• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 12/05/2012 in Bài viết

  1. Sản xuất model mới giá 1 triệu đồng thì Laido cho tôi đăng ký một chiếc nhé, dù chưa biết gì, khi kiến thức của tôi đang là con số không,hi hi... Nhưng cái lý của người Việt là Tò-Mò (Tay trước, Mắt sau, Tò=Tay, Mò=Mắt), có phương tiện trước thì thì xài được, ngược lại thì toàn xài hỏng. Đó là nghĩa của từ Thực-Dụng, cái Thật phải có trước,cái Dùng mới là sau, cái Thấy là trước, cái Dòm là sau. Một nguyên lý cũng vậy, cái Chính Xác của nguyên lý là yêu cầu trước (chẳng thế mà phải đổi chỗ Tốn-Khôn) , cái Giải mới là sau, nếu không có cái Chính Xác của nguyên lý thì cái Giải dù có khua đến mấy vẫn thành ra Dỏm. Dân gian có câu: Tay đũa là vua, Mép khua là hề. Người mẹ Việt trong bữa cơm luôn tay đũa gắp thức ăn ngon cho các con. Cũng như xưa có câu “dân dĩ thực vi thiên” (rồi còn câu: Trời đánh còn tránh bữa ăn, nên chẳng ai nỡ cướp bát cơm của kẻ khác), đó là cái Thật. (Tò-Mò = Tay-Mắt, trai gái tìm hiểu nhau đều theo qui tắc này cả, để không gặp phải đồ dỏm. Chúc Laido sản xuất ra nhiều loại hàng Việt Thật, tức các loại Vật Thiệt (chứ không phải Nhái hoặc Dỏm).
    3 likes
  2. MỘT TRONG SỐ Ý KIẾN CỦA BỆNH NHÂN MỸ KHI SỬ DỤNG THUỐC LIVERWELL BỆNH NHÂN VIÊM GAN C.Tôi tên là Sylvia, được chẩn đoán viêm gan C. Khi đó tôicó một danh sách dài những biểu hiện của các triệu chứng. Tôi bị mệt mỏi vàkhông thể làm việc được kể cả các việc nhỏ ở nhà. Tôi bị đau nhức khắp nơitrong cơ thể, đặc biệt là bên sườn phải. Tôi đã được chữa trị bằng interferontrong chín tháng với những hiệu quả phụ rất nặng nề như nôn mửa, đau ngực vàtrầm cảm. Cuối cùng, theo lời khuyên của chồng tôi, tôi đã dùng dược thảo Liver-Well mặc dầu tôi rất ngại dùng dượcthảo. Cũng vì interferon đối với tôi không có hiệu quả nên tôi không còn conđường nào khác. Điều đầu tiên tôi nhận thấy là năng lượng của tôi được tănglên. Tôi đã đi bộ được như trước đây và mỗi ngày mỗi nhanh hơn. Tôi cảm thấy dễthở hơn, và đãlàm được những việc nhà, cũng như đi chợ. Các triệu chứng khác của bệnh viêmgan C, cũng dần dần biến mất. Cái đầu của tôi không còn bị lờ mờ như tôi đã bịtrong một thời gian dài. Sau sáu tháng dùng dược thảo, tôi đã trở lại làm việcbình thường. Tôi không đủ lời để diễn tả lòng biếtơn của tôi đối với dược thảo Liver-Well đã manglại hạnh phúc,sức khỏe, niềm vui cho cuộc sống của tôi và gia đình tôi. Sylvia P. - California. ---------LÃO SAY LƯỢM NHẶT-------- MONG GIÚP ĐƯỢC THÊM MỘT SỐTHÔNG TIN CHO MỌI NGƯỜI . ĐÃ LÂU RỒI LÃO SAY KHÔNG LÊN DĐ NAY LÊN VÀ VÀO LẠITOPIC NÀY THẤY RẤT HAY VÀ RẤT Ý NGHĨA. NHÀ LÃO SAY Ở GẦN BỆNH VIỆN VẠNXUÂN VÀ LÃO SAY CÓ NGƯỜI QUEN TRONG ĐÓ . LÃO SAY SẼ TÌM HIỂU THÔNG TIN ĐỂ ĐÓNGGÓP CÙNG ACE TRÊN DĐ. Thuốc Việt, bác sỹ Việtchữa cho người Việt,
    2 likes
  3. Chào bạn, Cũng có thể, nhưng Laido thấy nó cũng không có vấn đề gì nên để nguyên. Thiên trì Việt nam mình chưa thấy có nơi nào làm nên không thể kiếm ra, đành đặt và yêu cầu tiêu chuẩn Tốt là được rồi. Cảm ơn bạn đã quan tâm. Thân mến Laido
    1 like
  4. Ngày tháng cưới bạn hỏi anh Thiên Luân thì chuẩn luôn nhé Nói thật là ngày tháng cưới mình chưa đc học cưới xong thì bạn nên sinh luôn. Rồi sinh con út năm 2014 hoặc 2015.
    1 like
  5. Sinh Quý Tỵ 2013 thì sẽ đỡ hơn, hiện tại tương quan thiên can Mậu phá Nhâm, nên sinh QUý Tỵ để Hóa Giải. Về mạng thì cả nhà đều hợp. Có lẽ nên xem thêm các điều kiện khác nữa, tuổi chỉ là 1 yếu tốt tương tác trong nhiều yếu tố ! Thân mến.
    1 like
  6. Cụ Cần là một người đặc biệt và có tài năng thực sự, khi còn sống, Cụ đã chọn đất trước khi mất ít ngày và dặn con cháu sau khi Cụ mất hãy đặt Cụ ở đó:Cụ nói: “Sắp tới ta về nơi đồng ruộng rộng rãi cuốc cày cùng nông dân, ta không truyền nghề lại cho ai cả vì không ai giống ta”. (khu vực đó không phải là quê của Cụ mà chỉ là nơi Cụ cùng gia đình sơ tán nhứng năm 1946 - 1947), chứ chả có thầy nào đặt đâu; Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Cụ Nguyễn Hoàng Phương cũng đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về Cụ - và cũng bị liên luỵ nhiều. Giai thoại về Cụ đã được in thành sách. Bạn nào muốn tham quan và tìm hiểu về ngôi mộ này theo địa chỉ sau: Từ ngã ba Ba la bông đỏ - Hà Đông đi 13,2km về hướng Chùa Hương, đến trường huấn luyện phi công bên phải đường, hỏi Mộ Cụ Cần ai cũng biết. Hàng ngày, người con gái của Cụ thường xuyên ở đó quét dọn và thắp hương cho Cụ. Link bản đồ đây: http://www.wikimapia...4&z=19&l=38&m=b
    1 like
  7. 2013 không tốt đâu, chị để đến 2015, 2017, 2019 là những năm tốt để sinh bé út. Nhưng do chị cũng khá lớn tuổi rồi, nên chị nên sinh năm 2015 luôn nhé.
    1 like
  8. Vậy hunguyen cứ tra theo cái này nhé, ở đây chúng tôi có phương pháp riêng nên mới gọi là Luận Tuổi Lạc Việt, việc bạn đưa 1 trang phân tích tự động trên mạng vào đây là vi phạm nội quy diễn đàn đấy. Nếu thực sự dễ như vậy thì chúng tôi cung ko đấu tranh vì 5000 năm Văn Hiến Việt để làm gì. Tôi đề nghị QTV treo nick của anh 3 ngày!
    1 like
  9. Ngày xửa ngày xưa ,tôi có người bạn cùng chí hướng ... 1 thời coi như cũng thân gặp quen nhau trong 1 hoàn cảnh ngặt nghèo cùng chia cơm xẻ cá với nhau ... sau 1 thời gian bặt tin mới biết anh ra hải ngoại ,tôi cũng tò tè đi sau anh ta vài năm ,khi ra ngoài hải ngoại gặp lại vô cùng mừng rỡ ... đi sau nhưng tôi lại đến trước vùng đất hứa , rồi cũng gặp lại nhau ... lúc thời gian sau đó mới hiểu nhau nhiều về cá tính tuyệt vời của anh ta ... những người nào anh ta làm quen và ở chung nhà ,1 thời gian là cỗm vợ người đó đi mất ! ? nhiều lần và nhiều như vậy cho đến khi nổi tiếng ,dù lưu lạc nhiều nơi trên vùng đất hứa cũng cá tật đó mà nhiều người nghe danh rồi xa lánh ,con rơi con rớt như đếm không xuể , đặc biệt là anh ta chỉ thích đàn bà đã có chồng hơn là con gái ??? rồi cuối cùng anh ta cô đơn 1 mình ,mà đến bây giờ không biết có cuối chưa hay đang chờ cơ hội mới .
    1 like
  10. em kém anh 5 tuổi cũng không đàn bà soi mói như anh. Nhưng anh thích soi mói thì em chiều. 1.anh tôn trọng người đọc nên anh viết như sau: " thế mới tôn trọng bản thân và ng.đọc" (chữ "người" anh còn ko viết hết). Vâng, Anh tôn trọng anh Thiên Luân nên anh viết là: T.Luân. Trong khi em chả dám viết vậy vì anh Thiên Luân là người chỉ bảo em khi em vào diễn đàn. 2. Em cũng không rõ anh thông minh cỡ nào nhưng anh còn không hiểu nổi NÊN và PHẢI khác nhau như thế nào. Người ta nói "nên sinh con út hợp là con trai" chứ không bảo anh là "phải sinh con út hợp là con trai" mà anh hiểu là "BẮT BUỘC". 3. Cũng chả rõ anh tự thống kê hay nhờ Tổng cục thống kê thống kê giúp anh mà anh khẳng đinh: "Và Năm 2015 chỉ hợp với Trai chứ không hợp với Nữ. Con gái đứng chữ Ất rất gian chuân." Anh nên hiểu là năm nào, địa danh nào, tháng nào, tuần nào, tỉnh nào, thành phố nào cũng "có cả thằng khùng lẫn anh hùng". Nên đừng vội quy kết thế anh nhé. 4. "Mình đọc từng chữ, từng dấu phẩy 1, đủ để kỹ bạn ạ. " ---> anh nên tự đọc lại topic anh viết xem nhầm bao nhiêu câu rồi. 2017 thì anh gọi là "ẤT DẬU", anh Thiên Luân ko hề tư vấn năm sinh cho anh, mà anh lại bảo là "Như Bác T.Luân lại nói nên sinh năm Đinh Dậu." 5. GIAN TRUÂN anh nhé. Ko phải "gian chuân" Em mới tạm nêu được 5 lỗi của anh thôi. Anh đừng vơ cái tốt hết về mình như thế nhé. Đàn ông thế chán lắm.
    1 like
  11. Đang biên soan. Chắc vài tháng nữa mới in. Tạm thời cứ hỏi ở đây đã.
    1 like
  12. Về việc nuôi cá rồng để cho là tốt theo Phong thủy tôi lưu ý mọi người như sau:Cá rồng là loại cá có tính sát phạt. Không phải cứ thích là nuôi chỗ nào cũng được. Tôi có một thân chủ làm ăn lỗ nặng, bên bờ vực phá sản. Trong khi tư vấn phong thủy tôi có đặt một bể cá trong nhà - sát cửa đi xuống bếp - cùng với các biện pháp khác. Một thời gian sau nợ nần vãn hẳn, công việc kinh doanh tốt đẹp. Vợ anh ta sinh thêm một đứa con trai. Bỗng nhiên, hồi gần Tết Nhâm Thìn công việc kinh doanh của anh tự nhiên sa sút hẳn. Tôi cũng không hiểu tại sao. Sau đó tôi có ghé qua nhà anh ta xem lại thì mọi việc về phong thủy vẫn như cũ ko có gì thay đổi. Mãi khi lên lầu mới phát hiện ra trong bể cá trơ trụi một con Hồng Long, còn bầy cá ngày xưa đi đâu hết. Tôi hỏi thì được biết vì loài cá mà tôi bảo anh ta nuôi hay chết, nên anh ta thay bằng con Hồng Long này cho tiện. Và anh ta chợt nhớ ra: Từ ngày thay con Hồng Long này thì mọi công việc kinh doanh của anh bị chựng lại và gặp nhiều xui sẻo. Anh ta lập tức gọi điện cho ngay con Hồng Long giá ngót 15 triệu và thay vào đấy một bầy cá mà tiền không bằng cái vây của con Hồng Long. Từ đó đến nay công việc kinh doanh của anh bình thường trở lại. Các loại cá thuộc loại "long" này chỉ nên đặt ở phần Dương của ngôi nhà . Chỗ nào là Dương thì anh chị em phong thủy Lạc Việt từ nâng cao trở lên chắc đã biết.
    1 like
  13. 1 like
  14. Đại vận, Can trọng hay Chi trọng ? Với chủ đề : “Thân nhược tài nhiều, phát ở vận tài, mong các cao nhân xen giúp” trong mục “Luận giải Tứ Trụ” bên trang web “Diễn đàn Lý Số Việt Nam”, hocthuat đã đưa ra ví dụ: “Qua nhiều lý thuyết đã nói thân nhược trụ nhiều tài sẽ không gánh nổi tài, vì tài mà tai hoạ. Qua đây hocthuat giới thiệu 1 trụ của 1 ông giám đốc thân nhược tài nhiều lại phát ở vận tài, chính ở vận tài này mà ông đã phát lên. http://www.lyso.vn/dichvu/lasotutru/...1/hocthuat.jpg Mong cac cao nhân bình luận lại lý thuyết thân nhược tài nhiều này“. Sau đây là bài viết của tôi: “Theo “Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần“ của tôi thì hoàn toàn chỉ dùng 4 phép tính là Cộng, Trừ, Nhân và Chia cũng đủ để xác định Tứ Trụ này Thân vượng hay nhược và dụng thần, mà không cần biết cái Mê Hồn Trận “Âm Dương Ngũ Hành Tứ Thời Luận“ là cái chi chi gì cả. Thật vậy theo sơ đồ sau: Ta thấy Tứ Trụ này rõ ràng Thân vượng (vì Thân có 7,2đv lớn hơn Thực Thương, Tài và Quan Sát trên 1đv) mà Thực Thương nhiều (có 3 can chi Tuất), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ năm (vì Tân có 8đv lớn hơn Canh chỉ có 5,1đv). Thân vượng lấy Tài làm dụng thần thì vào vận dụng thần Tài là Canh Dần và Tân Mão phát Tài là hợp lý. Còn theo các sách cổ lấy Chi đại vận làm trọng còn Can đại vận là phụ (nó ngược với cách của cụ Thiệu, lấy Can đại vận làm trọng còn Chi đại vận là phụ) thì dĩ nhiên Thân của Tứ Trụ này phải là nhược thì vào vận Canh Dần và Tân Mão là đại vận Ấn (Dần, Mão) là vận Thân vượng phát Tài thì mới đúng. Qua đây cho biết “Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần“ của tôi chỉ đúng khi thừa nhận lấy Can đại vận làm trọng. Bạn đọc tự suy luận xem theo cách nào (tức Tứ Trụ này Thân vượng hay nhược) thì hợp lý hơn?“ Nói chung xét đại vận thì phải lấy Can đại vận làm trọng, tức nếu can đại vận là hỷ dụng thần thì thường thường 10 năm đó thành công nhiều hơn thất bại. Nhưng khi xét đến từng đại vận thì không đơn giản như vậy, vì nó còn phụ thuộc vào các can chi trong Tứ Trụ và chi đại vận. Nhiều trường hợp Can đại vận không hợp hóa thành kỵ thần mà đại vận đó vẫn như là vận kỵ thần. Chính vì vậy mà nhiều đại cao thủ Tử Bình (như Hoàng Đại Lục,…) vẫn thắc mắc vì sao vào vận dụng thần mà thất bại nhiều hơn thành công, thậm chí còn xấu hơn cả vận kỵ thần (ở đây cứ cho rằng họ đã xác định đúng dụng thần và lấy Can đại vận làm trọng). Điều thắc mắc này có thể được giải thích đơn giản như: Giả sử hành vận dụng thần là Giáp Thân và Ất Dậu (Mộc là hành dụng thần) thì rõ ràng Giáp và Ất đều tử tuyệt tại chi đại vận mà trong Tứ Trụ lại lộ Canh và Tân thì Giáp và Ất sẽ bị khắc quá nặng (vì Canh và Tân cường vượng ở đại vận). Nếu chi đại vận còn hóa cục Kim nữa thì Kim càng vượng khắc Mộc càng hung khi đó còn đâu là vận dụng thần nữa, chúng có khác gì là vận kỵ thần. Điều ngược lại suy luận cũng vậy nếu như vận Giáp Thân và Ất Dậu là kỵ thần (tức Mộc là hành kỵ thần), kỵ thần Giáp Ất đã tử tuyệt tại đại vận mà trong Tứ Trụ còn lộ Canh Tân cộng thêm Kim cục nữa thì các vận kỵ thần này dễ dàng trở thành các vận hỷ dụng thần. Cái đáng chú ý ở đây là Chi đại vận rất quan trọng ở chỗ nó giống như lệnh tháng quyết định sự vượng suy của các can chi tại đại vận đó, trong đó sự vượng suy của các Chi chỉ để xét khả năng tranh phá hợp của các Chi mà thôi (vì khả năng xung hay khắc giữa các Chi với nhau không phụ thuộc vào sự vượng suy này), còn sự vượng suy của các Can mới quyết định sự khắc nhau giữa chúng nặng hay nhẹ, dẫn đến tổn thương nhiều hay ít. Vừa rồi Tôi đã đọc được “Chương 25 - Luận Hành Vận“ của cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“ được đăng bên trang web “Tử Bình - Mệnh Lý“. Ngay đoạn đoạn đầu tiên của chương này sách đã viết: “Nguyên văn (do tác giả là Trầm Hiếu Chiêm viết): Phương pháp luận Vận và xem Mệnh cũng không khác nhau. Xem Mệnh lấy can chi Tứ Trụ phối với hỷ kỵ nguyệt lệnh, còn thủ Vận thì lại lấy can của Vận phối với hỷ kỵ Bát Tự. Cho nên ở hành Vận, mỗi Vận là một chữ, tất lấy chữ này phối với can chi trong Mệnh để thống nhất xem toàn cục, là hỷ hay kỵ, cát hung phân rõ ra“. Rõ ràng đoạn này tác giả Trầm Hiếu Chiêm đã khẳng định : “…lấy Can của Vận phối với hỷ kỵ trong Bát Tự“, nghĩa là đại vận chỉ lấy Can chứ không lấy cả Chi như xem Mệnh : “Xem Mệnh lấy Can Chi (trong) Tứ Trụ phối với hỷ kỵ nguyệt lệnh“. Tác giả còn nói rõ hơn “Cho nên ở hành Vận, mỗi Vận là một chữ“, tức chữ này đã là Can đại vận rồi thì còn đâu chữ thứ hai mà động chạm tới Chi đại vận nữa cơ chứ. Vậy mà Từ Lạc Ngô đã bình (giảng giải): “Từ chú thích : …….Riêng Vận lấy phương làm trọng, tức quan trọng Dần Mão Thìn Đông phương, Tị Ngọ Mùi Nam phương, Thân Dậu Tuất Tây phương, hoặc Hợi Tý Sửu Bắc phương“. Tức người bình muốn nói là : “Xét Vận phải lấy Chi của Vận làm trọng“. Điều này rõ ràng người bình đã trắng trợn thay đổi ý của tác giả từ “…lấy Can của Vận phối với hỷ kỵ trong Bát Tự“ thành “lấy Chi của Vận phối với hỷ kỵ trong Bát Tự“. Vậy thì tại sao đến tận bây giờ người ta vẫn hầu như chỉ tin là khi xét đại vận thì phải lấy Chi làm trọng ?
    1 like
  15. Xin sửa lại giả thiết 28/ và 30/ trong Bài 24 như sau: D - Các trường hợp ngoại lệ 27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên. 28/ – Bỏ vì sai. Giả thiết này không sai nhưng phải sửa lại như sau: 28/100 – Thân nhược và khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Kiêu Ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh, nếu nó lớn hơn Thân ít nhất 20đv. Nhưng nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Kiêu Ấn chỉ được thêm không quá 10đv mà nó đã lớn hơn Thân 20đv thì Kiêu Ấn trở thành kỵ thần chỉ có 0,38đh và Kiêu Ấn trở thành kỵ vượng.... giống như giả thiết 27/12. 29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu). 30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng ít nhất ¼ lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, ít nhất ½ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, ¾ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 30đv trở lên, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 40đv trở lên (?)....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược và ngược lại)). Giả thiết 30/(18;158), tôi diễn đạt không rõ nghĩa xin sửa lại như sau: 30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng 5/4 nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, 3 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 30đv, 4 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 40đv, 5 lần nếu....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược hay ngược lại)).
    1 like
  16. Trong “Bài 7 : Thiên địa nhân của tứ trụ“ ở câu : “12 – Quy tắc hợp và hóa giữa các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận“. Xin bỏ câu 3 trong phần “f – Địa chi tranh hợp thật“ có nội dung như sau : “3 - Nếu 4 chi hợp với 1 chi, trong đó chỉ có 2 chi giống nhau ở trong tứ trụ hợp với chi ở đại vận hay thái tuế là tranh hợp thật thì tổ hợp của 5 chi này không hóa cục được (?) (ví dụ 155).“ . Bởi vì trong bản tiếng Anh đã in nó là ví dụ số 165 và tôi đã bỏ phần 2 của ví dụ này (vì sai) nhưng ở đây (bản tiếng Việt) tôi lại ghi "ví dụ 155" nên sơ xuất không phát hiện ra để xóa nó. Thành thật xin lỗi mọi người.
    1 like
  17. Tôi thay nội dung Bài 17 thành Bài 16 và ngược lại. Bài 16 : Các cách giải cứu cơ bản Chương 18 Các cách giải cứu cơ bản I – Đặt tên (điều quan trọng nhất) Khi trẻ mới được sinh ra chúng ta phải xác định ngay tứ trụ của nó, sau đó xác định điểm vượng vùng tâm của các hành và dụng thần chính của tứ trụ. Qua sự mạnh hay yếu của các hành với dụng thần chúng ta sẽ biết được dụng thần có lực hay không có lực để đặt tên mang hành của dụng thần nhiều hay ít cho phù hợp. Ví dụ : Nếu dụng thần của tứ trụ là Thủy mà hành Hỏa hay Thổ quá vượng thì phải đặt tên có hành Thủy nhiều như Biển, Sông, Hồ, mưa,….. , còn nếu Thủy không quá yếu, Hỏa và Thổ không quá mạnh thì chỉ cần đặt tên có hành Thủy yếu như Hơi Nước, Sương Mù, …… . Nếu Thổ quá vượng mà Mộc là hỷ thần thì có thể đặt tên mang hành Mộc có lợi hơn tên mang hành Thủy cho dù dụng thần vẫn là Thủy, nhất là khi Thủy không quá nhược trong tứ trụ,…….Hoặc nếu Kim là hỷ thần thì cũng có thể đặt tên mang hành Kim, vì Kim có khả năng hóa Thổ để sinh cho dụng thần Thủy. Dụng thần của các hành khác cũng suy luận tương tự như vậy để đặt tên. II – Phương hướng cần sinh sống (quan trọng thứ 2) Sau cách đặt tên thì đến phương để sinh sống cũng rất quan trọng trong việc giải hạn, vì nếu dụng thần mang hành nào thì người này nên sống ở phương mang hành đó là tốt nhất. Theo môn Tứ Trụ thì phương ở đây được so với nơi người này được sinh ra (hiện giờ tôi vẫn chưa biết chính xác là phải cách vị trí được sinh ít nhất là 10km; 20km hay 30km). 1 - Thủy là dụng thần bị Thổ khắc Nếu Thủy là dụng thần thì người này nên sống về phương bắc so với nơi người này được sinh ra, vì phương bắc là phương của Thủy vượng nó sẽ hỗ trợ một phần Thủy cho dụng thần Thủy và làm Thổ bị suy yếu đi một phần. Tại một năm đã được dự đoán có hạn rắt nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Thổ và Hỏa thì nó cần rất nhiều Thủy để giải cứu, người này ở phương bắc chưa đủ mà phải xuống sống ở dưới thuyền như dân chài lưới ở sông hay biển. Nếu như làm được một căn nhà bằng thủy tinh và nó được đặt ở khoảng giữa đáy và mặt nước của một cái hồ lớn và sâu để sống qua khoảng thời gian mà hạn có thể xẩy ra là lý tưởng nhất (?). Bởi vì thủy tinh mang hành Kim, nó có khả năng sinh cho dụng thần Thủy, nhưng điều quan trọng hơn là sống trong ngôi nhà thủy tinh, người đó luôn luôn nhìn thấy các phía đều là nước bao bọc, đó chính là con đường mà Thủy có thể vào được tứ trụ của người này để phù trợ cho dụng thần Thủy mạnh hơn cũng như nó có thể ngăn cản được phần lớn các tác dụng xấu từ bên ngoài của các hành Hỏa và Thổ tới dụng thần Thủy trong tứ trụ của người này (?). Ví dụ : Giả sử qua tứ trụ của một người, chúng ta xác định được người này sẽ có hạn nặng vào năm X. Tai họa này sẽ được gây ra bởi các tác động xấu từ vũ trụ tới tứ trụ của người này tại năm đó. Các tác động xấu này bắt buộc phải xuyên qua lớp nước dầy này mới đến được tứ trụ của người này, cho dù chúng đi từ trong lòng của trái đất lên. Cho nên lớp nước dầy này có thể sẽ ngăn cản được phần lớn các tác động xấu này, vì vậy tai họa tại năm đó có thể sẽ không còn nặng như vậy. Ngoài ra có thể dùng Mộc (nếu Mộc là hỷ thần và dụng thần Thủy không quá nhược) để giải cứu (như câu 4), hoặc dùng Kim (nếu Kim là hỷ thần) vì Kim có khả năng hóa Thổ để sinh cho dụng thần Thủy (như câu 5). 2 - Thổ là dụng thần bị Mộc khắc Nếu dụng thần Thổ không quá nhược mà Kim là hỷ thần, thì người này nên sống ở phương Tây so với nơi sinh, vì phương Tây là phương của Kim vượng nó sẽ làm cho Mộc bị suy yếu đi một phần. Giả sử tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Mộc khắc dụng thần Thổ thì tốt nhất người này nên đi về phương tây và sống trong lòng một mỏ sắt, bởi vì dụng thần Thổ được lòng đất mẹ che trở và khí Kim hộ vệ (vì là mỏ sắt). Nếu cẩn thận thì từ cửa hang vào bên trong treo vài trăm thanh gươm hay kiếm của các võ sĩ Tầu hay Nhật (nhớ phải vứt bỏ bao) thì bố khí Mộc dám bén mảng tới. Tất nhiên về logic là như vậy nhưng nó có giải cứu được hay không thì chúng ta phải có các thực nghiệm mới có thể biết được. Nếu Dụng thần Thổ quá yếu mà Hỏa là hỷ thần thì đầu tiên phải lấy Hỏa để giải cứu, vì Hỏa có khả năng hóa Mộc để sinh cho dụng thần Thổ, vì vậy người này nên sống ở phương nam là phương của Hỏa vượng (như câu 3). 3 – Hỏa là dụng thần bị Thủy khắc Nếu Hỏa là dụng thần mà bị Thủy khắc thì người này nên sống ở phương nam vì phương nam là phương của Hỏa vượng sẽ bổ xung một phần Hỏa cho dụng thần và làm Thủy suy yếu đi một phần nào. Tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Thủy khắc Hỏa thì tốt nhất người này đi về phương nam và sống trong rừng già (vì nó có Mộc nhiều) và ở phía nam của một ngọn núi lửa đang hoạt động. Khí Thủy từ phương bắc xuống phải qua ngọn núi lửa mới đến được người này thì tất nhiên nó phải bị suy yếu đi rất nhiều. Gần ngọn núi lửa cũng như ở gần bếp lò rèn Hỏa nhiều sẽ hỗ trợ được phần nào cho dụng thần Hỏa và nếu người này còn sống trong rừng già thì càng tốt vì có thêm Mộc của rừng già sẽ hóa một phần nào Thủy để sinh cho dụng thần Hỏa. Nếu Thổ là hỷ thần và dụng thần Hỏa không quá nhược thì ta có thể dùng Mộc để giải cứu (như câu 2), hoặc nếu Mộc là hỷ thần thì ta có thể dùng Mộc để giải cứu (như câu 4). 4 – Mộc là dụng thần bị Kim khắc Người này nên sống ở phương đông, vì phương đông là phương Mộc vượng sẽ hỗ trợ một phần Mộc cho dụng thần Mộc và làm cho khí Kim bị suy yếu đi một phần nào. Tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Kim khắc Mộc thì tốt nhất người này chui vào một gốc cây cổ thụ trong rừng già ở phía đông để sống hoặc sống trong một ngôi nhà bằng gỗ được đặt ở khoảng giữa đáy và mặt nước của một cái hồ lớn và sâu để sống qua khoảng thời gian mà hạn có thể xẩy ra. Bởi vì ở giữa lòng hồ Thủy quá vượng, nó sẽ hóa được phần lớn khí Kim từ vũ trụ đến để sinh cho dụng thần Mộc. Nếu Hỏa là hỷ thần và dụng thần Mộc không quá nhược thì ta có thể dùng Hỏa để giải cứu (như câu 3), hoặc nếu Thủy là hỷ thần thì ta có thể dùng Thủy để giải cứu (như câu 1). 5 – Kim là dụng thần bị Hỏa khắc Người này nên sống ở phương tây bởi vì phương tây là phương Kim vượng sẽ hỗ trợ một phần Kim cho dụng thần Kim và làm cho khí Kim bị suy yếu đi một phần nào. Tại một năm đã được dự đoán có hạn nặng mà nguyên nhân chính gây ra hạn bởi Hỏa khắc Kim thì phải dùng Kim để giải cứu (như câu 2) . Nếu dụng thần Kim không quá nhược mà Thủy là hỷ thần thì ta có thể dùng Thủy để giải cứu (như câu 1). III - Lấy chồng hay lấy vợ (điều quan trọng thứ 3) Lấy chồng hay lấy vợ cũng là một cách giải hạn khá quan trọng. Nếu trụ năm của người chồng và người vợ của anh ta là thiên hợp địa hợp với nhau thì nó thường là tốt và nó là tốt nhất khi chúng hóa thành hỷ dụng thần của cả hai người, nhưng nếu chúng hóa thành kỵ thần khắc dụng thần của một trong hai người hoặc cả hai người thì nó có thể là xấu nhất. Cái cần tránh nhất là trụ năm của hai người không được TKĐK với nhau, vì nếu như vậy thì lúc nào hai người cũng đã có một ít về điểm hạn khắc nhau. Ngoài ra 2 người nên chọn sao cho các hành nào đó của người này nhiều có thể bù trừ cho sự thiếu hụt của người kia. Có như vậy thì cuộc sống của hai người sẽ thuận lợi hơn nhiều. Ví dụ : Nếu dụng thần của người này là Mộc mà hành Mộc của người kia lại nhiều là rất tốt, nhất là Mộc lại là tài tinh chẳng hạn thì tiền tài dễ kiếm.... IV – Ngăn chặn về hình, tự hình và hại Chúng ta đã biết hình và hại do các địa chi gây ra mà các địa chi là đất, nó nghĩa là đất nước mà con người đang sống ở trong đó. Đó chính là xã hội của con người, nó vô cùng phức tạp, ở trong đó phát sinh ra mọi thứ tệ nạn xã hội từ tốt đến xấu. Một trong các tệ nạn xấu của xã hội đó chính là con người làm hại lẫn nhau, chúng được gọi là hình và hại, còn nếu do chính các thói xấu của mình mà làm hại chính mìmh được gọi là tự hình. Do vậy nếu một ai muốn giải cứu các tai họa được gây ra bởi các điểm hạn chính của hình, tự hình hay hại thì tất nhiên người này phải rời xa những người đó, xã hội đó, với mọi tham vọng hay tuyệt vọng của chính mình. Một trong các cách giải cứu này là bãi quan, từ chức rút về ở ẩn trong rừng hay trên núi cao hoặc trong các chùa, nhà thờ,…… nghĩa là sống cách ly với xã hội và con người. Đối với trẻ em còn bé nhỏ thì các bậc cha mẹ, anh chị em, người lớn …. phải hết sức chú ý và chăm sóc tốt cho em bé đó. Bởi vì hình và hại có thể do người lớn gây ra hoặc do chính em bé đó đùa nghịch mà gây lên. V - Nghề nghiệp và mầu sắc Mầu sắc của quần áo mặc hay các thứ trong nhà (cây cảnh, bàn, ghế, giường, tủ....) cũng như khi trưởng thành nên làm những nghành, nghề theo đúng hành của dụng thần thì cuộc sống chắc chắn sẽ thuận lợi hơn nhiều (vì chúng cũng có một phần nào bổ xung thêm cho hành làm dụng thần). VI - Các hạn chưa có cách nào để ngăn chặn Các hạn được gây ra bởi các điểm hạn của thiên khắc đia xung, nạp âm, các hợp cục gây ra đại chiến, đại chiến 1 hay đại chiến 2,…….. thì đến giờ tôi vẫn chưa có một ý tưởng nào để ngăn chặn chúng. Các cách ngăn chặn (giải cứu) cơ bản ở trên tôi cũng chỉ từ các suy luận có lý mà đưa ra, còn chúng có giá trị hay không thì tôi chưa biết. Bởi vì năm 2004 tôi mới được biết đến môn này qua cuốn Dự Đoán Theo Tứ Trụ của thầy trò Thiệu Vĩ Hoa. Sau đó tôi tự nghiên cứu không có thầy và bạn, vì vậy tôi chưa có thời gian và điều kiện để thử nghiệm chúng trong cuộc sống.
    1 like
  18. Bài viết để tham khảo Cách cục và dụng thần là hai hay một ? Theo như Hoàng Ðại Lục tác giả cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Giảng Nghĩa“ đã viết: “Giải đọc: nếu như đinh hỏa nhật nguyên sinh ở hợi nguyệt, nhâm thủy trong hợi chính là chính quan của nhật nguyên, lấy dụng phải lấy chính quan cách. Nhưng nếu như trong bát tự có hai chữ mão mùi (chỉ một chữ mão cũng có thể), thì hợi mão mùi tam hợp thành mộc, đem hợi thủy chính quan ban đầu trở thành mão mộc ấn tinh, dụng thần cũng theo đó trở thành ấn cách.“. (Trích từ chủ đề “Luận dụng thần biến hóa“, bài dịch của toahuongquy bên tuvilyso.org). Có nghĩa là nếu Nhật can là Ðinh mà sinh tháng Hợi thì vì Hợi mang hành Thủy khắc Nhật can Ðinh mang hành hỏa nên cách cục đầu tiên của Tứ Trụ này được gọi là Cách Chính Quan nhưng nếu trong Tứ Trụ có Mão và Mùi thì Hợi hợp với Mão và Mùi hóa Mộc mà Mộc (Ấn) là hành sinh cho Thân Hỏa nên cách cục của Tứ Trụ từ Cách Chính Quan đã trở thành Cách Chính Ấn. Một điều mới lạ là ông ta cho rằng Cách cục là gì thì dụng thần chính là hành của Cách cục đó. Cho nên với Cách cục là Chính quan thì ông ta cho rằng dụng thần là Chính quan còn Cách cục đã thay đổi từ Chính Quan thành Chính Ấn thì dụng thần của Cách Chính Ấn phải là Chính Ấn. Sự thay đổi này Hoàng Ðại Lục cho rằng dụng thần đã thay đổi (hay dụng thần đã biến hóa). Thêm một điều mới lạ nữa là khi đã xác định được Tứ Trụ là Cách cục gì tức dụng thần là gì rồi thì ông ta khẳng định nó sẽ không thay đổi trong suốt cuộc đời của người có Tứ Trụ đó. Bằng chứng là ông ta đã viết tiếp: “Đến đây, cái gì là dụng thần, cái gì là dụng thần biến hóa, ở trong bản nghĩa Tử Bình Chân Thuyên đã thể hiện không sót rồi. Chúng ta có thể xác nhận: thuyết dụng thần trong mệnh học kinh điển như Tử Bình Chân Thuyên, chính là cái mà nguyệt lệnh có thể dụng và chữ định cách. Trong mệnh học kinh điển như Tử Bình Chân Thuyên, Thần Phong Thông Khảo, Uyên Hải Tử Bình cùng với Tam Mệnh Thông Hội, căn bản là không tồn tại cái gọi là dụng thần thăng bằng, phù ức, thông quan, điều hậu như thuyết về các loại này trong mệnh thư hiện đại. Trong thư tịch mệnh lý hiện đại, cũng có luận về dụng thần biến hóa, nhưng cùng thuyết Trầm thị không dính dáng nhau. Trầm thị nói chính là nguyệt lệnh thấu can và địa chi hội hợp dẫn tới vấn đề nguyệt lệnh biến hóa, mà sách mệnh lý hiện đại lại nói chính là vì tuế vận can dự vào phá vỡ thăng bằng nguyên mệnh cục, yêu cầu lại lần nữa vấn đề chọn chữ thăng bằng.“. Ðoạn này ông ta muốn nói đại ý là chỉ có các : “…sách mệnh lý hiện đại lại nói chính là vì tuế vận can dự vào phá vỡ thăng bằng nguyên mệnh cục, yêu cầu lại lần nữa vấn đề chọn chữ thăng bằng.“, còn các sách : “Trong mệnh học kinh điển như Tử Bình Chân Thuyên, Thần Phong Thông Khảo, Uyên Hải Tử Bình cùng với Tam Mệnh Thông Hội, căn bản là không tồn tại cái gọi là dụng thần thăng bằng, phù ức, thông quan, điều hậu như thuyết về các loại này trong mệnh thư hiện đại.“. Có nghĩa là ông ta cho rằng theo các sách “mệng học kinh điển " tuế vận không can dự vào Tứ Trụ để làm dụng thần thay đổi" như các sách “mệnh lý hiện đại“ (ví dụ như phương pháp của tôi). Từ đây cho thấy cái mấu chốt, cái mới lạ là ông ta cho rằng khi đã xác định được Cách cục tức Dụng thần của Tứ Trụ rồi thì nó sẽ không bao giờ thay đổi bởi tuế vận nữa. Nếu vậy thì theo tôi cái định nghĩa “Dụng thần biến hóa“ tức “Dụng thần biến đổi“ của ông ta thực chất chỉ là khâu xác định dụng thần chính trong Tứ Trụ mà thôi bởi vì nó có thời gian can dự vào đâu mà cho là biến hóa. Nếu như các phương pháp của các sách mệnh lý hiện đại mà theo cách định nghĩa của ông ta thì ví dụ : Nếu một Tứ Trụ có Nhật can thất lệnh chẳng hạn thì đầu tiên phải cho là Thân nhược nên dụng thần phải là Kiêu Ấn để sinh Thân hoặc Tỷ Kiếp để trợ Thân nhưng nếu trong Tứ Trụ có quá nhiều Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp nên Thân quá vượng thì dụng thần phải là Tài , Quan Sát hay Thực Thương chẳng hạn thì cho rằng dụng thần đã thay đổi tức “Biến Hóa“ từ Kiêu Ấn… sang Tài Quan…hay sao ? Thật là một cái định nghĩa không lấy gì là chính xác cả. Sau đây tôi lấy ví dụ số 1 của ông ta trong chủ đề “Luận dụng thần thành bại ứng cứu“, được dịch bởi toahuongquy bên tuvilyso.org để chứng minh xem Cách cục và Dụng thần là 2 hay 1 như sau: Hoàng Ðại Lục đã viết: “1 - Như mệnh Lưu Trừng Như: Quan….. thực….. nhận…...tấn Nhâm…… kỷ…… đinh…….giáp Tuất………dậu…….Sửu…….thìn Niên can thấu quan, nguyệt can thấu thực, quan tinh chịu khắc mà phá quan cách. Nhưng còn có thể khí quan tựu thực, nói cách khác quan cách không thành, có sao đâu trở lại lấy tài cách. Tài cách có thực, thêm có ấn tinh, là có thể thành lập. Cho nên mệnh chủ sĩ lộ không thông tài lộ thông, kinh doanh tơ lụa có phương pháp, trung niên thành nhà giàu nhất Chiết Giang.“. Sau đây là bài luận của tôi: Sơ đồ xác định các điểm vượng trong vùng tâm: Theo phương pháp của tôi, chưa cần biết Cách cục của Tứ Trụ này là gì nhưng có thể xác định chính xác dụng thần của Tứ Trụ này là Mộc, do vậy đến tuổi trung niên vào các vận Giáp Dần và Ất Mão là các vận dụng thần, chúng là 2 đại vận huy hoàng nhất cuộc đời của người này. Do vậy người này đã đại phát tài. Còn theo phương pháp của Hoàng Ðại Lục thì cho rằng dụng thần của Tứ Trụ này là Tài (Kim) vì Tứ Trụ này có Cách Chính Tài. Vậy thì tại sao người này không phát tài ở vận Tài là Canh Tuất và Tân Hợi đi mà tới vận kỵ thần là Giáp Dần, Ất Mão mới phát ? Qua đây thì rõ ràng Kim không mang tính chất là dụng thần, vì vậy tôi có thể khẳng định mặc dù Tứ Trụ này có Cách Chính Tài nhưng dụng thần phải là Mộc chứ không phải là Kim. Cho nên Cách cục và dụng thần hoàn toàn không có gì liên quan tới nhau (tức là 2 chứ không phải là 1). Cách cục chỉ nói lên sự tốt hay xấu (tức quý hay tiện) của Tứ Trụ nhiều hay ít, còn các điều quý hay tiện này phát được hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào vận theo dụng thần được xác định theo Thân vượng hay nhược chứ không phải được xác định dựa theo Cách cục. Nói đơn giản (hay nói một cách thô thiển) là Cách cục chỉ là tên gọi của Tứ Trụ theo một quy tắc nào đó mà thôi. Tiếp theo chúng ta thử hỏi, theo phương pháp của ông ta thì khi đã xác định được Cách cục của Tứ Trụ rồi thì Cách cục này có bị thay đổi bởi tuế vận hay không ? Ta lấy ngay đoạn mà ông ta đã viết được trích ở trên: “Giải đọc: nếu như đinh hỏa nhật nguyên sinh ở hợi nguyệt, nhâm thủy trong hợi chính là chính quan của nhật nguyên, lấy dụng phải lấy chính quan cách. Nhưng nếu như trong bát tự có hai chữ mão mùi (chỉ một chữ mão cũng có thể), thì hợi mão mùi tam hợp thành mộc, đem hợi thủy chính quan ban đầu trở thành mão mộc ấn tinh, dụng thần cũng theo đó trở thành ấn cách.“. Nếu trong Tứ Trụ không có Mão và Mùi thì rõ ràng Tứ Trụ này vẫn là Cách Chính Quan nhưng đến tuế vận có Mão và Mùi thì dĩ nhiên tam hợp Hợi Mão Mùi đã hóa Mộc. Vậy thì Cách Chính Quan còn hay không khi Hợi đã biến thành Mộc (Ấn) ? Rõ ràng ông ta đã khẳng định ở trên là Hợi (Quan) đã biến thành Mộc (Ấn) nên thành Cách Chính Ấn rồi còn gì nữa. Từ đây tôi có thể kết luận điều mà ông ta khẳng định là dụng thần chính là hành của Cách cục của Tứ Trụ và Cách cục tức dụng thần không bị tuế vận làm cho thay đổi như các sách mệnh lý học hiện đại nói tới là hoàn toàn sai lầm.
    1 like
  19. (tiếp bài trên) Tác giả Hoàng Ðại Lục đã viết: "Ất mộc sinh ở dần nguyệt, lộ ra bính hỏa thương quan ở thời can, địa chi có tuất không có ngọ, nếu như dần tuất có thể hóa hỏa, cách thành thương quan sinh tài, như vậy mệnh chủ ở trong hai vận bính thìn, đinh tị này tất nhiên đã gặp đại phát tài, nhưng sự thật lại không phải như thế. Mệnh chủ lần đầu phát tài là ở vận mậu ngọ năm giáp tuất,...". Thân Mộc quá vượng nên đại vận Bính Thìn và Ðinh Tị là vận Thực Thương xì hơi Thân để tái sinh tài thì thường là vận phát tài nhưng tại sao người này không phát tài? Ðó chính là không chỉ có Mậu trụ năm bị Giáp ở trạng tháo Lâm quan khắc gần mà Tuất cũng bị Dần lệnh tháng khắc gần, còn Thổ cục (tức tài cục) bị Ất ở trạng thái Ðế vượng khắc trực tiếp. Do vậy tất cả tài trong Tứ Trụ đều bị khắc trực tiếp và gần nên Tài bị tổn thương, nó không có khả năng nhận được sự sinh từ Thực Thương nên người này không thể phát tài. Nếu Giáp trụ tháng và Bính trụ giờ đổi chỗ cho nhau thì Mậu trụ năm không những không bị khắc trực tiếp bởi Giáp vượng mà nó còn được Bính gần hóa Ất gần và Dần cùng trụ sinh cho, khi đó 2 vận này người này sẽ phát tài (tất nhiên là không thể đại phát tài được bởi vì trong Tứ Trụ vẫn còn 3 can chi Tỷ Kiếp nắm lệnh). (Chú ý : Vì tôi mới nghiên cứu về Tài Quan Ấn nên các bài luận về đề tài này chỉ để tham khảo).
    1 like