• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 07/05/2012 in all areas

  1. Chào các bạn! Trong khoảng 5 tháng nay, TA có nhận được email và điện thoại của một số bệnh nhân cần tư vấn về bệnh ung thư, tiểu đường, tai biến mạch máu não, khớp, tim, ... Họ có nói là biết tới phương pháp chữa bệnh của BS.TS Hoàng Xuân Ba thông qua lyhocdongphuong.org.vn. Thời gian gần đây, các email nói được giới thiệu từ diễn đàn này càng nhiều hơn. Điều đó làm TA biết tới diễn đàn mình, vào đọc, và thật ngạc nhiên, vì các thông tin mà các thành viên chia sẻ với nhau thật chân tình, không vụ lợi và mọi người đều có hiểu biết về phương pháp của BS Ba khá chi tiết. Thực sự TA bất ngờ vì không bao giờ có thể nghĩ là trên mạng ảo, con người ta có thể sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ nhau vô tư đến thế. Bởi vậy, TA quyết định đăng ký thành viên để cùng giao lưu với mọi người Thưa các bạn, Hiện nay, chúng ta đều biết là rất nhiều bệnh nhân bị các bệnh mạn tính được chỉ định điều trị bằng 10 loại thuốc hóa dược hoặc hơn thế nữa. Họ bị các phản ứng phụ gây ho, viêm đường hô hấp trên, đau nhức cơ bắp, giảm trí nhớ và cả suy thận. Các thuốc hóa dược đại bộ phận dùng để làm giảm triệu chứng, làm tăng chỉ số này, giảm chỉ số kia trong cơ thể người bệnh, nhưng rất ít khi chúng động tới nguyên nhân của bệnh tật và vì thế hầu như không có khả năng chữa khỏi bệnh. Các thuốc hóa dược đều có những hậu quả phụ và nhiều khi các phản ứng này được nhận thức và điều trị bằng một thuốc khác như một bệnh lý mới. Chính vì thế, chi phí chữa bệnh lên tới một con số khổng lồ mà không giải quyết dứt điểm được bệnh tật cho bệnh nhân.Tuy nhiên, nếu chúng ta bào chế các dược phẩm có nguồn gốc thiên nhiên xuất phát từ kinh nghiệm của y học dân gian, chúng ta có thể giải quyết một cách cơ bản đại đa số các bệnh tật, hơn nữa, chúng còn không có tác dụng phụ và rất tốt cho sức khỏe con người. TA rất mừng là trên internet, lại có rất nhiều người cùng suy nghĩ, tư tưởng với TA. Thực sự, TA mong muốn sẽ dùng cây cỏ thiên nhiên Việt Nam, trí tuệ Việt Nam, phương pháp Việt Nam để nâng cao thể trạng cho người Việt cũng như giúp người Việt đẩy lùi được những căn bệnh được coi là quái ác, nan y trên thế giới. Với những người muốn tìm hiểu về phương pháp chữa bệnh này, cũng như muốn được chữa những bệnh nan y theo phương pháp này, TA sẽ tư vấn tối đa có thể trên diến đàn mình, hoặc mọi người có thể liên hệ theo contact sau: Điện thoại: 090 40 34567 Email: trantheanh.pn@gmail.com YM: thaoduoc_tunhien Trân trọng. Thế Anh
    4 likes
  2. Thảo dược bài trừ độc tố cho gan (07/05/2012) Mỗi ngày khi ăn, uống, hít thở trong nhiều môi trường, cơ thể có thể bị hấp thu những chất độc và những chất độc sẽ được đào thải qua gan. Đáng nói là không thể bắt gan làm việc liên tục mà không được "bảo trì”. Phát hiện sớm và sử dụng các loại thảo dược, hoa quả, thực phẩm thích hợp sẽ hỗ trợ giải độc cho gan. Gấc là một loại quả thích hợp hỗ trợ giải độc cho gan Khi gan tích tụ độc tố Lá gan là cơ quan lớn nhất trong cơ thể. Tất cả các chất vào cơ thể đều qua gan vào máu và đến các nơi. Tuy nhiên, trên thế giới có khoảng hơn 2 tỷ người mang những nguy cơ mắc bệnh về gan vì nhiều nguyên nhân. Điển hình bệnh về gan là xơ gan mạn tính, gan nhiễm mỡ, viêm gan, ung thư gan. Đáng nói là diễn tiến của bệnh gan thường kéo dài. Giai đoạn đầu không có triệu chứng rõ ràng nhưng khi có dấu hiệu vàng da, vàng mắt, bụng to, chân phù, chảy máu... thì bệnh đã ở giai đoạn nặng, làm hạn chế hiệu quả điều trị. Do vậy, các bác sĩ khuyên cần theo dõi sức khỏe định kỳ. Tốt nhất, để phòng ngừa các tổn thương ở gan nên hạn chế uống rượu bia, đồng thời kết hợp ứng dụng các phương thức hiệu quả từ tự nhiên. Gan tích độc sẽ biểu hiện ra bên ngoài. Đông y cho rằng "gan chủ gân”. Móng tay là một bộ phận của gân vì vậy khi độc tố tích tụ ở gan, bề mặt móng tay có những đường viền nhô lên hoặc lõm xuống. Gan còn là cơ quan điều tiết tâm trạng trong cơ thể, khi độc tố trong gan không kịp thời bài tiết được ra ngoài sẽ gây tắc nghẽn khí khiến tâm trạng chán nản, buồn phiền. Gan chứa độc tố còn gây đau nửa đầu, 2 bên mặt mọc mụn, đồng thời đau bụng kinh. 2 bên phần mặt và bụng dưới là phần biểu hiện của gan và các "đối tác” của gan, mỗi khi gan bài trừ độc tố không thoát, thì "hậu viện” phía sau sẽ bị cháy trước. Thảo dược bổ gan Theo PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Giao, viện Công nghệ sinh học, viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có rất nhiều cây cối, hoa quả, trong đó có những hệ enzym rất tốt cho cơ thể. Xưa đến nay, nhiều loại cây cỏ có tác dụng giải độc cho gan được sử dụng nhưng chủ yếu chế biến bằng cách nấu cao hoặc sắc nước để uống. Ngày nay các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu, tổng hợp các tinh chất từ hoa trái, cỏ cây với mục đích ứng dụng hiệu quả vào thực tế, như hỗ trợ điều trị gan nhiễm mỡ, viêm gan, đồng thời tăng cường kháng thể. Có thể kể đến trong số này có tổng hợp Papain từ đu đủ, Alicin từ bột tỏi, Betacarotene từ gấc, quả trứng gà, Enzyme Peroxidase từ mướp đắng, củ cải cùng Pluriamin được thủy phân từ nhộng tằm tạo nên hợp chất hữu ích Naturens, cung cấp acid amin cần thiết cho cơ thế, ngăn ngừa tiền ung thư gan. Thực tế, mỗi loại nguyên liệu từ tự nhiên đó đều có tác dụng hữu hiệu trong chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Ngoài các vitamin, các chất xơ thì nó còn có cả hệ enzym giúp bảo vệ cơ thể. Bài thuốc hay Kinh nghiệm dân gian cho thấy có rất nhiều bài thuốc quý từ cỏ cây hoa trái giúp giải độc và điều trị các bệnh về gan. Vẫn theo PGS. Ngọc Giao ăn đu đủ thường xuyên có tác dụng bổ máu, chữa chứng mất ngủ, viêm dạ dày mạn tính, giúp hồi phục gan, tăng sức đề kháng cho cơ thể. Quả trứng gà hay còn gọi là lêkima cũng là một loại trái cây có chứa nhiều caroten, vitamin B3 và các nhóm vitamin B khác, có khả năng chống lão hóa. Nước nấu mướp đắng có công hiệu thanh nhiệt, thích hợp cho người bị chứng nóng gan. Các thầy thuốc đông y cho biết ăn đậu đỏ chữa viêm gan, vàng da cấp, bởi thành phần xích tiểu đậu có chất béo, albumin, sinh tố B1, B2, acid nicotinic. Theo y học cổ truyền, xích tiểu đậu có vị ngọt, tính bình, vào kinh tâm, tiểu trường, có tác dụng lợi thuỷ, hành huyết, tiêu sưng tấy, rút mủ...Để chữa viêm gan cấp hoặc vàng da: Xích tiểu đậu 30g, táo tàu 50g, nhân hạt lạc 30g, đường cát 5g nấu nhừ lên, chia 3 lần ăn trong ngày. Tuy nhiên nếu mồm họng khô, cơ thể gầy gò, sốt nhẹ, đổ mồ hôi trộm không nên dùng nhiều xích tiểu đậu. Người tạng nhiệt thì dùng sống, tạng hơi hàn thì sao qua. Vẫn theo lý luận ngũ hành của Đông y, thực phẩm có vỏ màu xanh có thể thông đạt gan khí, có tác dụng thông gan, giải tỏa trầm uất, giảm nhẹ tâm trạng buồn bực, là nhóm thực phẩm giúp gan bài trừ độc tố. Chuyên gia đông y giới thiệu dùng cam hoặc chanh có vỏ màu xanh, nghiền nhỏ cùng với cả vỏ vắt nước uống. Để bài trừ độc tố, có thể ấn vào yếu huyệt gan. Huyệt ở đây là chỉ thái xung huyệt, vị trí là điểm lõm giữa xương bàn chân thứ nhất và thứ hai ở dưới lòng bàn chân. Dùng ngón tay cái ấn nhẹ từ 3-5 phút, cảm giác hơi đau một chút là được, khi ấn không nên quá dùng sức, 2 bàn chân xoa hoán đổi cho nhau. Kim Vân
    3 likes
  3. Rất tiếc vì chưa nhận được định nghĩa khái niệm thế nào là tính "chuyên môn sâu của nhà nghiên cứu", nên tôi tạm thời chưa nói đến tính khoa học thực sự của NNC Đỗ Văn Xuyền trọng việc công bố hệ thống chữ khoa Đẩu của người Việt cổ của ông. Nhưng tôi lưu ý tất cả anh chị em đang nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt về tính hệ thống và hợp lý trong việc ký âm tất cả ngôn ngữ của người Việt hiện đại - vốn kế thừa từ quá khứ - của hệ thống ký tự này. Tức là - tôi nói rõ hơn - Nếu không có một sự hợp lý bao trùm trên mọi phương diện về ngôn ngữ Việt thì hệ thống chữ viết của ông Đỗ Văn Xuyền công bố không thể ký âm được tất cả ngôn ngữ của người Việt hiện nay. Cụ thể: ông Xuyền có thể dịch truyện Kiều từ chữ Quốc ngữ ra hệ thống ký tự khoa đẩu mà ông công bố. Để có một hệ thống ký tự có thể ký âm tất cả ngôn ngữ của một dân tộc thì trong lịch sử văn minh nhân loại là một qúa trình tiến hóa của một dân tộc văn minh với sự đóng góp của nhiều thế hệ. Nếu không có tính hợp lý khoa học với tất cả những tiêu chí khoa học người ta đã có hoặc có thể nghĩ ra cộng với một khả năng gần như siêu đẳng thì không thể thực hiện được điều này.Nhưng nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã làm được điều đó trước sự ngơ ngác của tha nhân. Cá nhân tôi khâm phục ông.
    3 likes
  4. Còn một đoạn trích dẫn lời của giáo sư Phan Huy Lê, nhưng do sơ sót nên tôi đã bỏ sót không bình luận trong phần trích dẫn của báo Thanh Niên - nên tôi viết riêng trong bài này: =========================Kính gửi giáo sư Phan Huy Lê: Tôi thiết nghĩ : "Một việc làm chính danh thì nó phải công khai và được sự thẩm định của công luận". Tôi không nghe thấy rõ câu này của giáo sư trong buổi hội thảo công khai được tổ chức vào ngày 4/5 ở hội trường Liên hiệp các Hội Khoa học Việt Nam ở 53 Nguyễn Du. Do đó, việc bình luận sau đó của giáo sư theo tôi nên cần thể hiện rõ trong cuộc hội thảo nói trên. Còn việc giáo sư từ chối đưa ra đánh giá cụ thể chất lượng nghiên cứu của ông Đỗ Văn Xuyền thì cũng có thể giải thích rằng: Giáo sư chưa có thời gian nghiên cứu sâu về nội dung mà nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền trình bày. Hoặc cũng có thể hiểu rằng: Vì giáo sư đã đánh giá thấp chất lượng nghiên cứu của ông Đỗ Văn Xuyền nên không bình luận. Nhưng qua nhận xét của giáo sư Phan Huy Lê được đăng tải trên báo Thanh Niên, tôi nhận thấy giáo sư đưa khái niệm "nhà nghiên cứu chuyên môn sâu" một cách mơ hồ. Vậy tôi xin được đặt vấn đề mong giáo sư nói rõ hơn về giá trị cần có để được xác định với khái niệm "chuyên môn sâu" của một nhà nghiên cứu? Còn theo tôi - tôi cho rằng: Chất lượng nghiên cứu của một nhà nghiên cứu - dù xuất phát từ một địa vị xã hội như thế nào - chính là giá trị kết quả việc làm của họ. Và chính kết quả đạt được của họ là sự xác định tính chuyên sâu của nhà nghiên cứu. Kết quả việc làm của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền chính là hệ thống chữ Khoa Đẩu được ông xác định của người Việt cổ. Do đó, nếu xét về chuyên môn và với góc độ khoa học thì nó phải được thẩm định và phản biện - theo "tiêu chí khoa học được công nhận rộng rãi". Thành tựu của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền mà tôi đã xác định là vĩ đại - chính vì tôi thấy đó là kết quả mà các vị học giả bằng cấp đầy mình, với đầy đủ tiên nghi nhưng đã không thực hiện được. Trong trường hợp tôi - nếu do may mắn mà có học vị cao được công nhận trong một lĩnh vực nào đó - nhưng không có một kết quả nghiên cứu đáng gọi là có giá trị, mà để một người không có học vị như mình lại có một kết quả nghiên cứu vượt trội hơn mà tôi không có khả năng thẩm định theo chuyên môn của mình thì chắc tôi sẽ lấy làm áy náy và sẽ rất tôn trọng người đó. Ở đây, bước đầu tôi thấy những học giả có bằng cấp nặng về phê phán công trình của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền - Nhưng tôi chưa thấy một cá nhân nào trên thế giới trong lịch sử văn minh nhân loại - cái này thì tùy các nhà sử học xác định niên đại - thực hiện được một hệ thống ký tự có khả năng miêu tả ngôn ngữ của cả một dân tộc như nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Mà tôi chỉ thấy những ký tự ngôn ngữ của một dân tộc được hình thành bởi cả một qúa trình lịch sử của dân tộc đó với sự đóng góp của nhiều thế hệ học giả. Đó là một yếu tố để tôi nhận xét tính vĩ đại của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền trong lĩnh vực này. Tôi cũng xin được đặt vấn đề với những học giả có bằng cấp cao được nhắc tới trong các bài báo nói trên rằng: Có vị nào bằng chuyên môn sâu của mình có thể chỉ ra được một điểm duy nhất đáng để cho điểm cao của nhà nghiên cứu Đỗ văn Xuyền trong cả hệ thống luận điểm của ông ta không? Hay chỉ nhìn thấy nó chưa hoàn chỉnh? Còn việc hệ thống chữ Khoa đẩu mà ông Xuyền xác định là của người Việt cổ - có khả năng ký âm ngôn ngữ Việt cả hiện đại lẫn quá khứ còn lưu truyền trong hệ thống ngôn ngữ đó - có đúng là của người Việt cổ hay không thì - tạm thời do đang công khai trước công luận - nên cá nhân tôi cũng đang cùng mọi người quan tâm đóng góp ý kiến. Xin cảm ơn sự quan tâm của giáo sư Phan Huy Lê - nếu ông có dịp ghé diễn đàn xem bài viết này và các anh chị em . ========================= PS: Tôi nghiên cứu về Lý học Đông phương - nhưng không dám tự cho mình có chuyên môn sâu về môn này vì sự mêng mông đến huyền vĩ của Lý học. Tất nhiên tôi lại càng không có chuyên môn về vật lý thực nghiệm, cũng như lý thuyết. Nhưng tôi xác định đã lấn sân sang lĩnh vực của các nhà vật lý trên toàn cầu rằng: Không bao giờ có Hạt của Chúa! Kết quả lấn sân của tôi không ai có thể thẩm định được về mặt lý thuyết mà chỉ còn biết chờ vào thực tế kết quả thí nghiệm của cỗ máy LHC. Tôi đã chờ đợi việc này từ trước khi cỗ máy khởi động lần đầu tiên - để xác định có hay không Hạt của Chúa - tháng 7. 2008, đến nay đã gần 5 năm. Nếu tôi đúng, tôi tin rằng các nhà Vật Lý thế giới sẽ không vì tôi không có chuyên môn liên quan đến lĩnh vực của họ mà tránh né sự trao đổi.
    3 likes
  5. Ở giai đoạn cuối, bệnh nhân ung thư cần nhất là chất lượng cuộc sống và kéo dài tuổi thọ. Nếu ai đã từng nghiên cứu về bệnh ung thư thì đều biết giai đoạn cuối cùng, bệnh nhân vô cùng đau đớn, nên ng ta sợ bệnh ung thư vì sợ đối mặt với nỗi đau đớn tận cùng. Thậm chí các loại thuốc hướng thần, thuốc gây nghiện cũng không làm giảm đau là bao. Bởi vậy, điều quan trọng nhất đối ới bệnh nhân ở giai đoạn này là làm sao để họ không còn đau đớn, vẫn có thể sống như một người khỏe mạnh chứ không phải làm nhỏ đi khối u. Thế Anh có đọc 1 bài c post, trích từ ĐH John Hopkins, trong đó có nói là Trong mỗi cơ thể chúng ta đều có tế bào ung thư, bởi vậy, xin được bôi đỏ mấy từ trên và xin được nhấn mạnh, dù ở giai đoạn nào thì cũng không tiêu diệt được. Bởi nó vốn có sẵn trong cơ thể, khi ta tiêu diệt, nghĩa là tiêu diệt cả tế bào tốt lẫn tế bào ung thư, làm cơ thể yếu đi, sức đề kháng giảm, ... mà hoàn toàn không thể tiêu diệt được hết. Gửi bạn Thin, Trong nhiều thập kỷ qua, nhân loại đã chi một khoản tiền khổng lồ để nghiên cứu, khám và điều trị căn bệnh ung thư nhưng kết quả không mấy khả quan. Vậy nhưng, trong những năm qua, có một người Việt Nam đã lặng lẽ nghiên cứu và đã gây sửng sốt cho các nhà khoa học trên thế giới khi công bố cách điều trị ung thư mới. Không những thế, anh còn điều trị rất thành công các bệnh mạn tính như huyết áp, tiểu đường, viêm đại tràng, dạ dày, các bệnh tự kỷ, hoang tưởng, trầm cảm; các bệnh ngoài da như vẩy nến, á sừng,..; các bệnh tai mũi họng, …. Anh chính là BS.TS Hoàng Xuân Ba – một trong những chuyên gia nổi tiếng nhất thế giới trong lĩnh vực miễn dịch, tự miễn, nhi khoa, hen suyễn, ung thư... Phương pháp mà BS.TS Hoàng Xuân Ba đưa ra được các nhà khoa học uy tín trên thế giới đánh giá là “Tỷ lệ thành công của phương pháp chữa bệnh của bác sĩ Ba rất cao. Rõ ràng là ông đã tìm thấy những nguyên lý đúng đắn về căn bệnh nan y này và giúp chúng ta có hiểu biết đúng hơn và điều trị nó hiệu quả hơn.” Nếu bạn thực sự quan tâm tới phương pháp đúng đắn để điều trị, mời xem topic Huyền thoại Hoàng Xuân Ba hoặc email về tình trạng bệnh nhân cho TA trantheanh.pn@gmail.com HI vọng sẽ giúp được bạn
    2 likes
  6. Sức khỏe Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn ổn định Sức khỏe của anh Văn vẫn giữ được như từ đầu năm đến nay. Ai vào thăm, anh vẫn biết và chủ động bắt tay - trợ lý riêng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho hay. Chiều 5/5, tại văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp (số 30, Hoàng Diệu, TP Hà Nội), Đại tá Nguyễn Huyên, trợ lý riêng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thông báo cho phóng viên một số cơ quan báo chí: "Nhân dịp kỷ niệm 58 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2012) tất cả cán bộ, chiến sĩ trực tiếp phục vụ anh Văn đã vào thăm và chúc mừng anh vào hôm thứ tư (ngày 2/5); hai ngày sau tôi lại vào thăm anh. Chúng tôi thấy sức khỏe anh Văn vẫn ổn định, tỉnh táo. Nói chung sức khỏe của anh Văn vẫn giữ được như từ đầu năm đến nay. Ai vào thăm, anh vẫn biết và chủ động bắt tay. Khi anh em trong đoàn chúc mừng Đại tướng và chúc mừng Chiến thắng Điện Biên Phủ thì anh vui và nói lời cảm ơn. Chúng tôi thấy anh chị em bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã chăm sóc anh Văn hết sức tận tình, chu đáo nên đã duy trì sức khỏe của anh Văn tốt...". Theo Quân đội nhân dân
    2 likes
  7. Chúng ta không thể ngờ rằng Sĩ Nhiếp "Nam Giao Học Tổ" đã xuất hiện trong thư tịch Anh quốc - chuyện tôn xưng này quá rõ ràng là sai bét nhè rồi. Có thể là cách đọc khác nhưng ý nghĩa của chữ viết vẫn là một, ví dụ chữ cổ table là cái bàn, hai cách đọc khác nhưng hiểu là vật dụng đang đề cập đều như nhau, đây là nhận định chưa vào ý chính. Dòng chảy ngôn ngữ cổ cho tới nay thay đổi nhưng ý nghĩa của chúng quy định hiện tượng là không thay đổi, cách đọc mới vẫn có khả năng lý giải những sự việc liên quan. Nhận định này giống ở trên. Điều này có thể, do vậy nên chỉ ra phải chăng chữ Thái là Việt cổ hoặc Văn Lang thống nhất chữ quốc ngữ hoặc nó khác tất cả các loại chữ đã từng gặp Không có nghĩa nhà nghiên cứu nghiệp dư là bị giới hạn, ví dụ ngành sử trước đây là điểm thi vào đại học thuộc loại kém nhất, chả nhẽ đang đào tạo các nhà sử học có vấn đề?. Phàm đã gọi là khoa học thì cần công khai tranh luận. Nhưng những nhà khoa học trong bài báo nói trên thì chỉ thấy có mình ông Phan Huy Lê tham gia. Nếu các nhà khoa học thực sự quan tâm đến "Chữ Việt cổ" và có tâm huyết bảo vệ quan điểm của mình dù đúng hay sai, tôi nghĩ nến tranh luận công khai với những luận cứ rõ ràng. Còn phạm vi một bài báo bị hạn chế bởi khuôn khổ có hạn - nên cũng có thể các vị học giả có tên trong bài báo nói trên có những luận cứ nào đó mà không được bài báo thông tin chi tiết. Nhưng chỉ với những kết luận của những vị học giả được thể hiện trong nội dung bài báo thì người đọc chỉ căn cứ vào học vị và võ đoán rằng không lẽ với học vị như vậy lại có thể sai mà thôi. Ngay trong buổi hội thảo nói trên, khi tôi công khai nói về Việt sử 5000 năm văn hiến thì chẳng có ai lên tiếng phản bác. Nhưng sau buổi hội thảo thì nói với sau lưng là: Thời Hùng Vương cội nguồn dân tộc nếu có gần 5000 năm lịch sử thì mỗi ông vua thọ đến hơn 100 tuổi. Đại ý vậy. Anh chị em cũng biết rằng lập luận này tôi đã bác bỏ từ lâu. Cá nhân tôi, khi tìm hiểu và minh chứng về thời Hùng Vương - cội nguồn lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến một thời huy hoàng ở bờ nam sông Dương tử - tôi đã biết rằng cần phải minh chứng về chữ viết của người Việt cổ. Bởi vậy, ngay trong cuốn sách đầu tay - "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại" - tôi đã có một chương nói về chữ Việt cổ chính là chữ khoa đẩu. Cho nên, hơn 10 năm sau, khi được biết nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền công bố những cứu liệu về chữ Việt cổ tôi đã tìm hiểu rất kỹ. Do đó - như bài báo nói trên miêu tả - Tôi cũng nhân danh luôn "Dị nhân đuổi mưa" để xác định rằng: Hệ thống luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền hoàn toàn rất có cơ sở khoa học vì nó phù hợp với tiêu chí khoa học cho một hệ thống luận cứ chứng minh cho vấn đề này. Trong bài viết khác cùng chuyên mục, tôi xác định rằng: Do đó, tôi xác định rằng: Những kết luận của những học giả được miêu tả trong bài báo nói trên - cùng lắm - chỉ là những ý kiến cần bổ sung trong việc hoàn chỉnh hệ thống luận cứ minh chứng của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, chứ không phải là một kết luận có tính phản biện. Tôi tạm chứng minh điều này căn cứ vào miêu tả - do hạn chế bới khuôn khổ tờ báo - của các học giả trên như sau: 1/ Tôi xin trả lời rằng:Vậy không lẽ những ai muốn chứng minh cho nguyên lý đọc của các cụ ngày xưa thì phải có băng ghi âm - được khoa học công nhận là ghi từ hàng ngàn năm trước - về cách đọc của các cụ thì mới được công nhận? Ngôn ngữ Việt hiện đại tất nhiên không phải đọc bằng tiếng "Pháp", mà là sự kế thừa và tiếp tục hệ thống ngôn ngữ của tổ tiên. Do đó ông Xuyền chỉ cần chứng minh những ký tự đó ký âm được ngôn ngữ Việt là hoàn chỉnh. 2/ Tôi xin trả lời rằng: Lại có cả cách đọc theo phương pháp khoa học? Vậy xin giáo sư cho biết cách đọc nào phi khoa học? Đâu phải tự nhiên ông Xuyền thể hiện một phương pháp ký âm của chữ khoa đẩu phù hợp với cách đọc của ngôn ngữ Việt? Ông Xuyền đã có cả một hệ thống hợp lý và hoàn chỉnh với những ký tự của ông mới có thể thể hiện được như vậy. Chưa nói đến việc so sánh, đối chiếu với rất nhiều văn bản chữ khoa đẩu khác nhau còn lưu truyền để xác định một hệ thống chữ khoa đẩu sử dụng trong tiếng Việt cổ. Bởi vậy, việc kết luận "một cách đọc theo phương pháp khoa học là...tưởng tượng" thì tôi thấy không rõ ràng. 3/ Tôi xin trả lời rằng: Tôi rất đồng ý với giáo sư Phan Huy Lê, khi ông cho rằng: vấn đề chữ viết cổ của người Việt không chỉ trong nước mà đã được nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài chia sẻ. Và trước đây chưa ai dám kết luận chắc chắn. Nhưng tôi cũng cần phải xác định quan niệm của giáo sư Phan Huy Lê cho rằng:"...ông Xuyền tiếp nối, có sự bổ sung theo hướng đi của GS Lê Trọng Khánh, nghiên cứu từ chữ Thái cổ nhằm xác định chữ Việt cổ" là hoàn toàn chưa có cơ sở. Bởi vì, ông Xuyền là nhà nghiên cứu độc lập, tự đi theo hướng riêng của mình và không hề có sự hướng dẫn của giáo sư Lê Trọng Khánh - Mặc dù ông ta có thể tham khảo các công trình của giáo sư Lê Trọng Khánh. Có thể nói rằng: Trong công trình nghiên cứu của mình, từ trước cho đến nay tôi chưa hề thấy ông Xuyền trích dẫn những luận cứ của giáo sư Lê Trọng Khánh làm kim chỉ nam cho hệ thống luận điểm của mình. Nếu có thì có lẽ chỉ là một dẫn chứng. Nếu như hướng đi - tức hệ thống phương pháp luận của giáo sư Lê Trong Khánh - mà ông Xuyền chỉ là người tiếp bước thì chắc chắn bản thân giáo sư Lê Trọng Khánh và các học trò của ông với phương tiện, điều kiện nghiên cứu và với mọi sự thuận lợi của một học vị giáo sư như ông - có lẽ ông sẽ có công trình hoàn chỉnh từ lâu và không cần đến ông Xuyền phải vượt bao khó khăn trong cuộc sống của mình cho đến khi công bố. Còn việc giáo sư Phan Huy Lê cho rằng: Phương pháp nghiên cứu của ông Xuyền - là tiếp bước của giáo sư Lê Trọng Khánh - "nghiên cứu chữ Thái cổ để liên hệ đến chữ Việt cổ" thì tôi cần xác định ngay rằng: Đấy không phải phương pháp nghiên cứu của ông Xuyền. Phương pháp của ông Xuyền bắt đầu từ những ký tự khoa đẩu có trong các sách liên quan đến chữ quốc ngữ của các giáo sĩ truyền giáo phương Tây đã viết từ những thế kỷ XV. Từ đó dẫn tới mối liên hệ với các văn tự khoa đẩu còn lưu truyền trong dân gian. Thí dụ như cuốn "Thanh Hóa quan phong" của tổng đốc Vương Duy Trinh viết vào khoảng thập niên đầu của thế kỷ trước (1903), trong đó có bài "Mời Trầu" là một tập quán của người Việt cổ , hoàn toàn viết bằng chữ Khoa đẩu. Ông cũng phát hiện rất nhiều ký tự khoa đẩu còn tồn tại trong buổi đầu kiết tập chữ quốc ngữ của các giáo sĩ phương Tây ký âm bằng chữ Latin trong các bản văn của họ. Tất nhiên trong qúa trình.nghiên cứu tìm tòi, ông Xuyền có so sánh với chữ Thái cổ. Và chính vì vậy ông Xuyền mới phát hiện sự sai biệt giữa chữ Thái cổ và chữ Việt cổ mắc dù có rất nhiều điểm tương đồng. Đó cũng là nguyên nhân để ông Xuyền xác định rằng: Chữ Việt cổ với sự ký âm tương tự chữ Latin và là tiền đề cho việc chuyển đổi ký tự khoa đẩu của người Việt cổ sang chữ Latin. Và dân tộc Việt là dân tộc duy nhất latin hóa chữ viết của mình mà hầu hết các dân tộc khác ở Đông Nam Á không thực hiện được - ít ra cho đến ngày hôm nay. Bởi vậy, việc nhận xét của giáo sư Phan Huy Lê cho rằng ông Xuyền chỉ là sự bổ sung cho giáo sư Lê Trọng Khánh là một nhận xét chưa thấu đáo. Tuy nhiên tôi cũng đồng cảm với giáo sư Phan Huy Lê khi ông cho rằng: Nhưng việc tìm ra và giải mã được chữ Việt cổ là quá trình không chỉ gian khổ mà còn khắc khổ. Phải có cứ liệu khoa học và sẵn sàng nhận lấy sự thẩm định, phản biện, thậm chí phê phán của những người khác. Vâng! Đúng là nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã hết sức gian khổ với hơn 40 năm đau đáu một tấm lòng tìm về cội nguồn dân tộc khi đi tìm chữ Việt cổ. Sự thành công của ông quá xứng đáng . Đó chính "là nét bút quan trọng trong việc hoàn chỉnh bức tranh về 5.000 năm văn hiến nước ta".
    2 likes
  8. a. Có đủ nguyên âm và phụ âm cơ bản như chữ Quốc ngữ. b. Chữ quốc ngữ ghi hết được tiếng nói của người Việt hiện đại thì chữ Việt cổ cũng ghi hết tiếng nói của người Việt cổ
    1 like
  9. Chào bác Thiên Sứ! Nhờ bác xem dùm cho vợ chồng em, sinh thêm đứa nữa, năm nào thì tốt. Vợ: tuổi Bính Thìn (17/09/1976 dương lịch). Chồng: tuổi Bính Thìn (17/06/1976 dương lịch). Con đầu: gái Bính Tuất (22/05/2006 dương lịch). Cảm ơn bác nhiều. Mong tin của bác Các bài viết liên quan: Sinh Con Năm Nào Thì Tốt - 2013 Sinh Con Năm Nào Thì Tốt - 2014
    1 like
  10. Một sốsách tham khảo: 1. Phát hiện một hệ thống chữ viết có niên đại ĐôngSơn, Hà Văn Tấn (Trường đại họcTổng Hợp Hà Nội), Những Phát Hiện Mới về Khảo Cổ Học năm 1981, Viện Khảo Cổ Học, trang 173. 2. Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ Lê Trọng Khánh, Cục xuất bản Báo chí, Bộ Văn Hóa, 1986, 63pages 3. PHÁT HIỆN HỆ THỐNG CHỮ VIỆT CỔ THUỘC LOẠI HÌNH KHOA ĐẨU Lần đầu tiên khẳng định chữ viết Việt cổ đã đượcsáng tạo và sử dụng từ thời các Vua Hùng. Vấn đề này đã được các cứ liệu khoa họclàm sáng tỏ, đầy sức thuyết phục. Lần đầu tiên những bí ẩn của chữ khắc trênbãi đá cổ Sa Pa được giải mã.Công trình của giáo sư Lê Trọng Khánh góp thêm những cứ liệu khoa học chắc chắnđể khẳng định nền văn minh Việt cổ đã từng phát triển rực rỡ; là tiền đề chocác công trình nghiên cứu tiếp theo về văn hoá và chữ viết do tổ tiên ta tạo dựng. Đặc biệt, cuốn sách “Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình Khoa đẩu” được xuất bản đúng vào dịp cả nướcđang gấp rút chuẩn bị kỷ niệm long trọng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội,nên càng có ý nghĩa to lớn và sâu sắc. MỤC LỤC: Lời nói đầu Phần I: Sự hình thành và phát triển chữ viết cổ thuộc hệ thống chữ Khoa đẩu . I- Chữ viết gắn liền với nền văn minh của con người. II. Những yếu tố tiền văn tự xuất hiện rất phong phú, chuẩn bị tạo sự ra đời mộthệ thống chữ Việt phát triển ổn định và biện chứng. ... Phần II: Mở rộng I- Những tín hiệu thu nhận từ lược đồ địa danh ngôn ngữ II- Những vấn đề lịch sử cổ đại Việt Nam phức tạp được phát sáng bằng địa danh. ... Tài liệu tham khảo 4. Nghiên cứu chữ viết cổ trên bia ký ở Đông Dương 27/01/2010 Thái, Văn Chải. Nghiên cứu chữ viết cổ trên bia ký ở Đông Dương / Thái Văn Chải . - H. : KHXH, 2009. - 355 tr. * Số định danh: 495.9 TH-C 2009 * Kí hiệu: V-D0/20937, V-D4/01514, V-D5/19984,VV-D2/10959,VV-D2/10960,VV-M4/15136 Tiếng Nam Phạn và Bắc Phạn (Pali và Sanskrit) là hai cổ ngữ có bề dày lịch sử rất lâu đời ở Ấn Độ. (Ngày nay, kinh điển Phật giáo được dịch thành nhiều ngôn ngữ trên thế giới cũng xuất phát từ hai cổ ngữ này). Quyển sách nhấn mạnh về cổ ngữ Pali và Sanskrit đã được khắc trên bia ký cách đây hàng ngàn năm, nằm rải rác hầu hết trên các lãnh thổ thuộc các nước châu Á. Đặc biệt, bia ký của vua Asoka ở Ấn Độ đã nói lên được hầu hết các chữ viết của các nước Đông Dương đều có nguồn gốc từ chữ viết cổ đại của vương quốc Magadha bằng mẫu tự Brahmi. Quyển sách còn cung cấp đầy đủ các nguyên âm và phụ âm của mẫu tự Brahmi, đồng thời còn giới thiệu các loại mẫu tự cổ thoát thai từ mẫu tự cổ Brahmi. Quyển sách sẽ là nguồn tư liệu quý cho những người quan tâm, nghiên cứu chữ viết cổ. Cuốn sách gồm: Chương I: Lời của tác giả và việc giới thiệu nội dung Chương II: Nét chữ cổ trong bia ký ở Campuchia Chương III: Chữ viết cổ Ấn Độ của các bia ký ở Champa Chương IV: Chữ viết cổ từ các bia ký của Việt Nam Chương V: Chữ viết cổ trên các bia ký của Lào Chương VI: Số đếm Brahmi Ho ChiMinh chan dung mot con nguoi (Clip 2) ( giây 1:19-1:21) http-~~-//www.youtube.com/watch?v=-PWVHZu1eT4&feature=player_embedded
    1 like
  11. “Chữ Khoa Đẩu”, Hán ngữ gọi là “Khoa Đẩu Tự 蝌蚪字kedouzi” là một từ thông dụng chỉ thứ ký tự ký âm, lúc đầu chỉ được hiểu giới hạn là thứ ký tự ký âm cổ đại từng tồn tại phổ biến thời Tiên Tần. Nay dân mạng tiếng Hoa cũng còn dùng từ “khoa đẩu tự” (không viết hoa) để chỉ chữ cái Latin được dùng để phiên âm phương ngữ (theo như họ nói, có như vậy mới phiên chính xác được ca dao và các bài dân ca cổ còn lưu truyền trong dân gian các địa phương). Chỉ cần vào mạng Google gõ ba Hán tự Khoa Đẩu Tự 蝌蚪字là sẽ đọc được hàng loạt bài giải thích về Khoa Đẩu Tự cổ đại, cũng như hàng loạt bài về nghiên cứu “khoa đẩu tự” (tức latin pinyin) để phiên âm phương ngữ. Đủ thấy mong ước hội nhập Đông Tây (phiên âm chính xác âm tiết phương Đông bằng ký tự của phương Tây đã thành ký tự quốc tế trên bàn phím) là có , của nhiều cộng đồng ngôn ngữ phương Đông, đã được người Việt Nam có quyết tâm thực hiện đầu tiên trước đây hàng nhiều thế kỷ, kể từ khi người Việt Nam dùng chữ Quốc Ngữ. Quote Thạc sĩ Phạm Văn Ánh (Viện Văn học): cho rằng cách lập luận của ông Xuyền dựa nhiều trên cách đọc của chữ quốc ngữ hiện tại, chưa có lý do gì để khẳng định các cụ ta lại sử dụng nguyên lý đọc này. Các cụ ta ngày xưa “sử dụng nguyên lý đọc” nào? Rõ ràng là không phải nguyên lý đọc kiểu “đánh vần” của chữ Quốc Ngữ, vì 5000 năm trước các cụ ta chưa tiếp xúc với các ngôn ngữ chắp dính phương Tây. Các nhà truyền giáo phương Tây vì nặng quán tính của ngôn ngữ chắp dính phương Tây nên mới đưa qui tắc “đánh vần” vào đọc tiếng Việt (mà cách dạy của ta vẫn bắt chước một cách sai lầm đến tận bây giờ- Giáo sư Cao Xuân Hạo, một trong những người giỏi tiếng Pháp nhất Việt Nam, từng phản đối cách dạy đọc theo kiểu “đánh vần”). Bởi nó không đúng với tư duy Việt là “đơn âm thành nghĩa” (như nhận định của các học giả TQ về ngôn ngữ Bách Việt), “một tiếng phát ra là có nội dung trọn một nghĩa như là một từ” (theo Cao Xuân Hạo). Ví dụ từ “phương” (viết dài tới 6 chữ cái latin), đọc theo “đánh vần” thì sẽ như sau: “p”- “h”- “phờ”, “phờ- ư- phư”, “phư- ơ - phươ”, “ơ- ennờ-rê- ơng” là “phương”. Theo như Chữ Khoa Đẩu (hiểu là “chữ khoa đẩu thời Hùng Vương mà cụ Xuyền phát hiện và nghiên cứu”) thì âm tiết “phương” có nghĩa là phương ấy chỉ cần đọc lướt hai âm tiết “phờ” và “ương” thì lướt thành “phương”, mà ghi chỉ bằng hai con chữ cái Khoa Đẩu, một con chữ cái Khoa Đẩu biểu thị âm tiết “phờ”, con kia biểu thị biểu thị âm tiết “ương”, thật là giản dị và ngắn gọn có mỗi hai con chữ cái. Ngày nay dù chữ Quốc Ngữ viết dài tới 6 con chữ cái latin để có “phương” (do tại vì mấy ông “chắp dính”) nhưng người Việt vẫn chỉ đọc một âm tiết phát là “phương” khi bắt bằng một cái liếc nhận dạng chữ “phương” chứ đâu có ai đánh vần ? Cụ Xuyền không hề “dựa nhiều trên cách đọc của chữ quốc ngữ hiện tại” một tí nào. Bởi Chữ Khoa Đẩu thì từng con chữ cái của nó không thể đem so sánh xem nó tương đương “phụ âm” nào hay “nguyên âm” nào trong 24 con chữ cái Latin mà chữ Quốc Ngữ sử dụng (bởi như vậy là theo tư duy “chắp dính” của ngôn ngữ phương Tây). Mà mỗi con chữ cái của Chữ Khoa Đẩu chẳng là “phụ âm” cũng chẳng là “nguyên âm”, nó là một “âm vận” (tương tự như những con chữ cái Hiragana của Nhật Bản), nó trọn vẹn có nghĩa. Hai hoặc ba “âm vận” viết liền nhau thì đọc lướt thành một “âm vận” mới, tức một “tiếng” (đương nhiên là thành một “từ” vì nó có nghĩa trọn vẹn – theo Cao Xuân Hạo). Cho nên số lượng con chữ cái Chữ Khoa Đẩu chỉ vỏn vẹn dưới 10 con chữ, mà diễn đạt tiếng Việt tương đương như số lượng 24 con chữ cái của chữ Quốc Ngữ. Và bởi mỗi con chữ cái Chữ Khoa Đẩu là một “âm vận” nên đâu cần dấu thanh điệu, vì thanh điệu nó đã lặn trong “âm vận” rồi. Ví dụ cái âm vận “ướt” hay “ấp” thì chúng chỉ có thể có thanh điệu giới hạn trong sắc hay nặng, chứ làm sao nó chứa nổi các thanh điệu khác như không, huyền, ngã, hỏi? Phát âm chuẩn 6 thanh điệu chỉ có là ở giọng Bắc Bộ mà thôi (giọng các vùng khác, theo như Giáo sư Cao Xuân Hạo đã từng làm phổ ký, chỉ có 4 hoặc chỉ 2 thanh điệu). Nhưng ngay cả ở vùng sát cạnh Hà Nội thì câu “con bo vang ăn co đông Ba Vi” có mỗi một thanh điệu, mà người ta vẫn hiểu là “con bò vàng ăn cỏ đồng Ba Vì” đấy thôi. Nhiều tiền tố (phụ âm đầu, có, nhưng không thành tiếng) cũng được Chữ Khoa Đẩu diễn đạt đúng, như từ “blời”, tương tự như từ “vzô” (vô, vào) của người Nam Bộ phát âm, bởi đó cũng là một đặc điểm của ngôn ngữ nhóm Môn-Khơ Me. Về câu cú trong hành văn thì chắc rằng Khoa Đẩu văn giống như cách hành văn của Truyện Kiều (chỉ có khác là không phải bằng thơ lục bát). Nhà văn hóa Phạm Quỳnh từng nói: “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn; tiếng Việt còn, dân tộc Việt còn”. Giáo sư Cao Xuân Hạo từng chỉ rõ: ngữ pháp trong các câu Kiều mới đúng là ngữ pháp tiếng Việt, cốt lõi của ngữ pháp ấy là “Đề” và “Thuyết”, chứ không phải là kết cấu câu theo Chủ ngữ - Vị ngữ - Tân ngữ, như do ảnh hưởng của ngữ pháp tiếng Pháp. Tôi từng được nghe Giáo sư kể: Có một người Úc hỏi giáo sư rằng tại sao ông ta vào bưu điện VN hỏi cô nhân viên câu tiếng Việt rất sõi: “ Chị làm ơn cho tôi hỏi, người ta bán tem ở đâu?” mà cô ấy không hiểu. Giáo sư trả lời: “Vì anh hỏi không như người Việt vẫn thường hỏi, nên cô ấy không bắt kịp ý anh muốn. Anh chỉ cần hỏi: Tem bán ở đâu hả chị? là họ dễ hiểu ngay. Trong câu này, “Đề” là cái nội dung chủ yếu muốn nêu, đó là Tem, còn “Thuyết” là phần thuyết giải cái đề ấy, đó là “bán ở đâu”, chẳng có cái gì là “chủ động từ” hay “bị động từ” cả. Vậy mà chủ thuyết ngữ pháp “Đề và Thuyết” hàng chục năm nay vẫn chưa được Ngôn ngữ học VN công nhận. Chỉ có nhóm nghiên cứu tiếng Việt của ĐH KHXHNV tp HCM là áp dụng để soạn sách dạy tiếng Việt.Tôi đã được dùng giáo trình đó (in photocopy giấy A4) đem làm gia sư dạy tiếng Việt cho một người Pháp và một người Nhật ở Sài Gòn, vui đáo để, mà thấy hiệu quả hơn nhiều, nếu dùng “Sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài” bán ở các hiệu sách, mà đọc qua thì thấy là từ “sách dạy tiếng Nga” được dịch ra thành “sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài”. Có lần trên đường phố Hà Nội tôi thấy một khẩu hiệu vải đỏ chữ vàng chăng rộng, viết câu “Hãy nói không với vi phạm an toàn giao thông !” (do người Anh học tiếng Việt viết giùm chăng?, nếu người Anh, họ chỉ cần nói một chữ No !, còn nếu ở Vinh hay Huế thì chỉ cần viết “Nỏ vi phạm an toàn giao thông ! ”). Ngẫm lại Truyện Kiều, mỗi câu lục bát, người Việt không biết chữ, thuộc câu đó, hay ngườiViệt bác học đọc câu đó, đều hiểu như nhau nội dung của câu ấy . Vì mỗi câu lục bát của Kiều còn có cả số thứ tự, còn có thể dùng để bói như luận một quẻ Dịch, mà cũng đúng cho từng cảnh mà câu đó ứng. Ví dụ câu “Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Qua một buổi tọa đàm cũng thấy “nhiều điều nghe thấy mà đau đớn lòng”.
    1 like
  12. Bài viết đăng báo Thế giới Gia Đình số 17, ngày 09/5/2012 ============================================== Tuổi nào hợp hướng nào? Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn - Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Tuổi nào nên chọn hướng nào là phù hợp theo quan niệm phong thủy, đó là vấn đề thường quan tâm đối với mọi người. Dân gian Việt Nam có câu ca dao: “Anh tới nơi đây nhắm hướng đắp nền Lập vườn trồng đậu, giả đò quên không về.” Hay “Lấy vợ hiền hòa, xây nhà hướng Nam” Cho thấy việc chọn hướng là vấn đề quan tâm hàng đầu cho những công việc nhà cửa và đất đai. Bát trạch Lạc Việt Trong quan niệm Học thuật cổ đông phương, tuổi của con người dùng trong việc quán xét phong thủy được chia là hai nhóm tuổi, gọi là nhóm thuổi Đông trạch và nhóm tuổi Tây trạch. Mỗi một nhóm tuổi có bốn hướng tốt và bốn hướng xấu riêng cho từng nhóm. Phong thủy Lạc Việt xác định nhóm thuộc Đông trạch có các tên là Khảm, Ly, Chấn, Tốn, ứng với bốn hướng tốt là Nam, Bắc, Đông và Tây Nam, còn lại nhóm Tây trạch có các tên Càn, Khôn, Cấn và Đoài ứng với các hướng tốt là Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây. Tám hướng tốt xấu phân chia cho hai nhóm như thế được gọi là Bát trạch Lạc Việt. Xem đồ hình thể hiện. Bát trạch là phương pháp quán xét sự tương tác của hệ từ trường quả đất, hay là gọi phân môn nghiên cứu về quy luật tác động của địa khí từ địa cầu. Mỗi một hướng gồm 45 độ, được tính theo phân độ trên la bàn. Chính hướng của Nam, Bắc, Đông và tây là 0 độ, 180 độ, 90 độ và 270 độ, còn lại Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây Nam là 315 độ, 45 độ, 135 độ và 225 độ. Đồ hình Bát trạch Lạc Việt Làm thế nào để biết hợp hướng nào? Từ đồ hình Bát trạch Lạc Việt trên, một phép toán để tính tuổi được đặt ra như sau: Đối với tuổi sinh vào những năm 19xx…thì “dùng hai số cuối của năm dương lịch cộng lại cho đến khi còn một số gọi là A, tiếp theo lấy 10 – A, nếu là tuổi nam, còn lại lấy 5 + A, nếu là tuổi nữ” Ví dụ: tính tuổi sinh năm 1965. Bài tính như sau: Lấy 6 + 5 = 11, lại cộng tiếp 1 + 1 = 2 Nếu là nam: 10 – 2 = 8. Nhìn đồ hình bên ta thấy 8 ứng với ô có tên là Cấn, vậy thuộc nhóm Tây trạch nên hướng tốt là Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây. Nếu là nữ: 5 + 2 = 7. Nhìn đồ hình bên ta thấy 8 ứng với ô có tên là Ly, vậy thuộc nhóm Đông trạch nên hướng tốt là Nam, Bắc, Đông và Tây Nam Đối với tuổi sinh vào những năm 20xx…thì “dùng hai số cuối của năm dương lịch cộng lại cho đến khi còn một số gọi là A, tiếp theo lấy 9 – A, nếu là tuổi nam, còn lại lấy 6 + A, nếu là tuổi nữ” Ví dụ: tính tuổi sinh năm 2023 Bài tính như sau: Lấy 2 + 3 = 5 Nếu là nam: 9 – 5 = 4. Nhìn đồ hình bên ta thấy 4 ứng với ô có tên là Tốn, vậy thuộc nhóm Đông trạch nên hướng tốt là Nam, Bắc, Đông và Tây Nam Nếu là nữ: 6 + 5 = 11, lại thực hiện tiếp 1 + 1 = 2 Nhìn đồ hình bên ta thấy 2 ứng với ô có tên là Khôn, vậy thuộc nhóm Tây trạch nên hướng tốt là Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây. Cần ghi nhớ: Đối với kết quả cuối cùng là 5, thuộc ô giữa thì phân biệt tên gọi bằng câu sau “nam Khôn nữ Cấn”, tức nam thuộc Khôn, còn nữ thuộc Cấn, nhìn chung cả hai đều thuộc nhóm Tây trạch. Ví dụ: tính tuổi người nữ sinh năm 1954 Bài tính: Là nữ: 5 + 4 = 9, lấy 5 + 9 = 14, lại lấy 1 + 4 = 5. Theo nguyên tắc trên thì 5 ứng với người nữ là Cấn, thuộc nhóm Tây trạch, nên hướng tốt là Tây Bắc, Đông Nam, Đông Bắc và Tây. Đây là toàn bộ cách tính được gọi là tính Phi cung mệnh tuổi theo Bát trạch Lạc Việt (*). Bát trạch là một trong bốn yếu tố của phong thủy Lạc Việt gồm Loan đầu (nghiên cứu về cảnh quan môi trường), Dương tạch Lạc Việt (cấu trúc hình thể công trình xây dựng), Huyền Không lạc Việt (Hiệu ứng tương tác từ vũ trụ) và Bát trạch Lạc Việt (địa từ trường của tám hướng). Tuy nhiên hướng Bát trạch cũng chỉ là một yếu tố quán chiếu mà chưa phải là yếu tố duy nhất quyết định tốt xấu của một ngôi nhà hay một công trình kiến trúc, ít nhất nó phải là sự tổng hợp của các yếu tố còn lại. Kết: Sự chọn lựa nhà theo hướng tốt hay xấu chỉ là điều kiện cần và do là hiện tượng phổ biến trong đời sống dân gian, có sức ảnh hưởng lâu dài cho nên sự lầm tưởng hướng là yếu duy nhất, hay xem hướng nhà mới là phong thủy thì đó là một sai lầm căn bản. Một ví dụ cụ thể được nêu ra như sau: Một ngôi nhà được thiết kế hoàn chỉnh hợp hướng và hợp tuổi của gia chủ hoàn toàn, tuy nhiên ngôi nhà ấy được đặt ngay tại sa mạc, câu hỏi được đặt ra, rằng con người ấy trong ngôi nhà ấy có tồn tại và phát triển được không? Vì vậy, Bát trạch hay là hướng nhà chỉ là điều kiện tham khảo đối với đối tượng phong thủy. (*) Tham khảo “Tìm về cội nguồn kinh Dịch” hay “ Hà đồ trong văn minh Lạc Việt”, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
    1 like
  13. Năm sau đại tiểu hạn của cả 2 bạn đều có dấu hiệu cưới hỏi, nhưng phải trải qua kiếp nạn lớn (chẳng rõ là gì) mới thành được. Riêng bạn gái, nếu có tin mừng thì hết sức cẩn thận nhé! Chúc 2 bạn sớm hàn gắn và sớm có tin vui!
    1 like
  14. Ổn sao được, năm sau con mạng Hỏa mẹ mạng Thủy khắc nhau về cơ bản rồi, chưa kể thiên can Quý con khắc Đinh của cha, sinh sang năm thì tiền tài công việc gia đạo đi xuống đấy. Chịu khó qua 2014 sinh 1 đứa rồi 2016 Bính Thân 1 đứa nữa thì đẹp, muốn lâu hơn thì có Mậu Tuất 2018 hoặc Kỷ Hợi 2019 cũng là năm tốt!!! Thân mến.
    1 like
  15. nhìn vào lá số, thấy vấn đề lớn nhất giữa 2 bạn trong hiện tại và cả tương lai sau này là "khả năng giao tiếp bằng lời nói kém", chưa biết "uốn lưỡi 7 lần trước khi nói" ... "chim khôn hót tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe" ...bởi vậy giải pháp tốt nhất là nên cố gắng học cách nói chuyện trước đã.
    1 like
  16. 1 like
  17. Bói Dịch Bát quái có tám quẻ là 1: KHÔN – 2: CHẤN – 3: KHẢM – 4: ĐOÀI – 5: CẤN – 6: LY – 7: TỐN – 8: CÀN Tương ứng với các ý nghĩa (như theo cổ thư) là: Địa – Lôi- Thủy - Trạch - Sơn - Hỏa - Phong – Thiên. (Tức: Đất - Sấm - Nước - Đầm - Núi - Lửa - Gió - Trời) Những từ chỉ tên của mỗi quẻ trong Bát Quái là những cái tên của Việt ngữ, Hán tự chỉ là mượn chữ có âm na ná để phiên âm mà thôi (gọi là giả tá) chứ bản thân chữ bằng Hán tự không biểu ý gì ra với cái nghĩa của âm tiết nói lên tên quẻ cả. Ví dụ 1: CẤN 艮 , Hán tự này không có biểu ý hay biểu âm gì là “sơn 山” trong Hán ngữ cả; “Cấn” là một âm tiết Việt ngữ, nghĩa là “Núi”, trong cái nôi khái niệm: Núi=Non=Hòn=Cồn=Cấn=San=Sơn. Ví dụ 2: LY 离, Hán tự này không có biểu ý hay biểu âm gì là “hỏa 火” trong Hán ngữ cả, mà “ly 离” lại có nghĩa là “rời” trong Hán ngữ; “Ly” là một âm tiết Việt ngữ, nghĩa là “Lửa”, trong cái nôi khái niệm: Tá=Lả=Lửa=Ly. V.v. và v.v. (những ý nghĩa như cổ thư ghi trên chỉ mang tính chất đại diện, chứ không thật sự là những kẻ cụ thể : Đất - Sấm - Nước - Đầm - Núi - Lửa - Gió - Trời) Khái niệm Âm Dương là có xuất xứ từ khái niệm của người Việt. Khái niệm này trong toán học là số học nhị phân ( số 0 tương đương Âm, số 1 tương đương Dương). Người xưa xếp chồng hai quẻ của Bát Quái lại với nhau thì thành ra một quẻ Dịch, nên tên gọi mỗi quẻ Dịch đó là bằng tên của hai quái chồng lên nhau ( ví dụ lấy quái Khôn chồng lên quái Khôn thì thành một quẻ Dịch có tên là “Khôn Khôn” hay gọi là “Thuần Khôn”). Như vậy mỗi quẻ Dịch có 6 hàng vạch, gọi là 6 hào, đếm thứ tự từ dưới lên trên. Sáu hào này chính là 6 giá trị của ba “bit” thông tin (mỗi “bít” thông tin có hai giá trị xác suất, hoặc là 0 hoặc là 1). Ba “bit” thông tin thì sẽ cho ra được 64 “tổ hợp thông tin” hay gọi là 64 “thông điệp”. Bởi vậy mà mỗi quẻ Dịch gồm 6 hào là có chứa đựng một thông điệp nhất định. Sự thay đổi giá trị của mỗi hào (đang giá trị 0 đổi thành giá trị 1, hay đang giá trị 1 đổi thành giá trị 0) của một quẻ Dịch cụ thể, sẽ làm thay đổi nội dung của “thông điệp” tức nội dung, đồng thời cả tên gọi của chính quẻ Dịch đó. Nội dung cụ thể mỗi thông điệp ấy là gì thì thật là muôn hình vạn trạng, tùy theo nó được vận dụng ứng với cảnh cụ thể nào. Bởi vậy người xưa mới vận dụng tư duy để mà “bói”, “bốc”, “đoán”, “giải”, “suy”, “diễn” v.v. Theo hào, thì đếm hào từ dưới lên trên, còn theo số học nhị phân thì hào chính là giá trị của bit, và đếm từ phải sang trái như thứ tự giá trị bít khi đưa vào bộ ghi của máy tính. Để dễ nhớ tên của quẻ Dịch như cổ thư đã đặt tên, thì xếp lại thứ tự các quẻ Dịch như thứ tự đếm hệ số nhị phân ba bít từ 0 đến 63 là được 64 thông điệp( tức từ 0 0 0 0 0 0 tương ứng quẻ KHÔN KHÔN, đến 1 1 1 1 1 1 tương ứng quẻ CÀN CÀN). Nội dung của mỗi quẻ Dịch (theo cổ thư đã “giải”, mà trường hợp lấy riêng chỉ ứng với “sức khỏe” và ứng với “hành vi” thôi – là hai vế của câu “bát” sau tên quẻ là câu “lục”) thì sẽ có nội dung thuộc tên từng quẻ Dịch là như dưới đây: KHÔN KHÔN là quẻ “Thuần KHÔN”: ( 0 0 0 0 0 0 ) Sinh nở an toàn; nhẫn nhịn gặp may. CHẤN KHÔN - “LÔI ĐỊA Phục” đây: ( 0 0 0 0 0 1 ) Tai qua nạn khỏi; dịp này hồi sinh. KHẢM KHÔN - quẻ “ĐỊA THỦY Sư”: Đề phòng tai nạn; kiện thì thua thâm ĐOÀI KHÔN - quẻ “ĐỊA TRẠCH Lâm”: Đẻ xong săn sóc; huề đồng dưới trên. CẤN KHÔN - quẻ “ĐỊA SƠN Khiêm”: Coi chừng sinh dục; nhún nhường thì vui. LY KHÔN - “ĐỊA HỎA Minh Di”: Coi chừng nguy hiểm, chờ thì mới an. TỐN KHÔN - quẻ “ĐỊA PHONG Thăng”: Đề phòng bệnh dịch; dụng bằng tài hơn. CÀN KHÔN - quẻ “Thái ĐỊA THIÊN” : Bệnh nhẹ chẳng đáng; khiêm nhường tiến hay. KHÔN CHẤN – “LÔI ĐỊA Dự” đây: Bình yên mạnh khỏe, việc ngày ngày thông. CHẤN CHẤN - “Thuần CHẤN” quẻ mong: Sức khỏe đều ổn; tranh giành vươn lên. KHẢM CHẤN: - “LÔI THỦY Giải” tuyên: Bình yên vô sự; lo phiền hết thôi. ĐOÀI CHẤN - “Qui Muội TRẠCH LÔI”: Bệnh tái rồi khỏi; lôi thôi đàn bà. CẤN CHẤN - “LÔI SƠN Tiểu Qua”: Lơ chăm bệnh kéo; dễ lòa vì ham LY CHẤN - quẻ “LÔI HỎA Phong”: Bệnh nhẹ kéo mãi; nghiêm làm thành công. TỐN CHẤN - quẻ “LÔI PHONG Hằng”: Coi chừng huyết áp; hãy đừng đổi thêm. CÀN CHẤN - “Địa Tráng LÔI THIÊN”: Coi chừng tim mạch; thuận liền chớ kiêu. KHÔN KHẢM - “THỦY ĐỊA Tỷ” nêu: Ngừa da viêm nhiễm; chọn điều chung tay. CHẤN KHẢM - “THỦY LÔI Truân” đây: Hỏa hoạn, mất ngủ; chờ ngày qua nan. KHẢM KHẢM - “Thuần KHẢM” quẻ van: Đề phòng tai nạn; gian nan kiên trì. ĐOÀI KHẢM - “THỦY TRẠCH Tiết” đi: Thận và tiêu hóa; chậm khi mắc lầy. CẤN KHẢM - “SƠN THỦY Kiển” đây: Coi chừng bệnh nặng; bị vây, Nam về. LY KHẢM - “THỦY HỎA Ký Tề”: Đề phòng sinh lý; cũ thì giữ nguyên. TỐN KHẢM - “THỦY PHONG Tỉnh” tuyên: Bệnh cũ tái phát; coi chừng bại vong. CÀN KHẢM - “THIÊN THỦY Nhu” mong: Coi chừng bài tiết; chờ hòng thời cơ. KHÔN ĐOÀI - “TRẠCH ĐỊA Tùy” dò: Dồi dào sức khỏe; bàn cho công thành. CHẤN ĐOÀI - “LÔI TRẠCH Tùy” thanh: Thận trọng nội tạng; vui hành động lên. KHẢM ĐOÀI - “TRẠCH THỦY Khốn” khuyên: Cẩn thận ăn uống; giữ niềm mê say. ĐOÀI ĐOÀI là quẻ “Thuần ĐOÀI”: Tránh ham tình dục; đối người thành tâm. CẤN ĐOÀI - quẻ “TRẠCH SƠN Hàm”: Coi chừng mệt mỏi; nhà làm ấm êm. LY ĐOÀI - “TRẠCH HỎA Cách” răn: Coi chừng bệnh cũ; dài ngày đổi ra. TỐN ĐOÀI - “PHONG TRẠCH Đại Qua”: Coi chừng suy nhược; vững mà đơn côi. CÀN ĐOÀI - “THIÊN TRẠCH Quải” lời: Bệnh tình lặt vặt; kiêu thời lâm nguy. KHÔN CẤN - “SƠN ĐỊA Bác” đi: Có bệnh tình dục; đến thì thoái suy. CHẤN CẤN – quẻ “SƠN LÔI Di”: Bệnh do ăn uống; khó vì nuôi ăn. KHẢM CẤN – quẻ “SƠN THỦY Mông”: Ưu phiền lo lắng; hãy nâng tầm nhìn. ĐOÀI CẤN - “SƠN TRẠCH Tổn” tuyên: Hao tổn thể lực; được đền mai sau. CẤN CẤN - “Thuần CẤN” quẻ nêu: Đau nhức mình mẩy; im, chiều thời cơ. LY CẤN - “SƠN HỎA Bí” dò: Coi chừng nóng sốt; thiệt do mê ngoài. TỐN CẤN - “SƠN PHONG Cổ” lời: Coi chừng phẫu thuật; ngã rồi xông lên. CÀN CẤN - “Đại Súc THIÊN SƠN”: Coi chừng kiệt sức; chờ tiềm năng lên. KHÔN LY - “HỎA ĐỊA Tấn” khuyên: Thận trọng bệnh nhẹ; trí hiền sục sôi. CHẤN LY - “Phệ Hạp HỎA LÔI”: Thần kinh bảo trọng; kịp thời xử đi. KHẢM LY - “THỦY HỎA Vị Tề”: Bệnh dần dần khỏi; lại về tương lai. ĐOÀI LY - “HỎA TRẠCH Khuê” nài: Bệnh dài khó chịu; trở xoay bất đồng. CẤN LY - “SƠN HỎA Lữ” mong: Bệnh tình nghiêm trọng; vẫn trong tạm thời. LY LY - “Thuần LY” quẻ lời: Sức khỏe suy sụp; gặp thời vận may. TỐN LY - “Đỉnh HỎA PHONG” này: Thận trọng nóng lạnh; sức nay đang tràn. CÀN LY - “Đại Hữu HỎA THIÊN”: Gặp bệnh chữa gấp; rộng liền thành công. KHÔN TỐN - “PHONG ĐỊA Quán” mong: Coi chừng tai nạn; khoan dung thi hành. CHẤN TỐN - quẻ “Ích LÔI PHONG”: Bệnh kéo dai dẳng; thiện hành thành công. KHẢM TỐN - “PHONG THỦY Hoán” mong: Phòng ngừa nội bệnh; khó khăn rút dù. ĐOÀI TỐN - “PHONG TRẠCH Trung Phu”: Bệnh nhẹ thành nặng; êm ru trong ngoài. CẤN TỐN - “PHONG SƠN Tiệm” nài: Chậm chữa nguy hiểm; dẻo dai mà làm. LY TỐN - “PHONG HỎA Gia Nhân”: Mệt mỏi bất lực; dưới trên thuận hòa. TỐN TỐN - “Thuần TỐN” quẻ ra: Bệnh tình qua khỏi; giúp ta người hiền CÀN TỐN - “Tiểu Súc PHONG THIÊN”: Tránh làm quá sức; giữ kiên chờ thời. KHÔN CÀN - “THIÊN ĐỊA Bĩ” nài: Tim mạch, bài tiết; tắc thời, im hơi. CHẤN CÀN - “Vô Vọng THIÊN LÔI”: Bất ngờ, mất ngủ; loạn thời, hãy im. KHẢM CÀN - “THIÊN THỦY Tụng” tuyên: Phong thấp cảm lạnh; coi chừng chấp tranh ĐOÀI CÀN - “THIÊN TRẠCH Lý” xưng: Hô hấp, tình dục; hợp tình thực thi. CẤN CÀN - “THIÊN SƠN Độn” thì: Sức khỏe xuống dốc; trốn đi thì lành. LY CÀN - “THIÊN HỎA Đồng Nhân”: Coi chừng viêm nhiễm; đồng tâm thì thành. TỐN CÀN - quẻ “Cấu THIÊN PHONG”: Đề phòng táo bón; nhỏ thành xé to. CÀN CÀN - “Thuần CÀN” quẻ ra: Thần kinh căng thẳng; dương, Ta và Trời. Tuy nhiên những ý nghĩa Địa - Lôi - Thủy - Trạch - Sơn - Hỏa - Phong - Thiên tương ứng Bát Quái như cổ thư ghi trên, chỉ mang tính chất đại diện, chứ không thật sự là những kẻ cụ thể : Đất - Sấm - Nước - Đầm - Núi - Lửa - Gió - Trời. Ví dụ, khi xét về tương tác nhân sự trong một Doanh Nghiệp thì tôi có thể dùng các đại diện khác: CÀN = Chủ DN, KHÔN = Công đoàn, TỐN = tư, CHẤN = Bảo vệ, CẤN = Tài vụ, KHẢM = Y tá, ĐOÀI = Cấp dưỡng, LY = Công nhân. Và thấy nội dung của quẻ tương ứng với chức năng của thành phần nhân sự cụ thể trong DN, cũng tương tự như nội dung của quẻ mà cổ thư đã giải ở trên: CÀN CÀN – “Thuần CÀN” quẻ ra Thần kinh căng thẳng; Dương, Ta với Trời: Ông Chủ lo lắng mọi thời Đêm nằm nghĩ việc, đi chơi vẫn làm Như Cá trong Nước thì ham Cá càng nhiều Nước càng tham hóa Rồng. KHÔN KHÔN là quẻ “Thuần KHÔN” Sinh nở an toàn; nhẫn nhịn gặp may: Công đoàn chính tổ chức này Luôn tìm đồng thuận, Luật đây an toàn CÀN-KHÔN: Ông Chủ-Công đoàn Dương-Âm mà hợp, chu toàn mọi niên: CÀN KHÔN- quẻ “Thái ĐỊA THIÊN” Xung đột chẳng đáng; Khiêm nhường tiến chung. TỐN TỐN – Vật tư đảm đang Mua, bán giữ tín, người hiền giúp cho: TỐN TỐN - “Thuần TỐN” quẻ ra Bệnh tình qua khỏi; giúp ta người hiền. CHẤN CHẤN – Bảo vệ sẵn sàng Sức khỏe thật tốt, tranh giành cứu nguy: CHẤN CHẤN - “Thuần CHẤN” quẻ suy: Sức khỏe đều ổn; tranh vì vươn lên. CẤN CẤN - Tài vụ giữ im Đau đầu tài chính, sáng tìm tương lai: CẤN CẤN - “Thuần CẤN” quẻ nêu Đau nhức mình mẩy; im, chiều thời cơ. KHẢM KHẢM - Y tá phải lo Chăm sóc sức khỏe, giữ cho an toàn: KHẢM KHẢM - “Thuần KHẢM” quẻ van: Đề phòng tai nạn; gian nan kiên trì. ĐOÀI ĐOÀI - Cấp dưỡng chi ly Nuôi quân, tránh độc, sức thì hơn ai: ĐOÀI ĐOÀI là quẻ “Thuần ĐOÀI” Tránh ham tình dục; đối người thành tâm. LY LY- đông đảo Công Nhân Nhiệt tình ngọn lửa, làm hăng hàng ngày: LY LY - “Thuần LY” quẻ lời: Đừng làm quá sức; gặp thời vận may Công nhân LY giỏi, hăng say Doanh nghiệp phát đạt, ngày ngày tiến lên.
    1 like
  18. Bổ sung cho Mộc Phong Linh : Tý - Sửu là Nhị Hợp. Con đầu quý Tỵ nên sinh con gái, con út Bính Thân 2016 là rất tốt. Bính sẽ hóa giải Ất khắc kỷ! Con mạng Thủy (theo Lạc Thư Hoa Giáp) sẽ hóa giải mạng cha Kim khắc mẹ mộc! Thân Tỵ nhị Hợp. Thân mến.
    1 like
  19. nam 85 ( mệnh kim), nữ 89( mệnh mộc) - Xét thân mạng: kim khắc mộc ( chồng khắc vợ)=> cái này tốt nhì chứ đâu có xấu..Không phải cứ sinh mới là tốt hay khắc mới là xấu bạn à. - Về địa chi: Tỵ- sửu bình thường - Về thiên can: Kỷ khắc ất=> cái này cũng được tốt nhì => theo mình 2 bạn lấy nhau đâu có vấn đề gì mà lại " tuyệt mệnh" Về năm sinh con thì 2013 sinh con năm này cũng được..còn về sinh con út thì mình không dám chắc nên không dám nói gì vì con út rất quan trọng trong mối tương quan của 1 gia đình... ( xin lỗi em mạo muội có đôi lời như trên nhé )
    1 like
  20. Chà, lên đây mới bắt được wifi. Heo hiphop Giữ gìn vệ sinh chung Góc nhìn này thật... khó đỡ Thủ phạm gây hói??? Lúc nãy khai vị bằng dưa hấu, giờ mới là bữa chính. Anh ơi, uống nhanh lên cho em thở với! Ồi, làm mình cứ tưởng..
    1 like
  21. Bạn ơi, BS Ba chữa được viêm xoang đó. Ban đầu BS Ba nổi tiếng về bệnh hen suyễn, mãi sau này mới chuyển sang ung thư. Phác đồ chữa như sau này: ...... .Nhưng bạn nhớ là viêm xoang thì hạn chế dùng điều hòa, ở nơi thoáng mát, nhiều khí trời, tránh những nơi nhiều không khí độc hại như mùi sơn, xăng, ... nhé Bệnh xoang ko khỏi hẳn được, nhưng nếu dùng thuốc trên kết hợp với kiêng khem cho tốt thì bạn sẽ thấy m ko còn dấu hiệu khó chịu gì nữa đâu. Mình biết phác đồ đều trị bệnh này của Bsy HXB . Và các loai thuốc chữa bệnh này như sau : Viêm xoang 1. Pharysol, 2. Tomonal, 3. Pumasol 4. Phytosaponin. 5. Nhỏ mũi Xixat pha Lidocain 4ml. Pharysol 2 lần 1 ngày mỗi lần 2 viên. Tomona 2 lần 1 ngày mỗi lần 2 viên Pumasol 2 lần 1 ngày mỗi lần 2 viên. Phytosaponin 2 lần 1 ngày mỗi lần 2 viên. Còn Xixat pha Lidocain 4mlnhỏ mũi ngày 4 lần. bạn cống gắng điều trị trong 6 tháng liên tục nhưng sau 3 tháng đỡ rồi thì giảm thuốc dần còn ngày 2 viên mỗi lần 1 viên.
    1 like
  22. hic, tui có xem Tử Vi đâu mà lôi tui zô đây! Lần sau viết cỡ chữ 2 được rồi, viết to nhìn đau mắt lắm!
    1 like
  23. Nhà anh chị nên sinh năm Giáp Ngọ 2014 là tốt va gần nhất đấy, 2013 thì mạng mẹ Thủy khắc con Hỏa (theo Lạc Thư Hoa Giáp) là rất xấu nên không thể sinh. Giáp Ngọ có Ngọ Mùi liên chi, con mạng Kim sinh mẹ Thủy, và thiên can Giáp sinh Nhâm của cha. Như vậy là tốt rồi, nhà sẽ ổn về đường công danh, con càng lớn thì càng ăn nên làm ra. Con lúc nhỏ sức khỏe hơi kém do mạng sinh xuất cho mẹ, vì vậy sau khi có con nên đặt 1 quả cầu thạch anh vàng hoặc trắn trong phòng ngủ con. Thân mến.
    1 like
  24. Thôi thế này đi. Quí vị hội viện nào ở Hanoi thì đến VPDD TTNC Lý học Đông phương ở số nhà A2 ngõ 73 Hoàng Cầu lấy thần chú. Nhưng phải sau ngày 15 tháng Tư Việt lịch. Gặp Hoàng Dung, hoặc Hoàng Triều Hải.
    1 like
  25. Nhân ngày mùng 8/4 ngày khai kinh Đức Phật Đản Sinh, Bác Thiên Sứ đã phát tâm cúng dường 1,000,000 đ (một triệu đồng) ấn tống Thần Chú Giải Thoát để gieo duyên đến AE thành Viên Diễn Dàn.
    1 like
  26. Anh mong về tình cảm thì theo em 2 năm nữa sẽ tới . Hiện tại trong đại vận này còn khá chứ bước vào đại vận kế 35-44 thì còn vất vả hơn nhiều , Vợ là người phụ nữ có cá tính , làm vượng cho chồng , vợ là người phương xa Anh ra ngoài hay gặp những chuyện phiền phức, buồn lòng Em chỉ có thể nói cho anh như vậy thôi anh muốn biết thêm đợi bác haithienha, bác túy lão hoặc em tuyết minh sẽ giúp anh được nhiều hơn .
    1 like
  27. Cô đã gởi đến Zhuan 8 bản Chú và Hoc hoc nua hoc mai 10 bản Chú , hy vọng các bạn sớm nhận được!
    1 like
  28. Bàn tay này hồi mới sinh, sức khỏe yếu, càng lớn càng khỏe, nhưng dễ suy nhược sớm. Sống nội tâm, đa cảm nên luôn cảm thấy cô đơn. thông minh đa trí. Tự lập sớm. Có năng khiếu về nghệ thuật. Hậu vận nổi tiếng và nhân hậu.
    1 like
  29. 1 like
  30. Tượng thầy trò Vũ Thê Lang được thờ trong Thiên Cổ Miếu Qua quá trình nghiên cứu của nhà giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền, các thư tịch cổ ở nhiều nơi trong cả nước đã ghi lại danh sách các thầy giáo và học trò thời Hùng Vương. Bước đầu chúng ta biết từ Hùng Huy Vương – Hùng Vương thứ 6 đến An Dương Vương có 19 thầy giáo dạy 18 trường ở kinh đô và địa phương, với số học trò được biết là 23 người. Học trò học ở các trường mà trong thần tích, thần phả không nêu tên thầy giáo là 17 trường với số học trò là 35 người. Như vậy có 19 thầy giáo và 35 trường học rải khắp các địa bàn trong cả nước và 58 học trò tiêu biểu. Ta khiêm tốn gọi đó là những dấu tích của nền giáo dục thời Hùng Vương. Cũng trong quá trình nghiên cứu đó, ông Xuyền còn tìm thấy thời Bắc thuộc lần thứ I từ năm 111TRCN đến năm 39 – thời Bà Trưng có 10 thầy giáo, 68 học trò và 36 trường ở các địa phương. Sau đây là danh sách các thầy giáo và học sinh thời Hùng Vương của nhà giáo Đỗ Văn Xuyền tìm ra: 1. Danh sách 18 thầy giáo 1 Thời Hùng Vương thứ 6 – Hùng Huy Vương có thầy Lý Đường Hiên Dạy học ở Yên Vĩ huyện Hoài An phủ ứng Thiên đạo Sơn Nam nay là huyện Ứng Hoà Hà Tây. Thầy có hai học trò là Cao Đường và Lý Đá học giỏi thấu tỏ mọi lẽ kinh sách, người đường thời ai cũng khen là thần đồng. 2 Lý Đá và Cao Đường Mở trường dạy học tại Xuân La Nguyễn Xá trang Diên Phú huyện Diên Hà phủ Tiên Hưng trấn Sơn Nam. Giặc Ân xâm lược, hai ông theo Phù Đổng đánh giặc, giặc tan về đến núi Sóc Sơn ông cùng Phù Đổng bay về trời. Nhân dân Xuân la Nguyễn Xá trang Diên Phú huyện Diên Hà phủ Tiên Hưng Trấn Sơn Nam lập đền thờ phụng. 3 Thời Hùng vương thứ 9 - Thầy Lỗ Công Dạy ở kinh thành Văn Lang, là cháu ngoại vua Hùng Định Vương. Có học trò là Hoàng Trù ở xã Bồng Lai huyện Từ Liêm Hà Nội theo học. 4 Thời Hùng Vương thứ 16 – Thầy Ngô Tiên Dạy học ở Xuân Áng xã Thuỵ Trang huyện Đường Hào phủ Thượng Hồng lộ Hải Dương có người học trò là Phan Hộ mày hổ, mũi rồng, tiếng như chuông, mới sinh ra đã có răng, học được một năm giỏi giang, văn võ tinh thông, tài trí khác đời. Ông vào chữa bệnh cho Thái Phi vua thấy tài giỏi, phong “Đốc trưởng tiền quên ngự đô lực sĩ, Đông Đại tướng quân thiên hộ hầu. 5 Thời Hùng Vương thứ 18 – thầy Cao Đường Dạy học ở khu Khổng Tước Châu Hoan, học trò là Hùng Duệ Vương. Còn có người học trò là Chu Hoằng theo học được hơn 4 năm mà văn chương thông thái, võ bị tinh thường. Ông theo Tản Viên Sơn Thánh, trở hành vị tướng đánh Thục giỏi được vua phòng: Cai số Đại vương. Ngày 10 tháng 11 ông tự hoá, nhân dân khu Bùi Trang Hạ Bái huyên Diên Hà lập đền thờ phụng. 6 Thầy Nguyễn Thiện Quê ở làng Yên Vỹ, động Hương Tích, huyện Hoài An phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam đến học ở Thượng Khu xã Vĩnh Lai, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Ông có hai người con trai cùng sinh giờ ngọ ngày 12/8 năm Bính Tý, lại là hai học trò văn võ toàn tài, thao lược hơn người. Khi cha chết hai anh em đến Sơn Tây vào yết kiến Tản Viên Sơn Thánh và kết nghĩa anh em cùng nhau đánh Thục thắng lơị, được Hùng Duệ Vương phong: Đại tướng công. 7 Thầy Hải Đường Dạy học ở kinh thành Văn Lang có người học trò tên là Nguyễn Mục sinh ngày 12-9 năm GIáp Ngọ, con ông Nguyễn Danh Huyên và bà Đào Thị Túc ở trang Đông Đồ huyện Kim Hoa phủ Từ Sơn xứ Kinh Bắc, đến ở nhà cậu rột là ông Đào Công Hải làm huyện Doãn Châu Phong (Bạch Hạc) để đi học. Mới học được vài năm mà Nguyễn Mục văn chương võ nghệ tinh thông. Hùng Duệ Vương yết bảng chiêu hiền. Nguyễn Mục ứng thi được vua ban chức: Đại Phu tham gia triều đình chính sự. Quân Thục xâm lược, Nguyễn Mục cầm quân đánh thắng giặc trở về được Vua phong: Y Mục đại vương. Ngày 2 tháng chạp năm Kỷ Dậu ông hoá, vua truy phong Thượng đẳng thần tối linh. Nhân dân trang Bối Khê huyện Đông Yên phủ Khoái Châu lập đề thờ phụng. 8 Thầy Lã tiên sinh Dạy ở Hồng Châu Hải Dương có hai người học trò là Cao Sơn và Quý Minh vă võ đã hơn người. Bấy giờ Hùng Duệ Vương hạ chiếu kén nhân tài. Hai ông ứng thi trúng tuyển, vua phong cho hai người chức Chỉ Huy Xứ: Tả Hữu tướng quân. Vâng mệnh vua hai ông đưa quân trấn thủ ở sông Lô, sông Thao, sông Đà đề phòng quân Thục xâm lược. Hai ông lập đồn ở xã Tiên Du huyện Phù Khang phủ Tạm Đái đạo Sơn Tây về sau là xã Tiên Du tổng Hạ Giáp huyện Phù Ninh Phú Thọ… Ngày 10 tháng 11 hai ông đã hoá, nhân dân nơi đây đã tôn thờ làm Thành Hoàng làng. 9 Thầy Lỗ tiên sinh Dạy học ở xã An Canh huyện Thiên Thi nay là huyện Ân thi, Hưng Yên. Thầy có 3 người học trò là Nguyễn Tuấn, Nguyễn Chiêu, Nguyễn Minh là con ông Nguyễn Xuân và bà Đoàn Thị Nghi. Ba người cùng sinh một bọc ngày 10-3 năm Bính Thìn, thật là khôi ngô kỳ vỹ. Năm lên 9 tuổi ba anh em đều theo học thầy Lỗ tiên sinh, học được ba năm đã tinh thông văn võ. Năm 15 tuổi tài năng của 3 ông đã nổi bật, nhân dân và hào kiệt trong vùng đều khâm phục. Năm 19 tuổi Hùng Duệ Vương ra bảng kén chọn nhân tài, ba ông đều trúng tuyển. Vua hài lòng phong cho ông Tuấn chức: Tư Tào điển lạc quan, ông Chiêuk chức: Tả Tư tào phán quan, ông Minh chức: Hữu Tư tào phán quan. Quân Thục đến xâm lược, ba ông theo Tản Viên Sơn Thánh đánh giặc. 10 Thầy Lỗ Đường Tiên sinh Dạy ở xã Đại Đồng thuộc huyện An Đường phủ Thượng Hồng tỉnh Hải Dương. Có người học trò là Trương Sơn Nhạc sinh giờ Thân ngày 8 tháng giêng năm giáp Thân, rất kỳ lạ, mặt mũi khôi ngô, tuấn tú, trong bụng có điểm nét chữ “son” trông tựa như chữ thần tiên. Một tuổi đã biết nói, năm lên 7 theo học thầy Lỗ Đường, chẳng bao lâu văn võ kỳ tài, được Hùng Duệ Vương giao cho chức Bố Chính Quan. Quân Thục đến xâm lược, ông là vị tướng đã đáh thắng giặc rồi tự hoá.. Nhân dân làng Nhiễm Dương tổng Nghĩa Xá, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh lập đền thời phụng. 11 Thầy Niệm Hưng Quê ở Mộ Trạch Hải Dương được nhân dân làng Lỗ Khê phủ Từ Sơn Bắc Ninh đón về dạy hỏi: Năm 23 tuổi nhà vua hạ chiếu kén anh tài. Niệm Hưng ứng tuyển được Hùng Duệ Vương phong chức: Chỉ Huy xứ. Quân Thục xâm lược, ông lĩnh chức Tiền Đạo đại tướng quân, đánh thắng quân Thục ông trở về Lỗ Khê tự hoá, nhân dân tôn thờ làm Thành Hoàng Làng. 12 Thầy Nguyễn Minh Quê ở huyện Lôi Dương Châu Ái đến xã Màn Xuyên tổng Đông kết huyện Đông An mở trường dạy học. Bấy giờ Hùng Duệ Vương mở khoá thi, vào thi Đình nhà vua chấm ông đỗ đầu khoá, được vua gả công chúa Ngọc Nương – công chúa thứ ba, ông cùng với Tản Viên Sơ Thánh đánh giặc Chiêm Thành thắng lợi được vua phong: Trấn Chiêm Thành cửa ải đại tướng quân. 13 Thầy Lỗ tiên sinh Dạy học ở Động Lăng Xương huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng đạo Hưng Hoá, có ba người học trò là Cao Hiển công, Cao Minh công, Cao Tùng công quê gốc ở Châu ái đến ngụ cư ở Lăng Xương. Ba học trò này thật là dị tướng, hai gồ má cao vọi, tay dài chấm gối, bàn chân có 7 cái lông dài. Học mới 3 năm mà đã am hiểu nghĩa lý, kinh sử lầu thông. Vì có công đánh giăc Thục khi hoá được vua phong Thượng đẳng phúc thần. 14 Thầy Phạm Công Tuyển Quê ở trang Hội Triều huyện Hoàng Hoá phủ Hà Chung Châu ái làm quan ở châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam. Ông là Người văn chương nổi tiếng. Sau khi vợ chết ông tư quan về dạy học ở Châu Xích Đằng phủ Khoái Châu, sau lại chuyển về khu Đăng Xuyên xã Đăng Định huyện Thiên Thi… Sau khi chết nhân dân xã Đăng Xuyên huyện Ân Thi tôn thờ Thành Hoàng làng. 15 Thầy Vũ công Ở Mộ Trạch Hải Dương dòng dõi thi thư lên cung thành kinh đô Văn Lang, ở thôn Hương Lan, ngày nay thuộc xã Trưng Vương – Việt Trì dạy học. Hai ông bà sinh được người con đặt tên là Vũ Thê Lang, khi trưởng thành Vũ Thê Lang đã dạy hai công chúa của Hùng Duệ Vương là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Nhân dân đã lập đền thờ vợ chồng Vũ Thê Lang, đền này có tên là “Thiên Cổ Miếu”. 16 Thầy Lý Đường tiên sinh Dạy học ở động Lăng Xứơng huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng, đao Hưng Hoá xứ Sơn Tây. Nguyễn Chiêu học thầy 3 năm liền. Sau này Nguyễn Chiêu gọi là Tả Viên Sơn Thánh phò mã của Hùng Duệ Vương. 17 Thầy Ngô tiên sinh Dạy học ở thôn Trì La Huyện Thiên Thi Xứ Sơn Nam. Có hai người học trò tên là Phạm Đá, Phạm Dũng cùng sinh một bọc ngày 9/3 năm kỷ Mùi, con ông PHạm Đạt và bà Đinh THị Duyên, quê nội ở sách Biện Sơn huyện Lôi Dương phủ Thuận Thiên Châu ái. Hai học trò này hình dáng kỳ dị, mày ngài hàm én, tay dài chấm gói, bàn tay có 7 chiến lông mọc dài, năm lên tám tuổi hai anh em đến học thầy Ngô tiên sinh, mới học được vài năm đã thông kinh sử. Thời An Dương Vương có giặc Đại Man đến cướp phá Cao Bằng, Hưng Hoá. Nhà vua truyền hịch tuyển lựa chọn nhân tài. Hai ông ứng tuyển được nhà vua phong cho ông Phạm Đá là Bình Man Đô nguyên soái, ông Phạm Dũng là Thiên Quan đại tướng công. Hia ông dẹp yên giặc lại trở về Trì La, khi hoá nhân dân tôn Thành Hoàng làng. 18 Thầy Dương Như Tồn tiên sinh Dạy học ở Lỗi Giang, Tề Giang xưa, nay thuộc Thọ Xuân Thanh Hoá là thầy dạy tể tướng Lữ Gia thời nhà Triệu. 2. Danh sách 23 học trò Thời Hùng Vương thứ 6 - ông Tạ Quang và bà Trần Thị Ở xã An Phú huyện Từ Sơn Bắc Ninh có 5 con học ở xã Điềm Xá huyện Tiên Lữ phủ Khoái Châu Hưng Yên. Năm người con này khi trưởng thành đã cùng với Hùng Đức huyện quan Tiên Lữ đánh giặc ở Châu Quỳnh Nhai, Tuyên Quang…. được vua phong: Ngũ vị đại vương. 2 Người con giai là Vũ Nghị Con ông Vũ Huy Hiển, bà Hoàng Thị Việt. Năm 12 tuổi ha mẹ cho đi học ở thôn Trung xã Vĩnh Lại tên nôm là làng Giải Thượng huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Thời Hùng Hy Vương có giặc Cao Man giặc Ân ông đã cùng với người cậu là Hoàng Công Độ, lạc tướng ở kinh thành Văn Lang đi đánh giặc lập nhiều chiến công. Ông Vũ Nghị đã hoá theo Thánh Gióng ở núi Sóc Sơn. 3 Đời Hùng Vương thứ 6 có Vũ Lang Lữu Sinh giờ Dần ngày 20 tháng giêng năm ất sửu là con ông Vũ Sùng và bà lê Thị Ngọc, học ở sách Lam Sơn, Ái Châu, Thanh Hoá. Sau lại chuyển đến học ở huyện Nam Xang phủ lý Nhân đạo Sơn Nam. ông thông thạo văn chương, thượng thiên văn, hạ địa lý, không một vật gì không biết, không một việc gì không hay, đời bấy giờ khen là: ông thánh trẻ. Giặc Ân xâm lược nước ta Vũ Lang Lữu cùng Thánh Gióng đánh tan giặc. Ông được vua phong: Võ Gia Hỗu giám sát đại tướng quân. Khi ông mất làng Vũ Xá tổng ngu Nhuế phủ Lý Nhân tỉnh Hà Nam lập đền thờ phụng. 4 Hoàng tử Hùng Bảo, Hùng Chân Con Hùng Huy Vương và con Hoàng hậu Phương Dung. Hoàng tử Bảo sinh ngày 12/02 năm Giáp Tí. Hoàng Tử Chân sinh ngày 10 tháng giêng năm đinh mão. Hai hoàng tử này học ở kinh thành Văn Lang, với tư chất thông minh, chăm học, ngay từ thuở thiếu niên đã tỏ ra người có tài văn võ. Lúc bấy giờ có giặc xâm lược vua cử hai hoàng tử làm tướng, phong cho hoàng tử Bảo là Bảo quốc lạc hầu, Hoàng tử Chân là Chân Võ đại tướng quân. 5 Nguyệt tinh công chúa Cháu của Hùng Tạo Vương – Hùng Vương thứ 16 học ở kinh thành Văn Lang, 19 tuổi văn võ kỳ tài, đi 7 bước làm xong bài thơ. 6 Hoàng tử Mang Công Con của Hùng Nghị Vương – Hùng vương thứ 17 học ở kinh thành Văn Lang, là người thiên tư mẫn tuệ. Năm 17 tuổi Mang công lầu thông thiên kinh vạn quyển, hiểu rõ ngọn ngành của mọi nghĩa lý. 7 Thời Hùng Duệ Vương có Lương Cội công Con ông Lương Nhạc và bà Trần Thị Ái, cha mẹ cho Cội công đi học ở động Chung Sơn quận Cửu Chân, Hoan Châu. Cội công rất thông minh, văn tài võ lược đều giỏi, được vua trọng dụng phong làm tướng cử đi đánh giặc, thắng lợi trở về vua lại truy phong; Đài vàng Cội Công Uy linh đại vương. Ông mất, Trang Minh Lương (tức Mỹ Lương) huyện Diên Hà phủ Tân Hưng làm đền thờ phụng. 8 Bốn người con: Liêm , Vĩnh, Dũng, Bùi Vợ chồng ông Đinh Công Bách và Tô Thị Công Nghị quê ở Châu Ái, Thanh Hoá có 4 con theo học ở làng Pó Hoa trấn Sơn Nam Thượng phủ Thường Tín huyện Thượng phúc đạo Sơn Nam. Bốn người con đều đi học chăm chỉ, đều tài giỏi cả văn lẫn võ, tài trí thông minh lẫy lừng thiên hạ, danh tiếng đến tai vua. Hùng Duệ Vương mời 4 chàng trai vào triều để giúp vua trị nước. 9 Chàng Ngọ Ông Nguyễn Trường vợ là Đinh Thị Khương ngày 8 tháng giêng năm Bính Ngọ sinh được người con trai phong tư đẹp đẽ, khí vu hiên ngang đặt tên là Ngọ. Cha mẹ cho Ngọ đi học ở khu Tập Ninh xã Vân Lung động Hoa Lư phủ Trường Yên Châu Ái. Chàng thông hiểu văn chương, tinh thông võ nghệ được Hùng Duệ Vương phong: Trung Thư Lệnh, Quân Thục đến xâm lược, ông là võ Tướng chỉ huy đánh thắng giặc rồi ông tự hoá, làng Tập Ninh xã Vân Lung huyện Hoa Lư – Ninh Bình lập đền thờ phụng. 10 Tam Quan học Hùng Thiện Công và Nguyễn Thị Phương có người con trai tên là Tam Quan học ở trang Cao Xá thuộc tổng Lai Cách phủ Bình Giang nay là xã Ca An huyện Cẩm Giàng Hải Dương: Tam Quan học rất giỏi võ nghệ tinh thông, pháp thuật cao cường được Hùng Duệ Vương tuyển dụng phong: Tam Quan địa vương. 11 3 người con giai: Tuấn, Chiêu, Minh Ông Nguyễn Xuân và vợ là Đoàn Thị Nghị ngày 10/3 sinh một bọc được 3 người con giai thật là kỳ vỹ. Con thứ nhất đặt tên là Tuấn, con thứ 2 đặt là Chiêu, con thứ 3 đặt là Minh. Năm lên 9 tuổi cả 3 anh em đều đi học ở làng cổ Lễ xã An Canh huyện Thiên Thi nay là Ân Thi Hưng Yên. Ba ông có công đánh quân Thục xâm chiếm, khi hoá nhân dân Cỗ Lễ thờ; “Tam vị Thành Hoàng” 12 2 con giai: Minh Đức, Chiêu Chung Đặng Cẩn vợ là Phùng Thị Thuần ngày 10 tháng 4 năm Nhâm Thân sinh được 2 con giai , dung mạo khôi ngô kỳ lạ. năm lên 7 tuổi cha mẹ cho 2 anh em đi học ở Châu Quỳnh Nhai. Năm 16 tuổi lực học hai cậu tinh thông, tài năng võ nghệ khiến vạn phu không địch nổi. Năm 20 tuổi, giữa lúc Hùng Duệ Vương dựng lầu kén rể ở thành Văn Lang để mộ người thông minh tài trí, đức độ hơn người, kén chọn bậc vương lấy công cháu Ngọc Hoa rồi vua trao ngôi báu. Hai ông vào ứng thi tài văn võ ứng đối lưu loát nhưng toàn tài chưa có. Vì thế vua chỉ phong cho 2 ông chức: chỉ huy xứ tả hữu tướng quân. Quân Thục đến xâm lược, hai ông cầm quân đánh thắng giặc trở về và tự hoá ngày 3 tháng 12 nhân dân Nghĩa trang Lưu Thượng, Lưu hạ đạo Hải Dương lập đền thờ phụng. 13 Thời Hùng Duệ Vương - Vũ Uy Ông Vũ Phục vợ là Quế Hoa ngày 18 tháng 3 giờ Tý năm Nhâm Dần sinh được người con trai đặt tên là Vũ Uy, năm 14 tổi cha mẹ cho Vũ uy học ở xã Đan Tràng tổng Đan Tràng huyện Cẩm Giàng phủ Bình Giang tỉnh Hải Dương, võ nghệ tinh thông, học một biết mười, quân Thục đến xâm lược, ông xin nhà vua cầm quân đánh giặc, chiến thắng ông trở về bản quán xã Đan Tràng và tự hoá được vua phong: “Thượng đẳng phúc thần” 14 Con trai tên Hoằng Ông Nguyễn Lương vợ là Đinh Thị Tố ngày 10-8 năm Giáp thân sinh người con trai đặt tên là Hoằng, có nước da trắng ngần, mắt sáng như sao, sau lưng có 28 nốt ruồi, dười đùi có 7 cái lông. năm 12 tuổi ông kết bạn với Sơn Thánh và đến bái yết Hùng Duệ Vương được vua pong “Dũng lược tướng quân” hộ giá nhà vua. Ông có công đánh thắng quân Thục được vua gia phong: Hoằng tướng quân đại vương. Khi ôg hoá làng Cổ Viễn, Bình Lục, Hà Nam lập đền thờ phụng. 15 2 con trai: Mang công, Mỹ công. Ông bà Cao công ngày 2 tháng 2 năm Giáp thân sinh một bọc được 2 con trai đặt tên là Mang công, Mỹ công. năm 11 tuổi cha mẹ cho hai anh em đi ọc ở Vũ Ninh, học được 5 năm văn võ rất giỏi. Quân Thục xâm lược Hùng Duệ Vương triệu hai ông về triều, cử đi đánh giặc. Thắng giặc trở về hai ông tự hoá ngày 10-6 được vua truy phong: “Thượng đẳng phúc thần”. Làng Mão Cầu Phủ Lý Nhân Hà Nam lập đền thờ phụng. 16 Đời vua Hùng Vương thứ 18 - Cao Sơn, Cao Minh Ông Nguyễn Tùng vợ là Lê Thị Diêu ngày 14 tháng giêng năm Nhâm Dần sinh được hai con trai mặt mũi khác thường đặt tên là Cao Sơn và Quý Minh – Năm lên 6 tuổi cha mẹ cho đi học ở Hồng Châu Hải Dương. Năm 16 tuổi cả hai anh em đều tinh thông võ nghệ. Vua hạ chiếu tìm người tài giỏi. Hai anh em đến bái yết nhà vua được vua phong cho hai người làm: Đô chỉ huy xứ tướng quân Cao sơn và Quý Minh là hai nhân vật từng được thờ rất nhiều với những lai lịch sự tích mỗi nơi một khác. Có nơi cho Cao Sơn và Quý Minh là Tản Viên, Cao Sơn và Quý Minh là Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng anh em con chú con bác với ản Viên. Cao Sơn và Quý Minh là anh em kết nghĩa với Tản Viên. Có người lại cho rằng Cao Sơn và Quý Minh là tước hiệu tránh viết tên huý.. 17 Chung công ý Công Hiển vợ là Đinh Thị Huyền ngày 10-2 năm Mậu Thân sinh được người con trai tay dài quá gối, chân có 7 cái lông dài, cha mẹ đặt tên là Chung công. Một tối Chung công đã biết nói, 7 tuổi đi học ở động Lăng Xương huyện Thanh Châu phủ Gia Hưng đạo Hưng Hoá xứ Sơn Tây. Mới học được mấy năm đã thông hiểu cả văn võ. Lớn lên cùng với Sơn Thánh cầm quân đánh Thục. 18 Đời Hùng Vương thứ 18 - Nam Định Ở làng Lưu Xá huyện Thượng Hiền phủ Nghĩa Hưng đạo Sơn Nam có ông Trương Tùng vợ là Phùng Thị ích đến ngụ cư ở trang Trịnh Xá khu Nguyên Xá huyên Đông Ngàn phủ Từ Sơn đạo Kinh Bắc. Ngày 10/3 năm Quý Tỵ sinh được cậu con trai đặt tên là Nam Định. Lên 3 tuổi đọc thông sử sách, lại giỏi võ nghệ, đám học trò thời ấy thán phục và khen là thần đồng. Năm 21 tuổi, lúc này Hùng Duệ Vương xuống chiếu cầu hiền Nam Định ứng tuyển, trả lời các câu hỏi của vua đều lưu loát, vua khen và ban danh là Trung Định Công và giao cho chức chỉ huy xứ ở huyện Thượng Hiền đạo Sơn Nam. Hùng Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa nhưng đều nối gót lên tiên cả, chỉ còn lại 2 công chúa. Con gái lớn là Tiên Dung đã gả cho Chử Đồng Tử còn công chúa Ngọc Hoa duyên đẹp thời lành chưa định. Vì vậy mà giao cho Trung Định công dựng lầu ở cửa Việt Trì gọi là “Tuyển tế đại hiền lau” – Lễ đón người hiền, chọn rể, đề biển là: “Ngoan nguyệt cầu hiền” nghĩa là ngắm trăng cầu hiền - để nhà vua gả công chúa và truyền ngôi báu cho. Lúc bấy giờ chỉ có Sơn Thánh họ Nguyễn tên Tùng người Đạo Sơn Nam có nhiều phép lạ, vua cho rằng đó là người kỳ tài bậc nhất thiên hạ, vua đã gả công chúa và nhường ngôi báu. Quân Thục đến xâm lược Trung Định công được vua phong: Tiền đạo đương lộ tướng quân, đi giết giặc. Thắng giặc trở về ông tự hoá ngày 15/7 nhân dân khu Nguyên xá tôn thờ làm thành hoàng. 19, 20, 21, 22 4 con trai của Hùng Vương thứ 18 Hùng Vương thứ 18 ở Châu Quỳnh Nhai có ông Cao Bảo và Cao Hình lấy vợ ở Thanh Ba làng Vũ Lao. Năm Đinh Sử tháng 3 ngày 10 vợ ông anh sinh 2 con trai và một con gái. Ngày 10-8 năm ấy vợ ông em sinh một bọc 2 con giai. Thế là hai anh em sinh được 4 giai một gái. Bốn con giai thân thể lẫm liệt, cao to, môi rồng, mặt phượng, hàm én, mày hùm. Con gái thì phương phi, mặt như gương sáng, nhan sắc như tiên nữ. lên 3 tuổi người anh đặt tên cho con là Minh Công, Tín Công và con gái Dung nương. ông em đặt tên cho con là Cao công, Bạch công. năm lên 7 tuổi hết thảy đều thông minh, trí tuê, khí độ hơn người. Nam anh hùng, nữ tuấn tú. Lúc bấy giờ ở châu Quỳnh Nhai có người họ Đinh là nhà cự tộc gia thế, tìm cách giết chết 2 anh em giai và người vợ ông em. Bà vợ ông Cao Bảo đưa 3 con và 2 cháu đi chốn ở làng Thượng Nông huyện Tam Nông phủ Lâm Thao, ở nhà bà Ma Thị Chính và cho các con, các cháu học ông thầy ở làng Đào Xá Thanh Thuỷ. Học được 4 năm, tài chí của con trai và con gái khác thường. Bốn con trai giúp nhà vua đánh Thục còn Dung nương thì lấy vua làm thập tứ cung phi (cung phi thứ 14) Giả thuyết chữ Việt cổ đầu tiên là khi nào và chữ Việt cổ còn lưu lại ở những đâu? Trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, tác giả Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Vào năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa lúc ấy là Vương Duy Trinh công bố việc tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vờn cháy mà Ông gọi là chữ Hỏa tự. Dựa vào những chữ Hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề "Mời trầu" có nội dung ca ngợi tình yêu. Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của tổ tiên ta từ thời các vua Hùng. Do âm mưu đồng hóa của kẻ thù, chúng tìm cách triệt phá, không để lại dấu tích của thứ văn tự cũ, nay vẫn còn truyền lại và lưu hành trong một bộ phận nhỏ xã hội. Theo nghiên cứu của Ông thì:" Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thư chữ này" Văn bản chữ Việt cổ còn lại những gì? Đúng là tài liệu của ta vừa bị giặc nước huỷ diệt, vừa bị ta không biết cách bảo tồn, thí dụ đã từng có một tài liệu về chữ Việt cổ của gia đình cụ Lê Huy Nghiệm sau cách mạng Tháng Tám đã bị mất. Dù giặc ngoại xâm đã tước đoạt, đã thiêu huỷ những tài liệu quý báu của tổ tiên chúng ta như Mã Viện đã tịch thu tất cả những trống đồng có khắc chữ trên đó để đúc ngựa dâng cho Hán Quang Vũ và đúc cột đồng trụ. Năm 207 sau công nguyên, Sỹ Nhiếp du nhập sang nước ta chữ Hán đồng thời ra lệnh thiêu huỷ sách vở và cấm nhân dân không được dùng thứ chữ viết của tổ tiên ta. Nhưng chữ Việt Cổ càng ngày càng phát lộ nhiều: Trên trống đồng, trên qua đồng, trên vách các hang động, bãi đá cổ ở Sapa, ở Pá Màng xã Liệp Tè Thuận Châu Sơn La, chữ Việt Cổ còn tồn tai vùng biên viễn Thập Châu. Thư viện Sơn La đã sưu tầm được gần 1500 cuốn sách, Bảo Tàng Sơn La cũng sưu tầm được gần 1000 cuốn sách trong đó là chữ Thái hay chữ Việt Cổ mà chưa nghiên cứu vấn đề này. Nhất định chúng ta tìm thấy và giải mã được chữ Việt Cổ, chữ của tổ tiên để lại. <a name="Giai-ma">Ông Xuyền đã giải mã hình dạng chữ Việt cổ như thế nào? Cách đây hơn một thế kỷ, Phạm Thận Duật, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái thổ tự , trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần chắc. Còn ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 15 thể chữ cái theo vần chắc. Ngoài ra còn 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là "tứ bàng phụ họa, sử dụng 03 thể chữ cái đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu" (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán). Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, Đỗ Văn Xuyền sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là: - Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ? - Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của kí tự đó không ? - Có giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm) Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ la tinh của phương tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí (Tứ bàng phụ hoạ). Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông Xuyền mới tìm ra qui luật - Qui luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được qui luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. Nhóm nghiên cứu đang đang tập trung nghiên cứu để một ngày gần đây chứng minh giả thiết cho rằng, Những nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Nhóm nghiên cứu rất cần sự ủng hộ của các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu khoa học của nhà nước để hoàn thiện công trình khoa học này. www.chungta.com
    1 like