-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 04/05/2012 in Bài viết
-
Hội Thảo Khoa Học
longphibaccai and 3 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
GẶP MẶT ĐÊM TRƯỚC HỘI THẢO. Khoảng 19g 30 tối hôm qua, Xe của ban tổ chức đã đưa nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền từ Phú Thọ về tới Hanoi. Tại nhà hàng 14 Ngô Văn Sở ban tổ chức và một số nhân sĩ đã có mặt đón tiếp nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Giáo sư Chu Hảo, Giám đốc Nxb Tri Thức do công tác đã lên lịch từ trước nên sẽ không có mặt tại Hội thảo, nhưng đại diện của Nxbv Tri Thức, đơn vị đồng tổ chức sẽ tham gia. Mọi người rất vui vẻ và có nhiều hy vọng vào một tương lai phục hồi phát triển nến văn hiến Việt. Nhưng cũng nhiều suy tư về những chặng đường tiếp theo trong sự nghiệp vinh danh nền văn hiến Việt và những vấn đề của ngày hôm sau. Toàn cảnh cuộc hội ngộ. Ngồi đối diện và giữa hình ảnh là nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Can, Giám đốc TTNC Văn hóa Việt. Cơ quan trực thuộc hội Người Cao Tuổi. Bên trái ông là giáo sư Nguyễn Mai giám đốc TT Minh Triết Việt, Nhà nghiên cứu chữ Việt cổ Đỗ văn Xuyền; dãy bên phải là các anh: Khánh, Hòa, Lưu - những tri thức Việt kiều sẽ tham dự hội thảo và Thế Trung. Các vị Tiến sĩ Hòa, Lưu với Thế Trung và Hoàng Dung - thư ký văn phóng Trung Tâm tại Hanoi. Khi tôi đến nơi thì mọi người đã có mặt đông đủ. giáo sư Mai nói về những điều cần quan tâm về tổ chức hội thảo với bản chất minh triết Việt. Một kỷ niệm ngày hội ngộ với cố nhân. Thiên Sứ với nhà văn, nhà nghiên cứu chữ Việt cổ Khánh Hoài Đỗ văn Xuyền. Trong buổi gặp mặt nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Can đã đề nghị ông Đỗ Văn Xuyền tóm tắt nội dung và những điểm nhấn cần quan tâm trong buối thuyết trình hôm sau. Có thể nói rằng: Cá nhân tôi hết sức khâm phục sự kiên trì, nhẫn nại và vượt lên trên muôn vàn khó khăn của nhà nghiên cứu Đỗ văn Xuyền với công trình Chữ Việt cổ của ông. Tôi có thể xác định rằng: Ông đã thành công với mục đích của mình một cách xuất sắc. Nhưng ông đã phải trả một gía đắt cho cá nhân ông: Hơn 40 năm lăn lóc nghiên cứu chữ Việt cổ ông đã giành gần hết cuộc đời mình vào đấy. Để có kinh phí nghiên cứu ông đã phải cầm cố nhà cửa và con cháu ông có người phải bỏ dở sự nghiệp để kiếm sống vì ông không giúp gì được họ. Tôi ứa nước mắt khi gặp lại một con người hết mình vì sự nghiệp phục hồi một mảng văn hóa quan trọng trong lịch sử dân tộc với bộ quần áo cũ mà ông đang mặc. Sức khỏe ông yếu đi nhiều bởi những cơn bệnh khi xuyên rừng lên các bản làng tìm hiểu về chữ Việt cổ. Với tôi, ông rất đáng kính hơn nhiều so với những dự án hoành tráng các loại. Tôi hy vọng sẽ giúp gì được cho ông. Ngay sau khi nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền trình bày tóm tắt những ý chính mà ông sẽ thuyết trình tại hội thảo thì những ý kiến đóng góp làm sáng tỏ vấn đề đã được đặt ra. Tiến sĩ Nguyễn Khánh - trước khi nghỉ hưu, ông là công chức cao cấp của hãng máy bay nổi tiếng Boeing.... Có những luận cứ không kém phần sâu sắc và rất đáng chú ý của Tiến sĩ Lưu Hoa Kỳ. Giáo sư Nguyễn Mai với những nhận xét của riêng ông. Nhưng với nhận xét của cá nhân tôi thì có thể xác định ngay rằng: Hệ thống những luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền hoàn toàn đúng đắn. Tôi đã ủng hộ ông ngày từ buổi thuyết trình đầu tiên của ông cách đây nhiều năm trước và ngày càng củng cố sự nhận xét của tôi trong qúa trình nghiên cứu của ông từ nhiều năm qua. Tôi sẽ bên cạnh ông trước những cuộc tranh luận về chữ Việt cổ. Ông Xuyền và cả chúng tôi hy vọng vào buổi seminar ngày mai sẽ là sự khởi đầu quan trọng cho sự vinh danh nền văn hiến Việt.4 likes -
Phép Lạ Và Sự Giầu Có
nhakhanh and 2 others liked a post in a topic by wildlavender
Phép Lạ Và Sự Giầu Có Năm nay, thời tiết chớm hạ dường như nhiều bất thường. Có ngày chợt rét buốt, rồi lại tầm tã mưa. Mưa vừa dứt thì mặt trời đã chói chang nắng gắt. Tứ đại con người không điều chỉnh kịp với đất trời nên thời gian này, huynh đệ chúng tôi đi thăm bệnh hơi nhiều! Cứ hết bệnh viện này, lai nhà dưỡng lão kia và không ít trường hợp nguy kịch để dừng chặng cuối là nhà quàn, là nghĩa trang! Đôi lần, đứng hộ niệm bên giường bệnh của những bệnh nhân nằm hôn mê, bất động nhiều ngày, chứng kiến những ánh mắt xót thương, chăm chú, chờ đợi một dấu hiệu nhỏ nhoi của sự sống nơi người bệnh, tôi bỗng nhận thức rõ hơn về phép lạ và sự giầu có. Thậm chí, chỉ cần thấy bệnh nhân nhúc nhích một ngón tay, chớp nhẹ một viền mắt thôi, đối với thân nhân đang vây quanh, cũng là phép lạ nhiệm mầu mà họ hồi hộp mong đợi. Điều đó nói lên cái chi? Đó là những giá trị cụ thể tuyệt vời, lại thường không được cảm nhận đúng mức. Hầu hết những ai còn khỏe mạnh đều đang có phép lạ vô song mà thường không nhận biết. Đúng thế. Vì chẳng phải chỉ nhúc nhích ngón tay, chớp nhẹ viền mắt, mà khi còn sức khỏe, muốn đi hướng đông thì sẽ tới đông, muốn đi hướng tây thì sẽ tới tây, muốn ăn món ngon nào thì tới tiệm nấu món đó, muốn gặp bằng hữu phương trời nào, thì gọi nhau, cùng thu xếp là hội ngộ, v.v… Đối với những người đang quằn quại đau đớn, hay đang nằm bất động chờ thần chết kia, chẳng phải là những phép lạ phi thường chúng ta hiện có, lại coi rẻ, coi thường ư?! Chờ khi tử thần tới mới biết là phép lạ, e có trễ quá không? Đức Đạt Lai Lạt Ma từng nói, điều làm Ngài ngạc nhiên nhất ở nhân loại, là con người. Khi con người còn trẻ trung, khỏe mạnh, họ thường dồn hết thì giờ và sức khỏe để kiếm tiền. Đến khi già yếu, bệnh hoạn, họ lại gom góp hết của cải tiền bạc để mong có sức khỏe! Con người thường quá lo lắng tương lai mà quên mất hiện tại, cho nên họ luôn vật vờ giữa mộng và thực. Họ sống như không bao giờ bệnh, không bao giờ chết, cho tới khi thấp thoáng thấy cái chết mới biết là mình chưa từng sống! Ai bình tâm đôi chút cũng có thể biết ngay, là tiền bạc không mua được sức khỏe, không níu kéo được sự sống. Quyền uy ngất trời, châu báu đầy kho, khi cần, cũng không đổi được một hơi thở! Vậy mà, khi còn có sức khỏe, ít ai nhận thức là mình đang rất giầu có. Người Xentơ có một câu ngạn ngữ rất hay “Không có túi đựng tiền trong tấm vải liệm! Chúng ta có vụng về để trôi bao hạnh phúc của phép lạ và sự giầu có thường hiện hữu ngay trong tay mình không? Bước được một bước an lạc, thảnh thơi, thở được một hơi thở điều hòa, chánh niệm, nghe được tiếng chim hót buổi sáng, thấy được chiếc lá rơi buổi chiều, chẳng là phép lạ và giầu có ngay phút này ư? Vậy mà chúng ta không trân quý, để chỉ cần biết đủ, mà dành phần nào thời gian, không gian cho đời sống tâm linh. Cây cỏ không chỉ có nắng gió là tăng trưởng tốt đẹp, mà còn cần sự chăm sóc của người làm vườn thì hoa kia mới kết nụ, cành kia mới đâm chồi. Nếu thân tứ đại chỉ được nuôi dưỡng bằng ăn, ngủ, thì khác chi bóng ma di động. Khi ta còn thời gian, còn sức khỏe, ấy là khi ta đang có những yếu tố quý giá để phương tiện bồi dưỡng đời sống tâm linh. Chỉ nhìn một góc cạnh trong việc tu trì và học đạo thôi, nếu tự thành thật với bản thân một chút, ta cũng thấy ngay là ta quá giải đãi. Thử mở dăm trang kinh, chẳng hạn, kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Hóa Thành Dụ. Khi Đức Phật Đại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời cầu khẩn của đại chúng mà chuyển pháp luân, giảng về 12 nhân duyên thì ngay tại pháp hội đó đã có sáu trăm muôn ức người, nhờ nghe pháp mà tâm được giải thoát, thiền định được sâu dày. Cũng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sau khi Đức Phật nói phẩm Phổ Môn, trong chúng có bốn muôn tám nghìn chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; Hay sau khi Đức Phật nói phẩm Đà La Ni, có sáu muôn tám nghìn người chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn; Rồi khi Đức Phật vừa nói dứt phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự, trong pháp hội có tám muôn bốn nghìn người, xa trần lụy, rời cấu nhiễm, chứng được Pháp Nhãn Tịnh. Ngay như thính chúng khác môn phái, tới nghe Phật thuyết bằng sự nghiêm túc, cũng đạt ngay lợi lạc. Kinh Tương Ưng Bộ, ghi lại bài pháp tại làng Sirajpur, Đức Thế Tôn đã tùy thuận giảng pháp cho một ngàn vị tu sỹ tu theo môn phái thờ Thần Lửa. Ngài đã dùng chính hình ảnh lửa để dạy về sự thiêu dụi khốc liệt của tam độc tham, sân, si. Những tu sỹ thờ Thần Lửa được soi sáng rằng, ba độc hại này mới chính là những ngọn lửa mãnh liệt đốt cháy ta mau chóng, nếu ta không điều phục được sáu căn mà xả ly cảm thọ. Sau khi Đức Thế Tôn giảng Kinh Lửa Cháy, toàn thể thính chúng đã thoát khỏi các lậu hoặc, đắc quả A La Hán. Suốt mọi kinh điển lưu lại, hầu như sau mỗi bài pháp Đức Thế Tôn thuyết giảng, đại chúng đều tùy căn cơ mà được độ thoát, dù là Bồ Tát, Thanh Văn, Ưu bà tắc hay Ưu bà di. Ngày nay, chúng ta có sẵn quá nhiều phương tiện. Đạo tràng không hiếm, giảng sư không thiếu, lại còn nơi này thỉnh mời Thầy ở nơi kia tới, để gieo duyên cho Phật tử. Nào đã hết đâu, với kỹ thuật hiện nay, sách báo và băng đĩa ghi lại lời trùng tuyên giáo pháp tràn ngập khắp các chốn thiền môn! Nếu chỉ nhìn hoạt cảnh bên ngoài, thì nào phải thời mạt pháp, mà dường như Phật pháp đang hưng thịnh. Chùa nào cũng đông Phật tử, băng đĩa in ra bao nhiêu cũng được thỉnh hết, gây quỹ làm chùa to tượng lớn cỡ nào cũng được cúng dường đủ …. Nhưng thực tế, mấy ai vực dậy được Tánh Phật của mình để là đóa sen vô ngại vươn lên trong ao bùn? mấy ai phá được ngã chấp và ngã sở để là một hành giả thong dong tự tại? nói chi tới nghe pháp mà chứng đắc như người xưa! Vậy, chẳng phải do vì chúng ta giải đãi ư? Người xưa tìm đến nơi Phật thuyết là đến bằng tâm chí thành, khẩn thiết. Đến vì tâm linh đói khát. Đến vì tin tưởng Đức Phật có đủ dược liệu trị khổ đau. Đến như kẻ đứng bên bờ sinh tử, phải đến để tồn tại.Còn chúng ta, đến chùa có nhiều phần chỉ đến vì thói quen không? Đến để gặp thầy, gặp bạn. Đến để hòa mình vào những sinh hoạt định kỳ, đã quen thuộc. Nên không đến thì nhớ! Người xưa, ngồi nghe pháp, chắc không chỉ nghe bằng nhĩ căn, mà có lẽ bằng toàn trí, toàn thân, nên mới không bỏ sót một lời nào từ kim khẩu Đức Thế Tôn. Phải như vậy thì sau mỗi bài pháp mới có hàng ngàn người chứng đắc. Còn chúng ta, ngồi nghe pháp trong đạo tràng mà phone reo là vội vã trả lời; phone không reo thì tâm trí cũng mơ màng ngoại cảnh. Chẳng thế, sau bài pháp, nếu tình cờ ai hỏi “ Thầy vừa giảng những gì?” chắc câu trả lời sẽ bâng quơ “Thầy giảng … hay lắm!” “Hay chỗ nào?” “Ơ …. Không nhớ rõ, nhưng hay lắm!” Nếu không nhớ được là thầy giảng điều gì, hay chỗ nào, thì bài pháp đó vẫn chỉ là của thầy, có giúp ta gì đâu? Hiện diện ngay tại đạo tràng, được nghe giảng trực tiếp, còn để uổng phí thế, nói chi tới nghe băng đĩa! Mở băng trên xe, nghe được bao nhiêu? Nếu là đi một mình, vừa phải chú tâm lái xe, vừa lan man những tính toán xa gần, liệu có nắm được chủ đề bài giảng không, nói chi tới những chi tiết trong đó. Nếu trên xe mà có từ hai người trở lên thì nhiều phần, mở băng Thầy nào giảng thì…. Thầy đó nghe, vì làm sao mà chúng con không chuyện trò đủ mọi đề tài trên trời dưới đất cho được! Cố gắng bàn thêm chút nữa xem có khá hơn không, đó là nghe băng ở nhà. Không gian này chắc khó có thể khoanh chân thính pháp. Thôi thì, việc nhà bề bộn quá, thầy cứ giảng, ta vừa làm, vừa nghe, tiết kiệm thì giờ. Thầy giảng Bát Nhã Tâm Kinh “ … không trong, không ngoài, không nhơ, không sạch …..” ta vừa quét nhà rửa chén, vừa cằn nhằn “Sao chúng bừa bãi, dơ dáy quá! Ngày nào cũng dọn, ngày nào cũng bầy, mệt không thở được!” Nghe như thế, thì bao giờ Bát Nhã mới trở thành Tâm Kinh? Cho nên, dù pháp có mở suốt ngày trong nhà, pháp vẫn của Phật, lời vẫn của Thầy! Băng đĩa vẫn gom về, vẫn mở rỉ rả ngày đêm mà dường như không dính dáng chi tới ta! Thính pháp như thế, chẳng những không thọ nhận được gì, mà còn là bất kính! Cứ thế, bao nhiêu kiếp nữa con mới gặp cha? (nếu chúng ta tự nhận là Phật tử) Vậy, thưa quý đạo hữu, khi phép lạ và sự giầu có đang ngay trong tầm tay, hãy tận dụng phương tiện quý giá này. Sự tìm cầu giác ngộ phải khởi từ niềm khát khao mãnh liệt, cực kỳ mạnh mẽ và nghiêm túc. Tự lực là quyết tâm tìm cầu giải thoát giác ngộ; tha lực là thân cận thiện tri thức, bạn đồng tu mà cùng nhau lên đường. Có đi mới tới. Có nguyện mới thành. Nếu không, chúng ta vẫn chỉ sống bằng “cuộc đời đang chết”. Chắc chắn thế! Làm sao khác được! Hạnh Chi (Tào Khê tịnh thất, chớm hạ 2012)3 likes -
Hội Thảo Khoa Học
TrungNhan and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
(Nguồn: http://lsvh.wordpres.../2011/02/23/82/) Văn Lang thân mến.Tôi nghĩ rằng ông Xuyền đã giải đáp điều này rất rõ ràng, hoàn chỉnh và có hệ thống với những luận cứ chặt chẽ. Nhưng tại người ta không chú ý; hoặc không quan tâm đến mối liên hệ giữa những luận cứ của ông Xuyền với hiện tượng được đặt ra. Họ cứ thắc mắc trước những hiện tượng mà họ cảm giác nó mâu thuẫn với luận điểm của ông Xuyền mà không tự lý giải từ hệ thống luận cứ của ông. Chỉ còn vài tiếng nữa hội thảo sẽ thực hiện và chúng tôi đã chuẩn bị rất kỹ với 4 camera quay không sót một chi tiết nào. Chúng tôi sẽ đưa lên đây, hoặc mở một topic mới giới thiệu đầy đủ mọi hiện tượng với những câu hỏi tranh luận. Thời gian bị hạn chế: Chỉ có 2 tiếng trong hội trường. Nhưng tôi sẽ đề nghị mọi người đặt vấn đề vào phiếu đặt câu hỏi và nếu chưa kịp trả lời thì chúng tôi sẽ trả lời trên web lyhocdongphuong.org.vn để tiếp tục cuộc tranh luận.3 likes -
Tôi sinh năm 1983, bạn trai tôi sinh năm 1979. Tôi mạng đại hải Thủy, bạn trai tôi mạng thiên thượng hỏa. Anh cung Chấn, tôi cung Đoài lấy nhau tuyệt mệnh. Hôm qua về nhà anh. Tôi bị mẹ anh nói những lời không thương tiếc. Lúc đó tôi thấy mình như một mụ phù thủy hay thần chết. Chúng tôi dự định kết hôn. Nhưng tôi ko đủ can đảm bởi người ta nói rằng chúng tôi lấy nhau thì anh sẽ chết. Nếu là tôi chết tôi sẽ chấp nhận lấy anh. Nhưng đằng này người chết lại là anh? Tôi phải làm sao? Tôi thực sự đang sống trong đau khổ và tuyệt vọng. Mọi người ai có cách hóa giải dùm tôi. Điều quan trọng nữa là tôi và anh không thể giải thích cho bố mẹ anh hiểu, vì sách và Thầy ai cũng nói thế. Tôi xin mọi người hãy giúp tôi.1 like
-
1. Tài liệu mới nhất về chữ Việt Cổ do ông Đỗ Văn Xuyền soạn thảo và cung cấp: 2. Bài phát biểu của Giám đốc trung tâm Lý Học Đông Phương Nguyễn Vũ Tuấn Anh trong hội thảo: HỘI THẢO CHỮ VIỆT CỔ BÀI PHÁT BIỂU CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNGNGUYỄN VŨ TUẤN ANH TẠI HỘI THẢO “CHỮ VIỆT CỔ” Trong nỗ lực tìm lại cội nguồn lịch sử văn hóa dân tộc Việt, thì một yếu tố vô cùng quan trọng để xác định giá trị của một nền văn minh phát triển cần phải xácđịnh rằng nền văn minh đó có chữ viết. Bởi vì: những tiên đề khoa học đã xác định rằng một nền văn minh được xác định thì nó phải có chữ viết là phương tiện duy trì sự tồn tại và phát triển của nền văn minh đó. Nhưng trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc – đây không phải là con số đọc trong 1 giây – sau đó 1000 năm hưng quốc với bao thăng trầm của lịch sử chống ngoại xâm. Những giá trị văn hóa trong đó hệ thống chữ viết cổ của dân tộc Việt đã bị chìm đắm trongbức màn thời gian dầy đặc tính bằng thiên niên kỷ đó. Bởi vậy, không chỉ chữ viết của dân tộc Việtmà ngay những giá trị văn hóa tri thức và lịch sử cội nguồn dân tộc cũng hếtsức mơ hồ. Đã có nhiều học giả và những nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới đặt vấn đề hoài nghi lịch sử cội nguồn dân tộc Việt tính đến ngày nay là gần 5000 năm văn hiến. Không ít ý kiến phủ nhận cội nguồn văn hóa truyền thống Việt Sử. Họ cho rằng: Việt Sử chỉ có khả năng tồn tại khoảng 2700 năm tính đếnngày nay. Nhưng ngược lại cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu cố gắng chứng minh Việt Sử trải gần 5000 năm văn hiến, như truyền thống và chính sử đã ghi lại. Tuy nhiên, như tôi đã nói ở trên một yếu tố cần và cực kỳ quan trọng đó là hệ thống chữ viết cổ để xác định một nền văn hiến kỹ vỹ như chính sử đã nói đến: Nước Văn Lang được thành lập vào năm thứ 8 hội Ngọ tức 2879 (TCN). Có biên giới Bắcgiáp Động đình Hồ nam giáp Hồ Tôn, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải. Với tiên đề này, và danh xưng văn hiến của Việt Sử thì điều kiện bắt buộc phải có một hệ thống chữ viết để lưu truyền và phát triển nền văn minh đó. Do đó, chúng ta thấy sự phát hiện ra hệ thống chữ Việt Cổ của nhà nghiên cứu nhà văn Khánh Hoài- Đỗ Văn Xuyền quan trọng như thế nào trong việc chứng minh Việt Sử 5000 năm văn hiến như một số học giả đặt ra. Trải hơn 2000 năm thăng trầm của Việt Sử những dấu ấn còn lại của hệ thống chữ viết Việt Cổ chỉ còn lại dămchục ký tự mơ hồ. Bởi vậy không ít những nhà nghiên cứu cho rằng nó không đủ cơsở để xác định một hệ thống chữ viết. Và họ đòi hỏi rằng: cần phải có những vănbản cổ có nội dung hoàn chỉnh, hoặc những văn bia cổ được thể hiện bằng chữ khoa đẩu thì mới có thể xác định được một cách mà họ gọi là khoa học, hệ thống chữ viết người Việt là có thật Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt vấn đề ngược lại, thì dăm chục ký tự khoa đẩu đó nói lên điều gì? Và có thể căn cứ vào những ký tự đó để xác định rằng đã có một hệ thống chữ viết cổ tồn tại và đã bị vùi lấp trong thời gian. Tất nhiên, nếu chỉdừng lại ở một hiện tượng duy nhất là chữ viết thì đây có thể là cuộc tranh luận khó có hồi kết – giữa một quan niệm cần phải có những di vật lịch sử trực quan để chứng minh và một quan niệm dựa trên cơ sở hợp lý có tính hệ thống, hoàn chỉnh những luận cứ khoa học. Có lẽ hầu hết chúng ta đều biết rằng chỉ với 6 ký tự cổ của hệ thống chữ viết AiCập cổ đại có liên hệ với chữ Latin trên một miếng gỗ tìm thấy vào đầu thế kỷ19, mà các nhà ngôn ngữ học của nước Pháp đã giải mã được toàn bộ hệ thống chữ viết cổ Ai Cập. Qua đó chúng ta nhận thấy rằng việc nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền dựa trên những tiêu chí khoa học để phục hồi lại toàn bộ hệ thống chữ viết cổcủa dân tộc Việt là hoàn toàn cần phải được công nhận vì những tiền đề khoa họccủa nó đã được chứng minh. Nhưng để xác định lịch sử cội nguồn dân tộc thì chữ viết chỉ là một trong những yếutố cần, nhưng không phải là duy nhất. Cũng như không thể coi di vật khảo cổ làbằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử. Để chứng minh cho cội nguồn lịch sử dân tộc chúng ta có nhiều mối liên hệ liênquan trực tiếp và gián tiếp, trong đó bao gồm cả những di sản văn hóa phi vậtthể. Điều quan trọng hơn cả trước một sự khiếm khuyết cội nguồn văn hóa sử dântộc Việt trong quá khứ vẫn chính là một giả thuyết được coi là khoa học theo đúng tiêu chí khoa học cho dù giả thuyết đó căn cứ vào những di sản văn hóa vậtthể hoặc phi vật thể. Vậy thì một luận cứ nào thỏa mãn tiêu chí đó thì được coi là khoa học. Cá nhân tôi có thể xác định rằng những sự phủ nhận văn hóa sử truyền thống, không hề có cơ sở khoa học nếu xét theo tiêu chí khoa học cần phải chính xác những luận cứ đó chỉ là sự hoài nghi vì một hệ thống văn hóa sửđã bị khuất lấp. Do đó, việc nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền với những luận cứ thuyết phục xác định toàn bộ hệ thống chữ viết việt cổ đã là nét bút quyết định trong bức tranh về cội nguồn lịch sử vẻ vang dân tộc Việt trải 5000 năm văn hiến. Cho dù có một số nhà nghiên cứu đặt vấn đề rằng hệ thống chữ việt cổ mà nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền chứng minh là hệ thống chữ khoa đẩu của dân tộc Tày Mường.Nhưng với cái nhìn của tôi thì cần xác định rằng đây chính là hệ thống chữ Việt cổ. Bởi vì, như nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã chứng minh, ký tự thuộc hệ thống dân tộc nào thì nó phải thể hiện đúng ngôn ngữ của dân tộc đó. Và nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã làm được điều này. Tất cả chúng ta có mặt trong cuộc hội thảo hôm nay, đã được nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền chứng minh một cách rõ ràng.Có thể có những điểm tương đồng giữa chữ khoa đẩu của dân tộc Tày và dân tộcViệt hoặc cả hai đều có cùng một nguồn gốc cho nên đều có nét tương đồng. Do đó, cần khẳng định một cách rất khoa học – theo tiêu chí khoa học - rằng: hệthống chữ viết Việt cổ mà nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã chứng minh rằng đâychính là hệ thống chữ khoa đẩu của người Việt cổ. Có thể nói rằng tất cả những tiêu chí cần thiết để xác định một hệ thống chữ viết của môt dân tộc đều đã được chứng minh một cách hoàn chỉnh có tính hệ thống,nhất quán, có tính quy luật và hợp lý với tất cả những điều liên quan đến nó. Thậm chí nếu ngay bây giờ chúng ta thay chữ quốc ngữ bằng hệ thống chữ khoa đẩu của người Việt cổ do nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền chứng minh thì nó đầy đủ khả năng để thực hiện điều này. Và chính từ hệ thống chữ viết được nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã đặt ra một vấn đề mới thuộc về lịch sử. Đó chính là vấn đề nhờ có chữ Việt cổ mà ngôn ngữ Việtcó thể được diễn tả bằng chữ latin. Điều này đã đặt vấn đề và tự nó cũng chứngminh rằng: dân tộc Việt là dân tộc duy nhất ở vùng Đông Nam Á có thể latin hóa chữ viết của mình. Chúng tôi nghĩ rằng với tất cả công lao của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền trong hơn 30năm đơn thương độc mã không có tài trợ, không người ủng hộ và tất cả bằng trí tuệ sức lực cá nhân, với số tiền lương còm cõi của một nhà văn nghèo-nhưng ông đã miệt mài cặm cụi đi tìm chữ viết cổ của dân tộc rất xứng đáng được tôn vinh và là đóng góp to lớn trong việc phục hồi những giá trị văn hóa truyền thốngViệt. Tôi nghĩ rằng đây là một thành tựu xứng đáng được tôn vinh cho những cố gắng tìm về cội nguồn dân tộc Việt, đóng góp to lớn cho nước nhà.1 like
-
http://i1037.photobucket.com/albums/a460/nguyengiadoan/202.jpg Họ tên: Nguyễn Gia Đoàn Năm sinh: 1990 Nghề nghiệp: Kế toán Ước mong ngắn hạn: Hoc lên Cao và có công việc ổn định Ước mong dài hạn: Tự Do Tài Chính Kinh Mong các bác cao tay xem giúp :D1 like
-
MỘT VÀI HÌNH ẢNH TRONG HỘI THẢO Trước giờ khai mạc... Giáo sư Nguyễn Mai khai mạc cuộc hội thảo chữ Việt cổ..... Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền trình bày phần nghiên cứu của mình. Đây là công trình hơn 30 năm lăn lóc, miệt mài của ông, để chứng minh tổ tiên ta đã có một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh phù hợp với mọi tiêu chí của một hệ thống chữ viết của một nền văn minh rực rỡ. Trên cơ sở những tư liệu còn lại của những nhà truyền giáo Tây Phương rải rác trong tu viện, thư viện của các nước có liên quan như: Ý Đại lợi, Tây ban nha.....ông chứng minh rằng: Chính hệ thống ký tự của chữ Việt cổ là điều kiện thuận lợi cho việc Latin hóa ngôn ngữ Việt và là dân tộc duy nhất hoặc chí ít là sớm nhất vùng Đông Nam châu Á trong việc Latin hóa chữ viết vì sự tương đồng của những ký tự miêu tả ngôn ngữ, trong qúa trình truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây. Cử tọa theo dõi và lắng nghe toàn bộ phần trình bày của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền..... Phần trình bày của ông Xuyền có hai điểm chính là: * Xác định một hệ thống chữ Việt cổ đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước. * Những nhà truyền giáo Tây phương đã căn cứ vào hệ thống chữ Việt cổ còn tồn tại trong dân gian để hoàn thành bộ chữ Quốc Ngữ hiện tại. Hay nói rõ hơn: Những nhà truyền giáo phương Tây chỉ làm một việc đơn giản là thay đổi hệ thống ký tự của chữ Việt cổ bằng hệ thống chữ Latin, trong qúa trình truyền giáo ở nước Việt.. Ông đã chứng minh sự tồn tại của một hệ thống chữ Việt cổ thỏa mãn đầy đủ tiêu chỉ khoa học cần có cho một hệ thống chữ viết của một nền văn minh. Từ cơ sở tiêu chí này so sánh với chữ Việt cổ liên hệ với ngôn ngữ trên các vùng miền của người Việt hoàn toàn thỏa mãn. Giáo sư nhạc sĩ Lê Thanh Bảo căn cứ trên cơ sở chuyên môn của ông về âm nhạc xác định sự kỳ vĩ của nền âm nhạc Việt cổ trên cơ sở sự tương đồng với các thanh âm của nền âm nhạc thuộc các nền văn minh từ qúa khứ đến hiện đại. Kết thúc thời gian trình bày của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, Ông Nguyễn Mạnh Can xác định sự quan trọng của những cố gắng tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc. Tiếp theo sau ông Nguyễn Mạnh Can, Thiên Sứ tôi cũng có dịp trình bày nhận xét của mình liên quan đến công trình nghiên cứu của ông Đỗ Văn Xuyền. Tôi cho rằng công trình của ông Đỗ Văn Xuyền như một nét bút cuối cùng hoàn chỉnh bức tranh mô tả Việt sử 5000 năm văn hiến. Tham dự hội thảo còn có giáo sư Phan Huy Lê. Mặc dù hết sức cố gắng lắng nghe, nhưng thanh âm của ông Phan Huy Lê không rõ ràng. Tôi chỉ hiểu đại ý rằng: Những đòi hỏi của khoa học rất khắt khe. Những điều ông Xuyền trình bày cần phải bổ sung rõ hơn để được khoa học công nhận. Cuối buổi nói chuyện, Hoàng Triều Hải - Trưởng đại diện văn phòng Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương tại Hanoi - thay mặt TTNC LHDP tặng hoa và số tiền tương trưng do độc giả ủng hộ với công trình nghiên cứu của ông Đỗ Văn Xuyền. Thiên Sứ và Phan Huy Lê. Tôi rất tiếc không có đủ thời gian. Nếu không tôi hy vọng sẽ trao đổi với ông Phan Huy Lê về những giới hạn cần thiết để xác định một chân lý thể hiện trong một luận thuyết khoa học. Không thể đòi hỏi chung chung với các khái niệm "Cần xác định rõ hơn"; "Cần bổ xung đầy đủ"; "cần có cơ sở khoa học"..... Tôi cho rằng: Để phản biện một luận thuyết khoa học thì phải chỉ ra cái sai ngay trong cấu trúc hệ thống của những luận cứ; hoặc phải chứng minh một luận thuyết hợp lý hơn. Trong vũ trụ - mà Lý học gọi là Hậu Thiên này - không có cái gì tuyệt đối cả. Do đó chỉ có sự hoàn thiên từ một ý tưởng ban đầu, một cơ sở ban đầu miêu tả đúng chân lý. Chứ không thể đòi hỏi tính tuyệt đối cho một luận thuyết có tính hệ thống. Nếu đòi hỏi sự tuyệt đối với khái niệm về mơ hồ về sự "đòi hỏi khắt khe của khoa học" thì có lẽ không ai có thể chứng minh rằng tấm hình trên thể hiện giáo sư Phan Huy Lê và Thiên Sứ. Chẳng ai có thể chụp được một cách hoàn chỉnh một con người. Hay nói rõ thêm rằng: Chẳng ai có thể cùng một thời điểm nhìn được toàn thể một con người, dù họ đứng ngay trước mặt chúng ta. Sự hoàn chỉnh một chân lý trong một vấn đề được đặt ra cho tri thức khoa học đòi hỏi phải có thời gian, thậm chí của nhiều thế hệ. Nhưng tính chân lý cần được xác định. Do đó, giới hạn để xác minh cho chân lý trong một luận thuyết chính là tiêu chí khoa học cho một luận thuyết khoa học được coi là đúng - Và người ta không thể chỉ ra được sự mâu thuẫn trong nội hàm cấu trúc mang tính hệ thống của luận thuyết ấy. Bởi vậy, chỉ ngay trong buổi thuyết trình đầu tiên của ông Xuyền mà tôi được nghe ở Phú Thọ trong dịp đến thăm ông, tôi đã xác định ngay rằng: Hệ thống chữ Khoa Đẩu mà ông chứng minh chính là hệ thống chữ Việt cổ. Để tiện tham khảo. Tôi chép lại bài nói của tôi do Thế Trung đã đưa lền diễn đàn ngay trong mục này.1 like
-
Bạn ơi, BS Ba chữa được viêm xoang đó. Ban đầu BS Ba nổi tiếng về bệnh hen suyễn, mãi sau này mới chuyển sang ung thư. Phác đồ chữa như sau này: ...... .Nhưng bạn nhớ là viêm xoang thì hạn chế dùng điều hòa, ở nơi thoáng mát, nhiều khí trời, tránh những nơi nhiều không khí độc hại như mùi sơn, xăng, ... nhé Bệnh xoang ko khỏi hẳn được, nhưng nếu dùng thuốc trên kết hợp với kiêng khem cho tốt thì bạn sẽ thấy m ko còn dấu hiệu khó chịu gì nữa đâu. Mình biết phác đồ đều trị bệnh này của Bsy HXB . Và các loai thuốc chữa bệnh này như sau : Viêm xoang 1. Pharysol, 2. Tomonal, 3. Pumasol 4. Phytosaponin. 5. Nhỏ mũi Xixat pha Lidocain 4ml. Pharysol 2 lần 1 ngày mỗi lần 2 viên. Tomona 2 lần 1 ngày mỗi lần 2 viên Pumasol 2 lần 1 ngày mỗi lần 2 viên. Phytosaponin 2 lần 1 ngày mỗi lần 2 viên. Còn Xixat pha Lidocain 4mlnhỏ mũi ngày 4 lần. bạn cống gắng điều trị trong 6 tháng liên tục nhưng sau 3 tháng đỡ rồi thì giảm thuốc dần còn ngày 2 viên mỗi lần 1 viên.1 like
-
Vâng, em biết ạ. Ngay như nhờ diễn đàn mình mà em biết tới Flamasol và đã dùng cho mẹ em, tốt lắm ạ. Trước mẹ em bị khớp, không co được đầu gối, ngồi không ngồi được, đi lại rất đau. Dùng Flamasol được 2 tuần thì đi lại ổn định, leo cầu thang được, ngồi bồn vệ sinh được. Dù khi mua thuốc, chị ấy tư vấn là dùng 4v/ngày trong 3 tháng, sau giảm dần, e cũng xác định phải 3 tháng mới đỡ được, thế mà 2 tuần đã như bình thường rồi. Ý em nói ở đây là những bệnh thông thường tới Việt Xuân có thể không nhận chữa, vì ở đó toàn ung thư giai đoạn cuối ạ1 like
-
1 like
-
Khách sạn trong lòng đại dương Một chiếc đĩa bay bên bãi biển xinh đẹp với những căn phòng dưới nước làm con người như được hòa mình vào đại dương trong xanh là cảm giác mà khách sạn độc đáo ở Dubai muốn đem lại cho các thượng khách. > Chiêm ngưỡng khách sạn siêu sang ở Dubai Dubai của các tiểu vương quốc Arab thống nhất vốn nổi tiếng là thành phố sang trọng với các các công trình kiến trúc hiện đại và độc đáo, nay lại có dự án mới là xây khách sạn dưới lòng đại dương. Khách sạn sẽ có phần lớn số phòng nằm dưới mặt nước để khách hàng có thể ngắm quang cảnh tuyệt đẹp trong lòng biển. Công ty đóng tàu Drydocks Worrls ở Dubai vừa ký hợp đồng xây dựng khách sạn đặc biệt này với công ty BIG InvestConsult của Thụy Sĩ. Khách sạn có hình dáng như một con tàu vũ trụ được thiết kể bởi nhóm Deep Ocean Technology (DOT). Khách sạn có kết cấu kỹ thuật tương tự như các giếng khoan dầu mỏ, với chi phí trong khoảng từ 50 đến 120 triệu USD. Khách sạn có 21 phòng ngủ, một quầy bar, một trung tâm lặn biển, ở độ sâu 10 m dưới mặt nước. Xung quanh những căn phòng dưới nước có đèn chiếu sáng để du khách ngắm được vẻ của các sinh vật xung quanh. Đặc biệt, nếu gặp nguy hiểm, các phòng ở dưới nước có thể tự nổi lên, đảm bảo an toàn cho khách. Khi hoàn thành và đưa vào hoạt động, du khách chắc chắn sẽ rất thích thú với khung cảnh lãng mạn cả ở trên bờ lẫn dưới nước của khách sạn. Vũ Hà (Ảnh: DOT)1 like
-
Cả làng hoảng sợ vì rắn hổ chúa tấn công trả thù cho đồng loạiChuyện xảy ra tại thôn Xà Râu, Ba Nam, Ba Tơ, Quảng Ngãi. Sau khi gia đình ông Linh bắt được một con rắn hổ chúa bò vào nhà bán với giá 3 triệu, liên tục 3 ngày sau, nhiều con rắn hổ chúa khác lớn hơn tấn công vào nhà ông Linh. Vỏ trứng rắn còn lại sau khi ông Linh đã ăn Kiếm bạc triệu từ rắn hổ chúa... Khoảng 18h ngày 17/4/2012, khi cả gia đình ông Pham Văn Linh (55 tuổi) ở thôn Xà Râu, xã Ba Nam đang ở nhà thì bất ngờ thấy một con rắn hổ chúa to cứ bò thẳng vào nhà. Con ông Linh là anh Phạm Văn Lương và Phạm Văn Mập dùng cây bắt con rắn nặng 2,5kg, đem bán cho thương lái với giá 3 triệu đồng. Chỉ 3 ngày sau đó, một con rắn hổ chúa khác cũng to bằng con đầu tiên đã tấn công vào nhà Linh. Hai anh em nhà ông Linh lại dùng cây bắt tiếp con thứ hai. Nghe tin con nhà ông Linh bắt được rắn, nhiều thương lái đến giành nhau mua và đặt hàng nếu có chỉ cần gọi điện là họ đến ngay... Rắn liên tục tấn công nhà ông Linh Hai ngày sau đó, con rắn hổ chúa thứ 3 tiếp tục xuất hiện và tấn công vào nhà ông Linh. Tuy nhiên lần này anh em ông Linh không dám bắt vì con rắn quá to, dài gần 3 mét, lại biểu hiện rất hung dữ, cổ ngước lên cao, phồng mang to hơn 2 gang tay ngang nhiên xông vao nhà. Qua sợ hãi, ông Linh kêu cứu. Thanh niên trong làng dùng đá, cây đuổi con rắn đi. Ông Linh cho hay: sau khi bắt được hai con rắn hổ chúa, gia đình ông đã phát hiện một ổ trứng rắn hổ gồm 48 trứng ở dưới bụi tre cách nhà ông khoảng 50 mét. Ông đã lấy hết về cho con cháu ăn. Ông cũng cho hay, cho đến bây giờ thì không riêng gì ông mà cả gia đình đều kinh hãi. Con rắn hổ xông vào nhà lần thứ 3, nó như đi báo thù vậy, rất đáng sợ. Cả ngày mấy ngày sau đó cả nhà ông không dám ra khỏi nhà. Nơi con rắn hổ chúa thứ 3 tấn công nhà chị Liên Gần một tuần sau đó, con rắn hổ chúa to lớn lại tấn công vào gia đình bên cạnh nhà ông Linh, mọi người cùng nhau đuổi; bà con càng thêm lo lắng. Cách đây 1 tuần, khi đang nấu ăn, chị Nguyễn Thị Liên - chủ tiệm tạp hóa ở thôn Xà Râu - thấy vách tường ván tự nhiên rung. Không biết chuyện gì, chị gọi chồng là anh Quỳnh ra xem sao, bất ngờ thấy con rắn hổ chúa to, dài đang ngước cổ, phồng mang, anh chị liền bỏ chạy. Sau đó con rắn bỏ đi. Chị Liên lo lắng: Không biết con rắn có đánh hơi được không vì trước đó, con ông Linh đã đem 2 con rắn bắt được sang nhà chị cân nhờ để bán. Cả làng kinh hãi! Dàng cúng rắn của gia đình ông Linh Thấy có điều chẳng lành và sợ hãi, cả gia đình ông Linh đã lập dàng cúng 3 lần để trừ giải điều xấu. Ngày đầu gia đình ông Linh cúng 2 con gà trắng, ngày thứ hai ông cúng một con chó, ngày thứ 3 ông cúng 2 con heo, 1 con gà đen. Theo ông Linh, mổ gia súc để cúng là đền lại xác 2 con rắn mà gia đình ông đã bắt. Vợ chồng chị Liên cũng đã cúng, cầu mong rắn hổ chúa không quay trở lại nhà. Chi Liên kinh hãi cho biết: “Thấy dân làng cúng tôi cũng cúng theo chứ sợ lắm. Con rắn to quá, nếu nó đến nữa chắc không dám ở nhà…”. Chuyện rắn tấn công nhà dân thoáng nghe có vẻ khó tin, kỳ bí. Song thực chất xét về đời sống đồng loại thì loài vật nào cũng có “tình đồng loại”. Khi bị mất đi “người thân” tất yếu nó phải đi tìm; chứng kiến “người thân” bị bắt tất yếu sẽ giận dữ. Và điều đó cũng có nghĩa người dân muốn mình yên bình thì hãy để các loài vật được bình yên. Nguồn: dantri Cháu đã đọc topic này từ đêm qua đến giờ... Ngẫm lại sau khi đọc bài báo này mới thấy: Ngày xưa quả báo thì chày. Bây giờ quả báo đến ngay tức thì. Cháu xin được lưu trang này và ở tại đây tiếp tục nghe những câu chuyện nhân quả, nghiệp chướng của bác Thiên Sứ và các cô bác. Kính!1 like
-
Diễn đàn không giải đáp cho các trường hợp hỏi giúp nhé! Riêng việc hợp xung thì ở đây đã nói nhiều rồi : Yêu nhau cứ lấy, không có tuổi hợp xung trong tình yêu đối lứa đích thưc. Ngoài ra nên hiểu rằng tuổi cơh chồng chỉ là 1 yếu tố đầu vào, còn hạnh phúc thành đạt của gia đình phụ thuộc nhiều và rất nhiều vào tuổi con cái, chỉ cần sinh con hợp tuổi cha mẹ thì tốt, còn không, cho dù tuổi cha mẹ hợp đến mấy mà con không hợp tuổi thì cũng lụn bại!1 like
-
2014 Giáp Ngọ và 2023 Quý Mão sinh con út nhé. Ưu tiên gái trước trai sau. Muốn con út sớm hơn thì có thể chọn Mậu Tuất 2018 nhưng đương nhiên không tốt bằng 2023. Thân mến.1 like
-
Bài viết đăng báo Thế giới Gia Đình số 16, ngày 02-5-2012. ====================================================== Chọn tuổi làm nhà Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn - Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Chọn tuổi để xây sửa nhà là một điều quan tâm đối với người Việt theo truyền thống xưa nay, nhưng chọn tuổi nào? Chọn tuổi ai? Cuộc trao đổi giữa báo Thế giới Gia Đình và Anh Thiên Đồng – Bùi Anh Tuấn - thành viên nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương sau đây sẽ giải đáp những thắc mắc đó. Hỏi: người Việt có thói quen xem tuổi để xây hay sửa nhà, vậy chọn tuổi ra sao? Phải chăng chọn tuổi theo quan niệm ai đứng tên chủ nhà trong sổ đỏ hay ai là kinh tế chính trong gia đình thì tính tuổi người đó? Đáp: Ta thử đặt một giả thuyết cho trường hợp này, một người cha già yếu không phải là người tạo ra kinh tế chính của gia đình, nhưng lại đứng tên sổ đỏ và người con (trai hoặc gái) là giám đốc công ty lớn nuôi cả gia đình, vậy sẽ chọn ai trong hai tiêu chí đưa ra? Chọn người con là kinh tế trụ cột? Một giả thuyết tiếp theo là người con do lý lo nào đó bị phá sản trở thành thất nghiệp, vả chăng lại tính tuổi theo người cha hay một người thân nào khác có nguồn kinh tế vững hơn? Rõ ràng đây là một sự bất nhất và tạp loạn. Và, một điều khôi hài khác, rằng hơn 4000 năm trước, xã hội không có sổ đỏ hay khái niệm sổ đỏ, phải chăng phong thủy đã không được sử dụng? Chọn tuổi theo sổ đỏ hay theo quan niệm kinh tế chính chỉ là sự nhầm lẫn giữa hiện thực xã hội và một nguyên lý lý thuyết. Hỏi: Như vậy có phải chọn tuổi cha, tuổi chồng hay con trai trưởng theo câu “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”? Đáp: Quan niệm “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” tức lấy tuổi cha, chồng hay con trai trưởng cho việc quán xét phong thủy nhà ở là một cách hiểu sai lầm. Sai lầm ở chỗ người ta lầm lẫn giữa tiêu chuẩn đạo đức xã hội cổ xưa với một tiêu chí lý thuyết của phong thủy và gán ghép hay áp đặt một cách chủ quan vào môn phong thủy. Nếu tiêu chuẩn đạo đức này được quy nạp vô phong thủy như một tiêu chí thì nó chỉ có giá trị ở các nước Đông Á hay Đông Nam Á như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…mà thôi. Điều này sẽ trở nên bất hợp lý đối với hơn một nửa thế giới còn lại là phương Tây, châu Âu, châu Mỹ, Bắc Mỹ, châu Phi…bởi họ không cùng chung quan niệm Nho giáo. Như vậy, phong thủy trở thành một phương pháp phi khoa học chăng? Bởi vậy, đây cũng là một sai lầm và không phải quan niệm của Phong thủy Lạc Việt. Hỏi: Thế thì tiêu chuẩn hay nguyên tắc nào cho việc chọn tuổi làm nhà theo phong thủy? Đáp: Chọn tuổi làm nhà, tức xây sửa nhà cửa theo quan niệm phong thủy của người Việt ta bao lâu nay là một việc quan trọng, nếu không nói là rất quan trọng. Theo quan niệm của Phong thủy Lạc Việt, sự tương tác của tuổi đối với các yếu tố quán xét phong thủy nhà là vấn đề đáng quan tâm. Chọn tuổi nào, tuổi ai đòi hỏi cần phải có tiêu chí học thuật rõ ràng, nhất quán và thấu đáo về lý thuyết gọi là Lý học đông phương. Theo nhà nghiên cứu Lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Phong thủy Lạc Việt là một phương pháp ứng dụng của một lý thuyết thống nhất vũ trụ, gọi là thuyết Âm dương ngũ hành thuộc nền văn hiến Việt gần 5000 huyền vĩ, cho nên sẽ có tiêu chí cho phương pháp ứng dụng này. Cổ thư đã từng ghi nhận nguyên lý lý thuyết của thuyết Âm dương ngũ hành như sau: “ Dương trước âm sau” và “Âm thuận tùng dương” (âm phải theo dương), theo đó thì việc chọn tuổi phải là chọn tuổi Dương nhất. Như thế nào là Dương? Nếu một nhà chỉ có hai vợ chồng thì chồng là Dương, vợ là Âm, chọn tuổi chồng. Nếu vợ chồng có thêm các con thì vợ chồng là dương so các con là âm theo lý “Dương trước âm sau” theo trục thời gian, và chồng là dương so với vợ âm nên vẫn chọn tuổi chồng. Nếu vợ chồng có các con ở chung cùng ông bà thì ông bà là Dương so với vợ chồng và ông thì dương so với bà nên lấy tuổi ông là dương nhất. Vẫn như thế, cho dầu một đại gia đình tam đại hay tứ đại đồng đường thì vẫn phải chọn người dương nhất dù cho người đó già lão mất sức. Hỏi: Trường hợp chỉ có bà hay mẹ không thôi hay anh chị em không thôi thì như thế nào. Đáp: Nếu một nhà chỉ có bà và các con các cháu thì bà vẫn là Dương so với các con các cháu, theo lý “Dương trước âm sau” nên vẫn chọn tuổi bà, tức “Âm phải theo Dương”. Cũng như vậy nếu một nhà chỉ có người mẹ và các con, góa chồng, ly dị hay không chồng, thì vẫn chọn tuổi người mẹ vì người mẹ là Dương so với các con. Một gia đình không có mẹ cha, chỉ có người chị lớn nhất ở cùng các em thì người chị là Dương so với các em nên phải chọn tuổi chị. Kết lại, chọn tuổi cho việc làm nhà theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt là chọn tuổi Dương nhất - theo nguyên lý "Dương trước , Âm sau" ; "Âm thuận tùng Dương". Xin cảm ơn anh về cuộc trao đổi rất thiết thực này.1 like
-
Nhà này bị bếp đốt ra cổng chính, tủ lạnh làm giảm sinh khí cho phòng bếp, lúc làm nhà lấy phương TB làm hướng nhưng nạp khí chính lại là hướng ĐN vì thế âm dương đảo ngược, năm nay nhà bị phạm Thái tuế và tuế phá. Xin hỏi con gà trống có người tư vấn anh đặt như thế có ý nghĩa gì, hay là anh thích nên đặt chơi, vì con gà là tượng sao thiên hình, đào hoa, phải chăng muốn hóa giải thám đầu sát phía trước.1 like
-
Những trường hợp không tuân thủ quy định diễn đàn như viết không dấu CCB không cần phải trả lời. Tuổi Nhâm Tuất thì nên gọi sư phụ Thiên Sứ bằng ông hoặc bác thì đúng hơn bằng anh!1 like
-
nhà chị chồng 1971 (Tân Hợi), vợ 1972 (Nhâm Tý) ko nên sinh con 2013 vì Tý - Tỵ tuyệt nhau, con và mẹ khó hòa hợp, con dễ bướng, mẹ cũng ít khi ở nhà với con. 2016 là năm gần nhất chị nên sinh con ÚT. Anh chị có thể tham khảo topic NÀY để dễ sinh con, và giữ gìn sức khỏe 2 vợ chồng.1 like
-
1 like
-
bạn đi nhờ mà ko chèn hình vào lại bắt người khác phải kích vào xem ảnh nữa thì ko ai trả nhời là đúng rồi.bạn là 1 người viết chữ ko đẹp? bạn ko có năng khiếu về nghệ thuật (cầm kỳ thi họa?) ? bề ngoài thì cẩn thận nhưng thực tính hơi cẩu thả? tín vừa thôi tín quá hóa mê. ngứa tay chém cho em vài chữ vậy. nhớ cảm ơn anh đấy: này nhé, chữ G đầu dòng luôn phải viết hoa nhưng theo nét kia thì âm g đó ko phải là G hoa mặc dù cái xác thì to, xét về thẩm mỹ thì chữ n ở cuối chữ ký đó rất nhiều người dùng nên nó ko có sự sáng tạo và độc đáo. chả ai thích làm 1 cái gì theo gót người khác cả. xong chữ ký lại có 1 dấu gạch ngang? để làm gì? ngứa tay gạch vào à? hè hè thêm 1 dấu gạch ngang nó chỉ chứng tỏ bạn hay bắt chước người khác theo thói quen. và dấu gạch chân đó nó chỉ làm tốn thêm thời gian thao tác cho chữ ký của bạn. tổng thể về chữ ký thì nhìn ko hoa mỹ lắm. đó là nhận xét chứ ko phải chê nhé!1 like
-
vớ vẩn, tín chứ đừng có mê. yêu nhau cứ lấy. hờ hờ anh ở cùng quê với em làm cạnh cơ quan em. anh ý 79 vợ 83 hờ hờ chả biết có tai tiếc gì ko mà giờ 1 thằng cu và khi lấy nhau 2 bàn tay trắng mà giờ trong nhà có gần 10 tỷ. hờ hờ mê với chả tín. mọi cái chỉ là tương đối thôi. yêu nhau cứ lấy. giàu nghèo sống chết có số cả. đã có số và cung vợ chồng thì cứ chiến đi chị ui.1 like
-
Nam mô a di đà Phật. Cảm thấy rất tiếc cho chị khi chị nói bị sảy thai 2 lần. Nếu chị có tâm và thời gian, mong hàng ngày chị đến Chùa đọc Chú Đại Bi và Thập chú thì rất tốt. Tuổi anh chị cũng khá lớn rồi, nhg nên để đến 2016 sinh con út nhé. sẽ hóa giải xung khắc gia đình. Còn nếu anh chị ngại chuyện lớn tuổi thì năm sau sinh cũng đc. Dù ko đẹp lắm.Có con là tốt rồi. Miễn là phải nuôi dạy con tốt.1 like
-
Được năm nay thì tốt biết mấy nhỉ? Sang năm Quý Tỵ tuy mạng rất hợp mẹ, Tân cha sinh Quý con cũng tốt, nhưng Tý Tỵ tuyệt nhau, Hợi Tỵ xung, vì vậy cũng ko ổn để sinh. Nếu chọn nữa thì phải đến 2016 Bính Thân hãy sinh nhé, 2014, 2015 hoàn toàn không tốt, sẽ ảnh hưởng đến gia đạo cũng như sự nghiệp của cha mẹ. Thân mến.1 like
-
Cưới tam tai thì không lên đèn, ko rước dâu, ko bái gia tiên, còn các việc khác cứ bình thường! Có điều đám cưới mà ko đầy đủ lễ nghi, phải lo này tránh kia thì thiệt thòi cho tân lang tân giai nhân, đặc biệt là với phụ nữ!1 like
-
Mạn phép có vài lời với chị. Thứ nhất theo em biết người ta chỉ xem cung phối khi xây nhà thôi. Thứ 2 theo Lạc Việt thì chị 83 là Thiên thượng hỏa còn anh ấy 79 là đại hải thủy. Như vậy nếu lấy nhau mệnh 2 ng là " chồng khắc vợ" là tốt nhì chứ không xấu như chị và mọi người nghĩ..chị có thể tham khảo tại link này http://diendan.lyhoc...c-thu-hoa-giap/ Ngoài ra thiên Can tuy khắc nhau: Kỷ Thổ khắc Quý Thủy. Nhưng nếu chọn được năm sinh con tốt thì mọi việc sẽ ổn hơn. Về dịa chi: hợi và mùi thuộc tam hợp Điều quan trọng là 2 người có tình yêu hay không thôi còn những cái khác em nghĩ đều có thể vượt qua được.. Sẽ " đau" lắm nếu như yêu nhau mà ko đến được với nhau..có những người cả cuộc đời chẳng thể mở lòng được lần nữa.. Hy vọng anh chị có thể thuyết phục và vượt qua được rào cản này.. Hãy coi đây là thử thách trên con đường tìm hạnh phúc.. " NƠI NÀO CÓ Ý CHÍ NƠI ĐÓ CON ĐƯỜNG". Hạnh phúc hay đau khổ đều do con người tạo ra...Cố gắng lên chị nhé1 like
-
Hãy cố yêu người mà sống Mai nầy cuộc đời cũng quen .1 like
-
Kinh nghiệm còn ít nên thử phần tích. Năm nay là năm cung tử tức của người vợ bị phát động có những sao xấu hội hợp nên xảy ra việc này Số người vợ chỉ cao nhất là 2 đứa con.( cái này thì đừng buồn.) Lá số người chồng cũng đâu có nhiều con. (Đừng trách là lỗi của ai cả) Số mệnh là số mệnh chỉ cần tu tâm dưỡng tính, thì số mệnh cũng thay đổi. Không gì có thể qua được Phúc đức. Cố gắng củng cố phúc đức của mình là được. Thì ông trời cũng cho toại lòng.1 like
-
NGƯỜI QUÉT CHỢ "Nhớ dâng trà cúng sư thúc và dì Linh nghe con?" thầy nhắc chú tiểu khi thấy chú sửa soạn lên chánh điện để cúng ngọ. "Bạch thầy, con nhớ," chú đáp. Đó là câu mà thầy cứ nhắc chú mỗi ngày trước mỗi thời kinh. Chú chẳng biết sư thúc là ai, dì Linh là ai. Trên chiếc bàn thờ nhỏ đặt cạnh bàn Tổ, chú chỉ thấy hai cái bài vị được viết bằng chữ Hán chứ chẳng có hình ảnh gì cả. Vì thầy nhắc mãi nên chú không lúc nào quên, vậy mà thầy cứ nhắc. Nghe nhắc hoài, ban đầu chú hơi bực mình, nhưng riết rồi cũng quen. Và khi chú rót trà cúng cho hai người đó, chú cũng làm như một cái máy chứ không suy nghĩ gì. Chùa chỉ có một thầy một trò, nên thầy thương chú lắm và chú cũng quí kính thầy vừa như cha mẹ, vừa như thầy, và thỉnh thoảng như một người bạn đạo. Chú không có tên thế tục. Chú chẳng hiểu lý do vì sao. Có lẽ vì chú sống ở chùa từ nhỏ nên thầy đã không đặt tên thế tục cho chú mà chỉ đặt cho chú một pháp danh là Thanh Thị. Chú lớn lên ở trong chùa, quen với tên gọi mà thầy đặt cho, chẳng thắc mắc gì. Nhưng đến khi được thầy dạy cho học chữ Hán, chú mới hiểu được cái tên đọc nghe như tên con gái của mình lại có một ý nghĩa kỳ cục, không được thanh nhã cho lắm. Nó có vẻ như được đặt ra để đánh dấu một kỷ niệm nào đó của thầy, hoặc cho chính chú. Chú băn khoăn suy nghĩ mãi về ý nghĩa của cái tên mà mình đeo mang. Nhân lúc cùng thầy nhổ cỏ sau vườn chùa, chú hỏi: "Bạch thầy, tại sao thầy đặt tên con là Thanh Thị?" "Vì thầy thích đặt như vậy," thầy chú thản nhiên trả lời. "Lâu nay con tưởng rằng chữ thị có nghĩa là đây, như vầy, giống như chữ thị trong như thị, đích thị hoặc chữ thị như trong biểu thị, thị hiện... nhưng mới hôm qua, thầy viết tên con bằng chữ thị có nghĩa là chợ. Con không rõ là tên con sao lại có cái nghĩa không được hay. Xin thầy giải thích cho con." Thầy nghiêm giọng nói: "Chỉ là tên gọi thôi, có gì mà phải bận tâm, nhổ cỏ đi." Chú cúi xuống nhổ cỏ tiếp, nhưng được một lúc, chú lại hỏi: "Con biết đó chỉ là tên gọi thôi, nhưng tên gọi cũng phải nói lên một cái gì, một ý nghĩa gì chứ." "Thì chợ cũng là một cái gì, một ý nghĩa gì rồi đó," thầy đáp. "Con thấy chợ chỉ có ý nghĩa là dơ, ồn ào, phức tạp... toàn là xấu không à. Con không tìm ra được ý nghĩa nào hay đẹp ở trong nó. Khi thầy đặt tên con, chắc chắn là thầy có nghĩ đến một ý tưởng hay một hình ảnh gì đó về cái chợ, phải không, bạch thầy?" "Nhiều chuyện quá," thầy nói, "nhổ cỏ đi." Chú im lặng nhổ cỏ, không dám hỏi nữa. Nhưng trong đầu óc chú bắt đầu nẩy ra những suy tưởng, những phán đoán về sự đặt tên của thầy. Chú nghĩ, năm nay chú đã mười sáu tuổi rồi, có thể nói là chú đủ trưởng thành để nghe thầy kể về lai lịch của chú. Lâu nay mỗi lần chú hỏi đến vấn đề đó, thầy chỉ nói là chú chưa trưởng thành, chưa đến lúc cần biết. Nhưng dù thầy chẳng nói ra, chú cũng không đến nỗi ngu độn để không biết rằng chú là một đứa bé mồ côi. Ai cũng có cha mẹ, riêng chú không có. Cái thực tế đó làm gì thầy che giấu được. Nhưng tại sao lại đặt tên là Thị, có nghĩa là chợ? Có lẽ... có lẽ cha hay mẹ của chú là người bán hàng ngoài chợ, hoặc là người chủ chợ. Nhưng ba mẹ chú đâu mà để cho thầy phải đặt tên? Cũng có thể mẹ chú đi ngang chợ thì sinh ra chú. Không, nếu mẹ chú sinh ra chú ở chợ thì cũng đem về nhà, và chú vẫn còn người mẹ đó chứ chú đâu có mồ côi để cho thầy phải đặt tên! Hay là... hay là thầy lượm được chú ngoài chợ, đem về chùa nuôi cho đến ngày hôm nay? Chính vì kỷ niệm đó mà thầy đặt tên cho chú là Thị (chợ)? "Bạch thầy..." chú không ngăn được nỗi háo hức tìm hiểu thân phận mình, lại mở miệng hỏi. "Gì nữa đây?" thầy không nhìn chú. "Có phải... có phải con là đứa con rơi thầy lượm ở ngoài chợ đem về hay không?" Thầy ngưng tay nhổ cỏ. Im lặng một lúc, thầy tiếp tục nhổ, vừa nói: "Nhổ cỏ." Đến chiều, sau giờ ăn cháo, thầy gọi chú cùng dạo sân với thầy. Hai thầy trò tản bộ cho đến vườn sau, nơi có hai ngôi mộ mà thỉnh thoảng chú thấy thầy ra thắp hương. Một cái mộ thì chú biết là của sư thúc chú, còn cái còn lại chú chẳng biết của ai và cũng không để ý lắm. "Con đã dâng trà cho sư thúc và dì Linh lúc công phu chiều rồi hả?" thầy hỏi. "Bạch thầy, rồi," chú trả lời như máy. Thầy nhặt mấy chiếc lá nằm trên mộ sư thúc, nhổ vài bụi cỏ mới mọc quanh hai ngôi mộ. Rồi thầy bắt đầu kể chuyện cho chú nghe. * Thầy Hải Chấn đang ngồi đọc sách thì Hải Thanh, sư đệ của thầy, bước vào, mặt buồn dàu dàu. Hải Chấn hỏi: "Gì mà sư đệ có vẻ rầu lo vậy?" Hải Thanh buồn bã đứng nhìn ra cửa sổ một lúc rồi nói: "Đệ... đã phạm giới..." Hải Thanh nói đến đó thì rơi nước mắt. Hải Chấn kéo tay sư đệ ngồi xuống, vỗ về: "Có trầm trọng lắm không? Đệ đã sám hối chưa?" "Đã sám hối. Nhưng đó là cho tự tâm. Không giải quyết gì được cho hoàn cảnh." "Chuyện gì vậy? Nói đi, để xem huynh có thể giúp gì cho đệ không." "Huynh đừng trách mắng đệ nghe..." "Phạm tội thì sám hối; huynh trách mắng có thay đổi gì được đâu! Nói đi, đừng chất chứa trong lòng," Hải Chấn nói với giọng đầy cảm thương. Hải Thanh đưa hai tay ôm lấy đầu, mặt gục xuống bàn, nói: "Cô ấy đã có mang." Hải Chấn sửng sốt một lúc, rồi thở dài, hỏi: "Cô ấy là ai vậy?" "Sư huynh không biết đâu. Cô ấy không hề đến chùa mình." "Vậy làm sao đệ quen để đến nỗi..." "Thôi, huynh hỏi làm gì chuyện đó cho mệt. Bây giờ, đệ chỉ hỏi huynh một điều là đệ phải làm sao đây?" Hải Chấn nhíu mày, thấy khó xử. Theo luật, Hải Thanh đã phạm một trong các tội Ba-la-di, tức những trọng giới mà đương sự bị coi như mất cả giới thể, không còn là tỳ-kheo thanh tịnh nữa, không thể chữa được nữa—như cây dừa, cây cau, đã chặt đi khúc đầu (đoạn đầu) thì không thể mọc lại tàu lá mới. Đã tới nước đó thì Hải Chấn biết góp ý với Hải Thanh điều gì nữa. Hải Chấn thở dài nói: "Huynh cũng chẳng biết phải góp ý với đệ làm sao. Chuyện không đơn giản đâu. Đệ phải nói rõ sự việc may ra..." Hải Thanh ngập ngừng lúc lâu rồi kể: "Cũng vì cái hạnh quét chợ mà đệ vướng phải nghịch cảnh này. Huynh cũng biết mà, mỗi sáng đệ quét từ sân ra tới chợ, mặc ai cười ai chê, đệ quét thì cứ quét, vừa quét vừa quán niệm về sự cấu bẩn của thế gian và thanh tịnh của niết bàn... năm này qua năm nọ, mưa hay nắng, đệ cũng không bỏ ngày nào. Thế rồi... cô ấy lưu ý đến đệ. Và... một ngày nọ, đệ sa ngã." "Buồn thay cho đệ. Cô ấy bán ngoài chợ à?" "Không, cô chỉ đi ngang chợ thôi." "Vậy bây giờ gia đình cô ấy đã biết rằng chính đệ đã làm... cái chuyện gì đó chưa?" "Chưa, cô ấy không nói ra là ai. Nhưng... có lẽ có ngày họ cũng biết. Mà họ có biết hay không thì... mình cũng phải tự liệu." "Tự liệu?" "Ý đệ nói là mình phải giải quyết vấn đề đó bằng cách đến nói chuyện với gia đình cô ấy, xin hỏi cưới cô ấy, hoặc là... đệ cùng cô ấy trốn đi xa để khỏi mang tai tiếng cho gia đình cô ấy và cho chùa nữa." "Nghĩa là đệ sẽ hoàn tục?" "Chứ biết sao bây giờ. Huynh có cách gì hay hơn không?" Hải Chấn ứa nước mắt, thương sư đệ mình gặp nghịch duyên đến phải bỏ đường tu, nhưng chẳng biết phải giúp bằng cách nào. Hải Chấn ngồi lặng thinh. Một chặp, Hải Chấn nói: "Huynh chẳng biết cách nào hết, mong đệ tha thứ cho sự chậm lụt của huynh. Huynh nghĩ chắc phải làm theo một trong hai cách mà đệ nêu ra thôi. Mà cho dù chọn giải pháp nào, huynh cũng xin lưu ý đệ một điều rằng đệ nên giải bỏ hình thức tăng sĩ trước khi..." "Đệ hiểu." Hai huynh đệ im lặng, mỗi người một dòng suy tưởng. Hải Chấn nhớ lại bao kỷ niệm mà thầy cùng Hải Thanh trải qua nơi ngôi chùa này từ thuở còn để chóp đến nay. Hải Thanh thông minh, nhanh nhẹn mà lại siêng năng nên cái gì cũng vượt qua mặt sư huynh. Nhưng đến khi sư phụ sắp viên tịch, sư phụ lại giao trọng trách trụ trì cho Hải Chấn. Lúc đó Hải Chấn đã không nhận vì cho rằng sư đệ vượt trội hơn mình quá nhiều. Hải Thanh cũng không chịu nhận chức trụ trì, còn sư phụ thì nhất quyết phải giao chức ấy cho Hải Chấn dù Hải Chấn học hành chậm lụt. Rốt cuộc Hải Chấn phải nhận. Giờ ra đi, sư phụ không nói gì nhiều ngoài việc khuyên răn hai huynh đệ nương nhau tu tập, và những lời cuối cùng của sư phụ đều nhắm vào Hải Thanh, cảnh giác Hải Thanh là không nên chú trọng vào sở kiến sở văn mà bỏ quên phần tu tập. Sau khi sư phụ mất, Hải Thanh thức tỉnh, nỗ lực hành trì, không bao giờ chểnh mảng. Rồi một ngày đó, Hải Thanh bỗng phát nguyện quét luôn cả chợ thay vì chỉ quét sân chùa. Hải Chấn không ngăn cản chi hạnh nguyện của sư đệ mình vì nghĩ rằng đó cũng là hạnh tốt thôi. Hải Thanh cho rằng hình ảnh người tu sĩ hiền lành nhẫn nại có mặt nơi phố chợ đông người sẽ cảm hóa và gây được tín tâm cho nhiều người. Ngoài ra, quét chợ cũng là một cách tu luyện cho tâm được định tĩnh ngay giữa chốn náo động. Không ngờ, chính hạnh nguyện cao đẹp đó lại đốn ngã Hải Thanh trong một nghịch duyên đau xót. Hải Thanh không ôn lại kỷ niệm xưa mà chỉ ưu tư vấn đề xảy ra trước mắt. Hải Thanh nhớ đến Thùy Linh, cô gái đã có mang với mình. Cô ấy rất đẹp và là một tiểu thư con của quan huyện. Với sự thông minh vốn có, lại thêm sự giúp đỡ bày mưu của cô nữ tì, cô ấy đã tạo đủ điều kiện để lôi kéo Hải Thanh ngã vào vòng tay mình. Từ những phút đầu Hải Thanh đã biết mình rơi vào lưới tình, nếu không thức tỉnh quay lại ngay với thiền môn thì khó bề giữ gìn được đạo hạnh của mình, nhưng bóng sắc lộng lẫy kiêu sa của nàng đã không để cho Hải Thanh chùn bước mà còn kéo thầy lậm sâu thêm vào cơn men ái dục. Bây giờ chuyện đã lỡ rồi, không cưỡng lại được nữa. Hải Thanh muốn rủ Thùy Linh cùng bỏ huyện này trốn đi với mình qua xứ khác sinh sống và cũng để tránh tiếng cho cả đôi bên, nhưng Thùy Linh không dám. Nàng đã ở lại để rồi không che dấu được cái thai càng lúc càng lớn. Nàng đã bị cha đánh đập, mắng chửi dữ dội. Hải Thanh nghe nữ tì nói lại như vậy nhưng chẳng biết phải làm sao. Nhiều lúc Hải Thanh muốn lẻn vào tư dinh quan huyện để cứu nàng ra khỏi đó, nhưng lính gác canh phòng nghiêm mhặt, không cách gì vào được. Dù đã từng xem thế sự như một giấc mộng hư huyễn, trước tình cảnh đau xót mà Thùy Linh phải hứng chịu, Hải Thanh không khỏi nghe tan nát trong lòng. Đêm đó, hai huynh đệ ngồi thức trắng bên bàn sách. Đến lúc mờ sáng, Hải Thanh mới rời phòng sách vào phòng riêng, lấy khăn chít lấy đầu để che dấu cái đầu tròn tu sĩ của mình, thay đổi y phục như một người thế tục rồi từ giã Hải Chấn mà đi. Hải Chấn hỏi: "Đệ đi đâu vậy?" "Đến tư dinh quan huyện nói chuyện thẳng với cha cô ấy." "Sao huynh thấy ái ngại cho chuyến đi này của đệ quá. Thấy có gì không ổn. Đệ liệu có thể thuyết phục được cha mẹ cô ấy không?" Hải Thanh không đáp, chỉ nhún vai rồi đi. Hải Chấn níu lại, dúi vào bọc vải của sư đệ một túi tiền nhỏ: "Đó là tiền riêng của huynh, không phải của chùa đâu, đừng ngại. Đệ mang theo để có gì..." "Cám ơn huynh. Đệ đi đây. Nếu có tin tốt đẹp, đệ sẽ cùng Thùy Linh ghé thăm huynh trước khi rời xứ này." Và Hải Thanh đi luôn, không trở lại. Hải Chấn bồn chồn lo lắng suốt cả ngày và đêm hôm đó. Sáng hôm sau, khi Hải Chấn ra vườn thì thấy xác Hải Thanh nằm ở trước sân chùa, thân thể tím bầm vì bị đánh đập đến tắt thở. Hải Chấn đến khiếu nại với quan huyện nhưng huyện đường đóng cửa, lính gác xua thầy về. Thầy đành ngậm ngùi chôn xác sư đệ sau vườn chùa. Nghĩ rằng có làm to chuyện lên thì sư đệ nhắm mắt cũng không được yên. Hai tháng sau, Thùy Linh sinh hạ một bé trai. Nửa đêm nàng lẻn trốn khỏi dinh, mang con ra chợ, ngồi nơi sạp hàng mà ôn lại chuyện xưa khi nàng đi ngang đây và bắt gặp nhà sư quét chợ lạ kỳ. Nàng ngồi giữa trời sương cho đến sáng thì chết, tay vẫn còn ôm đứa bé sơ sinh đang khóc. Quan huyện lâu nay cố che dấu chuyện con gái mình nhưng nay, cái chết của Thùy Linh ngay giữa chợ đã làm cho câu chuyện nhanh chóng truyền đi; ông bực dọc và căm giận đến độ sai lính treo bảng thông báo rằng ông đã từ đứa con trắc nết phá hoại gia phong, rằng ông không chịu trách nhiệm về cái chết của Thùy Linh cũng như không chấp nhận đứa con của người quét chợ. Thông cáo của ông có vẻ như ngầm phán rằng đứa bé phải chịu chết giữa chợ đời, không ai được phép cứu nó. Vì uy quyền hống hách cũng như sự giận dữ của quan huyện, không ai dám mang đứa bé sơ sinh về nuôi. Người ta gỡ đứa bé khỏi vòng tay lạnh giá và cứng đờ của mẹ nó rồi đặt nó nằm trong một chiếc nôi, để giữa chợ để chờ kẻ nào động lòng trắc ẩn đến mang nó đi. Những người đàn bà bán hàng ngoài chợ đã chăm lo sữa cho đứa bé suốt ngày đó, nhưng cũng không ai chịu nhận đứa bé về. Còn xác Thùy Linh thì được quấn sơ sài bằng một cái chiếu, đặt ở gần đó. Đến chiều tối thì chuyện đến tai Hải Chấn. Thầy liền tức tốc ra chợ, ôm chiếc nôi nhỏ mang về chùa. Còn xác Thùy Linh, thầy bảo những người phật-tử bán hàng ở chợ giúp đem về chùa chôn. Ấy vậy mà quan huyện không dám động đến Hải Chấn vì cả nể đức hạnh và uy tín của thầy. Đứa bé được yên thân sống và lớn lên trong cửa chùa. * Nước mắt ràn rụa trên hai gò má bầu bĩnh, chú tiểu Thanh Thị quì xuống chân thầy: "Tạ ơn thầy cứu sống và nuôi dưỡng con." Thầy đỡ chú dậy, nói tiếp: "Sư thúc của con có linh vị thờ trong chùa mà thầy thường nhắc con rót trà dâng cúng chính là Hải Thanh cha của con đó. Sư thúc với thầy tu học với nhau từ nhỏ nên ngoài tình đạo bạn còn coi nhau như anh em ruột. Chuyện của sư thúc khiến thầy đau lòng quá mà không biết giúp bằng cách nào. Nuôi dưỡng con chỉ là một chuyện nhỏ để biểu lộ sự mến tiếc của thầy đối với sư thúc thôi. Huống chi, làm sao thầy có thể bỏ mặc một đứa trẻ kêu khóc không người đoái hoài..." Chú tiểu Thanh Thị bây giờ đã hiểu vì sao chú có cái tên lạ kỳ đó: Thanh là tên của cha chú còn Thị chính là chợ, là nơi ghi lại kỷ niệm chua xót đầu đời của cha chú, mẹ chú, và cả chú nữa. "Vậy quan huyện hiện nay chính là ông ngoại của con hở, bạch thầy?" "Không. Ông và phu nhân đều đã qua đời. Quan huyện hiện nay là người mới được bổ nhiệm." "Vậy những người ở ngoài chợ... đều biết chuyện của con hở thầy?" "Mười sáu năm rồi, nhiều người đã dọn đi xứ khác, nhiều người đã chết, chỉ còn lại rất ít người là biết chuyện của con, nhưng chắc họ cũng quên khuấy đi rồi. Mà sao con hỏi vậy? Con không muốn người ta biết rằng con đã xuất thân từ đâu, phải vậy không?" "Bạch thầy không phải, không phải." "Như vậy thì tốt. Nhân cách không nằm ở chỗ xuất thân từ đâu mà từ chính giá trị thực có của mình." "Dạ, con biết," chú cúi mặt nói nhỏ. Theo như lời thầy kể, rồi nhìn hai ngôi mộ song song trước mặt, đọc những chữ Hán viết trên mộ bia, chú thấy rõ đó chính là song thân của mình. Chú quỳ xuống nhìn thật lâu nơi hai mộ bia, lặng người một lúc lâu, chú bật khóc thảm thiết. Vậy đó mà chú vẫn không sao tẩy xóa được nỗi mặc cảm đè nặng trong tâm khảm mình: rằng chú là một đứa trẻ vô thừa nhận, được sinh ra bởi một người cha tu sĩ phá giới, một người mẹ khuê các phá gia phong; rằng chú bị bỏ rơi giữa chợ đời như một tội nhân tử hình ngay từ lúc sơ sinh. Bao nhiêu ý nghĩ đó ám ảnh chú suốt mấy ngày kế tiếp sau khi nghe thầy kể rõ sự tình. Thầy theo dõi từng biến động tâm tư hiện trên mặt chú, bèn gọi chú hỏi chuyện: "Con sẽ mang buồn cho đến bao giờ? Có sinh tức có diệt, sao phải ôm mãi nỗi đau khổ biệt ly như thế!" Chú lặng thinh không đáp lời thầy. Thầy biểu lộ tình cảm, lấy tay xoa đầu chú: "Thương cha mẹ, con rán tu học để cha mẹ vui lòng. Cha con là một tu sĩ thông minh, có tuệ căn, làu thông kinh điển. Chỉ một phút yếu lòng mà đánh mất sự nghiệp cao cả. Con có thương cha thì nối tiếp sự nghiệp đó mới phải, sao cứ ôm lòng buồn rầu mãi. Con đến rót trà dâng ba đi, rồi lên tụng kinh." Chú cúi mặt bặm môi một chặp, bỗng ngước lên nói: "Chỉ có thầy mới là cha con thôi. Ông ấy không phải là cha con!" Nói rồi chú vụt đứng dậy, bỏ đi vào phòng riêng, đóng cửa lại. Thầy sững sờ ngồi nhìn theo, lắc đầu buồn bã. Chú bỏ tụng kinh chiều hôm đó. Thầy lặng lẽ đắp y áo, thắp hương, rót trà cho sư đệ Hải Thanh rồi thầy tụng kinh thay chú. Suốt mấy ngày, chú vẫn không ra khỏi phòng. Thầy đến gõ cửa, gọi mãi mà không được. Mọi việc trong chùa thầy làm thay chú hết. Chú không ra khỏi phòng nên cũng nhịn ăn luôn cả mấy ngày. Hai thầy trò sống bên nhau mười sáu năm rồi, chưa lần nào vào bữa ăn mà thiếu thầy hay thiếu trò. Cho nên, khi chú nhịn, thầy cũng nhịn theo, không buồn ăn nữa, chia xẻ nỗi đau khổ nặng nề của chú. Đến ngày thứ tư, chú mới mở cửa bước ra, phờ phạc, bệnh hoạn. Chú đến quỳ dưới chân thầy và khóc nức nở. Thầy chỉ lấy tay xoa đầu chú. Hai thầy trò bỗng dưng mà sống một cuộc sống lặng câm, buồn tẻ. Thầy để chú tự do trong những suy tưởng riêng tư chứ không gợi chuyện gì với chú cả. Không khí trong chùa vì vậy mà nặng nề. Cho đến một ngày nọ, sau khi cùng làm lễ sám hối với thầy xong, chú mới cất được gánh nặng trong lòng. Chú thưa với thầy: "Con đã sai lầm. Con không thể phủ nhận công ơn sanh thành của cha mẹ." "Tốt, con biết vậy là tốt. Mẹ con vì sinh mạng của con, vì muốn lưu giữ giọt máu và hình bóng của cha con mà nhẫn nhục sống giữa bao lời xỉ vả, bao trận đánh đập của gia đình để chờ ngày sinh ra con. Mẹ con tuy phá gia phong nhưng, theo thầy, bà là người tinh mắt, thông minh, một phụ nữ đức hạnh biết vượt lên cái hình thức bề ngoài để nhìn thấy được giá trị tinh thần nơi cha con. Còn cha con, tuy phạm cấm giới, nhưng biết ăn năn, biết trách nhiệm, đã can đảm bước vào tư dinh của ông ngoại con với ước mong là cứu được hai mẹ con ra ngoài... và cha con đã chết vì dám đứng ra đối đầu với nguy hiểm. Với truyền thống, với tập tục, cả hai đều bị lên án. Nhưng họ đã chết một cách cao cả, ít nhất là đối với sinh mạng của con, phải không? Ở một khía cạnh nào đó, một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, con sẽ thấy rằng cái mà người ta gọi là truyền thống, tập tục, gia phong, lễ giáo v.v... thật ra chẳng là gì cả. Rỗng tuếch! Chỉ có những tấm chân tình mới thực sự là có ý nghĩa mà thôi." "Dạ, con hiểu," chú nói trong giọng xúc động và tri ân thầy đã chỉ giáo. Chú không dám coi thường cha mẹ mình nữa. Chú thăm mộ cha mẹ hàng ngày, chú rót trà dâng cha mẹ vào mỗi thời kinh. Sư thúc và dì Linh, chú không còn gọi hai tên đó nữa mà gọi bằng cha mẹ. Chú cảm thấy có cái gì ngọt ngào và khiến chú ấm lòng khi gọi lên hai tiếng cha mẹ đó. Tuy nhiên, trên thực tế, chú chỉ vui sướng sống trong tình cảm và vòng tay vô hình vô ảnh của cha mẹ; còn đối với những mặc cảm về thân phận mình, chú vẫn không sao tẩy xóa đi một cách thoải mái được. Đến nỗi khi đi ra đường với thầy, chú có cảm giác như mọi người đang nhìn mình, xầm xì, chỉ trỏ, bàn tán về "người quét chợ". Từ đó, chú hết muốn ra khỏi chùa. Và đôi lúc, chú muốn cải đổi cái tên Thanh Thị mà chú mang. Chú thấy cái tên đó chỉ nhắc nhở chú về thân phận buồn tủi của chú mà thôi. Vì thương chú, và vì chưa biết cách nào giải tỏa mặc cảm của chú một cách hữu hiệu, thầy cũng chiều lòng chú, không sai chú ra ngoài nhiều và cũng tránh cho chú những dịp phải ra trước đám đông. Trải qua bốn năm, với tuổi đời thêm lớn, với sự học hỏi giáo lý, với sự tu tập thiền định, và với sự tiếp thọ đại giới để trở thành một vị tỳ kheo, chú dần dần thấy vơi đi những tình cảm lưu luyến xót xa cho chuyện tình thương tâm của cha mẹ. Nhưng cái mặc cảm sợ người khác biết rõ thân phận mình vẫn cứ đeo bám mãi trong lòng chú, không sao gột bỏ. Thầy biết vậy, cố gắng tháo gỡ cái mặc cảm đó cho chú lần nữa bằng một cuộc nói chuyện sau thời tụng kinh khuya: "Thanh Thị, con đã trở thành một vị đại đức, một vị lãnh đạo tinh thần xứng đáng cho đồ chúng noi gương tu tập. Vậy mà thầy thấy con như vẫn còn ôm ấp cái mặc cảm rằng mình thấp hèn, phải vậy không? Con nói đi, cái gì khiến con nghĩ như thế? Con có biết rằng chỉ một cái phiền não nhỏ nhặt còn sót lại trong tâm cũng đủ ngăn trở con tiến đến giải thoát hay không?" Thanh Thị không nói không rằng, lặng lẽ bỏ vào phòng. Thầy đến gõ cửa, đứng ngoài cửa nói vọng vào: "Hãy nhìn kỹ những gì thầy làm. Nếu việc thầy làm khiến con thấy thầy không xứng đáng là thầy của con nữa thì con hãy rời thầy mà đi tìm một minh sư khác để tham vấn. Con không thay đổi thì suốt một đời ở bên thầy cũng chỉ vô ích mà thôi. Làm sao thấy được vòm trời giải thoát chứ!" Nói rồi thầy bỏ đi. Thanh Thị thấy không khí im quá, biết là thầy không còn đứng ngoài cửa phòng mình. Thanh Thị thắc mắc không hiểu thầy đi đâu và làm gì. Chú bước ra, tìm thầy. Thầy không có trong chùa. Thầy đã đi ra ngoài. Chú bước ra cổng chùa nhìn hai bên thì thấy thầy đang cầm chổi quét ở xa xa. Thầy quét về hướng chợ. Chú bặm môi, rồi cắn răng chạy vào phòng mình, ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Thầy đã quét chợ như cha chú đã làm trước đây. Thầy muốn chứng minh cho chú thấy rằng việc quét chợ không có gì xấu mà còn là một hạnh nguyện cao cả chỉ có cha chú mới làm nổi. Nhưng, sự cố gắng của thầy không mang lại kết quả gì. Chú vẫn không sao chấp nhận được hành vi quét chợ cho dù thầy có khoác lên đó bao nhiêu ý nghĩa cao đẹp. Khi thầy quét chợ về, cất chổi dưới bếp, chú đón lạy thầy ngay ở thềm bếp, năn nỉ: "Lạy thầy, xin thầy đừng vì con mà phải nhọc đến thân tâm như thế. Xin thầy đừng làm vậy nữa, con không chịu nổi." Thầy không nói. Ngày mai thầy lại tiếp tục quét chợ. Chú lại lạy lục xin thầy chấm dứt. Thầy kiên quyết: "Ta chỉ ngưng khi nào con thực sự đốt cháy được cái mặc cảm và ý nghĩ cho rằng quét chợ là việc xấu hay thấp hèn. Con không thay đổi, sẽ không giải thoát, sẽ không tìm thấy an lạc cho dù đang khoác mặc tăng bào. Và nếu con không thay đổi, ta sẽ quét chợ cho đến khi nào ta nhắm mắt mới thôi." Thầy tiếp tục quét. Thanh Thị vẫn không thay đổi mà còn đau khổ hơn. Đến nỗi, chú bỏ thầy mà đi, chỉ ghi lại vài dòng vắn tắt rằng chú muốn đi tham học ở phương xa. Chú đi xa thật xa khỏi nơi chốn sinh ra và trưởng thành của mình để xóa đi bao hình ảnh, bao ý nghĩ đau buồn về thân phận. Chú tìm tới nhiều vị thầy để học hỏi, nhưng không vị thầy nào đả thông được những mặc cảm của chú. Một hôm, nghe đến danh tiếng của một vị thiền sư tên là Đại Ngốc, chú tức tốc tìm đến vị này để học đạo vì chú hy vọng rằng ông ta cũng mang một cái tên không được tao nhã, có thể ông ta sẽ có thuốc hay để chữa căn bệnh mặc cảm của chú. Chú nghĩ có lẽ đằng sau cái tên của vị thiền sư này cũng mang một quá khứ nếu không đau xót như chú thì cũng cay chua buồn cười chứ chẳng không. Thiền sư Đại Ngốc ẩn cư trong một am tranh trên núi cao. Khi lên tới nơi, chú thấy một cái bảng nhỏ treo trên một thân cây: "Đại Ngốc Am". Chú bước vào đảnh lễ thiền sư, hỏi ngay: "Bạch thầy, làm sao có thể gột bỏ được một danh từ chỉ đem lại cho mình những buồn phiền, khổ đau?" "Nó chỉ là một tên gọi giả tạo thì cần gì phải gột bỏ!" "Nhưng... rõ ràng là nó đeo bám và gợi lên bao điều đau xót cho con từ nhiều năm nay." "Đeo bám chỗ nào? Gợi lên cái gì? Ở đâu? Nói ta nghe!" Thanh Thị hốt nhiên giác ngộ lẽ sinh diệt huyễn hóa của muôn sự muôn vật, liền sụp lạy thiền sư mà về. Chú đi ngày đêm không dừng nghỉ, những mong về quỳ dưới chân thầy mà sám hối. * Từ hai năm rồi, khi Thanh Thị bỏ chùa mà đi, thầy Hải Chấn cứ mang chổi ra quét sân chùa rồi quét luôn tới chợ. Ban đầu thầy quét chỉ để thức tỉnh Thanh Thị, nhưng khi quét, thầy cảm nhận được nhiều ý nghĩa cũng như công dụng tu tập ngay trong chính sự việc quét chợ đó. Thầy tập trung tâm mình vào từng động tác quét, lắng nghe tiếng chổi khua nhẹ trên đất, nhìn ngọn chổi vờn trên cỏ rác... không phút giây nào mà không lắng lòng vào việc quét. Đến độ, thầy với cây chổi chỉ là một. Vì vậy, âm thanh náo loạn của chợ búa không ảnh hưởng, không tổn hại gì đến tự tâm thanh tịnh của thầy. Chính trong loạn động thầy tìm thấy sự tịch lặng. Và thầy có thể an lạc trong chính việc quét chợ tầm thường hàng ngày.Trong khi đó, hình bóng của thầy, việc quét dọn của thầy giữa chợ đời cũng làm cho khu chợ sạch sẽ hơn, bớt huyên náo xô bồ, và người ta cũng bớt cạnh tranh cãi vả nhau. Mỗi lúc thấy thầy quét đến chợ, người ta bỗng dưng giảm chuyện nói năng, có nói thì nói nhỏ giọng xuống. Đức độ của thầy làm thay đổi không khí chợ một cách rõ rệt. Hôm nay thầy đang quét đến giữa chợ, bỗng có người nắm lấy cây chổi của thầy, nói với giọng cung kính: "Bạch thầy, thầy hãy về nghỉ ngơi để con quét thay thầy." Thầy ngưng tay ngước nhìn và thấy Thanh Thị. Khuôn mặt của chú ấy không còn dấu vết của mặc cảm, khổ đau và phiền não. Thầy mỉm cười trao chổi cho chú quét, và thầy bước theo chú, từng bước chậm. Từ đó, cứ mỗi sáng, người ta thấy hai thầy trò tu sĩ cùng quét đường, quét chợ. Bóng dáng họ xuất hiện nơi đâu, sự an lạc lan tỏa ra đến đó. Hai năm sau, thầy Hải Chấn viên tịch. Trước khi từ giã cuộc đời, thầy gọi Thanh Thị đến bên thiền sàng, trao cho Thanh Thị cây chổi mà thầy thường dùng để quét chợ hàng ngày: "Đời thầy mấy mươi năm học đạo không ngờ đến tuổi xế chiều mới tìm thấy được đạo lớn từ cây chổi tầm thường này. Đây là tất cả công phu và ý chỉ của thầy. Con hãy giữ lấy mà đi cho trọn con đường của con." Nói rồi thầy hóa. Thanh Thị cất cây chổi đó trong phòng riêng của mình như một kỷ vật ghi lại hình ảnh cao đẹp của cha, của mẹ, và nhất là của thầy mình. Sáng hôm sau, Thanh Thị vẫn cứ quét chợ. Người ở chợ thấy Thanh Thị quét một mình thì biết rằng thầy Hải Chấn đức độ khả kính của họ đã mất. Thanh Thị quét chợ cho đến tuổi già. Mấy mươi năm không hề xao lãng. Bây giờ Thanh Thị đã trở thành một vị hòa thượng đạo đức thanh cao, nổi tiếng với cây chổi và hạnh nguyện quét chợ. Hải Thanh quét chợ sáu năm. Hải Chấn quét chợ bốn năm. Riêng Thanh Thị thì quét chợ đến sáu mươi năm. Bao khuôn mặt mới có cũ có, thay nhau ngồi bán hoặc đi mua sắm ở khu chợ, không ai mà không biết đến Thanh Thị quét chợ. Hình ảnh Thanh Thị đã trở nên quen thuộc và gắn liền với khu chợ khiến cho mọi người nẩy ý lấy tên vị hòa thượng này để đặt cho khu chợ: chợ Thanh Thị—một cái chợ sạch. Ngày Thanh Thị ngưng quét thì tuổi đã tám mươi tư. Ngày ấy, bầu trời u ám. Ngoài khu chợ, cỏ rác đầy mà chẳng thấy tăm dạng Thanh Thị đâu. Chợt nghe chuông chùa vẳng lại ba hồi buồn bã. Mọi người ở khu chợ bỗng sa lệ vì biết rằng vị hòa thượng già mang tên Thanh Thị sẽ không bao giờ cầm chổi ra quét chợ này nữa. Cả người bán lẫn khách mua đều sụt sùi khóc.1 like
-
Tốt nhất là nhà báo có mời thì cáo bệnh, khỏe.1 like
-
PHẦN TIẾP THEO ( Về Tướng phụ nữ ) G _ CHÍN ĐIỀU XẤU CỦA PHỤ NỮ . 1_Quyền cao , mặt xấu : Hại chồng . 2_ Lộ hầu : Chiêu họa . 3_ Đầu xù , mặt bẩn . : Bần tiện. 4_ Đi như rắn bò : Bần tiện , lao khổ . 5_ Cặp chân mày giao nhau , áp mắt : Cùng khốn . 6_ Cạnh mũi có vết móc câu : Hại chồng . 7_ Mắt lộ bốn phía lòng trắng : Vụng , hung hãn . 8 _ Tiếng nói như đàn ông : Khắc sát phu . 9_ Tóc xoăn như ốc : Bần tiện , keo kiệt , khắc tử . Nếu người đàn ông nào lấy người đàn bà bị một trong 9 điều xấu đó tất nhiên sẽ gặp nguy khốn vì đó không phải là tướng “ Vượng phu ích tử “ . H_ CHÍN ĐIỀU TỐT CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ 1_ Đầu tròn trán sáng ,bằng phẳng . 2_ Xương nhỏ nhắn , da mịn màng ,thanh sạch . 3_ Môi hồng, bộ răng đều và trắng . 4_ Cặp lông mày dài ,mắt thanh tú . 5_ Ngón tay thon, bàn tay đầy đặn . 6_ Tiếng nói nhẹ ,âm thanh như suối chẩy êm . 7_ Bước đi ngay ngắn , khoan thai ,tự nhiên .Tư thế nằm ngồi nhàn hạ . 8_ Cừơi mà không lơi lả ,không hở lợi . 9_ Thần khí thanh hòa ,da thơm mịn màng . Khi quan sát người phụ nữ mà không có điều kiện đi sâu xem chi tiết, chỉ thoáng qua nếu họ có đủ 3 tiêu chuẩn “ 3 trắng , 3 đen , 3 đỏ .” ta cũng đã thấy người phụ nữ này có tương lai sáng sủa . Ba trắng là : Da trắng , răng trắng , bàn tay trắng . Ba đen là : Tóc đen, mắt đen , lông mày đen . Ba đỏ là : Môi đỏ , lưỡi đỏ , móng tay đỏ .( Nếu được thêm một đỏ nữa là gót chân đỏ _ Ta thường nói gót chân son _thì càng hay .) Trước khi tạm dừng để tới các chương sau đề cập tới CHỈ TAY và NỐT RUỒI , LỐC CỐC TỬ tôi có một mẩu chuyện ngắn muốn kể lại cho các quý độc giả , chuyện này ngày xưa Mẹ tôi thường kể cho anh em chúng tôi . Chuyện kể rằng : “ Có một ông Thầy Tướng rất nổi tiếng khắp vùng ,khách tới xem đông lắm ! Một hôm có một người bạn ở phương xa đến nói rằng “ Tôi không tin về xem tướng ! “.Ông Thầy Tướng hỏi lại :” Tại sao anh không tin ? “. Anh kia nói :” Theo thầy nói chỉ có những người có tướng tốt như da trắng, tai to mặt lớn,v .v . .thì mới giầu có , hạnh phúc , con cháu mới thành đạt. Thế tại sao ở vùng quê kia có một tay địa chủ dáng người thì thấp bé , mắt lại lé ,da lại đen . . .mà tại sao mấy chục năm nay càng ngày càng giầu có . Vợ lại đảm đang , con cái học hành lại thi đỗ cao . Vậy là ngược lại với lời thầy nói .” Ông Thầy không tin, nói :” Anh đưa tôi đi tận nơi xem nhé ! “. Anh kia vui vẻ nhận lời . Sau mấy giờ lặn lội , khoảng gần trưa , hai người đến một nơi đồng ruộng thẳng cánh cò bay , lúa chin vàng nặng trĩu bông , đang vào mùa gặt .Anh bạn chợt chỉ tay đến một khoảng cách hơi xa có mấy người đang lúi húi gặt lúa : “ Người địa chủ mà tôi nói kia kìa .” Hai người tiến lại gần . Sau hồi chào hỏi ,tay bắt mặt mừng , người địa chủ mời cả hai về nhà . Mới đi được một đoạn ngắn, chợt người tá điền đi cạnh chỉ tay ra phía xa trên đường đi tới và nói với người địa chủ : “Ông chủ ơi ! Ở đằng kia có mấy người đang gặt trộm lúa của đồng ta ! Để tôi đến bắt họ giải lên quan nhé ! “ Nhưng người địa chủ ngăn lại và nói : “ Không được , năm nay đói kém , mất mùa , dân đói khổ mà ruông nhà ta lại tốt , cứ để cho họ lấy một ít có sao đâu ! Nhà ta có mất một ít thì vẫn thừa ăn ,nhưng họ không có ít đó thì gia đình họ sẽ đói !”. Nói xong ,ông địa chủ quay lại nói với anh bạn và ông thầy : “ Chúng ta đi đường này tắt về nhà gần hơn ,đừng để họ thấy chúng ta .” Ngừoi tá điền thì hậm hực , còn ông Thầy Tướng cúi đầu ngẫm nghĩ . Đến nhà người địa chủ quả nhiên như anh bạn nói . Nhà cửa khang trang sạch sẽ . Vào đến sân , những tá điền đang làm việc đứng dậy lễ phép cúi chào rồi lại tiếp tục làm . Bước vào hiên nhà bà vợ có tướng phúc hậu đon đả chào hỏi .Ngay sau đó bốn người con đủ trai , gái từ trong buồng bước ra khoanh tay lễ phép cúi chào . Vào đến trong nhà , ông Thầy thấy ngay một bàn thờ đang nghi ngút khói hương . Trên cao sát tường là ba bức tranh thờ Đức Phật Tổ Như Lai , Đúc Quan Thế Âm Bồ Tát và Đức Thánh Mẫu Thiên Cung .Đặt trên bàn thờ là 5 bát nhang đang tỏa khói hương thơm ngào ngạt , tàn nhang lộc xoắn suýt . Ông thầy Tướng quay sang nói với người bạn : “ Bây giờ tôi đã hiểu ra nguyên nhân . “ Nguyên nhân đó là gì chăc các độc giả đọc đến đây đã hiểu lý do mà người địa chủ có TƯỚNG MẠO xấu mà lại thành công vẹn tròn .Đó là TÂM ĐỨC . Các cụ từ xưa đã dậy chúng ta ĐỨC NĂNG THẮNG SỐ . Xin cám ơn các bạn đã bớt thời gian đọc câu chuyện này.1 like
-
Tướng mạo này vừa Phú vừa Trí nữa nhưng khuyết ở cửa sổ tâm hồn gây nên sự bất an cho người hợp tác, ngoài ra Thượng, trung, và Hạ Đình đều cân xứng!1 like