh bạn. Có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, mỗi gia đình như : hoàn cảnh gia đình, công việc, thu nhập, tính cách cá nhân… Chính vì vậy khi gặp các vấn đề nan giải trong cuộc sống, các bạn không nên quy hết vào lý do… không hợp tuổi, để rồi có những đáng tiếc xảy ra và xã hội lại tiếp tục duy trì những quan niệm không chính xác về việc xem xét tương quan tuổi giữa người với người! Xin chân thành cám ơn quý báo và quý bạn đọc. Thiên Luân Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.1 like
-
Bí ẩn pho tượng cổ Đồng Dương 11/07/2012 06:44:31 Được tìm thấy từ hơn 100 năm trước tại Quảng Nam bởi một nhà khảo cổ người Pháp, đến nay pho tượng bằng đồng quý hiếm ấy được đánh giá là tượng đồng cổ nhất Việt Nam. Những bí ẩn xung quanh pho tượng được tìm thấy ngay tại trung tâm văn hóa Chăm ở Đồng Dương xưa, giờ mới dần được hé lộ. Cho đến giờ, đây là pho tượng Phật bằng đồng duy nhất nắm giữ hai kỷ lục: cổ nhất và đẹp nhất. Tư thế chuyển pháp luân hiếm thấy Cách đây đúng 101 năm, vào tháng 4/1911, nhà khảo cổ học người Pháp Henri Parmentier đã phát hiện ra pho tượng Phật tại khu vực Đồng Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Khi ấy, các nhà khảo cổ học ở Trường Viễn Đông Bác Cổ và Hội Nghiên cứu Đông Dương thời bấy giờ đã đánh giá tượng phật Đồng Dương ấy là một trong những pho tượng Phật cổ nhất, thuộc hàng đẹp nhất ở khắp cả vùng Đông Nam Á thời bấy giờ. Và cho đến ngày nay, sau hơn 100 năm, vẫn chưa có bất kỳ bức tượng Phật bằng đồng nào vượt qua được hai kỷ lục cổ nhất và mang vẻ đẹp lạ nhất này. Pho tượng Phật Đồng Dương thực chất là một pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni cao 1,22m; chỗ rộng nhất là 38cm, chỗ dày nhất 38cm, đứng trên một bệ tròn hai tầng có tạc hình các cánh sen bao quanh. Các nhà khảo cổ xác định niên đại của pho tượng quý là vào khoảng thế kỷ thứ III. Tượng được tạc theo tư thế đứng đang thuyết pháp (chuyển pháp luân) gốc từ Sanath (Lộc Uyển). Nhận xét về tư thế đặc biệt hiếm (thường các tượng khác chỉ tạc Phật trong tư thế ngồi tòa sen) của pho tượng Phật, Tiến sĩ Bá Trung Phụ – Trưởng phòng Trưng bày, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh, cho biết: “Chúng ta đối diện với một hình tượng Đức Phật bắt nguồn từ các dọa xoa nặng nề trước đó. Tượng Phật được các nghệ nhân khắc họa với khuôn mặt phúc hậu, đôi mắt sáng đang nhìn vào cõi xa xăm, muốn giải thoát con người khỏi dục vọng trần thế, với một tay tư thế chuyển pháp luân trong dáng điệu bắt ấn, một tay cầm cà sa phủ kín một vai, đôi chân đứng trên bệ sen”. Các nhà khảo cổ học đánh giá, pho tượng Phật Đồng Dương chính là tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu cho kỹ thuật đúc đồng tinh xảo kết hợp với nghệ thuật tạo hình độc đáo của văn hóa Chăm. “Phong cách nghệ thuật của tượng đã đạt đến đỉnh cao. Đó là pho tượng mang trong mình cả hai thiên hướng nghệ thuật là nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Không chỉ là tuyệt tác mỹ thuật mà pho tượng còn hết sức gần gũi với đời sống nhân sinh”, TS Phụ nhận xét. Nét tạc “lạ” chưa từng gặp Pho tượng Phật bằng đồng cổ nhất này được làm bằng loại đồng thau, điểm đặc biệt là tượng không có phần bệ đỡ phía dưới như những pho tượng Phật khác. Tượng Phật có mái tóc xoăn vòng xoắn ốc đều đặn, trên mình mặc áo cà sa dài hở một bên vai phải, phía ngoài khoác thêm tấm áo khoác. TS Bá Trung Phụ đánh giá: “Cho đến ngày nay, tượng Phật Đồng Dương vẫn là pho tượng Phật bằng đồng cổ nhất ở nước ta. Pho tượng tuyệt đẹp này mang những nét kiến trúc khác lạ không giống bất kỳ pho tượng nào từng được tìm thấy ở châu Á. Bức tượng Phật Đồng Dương lại có nhiều tương đồng với nghệ thuật tạc tượng của người Hy Lạp. Nhiều khả năng đây là bức tượng do người Chăm Pa tạo tác nên. Việc tìm thấy tượng Phật Đồng Dương cho thấy nghệ thuật đúc đồng của cư dân Chăm Pa cổ đã đạt trình độ rất cao. Đây là một kiệt tác trong nghệ thuật đúc đồng Chăm Pa xưa”. Ngay trong nét thiết kế từng phần tượng Phật đã thể hiện sự độc đáo, khác lạ hiếm thấy. Phần trên của bệ là khối bán cầu ở thế ngửa lên, phần dưới bệ lớn hơn, hình tròn như miệng chuông úp xuống. Bệ và toàn thân tượng đồng được đóng chặt vào nhau bởi những chiếc mộng đặt dưới lòng đôi bàn chân bằng phẳng. Pho tượng quý ngoài giá trị tạo hình nghệ thuật tinh xảo, hiếm có, còn là pho tượng hội tụ nhiều tướng tốt trong 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp tùy hảo như trong quan niệm của đạo Phật. Ấy là đôi bàn chân Phật chấm sát đất và khít khao với mặt phẳng của đất “cây kim cũng không thể lọt qua”. Hay diệu tướng thứ 17 của Phật thể hiện ở hai tay, hai chân, hai mắt và giữa cổ có khắc 3 ngấn chìm gộp lại thành “7 chỗ đầy đặn”. Điểm đặc biệt nữa của pho tượng cổ chính là tướng tôn nghiêm nằm ở vị trí cao nhất của tượng Phật Đồng Dương là tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu với một cục u nổi lên giữa búi tóc cuộn quanh. Từng được mua bảo hiểm 5 triệu USD Pho tượng Phật Đồng Dương trước đây từng được Viện Viễn Đông Bác Cổ đăng ký với số hiệu D22.1. Pho tượng Phật Đồng Dương đã được đưa đi trưng bày ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Pháp, Bỉ… Đặc biệt, trong một triển lãm cổ vật Đông Nam Á tại Bảo tàng Guimet ở thủ đô Paris (Pháp), pho tượng Đồng Dương đã được mua bảo hiểm với giá 5 triệu USD. Tính đến thời điểm này, đây là pho tượng duy nhất ở Việt Nam từng được mua bảo hiểm với mức giá cao như vậy khi đưa đi trưng bày ở bảo tàng nước ngoài. Nguồn gốc chính xác của pho tương quý, đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng, tượng Phật Đồng Dương giống các tượng Phật của Amaradhapura (Sri Lanka), nên có thể tượng Phật Đồng Dương có niên đại vào khoảng thế kỷ III – IV và đã được mang về từ Ấn Độ hoặc Sri Lanka. TS Bá Trung Phụ Tuy nhiên, nhiều ý kiến nhà khảo cổ nghiêng về khả năng là tượng do người Chăm xưa làm nên. Bởi cùng trong những năm đầu thế kỷ XX, các nhà khảo cổ đã khai quật các di tích từ Quảng Bình cho đến vùng đất Nam Panturangar (Ninh Thuận, Bình Thuận) phát hiện hàng chục di tích và hàng trăm hiện vật mang dấu ấn Phật giáo. Ngoài pho tượng Phật Đồng Dương thuộc hàng cổ nhất, hiện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh còn có các pho tượng độc đáo khác như: tượng Phật Avalokites niên đại thế kỷ thứ VII được tìm thấy ở Đại Hữu, Quảng Bình cao 34cm với tư thế đứng, đầu đội mũ 3 tầng trang trí hoa văn rất tinh xảo, đeo hai bông tai dài chấm ngang vai, trang trí vòng hai bắp tay, thân mình thon gọn, mặc váy sampot 2 tầng. Hay pho tượng Phật ngồi thiền với tư thế Kiết già cao 15cm, mang nét đặc trưng của tượng Phật Ấn Độ, phong cách Amaravati thế kỷ thứ II – IX. Tuy nhiên, trong số các pho tượng cổ được tìm thấy ở dải đất miền Trung lịch sử, chỉ có pho tượng Phật Đồng Dương là pho tượng nổi tiếng nhất của vương triều Đồng Dương. Hiện pho tượng Đồng Dương không chỉ là báu vật vô giá mà còn cóvai trò quan trọng trong việc tìm hiểu văn hóa khảo cổ cả vùngĐông Nam Á. Theo Hạnh Vân Năng lượng Mới1 like
-
Năm nay có 1 tháng nhuận , có sự xê dịch 1-2 tháng tùy theo mỗi người cháu chờ thêm 1 tháng nữa ra sao ,nếu không thì đặt hy vọng ở tháng 08 al ,không có gì xảy ra nữa thì đành chịu ở nhà với chồng ấp trứng cho qua năm tới nỡ !1 like
-
Nếu đã không thuận thì đều không thuận ,con cái là lộc trời cho và cùng có duyên nợ nên mới sanh trong gia đình của mình ,đừng nên nghĩ rằng so vào tuổi năm sanh thuận hay nghịch ... tôi đã thấy nhiều gia đình con cái đều hợp tuổi với cha mẹ nhưng gia đình tranh chấp bất hòa ,cũng có nhiều gia đình con cái xung tuổi với cha mẹ nhưng con cái đều hiếu thảo và hòa thuận / nếu vì điều kiện kinh tế gia đình mà ông chồng không muốn có con nữa thì tạm ngưng lại ... sau nầy đều được nhờ con nhưng chúng đều ở xa , số cháu không giàu có lớn thì thôi tích tiểu thành đa vậy .1 like
-
Cầu Mưa!
thanhphuc liked a post in a topic by Thiên Sứ
Wan trọng là ở chỗ này: Và thực tế là thế này:1 like -
Cầu Mưa!
thanhphuc liked a post in a topic by Thiên Sứ
Hi.Thanhphuc mà . Nhất định phải từ đúng trở lên. Nhưng với tôi là : Mưa lớn khắp các vùng đang bị cháy ở bang này. Lạy Chúa! Mưa to quá sức tưởng tượng trên khắp các vùng bị cháy. Thế cho nó nhanh, chứ mưa chỉ đúng ở những chỗ bị cháy như Thanh Phúc thì còn lâu mới tắt. Đúng là sau hai ngày: Mùng 4. 5 sang mùng 6 bên Hoa Kỳ mới mưa. Lệch một ngày - nếu Việt Nam là mùng 7. Do Hoa Kỳ và Việt Nam chênh 24 giờ. Nếu so giá trị tuyệt đối về ngày thì tôi đúng. Lần sau rút kinh nghiệm về bản văn có tính thời gian giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.1 like -
chả đọc kỹ phần trả lời ở trên nhỉ. Híc, bạn tưởng kiếm sim dễ lắm à. 1 số thì muốn mà chả làm được chuyện gì cho nên hồn. 2. Còn một số thì đụng việc gì hỏng việc đó Đây là lần cuối xem cho bạn tìm số mới nhé. Thân mến1 like
-
1 like
-
Từ thứ sáu 6/7/2012 cho đến hôm nay (6/9/2012) mưa đã đổ xuống từng cơn như thác đổ trên đất Colorado. Lửa đã tắt!!! NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!NAM MÔ ĐẠI BI QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT! Kính bạch Thầy Cô!Cùng các anh chị em khắp nơi!Ba hôm liên tiếp vừa qua, mưa rất lớn ở Colorado. 16 trận cháy đã lần lượt được dập tắt. Trận cháy lớn nhất của nước Mỹ trong mấy tuần vừa qua tại Waldo Canyon (Colorado Spring) đã tắt. Chiều chủ nhật ngày 8/7/2012 theo lời mời của đại diện Phật tử tại Colorado Spring, Ni Sư và cả Đạo Tràng chùa Quang Minh đã đến Đạo Tràng Diệu Minh (của anh Minh Thành và chị Chúc Diệu) tụng một thời kinh cầu an cho cư dân tại thành phố và cầu siêu cho tất cả chúng sanh đã ra đi vì hỏa hoạn.Trong đó có 2 ông bà người Mỹ trên 70 tuổi, và 4 phi công trong quân đội đã hy sinh trong khi lái những chiếc C130 để làm nhiệm vụ cứu hỏa trong những ngày biển lửa cháy lan vào thành phố. Sau buổi lễ theo sự hướng dẫn của anh Minh Thành, chúng con và Ni Sư có đến viếng thăm những vùng đã bị cháy. Mặc dù mưa rất lớn trong 3 ngày vừa qua đã làm trôi đi những bụi tro, và làm nguội đi mọi thứ, nhưng có những nơi khói trắng vẫn còn và mùi khét vẫn rất nồng nặc khó thở. Nhìn sự điêu tàn thãm thương của một phần thành phố, nhìn những dãy núi trùng trùng ngút ngàn chỉ có một màu đen xám với cây cối cháy khô cứng đứng trùng điệp trơ vơ, chúng con thật đã không cầm được nước mắt. Nhưng trong khung cảnh ấy lại có một ít căn nhà còn nguyên vẹn đứng trơ vơ giữa đám cháy hoang tàn chỉ còn tro bụi, trong ấy có một căn hộ là người Việt. Thế mới thấy, có những biệt nghiệp vượt ra ngoài cái cộng nghiệp chung, thật không thể giải thích được.Theo lời kể lại của anh Minh Thành và những Phật tử ở Colorado Spring thì quả thật việc dặp tắt được ngọn lửa vô tình kia để cứu được thành phố quả là một phép lạ. Đám cháy bắt đầu từ trên núi ở phía Tây của thành phố Colorado Spring. Lá thư cầu cứu của con gởi đi trong những ngày đám cháy lan dữ dội theo gió đi theo hướng Đông, cháy lan vào thành phố. Mọi người đều cầu nguyện, nghe các anh chị kể trong nước mắt thật là thảm thương. Tất cả các anh chị đều là Phật tử thuần thành, con cũng biết đạo Phật là đạo trí tuệ, nhưng khi đứng trước những tai ương mà sức người không còn có khả năng nữa, con đã mạo muội và can đãm gởi đi lá thư cầu cứu ấy để xin mọi người cùng cầu nguyện. Anh MT nói tin thời tiết cho biết trong những ngày ấy sẽ không mưa và nắng nóng. Nhưng sau ngày chúng ta bắt đầu cầu nguyện được một ngày thì khoảng 2:00pm mây đen đã kéo đến, mưa rất ngắn chỉ vừa ướt đất. Sau đó thì gió bắt đầu đổi hướng, thay vì thổi về hướng Đông để thiêu hủy cả thành phố, thì gió xoay chiều về hướng Tây, tiếp tục cháy trên núi rồi qua bên kia sườn núi và cháy lần sang thành phố khác. Garden Of Gods là một nơi du lịch nổi tiếng bắt đầu di tản, nhưng lửa đã được under control, nên không còn nguy hiểm nữa. Và rồi từ thứ sáu 6/7/2012 cho đến hôm nay (6/9/2012) mưa đã đổ xuống từng cơn như thác đổ trên đất Colorado. Lửa đã tắt!!!Tháng 7 không phải là mùa mưa ở Colorado. Nhưng hôm nay có nhiều nơi mưa vẫn còn đổ từng cơn rất lớn. Núi bị cháy không còn cây tươi làm giãm sức nước, đã tạo nên những trận lũ trong thoáng chốc mang tro bụi và bùn chảy vào sông hồ xung quanh. Trong thành phố nước thoát không kịp cũng bị ngập nước. Nhưng những thứ đó không nguy hiểm bằng: "Lửa".Chúng ta đã thành công!!!Con tin tưởng là năng lượng cầu nguyện của mọi người đã tạo nên phép lạ, đã đổi được hướng gió và tạo nên những cơn mưa lớn.Con kính gửi đến quý Thầy, Cô và tất cả các anh chị em khắp nơi trên thế giới lời cãm tạ chân thành. Mọi người đã nhiệt tâm gởi năng lượng từ bi và bỏ thì giờ mỗi ngày cầu nguyện cho Colorado.Con xin thành kính biết ơn Thầy Cô và tất cả các anh chị đã giúp đỡ gởi thư con con đến nhiều người khác trong việc cầu nguyện vừa qua.Con kính mong Hồng ân Tam bảo gia hộ cho mưa thuận gió hòa cùng khắp mọi nơi và mọi lúc để mang bình an đến cho mọi loài.Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.Chân thành cãm tạ. Thanh Như.1 like
-
Bước Đầu Tiếp Cận Lạc Việt Độn Toán.
mozart liked a post in a topic by Guest
Chia sẻ thêm với Mozart, tôi đã từng sử dụng bóc dịch và mai hoa dịch trước khi làm đệ tử của SP Thiên Sứ. LVDT đòi hỏi nhiều người lấy quẻ, sự linh cảm và trực giác. Tôi cho là quẻ đúng hay sai có tới 50% là cảm ứng của người luân quẻ. Hiện tại ai cũng có thể bốc được quẻ mà không cần nhớ cách độn, vì ở trang chủ đã có quẻ LVĐT hàng ngày hàng giờ. Quan trọng là cảm ứng của bạn tốt đến đâu mà thôi. Cùng một quẻ LVDT nhưng câu hỏi khác nhau đã cho ra kết quả trái ngược. SP Thiên sứ luôn nói rằng, nên dùng thêm bốc Dịch để tăng thêm sự chính xác của quẻ bói vì LVĐT mang tính tổng quát. Bạn thực tập thật nhiều, bạn sẽ thấy sự tinh diệu trong từng quẻ LVĐT chúc thành công1 like -
1 like
-
Quán vắng!
Thiên Anh liked a post in a topic by HungNguyen
Diều hâu Bắc Kinh ngày càng cô độc Andre Menras - BBC Andre Menras (tên tiếng Việt: Hồ Cương Quyết), một người Pháp, nhập quốc tịch Việt Nam năm 2009. Bài viết này được tác giả viết bằng tiếng Pháp, được nhà văn Nguyên Ngọc dịch sang tiếng Việt. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Cho đến nay nhiều người vẫn còn tin rằng những cuộc diễu võ dương oai và phô trương của Trung Quốc chỉ là trò bịp chẳng có nguy hiểm thật sự nào. Một số là do không có ý thức và không biết bản chất thật của bọn diều hâu Trung Hoa. Một số người khác là vì điều đó biện minh cho trạng thái khó chịu do thái độ thụ động tội lỗi của họ. Một số khác nữa vì là những kẻ bảo thủ cố cựu, dù không có chút ý thức hệ đã tiêu tán hết rồi, họ dính chặt với Bắc Kinh về mặt chính trị quá lâu và theo thói quen. Số nữa do những vụ áp phe khổng lồ đủ loại, công khai hay ám muội, trước đây hay hiện nay, đã bị cột chặt vào "Ông Anh lớn"... Tất cả đều nhìn thấy mối hiểm nguy nhưng không còn biết làm thế nào để lùi lại. Nhưng hôm nay gây hấn đã cụ thể, rõ rệt và dấn sâu tới mức không ai có thể giả vờ không biết đến nữa. Tới mức đã thấy một sự lo lắng nào đó ngay trong những đám người vốn ủng hộ Bắc Kinh vô điều kiện. Thôi thì muộn còn hơn không. Hãy tha thứ cho cái bệnh cận thị chính trị và dối trá do sợ sệt hay thiển cận con buôn. Ý đồ thật sự Sự thật là, ngay từ lúc khởi đầu của mọi khởi đầu trong cuộc tấn công của họ, cần phải nhận rõ ý đồ thật sự của những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thôn tính hầu hết không gian biển đảo trên vùng biển Đông Nam Á. Hành động đó, được chuẩn bị từ rất lâu bằng các bản đồ, các cuộc tuyên truyền dựa trên một thái đồ mềm yếu, thậm chí đồng lõa công khai của các thế lực thực dân và tân thực dân, đã bắt đầu một cách cụ thể bằng việc chiếm đóng đẫm máu Hoàng Sa năm 1974. Rồi chiếm đóng, cũng đẫm máu như vậy, Gạc Ma và các đảo khác của Việt Nam ở Trường Sa, năm 1988. Năm 2009, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên 80% biển Đông Nam Á tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, khẳng định về chính trị, thiết lập về pháp lý từ Bắc Kinh, về hành chính từ Hải Nam, tăng cường quân sự cả bằng nhân lực và bằng trang bị kỹ thuật cao và siêu cao, gần đây hơn là rao mời thầu 9 lô có tiềm năng dầu lửa nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gửi đến Trường Sa các tàu tuần tra vũ trang “ sẵn sàng chiến đấu “ đã bắt đầu truy đuổi một tàu của Việt Nam... Chẳng còn nghi ngờ gì nữa: rất đồng bộ và đều chứng tỏ Bắc Kinh không chơi trò bịp, rằng họ đã lao vào vòng cuốn của một tấn công mù quáng mà họ không còn biết đâu là chỗ dừng. Toàn bộ cuộc leo thang đó chỉ có thể dẫn đến đổ máu, tàn phá, đổ nát và đau khổ. Chắc chắn, trước máu và đau khổ của nhân dân, tất cả cái đám lãnh đạo "cộng sản", "xã hội chủ nghĩa", "quốc tế vô sản" vĩ đại tỷ phú đôla Mỹ kia đã nhiều lần chứng tỏ chúng không hề đắn đo: đè nát các sinh viên của nhân dân dưới xích xe tăng, xả súng vào những người bảo vệ các đảo của mình đang sắp chìm giữa biển khơi, quay phim và cho phát đi một cách vô liêm sĩ tội ác đó, đầu độc, tra tấn, bỏ tù chung thân hàng trăm nghìn đồng bào của họ ... Đấy là chuyện thường ngày của chính quyền của họ, chỉ dựa trên một đạo luật trung cổ duy nhất: giết sạch những kẻ yếu hơn mình và những ai chống cự lại... Được rồi, nhưng hãy xem: cái nước Trung Hoa muốn tự coi là hiện đại ấy không phải là thế giới. Chỉ là một bộ phận. Và cái bộ phận ấy, dù lúc này có đông và mạnh về kinh tế đến mấy, vẫn phải phụ thuộc một cách sinh tử vào bộ phận khác đông hơn và mạnh hơn nhiều. Bọn diều hâu Bắc Kinh cứ nhìn mãi vào mỗi cái rốn của mình đã hóa thành cận thị. Từ khi kinh tế của họ tăng trưởng mạnh, họ gào thét đòi hải chiến trên khắp các vùng biển mà lại bắt chước một loài chim khác: con đà điểu. Ai cũng biết cái con chim to sụ ấy, giữa sa mạc mênh mông, dấu đầu sau một hòn sỏi mà cứ tưởng không ai nhìn thấy mình vì chính nó không nhìn thấy ai cả ... Trong khi, làm thế, nó càng phơi cái mông to tướng của nó ra trước mắt mọi người. Và dư luận công chúng toàn cầu ngày càng không thể chịu đựng được cảnh tượng cái mông to sụ của đám lãnh đạo Bắc Kinh, cái ngạo mạn trần trụi lông lá cùng những cái nhọt sưng phù của nó. Ngây thơ Ngày càng nhiều người, như kẻ đầy tớ của các vị là tôi đây, đã quyết liệt chiến đấu chống xâm lược của Mỹ, vì nền độc lập thật sự của Việt Nam, và do vậy, về khách quan đã từng đứng bên cạnh nước Trung Hoa của Mao và Chu Ân Lai mà chúng tôi từng coi là những người tiến bộ, những đồng minh trung thành của cuộc chiến đấu giải phóng các dân tộc. Ngày ấy chúng tôi ngây thơ biết bao! Nhiều người trong chúng tôi vẫn mãi ngưỡng mộ tất cả những đóng góp của nền văn minh Trung Quốc cho nhân loại. Nhưng nhiều người trong chúng tôi vốn cũng say mê thư pháp, hôm nay rất mong ước được vung tay phóng bằng lôi chữ thảo lên bức tường Trung Nam Hải, dinh thự của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Bắc Kinh, một dòng này: “Thật may là có người Mỹ!" Vâng, tôi lặp lại lời đó, dù là với đắng cay và một đau nhói thật trong lòng khi tôi nghĩ đến những đau khổ mà Johnson, Nixon, Mac Namara với Kissinger đã bắt hàng triệu người Việt Nam phải chịu đựng. Nhưng tôi nói lên và viết lên điều đó chẳng chút ngập ngừng dưới ánh sáng trần trụi của ngày hôm nay: “Rất may là có người Mỹ, và cả người Nhật, ngưới Ấn, người Úc, người Nga, người châu Âu, người Philippin và các dân tộc khác của ASEAN đang ngẩng cao đầu!" Chỉ có một đám cận vệ già cỗi chậm trễ và cố chấp còn dám bênh vực cho sự xâm lược của Trung Quốc, như cái bà nhà báo của tờ Nhân Đạo, trong một bài viết dối trá thảm hại. Chẳng chút khách quan bà lần theo dòng các sự kiện để nói rằng Trung Quốc chống lại một cuộc bao vây do Hoa Kỳ gây ra. Mọi người đều thấy rằng hoàn toàn trái ngược lại, Hoa Kỳ đã kiên nhẫn hy vọng, trì hoãn sự can thiệp của họ, hy vọng một thái độ biết điều của Trung Quốc. Họ đã cố thương lượng trong một tình thế mà các công ty dầu lửa của họ bị đe dọ, các tàu của họ bị tấn công trên đường biển quốc tế (UNSS Impeccable), rất nhiều lần họ đã khẳng định sự trung lập của họ về các “vùng tranh chấp", và làm điều đó khi đồng minh của họ bị tấn công. Bắc Kinh không cho họ có chọn lựa nào khác ngoài cách triển khai một lực lượng chiến lược nhằm bảo vệ tự do lưu thông quốc tế - tức cũng là của nước Pháp – trong không gian biển sống còn đối với nhiều nước. Hoàn toàn hợp pháp, họ cũng phải cứu giúp các đồng minh của họ là nạn nhân của cuộc cướp bóc kinh khủng của Trung Quốc dưới hình thức “đường lưỡi bò" được Bắc Kinh thông báo rất chính thức từ năm 2009 tại Liên Hiệp Quốc. Những sự kiện mới đây ở Scarborough hẳn đã tạm thời làm giảm nhuệ khí săn mồi của Bắc Kinh. Đơn độc, chắc chắn người Philippines không thể ngăn chặn Trung Quốc lấn tới và máu đã có thể đổ. Thật may là người Mỹ đã có mặt ở đấy bên cạnh Philippines và đã chứng tỏ đàng hoàng. Không có họ và khẳng định quyết tâm của họ ở lại trong khu vực, có thể luật biển được Quốc hội Việt Nam thông qua còn chưa ra đời, dù nó là kết quả của nhiều năm đấu tranh nội bộ và dũng cảm của những người yêu nước Việt Nam. Bài học lịch sử Còn về cái lý lẽ hàng đầu, thực tế là duy nhất và lố bịch của Bắc Kinh là uy hiếp bằng quân đội, hung hăng tung ra cái bóng ma của một cuộc tràn ngâp bằng đoàn quân khổng lồ và được siêu trang bị của họ, thì này Bắc Kinh, hãy suy nghĩ lại một chút đi. Dù chẳng có chút lương tri nào, các nhà chiến lược bàn giấy lạnh lùng ấy quá biết rằng khó nhất không phải là đưa các binh đoàn, với xe tăng và máy bay vào một nươc láng giềng. Họ đã thấy rõ điều đó hồi 1979 rồi. Khó nhất thậm chí không thể làm được là ở lại đấy. Họ quá biết một quả lựu đạn đơn giản thôi, một quả bom tự tạo thôi cũng có thể phá tan một chiếc máy bay, một kho quân sự. Chỉ cần một bàn tay, thậm chí bàn tay trẻ em đặt thôi, nó có thể phá tan một chiếc tàu, một căn cứ quân sự, một giàn khoan dầu ... Kỹ thuật tàn phá tinh vi phức tạp nhất cũng chẳng là gì cả trước ý chí kháng chiến của một nhân dân ở tại quê hương mình, trên đất đai của tổ tiên mình, ý thức về quyền chính đáng và về nền văn hóa của mình. Đấy là bài học của Lịch sử, luôn luôn giữ nguyên giá trị và riêng dành cho bọn háu chiến tranh ở Bắc Kinh suy nghiệm... Nếu bọn hiếu chiến điên cuồng Trung Hoa chơi với lửa thì chúng sẽ bị thiêu cháy bởi ngọn đuốc Việt Nam. Và các ngọn đuốc khác nữa. Và toàn bộ nước Biển Đông cũng không đủ để dập tắt đâu! Nếu bọn hiếu chiến điên dại Bắc Kinh đẩy tới nữa những hành động tấn công và cướp bóc có tính nhà nước của chúng, một ngày nào đó chúng sẽ đổ máu. Chắc chắn. Và ngày đó Bắc Kinh sẽ mất sạch tất cả kể cả an ninh nội địa của họ trong một sự suy sụp quốc gia không đường quay lại, đau đớn và ô nhục. Đến lúc đó bầy diều hâu sẽ phải ra quầy thanh toán mà trả nợ cho nhân dân của chúng. Những kẻ đã ủng hộ chúng hay cúi đầu quá lâu trước chúng, do vậy mà khuyến khích cuộc cướp mồi, cũng phải thanh toán trong đất nước của mình. Cái cơn ham muốn thống trị điên cuồng bằng nanh và vuốt đó quá hiểm nguy đối với chính các nhà lãnh đạo Trung Quốc và với nhân dân của họ, quá chắc chắn sẽ thất bại, đến mức nó mang màu sắc tự sát. Trong khi có thể có một dường lối khác. Đường lồi thương lượng. hòa bình, trung thực, đa phương, tôn trọng chặt chẽ luật pháp quốc tế. Đó là đường lối của một cường quốc xứng đáng với danh xưng ấy như Trung Quốc có thể là vậy. Một đường lối cơ sở trên sự tôn trọng hoàn toàn đối với các láng giềng của mình trong hợp tác lành mạnh, không thiên vị và cùng có lợi. Trong sự tôn trọng quyền của các dân tộc, tôn trọng các nền văn minh và các quyền của con người. Đấy là cách tốt nhất cho Bắc Kinh để gìn giữ an toàn biên giới, tăng cường sức mạnh quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị bằng một sự phát triển kinh tế vững chắc và tạo ra một tình thế công bằng xã hội êm thấm. Sức mạnh và uy tín của Trung Quốc nhờ đó sẽ được tăng cường và sẽ phát triển bền vững. Khi đó Trung Quốc sẽ có thể trở thành một cực hấp dẫn không chỉ đối với châu Á mà cả toàn cầu chứ không phải, như hiện nay, là một kẻ xấu xí nguy hiểm chẳng bao lâu sẽ là mục tiêu của các liên minh tự vệ hùng mạnh. Chọn con đường bạo lực, bành trướng, đe dọa chiến tranh, Bắc Kinh đã chọn con đường ngược lại: con đường đơn độc, tự cô lập, chắc chắn sẽ chặn đứng phát triển, rất nhanh chóng đưa đến suy thoái. Lãnh đạo Việt Nam? Còn đối với một số lãnh đạo Việt Nam, đã đến lúc để họ chọn con đường của họ trước cuộc tấn công đang tăng lên của Trung Quốc vào đất nước và các tài nguyên của nó, chống lại nhân dân và tương lai của dân tôc. Tình thế đang ngày càng nghiêm trọng chẳng còn chừa chỗ cho những bào chữa, cho chỉ những tuyên bố về nguyên tắc, cho những chần chừ tránh né, cho những cuộc thăm viếng hữu nghị dối trá.... Nếu những người lãnh đạo không làm điều đó, thì nhân dân sẽ tự mình đảm nhiệm lấy mà làm khi cuộc leo thang của Trung Quốc khiến ... Hợp tác với Bắc Kinh hôm nay đã phơi bày rõ diện mạo của một liên minh với ma quỷ trong một sự quy phục không thể chấp nhận. Và những ai còn nán lại trong hợp tác mang tính khổ dâm ấy rất có nguy cơ chẳng bao lâu nữa đâu sẽ phải chia sẻ nổi cô độc đắng cay của những kẻ mà họ bám theo và đã đưa họ đến ngõ cụt.1 like -
Mệnh khắc tên, khắc cục. số không thuận trong cuộc sống. Năng lực cao, nhưng cũng vì thế mà ước vọng quá cao khiến lực không tới. Đường quan lộc rộng mở nhưng cũng đóng ngay lập tức, Vận hạn hiện ăn về phần phúc đức, phúc đức tương đối tốt, xét ở góc độ tình ái thì gặp nhều ngang trái không như ý, khó toại lòng. sau 2 năm nữa sẽ sang vận mới, chủ về sự vui vẻ, du lịch, thăng tiến trong sự nghiệp, Ngay từ vận này, tiền đã không còn là vấn đề gì đáng phải lo lắng, càng già càng không lo chuyện tiền bạc. CHồng 1 bỏ thật phí, âu cũng tai tính của mình, cách ứng xử của mình là chính. Chồng 2 có nhiều điểm hơn hẳn chồng 1 thì cũng có những điểm kém hơn hẳn chồng 1. Số không nên lấy hơn 1 chồng mới tốt, bởi lấy ông thứ 3 cũng chẳng khá hơn. Hạn năm nay cãi cọ không thắng trước mặt thì âm thầm phân bua sau lưng ắt dành phần thắng, chủ về thu nhập và đi du lịch, nghỉ dưỡng, cần quan tâm hơn tới con cái, ắt có đứa gặp khó khăn trong cuộc sống. Hưởng Thọ ngoài 80 tuổi.1 like
-
mệnh mẹ Âm Mộc sinh con Âm hỏa là rất tốt, con sẽ ngoan, nghe lời mẹ, nên dạy con dễ hơn (tất nhiên là tùy cách dạy con từng nhà). Tỵ Dậu trong tam hợp. Nên tốt. Con ko hợp bố bằng mẹ, nhưng với bố thì quan trọng hợp thiên can, vì thế bố công tác cũng ít gặp cản trở. (còn giàu có hay ko là do số nhà chị).1 like
-
Lạc Thư Hoa giáp và Tử Vi lạc Việt chỉ đổi 2 mạng Thủy và hỏa so với sách TQ, ngoài ra các mạng khác không thay đổi! Sinh con 2013 trước tiên hợp mẹ ở mạng Mộc sinh Hỏa, Tỵ - Dậu tam hợp rất tốt, thiên can Mậu cha hợp Quý con, như vậy là đảm bảo hợp cha hợp mẹ rồi. Khi chúng tôi tư vấn cũng đã loại suy các năm khác để chọn năm tốt nhất, đương nhiên điều kiện hàng đầu phải là mạng và địa chi hợp mẹ, thiên can hợp cha! Thân mến.1 like
-
Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động (6) Thiền sư Lê Mạnh Thát Ảnh: Ngọc Hải "Giả như người nước ta không ghi lại những sự việc của Lê Hoàn (hoàng đế Đại Hành) và chúng ta phải nghiên cứu qua tư liệu của người Trung Quốc, thì một đoán án đương nhiên phải xảy ra, đó là Lê Hoàn không xưng đế xưng vương hay đặt quốc hiệu lập xã tắc gì hết, ngược lại chỉ là một tiết độ sứ, một quan chức của nhà Tống" (thiền sư Lê Mạnh Thát). Sỹ Nhiếp là ai? Có thể có ai đó trong giới sử học "ý kiến ra ý kiến vào" về những phát hiện của giáo sư Lê Mạnh Thát mà chúng tôi đang giới thiệu một phần hết sức tóm lược. Mong rằng những người quan tâm có thể tìm đọc các công trình của ông để trao đổi học thuật. Chúng tôi xin lưu ý, những gì mà chúng tôi giới thiệu ở đây, giáo sư Lê Mạnh Thát đã công bố từ cách đây trên dưới 40 năm, nay được in lại trong hai bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (tập 1) và Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), đều do NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2006, ngoài sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta mà chúng tôi đã dẫn. Trong những công trình này, mỗi một vấn đề đưa ra ông đều dẫn kèm theo tất cả các tài liệu có liên quan bằng những ngôn ngữ gốc. Những tài liệu đó được ông giới thiệu cụ thể, chỉ rõ số trang, số tờ, nơi ấn hành hoặc lưu trữ, nếu ai nghi ngờ thì có thể tra tận gốc, bằng tiếng Việt, chữ Hán cổ và chữ Trung Quốc hiện nay, cùng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, chữ Phạn cổ... Ông dẫn việc nhà Tống với Lê Hoàn như trên để nói rằng những sử liệu từ Trung Quốc là "không hoàn toàn đáng tin cậy", ví dụ như chính sử Trung Quốc ghi nhiều thứ sử Giao Châu (nước ta) nhưng thực tế những người đó chỉ được "phong khống" chứ chưa bao giờ bước chân qua nước ta. Việc nghiên cứu lịch sử nước nhà phải sử dụng tất cả những tài liệu của tổ tiên ta để lại, rồi đối chiếu với chính sử Trung Quốc để thẩm định, xác minh tìm ra sự thật. Cho nên, mỗi một cuộc truy tìm, mỗi một phát hiện được tài liệu của tổ tiên đều khiến cho lịch sử nước nhà trở nên sáng rõ. Ông bảo nói "một ngàn năm đô hộ giặc Tàu" như lời bài hát của Trịnh Công Sơn là cách nói đau buồn mà không chính xác. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng thất bại chưa bao giờ ngưng nghỉ. Bởi chưa đầy 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm lần thứ nhất đã nổ ra vào năm 100, dẫn tới việc người anh hùng Khu Liên lập khu tự do vào năm 138, làm hậu phương cho các cuộc khởi nghĩa về sau, cho đến thời Chu Phù, Sỹ Nhiếp. Thực chất trong hơn 150 năm bị các thái thú Trung Quốc đến đô hộ, chúng ta "mất nước chứ không mất hạnh", nghĩa là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân tộc được xây dựng từ thời Hùng Vương vẫn được bảo tồn và phát triển. Sự quật cường của dân tộc chính người Trung Quốc cũng phải thừa nhận: "Trưởng lại đặt ra, tuy có cũng như không". Có một nhân vật lạ lùng trong lịch sử nước ta, đó là Sỹ Nhiếp. Cả sử Trung Quốc và sử ta đều nói ông là thái thú Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Tuy là một "thái thú" đến cai trị, nhưng các sử gia Việt Nam đều dành những lời lẽ mến mộ khi nói về Sỹ Nhiếp. Lê Văn Hưu viết: "Sỹ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ, được người thân yêu mà đạt đến thịnh một thời". Ngô Sỹ Liên cũng vậy. Trần Trọng Kim thì viết: "Sỹ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho nên lòng người cảm mộ công đức, mới gọi tên là Sỹ Vương". Khi nhân dân gọi Sỹ Nhiếp là "Sỹ Vương", tức là vua của mình, còn có lý do nào nữa không? Phần trước chúng tôi có nêu sự "nổi giận" của giáo sư Lê Mạnh Thát khi trích lời Ngô Sỹ Liên "Nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương", cần nói rõ là ông bất bình với việc cho rằng nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc mới thành ra nước văn hiến, chứ hoàn toàn không xem thường Sỹ Nhiếp. Cũng như Trần Trọng Kim viết: "Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sỹ Nhiếp. Cái ý kiến ấy có lẽ không phải" (Việt Nam sử lược). Đưa ra nhiều tài liệu dẫn chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, trong thực tế chính quyền Sỹ Nhiếp (từ 187), cũng như trước đó là Chu Phù (khoảng 180), là "chính quyền Việt Nam độc lập". Sử Trung Quốc chép rõ Chu Phù "vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia". Còn đối với Sỹ Nhiếp, sử Trung Quốc (Ngô chí) viết rằng: "(Sỹ Nhiếp) tổ tiên vốn người Mấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời". Ông cho rằng một người có tổ tiên 6 đời ở Việt Nam thì đã "Việt Nam hóa", trở thành người Việt Nam rồi. Cũng theo Ngô chí: "Sỹ phủ quân (Sỹ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành công về chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều được nhờ ân"; "Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở vạn lý, uy tôn vô thượng. Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe ngựa đầy đường. Người Hồ theo sát đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quý trọng, chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng không đủ hơn". Từ tài liệu trên, theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Sỹ Nhiếp dẫu được đào tạo trong khuôn mẫu Trung Quốc, đã có những hành vi xa lạ với phong tục tập quán Trung Quốc. Nói rõ ra, ông đã được Việt hóa. Việc Ngô chí so sánh Sỹ Nhiếp với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ độc lập tới mức nào. Thực tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền Hai Bà Trưng là chính quyền Chu Phù - Sỹ Nhiếp". Theo ông, dưới thời Sỹ Nhiếp, nước ta đã có một nền nông nghiệp rất phát triển. "Lúa Giao Chỉ mùa hè chín, nông dân một năm trồng hai lần" (theo Kinh Dương dĩ nam dị vật chí). "Một năm tám lứa kén tằm đến từ Nhật Nam" (Văn tuyển 5 tờ 9b4). "Nhiếp mỗi khi sai sứ đến Quyền đều dâng tạp hương, vải mỏng thường tới số ngàn. Món quý minh châu, sò lớn, lưu ly, lông thú, đồi mồi, sừng tê, ngà voi, các thứ vật lạ quả kỳ như chuối, dừa, long nhãn, không năm nào không đưa đến" (Ngô chí 4 tờ 8b1-3 nói về những cống vật mà Sỹ Nhiếp gửi đến Tôn Quyền). Giáo sư Lê Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau khi Sỹ Nhiếp chết (226), lúc ấy Tôn Quyền đã chiếm cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên nhân cái chết của Sỹ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta, lúc đó "là một nước độc lập dựa trên điển huấn và pháp luật của người Việt". Con Sỹ Nhiếp là Sỹ Huy nối nghiệp cha, chống lại Tôn Quyền, tuy nhiên do mất cảnh giác, nên đã thất bại, Sỹ Huy bị bắt và bị giết, Tôn Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền cai trị của Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ 18 năm sau, Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành lại chính quyền. Về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng đây là cuộc "khởi nghĩa thành công". Ông viết: "Tôn Quyền sai Lục Dận làm An nam hiệu úy và thương thảo với quân khởi nghĩa bằng ấn tín và tiền của. Đây là lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc đối với nước ta. Và cuối cùng Lục Dận cũng có thể báo cáo là đã "dẹp yên được giặc Giao Chỉ" và được phong làm thứ sử Giao Châu. Nhưng châu trị của Giao Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng Châu, vì nó ngó ra biển (lâm hải), như bài biểu của Hoa Thạch trong Ngô chí tờ 10b3 đã ghi nhận. Nói cách khác, nước ta từ năm 248 tiếp tục là một nước độc lập và Bà Triệu tiếp tục đứng đầu đất nước, cho đến khi Tôn Hựu sai Đặng Tuân (Ngụy chí 4 tờ 27a3 viết là Đặng Cú) đến Giao Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho thái thú Giao Chỉ bắt dân đưa lên Kiến Nghiệp làm lính. Và như Thiên Nam ngữ lục đã ghi nhận là Bà Triệu đã bị tử trận trong một cuộc chiến đấu với chính Đặng Tuân sau khi đã tiêu diệt Lục Dận (...). Những mô tả này (trong Thiên Nam ngữ lục) hoàn toàn phù hợp với tư liệu của Ngụy chí 4 tờ 27a2-27b5, đặc biệt là tờ chiếu năm Hàm Hi thứ nhất (264) của Tào Hoán..." (Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 385-386)... Đại Việt sử ký toàn thư rõ ràng có nguồn gốc từ thời Lý Trần, trong thời kỳ này có nhiều sử gia hết sức siêu tuyệt mà chúng ta chưa rõ đó thôi. Sử gia Ngô Sĩ Liên khi bình luận trong Đại Việt sử ký toàn thư hoàn toàn hạ thấp uy thế Đại Việt mà nâng uy thế Trung Hoa, do vậy khiển trách cực nặng của vua Lê đối với Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ là hoàn toàn chính xác (tôi chỉ phát hiện ra trong Đại Việt sử ký khi đọc được đoạn nội dung này của vua Lê). Lê Thánh Tông làm vua lúc 19 tuổi. Một năm sau, khi trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ, vị hoàng đế 20 tuổi bảo họ: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là ngươi theo đường chết, mang lòng không vua". Đó là tiếng nói của một ý chí tự cường dân tộc, động lực mãnh liệt đưa Lê Thánh Tông đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hồi thế kỷ 15. Sửa sử nâng cao uy thế Sĩ Nhiếp, có ý tôn vinh Sĩ Nhiếp, Cao Biền... qua cả truyền thuyết Cao Biền gặp tướng quân Cao Lỗ... Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn như tôi đã phân tích, chắc chắn đã bị thêm vào nội dung, hạ uy thế vua Đinh, Lê mà nâng uy thế Cao Biền... thế mà các nhà nghiên cứu Việt không hề nghi ngờ về nội dung. Không ghi rõ những mốc son trong lịch sử như chiến tranh nhà Lý phạt Tống, bình thời Trần quá kém, không ghi rõ cuộc triệt hạ văn hóa của quân Minh là khủng khiếp nhất và gần nhất thời Ngô Sĩ Liên... ... và còn nhiều vấn đề khác. Biết trước tương lai, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã viết: Chính sử điên đảo già chân.1 like
-
À, nhầm mất rồi, 1991 là Tân Mùi, Tỵ với Mùi tương sinh Hỏa sinh Thổ, ko xấu đâu!!!1 like
-
Hầu như những người thuộc tuổi ,bính- mậu khi kình dương cư Ngọ nhập hạn [ mã đầu đới kiếm ] đều không thoát được tai nạn sự kiện diễn ra nặng nhẹ đều do phúc đức mà tồn tại , đương số lại thêm tuổi Ngọ ! Lưu thái tuế tại tật ách cung . Lưu lộc tồn + tuyệt , hao tổn tài lộc ngầm ... Kình dương + hỏa tinh đều hãm địa nếu có danh chức thì bị giáng ,bị mất . Kình dương + thiên hình ,là tù tội hay bị người đánh đập . trong khi tiểu hạn Thái dương cư Ngọ và đại hạn thiên tướng + thiên việt , văn khúc + thái tuế là cách thăng quan tiến chức ,nếu như đương số muốn giữ chỗ ngồi thì chắc cần [ lộc tồn + tuyệt ] Nếu năm nay mọi sự diễn ra đều bình thường quan lộ đương số như xe chạy trên highway ,thì có thể xảy ra cho người khác trong gia đình như chồng hay có tang ai trong họ . Nhưng lưu Thái tuế tại ách cung , nghi rằng đương số sẽ gặp 1 tai nạn gì đó .1 like
-
chào bạn! Bạn có biết, để kiếm được một số tốt không dễ chút nào. Cứ khoảng 500 số mới kiếm được một vài số nên tôi sẽ không xem số lắt nhắt cho bạn đâu. Thân mến1 like
-
Nếu giấc mơ này ứng vào sự việc sinh con của gia đình anh thì cháu là người thông minh, khoáng đạt, khí phách và có ý chí. Vấn đề là anh giáo dục con anh như thế nào.1 like
-
2 tuổi này hợp nhau, nữ hay lấn lướt nam 1 chút. Năm nay cưới đc. Nên có con các năm 2014, 2022, 2023.1 like
-
Cầu Mưa!
ReQuat liked a post in a topic by Thiên Đồng
Xin Ơn Phước Đức Chúa Cha, Chúa Con cùng Các Chúa Thánh Thần cho mưa xuống vùng miền Colorado để dập tắt ngọn lửa dữ này. Alleluia, Alleluia, Alleluia Amen Thiên Đồng1 like -
NGHI THỨC CẦU MƯA THUẬN GIÓ HÒA TÁN THÁN PHẬT Đấng Pháp Vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loại Nay con nguyện quy y Diệt trừ vô lượng tội Dâng lên lời tán thán Ức kiếp vẫn khôngcùng. Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn Lưới đế châu ví đạo tràng Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời Trước bảo tòa thân con ảnh hiện Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. LỄ PHẬT • Chí tâm đảnh lễ:Nam mô khắp mười phương hư không tất cả Chư Phật (1 lạy) • Chí tâm đảnh lễ:Nam mô khắp mừời phương hư không tất cả Chánh Pháp (1 lạy) • Chí tâm đảnh lễ:Nam mô khắp mười phương hư không tất cả Hiền Thánh Tăng (1 lạy) SÁM CẦU MƯA Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật Nam Mô Đại Bi QuánThế Âm Bồ Tát Nam Mô Thiên Long Bát Bộ Hộ Pháp Thiện Thần Chư Tôn Bồ Tát (tất cả 3 lần). Lạy chư Phật từ bi gia hộ Cho chúng sinh đau khổ đọa đày Vì trời nắng hạn lâu nay Suối dòng khô cạn ruộng cày bỏ hoang Bởi từ trước vương mang ác nghiệp Tích lũy qua nhiều kiếp luân hồi Tham lam, sân hận sục sôi Kiêu căng, ích kỷ,nặng lời, hơn thua Nhân đã có bây giờ quả tới Khiến đất đồng trơ trọi khô khan Lúa chưa chín đã héo tàn Cây chưa kịp trái đã vàng úa đi Nhiều mạch giếng giờ thì cũng tắt Lắm ao hồ phơi đất nứt ra Chim rừng cá nước xót xa Muôn loài vạn vật đều là khổ chung Tội trước hết xài phung xài phí Đổ thức ăn vì ỷ dư thừa Nước dùng lênh láng như mưa Điện đèn thắp mãi chẳng chừa cho ai Không nghĩ đến nhiều người thiếu thốn Cầu miếng cơm nướcuống qua ngày Xác xơ manh áo thân gầy Sao đành phí phạm,lòng này dửng dưng Tội kế đến phá rừng đốn gỗ Đâu biết rừng là chỗ dựa nương Hành tinh sự sống mến thương Chim ca hoa nở nhờ rừng chở che. Ơn của rừng nặng nề như thế Nhưng mấy ai bảo vệ màu xanh Đua nhau đốn cội chặt cành Rừng thành sa mạc,người thành tội khiên. Khi mưa xuống thiên nhiên cuồng nộ Kéo lũ về phá vỡ tan hoang Đến khi mùa nắng vừa sang Giếng khô suối cạn xóm làng đìu hiu. Tội khác nữa lòng nhiều bỏn xẻn Hiếm khi nào nghĩ đến tha nhân Chung nhau một kiếp trầm luân Vậy mà chẳng biết đỡ đần giúp nhau. Khắp thế giới khổ đau đầy ắp Nhưng tai che mắt lấp làm ngơ Phần mình cứ mãi vét vơ Đôi tay nắm chặt bao giờ mới buông! Lại thêm tội khinh thường Thần Thánh Cho sức mình là mạnh là hơn Kiêu căng làm bậy sống càn Chẳng so tội phước,chẳng màng nghiệp duyên Luật Nhân Quả chẳng tin chẳng hiểu Từ bấy lâu không chịu làm lành Phật đà giáo pháp cao minh Sao chưa khởi được tâm thành hướng theo! Tội chúng con đã nhiều vô kể Nên tạo thành thảm họa thiên tai Khi thì hạn hán kéo dài Khi thì bão tố, xa khơi sóng gào. Giòng nước nóng cuộn trào ngoài biển (El nino) Là thiên nhiên trách giận con người Mãi mê vào những thú vui Chôn mình trong những cuộc chơi tầm thường. Lạy chư Phật mười phương từ ái Thương chúng con mê muội lầm than Bây giờ tha thiết ăn năn Nghĩ về lỗi trước lòng càng quặn đau. Chúng con nguyện ngàn sau muôn kiếp Sẽ tinh cần chuyển nghiệp sửa tâm Một là tập sống giản đơn Chắt chiu tiết kiệm để dành đem cho Của trời đất nguyện lo gìn giữ Dù hạt cơm, giọt nước,cánh hoa Quý từng hơi thở vào ra Là từng sự sống hiền hòa thân thương Sẽ trân trọng quý rừng xanh thẳm Từng bóng cây thắm đậm ơn trời Giữ gìn những chiếc lá tươi Như là da thịt trong người mình thôi Nguyện gắng sức cả đời còn lại Trồng thật nhiều cây cối tươi xanh Cho hoa nở lại đầy cành Cho người nối lại mối tình thiên nhiên Chúng con nguyện ăn hiền ở thảo Biết nhường cơm xẻ áo cho nhau Thế gian còn kẻ khổ đau Thì con xin nguyện không cầu vui riêng Tình nhân loại thiêng liêng vời vợi Ơn chúng sanh ngập núi tràn sông Xin đem trọn trái tim hồng Đắp xây vào mối tình chung giữa đời. Chúng con nguyện khéo lời giữ ý Dốc một lòng tôn quý Như Lai Cha lành của khắp trời người Từ Bi, Trí Tuệ rạng ngời vô biên Tin giáo lý Nghiệp Duyên Nhân Quả Thiện ác rồi phải trả nếu vay Nên từng giây phút hôm nay Chắp tay cung kính cỏ cây vạn loài Cúi lạy Phật thần oai vô lượng Chư Thiên Long diệu dụng không cùng Dù rằng nghiệp tội của chung Con xin sám hối thay giùm muôn nơi. Nay thấy cảnh đất trời khô hạn Muôn sinh linh khổ nạn điêu tàn Lòng con đau xót vái van Cầu xin ơn Phật thương ban phép mầu Cho những trận mưa ào ạt tới Để các đồng lúa lại đơm bông Cây xanh trĩu nặng quả hồng Giếng khơi dâng nước,suối dòng chảy tuôn Cho hoa nở, chim muông ca hát Đất hồi sinh hương ngạt ngào bay Người người tay lại nắm tay Trong niềm vui đó tràn đầy thương yêu. Và con nguyện đi theo bước Phật Gắng tu hành nẻo thật đường ngay Tĩnh tâm từng phút từng giây Dù bao gian khókhông thay đổi lòng. Nương Phật lực cửa không an trú Bỏ hai bên bờ hữu hay vô Thế gian là một giấcmơ Kiếp người là một sợi tơ vô thường Lạy chư Phật mười phương tế độ Khiến cho con Liễu Ngộ Chơn Như Dần vào Chánh Định vô dư Xóa tan Chấp Ngã,lòng Từ Bi khai Rồi sau đó muôn đời muôn kiếp Sẽ đem mưa Chánh Pháp tuôn rơi Vào lòng nhân loại nơi nơi Để người vượt thoát luân hồi tử sinh Cúi đầu lạy Phật chứng minh Chúng con đem trọn lòng thành kính dâng. Nam Mô Bổn Sư ThíchCa Mâu Ni Phật (3 lần) PHỤC NGUYỆN Cúi lạy Phật thần oai vô lượng Chư Thiên Long diệu dụng không cùng Dù rằng nghiệp tội của chung Con xin sám hối thay giùm muôn nơi. Cho những trận mưa ào ạt tới Vung Colorado thuoc lien bang Hop Chung Quoc Hoa Ky Để các đồng lúa lại đơm bông Cây xanh trĩu nặngquả hồng Giếng khơi dâng nước,suối dòng chảy tuôn Cho hoa nở, chim muông ca hát Đất hồi sinh hương ngạt ngào bay Người người tay lại nắm tay Trong niềm vui đó tràn đầy thương yêu Nguyện cầu tất cả chúng sinh tinh tấn tu hành đồng thành phật đạo. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật TAM QUY Y • Tự quy y Phật nguyện cho chúng sanh hiểu sâu đạo cả phát tâm vô thượng (1 lạy) • Tự quy y Pháp nguyện cho chúng sinh thấu rõ kinh tạng trí tuệ như biển (1 lạy) • Tự quy y Tăng nguyện cho chúng sinh tâm ý hòa hợp biết thương mến nhau (1 lạy) (bien soan theo phatgiaovietnam/blog)1 like
-
huyện khởi nghĩa núi Cham . Dòng Hùng Việt Khởi nghĩa Lam sơn chống nhà Minh Trung quốc xâm lược được coi như khởi đầu từ hội thề ở Lũng Nhai Thanh hóa của Lê Lợi và 18 chiến hữu . Nội dung lời thề Lũng Nhai (theo bản dịch của Hoàng Xuân Hãn) Bui hay Duy (?). Năm đầu niên hiệu Thiên Khánh là năm Bính Thân (1416), quá ngày sóc (mồng một) là ngày Kỹ Mão đến ngày 12 là ngày Canh Dần. Tại nước A-NAM, lộ Khả Lam, tôi là phụ đạo Lê Lợi đứng đầu, với Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Nanh, Lê Kiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến. Chúng tôi kính cẩn đem lễ vật, sanh huyết mà thành khẩn dâng lời tâu, cáo cùng Vua Trời, Hậu Đất và các thần linh bậc thượng, trung, hạ, coi các cảnh đẹp sông núi tại các xứ ta . Chúng tôi cúi xin rộng lòng thương, soi xét để chứng cho việc nầy . Rằng có bạn từ xa tới kết tình vui vẻ và rất tin nhau, cho nên phải làm lễ tâu cáo . ................. Ngay vào đầu Bản văn này đã có điểm phải xét lại : ... Năm đầu niên hiệu Thiên Khánh là năm Bính Thân (1416)... Thiên Khánh là Niên hiệu của vua Trần Cảo mà bối cảnh và năm lên ngôi chép trong sử : Trần Cảo tên thật là Hồ Ông , không rõ ông là người ở đâu. Khi khởi nghĩa Lam Sơn bước vào giai đoạn thắng lợi quyết định, tướng nhà Minh là Vương Thông bị thua trận nặng ở Tuỵ Động, phải cố thủ trong thành Đông Quan. Để tìm cách kìm hãm sự phát triển của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, chia rẽ nội bộ người Việt, Thông liền viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh Thành Tổ năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần mà đòi thủ lĩnh quân Lam Sơn là Lê Lợi phải lập con cháu nhà Trần mới đồng ý giảng hoà và rút quân về nước. Lê Lợi bèn sai người tìm con cháu nhà Trần. Theo sử sách, gặp lúc đó Hồ Ông lánh nạn ở châu Ngọc Ma, tự xưng là cháu nội vua Trần Nghệ Tông, được tù trưởng châu Ngọc Ma là Cầm Quý tiến cử với Lê Lợi. Để đối phó với yêu sách của Thông, muốn quân Minh nhanh chóng rút về, Lê Lợi đồng ý lập Trần Cảo làm vua, với danh nghĩa kế tục nhà Hậu Trần, đặt niên hiệu là Thiên Khánh, còn Lê Lợi tự xưng là Vệ quốc công. Lê Lợi tập trung vào chiến sự, sai quan tả bộc xạ là Bùi Quốc Hưng ở bên cạnh phò tá, nhưng thực chất là để giám sát ông. Riêng sách Đại Việt thông sử lại chép sự kiện này xảy ra ngày 30 tháng chạp năm 1425, tức là trước khi Vương Thông sang Việt Nam. (Trích đoạn wiki – internet bài Trần Cảo) Năm 1425 nghĩa quân Lam sơn mới lập Trần cảo làm vua bù nhìn với niên hiệu Thiên Khánh vậy mà bản văn ghi …hội thề Lũng nhai diễn ra vào năm Thiên khánh thứ nhất Bính thân 1416 tức đi trước tới 9 năm ...? Phải chăng đây là lỗi của những người viết sách ‘Lam sơn thực lục’ ?. Điểm đặc biệt nữa trong văn bản hội thề là quốc hiệu chưa từng nghe ...nước A NAM . Lịch sử Việt chưa lần nào đề cập đến quốc hiệu này ...rất có thể : *A Nam là Nam Đây chỉ là tên nước ‘Nam’ thêm vào âm phụ theo kiểu ngôn ngữ Tai- Kadai thành ra A Nam giống như Cham thành Champa , Cau thành Kauthara...?. *A Nam là phát âm không chuẩn của An Nam . An Nam với chữ An là động từ thì không thể trở thành 1 quốc hiệu , phải đảo lại thành Nam An mới có nghĩa là nước phương Nam an bình , có thể có An Nam vương nhưng không thể có An Nam quốc vương như trong sử sách xưa nay đã viết vì tổ hợp chữ này không có nghĩa , thời Đường đặt ‘An nam đô hộ phủ’ tức cơ quan có nhiệm vụ giữ cho phía nam an ổn chứ không có vùng đất hay 1 đơn vị hành chánh nào gọi là phủ An Nam để rồi từ ‘phủ’ nâng cấp thành ‘nước’ để có quốc vương được , tới nay nhiều người vẫn lầm lẫn ...sở dĩ nước ta có tên An nam vì trước đó là An nam đô hộ phủ ...thực lầm lẫn qúa lớn tới nỗi làm sai lệch Việt sử ; xin hỏi Trung quốc có nước nào tên là An Đông – An Tây _ An Bắc ?. A Nam không thể là An Nam với chữ An là yên ổn nhưng vẫn có thể là An Nam với chữ An Nghĩa khác nhưng đã bị ‘ai đó’ đánh lộn sòng . Sự thực lịch sử Việt vẫn có thời được gọi là An Nam nhưng là chữ An nghĩa là ôn – ấm – nóng kết hợp với chữ Nam là phương Nam cũng có thể hiểu là Nước – Nậm âm cổ giống như trong ngôn ngữ Thái Lào ngày nay, An và Nam hợp thành 1 chỉnh thể theo luật Âm – dương , chữ An này mới chính là chữ trong danh hiệu ‘An Nam quốc vương’ chép trong sử (vấn đề này xin được bàn ở 1 bài viết khác) . *Tiếp đến ta sét xem liệu A nam có thể là Hà nam ? . A nam → Ha Nam→Hà nam về phát âm là điều hoàn toàn có thể còn về mặt ngữ nghĩa phải chăng đây là từ kép cấu thành bởi 2 thành tố chỉ dòng tộc , Nam chỉ người Nam tức người nước Nam có từ thời Khu Liên năm 192 , nước Nam là nước có thủ đô là Lâm ấp hay Nam ấp vua là Lý Nam đế ...đã ghi chép trong sử sách ; Hà chính xác là Hời – Hai số 2 của Hà thư (Hà đồ) trấn phía xích đạo ,cụ thể trong địa lý Việt chỉ tộc người sống ở Bình trị thiên trở vào nam , địa điểm cư trú cực bắc của họ gọi là Đồng hới biến âm của ‘động Hời’ tức động của người Hời ; các từ : động , trại và mường là từ cổ có thể được dùng với nghĩa là đơn vị hành chánh . Tộc phả họ Phạm Việt nam chép : "Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân -Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu ( gọi là xứ Lâm ấp)-tức là Nam Trung bộ ngày nay. ................ Những thông tin địa lý trong tư liệu phải hiệu chỉnh cho khớp với lịch sử – địa lý nước Việt ngày nay : Theo ý trong bài thì Xứ Nam Hà hay Hà Nam cùng 1 nghĩa ; là từ ghép 2 thành tố Nam chỉ người Nam ở Ái châu và Hà chỉ người Hời ở Trung châu . Ái châu là vùng Thanh Nghệ Tĩnh , Trung châu hay ‘châu Trong’là vùng Bình Trị Thiên ngày nay , với nghĩa hẹp chỉ có 2 châu này thì không thể gọi là nước A Nam mà chỉ có thể viết là Xứ A Nam – Hà Nam tức 1 phần của đất nước Nam – Hà rộng lớn hơn nhiều . Tên gọi xứ A nam - Hà Nam đã nối kết được dòng sử xưa và nay của cộng đồng người Chăm ; cho chúng ta thấy dòng sử xuyên suốt : Lâm ấp – (Nam – Hời) - Champa như đã khởi đầu trong Thiên nam ngữ lục ....Khu liên người nước Nam ta . Cuộc khởi nghĩa Khu Liên gắn liền với địa danh Tượng –Lâm , huyện Tượng lâm lại ‘dính’ vào cái mớ bòng bong Tượng quận ..., sử Trung quốc tự hào là chính xác tính bằng phân bằng li , xem sét tới dấu phết dấu phẩy ... nhưng cỡ vài trăm ngàn km2 thì ....hơn 2000 năm vẫn cãi nhau không xác định được Tượng quận nằm ở đâu ...thật nực cười . Tượng lâm ở đâu ? Đấy là vùng đất xa nhất về phương nam của nước Đông hãn , là nơi có cột đồng Mã viện đánh dấu biên giới chôn ở động Cổ sâm – Khâm châu nay thuộc Quảng Tây , thông tin chỉ định rõ như ban ngày ... vậy sao mãi gỉa mù sa mưa thế ?. Chỉ vì lòng người không ngay thẳng mà thôi .... Về địa lý, vương quốc Lâm Ấp ở đâu, lãnh thổ như thế nào còn rất nhiều điểm mơ hồ. Theo sử cổ Trung Quốc thì lãnh thổ vương quốc này là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, phía nam huyện Lô Dung (Thừa Thiên-Huế ngày nay). Đường thư nói Lâm Ấp từ huyện Tây Quyển (Quảng Bình) trở xuống. Đại Nam Nhất Thống Chí nói Tượng Lâm là Bình Định và Phú Yên.... Chẳng hiểu các vị khoa bảng cả Tàu lẫn ta căn cứ vào đâu mà phán các chữ ...nay là ...nay là ‘chửi bố’ nhau như thế trong khi thông tin không phải là không có ... Thủy Kinh chú cho biết thủ phủ Lâm Ấp lúc đầu không biết ở đâu, sau được biết đặt tại Khu Lật phía nam có sông Lô Dung chảy qua. Xin hỏi dựa vào đâu mà khẳng định ....thành Khu Lật thủ đô của Lâm ấp quốc nay là thành phố Huế ? , sông Lô Dung là sông Hương ???, Đoán mò thì ít ra cũng phải bấu víu vào cái gì đó chứ , bằng chứng vật thể thành quách đền đài ...không , văn bia thư tịch cũng không , liên quan âm ngữ của tên gọi cũng không Khu lật thì dính dáng gì tới Huế chứ , vậy mà dám phán bừa Khu Liên lập nước Lâm ấp ở Tượng lâm nay là miền trung Việt nam ..., không hề để ý gì tới cái cột đồng Mã Viện đánh dấu biên giới cực nam của Đông Hán chôn ở Khâm châu Quảng Tây cũng như thông tin trong sử ....quân Mã viện nếu có cũng chỉ tiến tới Cư phong nay thuộc Thanh hóa rồi rút về Hán quốc thì vùng Bình trị Thiên lấy quan nhà Đông Hán đâu cho dân giết rồi tôn Khu Liên làm vua lập ra nước Lâm ấp ?. Lô dung không phải là danh từ riêng tên con sông , dung chỉ là biến âm của giang danh từ chung đồng nghĩa với sông, Lô dung thực ra là Lô giang hay sông Lô , nó còn có nhiều cách gọi do biến âm khác như ....Lư giang , Lư dung , Lư thủy .v.v. ; hiểu như vậy thì đoạn Thủy kinh chú trở nên xác định rõ ràng không còn gì là mờ mờ ảo ảo ..., viết ‘sông Lô dung’ là do cái bệnh ...thừa chữ y như ...núi Thái sơn ....sông Hồng hà vậy ... Nhìn vào hình : Tượng lâm đất cực nam của nhà Hán nơi có cột đồng phân ranh... , nơi Khu liên lấp nước Lâm ấp mà thủ đô nằm ở bờ bắc Lô giang ...còn gì rõ hơn ?. Giới Sử – địa học Trung quốc đã cố tình gây nhiễu , thực ra chẳng hề có huyện Tượng – Lâm cực nam của quận Nhật nam nào cả , Tượng lâm cứ trên cái nền Dịch học thì nhận ra ngay : đất Tượng lâm là đất Tây – Nam (Tượng = Tây , Lâm =Nam) , là tên gọi miền Vân nam - Quảng tây - Qúy châu Trung quốc , nơi sinh trú của đám Tây – Nam di , là đất của Điểu Man – Điểu Hử ... Bài viết Điểu –cầm - chim đã giúp giải đáp tại sao Lâm ấp khởi đầu ở Tượng lâm – Quảng tây khúc sau tới đời các vua họ Phạm cháu dòng ngoại của Khu Liên lại lộn ngược rơi xuống châu Ái – châu Trung của đất Việt . Vua Lê lợi xưng là Lam sơn động chủ thực ra danh xưng này chỉ là chữ nghĩa hóa tên gọi ‘Đạo Cham’ tức ông đạo Cham cụt lủn xem ra đầy sự quê mùa ..., đạo là lang đạo – phụ đạo nghĩa là người đứng đầu , Cham là vùng đất hay ‘động’ Cham nơi có làng Cham - núi Cham (Lam sơn) . Nước hay xứ A Nam , lộ Khả Lam ...qúa rõ , Khả lam thiết Cam ... Sinh ở kẻ Cham hay làng Cham , dựng nghiệp ở núi Cham , cham ↔chim , chim là điểu vậy . Nơi ấy gọi là lộ Khả lam , khả lam thiết Cam ; cam ↔kiềm↔cầm . Thông tin về Thân thế của vua khai sáng nhà Hậu Lê có đủ cả 2 yếu tố Cầm-Cam lẫn Chim-Cham thì làm sao nói khác : Triều hậu Lê là triều đại của nước A Nam-Nam vua là người Chăm và triều thần là ...Kinh – thượng hoà hợp , xét về mặt bản sắc dân tộc thì đấy là thời hỗn dung ‘Kinh – Hời’ , là đất nước của cả người Kinh lẫn người Hời . Trong Phổ chí mới sưu tầm được của tộc Phan hai làng Đà Sơn và Đà Ly là Hoàng tộc 1 thời của Chiêm quốc có chép : .......................... Nhớ lại, thuỷ tổ chúng ta là : vua Lạc sinh ra tộc chúng ta. Thời thượng cổ sinh sống tại động Thanh Lam (vùng Thanh hóa) , hiệu là bộ Việt Thường, thời trung cổ dời vào Lâm Châu (nay là đất Lâm Bình), thời cận cổ lại dời vào Đà Bàn (nay là đất Bình Định), đổi hiệu là nước Chiêm Thành, bao trùm cả Thanh Hà (nay là đất Thanh Hóa), về nam tới động Thạch Bi (nay là đất Thuận Thành – Phan Rang ), tiếp nối các đời làm chủ đất nước, gồm 68 thế kỷ (đất cũ thổ âm gọi là “dung anh”). Các thế hệ đều dùng chữ khoa đẩu để biên chép... .... ......... Ông (tổ của tộc) nói: Chúng ta là nòi giống Chiêm, là cháu ngoại nhà Trần, nhờ nhà Trần mà diệt được giặc Mật, giặc Đẩu ( Trịnh giác Mật – Sạ Đẩu 2 người nước ngoải tiếm ngôi vua Chàm ), rửa được mối hận của nước nhà không dám quên ơn đức (nhờ đó mà khỏi) cam chịu mười ba châu này là bãi đất trống không chủ. Đất đai của chúng ta, nhân dân của chúng ta không phải nhờ giặc Hồ (nhà Hồ) mà có, mà chúng lại dám chiếm đoạt, phá huỷ động tháp của tổ quốc ta, dày xéo lăng tẩm tổ tiên bên ngoại ta, lẽ nào ta lại đành lòng ngồi yên mà nhìn vậy sao ? Ta đây chờ cho binh lính giỏi, lương thực đủ, ta quyết thừa cơ thu phục đất cũ. Tiếp đến, nghe tin vua Lê khởi nghĩa. Ông nói: dòng giống họ Lê gốc người động Thanh Lam, cùng một nòi giống Chiêm của ta, ông bèn xuất tiền của, kêu gọi các châu huyện chuẩn bị lương tiền cùng các loại thực phẩm để cống hiến cho binh lính nhà Lê. Vua Lê trọng tạ. Đến lúc nhà Lê dựng đựoc cơ nghiệp, phong cho ông tước hầu. ................................ Dĩ nhiên phổ chí đời sau ghi lại bằng ký ức không thể chính xác hoàn toàn nhưng chí ít cũng phải đúng 1 phần ..., cái 1phần ấy đem so chiếu kết hợp với những nguồn thông tin khác ...tổng kết sẽ là sự thật : Lê Lợi là người nước Nam (Lâm ấp) sắc tộc Cham . Xin lưu ý Cham không đồng nghĩa với Hời , Cham – Chim là dòng giống người sinh sống trải từ Qúi châu tức đất Kiềm trung , xuống Lào đất của dòng họ Cầm , xuống mãi phía nam đến miền Trung Việt là đất Cam của người Chàm hay Chiêm thành , đấy là lãnh thổ rộng lớn của nước Nam khởi dựng từ thời Khu Liên hay Khu Linh . Thời Lê Lợi khởi nghĩa đất nước rộng lớn ấy chỉ còn 1 góc gọi là xứ A Nam – Hà Nam hay xứ Nam Hà đúng như tộc phả họ Phạm viết , Nam – Hà chỉ là 1 xứ gồm 2 châu Ái và Trung còn cả nước Nam – Lâm ấp thì lãnh thổ lớn hơn nhiều . Triều đại Lê khởi từ đất phía tây Thanh hóa , nói tây Thanh hoá thực ra là kiểu chơi chữ tránh né sự thực ....nhà Hậu Lê nổi lên ở đất Lào ; nhà nghiên cứu Tạ chí đại Tường viết ... Tập họp Lam Sơn mang tính hỗn hợp Mường Thái chứng tỏ trong liên hệ hôn nhân: mẹ Lê Lợi họ Trịnh, vợ ông cũng họ Trịnh (người Thái- Lào ?) , và họ Phạm (người Cham ?) . Ngày sau , xa cả sau khi Lê đổ, Phạm Đình Hổ còn biết trong lễ tế ở Lam Kinh có xướng bằng tiếng Thái chứng tỏ người ta đã không quên tổ... Tại sao lại phải che đạy sự thật mà đáng lý ra phải công khai trước bàn dân thiên hạ , phải chăng là do ý nghĩ sai lầm .... ‘nước Việt thì vua người Kinh mới đúng là chính thống’ của lớp sử gia thời trước ?. Không phải mãi tới thời hậu Lê , thời nhà Trần đã gọi dòng giống vua Chăm là Lê gia , ....Trần triều uy đức an thiên hạ – Lê gia công trạch định viêm cương ...; gia ở đây không phải là nhà hay triều đại mà là 1 họ tộc , họ Lê là họ tộc trấn giữ Viêm cương - biên cương phía Xích đạo của thiên hạ nhà Trần , Lê là biến âm của Lửa vậy . Âm Cam – Cầm viết bằng ‘Hoả tự’ dù ký âm lại bằng mẫu tự La tinh Kampapura vẫn không mất gốc ... Cam vẫn là Kam ... dù có nối thêm papura vào thì vẫn là nước có biên giới cực bắc là Cam Môn - Hà tĩnh , cực nam là Cam ranh – Khánh hoà . Chim dù có ký âm thảnh Champa hay Chiêm quốc Chiêm thành gì gì nữa ...thì chim cũng vẫn là chim ... Đất xứ ‘Dừa’ thành ra ‘vijaya’ (da = dừa) , Cau thành ‘Kauthara’ vẫn y nguyên về thanh âm nơi cửa miệng ...nào có khác chi ? Phan ranh cùng phân giới với Cam ranh viết sai thành Phan rang chuyển sang chữ Chàm rồi âm lại bằng âm Latinh là Panduranga ...qua bao cuộc ‘bể dâu’ như thế mà vẫn nhận ra âm gốc Phan và ranh-rang của tiếng Việt ...kể cũng lạ thật . Tên vua Cham thì trừ những vị sách vở chỉ chép ‘thần hiệu’ theo Ấn độ giáo không thể nhận ra được còn lại đều là người họ Phạm mà tộc phả xác định có từ thời Hùng vương , Chế này Chế kia tưởng là Chàm ngữ ...nhìn kỹ thì chế Mân - Chế Củ chẳng qua là Chúa tên Mân , Chúa Củ thế thôi , vua họ Trà – chà có thể chỉ là biến âm của cha , như sự biến âm của 2 từ Việt quen thuộc vẫn hay bất ngờ bật ra từ cửa miệng người Việt ...ới cha→ui gia→úi chà→ối dào ... ; vua Po... thì rõ ràng là bố theo kiểu ‘bố cái đại vương – Pi lo co’ không chạy đi đâu được ... Thực kỳ lạ khi hầu hết tên tuổi địa danh quan trọng nước Champa đều là từ gốc Việt ngữ rất ư quen thuộc thân thương . Đọc 1 đoạn trong Chiếu thư đánh Chàm thời Lê thánh Tông khiến không khỏi giật mình... Khi Nhân Miếu lên ngôi cả, thì giống nòi chúng đã rất đông. Nương chốn Cổ Lũy như hang cầy, cậy thành Chà Bàn như tổ kiến. Điên cuồng mất trí, nó ( Trà Toàn) xưng bừa là cha chú , gọi đức vua ta là cháu con; mất đức ra oai, ác chất chồng, giấu sao cho nổi ? Những lời lăng nhục không thể nêu tường.... Nay xét tổng thể lịch sử nước Nam có đô là Lâm ấp từ khi Khu Liên lập quốc ....dám nói thẳng ...chưa chắc Trà Toàn đã xưng bừa...khi gọi ‘vua ta’ là cháu con , lịch sử Việt và Cham còn muôn vàn khuất tất ...xưa nay nghe tên Lâm ấp thì không dám ‘nhận’ nhưng khi gọi đích danh nước NAM thì lập tức nhìn ra ngay ... .Vua Lê Lợi là người Cham thì cuộc chiến Việt - Chiêm thời ấy chỉ là nội chiến mà đã là nội chiến tương tự Chàm Dừa ‘oánh nhau’ với Chàm Cau thì làm gì có tộc thắng tộc thua ...mất nước , thắng thua là chuyện của mấy ông hoàng bà chúa mà thôi ...; Xét cho đến cùng cũng chẳng hề có cuộc Nam tiến của người Việt như xưa nay vẫn thường nghe ...không lẽ người Việt tiến chiếm đất của người nước Nam ? ...thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn ‘ta’ chẳng xưng là đại NAM đấy sao ?. Bài viết này khẳng định bản thân từ ‘Chăm’ mang 1 nội hàm hoàn toàn khác với nghĩa đang dùng , Hời - Hà chỉ là 1 phần của cộng đồng Chăm – Chim to lớn hơn nhiều , đất Cầm – Kiềm – Cam của họ ít ra cũng gấp cỡ chục lần cái nước Kampapura ở Miền Trung Việt nam chép trong sử ngày nay . Lịch sử là sự xuyên suốt cổ kim , tách riêng 1 đoạn nào đó dù là đầu là giữa hay cuối dòng sử mà xem sét thì chắc chắn dẫn đến 1 cái ‘biết’ méo mó lệch lạc bất toàn , đây là điều vô cùng nguy hiểm vì điều đó chính là khởi đầu của chuỗi diễn biến ....biết không đúng→nghĩ sai →làm bậy vô cùng tai hại .1 like
-
Khi họ Triệu diệt được An Dương Vương, xưng vua thì do đó mà đổi tên thành Thăng Long: Hiệu xưng là Triệu Vũ Hoàng Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng Long Biên thành hiệu Thăng Long Vì xưa rồng dậy dưới sông Nhị Hà. Bổ sung: Tác giả Thiên Nam Ngữ Lục ghi chú tại câu thơ: Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng, mặc dù số 9 là phương Tây sắc Bạch nhưng vì có chữ Bốn phương nên số 9 hiểu là 9 ô trong Hà đồ hay Lạc Thư (như 9 châu trong Kinh Thư) cho nên số 9 này không thể nhận định tương ứng phương Tây hoặc sắc Bạch... Tác giả gán kinh đô Triệu Vũ Đế là thành Phiên Ngung ở Quảng Đông là có ẩn ý gì?. Trọng Thủy –Mỵ Châu thật... Văn Nhân Chuyện cổ tích : Trọng Thủy –Mỵ Châu kể rằng : Thời vua An Dương Vương, dân chúng xây thành Cổ Loa ngăn chặn giặc phương Bắc. Xây mãi không xong, nhà vua bèn lập đàn cầu tế. Trong lúc đó, một vị thần hiện ra dưới bóng con rùa vàng - tục ngữ gọi là thần Kim Quy - và dạy nhà vua cách xây thành. Thành xây xong, thần Kim Quy còn tặng nhà vua chiếc nỏ thần để giữ nước . Giặc phương Bắc lại ùn ùn kéo quân xâm chiếm nước ta, nhưng lần nào cũng rước lấy thảm bại. Tướng giặc là Triệu Đà vô cùng tức giận. Hắn bèn nghĩ ra một kế. Xin giao hòa với nước ta rồi sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu hôn với con gái vua An Dương Vương tên là Mỵ Châu. Thâm ý của Triệu Đà là sẽ dùng con trai mình làm mật thám trong việc đánh chiếm nước ta. Ngay tình, vua An Dương Vương chấp thuận điều nghị hòa và bằng lòng nhận lời cầu hôn của Trọng Thủy. Trong lúc hàn huyên, Triệu Đà cố tình dò hỏi, Mỵ Châu kể lại cho chồng nghe chuyện xây thành Cổ-Loa và chiếc nỏ thần. Một hôm, nhân lúc Mỵ Châu sơ ý, Trọng Thủy lấy trộm chiếc nỏ thần và thay một chiếc giả vào đó, rồi xin phép vua An Dương Vương về thăm cha mẹ. Lúc ra đi, Trọng Thuỷ căn dặn vợ : - Trong lúc anh vắng nhà, nếu có chiến tranh em hãy mặc áo lông ngỗng vào. Khi chạy giặc, em đừng quên rắc lông ngỗng xuống đường. Anh sẽ theo vết lông nghỗng đi tìm em. Về tới nhà, Trọng Thủy liền giao chiếc nỏ thần cho cha. Nắm được chiếc nỏ thần trong tay, Triệu Đà lập tức kéo quân sang đánh nước ta. Thấy giặc kéo đến, An Dương Vương không tỏ vẻ sợ hãi, bình tĩnh lấy nỏ thần ra bắn. Nhưng lạ thay, đoàn giặc vẫn ào ào xông tới trước các mũi tên bắn ra. Nỏ thần đã trở thành vô hiệu. Hoảng sợ, nhà vua bèn ôm Mỵ Châu lên sau yên ngựa chạy trốn về hướng Nam. Mỵ Châu ngồi sau yên ngựa, rứt lông ngỗng rải xuống đường. Nhà vua chạy đến đâu, giặc theo vết lông ngỗng rượt theo đến đó. Đến núi Mộ Dạ cụt đường, nhà vua định tự sát thì thần Kim Quy hiện lên bảo: - Tâu bệ hạ, giặc ngồi ngay sau lưng nhà vua đấy ! An Dương Vương quay lại, thấy Mỵ Châu, hiểu ra sự việc, bèn tức giận rút gươm chém chết con gái. Sau đó, nhà vua phi ngựa nhảy xuống biển tự tử. Theo dấu lông ngỗng, Trọng Thủy tới được chân núi Mộ Dạ thì thấy Mỵ Châu chỉ còn là một xác không hồn. Quá hối hận về việc mình đã làm, Trọng Thủy ôm xác vợ khóc nức nở, rồi gieo mình xuống một giếng gần đó. Ngày nay ở làng Cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương còn cái giếng Trọng Thuỷ. Tục truyền khi Mỵ Châu đã bị cha giết rồi, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc châu. Lấy được ngọc trai đó đem rửa nước giếng trong thành Cổ Loa thì ngọc trong sáng vô cùng. Hết chuyện kể . Ta thấy ...Ngay đầu của câu chuyện những chữ ...’giặc phương bắc...’đã chỉ ra giặc xâm lấn nước của An Dương vương không phải là quân binh nước Nam Việt ....vì Nam Việt nằm ở phía Đông của Âu Lạc , Chuyện cũng kể tướng của đám giặc phương BẮC ấy là Triệu Đà chứ không hề nói vua của đám giặc ấy là vua Nam Việt Triệu Đà ...dị bản của chuyện chép ...Triệu Đà là chúa đất Nam Hải không hề có từ nào là... Nam Việt . Thực vậy những bài viết trước trong loạt bài viết về cổ sử Việt đã chỉ ra : Theo Sử ký của Tư mã Thiên Khi Doanh Chính lên ngôi Tần thủy hoàng đế năm 221 TCN thì đất Việt ngày nay đã nằm trong lãnh thổ Tần rồi . Dựa trên những tình tiết có được khi Triệu Đà xưng vương các sử gia Việt nam mới đây đã chỉ ra ...không thể nào Nam Việt ra đời trước năm 179 TCN là năm Lữ hậu nhà Tây Hán mất . Theo sử nhà Tần thì cuộc hành binh bình định phương nam của họ kết thúc vào năm 214 TCN ...đã gọi là bình định phương nam không lẽ ...chừa đất văn lang –Âu lạc ra ...để đó chờ nhờ Triệu Đà làm giùm....? Theo Hán thư địa lý chí viết vào thế kỷ thứ I sau Công nguyên thì : Dân miền giao chỉ –Cửu chân là 912.850 người nếu cộng cả dân Nhật nam ( Chàm ?) 69.845 Thì tổng số dân Âu Lạc là gần 1 triệu người trong khi tổng số dân cả Quảng Đông và Quảng tây giả định là dân Nam Việt của Triệu Đà cũng chỉ có 390.555 người ...Hai đánh một không chột cũng què ...nên khả năng Triệu Đà đánh thắng và chiếm Âu Lạc khó như con lạc đà chui qua lỗ kim ... Không phải họ Triệu của Nam Việt Thì ai là tác gỉa của vụ án tráo nỏ thần ? Theo sử sách Tàu thời Chiến quốc ...: Công tử Doanh Tử Sở cháu Tần Chiêu Tương vương , con của Tần Hiếu vương bị đưa sang nước Triệu làm con tin , Lã bất Vi một con buôn nổi tiếng ở thành Hàm Đan kinh đô Triệu đã dâng ái thiếp của mình là Triệu Cơ cho Tử Sở khi đã có thai..., Triệu Cơ sinh ra Doanh Chính ..., năm 257TCN khi quân Tần vây kinh đô Triệu Tử Sở phải nhờ Lã bất Vi giúp mới trốn được về Tần....và năm 250TCN Tử Sở lên ngôi Tần vương hiệu Tần Trang Tương vương , mẹ con Triệu Cơ Doanh Chính cũng năm này mới về đến Tần quốc , năm 246TCN Doanh Chính thay cha làm vương nước Tần , đến năm 221TCN xưng là Tần Thủy hoàng đế ...vua của cả thiên hạ . Tần và Tấn là 2 trong Xuân thu ngũ bá ; trọng lượng và vị thế gần ngang nhau , sang thời Chiến quốc Tấn bị chia thành 3 nước : Hàn triệu và Nguỵ , Triệu là nước yếu nhất trong tam Tấn ...như thế về sức mạnh Triệu không phải là đối thủ kiến Tần lo lắng đến nỗi đưa ‘hoàng thái tôn’ là Doanh Tử Sở sang làm con tin để cầu hoà ....kỳ lạ hơn nữa năm 260 Tần đại thắng trong trận Trường bình chôn sống 40 vạn quân Triệu trong khi con tin Tử sở vẫn sống tỉnh queo ở kinh đô nước Triệu ....đợi mãi tới năm 257TCN khi tướng Vương Ý vây hãm kinh đô Hàm Đan Tử Sở mới ...phải nhờ đến sự giúp đỡ của Lã bất Vi trốn về Tần ....thật là...chuyện như đùa ....,khôi hài hơn nữa Tử Sở còn ‘xài của thừa’ khi lấy nàng Triệu Cơ ái thiếp của Lã bất Vi làm vợ ..., ta luôn nhớ thời Vua chúa ...hôn nhân của hoàng gia là chuyện quốc gia đại sự ...thường phải mang ra triều đình bàn bạc ....chứ đâu dễ như mua tôm bán tép....với pháp kỷ nghiêm minh của nước Tần sau Thương Ưởng thì 10 cái đầu của Lã bất Vi cũng không còn chứ đừng nói đến chức tể tướng Tần sau này , ý trên chẳng qua chỉ là đoạn hài kịch lịch sử do đám ‘hài sử gia ‘ chăn ngựa phịa ra nhằm phỉ báng nàng Triệu Cơ và làm nhiễu loạn lộn ngược lịch sử Trung –Hoa đích thực nhưng chúng đâu biết là người Việt ai cũng thuộc câu thơ trái khoáy ... sinh con rồi mới sinh cha... Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông ... Cứ từ đó suy ra thì vải thưa không tài nào che nổi mắt thánh .... Vậy nếu Tần không để con tin ở Triệu thì chuyện Doanh tử Sở – Triệu cơ có không ? Nếu có thì thực sự xảy ra ở đâu .... Cùng hàng chư hầu với nhau Tần chẳng kiêng ai ...chỉ trừ có thiên tử ...mới có thể khiến vua quan nhà Tần lao tâm khổ tứ mà thôi ... - Chiêu →Triệu Chiêu → Châu. Những kẻ rắp tâm đảo lôn lịch sử Trung hoa đã gỉa ngu ...biến Châu thành Triệu ... Tên Triệu Cơ đảo lại thành Cơ Triệu → Cơ Châu , rất có thể Cơ Triệu biến âm thành ‘cô chiêu’ trong thành ngữ Việt ‘cậu ấm-cô chiêu ‘ chỉ những con nhà quyền qúy. Cơ cũng là họ của dòng vua nhà Chu , Châu là viên ngọc sáng ý chỉ người con gái sắc tài toàn vẹn , là điều Hoàn toàn là hợp lẽ khi cho Cơ Châu là con gái của Cơ Duyên tức Chu Noãn vương vị vua cuối cùng nhà Đông Chu bị nhà Tần diệt ; Cơ Châu đổi thành Mị Châu khi hư cấu lịch sử thành Truyện cổ tích lịch sử cũng là điều dễ hiểu vì Mỵ chỉ có nghĩa là con gái vua (con trai là lang) tức công chúa , Mỵ châu ý chỉ nàng công chúa ‘lá ngọc cành vàng’cũng cùng 1 ý với Cơ Châu nghĩa là châu báu ngọc ngà của dòng họ CƠ ... Sử thuyết họ HÙNG cho họ Triệu đã diệt vua cuối cùng đời An Dương vương là họ Triệu của vua nước Tần không phải họ Triệu vua Nam Việt và chuyện Trọng Thủy Mỵ châu là 1 chứng cứ có gía . Dưới thời Doanh Tứ hay Đinh Tứ Năm 316 trước công nguyên Tần chiếm đất Thục nay là Qúy châu còn gọi là Dã lang đất gốc tổ nhà Chu từ thời Thái vương Cổ công Đản phủ ( Sử thuyết họ HÙNG ) ; từ lúc đó bỏ tước ‘công’ và bắt đầu xưng là ‘vương’ , Doanh Tứ xưng là Huệ văn vương coi như không thần phục nhà Chu nữa qua thời Doanh Đảng ( 311 TCN-307 TCN) chính thức xưng là Tần vũ vương ý là đã kiến lập 1 thiên hạ mới thiên hạ của nhà Tần như vậy việc diệt Chu là điều bắt buộc vì thiên hạ không thể có 2 con trời cùng cai trị ... Nhà Tần bắt đầu thực hiện âm mưu của mình bằng việc phái Doanh tử Sở ‘hoàng thái tôn’ của Tần chiêu tương vương cầu hôn với con gái vua An Dương vương – Cơ Duyên là Cơ Châu và ở rể tại kinh đô nhà Chu tức kinh đô Âu Lạc ....có lẽ Doanh tử Sở là ‘điệp viên siêu hạng’ đầu tiên trên thế giới ..., Cơ Châu 1 lòng 1 dạ với chồng và hạ sinh Doanh Chính ....đứa con trai của 2 dòng đế vương Chu-Tần .... sau này chính là Tần thủy Hoàng , khi đã rõ quân tình và mọi điều cơ yếu Doanh tử Sở gạt vợ về quê ...và rồi chuyện xảy ra như trong truyện Trọng Thủy Mỵ Châu như đã kể ....cũng từ đó ngôn ngữ nước Nam có thêm từ Sở khanh chỉ những gã đàn ông chuyên lường gạt phụ nữ ...., Sở khanh ( công hầu khanh tướng ) nghĩa là vị quan lớn tên SỞ ý chỉ Doanh tử Sở và người bị gạt chính là người vợ hiền thục Mỵ châu hay Triệu Cơ , Sự nhẹ dạ và sự lường gạt có ‘ đẳng cấp quốc tế ’ này đã đưa đến thảm họa là vua cha An Dương vương phải cầm sừng Văn Tê 7 tấc theo thần Kim quy đi vào biển ( với lối suy nghĩ hiện đại thì nơi đến của ngài không phải là ...Thủy phủ ...mà là Indonesia....và các bạn đừng ngạc nhiên nếu ở Indonesia tìm thấy những trống đồng to hơn thậm chí đẹp hơn trống tìm thấy ở Việt nam ). Một khi đã lần được đầu mối câu chuyện thì không khó để nhìn ra : Thủy trong Trọng Thủy chính là qúy danh...’Sở ’ của hoàng thái tôn nhà Tần ; Sở → Sủy → Thủy . Trọng nghĩa là con thứ hai ( thái – trọng – bá ) như vậy Tử Sở là con thứ 2 của Tần hiếu Vương - Doanh Trụ . Việc đối xử của Tần với vương tôn nước Thục đất gốc tổ nhà Chu cũng rất lạ ...không mổ bụng phanh thây ...như sự tàn bạo đối với đám bại binh nước Triệu ( chôn sống 40 vạn) mà chỉ giáng người cai trị nước Thục dòng vua Khai Minh xuống tước hầu và vẫn cho hưởng bổng lộc nơi đất cũ ... đây cũng là điều đáng suy nghĩ tìm hiểu ...phải chăng là vì ân tình của vua nhà Chu với dòng dõi họ Đinh của nước Tần ...? hoặc gỉa là vì dây mơ rễ má quấn quýt bởi huyết thống giữa dân nhà Chu và người nước Tần ?. Bình thường ra sự kiện nhà Tần thí chúa đoạt ngôi phải là sự kiện chấn động nổi bật hơn tất cả những sự kiện khác xảy ra giữa các chư hầu với nhau trong thời Xuân thu-Chiến quốc ...vậy mà ngược lại có rất ít tư liệu nói về sự kiện long trời lở đất đó ; ít tới nỗi ... có kẻ cạn nghĩ nói bừa ( hay cố ý? ) là nhà Chu tự nguyện dâng đất cho Tần ...đây cũng là 1 điều bất thường đáng suy nghĩ ... Với từ khóa SỞ KHANH và tung tích Trọng Thủy thật Mỵ châu thật ...thông qua những tình tiết của chuyện tích có thể kết luận :... - Diệt triều An Dương vương chiếm đất ÂU-LẠC năm 256 TCN chính là nước TẦN . - ÂU-LẠC cũng chính là ‘TRUNG - HỎA’ tức vùng ‘Trung tâm và văn minh’ của cả thiên hạ thời nhà Chu . - VĂN LANG chính là VĂN VƯƠNG tổ nhà Chu trong lịch sử Trung – Hoả ( Hoả ≠ Hoa ) cũng là 1 trong tứ thánh của dịch học và 2 chữ VĂN - LANG đã thành quốc hiệu thiêng liêng cổ xưa của con đàn cháu đống Việt nam ngày nay ...1 like
-
Thục An Dương Vương Bách Việt Trùng Cửu Một đoạn trong Thiên Nam ngữ lục về "Thục Kỷ - An Dương Vương": Thủa ấy có An Dương Vương Người quê Ba Thục ở đàng phương tây Anh hùng trí lực ai tày Mới sai trấn cõi giáp rày Văn Lang. Dòm Hậu Hùng nghiệp trễ tràng Lăm le ý sắm mở mang xa gần Vân Nam bèn mới dấy quân Của mượn tượng mã, lưới ngăn nhân tài. Như vậy ở thế kỷ XVII người ta vẫn xác định An Dương Vương người nước Thục ở phương Tây, dấy binh đánh Hùng Vương từ Vân Nam. Thế mà chẳng hiểu sao thời nay các sử gia lại đoán già đoán non là nước Thục của An Dương Vương gốc ở Cao Bằng, cố tình lờ đi sự đồng nhất về văn hoá và khảo cổ của vùng Vân Nam, Quảng Tây với Bắc Việt (trống đồng) với thời Hùng Vương.Còn có tư liệu cho rằng Thục Phán là người ở Ai Lao. Thực ra Ai Lao Di hay Di Lão là tên của tộc người sinh sống ở vùng Vân Nam Quí Châu. Thục Phán ở Ai Lao cũng đồng nghĩa với Thục Phán xuất phát từ vùng Vân Quí. Thêm một chi tiết trong giải mã câu chuyện An Dương Vương trong Thiên Nam ngữ lục: Câu chuyện kết thúc với việc Trọng Thuỷ nhảy xuống giếng tự tử và tương truyền ngọc trai biển (do Mỵ Châu hoá thành) rửa ở giếng này sẽ rất sáng. Trong TNNL về việc này có câu: Vì chưng duyên cũ vợ chồng Hiệu Tẩy Chu tỉnh ở trong Loa Thành. "Tẩy Chu tỉnh" chính là giếng ngọc (giếng rửa hạt châu).Như vậy Mỵ Châu hoá thân thành hạt châu, và chữ Châu ở đây còn gọi là Chu như trong câu thơ trên. Điều này hoàn toàn phù hợp với giải thích Mỵ Châu là con gái vua Chu trong Sử thuyết họ Hùng. Dùng nước giếng để rửa châu cũng ám chỉ chữ "Thuỷ" là nước trong Trọng Thuỷ. Nước giếng là hình tượng của Trọng Thuỷ, ngọc châu là Mỵ Châu. Thuỷ cũng là chỉ phương Bắc, như trong tên của Tần Thuỷ Hoàng. Câu chuyện An Dương Vương đúng là đã gói một giai đoạn lịch sử rất dài của dân Hoa Việt, từ: - Nhà Thương sang nhà Chu: An Dương Vương kế Hùng Vương. Rồi việc sứ giả Thanh Giang trao cho Thục Vương Qui Tàng Dịch (móng của Kinh Qui). - Xây dựng nhà Chu: qua việc Cao Lỗ xây thành Cổ Loa. - Nhà Chu sang nhà Tần: với chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy, hay giữa con gái vua Chu (vua Chủ Cổ Loa) và chàng rể phương Bắc. Ai đã đặt tên thành Thăng Long? Bách Việt Trùng Cửu Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì tên gọi thành Thăng Long là do Lý Công Uẩn đặt khi dời đô từ Hoa Lư về Đại La: «Mùa thu, tháng 7, vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long». Nhưng theo Thiên Nam ngữ lục, một quyển sử khác viết không lâu sau Toàn thư, thì tên gọi Thăng Long là do … Triệu Đà đặt. Triệu Đà khi tiến quân từ Quảng Đông đánh An Dương Vương đã thấy rồng xuất hiện trên sông: Binh phân chi dực hữu chi Triệu thuyền thẳng tới đỗ kề bên sông Bỗng đâu thấy rồng nổi lên Dự mừng thánh chúa lập nên cơ đồ. Khi họ Triệu diệt được An Dương Vương, xưng vua thì do đó mà đổi tên thành Thăng Long: Hiệu xưng là Triệu Vũ Hoàng Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng Long Biên thành hiệu Thăng Long Vì xưa rồng dậy dưới sông Nhị Hà. Tư liệu này nghe qua thật là quá hoang đường. Hóa ra như vậy thì tên Thăng Long đã có từ trước khi Lý Công Uẩn dời đô cả nghìn năm. Nhưng suy ngẫm thêm thì có thể sự kiện này có phần nào sự thật:- Người đặt tên thành Thăng Long không phải là Lý Thái Tổ, vị vua đầu tiên của nhà Lý. - Người đặt tên thành Thăng Long là người từ Quảng Đông, đã đánh chiếm vùng Bắc Việt và lập quốc xưng vương. Trong lịch sử Việt thì ngoài Triệu Đà chỉ còn có một người nữa từ Quảng Đông đánh chiếm Bắc Việt là … Lưu Cung, vua Nam Hán, diệt Khúc Thừa Mỹ vào thời hậu Đường. Gộp những sự kiện này lại thì có thể thấy Lưu Cung cũng chính là Lý Công Uẩn, người mở đầu nước Đại Việt gồm 3 miền Việt Đông, Việt Tây và Việt Nam... Ngoài ra còn có thể suy đoán Triệu Đà (Đào) không nhất thiết là tên riêng, mà có nghĩa là Chúa đất Đào, là vùng đất gồm 3 miền Việt ở trên. Lưu Cung xưng vương Đại Việt ở vùng này nên cũng có thể được gọi là Triệu Đà. Thiên Nam Ngữ Lục vào thế kỷ XVII, như vậy tác giả đã nghiên cứu thực địa và sử cũ bao gồm cả Đại Việt Sử Ký Toàn thư và các cuốn sử khác, những điểm đặc biệt của Thiên Nam Ngữ Lục mà tác giả Bách Việt Trùng Cửu nghiên cứu đều bổ sung thêm cho chính sử. Tuy nhiên vấn đề tên Thăng Long đã tồn tại thời Lý và nghi ngờ thời Nam Việt Vương Triệu Đà làm chúng ta có một thắc mắc về tên gọi này. Thăng Long là tên gọi của Loa Thành hay hoàng thành tại Hà Nội?. Như phân tích rõ ràng tồn tại hoàng thành này và tên gọi là??? Lúc này Long Biên ngầm hiểu là ranh giới của tòa thành có hiệu là Long____?. Ta cũng biết Loa thành có một tên gọi là Tư Long (Bạch Long - chúng ta chú ý Bạch Long Vĩ, Hạ Long) thì giải nghĩa được hoàng thành tại Hà Nội giáp sông Hồng, qua phía Đông là thành Bạch Long, như vậy lúc này hoàng thành tên gì? Cho tới Lý Nam Đế, hoàng thành là Phượng Thành, tại sao đặt tên như vậy? bởi vì tứ trấn là Tứ Thánh là nam nhân (Dương) và trung tâm phải là Âm (nữ nhân) nên lấy tên Phượng Thành. Tại sao? Hoàng thành là trung tâm quản lý quốc gia là cực âm và tên gọi và địa thế hoàng thành phải là cực dương, đấy là lý do như vậy. Sau này, Thăng Long thành còn có tên Long Phượng Thành với Tử cấm thành gọi là Phượng Thành, điện vua ngự là Kim Loan điện (Phượng là con trống còn Loan là con mái). Phượng và Loan so với Long là cực dương, Long bao gồm âm dương rồi (lưỡng long). Từ đấy thấy rằng, tác giả Thiên Nam ngữ lục cần phải quán xét thuyết âm dương ngữ hành nữa vì vị thế, tên gọi hoàng thành... người xưa lấy theo phong thủy. Tên Phượng thành cũng có ở Trung Hoa.1 like
-
Vạn Xuân Lý Nam Đế Bách Việt Trùng Cửu “Linh quốc sử từ” tại Giang Xá Làng Giang là một làng cổ nằm cạnh thị trấn Trôi của huyện Hoài Đức, Hà Nội. Làng này có điều đáng chú ý là nơi có ngôi đền thờ Lý Nam Đế gọi là Quán Giang. Theo thần tích của đền do Nguyễn Bính soạn thì Giang Xá là nơi Lý Nam Đế lớn lên (tại chùa Linh Bảo) và tế trời đất khi khởi nghĩa. Khởi nghĩa thành công, Lý Nam Đế lên ngôi Hoàng đế, lập kỷ nguyên Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân. Giang Xá cùng một số nơi khác được phong là Thang mộc ấp. Khi Lý Nam Đế rút về động Khuất Liêu, dân Giang Xá đã lập sinh từ để cúng tế về sau. Từ Lý Phật Tử lên tập vị bao năm đều có xuân thu quốc tế (do các quan trên về tế xuân). Sau này, tới thời Lê Thần Tông (1622) dân làng mới xin và được cho qui tế.Đôi câu đối ghi lại được từ Quán Giang: Bên trên vế đối thứ nhất có hai chữ “Thành Thái” cho biết thời gian sáng tác câu đối này là dưới thời Nguyễn (vua Thành Thái). Câu đối có phần vế sau chụp không rõ với những chữ Nho cổ khá hiểm hóc. Sau khi thảo luận (cảm ơn các bạn fanzung và minh2mum tại diễn đàn Viện Việt học) đã phiên âm như sau: 洪惟南越肇基貉雄吳蜀以前赫濯殾靈天德紀元初一綂 歷考帝王世祀丁趙陳黎而後焜煌彞典萬春建國閌千秋 Hồng duy Nam Việt triệu cơ, Lạc Hùng Ngô Thục dĩ tiền, hách trạc tuấn linh, Thiên Đức kỷ nguyên sơ nhất thống Lịch khảo đế vương thế tự, Đinh Triệu Trần Lê nhi hậu, hỗn hoàng di điển, Vạn Xuân kiến quốc kháng thiên thu. Câu đối này có những thông tin thật khó hiểu: - Vế đối đầu nói tới “Nam Việt” mở nền móng nhưng cùng với Lạc Hùng lại còn kể cả Ngô Thục. Ngô, Thục nào của nước Nam Việt đây? - Vế thứ hai sau khi đã tra cứu “lịch đế vương thế tự” một cách đầy đủ, thay vì kể “Triệu, Đinh, Lý, Trần” như trong Bình Ngô đại cáo, thì ở đây lại nêu một trật tự khác: “Đinh, Triệu, Trần, Lê”. Nhà Đinh nào trước nhà Triệu đây? - Cuối cùng, Lý Nam Đế theo câu đối này là triều đại mà trước đó (“dĩ tiền”) là Ngô Thục, còn sau đó (“nhi hậu”) là Đinh Triệu. Theo kiến thức lịch sử thông thường Lý Nam Đế chống giặc Lương vào thế kỷ thứ 6 thì không thể nào sắp xếp cho ổn thỏa thứ tự trong câu đối trên. Để hiểu câu đối này cần đọc từng chữ, từ đầu: - “Hồng duy”, dễ bị hiểu là “riêng xét”. Nhưng so vào câu đối, vì đối lại với chữ “lịch khảo” ở vế dưới nên chữ “duy” ở đây phải là động từ, trong từ “tư duy”, chứ không phải là “duy nhất”. “Hồng duy” nghĩa là phải tư duy cho rộng. Một câu mở đầu rất hay. Muốn hiểu lịch sử các đế vương Nam Việt xưa trước hết phải biết nghĩ cho rộng, cho sâu. - “Sơ nhất thống”, có người đọc thành “thống nhất sơ sơ”, thật buồn cười. Nghĩa ở đây phải là kỷ nguyên Thiên Đức của Lý Nam Đế đã thống nhất đất nước Nam Việt thủa sơ khai ban đầu. Vì là thời quốc sơ, thông tin chưa thực rõ ràng nên những triều đại này mới “hóa thần hóa thánh” (“tuấn linh”). Cụm từ “sơ nhất thống” cho thấy rõ khởi nghĩa của Lý Bôn đã diễn ra vào thời điểm rất sớm và đã lập được kỳ tích, thống nhất được giang sơn. Với cách “hồng duy” nghĩ rộng như vậy thì có thể lý giải được câu đối trên: - Nhà Thục thời lập quốc của Nam Việt là Thục An Dương Vương. Điều này còn ghi trong chính sử phần “ngoại kỷ” = quốc sơ. - Nhà Ngô: Ca dao Việt có câu: Vua Ngô ba sáu tấn vàng Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì. Vua Ngô hay vua phương Bắc mà giàu có mà lại chết “bất đắc kỳ tử” thì có thể có mấy vị: - Hạ Kiệt: ông này từ thời đồ đá, chắc là sẽ không có nhiều vàng như vậy. - Trụ Vương: vị vua nổi tiếng xa xỉ, chết trong ngọn lửa thiêu chính cung điện của mình. - Tần Thủy Hoàng: đại đế thống nhất Trung Hoa, chết dọc đường đi "công tác", bị bỏ chung với cá muối mà mang về. - Tùy Dạng Đế: cũng cực kỳ xa xỉ, nhưng cái chết tương đối nhẹ nhàng. Trong số trên có Ân Trụ Vương và Tần Thủy Hoàng là có thể hợp với nhà Ngô trong câu đối. Nhiều khả năng nhất là nhà Tần đã được sử Việt gọi là Ngô, là thời kỳ trước khi Thục An Dương Vương bị diệt. Một dẫn chứng khác từ Thiên Nam ngữ lục, khi nói về âm mưu của Triệu Đà: Bắc Nam hai nước thư giao Sức nào chống Thục, sức nào chống Ngô. Khi Triệu Đà còn chưa tiếp vị của Nhâm Hiêu thì rõ ràng “Ngô” ở đây là nhà Tần, “Thục” là Âu Lạc của An Dương Vương.Như vậy nghĩa của vế đầu câu đối đã sáng tỏ: thời mở nước của Nam Việt trước kia từ Lạc Hùng tới Tần Thục, tiếp là kỷ nguyên Thiên Đức đã thống nhất quốc sơ. Với sử quan "hồng duy" rộng lớn, tác giả câu đối ở đây đã coi nhà Tần cũng là một triều đại lập quốc của người Việt. - Nhà Đinh: trước nhà Triệu thì chỉ có thể là … Trưng Vương, chứ không phải Đinh Bộ Lĩnh. Hoàng Đinh là tên nước của Hai Bà Trưng. Xin xem thêm các câu liên quan. - Xác định như vậy thì nhà Triệu ở đây có thể là của Bà Triệu hoặc Triệu Quang Phục. Thông tin của vế đối thứ hai rõ ràng hơn, có thể “khảo cứu lịch các triều đại” và vẫn còn được chép trong sử sách (“di điển”). Một khoảnh khắc hiếm khi đền Giang Xá mở cửa Chỗ khó giải nhất của câu đối là Lý Nam Đế ở vào thời điểm: trước Trưng nữ vương, sau Tần Thục. Vậy khởi nghĩa Lý Nam Đế không thể gì khác chính là khởi nghĩa chống Tần của … Bái công Lưu Bang, hồi “quốc sơ” và đã thống nhất đất Việt, mở nên triều Hiếu huy hoàng, rộng lớn. Đúng là “Thiên Đức” và “Vạn Xuân”.Dịch câu đối: Rộng suy Nam Việt mở nền, Lạc Hùng Ngô Thục thủa đầu, loáng bóng trúc thần, Thiên Đức kỷ nguyên ban sơ thống nhất. Xét lịch Đế Vương thứ tự, Đinh Triệu Trần Lê sau đó, chói vàng sách miếu, Vạn Xuân dựng nước sừng sững ngàn thu. Trống hội Vạn Xuân ở Giang Xá Chữ “hồng duy” vẫn còn. Lời nhắc nhở của người xưa, muốn biết sử cũ không thể hạn chế tư duy, tầm nhìn của mình. Mở mắt mới thấy sử Việt bao la. Cái ước muốn đất nước “vạn xuân” của Lý Bôn – Lưu Bang có được vững vàng hay không cũng từ nhận thức “hồng duy” này.Long Hưng, Long Châu Bách Việt Trùng Cửu Đình làng Xuân Quan cũng là đền thờ Triệu Vũ Đế, có tên là Long Hưng Điện, nằm ở xã Xuân Quan, Hưng Yên, sát với làng Bát Tràng Hà Nội, cạnh bờ sông Hồng. Sách Từ điển di tích văn hóa Việt Nam dựa vào các tư liệu cũ (Bắc Ninh tự miếu bi văn, Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí, Bắc Thành địa dư chí lục, Đại Nam nhất thống chí) chép sự tích đền như sau:“Triệu Đà người huyện Chân Định, đầu thời Tần làm quan lệnh Long Châu, sau làm Nam Hải úy. Đến đời Hán được phong làm Nam Việt Vương. Triệu Đà cho con cầu hôn nhà Thục để lấy bí mật nỏ thần, nhân đó diệt nhà Thục lập ra nhà Triệu. Tương truyền Triệu Đà đi tuần phương nam qua xã Nam Quan thấy có rồng vàng hiện ra, cho là đất lành bèn dựng hành cung, gọi là điện Long Hưng. Về sau dân dựng đền thờ trên nền điện cũ.” Đọc thần tích trên ta chợt liên hệ với thông tin trong Thiên Nam ngữ lục: Hiệu xưng là Triệu Vũ Hoàng Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng Long Biên thành hiệu Thăng Long Vì xưa rồng dậy dưới sông Nhị Hà. Có thể thấy khả năng tên thành Thăng Long là do Triệu Đà đã đặt cho vùng đất quanh Hà Nội ngày nay, với trung tâm ở khu vực ven sông Hồng thuộc Gia Lâm – Văn Giang. Tại đây hiện vẫn còn xã Long Hưng của huyện Văn Giang, trùng tên với hành cung xưa của Triệu Vũ Đế. Khi so sánh 2 tư liệu trên có thể thấy Long Hưng là tên gọi tương ứng với Thăng Long. Đây cũng là giải thích tại sao lại có sự lẫn lộn về truyền thuyết đặt tên thành Thăng Long giữa Triệu Đà và Lý Công Uẩn. Cả 2 vị vua đều xuất phát từ Phiên Ngung – Quảng Đông, tiến đánh lấy Giao Chỉ. Và quan trọng hơn, Lý Công Uẩn (Lưu Cung) là một “Long Hưng”, hay Lang Hưng, là vua của nước Đại Hưng như tên nước ghi trên đồng tiền Đại Hưng bình bảo hay trong Thiên Nam ngữ lục: “Thùy y củng thủ cửu trùng Cải nguyên Hưng quốc đề phong trong ngoài” Cũng trong thần tích trên cho biết Triệu Đà ban đầu là quan lệnh huyện Long Châu. Long Châu chứ không phải Long Xuyên như chính sử hiện nay đang chép. Một số tư liệu khác cũng ghi như vậy. Sách Thất tộc thổ ty ở Lạng Sơn, tác giả Lã Văn Lô có phần về gia phả họ Vi, liên quan tới Triệu Đà:“Xét gia phả họ Vi, nguyên tổ tiên là họ Hàn tên là Nhân, dòng dõi của Hoài Âm hầu Hàn Tín. Lã Hậu nghi Hàn Tín mật thông với Trần Hy làm phản, nên cùng lập mưu với Tiêu Hà diệt trừ Hàn Tín (Khoảng năm 110 trước CN ). Lúc bấy giờ một người thiếp của Hàn Tín có thai, Tiêu Hà mật gửi cho Triệu úy Đà ở Lĩnh Nam nhận nuôi. Đà làm Long châu lệnh (Long châu nguyên là đất Việt ta, thời Tần Vua sai Triệu Đà theo Nhâm Thao sang chia cai trị , đất ấy đến bây giờ thuộc Hán), nuôi nhận (tức là con người thiếp của Hàn Tín) rất chu đáo. Khi Nhân trưởng thành, giúp Đà làm việc, Đà chia đất cho từ Thượng Thạch trở đi, lấy phía Đông làm giới hạn. Đà sai Nhân bỏ nửa chữ Hàn đi trở thành họ Vi từ đó (để tránh chu di Tam tộc). Từ khi Nhân ở đất Long châu, từ Thượng Thạch về phía Đông, Cổ Lân, Tư lãng về phía Bắc đều giao cho Nhân quản trị. Đến lúc họ Triệu suy, Nhân chiếm ức đất Long châu, sai con thứ chín là VI TIẾT NGHIÊM, giúp cai trị. Sau Nghiêm kiêu ngạo làm bậy bị Hồ giết chết (Hồ là cháu Triệu Đà, con Trọng Thủy lấy Mỵ nương nước Việt sinh ra). Họ hàng con cháu lánh nạn về đất Nhật Nam, trở thành một dòng họ quý tộc ở đất này.” (Nguồn Diễn đàn lý học phương đông) Triệu Đà theo như tất cả những sự kiện ghi lại rõ ràng là một viên quan lớn, có quan hệ trực tiếp với các đại thần triều đình của Lưu Bang (Tiêu Hà, Hàn Tín). Vì thế ông ta không thể là một huyện lệnh nhỏ nhoi mà phải là quan úy đất Long Châu. Long Châu là một quận lớn, nơi Hàn Nhân, con của Hoài Âm hầu Hàn Tín, còn được Triệu Đà chia đất mà cai trị. Các tư liệu trên đều nhấn mạnh đất Long Châu của Triệu Đà thuộc đất Việt xưa. Long Châu ngày nay là tên một huyện của Quảng Tây, nằm giáp với Cao Bằng và Lạng Sơn của Việt Nam. Với chuỗi liên hệ Long Châu - Long Xuyên - Long Xoang - Long Choang, rất có khả năng Long Châu xưa là cả vùng Quảng Tây, vùng đất của người Choang. Thêm nữa, nếu Quí Châu hay Kỳ Chu chỉ đất gốc của nhà Tây Châu thì Long Châu có thể chính là đất của Đông Châu xưa, là quận Tam Xuyên thời Tần như Tư Mã Thiên đã chép. Vết tích của 2 nhà Châu rất rõ ràng ở vùng Tây Nam Trung Hoa này. Truyện Mộc tinh trong Lĩnh Nam chích quái chép về thần Xương Cuồng: “… biên giới tây nam giáp liền với nước Mi Hầu, vua Hùng Vương sai dân man Bà Lô (nay là phủ Diễn Châu) hàng năm bắt giống người lão tử sống ở khe núi tới tiến, không thể thay đổi được lệ ấy. Kíp tới khi Tần Thủy Hoàng bổ Nhâm Hiêu làm quan lệnh ở Long Xuyên, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu, vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn thận.” Truyện này một lần nữa khẳng định Long Xuyên nằm trên đất Việt cổ, nơi mà thần Xương Cuồng của nước Việt có thể “vật chết” Nhâm Hiêu. Điều lạ nữa là truyện trên nói Nhâm Hiêu, chứ không phải Triệu Đà, là quan ở Long Xuyên. Liệu Nhâm Hiêu và Triệu Đà có phải là một không? Một liên hệ khác: Triệu Đà -> Triệu Đầu (trong từ “đầu đà”?) -> Triệu Một -> Triệu Mạt (tên trên lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Đông). Triệu Đà như vậy có thể là danh xưng của vị vua đầu tiên của triều Nam Việt. Tượng Triệu Vũ Đế ở điện Long Hưng Lịch sử về Triệu Vũ Đế có thể nhìn nhận lại như sau. Nhâm Hiêu là quan úy của quận Long Châu hay quận Tam Xuyên, là đất của nhà Đông Châu (gồm Quảng Tây, Giao Chỉ) dưới thời Tây Hán. Sau khi Lữ Hậu mất đã chiếm thêm quận Nam Hải và một số quận khác ở Hoa Nam, lập nước Nam Việt, xưng là Triệu Đà hay Triệu Đầu, Triệu Mạt. Cũng chính Triệu Vũ Đế là người đã đặt tên Thăng Long / Long Hưng cho vùng đất ven sông Hồng Hà Nội cách đây trên 2000 năm.1 like
-
Thầncung Bảokiếm Thần thoại Chuang (Trích dịch từ quyển Trang Tộc Dân gian Cố sự Tuyển, do Thượng hải Văn nghệ Xuất bản xã ấn hành, Thượn ghải, 1984. Trang 131 – 138) Ngườidịch: dchph Thờixưa, Vua Namviệt Triệu Đà được Hoàngđế Trunghoa gởitặng cho một thanh bảokiếm, bèn dùng châubáu ngọcngà chạm lên trên và còn khắc bốn chữ “Hoà Tập Bách Việt”, đêm đến thanhkiếm phátquang chóiloà, đúnglà một bảovật. Nhàvua lại mang thanh bảokiếm nầy gởitặng lại Nước Tây Ấu, vua nước Tây Ấu lại sai hoàngtử mang đến tặng cho Nước Lạc Việt. Mụcđích của họ là mongmuốn có sự giaohảo thânthiện vớinhau để giữvững dâulài nền hoàbình đangcó. Hoàngtử nước Tây Ấu mang thanh bảokiếm đến nước Lạc Việt. Tới ngày khi chàng đã đến bênbờ tường kinhthành nước Lạc Việt thì chàng nghethấy tiếng cuờinói huyênnáo vọngra từ nộithành. Vị hoàngtử bèn leo ngồi lêntrên bờtường quansát thì thấy vị côngchúa của Vua Lạc Việt đang luyện bắncung, bắnđâutrúngđó nên đã gâynên tiếng reohò vangdậy. Trong những năm gầnđây nước Lạc Việt gặpnạn bị một thuỷquái quấyphá, làm nước biển nhiềukhi vôcớ tràndâng ngậplụt, cuốntrôi vôsố nhàcửa hoamàu và giasúc, dânchúng mấtcửamấtnhà, lytán khổsở. Vua Lạc Việt chẳng biết làmsao nên mời thầypháp lại làmbùalàmphép. Con thuỷquái bỗng từ dưới nước phónglên nói rằng trừphi Vua Lạc Việt gã côngchúa cho nó nếukhông thì nó sẽ dấybinh tiêudiệt nước Lạc Việt. Vua Lạc Việt không biết phải làm cáchnào đành phải hứa gã côngchúa cho nó, nhưng ngài lại yêucầu con thuỷquái phải đíchthân đến cungđình cầuhôn. Nhưng đến ngày con thuỷquái tới cungđình cầuhôn mọingười ainấy đều thấy con yêutinh hiện nguyênhình: đầurắn, thấplùn, lưng mang vỏ rùa. Nàng côngchúa trôngthấy, lòng ngậptràn oánhận, không một chút dodự rút kiếm ra chém “phựt” một cái bay đứt cổ con yêutinh và nó ngã lănr a chết. Ngườita đồnđại là con yêuquái nầy có nanhvuốt rất linh, nếu nanhvuốt nầy vẫncòn, chẳngbaolâu thì con yêuquái nầy sẽ hồisinh trởlại nguyênhình. Dođó, côngchúa bèn chặtđứt bốn chân con yêu ra, thẻo nanhvuốt nầy ra, dùnglàm bánsúng cho cái nỏ. Từđóvềsau, tàinghệ thiệnxạ của nàng côngchúa ngàycàng khởisắc, bắn đâu trúng đấy. Nhờthế tiếngvang lankhắp mọinơi, aiai cũng đều biết nàng côngchúa có một cây nỏthần, và rất nhiều bộlạc lớnnhỏ khắpnơi về quyphục nước Lạc Việt. Chính cũng vìthế, côngchúa lạ càng trởnên kiêuhãnh, mỗilần nàng tậpluyện bắn cung, chỉ cho ngườixem hoanhô khen chứ không cho phêphán ồnào. Hômđó, khi nàng đang luyện bắn cungtên trong vườn thànhnội, cái đích một cành liễu cột lũnglẵng một xâu lá trầu, và nàng nhấtquyết sẽ bắn trúng cành liễu và sẽ làm cái xâu lá trầu rơi xuống đất. Hoàngtử nước Tây Ấu đang ngồi trên bờtường đang ngắmnhìn nàng côngchúa bắnnỏ. Chàng chỉ thoáng thấy nàng côngchúa giơ câynỏ lên, kéo dâycung rồi bungra, mũitên phóngvụt đến cành liễu, đường tên bay khônghề bị xêdịch đâm phụp đúng vào cành liễu có treo xâu lá trầu. Hoàngtử bấtgiác vỗtay hoanhô ầmĩ. Chính vìthế làm nàng côngchúa nổigiận lên tựhỏi không biết ai chophép người nầy nhìntrộm nàng bắnnỏ? Togan thật! Nàng một tay vừa cài tên giương nỏ, mắt vừa quayqua liếcnhìn về phía bờtường thì trôngthấy một chàngtrai ngồi đó đang giương đôimắt nhìnngắm nàng. Côngchúa giận quá, nàng buông dâycung, mũitên liền bậtra hướngvề tầm ngực của chàngtrai phóngvụt đến. Chỉ trong chớpnhoáng, chỉ thấy chàngtrai ungdung rút thanhkiếm ra chờ mũitên baytới rồi gạtngang một cái, mũitên chợt trông giống như một chú chim xìu cánh rơirụng ngay xuống đất. Nàng côngchúa liền giương nỏ bắn liền ba phát, chàng hoàngtử đều vung kiếm gạt phắt hết ba mũitên. Nàng côngchúa cảmthấy kỳlạ, nhậnra thanhkiếm của hoàngtử có thầnlực, bèn kêu chàngtrai mang đến nàng xem nhưng chàng trùtrừ không lại. Côngchúa hỏi chàngtrai từđâuđến? Tới kinthành để làmgì? Chàngtrai trảlời chobiết mình là hoàngtử nước Tây Ấu, đến kinhđô nước Lạc Việt là để giaohảo đôibên. Chàng yêucầu côngchúa dẫn chàng đi gặp Vua Lạc Việt. Côngchúa nghĩthầm nếu để hoàngtử mang bảokiếm vào gặp phụvương rũi chàngta rút kiếm ra chém vuacha thì chắc nước chết, nàng liền đưara hai điềukiện: mộtlà chàng hoàngtử khôngđược mang thanhkiếm trênngười đến diệnkiến nhàvua, chàng phải trao thanhkiếm cho nàng giữ; hailà nếu chàng nhấtđịnh phải đeo kiếm thì chàng phải chịu bị tróicột lại mới được gặp vuacha. Chàng Hoàngtử đồngý chịu để cho nàng tróilại, khôngchịu để kiếm rời thân. Thếlà hoàngtử chịu tróilại để điđến gặp Vua Lạc Việt. Khi gặp nhàvua, hoàngtử bèn dângtặng vị vua nầy thanhkiếm có khắc bốn chữ “Hoà Tập Bách Việt”, nói là chàng thaymặt cho phụvương đến giaohảo hoàbình với Vua Lạc Việt. Vua Lạc Việt thấy hoàngtử khôingôtuấntú, phẩmđức đều tốt, cóý muốn nhận chàng làm phòmã, nhưng lại engại côngchúa lại khôngchịu nên nhavua bèn hỏi ýkiến cô côngchúa. Thựcra trong thâmtâm nàng côngchúa đã sinhra lòng áimộ, nhậnthấy việc hoàngtử chịu trói đểđược diệnkiến vuacha chứ khôngchịu traogửi thanhkiếm cho nàng giữ là hànhvi bấtkhuất anhhào. Nghethấy vuacha hỏi ýkiến mình, nàng bấtchợt khôngkhỏi thẹn ửng máđào, nàng nói: – Tuỳý phụvương địnhđoạt! Saukhi hoàngtử cùng côngchúa kếthôn, haingười thươngyêu nhau thắmthiết, như trâu với cau. Chẳngbaolâu sau, hoàngtử nhậnđược tin Vua Tây Ấu lâm trọngbịnh, chàng bèn từbiệt Vua Lạc Việt và côngchúa để vềnước thăm vuacha. Nàng côngchúa sợ đườngxá xaxôi trắctrở, nàng bèn lấy thanhkiếm “Bảo Tập Bách Việt” traocho hoàngtử đeo vào người. Hai người quyếnluyến không nở rời nhau. Saukhi hoàngtử vềnước rồi, côngchúa cảmthấy cungthất lạnhlẽo làmsao, tronglòng trởnên sầumuộn, nàng đâmra biếnglười luyệnvõ, cungnỏ cũng khôngbuồn rớtới. Cólúc nàng chợt tưởng có bóngdáng hoàngtử thấpthoáng ngoàisân, nhưngsao nàng đợi mãi mà chẳng thấy chàng đẩy cửa bướcvào. Nàng ra mở tung song cửasổ, nhưng nàng chỉ thấy một chú quạ kêu “yaya” rồi baymất. Vào một buổisáng nọ, khi côngchúa mớivừa mở cửa phòng độtnhiên trôngthấy một người xông vào phòng. Nhìn kỷ lại thìra là hoàngtử. Côngchúa rấtlà vuimừng, chẳng kịp hỏi chàng từđâu về là đã đưa chàng vào phòng. Cái anhchàng hoàngtử nầy mới bướcvào phòng là lậptức đưamắt ngó ngay về hướng nơi có treo chiếcnỏthần, mắt ngó láoliên. Côngchúa cảmthấy kỳquặc liền nói: – Mớicó đixa mấy ngày, bộ chàng không nhậnra chỗ ở nữa à? Chàng hoàngử nói: – Sao trên kia lắm bụibặm vậy? Côngchúa nói: – Từ ngày chàng vềnước đếngiờ, thiếp côđơn mộtmình, nào còn tâmtrí gì đâu để tậpluyện bắn cung? Hoàngtử lấyngay cungnỏ xuống. Côngchúa nhậnthấy cửchỉ này cóđiều dịthường liền chạytới ngăncản. Hoàngtử nói: – Uydanh của côngchúa dựa hết vào chiếcnỏthần nầy. Giảnhư không có chiếnỏ nầy, mình nghĩ là uydanh của nàng không lừnglẫy như bâygiờ. Dođó mình yêu chiếcnỏ nầy chính là vì yêu côngchúa đấy! Vừa nói chàng vừa giươngcung bắntên ra ngoài khungcửasổ, nhưng chỉ thấy khi mũitên vừa lìa rakhỏi nỏ là bay trệchhướng đi, bay chẳngbaoxa là rơirớt ngay xuống đất. Côngchúa nói: – Chiếcnỏ nầy nhờcó chiếcmóng của con yêuquái dùng làm cò, không có nó là bắn không trúngđích đâu. Vợchồng ănở vớinhau bấylâunay, bộ chàng không còn nhớ việc nầy nữa chăng? Hoàngtử nói: – Đâuphải quên, tại côngchúa quên đưacho mình cáimáong của yêutinh. Xin côngchúa lấyra cho mình xem nào, sẵntiện luyệntập bắptay mộtchút xemnào! Côngchúa tưởngthật bèn thò trongngười lấy chiếcmóng yêutinh ra traocho hoàngtử, cùnglúc nàng chợt nhậnra hoàngtử không đao thanhbảokiểm trên người, nàng liền hỏi: – Hoàngtử, sao chàng không mang thanhbảokiếm vềlại? Chàng hoàngtử nầy chợtnhiên cuốngquýt lên, nói: – Tại mình nhớ côngchúa quá, mộtmình lén phụvương trởvề đây. Bâygiờ để mình quayvề lại lấy thanhkiếm. Vừa nói xong, tay cầm chiếcnỏthần và chiếcmóng yêutinh ngãnhào xuống đất, độtnhiên hoàngtử biếnthành conquạ kêu “yaya” rồi baymất. Tin nầy truyền tới tai vua Lạcviệt, ngài liền cho triệutập quầnthần lại thươngnghị. Quầnthần đều chorằng đây là vận xấu của vua nước Tâyâu, làmmất chiếcnỏthần, chắcchắn thếnào cũng mang quân chinhphạt n� �ớc Lạcviệt, thếthủ chibằng thếcông, hãy cho dấybinh tấncông nước Tâyâu trước. Lúc bấygiờ, vua Tâyâu mới vừa mất, cảnước mới cửhành đámtáng, hoàngtử nước nầy còn đểtang, nghenói vua nước Lạcviệt dấyquân sang đánh, cảmthấy mình khólòng ứngchiến, bèn tínhchuyện đơnthânđộcmã đi hộikiến vua nước Lạcviệt để hỏira cho rõ ngọnngành. Dođó hoàngtử không thay áogiáp, đeo trên mình thanhbảokiếm “Hoà Tập Bách Việt”, phóngmình lênngựa phimã chạyra biênải. Khi hoàngtử đến nơi biênải thì chaoơi! Binhmã của vua Lạcviệt đã bốtrí trànđầy khắpnơi đennghịt dàyđặc. Mặt sôngnước nơi binhlính họ lội qua, sủibọt đenngòm, tômcá chết nổi lềnhbềnh khắpnơi. Binhlính trànqua rừngnúi đá là mọithứ như đều đỗngã hết xuống, cỏcây điêutàn. Mộtmình hoàngtử thì làmsao chốngcự lại đước muônvạn binhmã nước Lạcviệt, đànhphải nhắm ngay doanhtrại vàng tolớn, chàng đoán đó là nơi vua Lạcviệt haylà côngchúa trú nghỉ. Chàng hoàngtử nầy xemra cũng rất lợihại, thân mộtmìnhmộtngựa, xông tới hàngrào doanhtrại, làm đỗgãy sụpnát hết dãy hàngrào. Vua Lạcviệt đang ngồi trên mình ngựa trôngthấy binhmã của mình hỗnloạn, bèn hạlệnh cho hằngngàn cungthủ giương cungtên nhắm về phía hoàngtử mà bắn. Hoàngtử mình đeo thanhbảokiếm, chỉ thoángthấy chàng rútra hoa kiếm là hằngngàn mũitên rơirụng như mưa, thânmình chàng thì chẳng chút hềhấn gì. Vua Lạcviệt trôngthấy đâmra hoảngkinh, mắng côngchúa: – Xem thằngchồng phụbạc của mầy kia, nếu mầy không giếtchết nó, đừng có về đây nữa gặp tao. Nàng côngchúa vừa xấuhổ vừa tứcgiận, vộivã cầm thương lênngựa, nhắm ngực hoàngtử đâmtới. Hoàngtử vộivả néđôngtránhtây, mấy lần lấy kiếm hất mũigiáo của côngchúa ra, chàng nói: – Côngchúa saolại phẩnnộ thếnầy? Bỗngnhiên mangquân xâmlấn bờcõi, nay còn chínhtay mình muốn giếtchết chồng? Côngchúa nói: – Nhàngươi còn dám nói! Phụvương có làm điềugì saitrái đốivới ngươi? Ta đây có làm gì quấy đốivới nhà ngươi đâu mà nhàngươi đánhcắp chiếcnỏthần quốcbảo, lạicòn chuẩnbị dấybinh xâmlấn nước ta. Cái conngười vôtâmbộibạc như nhàngươi không giếtchết chorồi thì lấy gì để tạlỗi nướcnhà của ta đây, hả? Hoàngtử nghe côngchúa nói vậy bèn cảmthấy chưnghửng ra không biết biệnbạch đốiđáp thếnào. Nàng côngchúa tưởng hoàngtử nhìnnhận chuyện nầy, liền thừacơ phóng giáo đâm tới, ngờđâu trên thânmình hoàngtử nhờcó đeo thanhbảokiếm “Hoà Tập Bách Việt”, thanhkiếm nầy tựđộng hoágiải mọithứ cứu hoàngtử khỏi trúng thương. Kẻnkẻn hai tiếng, ngọn giáo của côngchúa bị cảnlại và còn làm ngọngiáo gãy rụng đứtlìa. Hoàngtử phóng người nhảy xuống ngựa, quỳ ngay trướcmặt côngchúa, hai tay nâng thanhbảokiếm “Hoà Tập Bách Việt”, khóclóc mà nói: – Nghĩ đến tìnhnghĩaphuthê bấylâunay, không làm điềugì saitrái cả. Chẳngqua thụthân lâm trọngbịnh đànhphải quayvề nước, định thânphụ hếtbệnh là trởvề đoàntụ với côngchúa, nàongờđâu thânphụ bănghà. Giờđây cảnước đểtang, rôi lại thấy nước của nàng dấybinh sang đánh, mình đây vì sinhlinh bátánh, liềumình một thân một ngựa ra lâmtrận. Nàng nếu quả muốn giết mình thì rất dễ thôi, chỉ tiếc là nàng bị trúngmưu kẻ gian. Làmgì có chuyện đánhcắp nỏthần? Giờđây để chứngtỏ tấmlòng của mình, xin dâng thanhbảokiếm nầy, nàng muốn giết mình thì cứ xuốngtay!” Nói xong, hoàngtử hai tay nâng thanh kiếm lên. Côngchúa tiếpnhận thanhkiếm, nhớlại cảnhtượng hoàngtử mưumô đánhcắp chiếc nỏthần, quảthục nàng cảmthấy cửchỉ của kẻ đó với vị hoàngtử nầy không giốngnhau, nhưng côngchúa lại esợ để tìnhcảm lấnáp lại bị mắcmưu thêm lần nữa. Đangtronglúc côngchúa còn trùtrừdodự bấtquyết, vị vua Lạcviệt đúng lúc ấy đang ở đằngsau nổitrậilôiđình, ngài ralệnh: – Tấtcả nghe đây, ta hôlên đến tiếng thứ ba nếu mà côngchúa vẫn chưa chịu xuốngtay giếtchết thằngchóchết đó, cónghĩalà côngchúa vẫncòn bị nó mêhoặc, quânbay cứ xảtên bắnchết cảhai đứanó cho ta. Nếumà ta hô đến tiếng thứ hai mà côngchúa giếtchết thằng giặc đó rồi thì chúngbay hãy thuhồi cungtên lại, quânbay có nghe chưa? Lệnh vua đã banxuống, quânsĩ cảđoàn baovây vịhoàngtử và nàng côngchúa lại, giươngcung nhắm haingười, chuẩnbị buôngcung. Hoàngtử nói: – Côngchúa, xin hãy giết mình đi! Nàng khỏi bị vạ lây. Côngchúa suyngẫm lại, chơt tỉnhngộ biết rằng người đoạt chiếc nỏthần trướcđây là do yêutinh giảdạng, nhưng khi phụphân nàng không cho cơhội giảithích tựsự, biếtlàmsaođây? Côngchúa chẳng biết tínhsao, nàng bậtkhóc tứctưởi. Ngườita chỉ nghe vua Lạcviệt hôlên “một, hai”, khi chưa đếm đến ba thì vị hoàngtử longại mình và nàng côngchúa sẽ cùng chịuchungsốphận bị nátthây dưới làn tên, bèn đua lưỡiliếm kề lên cổ cứa ngang, ngãlănra cheat. Côngchúa trôngthấy vộivả nhảy xuống ngựa, ômlấy thithể hoàngtử vào lòng, nằngphục trên người chàng khóc nứcnở. Tườngsĩ nhìnthấy cảnhtượng, taychânbủnrủn, buôngrời cungtên, chodù vua Lạcviệt đã hô đến tiếng thứ ba nhưng chẳng có ai bắn ra mũitên nào cả. Vua Lạcviệt cảgiận, đang định nổitrậnlôiđình với đám tướngsĩ cảilệnh của ngài, độtnhiên hétlên một tiếng “Áichà”, rồi đưatay ômlấy ngực. Các tướngsĩ vộivàng chạy đến đỡ, chỉ thấy một mũitên đâm thẳng từ sau lưng ngài xuyênthấu ra trước ngực. Đám tướngsĩ quayđầulại nhìn thì nhìnthấy nguyên con yêutinh tay mang nỏthần dươngdươngtựđắc đứng từ phía bênkia đầunúi cười vang: – Nỏthần đang ở trong tay ta đây! Nói xong chỉ thấy con yêuquái nhảylên, biếnthành một con quạđen, nhắmhướng côngchúa baytới, xàxuống đất xà một vòng đứng hiệnnguyênhình đầu rắn, đuôi thỏ, ngườingợm thấplùn, đeo khiênggiáp đen. Nó nói: – Côngchúa, ta và ngàng có duyênnợ vớinhau, hãy thànhhôn với ta đithôi! Nóixong nó bướclại níu người côngchúa. Nàngcp6ngchúa cựckỳ phẫnnộ, quayđầulại tátcho nó một bạttai làm mặtmũi thầntrí con yêutinh chángváng lạngquạng đứng không vững. Nó bèn xoayngười một vòng phóng đứng lêntrên một ngọnđồi, nói: – Côngchúa hãy ngheđây, hồitrướcđây ta biếnthành hoàngtử đến cungviện của nàng, sởdĩ ta không dám đến gần nàng bờilẽ ta chưa lấylạiđược cái móngvuốt của ta, naythì cái móngvuốt nầy đã trỡvề tay ta, giờđây thânthể ta là mìnhđồngdathép, lạithêm có chiếc nỏthần trênngười, ta cóthể cướpmạngngười nàng bấtcứlúcnào. Nay ta ra hạnđịnh b ắt nàng làm vợ ta, nếukhông ta sẽ dùng nỏthần bắnchết nàng là xongđời nàng ngay đây! Nàng côngchúa phẫnnộ nhìn gã yêutinh nhưng không nói gì. Con yêutinh kia bỗngnhiên cuộntròn mình dướiđất, rồi biếnthành vócdáng chàng hoàngtử rồi tiếnlại phía nàng, vênhmặt cười rồi nói: – Côngchúa, nếu nàng thích vócdáng chàng hoàngtử, thìđây ta sẽ biếnthành conngười đó vĩnhviễn cho nàng, mình hãy lấynhau cho rồi. Nàng côngchúa độtnhiên nhớlại là chàng hòngtử đã trao cho nàng thanhbảokiềm “Hoàtập Báchviệt”, nàng cóthể dùng để ngăncản cungtên, bèn nâng thanhkiếm chém vụt con yêuquái. Con yêutinh rất lanhlợi, vừa thoáng thấy thầnsắc của côngchúa và vừa cảmthấy một luồng khí lạnh vụt tới, liền rụtđầu lại, nhàolăn xuốngđất biếnthành con quạđen bayvù đến ngọnđồi đằngkia. Nó đứng trên ngọnđồi kia lớntiếng nói: – Nếu nàng không nghelời, ta bắn nỏthần đây! Côngchúa huơ thanhbảokiếm, phithân nhảylên ngựa, phóng vềphía gã yêutinh. Con yêuquái trôngthấy, liền giương nỏ bắn tên, nàongờ khi mũitên khi bay gầnđến người côngchúa liền bị nàng dùng kiếm gạtphăng đi rơi xuống đất. Ba lần nhưvậy thì nàng côngchúa đã tiếntới trước gã yêutinh. Con yêuquái mình đốiđịch khônglại bèn phóngchạy xuống biển. Khi nó chạy tới bên bờbiển, quayđầu lại nhìn nàng côngchúa đang đuổitheo, nói: – Haythay côngchúa, cảmơn nàng đã tiển ta đến tận bờbiển, ta vẫn cứ nói với nàng là: nếu nàng không chịu làm vợ ta, thì ta sẽ làm dâng nước biển ngậplụt nước của nàng, tớikhiấy, nàng mới biết được sự lợihại của ta! Con yêutinh nói xong liền phóngngười xuống biển. Nàng côngchúa esợ không đuổitheosát kịp, lậptức phóngvụt thanhkiếm về phía nó. Chỉ nghe phập một tiếng, đầu con yêuquái liền bị thanhkiếm chémđứt. Nàng côngchúa sợ con yêuquái lại hoànhình quấyphá, nên đã làm thì cho đếnnơiđếnchốn, nàng bèn phânthây con yêutinh thành đốngthịt vụn, mang vunvãi khắp đồinúi không để cho nó còn cơmay hiện nguyênhình. Côngchúa giếtchết con yêuquái xong, cầm thanhkiếm lặngnhìn rồi bậtkhóc nứcnở. Nàng cứ khóc mãi khôngngừng, những hạtlệ biếnthành xâuchuỗi trânchân rơixuống biểncả được những contrai nhặt và ngậm vào hàm. Máuhuyết của chàng hoàngtử đỗrơi trên mãnhđất Lạcviệt, bỡilẽ nó còn tinhkhiết chonên hoáthành dòngsuối thanhtuyền. Chođếngnàynay, khi ngưdân bắtđược contrai cạyra là tìmthấy châungọc gọilà ngọctrai, và họ nhấtđịnh phải mang những viênngọc này đến dòngsuối thanhtuyền rữasạch. Ngườita truyềntụng rằng ngọctrai nếu được rữasạch với dòngsuối nầy thì viênngọc sẽ sánglónglánh không một thứ nước nào cóthể sánhbằng. dchph dịch Địaphận lưutruyền truyềnthuyết nầy: vùng Kimlong, Huyện Longchâu, Tỉnh Quảngtây, Trunghoa Người kểtruyện: Nôngdân bôlão Người ghichép và hiệuđính lại: Lam Hồng-Ấn Trống đồng Cổ Loa – Minh văn và một cách hiểu mới (Tamnhin.net) - Năm 1982, trong khi làm vườn, một nông dân đã phát hiện trên cánh đồng Mả Tre (Cổ Loa) một chiếc trống đồng Đông Sơn trong tư thế nằm ngửa. Bên trong chật ních các đồ đồng khác với số lượng chủ yếu là lưỡi một loại vũ khí chém bổ có hình như những lưỡi cày hình cánh sen. Đây là một trống đồng thuộc loại quý hiếm của văn hóa Đông Sơn, bởi vì nó có kích thước lớn và hoa văn trang trí trên mặt, trên thân cầu kỳ cùng kiểu như trống đồng Ngọc Lũ. Điều mà tôi muốn được giới thiệu trong bài này là những dòng minh văn (chữ khắc) hiếm hoi tìm thấy ở mặt trong vành chân đế của chiếc trống này. Ngay sau khi phát hiện, năm 1982, một hội thảo khoa học lớn đã được Sở Văn hóa Hà Nội tổ chức nhằm đánh giá và tôn vinh hiện vật này cũng như giá trị của tòa thành Cổ Loa lịch sử. Tại Hội thảo đó, dòng minh văn đã được nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên, phải đến hơn 10 năm sau mới có những cố gắng lý giải đầu tiên về minh văn đó. Thoạt đầu là cố gắng của học giả Nguyễn Duy Hinh phối hợp với một nhà khoa học ở Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc (Nguyễn Duy Hinh, 1995). Sau đó là công bố của Trịnh Sinh (2006) cũng như của chính tác giả bài viết này (2007). Tựu chung lại đều khá thống nhất ở nhận định rằng minh văn ghi chép về trọng lượng và sức chứa của trống. Đáng chú ý nhất là nhận định của một số nhà khoa học (Diệp Đình Hoa, Trịnh Sinh và Nguyễn Việt) về hai chữ ở chính giữa dòng minh văn, được cho là chữ “Tây Vu” – tên bộ tộc lớn nhất sau trở thành tên một huyện lớn dưới thời Tây Hán. Tây Vu là cách ghi biến âm của Tây Âu, nhóm tộc người mà tương truyền Thục Phán làm thủ lĩnh đã liên kết với Lạc Việt - Văn Lang của các vua Hùng thành nhà nước Âu Lạc ở cuối thế kỷ 3 trước Công nguyên. Việc phát hiện trống “Tây Vu” trong thành Cổ Loa của An Dương Vương Thục Phán chứa đầy vũ khí và đồ đồng Đông Sơn của những người Tây Âu – Lạc Việt cũng là rất logic. Tuy nhiên, gần đây xuất hiện một cách đọc khác về dòng minh văn đó, kết quả nghiên cứu công phu của một chuyên gia minh văn người Nhật tên là Ba Hyu (Mã Hỗ). Ông đã cùng PGS Trịnh Sinh trực tiếp tẩy rửa và in dập lại dòng minh văn từ bản gốc chiếc trống Cổ Loa. Trong một công bố bằng tiếng Nhật gần đây nhất trên tạp chí “Cổ đại văn hóa” (tháng 6-2011), ông đã đọc dòng minh văn này như sau : “ VIỆT TẬP (tứ thập) BÁT CỔ, TRỌNG LƯỠNG CÁ BÁCH BÁT THẬP NHẤT CÂN” Dịch nghĩa : Chiếc trống đồng thứ 48 của Việt tộc, nặng hai trăm tám mươi mốt cân. Việc so sánh 281 cân ( một cân thời Tần Hán nặng 256,25gr) với trọng lượng thực 72kg của trống Cổ Loa là khá hợp lý. Và như vậy không có chữ “Tây Vu” mà thay vào đó là chữ “Lưỡng Cá” có tự dạng khá gần nhau. Tác giả đã có ít nhiều cơ sở minh văn đương thời để ghi nhận cách đọc 281 cân là “lưỡng cá bách bát thập nhất cân”. Tuy nhiên, điều bất ngờ là Ba Hyu đã đọc chữ đầu tiên là chữ Việt và chữ thứ tư là chữ “Cổ” – tức trống đồng. Quả thực trong cách đọc trước đây của Trịnh Sinh cũng như của chính tác giả bài viết này cũng còn chưa hợp lý ở đơn vị đo lường. Việc giải được cấu trúc “Lưỡng cá bách bát thập nhất cân” bằng 281 cân tương đương 72kg chứ không phải là “Lưỡng thiên bách bát thập nhất cân” (2181 cân) theo tôi có thể chấp nhận được. Tuy vậy, chữ đầu tiên đọc là chữ Việt thì chưa hẳn đã thuyết phục. Theo một số minh văn trên đồ đồng ở Quảng Tây có ghi rất rõ chữ Tây Vu với chữ “Vu” có nét sổ thường lượn cong sang bên trái, thì nửa dưới của chữ “Việt” nói trên phải đọc là “Vu” và phần còn lại hơi giống chữ “Điền” có thể là chữ “Tây” biến dạng. Do đó, theo tôi có thể tách chữ đầu tiên thành hai chữ, không phải “Việt” mà là “Tây Vu”. Nếu tạm chấp nhận cách đọc mới của Ba Hyu với sự chỉnh sửa của tôi ở chữ đầu tiên thì dòng minh văn trong chân trống Cổ Loa có thể đọc mới là : TÂY VU TẬP (tứ thập) BÁT CỔ, TRỌNG LƯỠNG CÁ BÁCH BÁT THẬP NHẤT CÂN Dịch nghĩa : Trống thứ 48 của bộ Tây Vu, nặng hai trăm tám mươi mốt cân. Thư mục : Nguyễn Duy Hinh, 1995. Dòng chữ Hán khắc trong lòng trống Cổ Loa, trong Những phát hiện mới Khảo cổ học 1995. NXB KHXH, Hà Nội, tr. 157-158. Trịnh Sinh, 2006, Thử giải mã minh văn trên trống Cổ Loa (Hà Nội), trong Khảo cổ học, số 2-2006. Nguyễn Việt, 2007, Minh văn chữ Hán trên đồ đồng Đông Sơn, trong Khảo cổ học, số 5-2007. Ba Hjo, 2011, Giải nghĩa minh văn trên trống đồng Heger loại I đào được tại Cổ Loa, trong Văn hóa Cổ đại, kỳ 1 quyển 63, Kyoto, tháng 6-2011, tr. 120-124. Minh họa : Trống Cổ Loa, khai quật tại gò Mả Tre năm 1982 Minh văn bên trong vành chân đế trống Cổ Loa Phóng đại chữ “Tây Vu” minh văn trên trống đồng Cổ Loa Chữ “Tây Vu” khắc trên ấm đồng niên đại TK I trước Công nguyên Ấm đồng niên đại TK I trước Công nguyên có khắc chữ “Tây Vu” Một phần bản rập minh văn trên một chiếc bình đồng Giao Chỉ khai quật ở Quảng Đông (Trung Quốc) với nội dung : “Tây Vu Lý Văn Sơn trước chú” - Người Tây Vu là Lý Văn Sơn chỉ đạo việc đúc. Chữ Tây Vu viết liền khá giống tình trạng minh văn Cổ Loa TS Nguyễn Việt1 like
-
Đang viết máy tự động thay đổi: Đền Thổ Hà thờ Lão Tử: Thần tích chép từ văn bia Cung sao sự tích thánh tại đình chi tiết hơn Sử Ký Tư Mã Thiên, mặc dù nội dung trong Sử Ký gồm nhiều câu chuyện truyền thuyết về ngài. Như vậy, tính mơ hồ về nguồn gốc Lão Tử trong Sử Ký Tư Mã Thiên và các sách khác đã được chỉ ra cụ thể hơn qua Thần tích đền Thổ Hà và là cơ sở để phân tích tiếp. Thần tích ở đình Thổ Hà về Lão Tử: Vua (Thục An Dương Vương) xây thành (Cổ Loa) có những u hồn và tà ma quấy nhiễu, cứ xây xong lại đổ. Vua lo lắm, liền xa giá đến Thổ Hà trang cầu đảo. Chợt có thần nhân hiện lên bảo vua rằng: xin vua cứ hồi kinh, không lo ngại gì. Rồi Người sai Thanh giang sứ (tức thần Kim Quy) đến giúp, giết Bạch kê tinh trong núi Thất Diệu, lại đào được hài cốt Bạch kê đem đốt đi, từ đó yêu ma tan hết, lại đào thấy nhạc khí thời cổ (như chiêng trống đồng). Không còn nghi ngờ gì nữa, Lão Tử hay Huyền Thiên Trấn Vũ cũng chỉ là một người (thống nhất với bác Bách Việt trùng Cửu ở các bài viết trước) chính là Thần Kim quy giúp An Dương Vương xây thành và hóa thân. Điều này dẫn đến Quán Huyền Thiên Trấn Vũ tại Long Thành chính là đền Lão Tử. Bạch kê tinh, nhạc khí cổ (trống đồng Cổ Loa hay nhạc khí tại Long Thành... sẽ trích dẫn) như đã phân tích. Năm xưa mẹ ta kể chuyện rằng: mẹ vốn là người từ bi, huyền diệu mà sinh ra, tên là Mỹ Thổ Hoàng. Có một đêm mẹ ta nằm mơ thấy nuốt một vì sao ngưu tinh, thế là mẹ có thai đủ 81 năm. Đến ngày 7 tháng giêng năm Canh Thìn nách tay phải của mẹ rung động rồi sinh ra ta. Khi ta mới ra đời đầu đã bạc, chân có chữ, ta không có bố, khi đẻ mẹ vịn vào cây mận cho nên lấy họ ta là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng. Lão Tử là Thái Thượng Lão Quân. 81 chính là vòng Đại Chu Thiên của Huyền Không Phi Tinh. Tên ngài là Lý Bá Dương, họ Lý và chỉ rõ ngày tháng năm sinh của ngài. Biểu tượng ngài là Ngưu Tinh hay sao Ngưu. Tên con sông Cầu. Ý của tên con "sông Cầu" hay con sông nối lại hai bờ tức là con sông Ngân Hà giữa Chức Nữ và Ngưu Lang, phân tích ở phần sau. Hình ảnh ngài cũng là con rồng như truyền thuyết về Khổng Tử ca ngợi ngài. Tên đình Thổ Hà. Thổ biểu tượng là con trâu, Hà cũng gọi là Giang nên đình Thổ Hà cũng gọi là đình Ngưu Giang. Tóm tắt các điểm chính trong câu chuyện Sự tích đầm Nhất Dạ: Câu chuyện này chính là truyện Kim Dung và Chử Đồng tử được người đời sau chuyển hóa thành câu chuyện Sự tích đầm Nhất Dạ qua việc bổ sung giai đoạn lịch sử vua Lý Nam Đế và Triệu Quang Phục với các chủ ý của tác giả nhằm lý giải một điều gì đấy trong mối tương quan. Hùng Vương truyền tới đời thứ 3 (Hùng Quốc Vương) - như vậy Chử Đồng Tử là con rể của ngài. Sư bèn tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón mà nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này đây”. Gậy và nón như phân tích trong Cây Nêu ngày Tết (Nguyễn Vũ Tuấn Anh) và một số ý khác. Nửa đêm, bỗng nhiên gió lớn nổi lên, cát bay, cây đổ, quan quân hỗn loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay bổng lên trời. Đất chỗ đó sụt xuống thành cái đầm lớn. Ngày hôm sau, dân chúng không thấy thành quách đâu cả, đều cho là linh dị. Về sau, dân lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi đầm là đầm Nhất Dạ (Nhất Dạ Trạch, nghĩa là đầm một đêm), gọi bãi là bãi Tự Nhiên, còn gọi là bãi Mạn Trù (hố tắm), và gọi chợ là chợ Hà Thị (chợ Hà). Bay lên trời thành sao Ngưu và sao Nữ. Nội dung này chính là giải thích trong Đạo Đức Kinh về một Ý mà các sách giải nghĩa trong hơn 4500 năm qua còn thiếu đó là nghĩa chữ Tự nhiên: “Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự Nhiên.” tức là Đạo còn phụ thuộc vào cái trước nó là Tự Nhiên hay chúng ta hiểu là cái ban đầu là Thái Cực tự nhiên, như nhiên là vậy, không do ai sinh ra cả, điều này chỉ ra ý như Đạo Đức Kinh: có trước cả Thượng Đế. Hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại. Dĩ nhiên, còn một số nội dung quan trọng mà toàn bộ các sách biên khảo Đạo Đức Kinh từ cổ chí kim còn thiếu nhưng không phải trong bài viết này phân tích, sẽ sớm nhận định. Bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đầm mà bảo Quang Phục rằng: “Ta tuy đã lên trời, nhưng linh hiển còn đó, ngươi có lòng thành cầu tới, ta đến để giúp đánh dẹp giặc loạn”. Dứt lời, tháo vuốt rồng trao cho Quang Phục, bảo: “Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu (4), đánh đâu diệt đó” Câu chuyện vuốt rồng chuyển tải mang ý nghĩa tương tự móng Thần Kim Quy giúp An Dương Vương đáng giặc Bắc và tác giả kết nối câu chuyện Lý Nam Đế với Thần nhân - Thần Kim Quy - Huyền Thiên Trấn Vũ cùng liên kết với Chử Đồng Tử trong câu chuyện hay mang ý nghĩa hóa thần của ngài chính là Lão Tử. Như vậy, sau thời Lý Nam Đế đã có người phát hiện ra bí ẩn và nối kết câu chuyện thành Sự tích Đầm Nhất Dạ. Chúng ta hãy xem lại chuyện Ngưu Lang Chức Nữ theo Trung Hoa: Chuyện Ngưu Lang Chức Nữ Ngưu Lang là một chàng trai chưa vợ nhà nghèo nhưng lúc nào cũng vui vẻ, sống nương tựa với anh là một con trâu già, một chiếc cày. Ngưu Lang hàng ngày ra đồng làm việc, sau khi về nhà tự mình nấu ăn giặt quần áo, cuộc sống rất gian khổ. Nào ngờ có một ngày, kỳ tích đã xảy ra. Ngưu Lang làm xong việc đồng về nhà, bước chân vào nhà, chàng thấy trong nhà gọn gàng sạch sẽ, quần áo giặt xong thơm tho, trên bàn còn sắp sẵn cơm nóng canh ngon. Ngưu Lang kinh ngạc trợn tròn đôi mắt, bụng nghĩ: Cớ sao như vậy ? có lẽ thần tiên xuống trần chăng ? Ngưu Lang nghĩ mãi không tìm ra đáp án. Sau đó, liền mấy ngày, ngày nào cũng vậy, Ngưu Lang không kìm nổi tính tò mò, anh nhất định phải tìm ra đáp án vì sao lại như vậy. Hôm đó, Ngưu Lang cũng như ngày thường, sáng sớm ra cửa, anh ra khỏi nhà không bao xa thì tìm chỗ trốn lại, rình xem động tĩnh trong nhà. Không bao lâu, có một cô gái rất xinh đến nhà. Cô vào đến nhà liền bắt đầu bận công việc bếp núc gia đình. Ngưu Lang không kìm nổi sự tò mò, liền từ chỗ trốn bước ra hỏi: “Xin hỏi vì sao cô đến giúp tôi làm việc nhà ?” Cô gái cũng bị bất ngờ, đỏ mặt nhỏ nhẹ nói: “Tôi là Ngưu Nữ, thấy cuộc sống của anh quá khổ, nên đến giúp anh.” Ngưu Lang mừng rỡ, mạnh dạn nói: “Thế thì em lấy anh đi, chúng ta cùng sống và làm việc với nhau.” Ngưu Nữ nhận lời. Từ đó Ngưu Lang Chức Nữ trở thành vợ chồng. Hàng ngày Ngưu Lang ra đồng làm việc, Chức Nữ ở nhà dệt vải, cơm nước, cuộc sống rất mỹ mãn. Được vài năm, họ sinh được hai đứa con một trai một gái, cuộc sống gia đình rất đầm ấm. Có một hôm, bầu trời bỗng nhiên mây đen tối nghịt, gió to nổi lên, có hai vị Thiên Tướng đến nhà Ngưu Lang. Ngưu Lang được biết: Chức Nữ là cháu gái ngoại của Thiên Đế. Mấy năm trước bỏ nhà ra đi, Thiên Đế luôn tìm Chức Nữ. Hai vị Thiên Tướng bắt Chức Nữ mang lên Trời. Ngưu Lang ôm hai đứa con nhỏ, nhìn vợ bị bắt buộc phải về Trời, lòng vô cùng đau đớn. Chàng thề phải lên Trời tìm Chức Nữ trở về, cả nhà đoàn tụ. Thế nhưng người trần làm sao lên được Trời ? Trong lúc Ngưu Lang đau buồn, con Trâu già từng sống nương tựa với chàng bỗng nhiên nói: “Ông giết tôi đi, rồi khoác da tôi thì có thể lên Thiên Cung tìm Chức Nữ.” Nói thế nào Ngưu Lang cũng không chịu làm như vậy, nhưng không bác lại được, lại không có cách nào khác, đành phải nén nhịn sự đau khổ, làm theo lời nói của Trâu. Ngưu Lang khoác da Trâu già, lấy quang gánh gánh hai đứa con bay lên Trời. Nhưng trong Thiên Cung canh phòng nghiêm ngặt, không ai để ý đến người Trần nghèo khổ. Thiên Đế cũng không cho Ngưu Lang gặp Chức Nữ. Qua nhiều lần khẩn cầu của cha con Ngưu Lang, cuối cùng Thiên Đế đồng ý cho gia đình họ sum họp trong thời gian ngắn. Chức Nữ bị giam thấy chồng và các con, vừa mừng vừa tủi. Thời gian rất nhanh trôi qua, Thiên Đế ra lệnh mang Chức Nữ đi. Ngưu Lang đau khổ mang theo hai đứa con đuổi theo Chức Nữ, mấy lần bị ngã, mấy lần bò dậy đuổi theo, khi sắp đuổi đến kịp, nào ngờ Thiên Hậu ác nghiệt rút chiếc trâm vàng trên đầu vạch một cái, tức thì hiện ra một dải Ngân Hà rộng ngăn cách họ. Từ đó, Ngưu Lang và Chức Nữ chỉ được đứng ở hai đầu Ngân Hà nhìn nhau. Chỉ có ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch hàng năm, Ngưu Lang và Chức Nữ mới được phép gặp nhau một lần. Đến lúc đó, hàng nghìn hàng vạn con chim Khách bay đến, bắc thành một chiếc cầu Khách dài nối liền hai bờ Ngân Hà, để gia đình Ngưu Lang Chức Nữ sum họp với nhau. Như vậy, Chử Đồng Tử và Tiên Dung có hậu duệ truyền đời. Như đã trình bày trong chủ đề "Khai vận năm Nhâm Thìn" của bác Hà Uyên với nhận định trong mùa Xuân năm nay bắt buộc phải xuất hiện các Thánh nhân, Đại nhân, Phật, Tiên... là hoàn toàn chính xác. Lão Tử hay Chử Đồng Tử chỉ là một người, bài viết của tác giả Bách Việt trùng Cửu tải lên mạng vào ngày 13/3/2012 Dương Lịch: "Tử khí Đông lai - Quảng truyền Đạo Đức" hay Khí tím từ phương Đông bay lại - Rộng truyền đạo đức kinh cho nhân loại. Vậy chúng ta hãy cùng nhau nâng cốc chúc mừng sự kiện vĩ đại này ngay sau sự kiện vĩ đại "Đổi Tốn Khôn" trong Bát quái của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lại một trong những bí ẩn lớn nhất của lịch sử nhân loại đã được khám phá (tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng đã từng đề cập sự nghi ngờ này). Chân thành cảm ơn tác giả Bách Việt Trùng Cửu. Chúng ta có thể tạo chủ đề "Luận Đạo Đức Kinh" đề cùng phân tích.1 like
-
Đền Thổ Hà thờ Lão Tử: Thần tích chép từ văn bia Cung sao sự tích thánh tại đình chi tiết hơn Sử Ký Tư Mã Thiên, mặc dù nội dung trong Sử Ký gồm nhiều câu chuyện truyền thuyết về ngài. Như vậy, tính mơ hồ về nguồn gốc Lão Tử trong Sử Ký Tư Mã Thiên và các sách khác đã được chỉ ra cụ thể hơn qua Thần tích đền Thổ Hà và là cơ sở để phân tích tiếp. Thần tích ở đình Thổ Hà về Lão Tử: Vua (Thục An Dương Vương) xây thành (Cổ Loa) có những u hồn và tà ma quấy nhiễu, cứ xây xong lại đổ. Vua lo lắm, liền xa giá đến Thổ Hà trang cầu đảo. Chợt có thần nhân hiện lên bảo vua rằng: xin vua cứ hồi kinh, không lo ngại gì. Rồi Người sai Thanh giang sứ (tức thần Kim Quy) đến giúp, giết Bạch kê tinh trong núi Thất Diệu, lại đào được hài cốt Bạch kê đem đốt đi, từ đó yêu ma tan hết, lại đào thấy nhạc khí thời cổ (như chiêng trống đồng). Không còn nghi ngờ gì nữa, Lão Tử hay Huyền Thiên Trấn Vũ cũng chỉ là một người (thống nhất với bác Bách Việt trùng Cửu ở các bài viết trước) chính là Thần Kim quy giúp An Dương Vương xây thành và hóa thân. Điều này dẫn đến Quán Huyền Thiên Trấn Vũ tại Long Thành chính là đền Lão Tử. Bạch kê tinh, nhạc khí cổ (trống đồng Cổ Loa hay nhạc khí tại Long Thành... sẽ trích dẫn) như đã phân tích. Năm xưa mẹ ta kể chuyện rằng: mẹ vốn là người từ bi, huyền diệu mà sinh ra, tên là Mỹ Thổ Hoàng. Có một đêm mẹ ta nằm mơ thấy nuốt một vì sao ngưu tinh, thế là mẹ có thai đủ 81 năm. Đến ngày 7 tháng giêng năm Canh Thìn nách tay phải của mẹ rung động rồi sinh ra ta. Khi ta mới ra đời đầu đã bạc, chân có chữ, ta không có bố, khi đẻ mẹ vịn vào cây mận cho nên lấy họ ta là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng. Lão Tử là Thái Thượng Lão Quân. 81 chính là vòng Đại Chu Thiên của Huyền Không Phi Tinh. Tên ngài là Lý Bá Dương, họ Lý và chỉ rõ ngày tháng năm sinh của ngài. Biểu tượng ngài là Ngưu Tinh hay sao Ngưu. Tên con sông Cầu. Ý của tên con "sông Cầu" hay con sông nối lại hai bờ tức là con sông Ngân Hà giữa Chức Nữ và Ngưu Lang, phân tích ở phần sau. Hình ảnh ngài cũng là con rồng như truyền thuyết về Khổng Tử ca ngợi ngài. Tên đình Thổ Hà. Thổ biểu tượng là con trâu, Hà cũng gọi là Giang nên đình Thổ Hà cũng gọi là đình Ngưu Giang. Tóm tắt các điểm chính trong câu chuyện Sự tích đầm Nhất Dạ: Câu chuyện này chính là truyện Kim Dung và Chử Đồng tử được người đời sau chuyển hóa thành câu chuyện Sự tích đầm Nhất Dạ qua việc bổ sung giai đoạn lịch sử vua Lý Nam Đế và Triệu Quang Phục với các chủ ý của tác giả nhằm lý giải một điều gì đấy trong mối tương quan. Hùng Vương truyền tới đời thứ 3 (Hùng Quốc Vương) - như vậy Chử Đồng Tử là con rể của ngài. Sư bèn tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón mà nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này đây”. Nửa đêm, bỗng nhiên gió lớn nổi lên, cát bay, cây đổ, quan quân hỗn loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay bổng lên trời. Đất chỗ đó sụt xuống thành cái đầm lớn. Ngày hôm sau, dân chúng không thấy thành quách đâu cả, đều cho là linh dị. Về sau, dân lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi đầm là đầm Nhất Dạ (Nhất Dạ Trạch, nghĩa là đầm một đêm), gọi bãi là bãi Tự Nhiên, còn gọi là bãi Mạn Trù (hố tắm), và gọi chợ là chợ Hà Thị (chợ Hà). Bay lên trời thành sao Ngưu và sao Nữ. Nội dung này chính là giải thích trong Đạo Đức Kinh về một Ý mà các sách giải nghĩa trong hơn 4500 năm qua còn thiếu đó là nghĩa chữ Tự nhiên: “Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự Nhiên.” tức là Đạo còn phụ thuộc vào cái trước nó là Tự Nhiên hay chúng ta hiểu là cái ban đầu là Thái Cực tự nhiên, như nhiên là vậy, không do ai sinh ra cả, điều này chỉ ra ý như Đạo Đức Kinh: có trước cả Thượng Đế. Hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại. Dĩ nhiên, còn một số nội dung quan trọng mà toàn bộ các sách biên khảo Đạo Đức Kinh từ cổ chí kim còn thiếu nhưng không phải trong bài viết này phân tích, sẽ sớm nhận định. Bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đầm mà bảo Quang Phục rằng: “Ta tuy đã lên trời, nhưng linh hiển còn đó, ngươi có lòng thành cầu tới, ta đến để giúp đánh dẹp giặc loạn”. Dứt lời, tháo vuốt rồng trao cho Quang Phục, bảo: “Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu (4), đánh đâu diệt đó” Câu chuyện vuốt rồng chuyển tải mang ý nghĩa tương tự móng Thần Kim Quy.1 like
-
Bữa nào em mời bác 1 ly nhé. Bài viết rất hay, ủng hộ quan điểm "“Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy”1 like
-
Hoa Cái chỉ là một sao nhỏ cho nên có nhiều người khi giải đoán lá số thường ít khi để ý đến sao này. Thật ra, tuy chỉ la phụ tinh nhỏ, Hoa Cái cũng có thể tạo nên bản chất đặc biệt của mẫu người mà chúng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống hằng ngày. Biết đâu, có thể người đó là chính mình, chồng mình, vợ mình, người yêu của mình, bạn bè của mình hay một người nào đó mà mình quen biết. Hoa Cái là biểu tượng của cái lọng, thuộc hành Kim và không thấy sách vở đề cập dến những vị trí đắc hãm của phụ tinh này. Hoa Cái còn được gọi với tên rất đẹp là Đài Các Tinh. Chỉ hai chữ Đài Các cũng đã nói lên bản chất của những người Hoa Cái thủ Mệnh hoặc Hoa Cái cư Di và có thể gọi chung là mẫu người Đài Các. http://' target="_blank">Hoa Cái chủ về sắc đẹp, sự chưng diện, sự sang trọng quý phái. Cho nên, về hình dáng, người có Hoa Cái thủ Mệnh, dù là đàn ông hay đàn bà đều có nét mặt thanh tú, vóc dáng thanh nhã, nói năng và cư xử nhẹ nhàng, lịch sự. Đây là mẫu người rất chú trọng bề ngoài, từ mái tóc cho đến cách ăn mặc. Họ không ngại bỏ công bỏ của ra để sửa soạn cho mái tóc, chọn lựa một cái cà vạt cho hợp với màu áo, một hiệu son phấn nào đó cho phù hợp với màu da.v.v..Sự chưng diện đối với họ là một nghệ thuật, cũng là một nhu cầu cần thiết như việc ăn uống vậy. Họ như những loại công thích múa để khoe sắc cho người đời thưởng thức những gì trời ưu đãi họ. Bởi vậy trong lĩnh vực sinh hoạt, người có Hoa Cái thủ Mệnh nếu gặp thêm những sao Xương Khúc, Nguyệt, Đào Hồng Hỷ…là những người của ngành quảng cáo hay trình diễn thời trang, diễn viên kịch nghệ, điện ảnh, cải lương v.v…Nếu là những người cầm bút, cầm cọ, cầm đàn thì nét vẽ nhẹ nhàng, dòng nhạc trữ tình, văn phong chải chuốt và đều mang nặng khuynh hướng lãng mạn. Dưới thời đại phong kiến của Trung Hoa, cái quan niệm vương quyền được biểu tượng bằng những hình ảnh như Long chầu, Hổ phục, phượng múa lọng che, và Hoa Cái là một trong 4 biểu tượng đó, gọi tắt là Tứ Linh (Long Trì, Phượng Các, Hoa Cái, Bạch Hổ) chỉ sự uy quyền, hiễn đạt hay công danh sự nghiệp. Trường hợp nếu Hoa Cái không thủ Mệnh nhưng phía trước của Mệnh, Thân, Di, Quan có Hoa Cái, phía sau có Thiên Mã tọa thủ thì đây là cách Tiền Cái Hậu Mã, có nghĩa là lọng đi trước, ngựa theo sau, là cảnh tiền hô hậu ủng mà chúng ta thường gọi là cảnh vinh quy bái tổ, chỉ sự hiễn đạt về công danh và sự nghiệp. Nếu Hoa Cái không thủ Mệnh mà tọa thủ ở cung Di, bản tính cũng giống như Hoa Cái thủ Mệnh nhưng có một điểm đặc biệt là khi họ ra khỏi nhà là được người trên kẻ dưới thương mến. Có thể vì tính tình của họ vui vẻ, thân thiện, cởi mở. Cũng có thể vì cách ăn mặc, lời lẽ, cử chỉ của họ nhẹ nhàng, lịch thiệp, họ có cái duyên ngầm nào đó nên dễ có cảm tình với mọi người. Với những ưu điểm đó, người có Hoa Cái cư Di rất thích hợp với những công việc như chào hàng, tiếp tân, đại diện thưong mại, ngoại giao v.v… Tuy nhiên những đặc tính của Hoa Cái có thể thay đổi tùy theo ảnh hưởng của một số sao khác. Chẳng hạn, người có Hoa Cái thủ Mệnh sẵn có khuynh hướng lãng mạn, nếu gặp thêm Đào Hoa, Mộc Dục, Riêu…thì sự lãng mạn sẽ đi qúa trớn đưa đến sự buông thả cả hai mặt tình cảm và tình dục. Vì Hoa Cái là biểu tượng của sự sang trọng, quý phái, đài các…Cho nên những người có khuynh hướng sa đọa này cũng thuộc loại giai cấp thượng lưu, của những kẻ có tiền, có quyền lực. Riêng với phái Nam có Hoa Cái thủ Mệnh cũng thích sửa soạn, chưng diện, nước bông, nước hoa…Hoa Cái ở đây cũng nói lên phần nào sự biến thái về tâm sinh lý của đương số. Mức độ nặng hay nhẹ thì còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net1 like