-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 06/05/2012 in Bài viết
-
Phát Hiện Chữ Việt Cổ ?
TrungNhan and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Chúng ta không thể ngờ rằng Sĩ Nhiếp "Nam Giao Học Tổ" đã xuất hiện trong thư tịch Anh quốc - chuyện tôn xưng này quá rõ ràng là sai bét nhè rồi. Có thể là cách đọc khác nhưng ý nghĩa của chữ viết vẫn là một, ví dụ chữ cổ table là cái bàn, hai cách đọc khác nhưng hiểu là vật dụng đang đề cập đều như nhau, đây là nhận định chưa vào ý chính. Dòng chảy ngôn ngữ cổ cho tới nay thay đổi nhưng ý nghĩa của chúng quy định hiện tượng là không thay đổi, cách đọc mới vẫn có khả năng lý giải những sự việc liên quan. Nhận định này giống ở trên. Điều này có thể, do vậy nên chỉ ra phải chăng chữ Thái là Việt cổ hoặc Văn Lang thống nhất chữ quốc ngữ hoặc nó khác tất cả các loại chữ đã từng gặp Không có nghĩa nhà nghiên cứu nghiệp dư là bị giới hạn, ví dụ ngành sử trước đây là điểm thi vào đại học thuộc loại kém nhất, chả nhẽ đang đào tạo các nhà sử học có vấn đề?. Phàm đã gọi là khoa học thì cần công khai tranh luận. Nhưng những nhà khoa học trong bài báo nói trên thì chỉ thấy có mình ông Phan Huy Lê tham gia. Nếu các nhà khoa học thực sự quan tâm đến "Chữ Việt cổ" và có tâm huyết bảo vệ quan điểm của mình dù đúng hay sai, tôi nghĩ nến tranh luận công khai với những luận cứ rõ ràng. Còn phạm vi một bài báo bị hạn chế bởi khuôn khổ có hạn - nên cũng có thể các vị học giả có tên trong bài báo nói trên có những luận cứ nào đó mà không được bài báo thông tin chi tiết. Nhưng chỉ với những kết luận của những vị học giả được thể hiện trong nội dung bài báo thì người đọc chỉ căn cứ vào học vị và võ đoán rằng không lẽ với học vị như vậy lại có thể sai mà thôi. Ngay trong buổi hội thảo nói trên, khi tôi công khai nói về Việt sử 5000 năm văn hiến thì chẳng có ai lên tiếng phản bác. Nhưng sau buổi hội thảo thì nói với sau lưng là: Thời Hùng Vương cội nguồn dân tộc nếu có gần 5000 năm lịch sử thì mỗi ông vua thọ đến hơn 100 tuổi. Đại ý vậy. Anh chị em cũng biết rằng lập luận này tôi đã bác bỏ từ lâu. Cá nhân tôi, khi tìm hiểu và minh chứng về thời Hùng Vương - cội nguồn lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến một thời huy hoàng ở bờ nam sông Dương tử - tôi đã biết rằng cần phải minh chứng về chữ viết của người Việt cổ. Bởi vậy, ngay trong cuốn sách đầu tay - "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại" - tôi đã có một chương nói về chữ Việt cổ chính là chữ khoa đẩu. Cho nên, hơn 10 năm sau, khi được biết nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền công bố những cứu liệu về chữ Việt cổ tôi đã tìm hiểu rất kỹ. Do đó - như bài báo nói trên miêu tả - Tôi cũng nhân danh luôn "Dị nhân đuổi mưa" để xác định rằng: Hệ thống luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền hoàn toàn rất có cơ sở khoa học vì nó phù hợp với tiêu chí khoa học cho một hệ thống luận cứ chứng minh cho vấn đề này. Trong bài viết khác cùng chuyên mục, tôi xác định rằng: Do đó, tôi xác định rằng: Những kết luận của những học giả được miêu tả trong bài báo nói trên - cùng lắm - chỉ là những ý kiến cần bổ sung trong việc hoàn chỉnh hệ thống luận cứ minh chứng của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, chứ không phải là một kết luận có tính phản biện. Tôi tạm chứng minh điều này căn cứ vào miêu tả - do hạn chế bới khuôn khổ tờ báo - của các học giả trên như sau: 1/ Tôi xin trả lời rằng:Vậy không lẽ những ai muốn chứng minh cho nguyên lý đọc của các cụ ngày xưa thì phải có băng ghi âm - được khoa học công nhận là ghi từ hàng ngàn năm trước - về cách đọc của các cụ thì mới được công nhận? Ngôn ngữ Việt hiện đại tất nhiên không phải đọc bằng tiếng "Pháp", mà là sự kế thừa và tiếp tục hệ thống ngôn ngữ của tổ tiên. Do đó ông Xuyền chỉ cần chứng minh những ký tự đó ký âm được ngôn ngữ Việt là hoàn chỉnh. 2/ Tôi xin trả lời rằng: Lại có cả cách đọc theo phương pháp khoa học? Vậy xin giáo sư cho biết cách đọc nào phi khoa học? Đâu phải tự nhiên ông Xuyền thể hiện một phương pháp ký âm của chữ khoa đẩu phù hợp với cách đọc của ngôn ngữ Việt? Ông Xuyền đã có cả một hệ thống hợp lý và hoàn chỉnh với những ký tự của ông mới có thể thể hiện được như vậy. Chưa nói đến việc so sánh, đối chiếu với rất nhiều văn bản chữ khoa đẩu khác nhau còn lưu truyền để xác định một hệ thống chữ khoa đẩu sử dụng trong tiếng Việt cổ. Bởi vậy, việc kết luận "một cách đọc theo phương pháp khoa học là...tưởng tượng" thì tôi thấy không rõ ràng. 3/ Tôi xin trả lời rằng: Tôi rất đồng ý với giáo sư Phan Huy Lê, khi ông cho rằng: vấn đề chữ viết cổ của người Việt không chỉ trong nước mà đã được nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài chia sẻ. Và trước đây chưa ai dám kết luận chắc chắn. Nhưng tôi cũng cần phải xác định quan niệm của giáo sư Phan Huy Lê cho rằng:"...ông Xuyền tiếp nối, có sự bổ sung theo hướng đi của GS Lê Trọng Khánh, nghiên cứu từ chữ Thái cổ nhằm xác định chữ Việt cổ" là hoàn toàn chưa có cơ sở. Bởi vì, ông Xuyền là nhà nghiên cứu độc lập, tự đi theo hướng riêng của mình và không hề có sự hướng dẫn của giáo sư Lê Trọng Khánh - Mặc dù ông ta có thể tham khảo các công trình của giáo sư Lê Trọng Khánh. Có thể nói rằng: Trong công trình nghiên cứu của mình, từ trước cho đến nay tôi chưa hề thấy ông Xuyền trích dẫn những luận cứ của giáo sư Lê Trọng Khánh làm kim chỉ nam cho hệ thống luận điểm của mình. Nếu có thì có lẽ chỉ là một dẫn chứng. Nếu như hướng đi - tức hệ thống phương pháp luận của giáo sư Lê Trong Khánh - mà ông Xuyền chỉ là người tiếp bước thì chắc chắn bản thân giáo sư Lê Trọng Khánh và các học trò của ông với phương tiện, điều kiện nghiên cứu và với mọi sự thuận lợi của một học vị giáo sư như ông - có lẽ ông sẽ có công trình hoàn chỉnh từ lâu và không cần đến ông Xuyền phải vượt bao khó khăn trong cuộc sống của mình cho đến khi công bố. Còn việc giáo sư Phan Huy Lê cho rằng: Phương pháp nghiên cứu của ông Xuyền - là tiếp bước của giáo sư Lê Trọng Khánh - "nghiên cứu chữ Thái cổ để liên hệ đến chữ Việt cổ" thì tôi cần xác định ngay rằng: Đấy không phải phương pháp nghiên cứu của ông Xuyền. Phương pháp của ông Xuyền bắt đầu từ những ký tự khoa đẩu có trong các sách liên quan đến chữ quốc ngữ của các giáo sĩ truyền giáo phương Tây đã viết từ những thế kỷ XV. Từ đó dẫn tới mối liên hệ với các văn tự khoa đẩu còn lưu truyền trong dân gian. Thí dụ như cuốn "Thanh Hóa quan phong" của tổng đốc Vương Duy Trinh viết vào khoảng thập niên đầu của thế kỷ trước (1903), trong đó có bài "Mời Trầu" là một tập quán của người Việt cổ , hoàn toàn viết bằng chữ Khoa đẩu. Ông cũng phát hiện rất nhiều ký tự khoa đẩu còn tồn tại trong buổi đầu kiết tập chữ quốc ngữ của các giáo sĩ phương Tây ký âm bằng chữ Latin trong các bản văn của họ. Tất nhiên trong qúa trình.nghiên cứu tìm tòi, ông Xuyền có so sánh với chữ Thái cổ. Và chính vì vậy ông Xuyền mới phát hiện sự sai biệt giữa chữ Thái cổ và chữ Việt cổ mắc dù có rất nhiều điểm tương đồng. Đó cũng là nguyên nhân để ông Xuyền xác định rằng: Chữ Việt cổ với sự ký âm tương tự chữ Latin và là tiền đề cho việc chuyển đổi ký tự khoa đẩu của người Việt cổ sang chữ Latin. Và dân tộc Việt là dân tộc duy nhất latin hóa chữ viết của mình mà hầu hết các dân tộc khác ở Đông Nam Á không thực hiện được - ít ra cho đến ngày hôm nay. Bởi vậy, việc nhận xét của giáo sư Phan Huy Lê cho rằng ông Xuyền chỉ là sự bổ sung cho giáo sư Lê Trọng Khánh là một nhận xét chưa thấu đáo. Tuy nhiên tôi cũng đồng cảm với giáo sư Phan Huy Lê khi ông cho rằng: Nhưng việc tìm ra và giải mã được chữ Việt cổ là quá trình không chỉ gian khổ mà còn khắc khổ. Phải có cứ liệu khoa học và sẵn sàng nhận lấy sự thẩm định, phản biện, thậm chí phê phán của những người khác. Vâng! Đúng là nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã hết sức gian khổ với hơn 40 năm đau đáu một tấm lòng tìm về cội nguồn dân tộc khi đi tìm chữ Việt cổ. Sự thành công của ông quá xứng đáng . Đó chính "là nét bút quan trọng trong việc hoàn chỉnh bức tranh về 5.000 năm văn hiến nước ta".3 likes -
Bói Dịch
TrungNhan and 2 others liked a post in a topic by Lãn Miên
Bói Dịch Bát quái có tám quẻ là 1: KHÔN – 2: CHẤN – 3: KHẢM – 4: ĐOÀI – 5: CẤN – 6: LY – 7: TỐN – 8: CÀN Tương ứng với các ý nghĩa (như theo cổ thư) là: Địa – Lôi- Thủy - Trạch - Sơn - Hỏa - Phong – Thiên. (Tức: Đất - Sấm - Nước - Đầm - Núi - Lửa - Gió - Trời) Những từ chỉ tên của mỗi quẻ trong Bát Quái là những cái tên của Việt ngữ, Hán tự chỉ là mượn chữ có âm na ná để phiên âm mà thôi (gọi là giả tá) chứ bản thân chữ bằng Hán tự không biểu ý gì ra với cái nghĩa của âm tiết nói lên tên quẻ cả. Ví dụ 1: CẤN 艮 , Hán tự này không có biểu ý hay biểu âm gì là “sơn 山” trong Hán ngữ cả; “Cấn” là một âm tiết Việt ngữ, nghĩa là “Núi”, trong cái nôi khái niệm: Núi=Non=Hòn=Cồn=Cấn=San=Sơn. Ví dụ 2: LY 离, Hán tự này không có biểu ý hay biểu âm gì là “hỏa 火” trong Hán ngữ cả, mà “ly 离” lại có nghĩa là “rời” trong Hán ngữ; “Ly” là một âm tiết Việt ngữ, nghĩa là “Lửa”, trong cái nôi khái niệm: Tá=Lả=Lửa=Ly. V.v. và v.v. (những ý nghĩa như cổ thư ghi trên chỉ mang tính chất đại diện, chứ không thật sự là những kẻ cụ thể : Đất - Sấm - Nước - Đầm - Núi - Lửa - Gió - Trời) Khái niệm Âm Dương là có xuất xứ từ khái niệm của người Việt. Khái niệm này trong toán học là số học nhị phân ( số 0 tương đương Âm, số 1 tương đương Dương). Người xưa xếp chồng hai quẻ của Bát Quái lại với nhau thì thành ra một quẻ Dịch, nên tên gọi mỗi quẻ Dịch đó là bằng tên của hai quái chồng lên nhau ( ví dụ lấy quái Khôn chồng lên quái Khôn thì thành một quẻ Dịch có tên là “Khôn Khôn” hay gọi là “Thuần Khôn”). Như vậy mỗi quẻ Dịch có 6 hàng vạch, gọi là 6 hào, đếm thứ tự từ dưới lên trên. Sáu hào này chính là 6 giá trị của ba “bit” thông tin (mỗi “bít” thông tin có hai giá trị xác suất, hoặc là 0 hoặc là 1). Ba “bit” thông tin thì sẽ cho ra được 64 “tổ hợp thông tin” hay gọi là 64 “thông điệp”. Bởi vậy mà mỗi quẻ Dịch gồm 6 hào là có chứa đựng một thông điệp nhất định. Sự thay đổi giá trị của mỗi hào (đang giá trị 0 đổi thành giá trị 1, hay đang giá trị 1 đổi thành giá trị 0) của một quẻ Dịch cụ thể, sẽ làm thay đổi nội dung của “thông điệp” tức nội dung, đồng thời cả tên gọi của chính quẻ Dịch đó. Nội dung cụ thể mỗi thông điệp ấy là gì thì thật là muôn hình vạn trạng, tùy theo nó được vận dụng ứng với cảnh cụ thể nào. Bởi vậy người xưa mới vận dụng tư duy để mà “bói”, “bốc”, “đoán”, “giải”, “suy”, “diễn” v.v. Theo hào, thì đếm hào từ dưới lên trên, còn theo số học nhị phân thì hào chính là giá trị của bit, và đếm từ phải sang trái như thứ tự giá trị bít khi đưa vào bộ ghi của máy tính. Để dễ nhớ tên của quẻ Dịch như cổ thư đã đặt tên, thì xếp lại thứ tự các quẻ Dịch như thứ tự đếm hệ số nhị phân ba bít từ 0 đến 63 là được 64 thông điệp( tức từ 0 0 0 0 0 0 tương ứng quẻ KHÔN KHÔN, đến 1 1 1 1 1 1 tương ứng quẻ CÀN CÀN). Nội dung của mỗi quẻ Dịch (theo cổ thư đã “giải”, mà trường hợp lấy riêng chỉ ứng với “sức khỏe” và ứng với “hành vi” thôi – là hai vế của câu “bát” sau tên quẻ là câu “lục”) thì sẽ có nội dung thuộc tên từng quẻ Dịch là như dưới đây: KHÔN KHÔN là quẻ “Thuần KHÔN”: ( 0 0 0 0 0 0 ) Sinh nở an toàn; nhẫn nhịn gặp may. CHẤN KHÔN - “LÔI ĐỊA Phục” đây: ( 0 0 0 0 0 1 ) Tai qua nạn khỏi; dịp này hồi sinh. KHẢM KHÔN - quẻ “ĐỊA THỦY Sư”: Đề phòng tai nạn; kiện thì thua thâm ĐOÀI KHÔN - quẻ “ĐỊA TRẠCH Lâm”: Đẻ xong săn sóc; huề đồng dưới trên. CẤN KHÔN - quẻ “ĐỊA SƠN Khiêm”: Coi chừng sinh dục; nhún nhường thì vui. LY KHÔN - “ĐỊA HỎA Minh Di”: Coi chừng nguy hiểm, chờ thì mới an. TỐN KHÔN - quẻ “ĐỊA PHONG Thăng”: Đề phòng bệnh dịch; dụng bằng tài hơn. CÀN KHÔN - quẻ “Thái ĐỊA THIÊN” : Bệnh nhẹ chẳng đáng; khiêm nhường tiến hay. KHÔN CHẤN – “LÔI ĐỊA Dự” đây: Bình yên mạnh khỏe, việc ngày ngày thông. CHẤN CHẤN - “Thuần CHẤN” quẻ mong: Sức khỏe đều ổn; tranh giành vươn lên. KHẢM CHẤN: - “LÔI THỦY Giải” tuyên: Bình yên vô sự; lo phiền hết thôi. ĐOÀI CHẤN - “Qui Muội TRẠCH LÔI”: Bệnh tái rồi khỏi; lôi thôi đàn bà. CẤN CHẤN - “LÔI SƠN Tiểu Qua”: Lơ chăm bệnh kéo; dễ lòa vì ham LY CHẤN - quẻ “LÔI HỎA Phong”: Bệnh nhẹ kéo mãi; nghiêm làm thành công. TỐN CHẤN - quẻ “LÔI PHONG Hằng”: Coi chừng huyết áp; hãy đừng đổi thêm. CÀN CHẤN - “Địa Tráng LÔI THIÊN”: Coi chừng tim mạch; thuận liền chớ kiêu. KHÔN KHẢM - “THỦY ĐỊA Tỷ” nêu: Ngừa da viêm nhiễm; chọn điều chung tay. CHẤN KHẢM - “THỦY LÔI Truân” đây: Hỏa hoạn, mất ngủ; chờ ngày qua nan. KHẢM KHẢM - “Thuần KHẢM” quẻ van: Đề phòng tai nạn; gian nan kiên trì. ĐOÀI KHẢM - “THỦY TRẠCH Tiết” đi: Thận và tiêu hóa; chậm khi mắc lầy. CẤN KHẢM - “SƠN THỦY Kiển” đây: Coi chừng bệnh nặng; bị vây, Nam về. LY KHẢM - “THỦY HỎA Ký Tề”: Đề phòng sinh lý; cũ thì giữ nguyên. TỐN KHẢM - “THỦY PHONG Tỉnh” tuyên: Bệnh cũ tái phát; coi chừng bại vong. CÀN KHẢM - “THIÊN THỦY Nhu” mong: Coi chừng bài tiết; chờ hòng thời cơ. KHÔN ĐOÀI - “TRẠCH ĐỊA Tùy” dò: Dồi dào sức khỏe; bàn cho công thành. CHẤN ĐOÀI - “LÔI TRẠCH Tùy” thanh: Thận trọng nội tạng; vui hành động lên. KHẢM ĐOÀI - “TRẠCH THỦY Khốn” khuyên: Cẩn thận ăn uống; giữ niềm mê say. ĐOÀI ĐOÀI là quẻ “Thuần ĐOÀI”: Tránh ham tình dục; đối người thành tâm. CẤN ĐOÀI - quẻ “TRẠCH SƠN Hàm”: Coi chừng mệt mỏi; nhà làm ấm êm. LY ĐOÀI - “TRẠCH HỎA Cách” răn: Coi chừng bệnh cũ; dài ngày đổi ra. TỐN ĐOÀI - “PHONG TRẠCH Đại Qua”: Coi chừng suy nhược; vững mà đơn côi. CÀN ĐOÀI - “THIÊN TRẠCH Quải” lời: Bệnh tình lặt vặt; kiêu thời lâm nguy. KHÔN CẤN - “SƠN ĐỊA Bác” đi: Có bệnh tình dục; đến thì thoái suy. CHẤN CẤN – quẻ “SƠN LÔI Di”: Bệnh do ăn uống; khó vì nuôi ăn. KHẢM CẤN – quẻ “SƠN THỦY Mông”: Ưu phiền lo lắng; hãy nâng tầm nhìn. ĐOÀI CẤN - “SƠN TRẠCH Tổn” tuyên: Hao tổn thể lực; được đền mai sau. CẤN CẤN - “Thuần CẤN” quẻ nêu: Đau nhức mình mẩy; im, chiều thời cơ. LY CẤN - “SƠN HỎA Bí” dò: Coi chừng nóng sốt; thiệt do mê ngoài. TỐN CẤN - “SƠN PHONG Cổ” lời: Coi chừng phẫu thuật; ngã rồi xông lên. CÀN CẤN - “Đại Súc THIÊN SƠN”: Coi chừng kiệt sức; chờ tiềm năng lên. KHÔN LY - “HỎA ĐỊA Tấn” khuyên: Thận trọng bệnh nhẹ; trí hiền sục sôi. CHẤN LY - “Phệ Hạp HỎA LÔI”: Thần kinh bảo trọng; kịp thời xử đi. KHẢM LY - “THỦY HỎA Vị Tề”: Bệnh dần dần khỏi; lại về tương lai. ĐOÀI LY - “HỎA TRẠCH Khuê” nài: Bệnh dài khó chịu; trở xoay bất đồng. CẤN LY - “SƠN HỎA Lữ” mong: Bệnh tình nghiêm trọng; vẫn trong tạm thời. LY LY - “Thuần LY” quẻ lời: Sức khỏe suy sụp; gặp thời vận may. TỐN LY - “Đỉnh HỎA PHONG” này: Thận trọng nóng lạnh; sức nay đang tràn. CÀN LY - “Đại Hữu HỎA THIÊN”: Gặp bệnh chữa gấp; rộng liền thành công. KHÔN TỐN - “PHONG ĐỊA Quán” mong: Coi chừng tai nạn; khoan dung thi hành. CHẤN TỐN - quẻ “Ích LÔI PHONG”: Bệnh kéo dai dẳng; thiện hành thành công. KHẢM TỐN - “PHONG THỦY Hoán” mong: Phòng ngừa nội bệnh; khó khăn rút dù. ĐOÀI TỐN - “PHONG TRẠCH Trung Phu”: Bệnh nhẹ thành nặng; êm ru trong ngoài. CẤN TỐN - “PHONG SƠN Tiệm” nài: Chậm chữa nguy hiểm; dẻo dai mà làm. LY TỐN - “PHONG HỎA Gia Nhân”: Mệt mỏi bất lực; dưới trên thuận hòa. TỐN TỐN - “Thuần TỐN” quẻ ra: Bệnh tình qua khỏi; giúp ta người hiền CÀN TỐN - “Tiểu Súc PHONG THIÊN”: Tránh làm quá sức; giữ kiên chờ thời. KHÔN CÀN - “THIÊN ĐỊA Bĩ” nài: Tim mạch, bài tiết; tắc thời, im hơi. CHẤN CÀN - “Vô Vọng THIÊN LÔI”: Bất ngờ, mất ngủ; loạn thời, hãy im. KHẢM CÀN - “THIÊN THỦY Tụng” tuyên: Phong thấp cảm lạnh; coi chừng chấp tranh ĐOÀI CÀN - “THIÊN TRẠCH Lý” xưng: Hô hấp, tình dục; hợp tình thực thi. CẤN CÀN - “THIÊN SƠN Độn” thì: Sức khỏe xuống dốc; trốn đi thì lành. LY CÀN - “THIÊN HỎA Đồng Nhân”: Coi chừng viêm nhiễm; đồng tâm thì thành. TỐN CÀN - quẻ “Cấu THIÊN PHONG”: Đề phòng táo bón; nhỏ thành xé to. CÀN CÀN - “Thuần CÀN” quẻ ra: Thần kinh căng thẳng; dương, Ta và Trời. Tuy nhiên những ý nghĩa Địa - Lôi - Thủy - Trạch - Sơn - Hỏa - Phong - Thiên tương ứng Bát Quái như cổ thư ghi trên, chỉ mang tính chất đại diện, chứ không thật sự là những kẻ cụ thể : Đất - Sấm - Nước - Đầm - Núi - Lửa - Gió - Trời. Ví dụ, khi xét về tương tác nhân sự trong một Doanh Nghiệp thì tôi có thể dùng các đại diện khác: CÀN = Chủ DN, KHÔN = Công đoàn, TỐN = tư, CHẤN = Bảo vệ, CẤN = Tài vụ, KHẢM = Y tá, ĐOÀI = Cấp dưỡng, LY = Công nhân. Và thấy nội dung của quẻ tương ứng với chức năng của thành phần nhân sự cụ thể trong DN, cũng tương tự như nội dung của quẻ mà cổ thư đã giải ở trên: CÀN CÀN – “Thuần CÀN” quẻ ra Thần kinh căng thẳng; Dương, Ta với Trời: Ông Chủ lo lắng mọi thời Đêm nằm nghĩ việc, đi chơi vẫn làm Như Cá trong Nước thì ham Cá càng nhiều Nước càng tham hóa Rồng. KHÔN KHÔN là quẻ “Thuần KHÔN” Sinh nở an toàn; nhẫn nhịn gặp may: Công đoàn chính tổ chức này Luôn tìm đồng thuận, Luật đây an toàn CÀN-KHÔN: Ông Chủ-Công đoàn Dương-Âm mà hợp, chu toàn mọi niên: CÀN KHÔN- quẻ “Thái ĐỊA THIÊN” Xung đột chẳng đáng; Khiêm nhường tiến chung. TỐN TỐN – Vật tư đảm đang Mua, bán giữ tín, người hiền giúp cho: TỐN TỐN - “Thuần TỐN” quẻ ra Bệnh tình qua khỏi; giúp ta người hiền. CHẤN CHẤN – Bảo vệ sẵn sàng Sức khỏe thật tốt, tranh giành cứu nguy: CHẤN CHẤN - “Thuần CHẤN” quẻ suy: Sức khỏe đều ổn; tranh vì vươn lên. CẤN CẤN - Tài vụ giữ im Đau đầu tài chính, sáng tìm tương lai: CẤN CẤN - “Thuần CẤN” quẻ nêu Đau nhức mình mẩy; im, chiều thời cơ. KHẢM KHẢM - Y tá phải lo Chăm sóc sức khỏe, giữ cho an toàn: KHẢM KHẢM - “Thuần KHẢM” quẻ van: Đề phòng tai nạn; gian nan kiên trì. ĐOÀI ĐOÀI - Cấp dưỡng chi ly Nuôi quân, tránh độc, sức thì hơn ai: ĐOÀI ĐOÀI là quẻ “Thuần ĐOÀI” Tránh ham tình dục; đối người thành tâm. LY LY- đông đảo Công Nhân Nhiệt tình ngọn lửa, làm hăng hàng ngày: LY LY - “Thuần LY” quẻ lời: Đừng làm quá sức; gặp thời vận may Công nhân LY giỏi, hăng say Doanh nghiệp phát đạt, ngày ngày tiến lên.3 likes -
Phát Hiện Chữ Việt Cổ ?
thanhdc and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Kính thưa quí vị học giả và anh chị em quan tâm. Có thể nói rằng: Ngay từ thời gian đầu tiên khi nnc Đỗ Văn Xuyền công bố công trình nghiên cứu về chữ Việt cổ tôi đã hân hạnh được nghe các buổi thuyết trình của ông. Ông rất hào hứng và sẵn sàng chia sẻ trình bày với chỉ vài ba người nghe. Tôi nhiều lần được nghe những buổi thuyết trình của ông như vậy. Cho nên, có thể nói rằng tôi hiểu phương pháp chứng minh của ông. Bởi vậy sự xác định của tôi không phải hồ đồ và vội vã chỉ trong một buổi hội thảo này. Mà là đã tìm hiểu rất nhiều tài liệu mà ông Xuyền đã trao tặng tôi và các vấn đề liên quan từ vài năm trước. Do đó, tôi đã tổng hợp tất cả hệ thống những luận cứ của ông Xuyền và nhận thấy tính hợp lý xuyên suốt của hệ thống đó - mà có thể chính ông Xuyền trong qúa trình nghiên cứu chỉ cảm nhận mà chưa hệ thống hóa được. Đã có người đặt vấn đề: Hệ thống chữ viết của ông Xuyền thực chất là chữ Khoa Đẩu của người Thái - Mường; hoặc Tày Mường. Thậm chí có người còn dẫn chứng một tấm bia của vua Thái Lan vào thế kỷ XII có những ký tự giống hệt chữ khoa đẩu của ông Xuyền.....vv.....Nhưng tôi xác định với quí vị rằng: Tất cả những bằng chứng đó không đủ sức bác bỏ hệ thống chữ khoa đẩu của ông Xuyền không phải hệ thống chữ Việt cổ. Nếu quả thật các quí vị từ các cấp hành chính , các nhà nghiên cứu quan tâm đến hệ thống chữ Việt cổ - là một trong những yếu tố quan trọng làm sáng tỏ cội nguồn dân tộc - thì chúng ta có thể tổ chức một cuộc hội thảo nghiêm túc về vấn đề này. Hoặc các vị có thể trao đổi các bài viết của mình ở đây - chuyên mục do Thế Trung phụ trách. Chuyên mục này được mở theo yêu cầu của Thế Trung và anh ấy chịu trách nhiệm quản lý chỉ với lý do: Quyền xóa bài hay không thuộc về anh ấy chứ không phải tôi (Tất nhiên ngoại trừ vi phạm nghiêm trọng nội quy của diễn đàn và sau đó phải được sự đồng ý của anh Thế Trung). Bởi vậy, quí vị và anh chị em có thể thoái mái trao đổi. Nếu có thể xưng danh tên tuổi, học vị và số DT càng tốt. Xin cảm ơn quí vị quan tâm. ====================== PS: Anh Thế Trung sẽ đưa toàn bộ hệ thống luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền vào chuyên đề này, để quí vị và anh chị em quan tâm có thể trao đổi.2 likes -
Xuka thấy trên diễn đàn mình chưa có chủ đề này nên post lên cho các bác tham khảo. Xuka may mắn được gặp thầy Võ Hoàng Yên 5 lần, được thầy chữa bệnh và chứng kiến thầy chữa bại liệt, tai biến, câm điếc rất hiệu quả. Đài VTV1, Bình Phước đã làm phóng sự về thầy: http://www.vohoangye...-hinh-binh.html Các anh chị có thể tìm thêm thông tin về thầy trên Google. Với tất cả lòng kính trọng của Xuka dành cho thầy, Xu post thông tin này lên để các anh chị nghiên kiu' ,có niềm tin, niềm hi vọng để gia đình, bạn bè, người thân mình có bệnh thì còn có cơ hội lành lặn, hòa nhập lại với cuộc sống như 1 người bình thường. Còn việc gặp thầy thì hơi khó, đành tùy duyên vậy!1 like
-
Vợ chồng hợp tuổi, Thiên hợp địa hợp nên bách niên giai lão. Vợ yêu chồng. Sinh con đầu làm ăn bắt đầu khấm khá nhưng cha vất vả hơn. Sinh thêm 1 con năm nay nữa thì thật tuyệt, vẫn còn cơ hội sinh năm nay đấy. Nếu không kịp thì sinh năm sau cũng tốt nhưng không bằng. Vợ chồng cùng kinh doanh ngành nghề liên quan đến Hỏa thì tốt, chồng đứng tên. Thân.1 like
-
Cha bạn có chức vụ khá ? Từ năm 24 tuổi đến nay, bạn kinh doah rất tốt? Bạn có nhiều con, con ngoan và thông minh. Chồng có chức vụ hoặc giàu có nhưng khá cứng tính. Thuộc Hỏa thì có thể làm cao su, xăng dầu, cắt tóc, nail, đồ trang trí, trang sức, hóa chất, rượu, cửa hàng ăn, các chất dễ cháy... Nếu vận không tốt thì phải là chồng đứng tên cơ sở (nếu chồng đang gặp thời vận tốt), mình chỉ điều hành nhưng chồng phải hay lui tới cơ sở kinh doanh để mang vận tốt đến. Nhờ bạn tiếp tục phản hồi thông tin.1 like
-
Thân Bính Hỏa sinh tháng Hợi không được lệnh, không đắc địa nhưng được sinh được trợ giúp, cuối cùng thân vẫn nhược. Sinh ra trong gia đình giàu có, cha mẹ có vị trí khá. Cha nghiêm khắc hơn mẹ, được nhờ mẹ nhiều hơn, ít anh chị em. Khả năng thuyết trình, viết văn khá tốt. Quan vượng, Tài nhược rất phù hợp làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước, sẽ có chức vụ, không nên kinh doanh buôn bán, Tuy nhiên, do các vận từ trước đến nay là các vận tốt nên vẫn khấm khá. Từ 33 trở về sau, kinh doanh rất khó khăn. Quan sát hỗn tạp nên có nhiều người khác phái theo đuổi, ngay cả khi đã có gia đình. Phù hợp với các lĩnh vực thuộc Hỏa, Mộc, màu đỏ, xanh lá cây. Đề nghị bạn phản hồi thông tin đã nêu.1 like
-
Hôm nay nhóm bệnh nhân gồm những chứng : Gai đốt sống cổ, thoát dĩa vị đệm, tai biến, vôi hóa đốt sống lưng đã đến điểm chữa bệnh của đệ tử Lương y Võ Hoàng Yên tại tp HCM để được điều trị ...hiệu quả thật bất ngờ! Cá nhân Wild sau khi được bấm khai thông huyệt đạo, bấm day huyệt ở đốt sống cổ số 4, 6 đã quay về phía trái phải cúi xuống và ngửa về phía sau thật dễ dàng. Sau khi cám ơn đoàn chữa bệnh (từ thiện) bởi hoàn toàn miễn phí! Wild đã trao đổi và được biết nếu còn nhiếu bệnh nhân có nhu cầu chữa trị, đoàn sẽ lưu lại thêm thời gian ở đây để tiếp tục phục vụ vào mỗi sáng chủ nhật. ACE có thân nhân bạn bè vướng các bệnh trên có thể tập trung tại Vp Trung Tâm vào sáng chủ nhật sẽ được hướng dẫn tiếp. Bài viết này nhằm chứng minh phương pháp của Thầy Yên trên cả tuyệt vời, không có tác dụng phụ và hoàn toàn nhân đạo!1 like
-
Cấc bạn phải đợi khóa mới thôi vì lớp đã đi được 1/2 chương trình rồi!1 like
-
Cách song nguyên chỉ tốt khi mạng con hợp mẹ, dù sao đây cũng là điều kiện cần và không thể bỏ qua khi chọn năm sinh. Như gia đình lớn của bạn đúng cách đối xưng qua trục Tung của địa bàn 12 địa chi, với 1 bên là Ngọ/Mão đối xứng với Mùi/Tuất, lại thêm con Đinh mão mạng Thủy được mẹ Ất Mùi mạng Kim sinh cho, nên ngay từ khi có bầu thì nhà đã phát và phát cho đến bây giờ. Với trường hợp tuổi Nhâm tuất, mới sinh 1 bé Tân Mão, nếu sinh liên tiếp 2 năm Ngọ 2014 và Mùi 2015 mới tạo song nguyên, nhưng song nguyên này chỉ phát lúc đầu, về sau không phát nữa do mạng mẹ khắc con. Trong trong hợp sinh 1 con trong 1 hoặc 2 năm trên thì ko tạo song nguyên. Nhưng đã mạng con không hợp mẹ thì tốt nhất không sinh, nếu là con út! Nên sinh Kỷ Hợi 2019 hoặc Canh Tý 2020 thì tốt hơn. Thân mến,1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like