• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 07/07/2012 in all areas

  1. Có những khung cảnh chúng ta thấy quen thuộc, rất bình thường, nhưng khi đặt sau 1 ống ngắm, các bạn sẽ thấy sự khác biệt.... Chủ đề Phong cảnh : #1 Văn hiến thiên niên quốc Xa thư vạn lý đồ Hồng Bàng khai tịch hậu Nam phục nhất Đường Ngu #2 Ghe thuyền đợi ai? #3. Hồ Than Thở #4. Đồi Thông Hai Mộ #5. Hồ Xuân Hương #6. #7. Đò chiều #8. Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên #9. Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ... #10. Sài Gòn hoa lệ
    2 likes
  2. Cô đã gởi đến nhok chiều nay. Cô rất hoan hỷ khi biết con ứng dụng Thần Chú vào việc phóng sinh lợi lạc cho chúng sinh hữu tình, Cô cũng từng trao tặng cho bếp ăn nhà hàng vì đặc thù công việc ngày nào họ cũng sát sinh con ah.
    1 like
  3. CHÙM THƠ VỀ TÌNH YỀU VÀ SỰ VẬT Sau đây là một số bài thơ ví von về tình yêu theo như cách nghĩ của cháu. Thời điểm cháu sáng tác những bài này là vào những năm 2005 -2006. Khi đó tuổi đời cháu thìcòn quá trẻ, yêu thì cũng chưa yêu ai, chỉ thích một cậu bạn học cùng thôi nhưng không dám nói. Vì vậy cách so sánh của cháu về tình yêu và những sự vật như giếng nước, sân ga, nam châm, ván cờ có thể chưa thật sự xác đáng lắm. Nhưng cháu vẫn mạnh dạn chia sẻ lên diễn đàn để mọi người cùng đọc. Cháu rất mong nhận được sự góp ý từ các bác, các cô chú, anh chị trong diễn đàn. Trân trọng! 1. TÌNH YÊU VÀ GIẾNG NƯỚC Tình yêu ta như giếng nước đầu làng, Ngày mới gặp nhau giếng trong và mát, Cây bưởi sau vườn hương đưa ngào ngạt, Anh khẽ tặng nàng câu hát tình yêu. Suốt bấy nhiêu năm hết sớm lại chiều, Vẫn tận tụy dù trải nhiều sương gió Mạch nước ngọt âm thầm nuôi làng nhỏ Nào biết rằng một ngày nọ già nua! Cuộc sống hiện đại khiến mọi thứ thành cổ xưa, Nước máy đã về làng, giếng xưa ai dùng nữa? Người thì vẫn đấy nhưng hồn còn một nửa Giếng nước buồn khẽ cựa mình thở than! Anh dễ quên em như người ta quên giếng làng, Còn đâu những đêm trăng vàng ta hò hẹ Thà đừng gặp nhau để đừng thương, đừng mến Vì tình yêu như ngọn nến dễ tàn phai. Nhưng nếu được làm lại lần thứ hai, Giếng mỉm cười: “ Tôi lại làm như thế”, Em vẫn đợi anh dù phải ra tận bể Như bao tình nhân xưa có thể chết vì yêu. 2. MỐI TÌNH SÂN GA Chuyến tàu cuối rồi cũng đã rời xa, Còn lại mỗi mình sân ga hoang vắng, Vẳng lại tiếng còi trong đêm thanh vắng, Tiếng chân người nhẹ gõ nhịp xa xăm. Tháng với ngày sân ga vẫn lặng câm Ôm mối tình trong âm thầm chờ đợi Những ngày xa nhau lòng đau nhức nhối, Đợi ngày gặp lại – một mối tương tư. Mong một ngày có nắng ấm mùa thu, Sân ga lại hát ru con tàu ngủ Kề bên nhau trọn tình nồng ấp ủ Thật ngọt ngào lời nhắn nhủ con tim! 3. NAM CHÂM Thanh nam châm có hai đầu Nam, Bắc Trái dấu nhau nên hút chặt vào nhau Tình yêu và nam châm có khác gì đâu “ Yêu nhau lắm cắn nhau đau” là thế! Này anh ơi hãy lắng nghe em kể, Lòng nam châm như song bể khôn lường Ở bên cạnh đã có người thương Vẫn chờ ngóng một cặp âm dương khác. Anh nói rằng nếu em là cực Bắc Anh – nửa còn lại chắc chắn là cực Nam Cá tính khác nhau, tranh cãi – việc hay làm Nhờ có thế mình càng thêm gắn bó Nhưng xin người đừng như nam châm đó Tình yêu trong tay mình lại bỏ đi đâu Khi tuột mất mới tiếc lúc ban đầu Muốn quay lại, thời gian đâu chờ đợi! 4. NGẪM CHUYỆN TÌNH YÊU Đêm nào cũng trằn trọc Nghĩ và nghĩ về anh Cố nhưng không níu được Những giấc mơ không thành. Cuộc đời vẫn trôi mãi Chẳng chờ đợi một ai Anh như đoạn đường dài Em đi hoài không đến Hỏi nơi nào là bến? Đến nơi nào là bờ? Những câu hỏi vu vơ, Như nước cờ bế tắc Tiến lên là chết chắc, Lùi chưa chắc đã xong Cứ quẩn quanh, lòng vòng Bao giờ xong một ván? Thân nhân phải nhăn trán, Hỏi người phàm hiểu sao Tình chàng Ngưu - ả Chức Động lòng cả trời cao. Tình yêu là như thế Vẫn lắm kẻ si mê Vẫn lắm người ngu muội Mải vui lạc lối về.
    1 like
  4. già cả, sức cũng không đủ để giải hết và chi tiết cho bạn được. Mong bạn thông cảm nhé, tổng luận thì có thể nói vài câu như sau: Cái gì cũng khá (Công danh, tiền bạc, quan hệ xã hội, v.v...), mỗi chuyện hôn nhân là tệ hại, con cái không hợp tính cha khả năng sống xa cha. Bản thân không được nhờ cậy gì nhiều từ cha mẹ. Cuộc sống khá phong phú nhưng ngày lắm mối, tối vẫn nằm không.
    1 like
  5. Con út chỉ có thể là 2018! Nữ tuổi Quý Hợi nào cũng vậy, tùy tuổi chồng mà có thể 2018 hoặc 2019 thôi, các năm trước đó không có năm tốt, trừ 2012. Hoặc giả có thể sinh 1 đứa năm 2015 con gái, rồi 2018 sinh con út thì được, con út là con trai, con giữa bắt buộc phải là con gái nếu ko thì nhà khó khắn lắm đó! Thân mến.
    1 like
  6. Kính thưa quí vị quan tâm. Tôi có cảm giác một số lý thuyết của khoa học hiện đại đã thiếu yếu tố thời gian. Nhưng trong Lý học thì yếu tố thời gian lại cực kỳ quan trọng. Tôi nghĩ rằng nếu ai đã một lần biết đến Âm lịch - vốn được coi là loại lịch của một nền văn minh cổ hủ và đầy mê tín dĩ đoan - thì cũng biết rằng đó là một loại lịch có cấu trúc miêu tả mối quan hệ tương tác rất phức tạp, bởi nhiều yếu tố cấu thành trong sự vận động của không gian vũ trụ ngoài trái Đất và sự vận động tự thân của trái Đất. Nó không đơn giản như Dương Lịch hiện đại. Nhưng cá nhân tôi nhận thấy rằng: Ngoại trừ những loại lịch thuộc về những nền văn minh cổ đại tồn tại từ thời huyền sử của nhân loại, như lịch của nền văn minh Maya, Việt lịch....thì Dương lịch hiện nay tỏ ra là một hệ thống lịch chuẩn xác và phức tạp hơn so với các loại lịch hình thành có nguồn gốc trong thời gian lịch sử của nền văn minh hiện đại. Tất nhiên Dương Lịch là lựa chọn cuối cùng phù hợp với những giá trị và chuẩn mực của nền văn minh hiện đại. Nhưng so với Việt lịch thì lịch Việt - tức Âm lịch có cấu trúc phức tạp hơn rất nhiều. Tất yếu cấu trúc lịch rất phức tạp ấy của Việt lịch, phải phù hợp với giá trị và những chuẩn mực của nền tảng tri thức xã hội đã tạo ra nó. Vậy thì so sánh Dương lịch hiện nay phù hợp với nền tảng tri thức và chuẩn mực xã hội của nền khoa học hiện đại - vốn đã rất tự hào của nền văn minh hiện đại - thì - cá nhân tôi có thể suy ra rằng: Nền tảng tri thức xã hội và những chuẩn mực trong đời sống của nền văn minh đã tạo ra Việt lịch phải có một nhu cầu cao hơn nhiều mới có thể phù hợp với tính phức tạp và chi tiết hơn nhiều của Việt lịch. Tất nhiên khi nền văn minh cao cấp thích hợp với Việt lịch ấy bị sụp đổ thì với nhu cầu đơn giản của nền văn minh hiện đại, người ta thấy Việt lịch như thừa quá nhiều chi tiết. Đã không ít những tham luận ồn ào của các học giả ca ngợi Nhật Bản thời cái cách của Minh Trị đã mạnh dạn bỏ Âm lịch để dùng Tây lịch và được coi như một nhân tố tích cực góp phần vào sự phồn vinh của Nhật Bản. Nhưng đây chính là loại lịch rất cần thiết trong tương lai hàng ngàn năm sau của văn minh nhân loại. Tôi có vẻ đang đi lạc chủ để của topic này. Nhưng chắc là không. Vì tôi muốn lưu ý đến yếu tố thời gian của bất kỳ một học thuyết nào mô tả các mô hình vũ trụ. Mà thời gian là một trong hai yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc nhận thức vũ trụ. Mà yếu tố còn lại chính là không gian. Nó chính là luận điểm bảo vệ tính quy luật có thể nhận thức được của thuyết Âm Dương Ngũ hành và là lý thuyết thống nhất trước lý thuyết Bất định - một yếu tố dẫn đến một kết luận của ông SW Hawking rằng: Không có Lý thuyết thống nhất. Trong những phương pháp bói toán của nền Lý học Đông phương thì yếu tố thời gian chính là dữ liệu đầu vào của tất cả các phương pháp này. Tất nhiên nó phản ánh bản chất tương tác có quy luật của không gian vũ trụ trong khoảng thời gian ấy. Bởi vậy, TTNC LHDP sau khi cải tổ thành công và có kinh phí tài trợ đầy đủ - thì - một trong những ngành nghiên cứu của TT này phải là Việt lịch.
    1 like
  7. Cô đã xác nhận bên quỹ từ thiện mời NhaKhanh theo dõi để tường minh.
    1 like
  8. Bỏ cái chữ ký này đi nhà thơ ạ. Nhà thơ nếu ở Sài Gòn hôm nào ghé TT tôi sẽ đề xuất một chữ ký bay bổng và thơ hơn.
    1 like
  9. có thể ý của khigia là sinh đầu năm 1990 thì năm âm vẫn tính Kỷ tỵ
    1 like
  10. Chuyện lạ: Sư cô giữ núi nuôi khỉ như con ở Hải Dương Quả núi mọc lên giữa cánh đồng bát ngát ấy vốn rất nhiều khỉ vàng. Khỉ sà vào nhà dân, đi lại lững thững trên mái chùa. Nhưng rồi, các doanh nghiệp đào đá, phá núi, những quả núi mất dần, đàn khỉ bị tiêu diệt gần như sạch sẽ. Chùa Nhẫm Dương Hơn chục năm nay, sư cô Thích Diệu Mơ bất chấp tính mạng, tìm mọi cách giữ lại một góc quả núi, để khỉ có nhà ở. Sư cô là người mẹ thực sự của bọn khỉ, là người sinh ra chúng lần thứ hai. Còn đâu thuở thanh bình khỉ trêu người Nhẫm Dương (Duy Tân, Kinh Môn, Hải Dương) là ngôi chùa cổ, cùng với hệ thống hang động đã được xếp hạng Di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia. Ngọn núi Nhẫm chỉ còn một góc nhỏ xanh rờn cây lá. Các quả núi xung quanh đã bị nổ mìn phá đá sạch sẽ. Núi Nhẫm cũng đã bị bổ làm đôi. Nửa bên Tây đã thành xi măng rồi, nửa bên Đông, nơi có ngôi chùa và những hang động nổi tiếng thì vẫn còn. Sự cô Thích Diệu Mơ Sở dĩ, di tích cấp quốc gia ấy, còn tồn tại đến ngày hôm nay, là nhờ sư cô Thích Diệu Mơ. Chuyện sư cô Diệu Mơ đem cả mạng sống mình để giữ núi trước lòng tham vô đáy của con người, thì đã thành nhiều tập phim, do nhà báo Phạm Chức (Truyền hình Hải Dương) dựng rất cầu kỳ. Sư cô bảo: “Núi Nhẫm này là nơi đặc biệt không những của Việt Nam, mà của cả thế giới, vì phát hiện hóa thạch Pôn-gô, một loài vượn người cực kỳ thông minh. Bọn khỉ ở núi này cũng thông minh lắm, tình cảm lắm, chả khác gì con người. Ấy vậy mà, người ta nỡ cướp nhà của chúng, nỡ giết hết chúng”. Rồi sư cô hồi tưởng ngày xưa, khi sống cảnh đời thanh tịnh, quây quần, nô đùa với bọn khỉ. Ngày ấy, chẳng phải đâu xa, mới cách nay hơn chục năm. Sáng sớm, vừa bảnh mắt, đàn khỉ đã ríu rít trên cây thị 700 tuổi trước chùa, chạy nhảy trên mái chùa, ngồi chồm hỗm trên nóc tháp tổ. Cả dãy núi Nhẫm có cả chục đàn khỉ vàng, mỗi đàn có vài chục con. Chúng kiếm ăn khắp các rông núi. Đói thì về chùa xin ăn. Chùa như ngôi nhà của chúng. Theo sư cô Mơ, chị em phụ nữ quanh vùng vào chùa thì thoải mái, nhưng không dám vào sâu trong núi. Bọn khỉ rất nghịch ngợm, hay trêu ghẹo đàn bà con gái. Nếu có việc phải vào, thì phải rủ nhau vài người cùng đi. Nếu phát hiện có một mình, chúng xông đến giật nón, giật mũ, lôi rách cả áo. Xua đuổi chúng, chúng cáu lên, hò hét cả bọn lấy đá sỏi ném như mưa rào. “Bọn khỉ chả khác gì người, nhưng là chúa chòng ghẹo!”, sư cô Mơ kể. Nhớ nhất là cảnh chị em đi gặt lúa, vừa vui vừa tức cái lũ khỉ chúa nghịch ngợm. Lúa mọc vàng ươm, tốt bời bời, chúng không phá. Nhưng hễ chị em phụ nữ vào khe núi gặt, là chúng kéo đến trêu ghẹo. Chị em gặt lúa, xếp thẳng thớm, chúng hò nhau kéo xuống ruộng giũ cho rối tinh rối mù lên. Cầm đòn gánh đuổi, chúng lại chạy tót lên núi. Lúc gánh lúa về, mấy tên khỉ đểu cáng xông ra, nhảy lên một bên quang gánh, rồi đột ngột nhảy tót ra, khiến chị em chao đảo, gánh lúa bật tung. Trời thì nóng, tức lắm, nhưng chẳng làm gì được chúng. Đuổi chúng, chúng chạy tót lên núi rồi cả lũ hò hét như thể trêu ngươi. Có chị em đang cấy, chúng núp trong bụi rậm, lấy đá cuội nhỏ ném vào nón bùm bụp. Giật mình nhìn quanh, nhưng chẳng thấy ai, cứ ngỡ là ma, sợ lạnh cả người. Trêu cho chị em phát tức, phát sợ, chúng mới thò mặt ra cười rũ rượi. Mỗi lần bị bọn khỉ trêu chọc, chị em lại phải gọi sư cô Mơ can thiệp. Sư cô nói gì, bọn khỉ cũng nghe, bảo chúng không trêu phụ nữ nữa, thì chúng bỏ lên núi. Sư kể: “Nhiều khi tôi trêu bọn khỉ xấu như ma, cả bọn chu mỏ lên, rồi con che mặt xấu hổ, con gãi đầu gãi tai. Thế nhưng khen xinh thì cười tíu tít, nhảy cả lên vai sư, quấn lấy chân. Khen chúng xinh, thế nào chúng cũng làm xiếc cho xem. Một con bám vào cành cao, đến chục con bám vào chân nhau thành một chuỗi dài đánh đu lủng liểng trông vui mắt lắm”. Bọn khỉ vàng rất thích uống sữa tươi Nhưng rồi, những ngọn núi trong vùng lần lượt bị phá, những áng (thung lũng) đẹp nên thơ cũng biến mất. Đàn khỉ bị dồn tụ về núi Nhẫm, là quả núi duy nhất còn sót lại trong vùng, do sư cô Mơ kiên quyết giữ. Đúng lúc ấy, lại rộ lên trào lưu nuôi khỉ làm cảnh, ngâm rượu khỉ, cao khỉ, nên nhiều người vào núi bẫy khỉ, bắn khỉ. Núi Nhẫm nổi tiếng nhiều khỉ và nhiều cú mèo. Thợ săn vào núi rải bẫy hôm trước, hôm sau gánh ra cả gánh khỉ. Chăng lưới vách núi, tóm được cả gánh cú mèo. Người dân lại lên núi đốn củi, đẵn trọc quả núi. Khỉ hết dần, cú mèo cũng bỏ đi sạch. Sư cô Mơ kể, có lần nghe thấy tiếng khỉ khóc lóc chí chóe trong rừng. Sư chạy vào núi xem nguyên do. Sư thấy bầy khỉ mấy chục con, con nào cũng hung tợn, quây quanh ông Hưng, thợ săn khỉ nổi tiếng trong vùng. Bọn khỉ xông vào cắn xé ông Hưng. Ông Hưng cứ cầm cái bẫy kiềng lớn, với con khỉ dính bẫy quay tít xung quanh, để bọn khỉ sợ không dám xông vào. Nhưng bọn khỉ quyết tâm cứu 2 con khỉ con bị trói quặt tay. Chúng cắt đứt dây, cõng hai khỉ con chạy lên núi. Sư Mơ đến can thiệp, bọn khỉ mới tha cho ông Hưng. Chẳng là, ông Hưng đặt bẫy, dính ngay khỉ mẹ. Hai chú khỉ con ngồi khóc bên mẹ, bị ông tóm sống. Tuy nhiên, đàn khỉ đã kéo đến giải cứu 2 khỉ con. Khỉ mẹ dính bẫy thì chết tự bao giờ. Sư cô Mơ kêu lên: “Bác ơi, con khỉ nó như con người, sao bác nỡ giết nó!”. Sau vụ chết hụt vì bị đàn khỉ tấn công, ông Hưng hứa với sư cô sẽ không bao giờ giết khỉ nữa. Ông cũng bỏ nghề thật. Sau hôm đó, ngày nào cũng vậy, cứ sáng sớm, đàn khỉ vàng lại cùng 2 chú khỉ con, kéo về nóc chùa, quây quanh tháp tổ kêu khóc. Sư cô Mơ ra xem lại phải dỗ dành. Hai chú khỉ con khóc như đứa trẻ đòi mẹ. Sư cũng khóc cùng bầy khỉ. Khóc lóc chừng 2 tháng thì chúng bỏ đi. Rồi không thấy hai khỉ con, cùng đàn khỉ ấy quay về chùa nữa. Dù ông Hưng không bẫy khỉ, thì những người khác cũng vào núi đặt bẫy, bắn khỉ. Từ đàn khỉ vàng đông đúc, giờ chỉ còn 5 con. Thời gian sau, sư cô Mơ đếm mãi thấy có 3 con. Giờ thì chỉ thấy duy nhất một con khỉ hoang dã còn sống sót. Nhưng, con khỉ này ít xuất hiện lắm. Nó thoắt ẩn, thoắt hiện trên núi. Nó sợ hãi con người lắm rồi. Chuyện đàn khỉ hoang dã trên núi Nhẫm và cả vùng núi non lô nhô Kinh Môn dã lùi dần vào dĩ vãng, trở thành những câu chuyện cổ tích đẹp, mà buồn. Khỉ quỳ lạy khiến sư cô bật khóc Khoảng 7 hay 8 năm trước, một Phật tử đến chùa, nghe tiếng khỉ hót buồn não nề, liền hỏi sư cô Mơ: “Bạch thầy, núi này còn khỉ hả thầy”. Sư cô Mơ gật đầu bảo chỉ còn một con khỉ nữa thôi. Tức thì, Phật tử nọ khóc nấc lên. Nhà Phật tử này ở xã Minh Tân, nơi từng có những rông núi mọc lên giữa đồng bằng sông nước, chả khác gì Hạ Long trên cạn. Khỉ ở đó vốn nhiều vô kể, sống chan hòa với con người. Nhưng rồi núi bị phá sạch, con người tự dưng lại có nhu cầu thịt khỉ, cao khỉ, nên bọn khỉ đã bị tận diệt. Nhà Phật tử ấy ở cạnh nhà một tay nấu cao khỉ. Ông ta xích chú khỉ vào gốc cây, đun sôi nước, rồi múc ca nước sôi tiến về phía con khỉ. Con khỉ vàng quỳ hai chân, chắp tay vái gã đồ tể. Nó vừa vái vừa khóc, nước mắt ròng ròng. Nhưng lão đồ tể lạnh lùng hắt ca nước sôi vào nó. Con khỉ khóc ré lên, chạy vòng quanh gốc cây. Nó vừa chạy vừa khóc, vừa gãi, trợt lông lộ lớp da trắng hếu. Lão đồ tể dội đến chục ca nước sôi, nó yếu dần, rồi khuỵu xuống chết. Vừa kể, nữ Phật tử vừa khóc. Sư cô Mơ cũng nước mắt ròng ròng. Sư thương đàn khỉ quá. Để cứu con khỉ cuối cùng trên núi, sư thuê người quanh xóm trồng nhiều cây trên núi. Từ quả núi trọc, giờ núi Nhẫm xanh rờn trở lại. Sư cô nhờ nhân dân cả thôn cùng quyết tâm bảo vệ con khỉ, không cho bất kỳ ai vào núi săn thú, đốn củi. Rồi nữ Phật tử kia dẫn sư Mơ đến nhà lão đồ tể, chuyên làm thịt khỉ nấu cao. Lão đồ tể bảo, ngoài việc nấu cao khỉ, ông ta còn xuất lậu sang Trung Quốc. Người Trung Quốc thích nuôi khỉ vàng, vì nó giỏi làm trò, làm xiếc. Nuôi chán thì họ dùng dao phạt đầu, múc óc ăn sống. Thịt chế biến giả cầy, xương đem nấu cao. Nghe lão đồ tể kể, sư lạnh cả người. Sư Mơ bảo: “Anh mua được con khỉ nào thì bán lại cho tôi. Anh bán đắt thế nào tôi cũng mua. Cứu một con khỉ bằng xây 10 tòa tháp”. Gã đồ tể gật đầu. Rồi từ đó, hễ thu mua được con khỉ nào, anh ta lại gọi sư Mơ. Có chỗ bán khỉ, anh ta cũng bỏ luôn nghề làm thịt, nấu cao khỉ. Anh ta ăn nên làm ra, còn sư cô Mơ có được bao nhiêu tiền công đức, toàn đi mua khỉ về thả lên núi. Ngôi chùa Nhẫm khá khiêm tốn, nhưng xây đã chục năm chưa xong, vôi ve chưa quét, nhưng có khỉ thì đắt thế nào sư cũng mua bằng được. Cặp khỉ đầu tiên mà sư Mơ mua được từ tay đồ tể nọ là con Trố và Ngố. Sư đặt tên cho hai con này như vậy. Hôm gã đồ tể gọi, sư đến ngay. Hai con khỉ bị nhốt trong lồng sắt. Một tay buôn khỉ định chuyển đi Trung Quốc, thì ông đồ tể nọ biết, liền mua lại, rồi bán lại cho sư Mơ. Hôm chở về chùa, mở cửa lồng, cho chúng chạy lên núi, nhưng chúng cứ đứng lên lại ngã oành oạch. Hai con khỉ đói đến nỗi không đứng nổi nữa, tay chân run lẩy bẩy. Sư phải sắm mấy chuồng sắt, nhốt nó vào cho an toàn, rồi hàng ngày cho nó uống sữa. Hồi sức rồi, chúng mới ăn được các thứ khác. Khi Ngố và Trố khỏe, sư thả ra, nhưng nó nhất định không lên núi, cứ luẩn quẩn quanh chùa. Ngố và Trố nghịch ngợm không tên khỉ nào bằng. Sư nấu cơm, còn chưa kịp ăn, hai tên mở vung ăn vụng sạch sẽ. Du khách đến chùa, chẳng ngại ngùng gì, cứ trèo cả lên cổ du khách. Đuổi lên núi không chịu đi, thả ra thì nghịch ngợm, phá phách, trêu ghẹo khách viếng chùa, nên sư nhốt hai tên này vào chuồng, thi thoảng mới cho ra. Người mẹ của lũ khỉ Sư Thích Diệu Mơ chợt nhớ đến con Mi Mi, rồi đôi mắt bỗng dưng mọng nước. Nó là con thông minh, thân thiết với sư nhất. Con này là do một Phật tử mua lại từ đám buôn khỉ mang đến chùa. Điều lạ là Mi Mi cũng ăn chay như sư cô. Nó chỉ uống sữa và ăn hoa quả. Khi sư cô ăn cơm, thì nó ăn cùng. Ăn xong thì ngồi vào lòng sư. Nhiều đêm nó ngủ cùng sư. Sư dậy, nó cũng đánh răng cùng, cũng soi gương chải tóc. Bọn khỉ khi mới được mua về phải xích lại trong chuồng cho quen Đêm nào cũng vậy, sư cô phải bế nó đi đúng 3 vòng sân chùa, vừa bế vừa ru nó mới ngủ. Không ru là nó khóc. Con Mi Mi hiểu sư cô nhất, nên nói gì nó cũng nghe, cũng biết. Sư thường dẫn nó ra bờ ao. Sư và Mi Mi cùng ngồi bên cầu ao, soi bóng mặt nước. Sư cô kể: “Tôi bảo ao mát lắm, con xuống tắm đi, tức thì Mi Mi lò dò xuống bước xuống từng bậc. Tôi bảo lặn đi, Mi Mi cũng lặn. Sư nhìn rõ nó bơi dưới nước trông như con cá cảnh, rồi ngóc đầu ở giữa ao cười toe toét. Rồi tôi nói, Mi Mi ơi, bơi vào đi không chết đuối đấy, thì nó bơi về cầu ao”. Thi thoảng, Mi Mi cũng lên núi, sống cảnh hoang dã. Nhưng chỉ được một hai ngày lại mò về như trẻ con đi xa nhớ mẹ. Cũng vì có thói quen uống sữa, mà Mi Mi đã mất mạng vào năm ngoái. Chẳng là, hôm đó xây chùa, Mi Mi đã mở khóa, lục túi đồ của thợ xây, lấy tuýp keo và trèo tót lên cây mít. Bác thợ xây liền báo sư cô. Dù sư cô gọi nhưng Mi Mi không chịu xuống, cứ hí hoáy với tuýp keo. Sư cô phải mang hộp sữa ra gạ đổi, thì Mi Mi đồng ý. Thế nhưng, uống hết sữa rồi, Mi Mi lại lục túi bác thợ xây để ăn trộm tuýp keo. Đêm ấy, trời mưa to, không thấy Mi Mi về. Hôm sau, sư cô dậy sớm, nhưng gọi mãi không thấy Mi Mi đáp lời. Sư cô rụng rời tay chân khi thấy Mi Mi nằm chết cứng dưới gốc mít. Thì ra, Mi Mi tưởng tuýp keo là sữa, nên đã uống sạch. Sư cô chôn Mi Mi mà nước mắt lã chã. Ngoài Mi Mi thì con Mặt Đỏ và con Xích Lu cũng bị chết một cách đáng tiếc, khiến sư cô đau dứt ruột gan. Con Mặt Đỏ thì ho hắng, ốm đau suốt. Dù đã được sư cô chăm sóc tận tình, có bác sĩ thú y chữa trị, nhưng nó vẫn ra đi. Con Xích Lu thì chết rất đáng tiếc. Nhắc đến con Xích Lu, khuôn mặt sư cô Mơ buồn rười rượi. Cách đây chừng 5 năm, có một du khách đến vãn cảnh, thấy sư cô Mơ nuôi nhiều khỉ vàng, vị khách này bảo: “Đây là giống khỉ thông minh lắm. Con muốn đổi mấy con khỉ của con lấy một con của thầy được không ạ?”. Tất nhiên là sư cô không đổi nhưng lại đề nghị vị khách này bán lại đàn khỉ cho nhà chùa. Tuy nhiên, vị khách nọ cũng không nỡ xa đàn khỉ. Thích thú đàn khỉ trong chùa Nhẫm Dương, thi thoảng anh lại đến thăm. Khi thân thiết, sư cô đã yêu cầu vị khách đứng trước tượng Phật và thề là sẽ không giết, không bán mấy con khỉ mà anh đang nuôi. Thời gian sau, vị khách nọ mang đến 2 con khỉ và bảo với sư rằng: “Có lái buôn đang chuyển 2 con khỉ này sang Trung Quốc. Sang đó thì người ta lột da ngâm rượu hoặc róc xương nấu cao. Thương nó quá nên con mua giúp thầy”. Hai con khỉ này được sư cô đặt tên là Xích Lu và Vâu. Cả hai đều cực kỳ thông minh, sống quây quần với sư cô Mơ suốt mấy năm nay. Vâu và Xích Lu là hai người bạn thân thiết của nhau. Con Vâu có cái răng vổ, nên thi thoảng sư cô và khách viếng chùa hay trêu ghẹo nó. Khen nó xinh, thì nó cười toe toét, chạy đến bắt tay, nhưng chê nó xấu, thì nó nhăn mặt, gầm gừ. Năm kia, Xích Lu mang bầu, bụng chửa vượt mặt đi lững thững ở sân. Anh Lan, là Phật tử trông chùa cầm chổi cán dài quét sân. Mắt anh Lan hơi kém, nên không nhìn thấy con Xích Lu, đã quét vào nó. Xích Lu đang mang bầu, hơi khó tính một chút, lại tưởng anh Lan đánh nó bằng chổi, nên nó xông vào dọa cắn anh Lan. Con chó đang ngồi ở gốc thị, thấy khỉ cắn chủ mình, thì nổi giận xông đến, cắn trúng cổ Xích Lu, khiến nó chết tại chỗ. Con Vâu nhìn thấy cảnh chó cắn chết bạn cứ nhảy như cào cào kêu khóc thảm thiết. Nó buồn bã, nhảy tót lên cây thị cổ thụ. Từ đó, nó ít khi xuống sân chùa lắm. Hàng ngày, nó lên núi Nhẫm, hòa với đàn khỉ do sư cô Mơ thả lên núi. Đêm nó cùng mấy con khỉ khác về cây thị ngủ. Phải tinh mắt lắm mới nhìn thấy mấy chú khỉ như mấy con chuột trên cây thị khổng lồ 700 tuổi. Chỉ riêng sư cô Mơ mới gọi được Vâu cùng đàn khỉ xuống. Không kiếm được thức ăn, bọn khỉ tìm về cây thị và được sư cô mang hoa quả, sữa tươi cho chúng. Bọn khỉ sà xuống lấy đồ ăn, rồi lại chạy tót lên cây. Cho đến nay, sư cô Diệu Mơ cũng không nhớ nổi, đã thả bao nhiêu khỉ lên núi Nhẫm, nhưng con số phải đến vài chục. Hầu hết số khỉ này là do sư mua, một vài con do Phật tử mang đến chùa. Những chú khỉ mới về chùa, được sư cô nhốt vào chuồng sắt. Quen với khung cảnh chùa chiền rồi, sư thả chúng ra. Con nào ở lại chùa thì sư nuôi dưỡng, còn thích cuộc sống hoang dã, thì tự tìm lên núi nhập bầy kiếm ăn. Mấy năm trước sư còn mua được nhiều, giờ khỉ đã bị bắt sạch, nên có khi cả năm chẳng mua được con nào. Đàn khỉ đang hồi sinh trên núi Nhẫm và sư cô Thích Diệu Mơ vẫn đang phải căng sức bảo vệ chúng và “ngôi nhà” của chúng. Sư cô chỉ về phía tả quả núi Nhẫm vào bảo: “Mấy hôm trước, người của Công ty xi măng Phúc Sơn đưa máy móc, thuốc nổ lên định phá nốt núi, nhưng sư đấu tranh quyết liệt lắm, tố cáo tận nơi tận chốn mới giữ được đấy!”. Sư Mơ đúng là mẹ của đàn khỉ vàng núi Nhẫm!
    1 like
  11. Dây rún mẹ buộc đâu qua nổi định nghiệp NSGN - Sự đời, nghiệm ra không gì qua khỏi hai chữ nhân duyên. Dây rún mẹ buộc ao ước con cái thuận hòa, thương nhau không qua được những định nghiệp con cái gây tạo với nhau. Dây rún mẹ buộc… Trong cái hộp nhỏ, tôi tìm thấy một nùi gì đó giống như ruột heo. Nhỏ xíu. Đã khô. Mẹ nói dây rốn của ba chị em. Buộc cho thật chặt để còn thương nhau. Ngày còn nhỏ, tôi đã phải vào ở với ông bà nội. Hai đứa kế ở bên nhà bác. Còn ba đứa sau thì ở với mẹ tận ngoài Quy Nhơn. Lâu lâu gặp nhau, chỉ biết vui mừng, có khóc hay lẫy chỉ là nỗi buồn giành giựt trẻ con. Bể dâu… Ba đứa ra đi. Ba đứa ở lại. Ra đi vẫn chưa trưởng thành. Những gì cha mẹ dạy cho vẫn ủ trong lòng. Thương nhau vẫn nhiều. Vẫn lo cho nhau từng tí. Trong ba đứa đi cũng vẫn có hai đứa kia. Duyên nghiệp tụi nó gần như gắn chặt với nhau ngay từ lúc nhỏ. Đi đâu cũng chẳng lìa nhau. Dây rún mẹ buộc một nùi khô quắt không rời, chúng thương nhau lắm. Chỉ có mình tôi dây đó không thiêng, đi đâu cũng chỉ một mình. Ở lại với hai đứa sau, chị em trong nhà cũng ít gần gũi. Tình thương chúng đối với tôi không nhiều bằng đối với nhau, dù vẫn thương đó. Cũng không phải lạ. Tính tôi khó khăn, đàn bà con gái mà không dịu dàng, đúng sai phải quấy cũng chẳng biện minh nửa lời, cứ thế mà sống. Gần được mới là chuyện lạ. Cho đến bây giờ dù đã thay đổi khá nhiều, vẫn có một cái gì đó không đồng, không thể khắn khít như chúng khắn khít với nhau, dù chúng thương tôi rất mực. Dây rún mẹ buộc không qua nổi nghiệp dĩ con người gây tạo với nhau. Nhân duyên quá khứ chi phối đời sống con người hiện tại không phải là ít. Giá trị của việc giáo dục Ngày cha còn sống, giáo dục con cái rất kỹ. Nội chỉ là bà nội kế, với cha cũng không mấy tốt, nhưng không được nói một từ “nội ghẻ” trước mặt con cháu. Cha dạy từng li từng tí. Mẹ ngủ, không được lê dép, không được kéo cửa mạnh tay. Học có giờ. Ngủ đúng giấc. Vật dụng, sách vở, đồ chơi… không đứa nào hơn đứa nào. Một năm một cái cặp, hai bộ đồ mới. Giày dép cũng chỉ một đôi một năm. Phải biết giữ gìn mọi thứ cho đến cuối năm. Thứ gieo vào đầu chúng tôi không phải là làm ra tiền thật nhiều mà làm ra tiền thế nào và để làm gì. Bằng những câu chuyện nhân quả tự nhiên xảy ra trong đời. “Ông đó bạn mẹ, làm luật sư phất lên mau lắm, nhưng ba đứa con sinh ra, không đứa nào có lỗ đít. Tại làm luật sư cãi đen thành trắng, tiền vô mới lẹ…”. Mô Phật! Tụi tôi tự hiểu phải làm thế nào để con cháu mình không phải ăn vô mà ra thì phải bắt ống. Được dạy biết đủ ngay từ lúc nhỏ, đời sống tụi tôi lại được chu toàn, nên dù cha đã mất rồi, “tột đỉnh tiền bạc danh vọng” không phải là mốc phải đạt bằng được. Học hành đàng hoàng để có sự nghiệp lo cho bản thân gia đình là việc cần thiết. Dư dả thì tốt, không dư thì thôi. Cho nên, quan hệ chị em chúng tôi cho đến bây giờ, dù có những chuyện bất đồng xảy ra, cũng không phải do coi trọng tiền bạc. Vật chất không phải là thứ có thể xóa bỏ cái dây ân nghĩa gia đình. Nhà cửa cha mẹ để lại chúng vẫn giao đó. Mình tôi quản lý. Đồng tiền sinh lợi, phân nhiêu đó phân, không ai có tâm đòi hỏi, dù đó là ít hay nhiều. Cha dạy chúng tôi phải biết thương yêu, chia xẻ, hiếu nghĩa... Thương yêu để được thương yêu. Hiếu nghĩa để được hiếu nghĩa. Chia xẻ để đươc chia xẻ. Không phải chỉ nghĩ trong đầu hay trên đầu môi chót lưỡi mà bằng hành động hẳn hoi. Nếu con thương em thì hãy nhường em một bước. Nếu con thương mẹ, hãy để mẹ được bình yên dù chỉ là giấc ngủ nông. Muốn được tin tưởng thì đừng nói dối, phải biết tự tạo uy tín cho mình. “Ngày xửa ngày xưa, có một thằng nhỏ. Nó có cái tật hay giỡn. Bữa nọ, bà con chung quanh thấy nó vừa chạy vừa hét “Nhà cháy! Nhà cháy! Ới bà con ơi! Cứu tui”. Thiên hạ gậy gộc thùng xô chạy đến, chẳng thấy cháy đâu, chỉ thấy nó mặc xà lỏn đứng đó ôm bụng cười ngất. Lần sau cũng thấy nó hô nhà cháy nhà cháy. Người ta mặc nó. Nhà nó cháy thiệt. Sạch sẽ. Chỉ còn cái quần xà lỏn trên người. Lần này nó không cười nữa mà khóc hu hu… Thiên hạ xúm lại thương xót, chửi nó: “Cũng tại cái thằng mày ngu. Ai mượn lần trước mày gạt tụi tao. Lần này cũng tưởng mày giỡn, có ai mà ngờ nhà mày cháy thiệt”. Cứ thế, những câu chuyện nhỏ, cha mẹ răn dạy chúng tôi nhân quả trong đời. Ở hiền gặp lành. Gieo gió gặt bão. Nhân gieo thế nào gặp quả thế đó…(1) “Người anh tham lam lấy hết của cải của em, chỉ cho cây khế. Người em tính tình hiền lành nên được trời thương. Cây khế ra trái rất nhiều. Chim vàng tới ăn và chở cho đi lấy vàng, trở thành giàu xụ, cất nhà hoành tráng còn hơn cả anh... Tụi con thấy đó, đừng tham những gì không phải của mình. Anh em trong nhà phải biết chia xẻ với nhau. Giành giựt tham lam sẽ gặp nạn tai như người anh cả”. Ngụ ngôn, chuyện phiếm đều thành chuyện thật trong đầu chúng tôi. Không thể ý thức hoàn toàn như người biết đạo, nhưng những việc đó cũng giúp chúng tôi hình thành nhân cách của mình ở mức tương đối. Ông cũng kiểm soát chặt chẽ sách báo, phim ảnh, giờ giấc học tập, giải trí cũng như ngủ nghỉ… Nề nếp gò bó không phải là việc trẻ con thích thú. Nhưng phải làm hoài, trở thành bình thường lúc nào không hay. Có chồng con rồi, cũng không ý thức hết tầm quan trọng của việc làm đó. Chỉ đến sau này, khi đến với pháp của Phật, mới thấy ý nghĩa những việc mà cha đã làm. Cha không đến chùa học đạo nhưng cách cha dạy chúng tôi phù hợp với đạo. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: Tâm có tính huân tập và “giữ gìn nghiệp thiện ác trong vô lượng đời quá khứ khiến chẳng mất. Lại hay thành thục quả báo khổ vui trong hiện tại và vị lai không hề sai lệch”(2). Những gì ta đã trải qua sẽ được lưu giữ và tích tụ đó. Thói quen là một hình thức của sự tích tụ. Thói quen tạo thành tính cách con người và có khả năng chi phối con người rất mạnh. Tập cho trẻ con thực hành những việc lương thiện, dù là nhỏ nhặt ngay trong đời sống thường nhật, khi còn rất nhỏ, chính là giúp chúng hình thành nhân cách tốt đẹp của chúng sau này. Tập càng lâu, càng nhiều, lực của thói quen càng mạnh. Một khi thói quen đã thành tính cách của chúng thì chúng cứ thế mà sống. Muốn con hiếu nghĩa với mình, cần tập cho chúng ngay từ lúc nhỏ. Muốn con bố thí, cần tập cho chúng bố thí ngay từ lúc nhỏ. Muốn cái gì cứ tập cho chúng cái đó. Nhưng nhớ, tính huân tập của tâm thì đồng, mà cái nhân huân tập tùy nhân tùy duyên mà có sai khác. Những gì mang tính vị tha, sẽ đưa đến quả an lạc, hạnh phúc. Những gì mang tính vị kỷ, sẽ hưởng cái quả khổ đau, bất hạnh(3). Cho nên, dù tập cho con hiếu nghĩa mà hiếu nghĩa ấy mang tính vị kỷ quá mức, hạnh phúc nó hưởng cũng bị cản trở khá nhiều. Cha mẹ tập cho chúng tôi biết sống thương yêu, trách nhiệm, nề nếp, chia xẻ, thông cảm… để tạo nền tảng cho một cái quả tốt đẹp về sau, cũng là cái duyên hạn chế phần nào phần “con” trong mỗi “con người”, mà do vô minh chúng tôi đã gieo từ vô lượng kiếp về trước. Hòa thượng Tịnh Không, cho việc dạy con không phải đợi đến lên ba mà cần thực hiện khi mới tượng hình:“Trong vòng bảy ngày, hãy nên tụng bộ Địa Tạng bản nguyện. Tốt nhất là nên tụng sớm. Mỗi ngày gắng tụng một bộ. Không thì nên niệm danh hiệu Bồ -tát Địa Tạng. Cần phải dùng tâm chân thành cung kính tụng niệm…”.Vì sao dạy con mà lại niệm Phật? Vì một lòng chuyên niệm có thể chuyển nghiệp, chuyển họa thành phúc. Nếu được phúc rồi thì phúc thêm nữa. Theo ngài, nhân duyên nối kết những kẻ thân thuộc trong một gia đình không phải chỉ có ân tình mà còn cả dây oan nghiệt. Ân thì không nói. Giả như đứa bé trong thai đến để báo oán thì do tụng niệm như vậy, oán kết sẽ được hóa giải. Cho nên, chuyển nghiệp phải chuyển ngay từ buổi đầu. Chậm nhất cũng là bảy ngày trước khi mẹ sinh. Ngày nay, đa phần ít tin nhân quả nên ít dạy trẻ cái nhân vị tha. Cũng không biết tâm có tính lưu giữ, nên để con trẻ tiếp xúc thoải mái với các phim ảnh thiếu tính giáo dục. Chỉ huân vào tâm hình ảnh trả thù, tàn phá, cướp bóc mang tính vị kỷ. Người lớn không thể làm chủ dục vọng của mình nên không thể dạy trẻ con làm chủ dục vọng của chúng. Gia đình bất ổn, xã hội không thể an bình. Cũng ít ai tin một lòng cung kính trì niệm danh hiệu Phật Đà có thể chuyển nghiệp của mình và con, nên ít ai chịu niệm Phật khi đang mang thai. Chỉ thích nghe nhạc, đọc sách… để con phát triển tư duy, sau này có danh, có lợi với đời. Quên mất danh lợi vô thường. Có mà vui thì mất không khỏi khổ. Và nếu nghiệp của con trẻ và mình không tốt thì khó mà có tương lai để nói mấy chữ thông minh, hạnh phúc. Em bé bị xuất huyết não. Bố mẹ cả hai đều là bác sĩ nhưng đành bó tay mà nhìn con trẻ ra đi. Chỉ vì… ùn tắc giao thông. Honda còn không thể nhích nói gì xe hơi. Chẳng ai có thể nhường ai lúc đó. Với duyên như vậy, nương vào sức người làm sao gỡ được? Thuyên tắc nước ối là một bệnh lý rất hiếm. Trong 100.000 ca sinh chỉ khoảng 7 ca xảy ra. Bệnh này không có dấu hiệu báo trước, không thể phòng ngừa, đa phần bệnh viện không thể xử lý kịp thời, nên tỷ lệ tử vong cả mẹ và con rất cao. Vậy mà vừa rồi nó đã xảy ra, khi mà sức khỏe thai phụ trước đó vẫn tốt, cổ tử cung đã mở, thai nhi đã lọt xuống dưới(4). Phải nói, trong đời có nhiều cái duyên nhìn vào thấy thật đau lòng. Có nhiều oan nghiệt nhìn vào không biết trở tay ra sao. Duyên nghiệp con người đã tạo từ thời quá khứ, nếu không dùng câu niệm Phật hay những thiện nghiệp hóa giải ngay từ lúc đầu, thì khi nghiệp báo đủ duyên, không thể trở tay. …không qua nổi định nghiệp Những gì cha mẹ đã dạy trở thành máu huyết tuôn chảy trong người chúng tôi. Rồi cha mất sớm. Mẹ một tay lo hết trong ngoài. Đứa thứ hai, một trong hai đứa quấn cùng dây rốn với tôi, xứ lạ quê người, thay mẹ gồng gánh hai em khi tuổi chỉ mới mười lăm. Tự thân vừa học vừa làm, lo cho hai em học hành đến nơi đến chốn, công danh sự nghiệp ở đời đầy đủ. Trong mấy đứa em tôi thương nó nhất, tại nó chững chạc và biết lo toan trong ngoài, lại rất hiếu nghĩa. Không phải chỉ với mẹ cha mà cả với chị với em, dòng họ thân thuộc. Mẹ mất. Thằng bé nghe tin hụt hẫng. Thêm vài chuyện nữa, quá tải cái đầu của nó. Câu chuyện chén tạc chén thù cho qua những phút khổ đau trong phim Hàn Quốc hiện ra. Không ai thấy rượu nguy hiểm. Chỉ thấy nó giúp quên được ít nhiều. Không thấy nó thấm vào máu vào xương. Tích tụ. Khiến người tê liệt hết mọi suy nghĩ tốt lành. Câu chuyện uống rượu không phải là lý do chính tạo sự chia rẽ giữa anh chị em. Nhưng chính do rượu, cái tính bình lặng ngày xưa không còn, không còn phân biệt đâu phải đâu trái như xưa. Nghe khích một câu, tức lên chửi loạn xà ngầu. Giận rồi đâu còn khôn nữa. Cái việc nói ra nói vô để chồng tách hẳn gia đình thân thuộc không phải chuyện lạ ở thế giới này. Mình cũng có chồng, cũng hiểu phần nào tính ích kỷ ấy. Nhưng do cậu em một phần. Lấy vợ mà vẫn nghĩ chết để lại tất cả gia tài sự nghiệp cho cái dây rún kế sau, trong khi tiền bạc danh vọng con nhỏ không thiếu. Vợ nào chịu nổi mà không tính chuyện tách thửa khi nó phải lo cho đại gia đình của nó. Thế là cô vợ chơi chiêu thủ thỉ, lần lượt cho đi. Lúc đầu mấy đứa bên kia. Tới sau, mấy đứa bên này. Dây rún mẹ buộc một mình cô bứng ra hết, cho đi nhẹ nhàng từng em. Tính ra con nhỏ bỏ sức cũng nhiều. Bởi lấy nó về, cậu em bỏ rượu ít nhiều, không còn hũ chìm hũ nổi như xưa. Bạn xấu đi hết, sự nghiệp nhà cửa vững vàng. Cũng vì chuyện đó, chị em chúng tôi chẳng thấy nề hà cái việc tách thửa mà cô đã làm. Miễn thấy em mình có vợ có chồng, mạnh khỏe an ổn là được. Việc giúp gia đình thân thuộc bên vợ cũng là việc tốt, giữ gìn cái phước về sau, có gì nề hà? Thấy nó khỏe yên là được. Chuyện chỉ có vậy. Ly hợp hợp ly. Cũng chuyện bình thường ở thế giới này. Có điều, du qua cái khúc ly hợp ấy rồi mới thấy câu nói người xưa giá trị. “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Ai cũng hay sợ nạn xấu xảy ra với mình, nhưng khi gây nhân lại rất mạnh tay, ít ai nghĩ tới nhân quả. Không nhân, thì duyên dù đủ bao nhiêu, cũng không có quả. Nhưng nhân một khi đã gieo, trúng phải định nghiệp, thì thôi xảy ra vô vàn cái duyên khiến mình hết đường xoay xở, chỉ biết ì đó chịu trận. Lời nói cô vợ không có giá trị nếu không có sự trợ giúp bên đây. Nói tiếng “trợ giúp” là muốn nói đến cái duyên liên quan hai đứa bên này. Không phải vì chúng nói ra nói vô với cậu em trai. Chúng thương tôi lắm, lo toan con cái nhà cửa cho tôi tất cả. Tôi vẫn bảo bọc cho chúng từ khi mẹ mất. Nhưng đời nhiều duyên đưa đẩy… Một con bảo lôi nó ra vì nó lúc tỉnh lúc mê, làm ơn giúp nó. Mình lôi nó ra chưa xong, một phút vô minh, nó hô mình đang phá nó. Một con nói làm cái việc mà dù muốn làm, mình cũng không thể làm được. Giải thích. Nó bực và đòi bỏ đi… Vô thế. Chỉ nghĩ thoáng rằng “đen trắng thế nào, thời gian rồi sẽ trả lời. Khi qua cơn mê, chúng sẽ nghĩ lại”. Thì chúng nghĩ lại. Ân hận. Thương tôi nhiều hơn. Nhưng cách một bể đại dương, qua một cái đầu đã có chủ ý, trở thành câu chuyện cản trở hôn nhân, giành giựt nhà cửa. Cho rằng cấu xé, thương tổn, ra đi đều vì chuyện đó. Cậu em bực tức vì nghĩ tôi bạc với anh chị em. Nghiệp quả đến hồi phải trả, duyên tụ khít khao vô cùng. Lúc trước rất buồn. Khóc sưng cả mắt cá chân. Cái thằng mình thương nhất nhà, chưa từng một lời nói nặng với nó, lỡ hết tiền bạc của mình, mình cũng cười vui để nó không buồn. Vậy mà… Giờ thì mặc kệ. Không kệ thì làm gì được? Phần Báo Oán Hạnh nói rằng: “Người tu khi gặp cảnh khổ phải tự nghĩ rằng: Ta, từ xưa đến nay, trong vô lượng kiếp, bỏ gốc theo ngọn, cho nên trôi lăn các cõi. Đa phần gây tạo cái nhân oán ghét nghịch hại vô cùng. Đời này tuy rằng không phạm, nhưng do cái họa đời trước, nghiệp ác chín rồi, không phải trời không phải người có thể cùng thấy. Cam tâm nhẫn chịu, trọn không oán trách”. Lời Tổ nhắc tôi nhớ lại cái đêm không trăng không sao trước đó vài năm, mơ thấy con em vơ cái bát dơ đặt lên bàn thờ. Mẹ không la nó, lại ném cái bát ngay vô đầu mình. Cái điềm oan gia báo trước cho rồi mà quên. Không phải lỗi mình mà mình phải lãnh cái quả. Ừ, ừ, không phải lỗi mình là nói cái duyên hiện tại. Trên mặt nhân quả ba đời, làm gì có quả mà không có nhân. Bạn bè trách tôi sao không giải thích cho thằng em tỉnh. Giải thích nếu được, Bạch Ẩn ngày xưa chắc giải thích rồi, đâu phải ôm trẻ xin sữa từng nhà, uy danh mất hết, để người mắc tội. Một khi kiến chấp đã có thì nói kiểu gì cũng biện cho thành cái ý đã nghĩ. Hai nhân vật chính cũng đã giải thích nhưng đều vô hiệu. Nghiệp gây tới hồi trả quả, càng biện càng mệt, càng động càng vương. Vả lại, nói nặng nói nhẹ là chuyện đâu đó bàn tán sau lưng. Trước tôi, chưa dám một lời xúc phạm, thành nói gì giờ? Thôi thì lặng lẽ coi như không có việc gì. Mình khỏe mà người khỏi mệt. Cha mẹ chẳng may còn đó, cũng sẽ buồn vì thấy con cái lời qua tiếng lại, cũng sẽ yên vui nếu thấy mình chẳng để tâm, thân thuộc vẫn là thân thuộc. Khi nào tỉnh giấc Nam Kha thì quay đầu về. Họa phúc đâu có ranh giới nhất định. Chỉ tùy suy nghĩ từng người. Không trí, phúc biến thành họa. Có trí, biến họa thành phúc. Buồn chi cho già! Cái chính là tôi mơ thấy trong vô lượng kiếp về trước, tôi đã khiến người uất ức vô vàn. Cũng thấy vì sao khiến người uất ức nhưng nói ra đây không tiện. Trong mơ, thấy vô lượng người uất ức, tôi mới nảy sinh ý nghĩ thí thân xóa oán. Ai muốn làm gì đó làm, chỉ với điều kiện xóa bỏ oán xưa. Đa phần chỉ mới nghe qua, tâm đã hoan hỷ tha thứ bỏ đi. Còn lại người chửi, người đánh, người đòi xẻ thịt. Đánh tới đâu an lạc tới đó. Xẻ tới đâu mạnh khỏe tới đó. Giấc mơ rất ứng với câu trong Báo Oán Hạnh: “Khi tâm sinh, cùng lý tương ưng. Nhờ vào gốc oán mà tiến được đạo”. Nếu “không” được tâm với tất cả sự - nghĩa là ngay nơi những việc xảy ra mà tâm yên được - thì khi oán tới chính là cái duyên giúp mình tiến đạo. Sự đời, nghiệm ra không gì qua khỏi hai chữ nhân duyên. Dây rún mẹ buộc ao ước con cái thuận hòa, thương nhau không qua được những định nghiệp con cái gây tạo với nhau. Quan hệ thân thuộc, không phải chỉ có nhân duyên thuận hòa mà còn nhân duyên oan nghiệt. Người nói con nghe, người dạy con khó, thân thuộc bạc ác… một phần cũng do duyên nghiệp đời trước chi phối. Phước nhiều thì thuận hòa nhiều. Phước ít, oan nghiệt tăng thạnh. Cái phước chúng tôi có được là trong hiện đời cha mẹ biết cách dạy dỗ chúng tôi, lại còn gặp được giáo pháp Phật Tổ đã dạy. Nên nghiệp báo tới mới không đến nỗi muộn phiền. Cũng được trợ giúp bằng những giấc mơ để biết nhân quả mà không tạo thêm nhân mới. Không thì lời qua tiếng lại, thù hằn, oán hận không biết bao giờ mới nguôi trong kiếp luân hồi. Chú thích (1) Đây là nói nhân quả trên mặt tổng quát thiện ác. Với cái nhìn chi tiết, theo Duyên khởi của nhà Phật, thì mọi thứ còn bị chi phối bởi duyên. (2) Phần Thức tương tục. (3) Đây là đang nói trên mặt Nhân quả. Nhân như thế thì cho ra quả như thế. Trên thực tế, thấy có sự sai khác ít nhiều là do nghiệp hiện tại còn bị chi phối bởi nhân duyên đời quá khứ, không phải nhân quả có sự sai lệch. (4) Báo Tuổi Trẻ ngày 11-5-2012. Chân Hiền Tâm
    1 like
  12. Trần Nguyên (theo New York Times) Chẳng cần phải lý luận nhiều, mất thời giờ. Nước Nga thừa hiểu nếu Trung Quốc mạnh lên như là một quốc gia lãnh đạo thế giới thì địa vị của nước Nga bên cạnh Trung Quốc sẽ như thế nào? Nếu tự thân nước Nga không thể làm bá chủ thế giới thì họ sẽ chọn ai nếu cuộc đối đầu Mỹ - Trung xảy ra? Bởi vậy, mọi mối quan hệ tốt đẹp của Nga với Trung Quốc, tôi chỉ coi là hành vi làm giá của Nga với Hoa Kỳ.
    1 like
  13. Luận điệu khó hiểu trên Thời báo Hoàn cầu 08:49 | 04/07/2012 Những tiếng nói tôn trọng lẽ phải và sự thật TP - Nhiệm vụ của báo chí là thông tin kịp thời, chính xác sự kiện để định hướng dư luận, nhưng trong vấn đề Biển Đông và quan hệ Việt - Trung hiện nay thì một số báo Trung Quốc đã không làm như thế. Ngư dân Quảng Nam đánh cá trên vùng biển của Việt Nam bị phía Trung Quốc bắt bớ, phạt tiền trong khi Thời báo Hoàn cầu bịa thành: "Phía Việt Nam bắt thuyền, cướp của, lấy cá!". Ảnh: Nam Cường. Trái lại, họ còn đăng tải những thông tin bịa đặt, xuyên tạc, kích động chia rẽ quan hệ hữu nghị giữa hai nước, đi ngược lại xu thế hòa bình, phát triển trong khu vực. Báo điện tử Hoàn cầu (www.huanqiu.com), bản điện tử của “Thời báo Hoàn Cầu” - trực thuộc “Nhân dân Nhật báo” là một tờ báo như thế. Lật chuyện và bịa đặt 06h48’ ngày 3-7-2012, báo này đưa lên bài của Chu Mã Liệt nhan đề: “Báo chí nói Việt Nam xâm chiếm lãnh thổ Nam Hải của Trung Quốc nhiều nhất, tới 29 đảo, bãi đá” với nội dung đầy rẫy những thông tin bịa đặt, xuyên tạc, kích động tình cảm chống Việt Nam trong công chúng Trung Quốc và người Hoa trên thế giới. Dưới các tít phụ “Người “anh em” Việt Nam của chúng ta bắt ngư dân, chiếm đảo, ăn cắp dầu mỏ của ta ở Nam Hải”, “Hội chứng sợ Việt Nam của ngư dân Trung Quốc”, “Đánh người, bắt thuyền, cướp của, lấy cá”, “Không nhận anh em, nói gì đến tình hữu nghị”, “Chiến lược của Việt Nam: Vô danh hữu thực, đem dầu lấy từ Nam Hải lên bán cho Trung Quốc”, “Nhân đám cháy cướp của”... tờ báo này dựng lên những chuyện tày trời: Nào là chuyện ngư dân Trung Quốc đánh cá trong vùng biển của Trung Quốc bị pháo hạm của Việt Nam “truy đuổi, bắn, cướp cá”. Bài báo đưa lời của một ngư dân Quảng Tây là Diệp Thiệu Minh kể việc tàu của ông ta khi đánh cá trong vùng biển của Trung Quốc thường xuyên bị các tàu chiến Việt Nam truy đuổi, phun vòi rồng, bắn chỉ thiên xua đuổi... khiến họ không làm nghề được. Vụ việc tàu Trung Quốc cản trở quấy nhiễu tàu Viking II của Việt Nam thăm dò trên thềm lục địa của Việt Nam hôm 9-6-2011, bị xuyên tạc thành “Tàu cá Trung Quốc bị tàu vũ trang của Việt Nam truy đuổi trái phép ở bãi Vạn An, dẫn đến việc lưới của tàu cá Trung Quốc bị mắc vào cáp của tàu thăm dò dầu khí Việt Nam đang hoạt động trái phép. Tàu Việt Nam bất chấp an toàn tính mạng của ngư dân Trung Quốc, đã kéo lê tàu cá Trung Quốc chạy lùi hơn 1 giờ đồng hồ, ngư dân Trung Quốc phải chủ động cắt bỏ lưới mới thoát ra được”. Một ngư dân khác kể chuyện tàu của ông ta thường xuyên bị tàu kiểm ngư và tàu biên phòng Việt Nam truy đuổi phải cắt lưới để chạy “nếu không, bị họ bắt thì thiệt hại càng lớn, bị phạt khoảng 10 vạn tệ (330 triệu VND)”. Không những thế, bất chấp sự thật các tàu của ngư dân Việt Nam đánh bắt trên vùng biển quần đảo Hoàng Sa thường xuyên bị lính Trung Quốc đuổi bắt, tịch thu tàu, cướp hải sản, ngư cụ và bắt nộp tiền chuộc, bài báo này lại rêu rao về việc tàu cá Việt Nam “thường xuyên xâm phạm lãnh hải Trung Quốc đánh bắt, lại còn xin thuốc lá, rượu, dầu, gạo của ngư dân Trung Quốc”. Bài báo vu khống: “Từ tháng 6-2004, sau khi Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ có hiệu lực, ngư dân Trung Quốc không ra đánh bắt ở khu vực ranh giới nữa, nhưng người Việt Nam vượt biên sang đánh bắt bên ta rất nhiều. Người Việt Nam dùng lưới điện và thuốc nổ đánh bắt kiểu hủy diệt môi trường, nên tài nguyên bên biển họ cạn kiệt, chả còn gì để đánh bắt nữa” (!?). Sự kiện Trung Quốc gây hấn, dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay quân đội Sài Gòn năm 1974 được bài báo đổi trắng thay đen thành: Từ ngày 15 đến 19-1-1974, chính quyền Sài Gòn huy động quân đội xâm phạm nhóm đảo “Vĩnh Lạc” trong quần đảo “Tây Sa”, đánh chiếm các đảo “Cam Tuyền” và “Kim Ngân”, nên “quân dân Trung Quốc đã vùng lên đánh trả, đánh đuổi quân đội Nam Việt, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ” (!?). Bài báo còn dựng chuyện bịa đặt rằng, quân đội Sài Gòn “xâm chiếm” các đảo Sinh Tồn, Song Tử Tây, Nam Yết, Sơn Ca, Trường Sa, An Bang trong thời gian từ tháng 7-1974 đến tháng 2-1975, trong khi trên thực tế, họ đã đóng quân trên các đảo này từ mấy chục năm trước đó. Bài báo “kết tội” Việt Nam sau khi thống nhất đất nước đã “không ngừng mở rộng việc xâm chiếm các đảo, bãi đá không người ở”, đến khi bình thường hóa quan hệ Việt - Trung đã chiếm 26 đảo, bãi, trong các năm 1993, 1998 lại chiếm thêm 3 đảo, bãi nữa. Kích động chia rẽ không lường Thật nực cười khi tác giả bài báo coi việc Việt Nam ra tuyên bố về đường cơ sở, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của mình theo Công ước quốc tế về Luật Biển 1982 là “hành động chiếm đoạt tới hơn 1 triệu cây số vuông vùng biển truyền thống của Trung Quốc”, rồi “đẩy mạnh hoạt động thăm dò khai thác dầu mỏ ở vùng biển của Trung Quốc”. Bài báo đưa ra tính toán: “Việt Nam mỗi năm khai thác tới 8 triệu tấn dầu mỏ ở vùng biển tranh chấp Trung - Việt, chiếm tỷ lệ khá lớn trong sản lượng 30 triệu tấn dầu/năm của Việt Nam. Cho đến năm 2008, Việt Nam đã khai thác khoảng 100 triệu tấn dầu, 1.55 tỷ mét khối khí ở vùng biển Nam Sa (tức Trường Sa), kiếm lợi trên 25 tỷ USD”. Bài báo cho rằng, “Việt Nam đã hút dầu của Trung Quốc bán cho Trung Quốc”: Năm 2011, Việt Nam xuất sang Trung Quốc 1,25 triệu tấn dầu thô. Chưa hết, tác giả còn gây chia rẽ quan hệ Việt - Trung bằng việc dựng lên chuyện “Việt Nam mượn địa vị là Chủ tịch ASEAN để tạo điều kiện cho Mỹ gây sức ép với Trung Quốc”. Việc Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển dưới mắt Chu Mã Liệt trở thành hành vi “nhân đám cháy để cướp của” khi Trung Quốc đang phải tập trung đối phó với Philippines trong vụ việc tranh chấp bãi Scarborough. Cũng báo điện tử Hoàn Cầu, từ ngày 2-7 đã đưa lên giao diện trang chủ bài viết “Xung đột Trung - Việt: màn mở đầu của cuộc chiến bảo vệ Nam Hải” sặc mùi hiếu chiến lấy từ blog của Tây Tử Lâm. Người này viết: “Nhìn vào vị trí 9 lô dầu khí mà CNOOC mời thầu quốc tế hôm 23-6, có thể phát hiện 9 ô này đều nằm trong Đường 9 đoạn (Đường Lưỡi bò), áp sát Việt Nam, tạo thành bức tường hình vòng cung ôm lấy Việt Nam, là một phòng tuyến kiềm chế Việt Nam lấn chiếm Nam Hải của chúng ta”. Theo tác giả, hiện nay Trung Quốc “có tiền, có súng, có thị trường” và “tình hình tất sẽ phát triển theo hướng khó tránh khỏi xung đột. Giếng dầu khoan ngay cửa ngõ nhà Việt Nam, liệu họ không bốc hỏa sao? Chưa kể bọn Khỉ (từ tác giả miệt thị Việt Nam - Người dịch) luôn tranh giành chủ quyền Nam Hải với ta. Nếu bọn Khỉ chấp nhận thì phải từ bỏ tranh giành. Nếu họ dám phá thì ngoài việc thu hồi những đảo họ đã cưỡng chiếm, ta còn thu hồi cả những mỏ dầu họ đã khoan trước đây. Hành động của CNOOC đã dồn bọn Khỉ đến chân tường. Xung đột là điều tất nhiên. Cuộc xung đột Trung - Việt sẽ là màn mở đầu của cuộc chiến tranh thu hồi chủ quyền Nam Hải”. Thật khó hiểu khi một cơ quan truyền thông chính thống của Trung Quốc lại cho đăng những bài báo với giọng điệu và ngôn từ như thế! “Thời báo Hoàn Cầu” đang toan tính điều gì đây?? Thu Thủy ======================= "Luận điệu khó hiểu trên Thời báo Hoàn cầu". Cá nhân thiên Sứ tui thì chẳng có gì là khó hiểu cả. Nó có từ thời Đại cách mạng văn hóa ở xứ Tàu lận. Báo thì phải chữ to, cái gì cũng cứ phải bành trướng lên quá sự thật, đến mức ngay cả từ "đại" đã là to. "Vĩ đại" đã là quá to lớn thì nó cũng phải thành "cực kỳ vĩ đại". "Đỏ" thì đã là "đỏ", đỏ rực" thì cũng là "đỏ rực" thì cũng là trên cả đỏ rồi. Vậy mà nó còn phải "Đỏ rực, đỏ rực nhất". Họa báo của Trung Quốc hồi đó ca ngợi tư tưởng Mao Chủ Tịch không chỉ là thần tượng trong lòng nhân dân Trung Quốc mà còn của tất cả nhân dân tiến bộ toàn thế giới. Một người thợ sửa máy bay dân sự ở Trung Quốc xong thì báo cáo với cả thế giới là đã hoàn thành nhiệm vụ. Đế Quốc Mỹ thì chỉ là "con hổ giấy", máy bay Mỹ xâm phạm không phận thì cảnh cáo tới lần thứ....467. Sau đó thì lần thứ 468 chính là chuyên cơ chở tổng thống Hoa Kỳ nhậu ở Bắc Kinh....Ối giời ơi! Nếu cứ kể một cách trung thực những gì mà cơ quan ngôn luận của Trung Quốc nói ra thì những người không sống ở thời đó cứ tưởng Thiên Sứ bị bệnh thần kinh nên nói nhảm. Ở một cái đất nước mà một tay đội trưởng dân phòng hiếp dâm vợ ngay trước mặt người chồng cách đồn cảnh sát không xa, mà kẻ bị nạn không dám hó hé, thì quý vị muốn nói gì cũng được, người dân Trung Quốc chắc cũng vỗ tay ầm ầm cả thôi. Nhưng đưa những điều đó sang Việt Nam và thế giới thì người ta nhận thấy ngay quí vị không phải là người biết phải trái, đúng sai. Bởi vậy, qui vị Thời Báo Hoàn cầu nên ít nói thôi. Nếu không thì"ngậm máu phun người, trước bẩn miệng ta" đấy! Quí vị hãy nhìn lại chung quanh xem: Chẳng ai là đồng minh đáng tin cậy của quý vị cả. Nay lại thêm nói nhăng cuội nữa thì không chỉ chẳng ai chơi, mà là chẳng ai còn có thể tin nổi quý vị.
    1 like
  14. Cháu cảm ơn chú Thiên Luân ạ Chú ơi, năm 2016, cháu sinh con trai hay con gái thì đẹp hả chú? (cháu vẫn mong là con trai thì tốt quá ạ). Cháu chúc chú ngày mới tốt lành ạ
    1 like
  15. 1. ĐÚng vậy, quẻ trong phần xem ngày của LHĐP đã tính sẵn theo giờ tương ứng rồi. Tuy nhiên bạn nên đọc phần chênh lệch giờ âm lịch so với dương lịch theo từng tháng để biết được chính xác giờ âm lịch nào để xem quẻ tương ứng! 2. Dự báo thời gian sự kiện phải năm đc độ số của quẻ Bát Môn và Lục Nhâm, tính tương sinh tương khác của nội bộ quẻ để cộng hoặc trừ tương ứng, cái này có phẩn cảm tính và cảm hứng của người đoán quẻ. 3. Lấy theo quẻ đầu, tốt nhất mỗi sự việc ko nên lên quẻ nhìu vì sẽ bị loạn quẻ và ko đoán được kết cuộc. Thân mến.
    1 like