-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 23/06/2012 in all areas
-
Hãy Làm Khi Còn Có Thể
Đại Phúc and 2 others liked a post in a topic by Hạ Quốc Huy
Có thể bạn ta mới đến thăm ta ngày hôm qua, mà hôm nay ta được báo tin là người đó đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Nhận được tin ấy mà lòng ta bồi hồi xúc động, và ta dường như không thể tin vào những gì mà tai mình vừa mới nghe thấy. Ta nói với người đến báo tin với ta rằng “tôi mới nói chuyện với anh ấy ngày hôm qua mà” hay “chị ấy mới đến thăm tôi và còn tặng quà cho tôi nữa mà”. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Người bạn ấy của ta đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Và có rất nhiều, rất nhiều trường hợp tương tự như thế. Người ta mới thấy đó nhưng giờ đây đã không còn nữa. Khi chúng ta giao tiếp, cư xử với người xung quanh với ý thức rằng có thể ngày mai ta sẽ không có cơ hội nghe được giọng nói của người đó nữa. Có thể ngày mai ta sẽ không còn thấy được nụ cười tươi trên khuôn mặt người đó nữa. Thì tự nhiên ta sẽ trân quí sự có mặt của người đó, và ta sẽ không nỡ nói hay làm những gì có thể gây tổn thương cho người đó. Người đó có thể là ba mẹ chúng ta. Người đó có thể là chồng hay là vợ của chúng ta. Và người đó cũng có thể là con cái chúng ta… Chúng ta sống với ý thức về sự vô thường, ngắn ngủi của một kiếp người càng sâu sắc, thì cách sống của chúng ta, cách hành xử của chúng ta cũng sâu sắc và yêu thương hơn. Mỗi người trong chúng ta hay có khuynh hướng nghĩ rằng những người thương của chúng ta sẽ sống với chúng ta hoài, sẽ sống với chúng ta mãi. Chúng ta ít có khi nào nhớ rằng có thể chỉ sau một đêm thôi thì ta sẽ mãi mãi không còn gặp người ấy nữa. Ta muốn nói những lời xin lỗi của ta với người ấy, ta muốn nói lòng biết ơn của ta với người ấy hay ta muốn thể hiện tình thương của mình cho người ấy - nhưng đã trễ rồi. Người đó đã không thể nghe, và mãi mãi sẽ không thể nghe những gì ta muốn nói dù chỉ một lời. Vì vậy bạn hãy vui lên đi, bạn hãy cười tươi lên đi khi bạn vẫn có ba, có mẹ còn sống bên bạn. Bạn hãy hạnh phúc lên đi khi những người thương của bạn vẫn còn đó cho bạn. Và bạn hãy can đảm để nói cho người thương của bạn những gì sâu kín nhất trong lòng của mình. Vì có thể bạn sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa nếu bạn không nói ra điều ấy. Và bạn hãy tha thứ cho tất cả những ai đã từng làm hại bạn, làm tổn thương bạn vì có thể ngày mai bạn cũng sẽ không còn có mặt trên cõi đời này nữa. Điều mà tôi khám phá ra trong cuộc đời của mình cho đến tận bây giờ, điều mà làm cho tôi hạnh phúc đó là tình thương, sự tha thứ, bao dung. Có thể tôi thực tập yêu thương còn kém, có thể sự tha thứ, bao dung trong tôi còn kém nhưng đó là con đường mà tôi sẽ nguyện đi trên ấy mỗi ngày. Tôi tự nói với chính mình “hãy thương yêu khi có thể, hãy tha thứ, bao dung khi có thể, bởi vì chỉ một giây phút thôi thì những điều này sẽ trở thành không thể.” Và điều mà làm cho tôi hạnh phúc nhất không có gì khác hơn sau khi các bạn đọc những dòng chữ này,những điều này , thì sự thương yêu, tha thứ, bao dung trong bạn được biểu hiện và nhân lên nhiều hơn . Và bạn đến nói với ba bạn, mẹ bạn, những người thương của bạn rằng bạn yêu họ lắm. Rằng ba mẹ vẫn còn sống bên bạn là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời bạn. Rằng bạn sẽ không cần gì hơn những điều như vậy. Rồi nụ cười hạnh phúc sẽ nở trên môi của bạn và khi đó bạn cũng biết rằng nụ cười hạnh phúc ấy cũng đang nở trên môi của tôi.3 likes -
Một đàn ếch đi ngang qua một khu rừng và hai con ếch bị rơi xuống một cái hố. Khi thấy cái hố quá sâu những con ếch còn lại bèn nói với hai con ếch kia rằng chúng sẽ phải chết. Hai con ếch mặc kệ những lời bình luận và cố hết sức nhảy ra khỏi cái hố. Đàn ếch nhao nhao bảo chúng đừng nhảy vô ích, hãy chấp nhận cái chết không thể tránh khỏi. Cuối cùng, một con ếch nghe theo lời của đàn ếch. Nó gục xuống chết vì kiệt sức và tuyệt vọng. Con ếch còn lại vẫn dồn hết sức lực cuối cùng tiếp tục nhảy lên. Đàn ếch trên bờ lại ầm ĩ la lên bảo nó hãy nằm yên chờ chết. Con ếch nọ lại càng nhảy mạnh hơn nữa . Và thật kỳ diệu, cuối cùng nó cũng thoát ra khỏi cái hố sâu ấy.Đàn ếch xúm lại: “Không nghe chúng tôi nói gì à?” Chúng cứ hỏi mãi trong sự ngạc nhiên, lúng túng của con ếch nọ. Cuối cùng sự thật cũng được một con ếch già hé lộ rằng: Con ếch vừa thoát khỏi cái hố kia bị điếc và nó cứ nghĩ là những con ếch khác hò reo đang cổ vũ cho nó, và chính điều đó đã làm nên một sức mạnh kỳ diệu giúp cho nó tìm được sự sống mong manh trong cái chết. Cuộc sống với bộn bề lo toan, vất vả, sẽ không ít lần chúng ta gặp phải những khó khăn hay đau khổ và tuyệt vọng..Vậy những lúc như thế bạn cần gì? Có phải chăng là một sự cảm thông, chia sẻ hay một lời an ủi, động viên. Có được những điều may mắn ấy chúng ta sẽ có đủ nghị lực để đương đầu và vượt qua mọi thử thách của cuộc sống, để tìm đến bến bờ tươi đẹp hơn. Thật vậy, một lời nói cũng giống như một thứ vũ khí hết sức nguy hiểm. Nếu chúng ta dùng nó để động viên hay khích lệ những người thân, những người mình thương yêu thì điều đó thật tuyệt vời và đáng quý. Nhưng cũng sẽ rất tàn nhẫn nếu chúng ta vô tình chĩa nó về một người nào đó, lời nói đó có thể đối với bản thân chúng ta không là gì cả, nhưng có thể làm người trực tiếp nhận nó bị tổn thương và đôi khi có thể gây hậu quả nghiêm trọng mà chúng ta không thể nào ngờ đến. Qua câu truyện “con ếch” chúng ta có thể thấy được lời nói có sức mạnh khủng khiếp đến thế nào. Một lời động viên chân thành dành cho người đang trong cơn khủng hoảng có thể mang đến sức mạnh bất ngờ để vượt qua hết những khó khăn nghịch cảnh mà họ tưởng chừng như không bao giờ có thể làm được. Ngược lại, một lời tiêu cực với người đang trong cơn khủng hoảng có thể giết chết họ. Vì vậy tất cả mọi người chúng ta hãy cẩn thận với lời nói của mình. Hãy nói những lời mang đến niềm tin và sức sống cho những ai đi ngang qua cuộc đời bạn. Theo Bài học thành công1 like
-
Bài tham khảo: Phong thủy: Tác dụng thật của thạch anh 23/06/2012 14:50:03 - Lần đầu tiên các chuyên gia đã phân tích một cách khoa học những ứng dụng đá thạch anh trong phong thủy, nhất là thạch anh hốc với tác dụng như một tụ điện tạo nguồn ion. Ép vào đá thạch anh sẽ tạo nên nguồn điện Tại hội thảo "Nghiên cứu tác động của thạch anh (Amethyst) tới cuộc sống con người" được tổ chức bởi Hội Hữu nghị và Hợp tác Vietnam - Braxin, GS.TSKH Phan Trường Thị, Viện trưởng Viện Đá quý - Vàng và Trang sức Việt Nam cho hay, đá thạch anh được phun lên từ các lớp mắc ma nằm sâu dưới lòng đất khoảng 4 - 10km. Thạch anh có cấu trúc gồm silic và oxy được sắp xếp theo quy luật và tỷ lệ 2:1. Cấu trúc này tạo nên sự chồng khít vào nhau và có hình lục lăng. "Cấu trúc này đã tạo nên tính chất kỳ diệu của thạch anh là tính áp điện. Tức khi ép vào đá thạch anh sẽ tạo nên nguồn điện nhỏ, hoặc cho một dòng điện nhỏ chạy qua cũng sinh ra nguồn điện mới", GS.TSKH Phan Trường Thị phân tích. Riêng thạch anh hốc có sự hình thành từ chất khí của dung nham. Khi dung nham phun, chất khí chui vào các hốc đá, qua hàng chục nghìn năm chất khí này nguội tạo nên tinh thể thạch anh. Mỗi một tinh hốc hội tụ điện trường của hàng nghìn tinh thể thạch anh riêng lẻ. Do vậy, mỗi một tinh hốc có tính năng như một tụ điện khổng lồ. Nếu tác động bằng năng lượng ánh sáng sẽ làm phát sinh một trường ion lan tỏa chung quanh tinh hốc. Trường ion đó lan truyền có tính chất sóng êm dịu vào cơ thể con người. Có lẽ do đó có thể xem như một biện pháp vật lý trị liệu, như một máy phát siêu âm hay phát ion... "Tính chất áp điện của thạch anh, cũng là cách phát hiện thạch anh thật thông qua thiết bị kiểm tra tính áp điện hoặc phải có nguồn gốc xuất xứ. Các công ty nhập khẩu chính ngạch có chứng nhận nguồn gốc xuất xứ của Braxin là một bằng chứng chứng minh đó là thạch anh thật", ông Lưu Hải Minh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Dự án Công nghệ Nhật Hải (OIC) nhấn mạnh. Ánh sáng chiếu vào tạo nên các năng lượng giúp kích thích dòng điện trong thạch anh hốc. Ứng dụng thạch anh trong phong thủy GS.TSKH Phan Trường Thị khẳng định, thạch anh nói chung hay thạch anh hốc nói riêng chỉ có tác dụng khi được đặt đúng vị trí và sử dụng đúng. Nên đặt thạch anh hốc ra hiên, cửa nhà. Khi mở cửa, ánh sáng chiếu vào tạo nên các năng lượng giúp kích thích dòng điện trong thạch anh hốc. Nếu đặt trong nhà cần có đèn chiếu, tốt nhất là đèn nhấp nháy, có ánh sáng đỏ. Ngoài ra, người buôn bán, giao tiếp có thể xoa quả cầu thạch anh có độ lớn vừa đủ lòng bàn tay. Nguồn nhiệt trong người sẽ tạo nên dòng ion giúp cơ thể giảm stress, minh mẫn để làm việc, GS.TSKH Phan Trường Thị hướng dẫn. Ở góc độ chuyên gia phong thủy, TS Trần Mạnh Hà, Công ty Cổ phần Đầu tư và Phân phối DTJ nhận định, đá thạch anh đã được ứng dụng trong đời sống ở phương diện phong thủy từ xưa đến nay nhưng không phải ai cũng hiểu đúng, làm đúng. Theo quan niệm Đông phương, đá nói chung cũng như thạch anh thuộc hành thổ; Trong năm yếu tố ngũ hành, thổ do hỏa sinh ra, thổ có thể khắc chế thủy, sinh hợp với kim và bị mộc khắc. Thổ tượng trưng cho đất, mà đất có nhưng tính chất đặc biệt mà các ngũ hành khác không có; Đất không bao giờ nổi giận, đất mẹ luôn bao dung, chấp nhận và che chở cho muôn loài, đất mẹ nhẫn nại và chịu đựng, cảm hóa, chuyển hóa từ xấu thành tốt... những đặc tính này nếu biết vận dụng, ứng dụng linh hoạt có thể hóa giải các vị trí xấu, kích hoạt các vị trí cát (đang ở trong vận suy) trong ngôi nhà của bạn. Vân Đài1 like
-
NHẬN XÉT BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ TRẦN TRỌNG DƯƠNG Tiếp theo Kính thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Tôi không bàn về tính đạo lý của những kẻ phủ nhận truyền thống dân tộc của chính họ, tôi cũng không bàn về tinh thần yêu nước của những người tham gia phủ nhận hay chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến. Và nếu như chỉ căn cứ vào đạo lý về lòng tự trọng dân tộc và tinh thần yêu nước thì chắc tôi không cần tranh luận với họ. Bởi vì đây là một đề tài nhân danh khoa học. Ít nhất những người phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt đang rao giảng như vậy. Mà một trong những yếu tố để xác định tính khoa học chính là tinh thần khách quan. Do đó, không thể lấy tư cách đạo đức, tinh thần yêu nước để phân tích chứng minh hay bác bỏ. Tôi bắt đầu phân tích bài viết của Ông Trần Trong Dương trong việc phản biện giáo sư Lê Mạnh Thác theo tinh thần khoa học - Đương nhiên là khoa học theo cách hiểu chủ quan của tôi - nhưng ít nhất những luận cứ của nó không nhân danh những luận cứ về lòng tự trọng dân tộc và lòng yêu nước. Bắt đầu từ đoạn dưới đây - quí vị có thể xem toàn văn trong bài trên. Chúng ta cùng xem lại đoạn này: Mới đọc qua cái tựa, qua cách dùng từ với câu - "Tiếng Việt thời Hùng Vương - hay lâu đài cất từ hơi nước?" - Đủ thấy khả năng tư duy không thể xếp hạng của tác giả. Mặc dù ông ta có thể thuộc loại nhiều chữ, có học hàm, học vị - Vì cái danh từ Trần Trong Dương cũng thấy quen quen. Thời Hùng Vương không nói tiếng Việt thì nói tiếng gì? Tiếng Urugoay à? Vậy cái cụm từ "Lâu đài cất từ hơi nước" tác giả muốn nói lên điều gì? Bởi vậy, chỉ với cách đặt tựa, tôi đã không muốn xếp hạng khả năng tư duy của ông ta trong vấn đề phản biện học thuật. Nhưng thôi, để xem ông nói gì và quán xét những luận cứ của tác giả. Tôi vốn không phải là người "tầm chương , trích cú", cắt trích và bắt bẻ ngôn từ. Trong đoạn mà tôi trích dẫn ở trên thì tác giả Trần Trọng Dương đã thừa nhận giáo sư Lê Mạnh Thát là một học giả lớn trong giới nghiên cứu Phật học. Và việc tác giả đặt vấn đề phản biện với "một học giả lớn" thì hẳn tác giả phải có tầm và cái tầm ấy dài bao nhiêu, cao bao nhiêu thì chúng ta xem tiếp . Qua cái phần một của tác giả Trần Trọng Dương tôi thấy thật đúng như tôi nhận xét ban đầu: Khả năng tư duy không thể xếp vào hạng nào. Tất nhiên, tôi là người ủng hộ giáo sư Lê Mạnh Thát và sẵn sàng đứng bên ông để tranh biện về lịch sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến. Nhưng điều đó không có nghĩa tôi tán thành cấu trúc phương pháp chứng minh của giáo sư. Tôi chỉ xác định định hướng nghiên cứu của giáo sư qua các bản văn Phật học cổ và mục đích chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm là đúng và cách sử dung tư liệu với dẫn chứng là có cơ sở. Nhưng có thể phương pháp chứng minh của giáo sư không được chặt chẽ. Nhưng để phản biện giáo sư Lê Mạnh Thát với cách của tác giả Trần Trọng Dương qua bài này thì không đủ tầm. Qua bài này, tôi và có lẽ tất cả chúng ta đều thấy rằng tác giả Trần Trọng Dương nhấn mạnh nhiều đến sự cần thiết phải có văn bản khảo cổ để xác định tính chân lý của chữ Việt cổ. Tôi thống kê từ đầu đến cuối đoạn này xem ông ta nhắc đến bao nhiêu lần về sự cần thiết phải có một văn bản cổ được khai quật để làm cái gọi là "bằng chứng khoa học". Dưới đây là những đoan văn thống kê trong bài viết của tác giả Trần Trọng Dương liên quan đến yêu cầu về văn bản cổ cần có: 1/ "giả thuyết này có thể chấp nhận được với tư cách là một giả thuyết để từ đó ta có ý thức tìm kiếm văn bản trong quá trình khai quật". Vì đến cả văn bản Việt luật hay Hán luật giờ đều đã mất. Tư liệu là mảng trắng. 2/ "Nhưng nó cũng yếu như giả thuyết trước. Vì tư liệu cũng không còn gì". 3/ thứ nhất phải có nguyên bản tiếng Việt để chuyển dịch, và văn bản đó hiện còn; thứ 2 phải có văn bản dịch bằng tiếng Hán (điều kiện này thì luôn luôn đáp ứng đủ); thứ 3 Có các văn bản tiếng Việt khác cùng thời (ví dụ văn bản Việt luật hoặc các văn bản Kinh Phật bằng tiếng Việt khác). Chỉ khi đáp ứng được cả ba yêu cầu này thì chúng ta mới có cơ sở để khảo sát và so sánh ngôn ngữ được. Tiếc rằng điều kiện quan trọng nhất chúng ta cũng không có trên tay: văn bản tiếng Việt thời Hùng Vương. 4/ Chừng nào chưa tìm thấy, chưa khai quật được những văn bản như vậy (Trung Quốc gọi là “xuất thổ văn hiến”) thì các giả thuyết trên chỉ có giá trị như là ... giả thuyết. Vì chúng ta không có gì để nghiên cứu cả. Tất cả hệ thống tư liệu về ngôn ngữ và chữ viết thời Hùng Vương là một dải băng tần trắng xóa. 5/Dĩ nhiên, việc nghiên cứu văn tự không thể lấy một chút tư liệu gì từ mảng truyền thuyết, thần thoại, hay huyền sử được mà hoàn toàn nương cậy vào những kết quả của giới khảo cổ. 6/ Như thế, về bộ Việt luật chúng ta chỉ có mỗi cái tên (mà tên là bằng chữ Hán, tiếng Hán), còn nội dung của nó cụ thể ra sao, nó được viết bằng thứ tiếng gì, bằng thứ văn tự gì thì không biết. 7/ Còn cụ thể ông đã tìm thấy những gì, và tìm thấy như thế nào, chúng tôi sẽ trình bày cụ thể ở các bài bài sau. Dù sao chúng tôi vẫn muốn nói: giá như chúng ta khai quật được một mảnh văn bản Việt luật... giá như chúng ta có một văn bản dịch Kinh Phật bằng tiếng Việt thời Hùng Vương trong tay. Giá như... giá như......!!! Kính thưa quí vị quan tâm. Qua 7 trích dẫn trên trong bài viết - muốn gần hết nội dung chính của bài viết - gọi là phần I của tác giả Trần Trọng Dương thì chúng ta thấy rất rõ rằng: Ông ta cần những văn bản cổ còn lại từ thời Hùng Vương để có thể đối chứng. Và nếu như không có điều kiện đó thì tất cả những cái mà ông gọi là "giả thuyết" của giáo sư Lê Mạnh Thát không có cơ sở đáng tin cậy. Tôi đặt ngược lại vấn đề: Di sản khảo cổ học có phải là bằng chứng duy nhất để chứng minh cho lịch sử không? Tất nhiên là không! Có lẽ tôi không cần phải biện minh cho điều này - Mặc dù nó có thể là một bằng chứng có tính thuyết phục cho một luận điểm liên quan đến nó. Đấy là nói một cách nghiêm túc và mang tính lịch sự khi trao đổi học thuật. Còn nếu ai cho rằng di vật khảo cổ là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử thì tôi đề nghị hãy về đào mộ ông cố tổ nhà họ lên để chứng minh rằng ông cha họ có quần áo mặc hẳn hoi. Còn nếu chẳng may, xương tàn cốt rụi và đào được mỗi cái tổ mối thì phải chăng những kẻ đó từ lỗ nẻ chui lên? Trong điều kiện này tôi tin rằng chẳng ai xác định rằng "di vật khảo cổ" là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử cả. Nhưng tôi nhắc lại để nhấn mạnh rằng: Di vật khảo cổ có thể - có thể thôi - là một bằng chứng có tính thuyết phục cho một luận điểm liên quan đến nó. Bởi vì cùng một hiện tượng tồn tại khách quan là di vật khảo cổ tìm thấy có thể có nhiều luận điểm khác nhau giải thích cho sự tồn tại của nó. Quay trở lại ví dụ về việc tìm mộ ông cố tổ. Có lẽ chúng ta chẳng ai cho rằng ông cố tổ 7 đời của chúng ta ở truồng cả. Mặc dù chẳng ai trong chúng ta có di vật khảo cổ do đào mả ông ấy lên để chứng minh vào thời đó ông cố tổ có mặc quần áo. Bởi vì dù không có di vật khảo cổ mà người Tàu gọi là - như ông Trần Trọng Dương dẫn chứng "xuất thổ văn hiến" - thì chúng ta vẫn hiểu được rằng ông cố tổ bảy đời của chúng ta không ở truồng do tất cả các mối liên hệ gần gũi mà đã được lịch sử xác định vào thời ông cố tổ ấy đã sống, như: trình độ phát triển của nền văn minh lịch sử đương thời, các mối quan hệ, giao tiếp xã hội trong lịch sử đương thời...vv... Hay nói cách khác: Để chứng minh cho một vấn đề, hoặc hiện tượng lịch sử, con người có rất nhiều phương pháp tiếp cận trên cơ sở mối quan hệ hợp lý tương quan giữa các hiện tượng qua một hệ thống luận điểm phù hợp với tiêu chí khoa học để được gọi là luận điểm khoa học. Cá nhân tôi chưa thấy một văn bản nhân danh bất cứ một cái gì xác định "di vật khảo cổ là hiện tương duy nhất chứng minh cho lịch sử" cả. Nhưng ở đây, trong phần I của tác giả Trần Trong Dương - mà tôi đã dẫn chứng 7 đoạn - thì ông ta đã luôn luôn coi sự cần thiết phải có một thứ "Xuất thổ văn hiến" như người Tàu nói mới là điều kiện thẩm định. Như vậy cần xác định ngay rằng: Với những luận điểm của bài viết này thì rõ ràng tác giả Trần Trong Dương không đủ sở cứ để phản biện giáo sư Lê Mạnh Thát. Bây giờ chúng ta tiếp tục xét đến các luận điểm khác của tác giả Trần Trọng Dương. Ông ta viết: "Mặt khác, chúng tôi tự đặt ra câu hỏi: tại sao lại có sự trùng khít “kì lạ” giữa Việt luật và Hán luật? Tại sao hai bộ luật: một là của thời Hùng Vương, một là của nhà Hán lại chỉ khác nhau có hơn 10 điều? Hay là Hán luật bắt chước Việt luật? Các điều luật giống nhau như thế nào, cụ thể là những điều khoản gì? Khác nhau ra sao? Chúng tôi đã lần theo Tứ khố toàn thư [8] thì thấy có gần 20 bộ sử (như Thông chí, Quảng Tây thông chí, Thiểm Tây thông chí, Quảng Đông thông chí, Ngọc Hải, Thái Bình ngự lãm…) có đề cập đến Việt luật. Các bộ sau này đều là chép/ trích dẫn lại nguyên văn của Hậu Hán thư (dĩ nhiên câu chữ có đôi chỗ xuất nhập). Nội dung chỉ vỏn vẹn có như vậy (xem chú 1)! Như thế, về bộ Việt luật chúng ta chỉ có mỗi cái tên (mà tên là bằng chữ Hán, tiếng Hán), còn nội dung của nó cụ thể ra sao, nó được viết bằng thứ tiếng gì, bằng thứ văn tự gì thì không biết". Tất nhiên với bản chất chỉ căn cứ duy nhất vào di vật khảo cổ theo phương pháp nghiên cứu của ông Trần Trọng Dương thì cho dù một hiện tượng được xác nhận qua các bản văn chữ Hán như chính ông ta trích dẫn ở trên: "Chúng tôi đã lần theo Tứ khố toàn thư [8] thì thấy có gần 20 bộ sử (như Thông chí, Quảng Tây thông chí, Thiểm Tây thông chí, Quảng Đông thông chí, Ngọc Hải, Thái Bình ngự lãm…) có đề cập đến Việt luật. Các bộ sau này đều là chép/ trích dẫn lại nguyên văn của Hậu Hán thư (dĩ nhiên câu chữ có đôi chỗ xuất nhập). Nội dung chỉ vỏn vẹn có như vậy (xem chú 1)!" Nhưng - mặc dù có bản văn chữ Hán ghi nhận rõ ràng - ông ta vẫn không công nhận. Vì cái mà ông ta cần là một văn bản tiếng Việt từ thời Hùng Vương: "Như thế, về bộ Việt luật chúng ta chỉ có mỗi cái tên (mà tên là bằng chữ Hán, tiếng Hán), còn nội dung của nó cụ thể ra sao, nó được viết bằng thứ tiếng gì, bằng thứ văn tự gì thì không biết". Đấy chính là lý do mà tôi không thể xếp hạng khả năng tư duy của ông ta vào bất cứ hạng nào trong bảng phân loại nếu có. Phải chăng đây chính là những luận cứ "khoa học" của "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và được "cộng đồng khoa học thế giới công nhận" khi phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt? Phải chăng đây chính là "khoa học là một hệ thống tri thức phức tạp, có những đòi hỏi khắt khe, để được khoa học công nhận cần rất nhiều yếu tố..." Nếu đúng như vậy thì điều đầu tiên mà tôi cần phải cảnh báo rằng: Giáo sư viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu đã phát biểu: "Nền khoa học Việt Nam đang tuyệt tự" và quí vị cần xác định lại quy chuẩn xác định tính khoa học cho một luận đề được coi là khoa học cho nền khoa học Việt Nam. Không thể để nhưng phương pháp lập luận của những loại người giả khoa học được bàn nhăng tán cuội. Ở đây, tôi chưa nói đến phương pháp phản biện của tác giả Trần Trọng Dương đối với giáo sư Lê Mạnh Thát , mà tôi chỉ nói đến ngay nội dung của chính ông ta cũng rất mâu thuẫn và không đủ tầm phản biện giáo sư Lê Mạnh Thát trong đoạn trích dẫn trên. Xin quí vị chịu khó xem lại đoạn này: "Mặt khác, chúng tôi tự đặt ra câu hỏi: tại sao lại có sự trùng khít “kì lạ” giữa Việt luật và Hán luật? Tại sao hai bộ luật: một là của thời Hùng Vương, một là của nhà Hán lại chỉ khác nhau có hơn 10 điều? Hay là Hán luật bắt chước Việt luật? Các điều luật giống nhau như thế nào, cụ thể là những điều khoản gì? Khác nhau ra sao? Chúng tôi đã lần theo Tứ khố toàn thư [8] thì thấy có gần 20 bộ sử (như Thông chí, Quảng Tây thông chí, Thiểm Tây thông chí, Quảng Đông thông chí, Ngọc Hải, Thái Bình ngự lãm…) có đề cập đến Việt luật. Các bộ sau này đều là chép/ trích dẫn lại nguyên văn của Hậu Hán thư (dĩ nhiên câu chữ có đôi chỗ xuất nhập). Nội dung chỉ vỏn vẹn có như vậy (xem chú 1)! Như thế, về bộ Việt luật chúng ta chỉ có mỗi cái tên (mà tên là bằng chữ Hán, tiếng Hán), còn nội dung của nó cụ thể ra sao, nó được viết bằng thứ tiếng gì, bằng thứ văn tự gì thì không biết". Qua nội dung đoạn trích dẫn trên thì ông ta đặt câu hỏi: "Mặt khác, chúng tôi tự đặt ra câu hỏi: tại sao lại có sự trùng khít “kì lạ” giữa Việt luật và Hán luật? Tại sao hai bộ luật: một là của thời Hùng Vương, một là của nhà Hán lại chỉ khác nhau có hơn 10 điều? Hay là Hán luật bắt chước Việt luật? Các điều luật giống nhau như thế nào, cụ thể là những điều khoản gì? Khác nhau ra sao?", nhưng cả bài viết - tính luôn cả 2 phần sau trong toàn văn mà tôi trích dẫn ở trên, chúng ta cũng dễ dàng thấy ông ta không hề trả lời câu hỏi mà chính ông đặt ra? Hay ông ta muốn bắt bẻ giáo sư Lê Mạnh Thát phải trả lời câu hỏi của ông? Và khi chính ông thừa nhận có bộ Việt luật qua văn bản chữ Hán thì ông ta cũng tự bác bỏ luôn vì các văn bản chữ Hán ấy không ghi cụ thể những điều ông ta cần biết! Vậy cái khoa học mà ông muốn chứng minh ở đây là gì khi mà các bản văn chữ Hán ấy xác định có một bộ Việt luật từ hàng ngàn năm trước? Phải chăng chỉ vì cái văn bản chữ Hán mà ông cất công đi tìm ấy chỉ vì có mỗi cái tên nên nó không đáng tin cậy? Và bộ Việt luật được các bản văn chữ Hán ấy ghi lại là không có thật, chỉ vì nó thiếu những yếu tố ông cần biết? Tôi không hiểu tác giả cố tình hay do thiếu khả năng tư duy , nên đã nhầm lẫn giữa yếu tố cần bổ sung với một thực tại đã được xác định. Thực tại được xác định ở đây là: Trong quá khứ xa xôi hàng ngàn năm trước, các bản văn chữ Hán đã xác định một thực tại tồn tại trên thực tế là có một bộ Việt luật. Còn cụ thể bản Việt luật ấy như thế nào - nó tròn, hay méo; hay hình tam giác ngược; nó bằng đất sét, hay viết trên thẻ tre...vv...và ...vv... thì đó là những yếu tố bổ sung, chứ không phải là luận cứ phủ định sự tồn tại của bộ Việt luật đã được ghi nhận trên các bản văn mà chính ông xác định đó. Qua đó thì qui vị cũng thấy rằng tác giả Trần Trọng Dương hoàn toàn tự mâu thuẫn với mình khi vừa tự xác định về mặt khách quan có bộ Việt luật quan bản văn chữ Hán ; vừa tự phủ định bằng những vấn đề do chủ quan của ông ta đặt ra. Trong khi vấn đề chỉ là "Có hay không bộ Việt luật đó". Còn bây giờ chúng ta xem lại toàn bộ phương pháp phản biện của tác giả Trần Trọng Dương ở phần I của bài viết mà ông ta phản biện giáo sử Lê Mạnh Thát - qua phần dẫn đoạn ở trên và phần còn lại của phần I dưới đây: Dĩ nhiên, việc xây dựng giả thuyết là quyền của mọi nhà khoa học, và tất cả những người có tinh thần dân tộc đều “hi vọng” giả thuyết của Ts Lê Mạnh Thát là sự thực. Vấn đề đáng nói ở đây là các giả thuyết sau chỉ có thể đứng vững được nếu giả thuyết trước đã trở thành sự thực hoặc đã được chứng minh là đúng, tiếc thay tất cả các giả thuyết trước đều chỉ là... giả thuyết! Nếu ông chỉ dừng lại ở việc đưa ra các giả thuyết thì sẽ không có vấn đề gì để nói. Nhưng, từ những giả thuyết theo kiểu “chồng trứng” như trên, Ts LMT đã thực hiện một thao tác trước nay chưa từng biết đến: ĐI TÌM DIỆN MẠO TIẾNG VIỆT THỜI HÙNG VƯƠNG QUA “LỤC ĐỘ TẬP KINH” - MỘT BẢN HÁN VĂN. Còn cụ thể ông đã tìm thấy những gì, và tìm thấy như thế nào, chúng tôi sẽ trình bày cụ thể ở các bài bài sau. Dù sao chúng tôi vẫn muốn nói: giá như chúng ta khai quật được một mảnh văn bản Việt luật... giá như chúng ta có một văn bản dịch Kinh Phật bằng tiếng Việt thời Hùng Vương trong tay. Giá như... giá như......!!! Và, dù sao đi nữa, chúng tôi cũng vẫn rất trân trọng Ts Lê Mạnh Thát vì ông đã cố gắng xây dựng lại dáng hình của lâu đài tiếng Việt - tiếng mẹ đẻ của chúng ta qua những hơi nước bốc lên từ “bể đời” mênh mông. Trước hết là tác giả Trần Trọng Dương đã lôi "tinh thần dân tộc" vào một bài phản biện học thuật nhân danh khoa học, vốn tôn trọng tính khách quan. Ông ta viết: Dĩ nhiên, việc xây dựng giả thuyết là quyền của mọi nhà khoa học, và tất cả những người có tinh thần dân tộc đều “hi vọng” giả thuyết của Ts Lê Mạnh Thát là sự thực. Tôi nhắc lại rằng: Đã nhân danh khoa học thì không đề cập đến tinh thần dân tộc. Bởi vì một trong những yếu tố cần của tính khoa học là sự khách quan. Còn nếu nhân danh tinh thần dân tộc thì - chí ít là cá nhân tôi không tranh luận và biện minh cho Việt sử 5000 năm văn hiến. Hay nói cách khác: Trong trường hợp nhân danh tinh thần dân tộc thì tôi không tranh luận với những kẻ phủ nhận văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt. Mặc dù tôi có thể thông cảm và chia sẻ với một cô gái đứng đường. Nhưng đây là nhân danh khoa học, có phải họ nói thế không nhỉ? Họ đã nói là quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt của họ được "hầu hết các nhà khoa học trong nước" và "cộng đông khoa học thế giới công nhận" mà. Qua những vần đề được đặt ra và biện minh thì rõ ràng sự phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt không hề có một chút nào gọi là khoa học cả. Tiếp theo đây là lập luận của tác giả Trần Trọng Dương: Vấn đề đáng nói ở đây là các giả thuyết sau chỉ có thể đứng vững được nếu giả thuyết trước đã trở thành sự thực hoặc đã được chứng minh là đúng, tiếc thay tất cả các giả thuyết trước đều chỉ là... giả thuyết! Nếu ông chỉ dừng lại ở việc đưa ra các giả thuyết thì sẽ không có vấn đề gì để nói. Nhưng, từ những giả thuyết theo kiểu “chồng trứng” như trên, Ts LMT đã thực hiện một thao tác trước nay chưa từng biết đến: ĐI TÌM DIỆN MẠO TIẾNG VIỆT THỜI HÙNG VƯƠNG QUA “LỤC ĐỘ TẬP KINH” - MỘT BẢN HÁN VĂN. Có lẽ tác giả Trần Trọng Dương nhầm lẫn chăng? Tôi chưa biết giáo sư Lê Mạnh Thát đúng hay sai. Nhưng qua những gì mà chính tác giả miêu tả các luận điểm của giáo sư Lê Mạnh Thát trong bài viết của ông ta - thì nó đâu đơn giản chỉ là một giả thuyết. Nó là cả một hệ thống dẫn chứng khách quan và những luận cứ minh bạch đấy chứ! Này nhé: Bắt đầu từ sự xác định bằng bản văn về một bộ luật Việt cổ - cho thấy sự tồn tại khách quan của một hệ thống chữ Việt cổ - thông qua cuốn "Lục Độ tâp kinh" để chứng minh cho cách nhìn của giáo sư Lê Mạnh Thát. Bởi vậy, nếu tác giả đủ tầm để phản biện giáo sư Lê Mạnh Thát thì hãy phân tích chính ngay những luận cứ của giáo sư Lê Mạnh Thát sai lầm ở đâu. Còn ở đây, tác giả Trần Trọng Dương không hề chỉ ra được một điểm sai trong hệ thống lập liuận của giáo sư Lê Mạnh Thát với những luận cứ của ông ta. Ngược lại, tác giả Trần Trọng Dương hoàn toàn áp đặt sự chủ quan của ông ta khi yêu cầu phải có "Xuất thổ văn hiến" để xác định - điều mà chắc chắn cả thế giới này chưa tìm thấy, để phản biện giáo sư Lê Mạnh Thát. Phải chăng đấy là tinh thần khoa học của một người như ông Trần Trọng Dương? Thảo nào "Nền khoa học Việt Nam đang tuyệt tự". Không biết phần II ông viết cái gì. Nhưng với khả năng tư duy kiểu này chắc cũng còn lắm chuyện để bàn. Còn tiếp1 like
-
Chào em Thuốc dùng tốt nhất khi đói là vì khi đó dạ dày chưa có thức ăn, sẽ tiêu hóa thuốc và thẩm thấu vào cơ thể trước khi thẩm thấu nguồn năng lượng do thức ăn đưa vào. Bởi vậy sẽ ko bị tác dụng ảnh hưởng bởi thức ăn. Tuy nhiên, nếu thuốc có tác dụng phụ thì sẽ không tốt cho dạ dày nếu để dạ dày đói. Các thuốc khác dùng sau khi ăn vì nếu dùng trước có thể làm ảnh hưởng tới dạ dày, thậm chí còn hỏng dạ dày. Thuốc BS Ba đưa ra tuyệt đối an toàn, nên uống lúc đói thì dạ dày cũng không vấn đề gì hết. Em cứ yên tâm dùng đều. Và bản thân vợ chồng e dùng một thời gian cũng thấy, thuốc BS Ba rất tốt mà không có bất kỳ hậu quả phụ nào, phải không? Thế Anh1 like
-
Chào bạn, Chồng bạn có thể dùng: 1. Aginiba 4v chia 2 2. L anpha 6v chia 2 Sau khi dùng 2 loại này thì chất lượng tinh trùng sẽ cải thiện đáng kể, phong độ sinh lý cũng ổn định. Ngoài ra cũng làm tan mỡ bụng. Nếu vợ chồng bạn định sắp có em bé thì bạn cũng nên dùng thêm L anpha, Artemune. Trân trọng1 like
-
1 like
-
Chị vào ĐÂY lấy lá số tử vi. Rồi lập topic box Tử vi, nhờ chị Tuyết Minh, chi NTPT giúp nhé. Chị hỏi là bao giờ chị có con. Chị đã liên hệ số điện thoại 0934328998 nhờ tư vấn thuốc chưa?? 2 vợ chồng chị mua mà uống, rất tốt để có bầu. Còn chị hỏi về luận tuổi thì Bông đã trả lời rồi. Phần chữ đỏ ở trên. Chị chưa đọc ah?1 like
-
Có cả 2 càng tốt. Bạn vui lòng xác nhận những điều trên trái nào đúng thì bôi đen.1 like