• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 24/04/2012 in all areas

  1. Hiểu biết về Tâm năng dưỡng sinh và Đạo Phật. Lê văn Cường Nghiên cứu về phương pháp giải bệnh không phải dùng thuốc thuộc bộ môn tâm năng dưỡng sinh - phục hồi sức khỏe đòi hỏi phải nghiên cứu sâu không những về khoa học tự nhiên thuộc các lĩnh vực vật lý, y khoa, giải phẫu cơ thể con người... mà còn cần phải hiểu rộng thêm về khoa học xã hội, các lý thuyết triết học âm dương ngũ hành, tâm lý học, tâm linh học và tôn giáo cụ thể như Đạo Phật. Càng nghiên cứu, tác giả bài viết này lại càng thấy nhận thức của con người nói chung còn hạn hẹp. Có những điều rất đơn giản, có ích lợi thiết thực trong cuộc sống nhưng vì chưa hiểu, chưa nhận thức ra nên đã làm phức tạp hóa thành ra khó hiểu. Thậm chí có thể vì lợi ích của bản thân hay của một nhóm người, người ta lại quy định ra những luật lệ, nguyên lý theo ý nghĩ chủ quan của mình. Ý nghĩ chủ quan đó nhầm tưởng là chân lý, nhưng thực ra không phải. Ví dụ như cộng đồng xã hội chẳng mấy ai hiểu gì về Đạo Phật, không hiểu gì về sự phát hiện vĩ đại của thái tử Tất Đạt Đa khi ngài phát hiện ra các quy luật tiến hóa trong thế giới tự nhiên nên đã quy định, xếp loại sự phát hiện đó là tôn giáo, không mang tính khoa học! Với tầm hiểu biết còn hạn chế, không nhận thức và chứng minh được sự tồn tại của thế giới tự nhiên siêu vi mô, nên đã khởi xướng “sáng tạo” ra đủ mọi học thuyết, đủ mọi chủ nghĩa... nào là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm... Tinh vi hơn, còn phân loại đặt ra cái gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng khoa học để rồi lấy đó làm nền tảng, làm “cơ sở khoa học”, ai không theo quỹ đạo đó thì không phải là khoa học, là thuộc dạng lạc hậu, “mê tín”, tôn giáo. Ngược lại, những người theo đạo có cảm nhận và có “niềm tin tôn giáo” về hiện thực có tồn tại các “thế giới siêu hình” lại không đủ trình độ làm bậc thầy của “đạo” khoa học để chứng minh nhận thức của “đạo” khoa học cần phải xem lại, định nghĩa lại để nhận thức của con người được gần với chân lý hơn, được tiến hóa cao hơn đúng với quy luật của thế giới tự nhiên hơn. Không loại trừ có nhiều nhóm người vì sự tham vọng danh lợi của bản thân, có thể có chút hiểu biết về “tâm linh”, nắm bắt được sự nhận thức còn hạn hẹp, có niềm tin mơ hồ của nhiều người tin vào “tâm linh”, “tôn giáo” để kiếm tiền, xã hội thường gọi là loại đồng cốt, xem bói... Cao cấp hơn có nhóm người lại lợi dụng “tôn giáo” để làm cái gọi là chính trị mong cầu sự sùng bái danh lợi bản thân, mong được làm “lãnh tụ”, “giáo chủ”. Do đó xã hội loài người càng trở nên phức tạp, đồng thau lẫn lộn không biết thế nào là phải, là đúng để có hướng vươn lên. Viết đến đây, tác giả bỗng hiểu thế nào cũng có người cho “ý kiến”: Cái ông này theo chủ nghĩa đảng phái, tôn giáo nào? nói ra những suy tư của mình nhằm mục đích gì? Xin trả lời ngay rằng tác giả không theo bất cứ một thứ chủ nghĩa hay đảng phái, tôn giáo nào. Chỉ là một con người bằng xương bằng thịt như những người bình thường khác, chỉ có mắc một bệnh không giống ai đó là bệnh lãnh cảm với danh lợi của bản thân nên thực sự cuộc sống có hoàn cảnh đúng nghĩa là con người thuộc loại vô sản. Vì có chút hiểu biết cả khoa học lẫn tôn giáo mà cộng đồng xã hội đã quy định phân loại như vậy nên viết ra để mọi người tham khảo, ai thấy có lợi cho bản thân mình thì thử ứng dụng, không thấy có lợi thì thôi chứ không phải vì thuộc loại vô sản nên tự quảng cáo “đánh bóng tên tuổi” để mong kiếm chút tài sản hoặc chút hư danh trên cõi đời này cũng như để quảng bá cho một đạo giáo nào. Nguyên nhân của sự hiểu biết về các loại “đạo” là do bà Phạm Thị Mai Cương, nguyên thứ trưởng Bộ tài chính, hiện đang là Giám đốc Trung tâm Tâm năng dưỡng sinh - phục hồi sức khỏe khuyến nghị nên tham gia vào Hội đồng khoa học của Trung tâm để nghiên cứu phương pháp giải bệnh không phải dùng tới thuốc có thực là khoa học hay không? Vì đây là một bộ môn mới phát triển, nhận thức của con người còn chưa rõ, có thể dễ có sự lập lờ danh giới giữa khoa học và niềm tin tôn giáo. Thấy đây là việc có ích cần phải tham gia nghiên cứu để hiểu thực chất của phương pháp chữa bệnh không mất tiền nên đã nhận lời. Quả thật, càng nghiên cứu về bộ môn TNDS này lại càng thấy đó là bộ môn thật sự khoa học rất có ích lợi cho con người cũng như cộng đồng xã hội. Không những thế lại càng nhận thấy quan niệm nhận thức về Đạo Phật là tôn giáo tín ngưỡng từ xưa đến nay của cộng đồng xã hội cần phải định hướng lại cho đúng. Sự phát hiện và tư tưởng của thái tử Tất Đạt Đa, (xưa nay mọi người thường tôn kính gọi là Đức Phật Thích Ca), là biện chứng khoa học rất cần thiết và rất có lợi cho con người cũng như cộng đồng xã hội chứ không phải là thứ tôn giáo, tín ngưỡng ai “có duyên thì nghe, không có duyên thì không nghe”. “Có duyên thì nghe...” nhưng nghe mà không hiểu sẽ lại trở thành “mê tín” có hại cho xã hội. Xuất phát từ phương pháp luyện tập TNDS, người luyện tập thu được kết quả có sức khỏe, giải được các bệnh tật mà không phải tốn tiền mua thuốc có những nét giống như sự “Thiền” của Đạo Phật. Có người đã đặt vấn đề vậy chăng phương pháp luyện tập TNDS mang hình thức tôn giáo? Có thể nói chính xác và đúng đắn rằng ông Nguyễn Văn Chiều người đã khởi xướng ra môn luyện tập TNDS này do bị tai nạn điện giật “chết lâm sàng”, (nguồn điện cao thế 600KV) đã tình cờ khai thác được tiềm năng của bản thân và tiếp cận hiểu được quy luật của tự nhiên, giải bệnh không cần dùng thuốc mà thái tử Tất Đạt Đa đã phát hiện ra cách đây hơn 2500 năm. Và sự phát hiện ra quy luật ứng dụng khai thác tiềm năng đang có sẵn trong con người của thái tử Tất Đạt Đa, (từ nay nói ngắn gọn là Đức Phật), bằng việc “Thiền định” là sự phát hiện khoa học chứ không phải là “mê tín”, tôn giáo. Đức Phật đã ứng dụng việc khai thác tiềm năng bằng sự “Thiền định” trong vòng 49 ngày dưới gốc cây bồ đề nơi rừng sâu yên tĩnh, nên trí tuệ của một con người bình thường như những người khác, trí tuệ ngài đã trở nên uyên bác, siêu phàm. Ngài đã khám phá ra nhiều quy luật của thế giới tự nhiên mà sau này các nhà khoa học lỗi lạc được cả thế giới ca tụng mới nhận thức khám phá ra. Phát hiện khoa học đầu tiên của Đức Phật cần nói đó là tính tương đối của không gian và thời gian trong vũ trụ. Năm 1905, ngài Einstein, nhà bác học được cả thế giới, nhất là giới khoa học vật lý tôn vinh là nhà khoa học vĩ đại của mọi thời đại vì đã phát hiện và chứng minh được không gian, thời gian mang tính tương đối chứ không phải là tuyệt đối không thay đổi như nhận thức của nhà bác học Newton trước đó. Thế nhưng có lẽ bị sự nhận thức Đạo Phật là tôn giáo nên mọi người trong cộng đồng xã hội không để ý tới nên không biết rằng điều đó Đức phật đã phát hiện ra trước tới hơn 2400 năm. Điều này được thể hiện ở kinh sách “Diệu pháp liên hoa”, ngài đã mô tả thời gian tại các cảnh giới (nói theo ngôn ngữ khoa học đó là các hệ quy chiếu khác nhau) trong vũ trụ là khác nhau. Ví dụ 1 ngày trên cõi cung trời đạo lợi tương đương với 1 thế kỷ đã trôi tại trần gian, tại trái đất nơi cộng đồng xã hội con người đang sinh sống. Không tin cứ ra các hiệu sách Phật giáo mua quyển “Diệu pháp liên hoa” đó về mà xem. Nếu là những người có lương tri khoa học và muốn có sự công bằng xã hội thì tại sao cộng đồng xã hội tôn vinh Einstein là nhà khoa học có trí tuệ lỗi lạc lại không tôn vinh Đức phật cũng là nhà khoa học có trí tuệ lỗi lạc? Vấn đề thứ hai cần phải kể đến tính khoa học về nhận thức vũ trụ của Đức Phật. Theo Đức Phật thì vũ trụ là “vô thỉ vô chung”, nghĩa là không biết được điểm đầu xuất phát từ đâu cũng như điểm kết thúc của vũ trụ vào thời gian nào. Nói chính xác khoa học là vũ trụ rộng mênh mông, không có giới hạn và nhất là không thể tính tuổi của vũ trụ. Thế nhưng nền khoa học vật lý vũ trụ hiện đại ngày nay trên thế giới lại “phát hiện” ra học thuyết vũ trụ được hình thành từ vụ nổ BigBang, và khoa học đã công bố tuổi của vũ trụ vào cỡ 13,7 tỷ năm, (từ khi vũ trụ co về một điểm kỳ dị không có kích thước và bùng nổ lan rộng ra, nhiệt độ nguội dần đã tạo ra mọi ngân hà, thiên hà, thế giới vật chất trong vũ trụ như trái đất hiện nay). Không nói ra thì khoa học thế giới bị nhầm đường lạc lối không thể phát triển, nói ra thì lại có thể bị gán cho là “kẻ ngạo mạn”,”phản khoa học” dám kinh thường tầm nhận thức tưởng là vô địch chỉ có đúng của khoa học hiện đại trên thế giới. Năm 2003, khi nhận được thông tin công bố khoa học của các nhà khoa học vật lý thiên văn có tiếng trên thế giới đã phát hiện ra 1 dải ngân hà mới hình thành cách xa trái đất 13,2 tỷ năm ánh sáng, (năm ánh sáng là thước đo khoảng cách trong vật lý thiên văn, nghĩa là khoảng cách mà ánh sáng là giới hạn của mọi vận tốc, là hằng số c≈300.000km/s không đổi di chuyển trong thời gian 1 năm). Tác giả đã thấy khoa học hiện đại của thế giới có cái gì đó trục trặc, mâu thuẫn. Nếu khoa học thế giới vẫn cứ khăng khăng cho là các phát hiện về vụ nổ Bigbang, về sự đã “khám phá” ra có dải ngân hà cách xa trái đất 13,2 tỷ năm ánh sáng là đúng, và vận tốc ánh sáng là hằng số tuyệt đối không đổi, là giới hạn lớn nhất của mọi vận tốc như ông Einstein đã phát biểu trong Thuyết tương đối, thì tác giả có thể xác định vị trí trái đất hiện nay chúng ta đang sống đang ở bên “rìa” vũ trụ. Lý do rất đơn giản, vì nếu có vụ nổ BigBang, trước đây toàn bộ vũ trụ co về một điểm sau đó mới nổ tung và dãn ra, tuổi của vũ trụ vào khoảng 13,7 tỷ năm và vận tốc ánh sáng là hằng số không đổi, theo logic khoa học thì như thế vũ trụ là hữu hạn và có bán kính tối đa khoảng 13,7 tỷ năm ánh sáng. Cái vụ phát hiện ra dải ngân hà cách xa trái đất 13,2 tỷ năm ánh sáng, tức có khoảng cách xấp xỉ bán kính vũ trụ và dải ngân hà phải có trước trái đất (do tia ánh sáng của nó phải mất 13,2 tỷ năm di chuyển nay mới tới được để các nhà khoa học mới biết), nói lên dải ngân hà ở gần tâm vũ trụ còn trái đất hiện đang ở “rìa” vũ trụ. Tác giả bài viết nhận xét như thế liệu có phải là có tư duy logic khoa học hay là “phản” khoa học? Rõ ràng là khoa học nhận thức về vũ trụ hiện nay có vấn đề và không phải bất cứ cái gì khoa học hiện đại nói ra đều là đúng, còn nhận thức dựa trên nhận thức của Đức Phật thì gán vào hàng tôn giáo, thì coi là không có “cơ sở khoa học”. Đó là chưa kể tới việc ứng dụng phát hiện ra tính tương đối của thời gian và không gian trong thuyết tương đối của Einstein mà khoa học thế giới công nhận là sự phát hiện khoa học vĩ đại để minh chứng cho nhận thức tuổi của vũ trụ khoảng 13,7 tỷ năm là sự ngộ nhận lấy được, là sự mâu thuẫn phản khoa học do tầm nhận thức khoa học còn bị hạn chế. Theo Einstein, thời gian tại hệ quy chiếu đứng yên khác với thời gian tại hệ quy chiếu chuyển động nhanh, thời gian trôi 1 năm tại hệ quy chiếu chuyển động nhanh có thể tương đương thời gian trôi 100 năm tại hệ quy chiếu đứng yên. Cũng theo tiên đề thứ nhất trong thuyết tương đối mọi quy luật vật lý diễn ra tại các hệ quy chiếu dù là đứng yên hay chuyển động thẳng đều là như nhau. Nghĩa là giả sử trái đất chúng ta là hệ quy chiếu đứng yên, khoa học của chúng ta chứng minh tuổi của vũ trụ khoảng 13,7 tỷ năm. Nhưng tại hệ quy chiếu chuyển động thẳng đều với tốc độ cực nhanh xấp xỉ tốc độ ánh sáng đã gây hiệu ứng biến đổi thời gian lớn, 1 triệu năm trôi tại trái đất tương đương 1 năm trôi tại hệ quy chiếu chuyển động đó. Các nhà khoa học trong cộng đồng xã hội tại hệ quy chiếu chuyển động đó, họ cũng tính tuổi của vũ trụ cũng khoảng 13,7 tỷ năm tính theo thời gian trôi của họ, tức tương đương 13,7 triệu tỷ năm đã trôi trên trái. (Do các quy luật vật lý diễn ra tại các hệ quy chiếu quán tính dù là đứng yên hay chuyển động thẳng đều là như nhau nên các phép tính toán cũng như nhau. Ông Galile, ông Newton và cả ông Einstein đều có chung một nhận xét này). Vậy theo các bạn thời gian hình thành vũ trụ là 13,7 tỷ năm đúng hay 13,7 triệu tỷ năm đúng? Chỉ có thể phát biểu phép tính toán của cả hai hệ quy chiếu đó đều đúng chứ không thể nói “chân lý” của hệ quy chiếu này là đúng còn “chân lý” của hệ quy chiếu kia là sai. Nghĩa là tuổi vũ trụ là 13,7 tỷ năm cũng đúng và tuổi vũ trụ là 13,7 triệu tỷ năm cũng đúng. Xin lỗi, nếu cho rằng tuổi của vũ trụ là 13,7 tỷ năm mới đúng còn cái tuổi 13,7 triệu tỷ năm là sai thì phải xóa ngay cái Thuyết tương đối của Einstein đi! Đáng tiếc là Thuyết tương đối của Einstein lại là khoa học đúng ở phương diện không gian và thời gian chỉ là tương đối trùng hợp với sự phát hiện của Đức Phật từ hơn 2500 trước đã được chính khoa học chứng minh là đúng. Nếu không có tầm nhìn sâu rộng, thấy được chân lý cũng chỉ là tương đối, mọi nhận thức “thượng đế sinh ra vũ trụ” hay vũ trụ được hình thành từ vụ nổ BigBang sẽ biến thành nhận thức của kẻ “ếch ngồi đáy giếng”. Qua đó mới thấy tầm hiểu biết và nhận thức của Đức Phật về vũ trụ rất khoa học đáng phải học tập. Ngài đã hiểu rõ sẽ có tình huống “ếch ngồi đáy giếng” nếu nói về tuổi của vũ trụ nên đã lịch sự nói vũ trụ là “vô thỉ vô chung”. Điều phát hiện khoa học thứ ba của Đức Phật, rất hiện thực khách quan, nên hiểu biết nhất là đối với những người muốn luyện tập TNDS để có sức khỏe tốt cả thân lẫn tâm cũng nên nghe để có niềm tin khoa học trong việc tu dưỡng. Trong kinh sách, Đức Phật nói ai cũng là phật, phật chưa thành, nhưng vì còn mắc nghiệp chướng, nghiệp chướng gây nên sự vô minh nên chưa hiểu, chưa nhận thức được ra. Nhưng con người qua tiến hóa, chăm chỉ tu dưỡng thân-tâm rồi cũng sẽ nhận thức, ngộ ra thành phật. Trong kinh sách, Ngài dành hẳn 1 chương nói về ông lão “thường bất khinh” để nói điều đó. Chương sách đó mô tả một ông lão như người “lẩn thẩn” gặp ai dù là người sang trọng quyền quý hay là kẻ ăn mày, ăn xin, “khố rách áo ôm”, ông lão “thường bất khinh” cũng tôn trọng, kính cẩn chào lạy: “Xin kính chào vị phật chưa thành”. Với cái trí bình thường thì cho hiện tượng ông lão “thường bất khinh” đó là điên rồ, lẩn thần, vô lý... Tại sao lại “kính trọng tất cả các loại người” một cách “vớ vẩn” thế? Phải hiểu sâu xa rằng: ý Đức Phật muốn nói trong mỗi một con người, ai cũng như ai đều có trong Tâm một tiềm năng rất lớn, một kho tàng tri thức khổng lồ nhưng chưa ai biết cách để khai thác. Ai khai thác được cái tiềm năng đang sẵn có của mình thì sẽ có trí tuệ, tri thức như Đức Phật. Vì thế ai cũng là Phật nên cần phải tôn trọng. Ngày nay, nền khoa học kỹ thuật thế giới đã phát triển tương đối cao và có bằng chứng để chứng minh sự phát hiện khoa học: Ai cũng là Phật, vì tạo hóa đã sinh ra ai cũng có những tiềm năng vô cùng to lớn trong cơ thể con người, nhưng chẳng ai biết mình có cái tiềm năng, kho tàng tri thức khổng lồ, to lớn đó nên vẫn là “Phật chưa thành” của Đức Phật. Cập nhật thông tin khoa học thế giới, được biết các nhà khoa học nghiên cứu về bộ não con người đã phát hiện ra bộ não con người có khoảng 100 tỷ tế bào nơ-ron thần kinh, nhưng đáng tiếc là thông thường cả một đời người, số lượng tế bào nơ-ron thần kinh chỉ sử dụng liên kết hoạt động chưa đến 1% tổng số lượng tế bào thần kinh của não bộ. Nếu số lượng tế bào nơ-ron liên kết sử dụng lớn hơn 1% , giả dụ ai đó liên kết sử dụng vào khoảng 10% trong tổng số hay nhiều hơn nữa thì người đó sẽ trở thành thiên tài, có thể nói là phi thường, có trí tuệ khoa học phát triển vượt xa các nhà bác học hiện đang là thần tượng của cả thế giới như ông Newton hay Einstein. (Xem tham khảo đoạn trích thông tin theo www.dacbietthuvi.net : Như vậy, chính khoa học hiện đại đang thừa nhận trong con người đang có một tiềm năng vô cùng to lớn nhưng chưa được khai thác, ai cũng có thể trở thành vĩ nhân, bác học, thiên tài, có sức thông tuệ như Phật, nói ngắn gọn là trở thành Phật hiểu biết mọi quy luật của thế giới tự nhiên hữu hình cũng như vô hình nếu khai thác được tiềm năng to lớn mình đang có, tức là số lượng tế bào nơ-ron thần kinh được liên kết sử dụng lớn hơn 1% tổng số đang có trong bộ não. Mặc nhiên câu chuyện ông lão “thường bất khinh” trong kinh Phật đã chứng minh Đức Phật đã phát hiện về điều mà khoa học hiện đại ngày nay mới khám phá về tiềm năng còn lãng phí trong bộ não con người. Những điều phát hiện khoa học của Đức Phật nêu trên, khiến chúng ta phải suy nghĩ học tập và nhận thức Đức Phật là nhà bác học vĩ đại, đừng nên xếp ngài vào hàng “tôn giáo”. Những gì ngài nói và thể hiện bằng việc làm cụ thể chẳng hạn như việc “thiền định” đều có ý nghĩa và là khoa học phản ánh quy luật đúng đắn của thế giới tự nhiên. Chúng ta những con người cụ thể sẽ mãi mãi là “phật chưa thành” nếu như không hiểu và không biết cách ứng dụng những phát hiện khoa học về phương pháp khai thác tiềm năng con người của Đức Phật. Trong đó sự “Thiền định” chính là phương pháp khai thác tiềm năng con người mà Đức Phật đã phát hiện ra. Lý giải chứng minh việc thiền định là phương pháp khai thác tiềm năng con người, ứng dụng làm tăng số lượng tế bào nơ-ron thần kinh liên kết sử dụng lớn hơn 1% tổng số tế bào trong não, không cần phải dài dòng, bất cứ ai là phật tử hoặc nghiên cứu về đạo phật cũng đều biết lịch sử quá trình đi đến giác ngộ thành Đạo của Đức Phật. Trước khi giác ngộ thành Đạo, Đức Phật đã theo học đủ các môn phái, các loại đạo đang hiện hành tại thời của ngài, kể cả cái đạo khổ hạnh, hành hạ cái thân xác bản thân nhưng cũng chẳng thu được kết quả gì. Cuối cùng, ngài phải đi một mình vào rừng sâu, tìm nơi yên tĩnh chẳng ai quấy rối để dễ bề “thiền định”, tức ngồi “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức”. Trong vòng 49 ngày cực kỳ gian khổ cuối cùng tiềm năng trong cơ thể con người của ngài được khai mở, ngài đã chứng ngộ thấy được toàn bộ các cảnh giới và các quy luật của thế giới tự nhiên. Từ chỗ theo học đủ các môn phái, các loại Đạo đều không có kết quả, cuối cùng ứng dụng ngồi “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức”, trong đạo Phật gọi là ngồi “thiền” lại có kết quả trí tuệ được mở mang, khai sáng thấy và hiểu được các quy luật của thế giới tự nhiên, của trời đất, vũ trụ thì rõ ràng phương pháp “thiền”, ngồi “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức” là phương pháp khai thác tiềm năng đang tiềm ẩn trong con người. Phương pháp “thiền” trong Đạo Phật và phương pháp ngồi “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức” trong Tâm năng dưỡng sinh giống nhau về bản chất đó là phương pháp ứng dụng khai thác tiềm năng trong cơ thể con người. Nhưng phương pháp “thiền” trong Đạo Phật khác với phương pháp luyện tập “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức” trong bộ môn TNDS ở chỗ: Thứ nhất, sự “thiền” trong Đạo Phật có nhiều loại theo các môn phái khác nhau. Ví dụ sự thiền định theo môn phái Bắc tông khác với sự thiền định theo môn phái Nam tông hoặc môn phái mật tông hay phổ độ chúng sinh. Khi các môn đồ thực hành “thiền” phải quán tưởng niệm các câu kinh, câu mật chú theo các thày đã thành đạo thuộc các môn phái đó hướng dẫn để lại nên có lẽ không còn nguyên bản chính gốc của Đức Phật Thích Ca, người đã phát hiện ra sự “thiền”. Ứng dụng “thiền” theo môn phái nào mới đúng? Khó quá, vì đó là cái đúng tương đối, môn phái nào cũng nhận thức môn phái của mình mới là đúng theo tinh thần của Đạo Phật và các trưởng môn cũng ứng dụng có hiệu quả nhất định trên thực tế. Có điều dễ thấy là môn phái nào sự ứng dụng có thể hợp với người này nhưng không hợp với người kia. Điều đó nói lên sự khác nhau về nội dung một đằng “thiền” quán tưởng niệm chú để kêu gọi mong cầu sự gia trì của các “đức phật đã thành” khai thông trí tuệ, một đằng “tĩnh tâm vô thức” quán tưởng đơn giản chỉ để thu năng lượng trực tiếp vào cơ thể mình mà không phải qua khâu trung gian gia trì hộ niệm của các “đức phật đã thành”. Thứ hai, mục đích của sự “thiền” trong Đạo Phật rất rộng, đỉnh cao nhất là tiến tới sự giác ngộ có trí tuệ phật để không bị nghiệp lực níu kéo không cho giải thoát khỏi quy luật luân hồi. Trong khi đó mục đích của phương pháp luyện tập TNDS chỉ giản đơn thiết thực giới hạn ở mức cân bằng năng lượng trong cơ thể của bản thân để giải bệnh phục hồi sức khỏe trong cuộc sống hiện tại. Thứ ba, Vì mục đích của sự “thiền” trong đạo phật là tiến tới đỉnh cao để thấy được bản thể vũ trụ, “thấy được chính mình” và trở thành Phật đã thành, nên rất khó có thể có thành tựu đạt hiệu quả ngay trong một kiếp người hiện tại. Đức Phật cũng đã từng nói để đạt được thành tựu trở thành Phật có thể phải tu dưỡng trong nhiều kiếp. Nghĩa là để khai thác được toàn bộ tiềm năng to lớn trong con người, đòi hỏi phải rất kiên trì, công phu tu dưỡng, không dễ gì đạt được hiệu quả ngay trong một thời gian ngắn, một kiếp người. Cũng là khác thác tiềm năng trong cơ thể con người, nhưng luyện tập TNDS chỉ tập trung khai thác trong phạm vi nhỏ, mục đích không cao siêu mà chỉ phục vụ cho việc có sức khỏe, giải được các bệnh trên cơ thể nên dễ đạt được hiệu quả trong thời gian ngắn và có ý nghĩa thiết thực ngay trong cuộc sống của kiếp người hiện tại. Thực tế cũng đã chỉ cho chúng ta thấy, sự khai thác được tiềm năng trong con người để có công năng trông thấy các cảnh giới khác, trông thấy “ma”, (người đã khuất) như những người gọi là nhà “ngoại cảm” là việc khá khó khăn. Chẳng thế mà hầu như các nhà “ngoại cảm” trước khi có công năng khác thường, tức khai thác được tiềm năng của bản thân, (tăng được mối liên kết của nhiều tế bào nơ-ron thần kinh còn chưa được sử dụng trong não bộ) cũng phải xẩy ra những biến cố, những cú sốc mạnh hệ thần kinh trong não như bị “điên khùng”, hoặc “chết lâm sàng”. Không trải qua các cú sốc, chỉ dựa vào sự “thiền” để khai thác tiềm năng trong con người để trông thấy các các trường năng lượng siêu hình trong không gian như các nhà “ngoại cảm” lại càng khó. Để khai thác tiềm năng tới mức đó đòi hỏi, người tu “thiền” phải dành nhiều thời gian để chỉ có chuyên tu “thiền”, tức là phải thoát tục, không sống cuộc sống của người bình thường, ngả hẳn theo đúng nghĩa là “thầy tăng” đi tu trong chùa theo đạo Phật, không theo đạo làm Người. Cần hiểu một thực tế logic khoa học rằng: Tạo hóa đã sinh làm con người, không ai tránh khỏi phải ăn uống để có sức khỏe duy trì sự tồn tại, phải mặc quần áo để bảo vệ thân thể, phải có quan hệ gia đình, xã hội...vì ai cũng có cha mẹ, hoặc vợ hay chồng, con cái, bè bạn... Đó là cái “duyên” cái đạo làm người nên khó có nhiều thời gian và điều kiện để thoát tục dứt bỏ mọi “duyên nợ” vào chùa thực hành chuyên tu “thiền” thành phật. Cách tốt nhất là hiểu đúng và tin vào sự phát hiện khoa học: Sự “thiền” hay “tĩnh tâm vô thức” là phương pháp khai thác tiềm năng đang ẩn chứa trong cơ thể con người của Đức Phật. Không có điều kiện tu dưỡng khai thác tiềm năng của bản thân để trở thành phật, có trí tuệ phật ngay trong kiếp này, thì rất nên khai thác tiềm năng dần dần trong phạm vi điều kiện có thể, như luyện tập TNDS để có sức khỏe tốt cả thân lẫn tâm phục vụ cái đạo đang làm Người hiện tại. Đã có sức khỏe tốt cả thân lẫn tâm thì cuộc sống sẽ hạnh phúc, tâm hồn luôn luôn thanh thản, an vui. Người luyện tập TNDS theo đạo làm Người tưởng như không phải là phật tử theo Đạo Phật, nhưng suy cho cùng lại chính là “phật tử” hiểu và ứng dụng sự phát kiến và lời dạy của Đức Phật có hiệu quả và khoa học nhất. Tại sao thực hành “thiền”, hay “tĩnh tâm vô thức”, sức khỏe của con người mau chóng phục hồi và có thể giải được bệnh tật? Quan sát cuộc sống xung quanh, chúng ta thấy có những quy luật rất giản đơn nhưng chẳng ai để ý đến để tìm hiểu xem tại sao nó thế. Ví dụ như tại sao trong vòng một ngày đêm, chu trình sống của con người phải chia làm hai giai đoạn thức và ngủ? Nếu cuộc sống của con người chỉ có thức, không có ngủ hoặc ngược lại, liệu có được không? Hiển nhiên khoa học y sinh học trả lời rằng: không thể được! Nếu chỉ có thức không có ngủ mỗi ngày vài tiếng đồng hồ thì sau một thời gian nhất định con người sẽ bị suy nhược hệ thần kinh dẫn đến ốm đau, bệnh tật, cơ thể héo mòn. Vậy sự ngủ có tác dụng gì? Ngủ thì bộ não con người tạm dừng mọi suy nghĩ, ý thức nhận biết để “bộ máy” cơ thể tự hồi phục, cân bằng lại những năng lượng đã bị tiêu hao trong lúc ý thức hoạt động. Để ý thêm sẽ thấy những người bị mệt mỏi, hay ốm đau bệnh tật thường hay ngủ li bì, nếu bệnh nặng thì hay mê man bất tỉnh, thời gian ngủ sẽ kéo dài nhiều hơn thức. Có thể kết luận là sự ngủ, tức ý thức không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào trong não bộ thì bộ phận tự điều chỉnh cơ thể cân bằng lại những năng lượng đã bị tiêu hao mới hoạt động. Đó là quy luật khách quan phản ánh thực tế sự sống của con người. Một nhận xét khách quan nữa là tục ngữ có câu: “...giận đến bầm gan, tím ruột”, nghĩa là sự “sân hận” quá mức, tức sự hoạt động của tư duy, ý thức quá mạnh (cái tâm không yên ổn, bị loạn động) sẽ ảnh hưởng tới nội tạng. Thực tế cũng thấy ai có tâm trạng hồi hộp, bồn chồn lo lắng thì nhịp tim sẽ tăng nhanh. Không chỉ sân hận hay hồi hộp mà mừng vui quá mức cũng gây sốc, ảnh hưởng tới các bộ phận của cơ thể. Có trường hợp, có người nhận được tin vui, tâm trạng mừng vui quá mức đến nỗi đứt cả dây thần kinh liên quan tới mắt thành ra mù lòa. Chẳng thế mà trong đạo phật, Đức Phật đã khuyên nên tránh mọi sự “tham, sân, si, hỷ, ái...” thái quá. Điều đó phản ánh cái tâm hồn con người phải thư thái, thanh thản thì bộ máy cơ thể con người mới bình yên không bị ảnh hưởng gây ra sự trục trặc. Sự “thiền” hay “tĩnh tâm vô thức” là sự dừng mọi ý nghĩ trong đầu, giống như trạng thái con người lúc ngủ cũng dừng mọi ý nghĩ để tâm hồn được tĩnh lặng, vì thế hệ thống tự điều chỉnh cơ thể trong con người mới được khởi động hoạt động. Sự “thiền” hay “tĩnh tâm vô thức” khác với trạng thái ngủ ở chỗ khi ngủ thì hệ thống tự điều chỉnh cơ thể ở thể bị động và hoạt động mạnh yếu tùy theo cơ địa của mỗi con người, còn sự “thiền”, hay “tĩnh tâm vô thức” ở thể chủ động kích hoạt hệ thống tự điều chỉnh cơ thể hoạt động không phải đợi đến lúc ở trạng thái ngủ mới có thể hoạt động. Ai đã từng trải qua thời học sinh, sinh viên có thể sẽ biết tại những kỳ thi chuyển cấp, quan trọng dễ gây ra tâm lý căng thẳng, hồi hộp lo lắng đối với học sinh. Nếu học sinh nào lúc bước vào phòng thi trong tâm trạng lo lắng, hồi hộp (tâm lý mất bình tĩnh) thì sẽ rối trí chẳng thể nhớ được kiến thức đã học để làm bài thi. Nhưng khi thi xong, tâm lý bình tĩnh trở lại, lại nhớ rất rõ những kiến thức đã học mà khi tại phòng thi mất bình tĩnh không thể nhớ được. Do vậy sự làm chủ tinh thần của bản thân muốn bình tĩnh là bình tĩnh được ngay rất cần thiết trong cuộc sống. Việc luyện tập TNDS, trong đó sự “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức” chính là phương pháp luyện tập làm chủ được tinh thần của bản thân để lúc nào cũng tỉnh táo, thanh thản, bình tĩnh giữ thăng bằng cho tâm hồn không bị những nghịch cảnh bên ngoài tác động khiến cho sóng não tăng mạnh, đột biến bất ngờ ảnh hưởng tới hệ thần kinh liên quan tới các bộ phận trong cơ thể cũng như không có được trạng thái tinh thần sáng suốt để giải quyết các công việc. Luyện tập để làm chủ tinh thần của bản thân là một việc tưởng như dễ, nhưng thực tế lại rất khó. Cứ thử ngồi “luyện thân bất động, tĩnh tâm vô thức” sẽ thấy chỉ sau một thời gian rất ngắn, chừng 5 đến 7 phút sẽ có bao nhiêu ý nghĩ ập đến mà ý nghĩ nào cũng “quan trọng” cần phải nghĩ khiến người luyện tập thấy sốt ruột. Không có nghị lực, tính kiên trì và sự hiểu rõ tác dụng rất tốt của việc luyện “tĩnh tâm vô thức” người luyện tập sẽ thấy nghi ngờ và bỏ cuộc. Do khó như vậy, mới phải rèn luyện, luyện “thiền” thường xuyên, kiên trì mỗi ngày. Hôm nay chỉ “tĩnh tâm vô thức” được có 5 phút, ngày mai cố gắng nâng lên 7 phút...cứ như vậy sau một thời gian mới có hiệu quả đúng nghĩa của sự “tĩnh tâm vô thức” liên tục trong vòng 60 phút của buổi tập. Lúc đó mới thực sự làm chủ được tinh thần của bản thân mình. Đức Phật thực tế đã trải nghiệm việc “thiền” hay “tĩnh tâm vô thức” nên hiểu rất rõ sự khó khăn đó. Ngài coi đó là cái nghiệp của từng con người, có người luyện tập dễ “thiền định” đúng nghĩa với trạng thái “trong lìa niệm, ngoài lìa cảnh” nhưng có người mặc dù ngồi “thiền” cả buổi, nhưng thực chất việc “tĩnh tâm vô thức”, “trong lìa niệm, ngoài lìa cảnh” đúng nghĩa chưa chắc đã được 10 phút liên tục. Ngài hiểu cái tính tham lam, ích kỷ hay sự sân, si, ái thường dễ tạo ra các luồng ý nghĩ trong đầu con người, hình tượng hóa đó là những “con ma”, “cái quỷ” nó đến quấy rối, phá không cho người “thiền” được khai thác tiềm năng, đi đúng đường chính đạo để được gặp “phật” tại tâm của chính mình. Thế nào là chính đạo? Chính đạo đó là con đường, là quy luật đúng đắn của tự nhiên dẫn con người gặp được “phật” tại tâm của chính mình. Gặp được phật tại tâm của chính mình, nghĩa là đã khai thác được tiềm năng, kho tàng trí tuệ to lớn đang ẩn chứa có sẵn trong tâm con người thì đương nhiên trí tuệ của con người sẽ là trí tuệ “phật”. Nói cách khác con người đã trở thành phật. Đó là lý do vì sao Đức phật khuyên con người theo đạo phật phải sống lương thiện, không làm điều độc ác hại người và tránh mọi sự “tham, sân, si...” Lý do đó rất logic khoa học, nếu trong bộ não của con người còn có ý nghĩ tham lam, ích kỷ hay si ái quá thì không thể luyện “thiền” để bộ não được tĩnh lặng không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào, không thể “trong lìa niệm, ngoài lìa cảnh” được. Muốn có sự “thiền”, tâm hồn yên tĩnh đúng với trạng thái “trong lìa niệm, ngoài lìa cảnh” để khai thác tiềm năng, kho tàng tri thức khổng lồ đang có sẵn trong tâm của mình thì điều kiện đầu tiên bắt buộc phải có là phải sống lương thiện, không được có trong đầu những ý nghĩ tham lam ích kỷ, mưu mô hại người... Tiếp thu được điều đó từ Phật trong tâm, nên ông Chiều nhà “ngoại cảm” do đã bị chết lâm sàng, người sáng lập ra phương pháp luyện tập TNDS cũng đã khuyến cáo người luyện tập TNDS phải sống thiện, thực hiện 6 điều nên làm và 6 điều không được làm để việc luyện tập TNDS cho con người có được sức khỏe, giải trừ tối đa bệnh tật trong người mới có hiệu quả. Tóm lại, luyện tập TNDS cũng như sự “thiền” trong Đạo phật là phương pháp khai thác tiềm năng trong cơ thể con người đúng quy luật khách quan của thế giới tự nhiên. Không có một vĩ nhân nào có thể ép buộc, uốn nắn được quy luật đó cũng như có thể “thiền” hay “tĩnh tâm vô thức” hộ cho mỗi cá nhân con người được. Tự mỗi một cá nhân con người phải tu dưỡng, phấn đấu nếu muốn khai thác tiềm năng của chính mình để có sức khỏe tốt, cuộc sống hạnh phúc cả thân lẫn tâm hay cao hơn là trở thành “Phật đã thành”. Sự “thiền” trong đạo phật là sự khai thác tiềm năng của con người ở mức cao, mong cầu đến mức “giác ngộ”, hiểu và thấy được các các “cảnh giới”, mọi quy luật của thế giới tự nhiên hữu hình cũng như vô hình thuộc về Đạo Phật. Còn luyện tập TNDS là khai thác tiềm năng của chính mình phục vụ cho con người có sức khỏe tốt vẫn sống an vui cùng cộng đồng xã hội nên thuộc về đạo làm Người. Luyện “thiền” hay luyện tập TNDS là phương pháp khoa học có lợi ích không những đối với riêng cá nhân mỗi con mà còn đối với cộng đồng xã hội con người. Bởi lẽ giản đơn rằng người luyện “thiền” hay luyện tập TNDS phải là người đã xác định suộc sống lương thiện, có đạo đức tình thương yêu con người thì mới có hiệu quả khai thác được tiềm năng trong cơ thể con người của mình, mới thu được năng lượng để có sức khỏe tốt cả thân lẫn tâm. Trong cộng đồng xã hội hầu hết mọi người tham gia luyện tập TNDS, tức là hầu hết con người sống trong cộng đồng xã hội đó đều có tâm, có đức, hướng thiện, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Hầu hết con người trong cộng đồng xã hội tốt đẹp như thế thì làm sao có chỗ đứng của sự tham lam, nhũng nhiễu, ác độc, ích kỷ, sống với phương châm lẽ sống “mọi người vì mình” ? Đương nhiên lẽ sống “mình vì mọi người” sẽ là lẽ sống chung của xã hội nếu xã hội đó có đa số, đông đảo người tham gia vào luyện “thiền”, tham gia vào phong trào luyện tập TNDS-PHSK. Hà nội, ngày 18/4/2012 Lê văn Cường
    3 likes
  2. TÙY DUYÊN CUỘC SỐNG Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệ và chấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống. Những việc đã và đang diễn ra trong cuộc sống chúng ta đều là những bài học làm tăng thêm vốn kinh nghiệm cho bản thân dù đó là những việc tốt hay xấu, đem đến thành công hay thất bại. Ngày tam phục - mùa mà cái nóng oi bức nhất trong năm, cả vườn cỏ của thiền viện đã trở thành một thảm cỏ khô vàng. "Phát dọn cho sạch sẽ đám cỏ này đi, thế này thì thật là khó coi quá!" Chú tiểu nói. "Đợi trời mát đã." Sư phụ vẫy vẫy tay, "Tùy thời". Trung thu, Sư phụ lại mua về một bao hạt cỏ giống, gọi chú tiểu đem bao hạt giống này đi gieo. Gió mùa thu trỗi lên và cuốn đi những hạt giống vừa gieo. "Không xong rồi! Các hạt giống bị gió thổi bay đi cả rồi", chú tiểu kêu la. “Thôi đi con, không sao đâu, hạt giống vẫn còn rất nhiều, gió cuốn đi cũng không mọc được.” Sư phụ nói, "Tùy tính". Sau khi cơn gió đã lấy đi những hạt giống, tiếp theo lại có mấy chú chim đáp xuống mổ ăn. "Chết rồi! Hạt cỏ giống lại bị chim ăn hết rồi!" chú tiểu vừa nhảy vừa la. "Không sao! Hạt giống còn nhiều, ăn không hết đâu!" Sư phụ nói, "Tùy ngộ". Nữa đêm lại bị một trận mưa dữ dội. Vừa mờ sáng chú tiểu vội vã chạy vào phòng thầy: "Sư phụ, lần này thì xong thật rồi! Những hạt giống bị mưa cuốn trôi hết rồi" "Trôi đến đâu, thì nó sẽ mọc ở đó." Sư phụ nói, "Tùy duyên". Hơn nữa tháng sau, một vùng đất trơ trụi lúc trước giờ lại mọc lên những mầm cỏ non xanh biên biết, có một số ngốc ngách không hề gieo trồng nhưng vẫn mọc lên xanh rờn. Chú tiểu vỗ tay và vô cùng vui sướng. Sư phụ gật gật đầu: "Tùy hỷ". (lược dịch) Cảm nhận cuộc sống: Tùy duyên trong cuộc sống không có nghĩa là phó thác cuộc đời mình cho tự nhiên, cho xã hội quyết định. Không phải như những cành cây khô mặc tình cho dòng nước cuốn trôi, vùi dập để rồi một lúc nào đó dòng nước lại dạt chúng vào bờ, đây là sự biểu lộ vô ý thức, không định hướng. Mà tùy duyên là sự hòa mình vào tự nhiên để giúp thiên nhiên, là sự dấn thân vào xã hội để góp phần điều chỉnh những hành vi xấu, bất thiện đang tồn tại trong xã hội. Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệ và chấp trách bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống. Những việc đã và đang diễn ra trong cuộc sống chúng ta đều là những bài học làm tăng thêm vốn kinh nghiệm cho bản thân dù đó là những việc tốt hay xấu, đem đến thành công hay thất bại. Với những kinh nghiệm ấy chúng ta sẽ sử dụng chúng trong cuộc sống hiện tại và tương lai, sử dụng chúng để tiếp nhận và ứng phó đối với những gì đang và sẽ diễn ra. Những hiện tượng của cuộc sống, của xã hội đều là vô định tính. Con người, xã hội và điều kiện cuộc sống luôn thay đổi và chuyển động, đây là sự tồn tại hoàn toàn hiện thực và khách quan. Bởi lẽ, mọi việc trong cuộc sống không phải lúc nào chúng ta cũng có thể sắp đặt được, có những sự việc do mình sắp xếp, nhưng cũng có những việc do thiên nhiên và nhân duyên phối hợp tạo nên. Vì thế, chúng ta không thể trốn tránh những gì đang diễn ra trong cuộc sống, ngược lại chúng ta phải đối diện, phải có bản lĩnh đối đầu và giải quyết theo những gì vốn có và đang diễn ra đó. Cần hòa mình vào hành trình cuộc sống để rồi từ đó có thể đóng góp và cống hiến cho cuộc sống những gì tốt đẹp mà mình đang có và xã hội đang cần. Cuộc sống là mảnh đất để chúng ta sống và thực hiện lý tưởng của chính mình. Đây chính là giá trị thực tiễn của sự "Tùy duyên". Sự biểu lộ của nước là hình ảnh, là tấm gương của lối sống tùy duyên. Nước dù ở điều kiện nào, môi trường nào chúng vẫn thích ứng "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài", dù thay đổi hình thức, tướng dạng nhưng không hề thay đổi bản chất của nó. Đây là tinh thần "Tùy duyên bất biến", tùy duyên là để thuận theo nguyên lý cuộc sống, bản chất cuộc sống; Sống Đời mà không mất Đạo, với tinh thần này chúng ta có thể hiện hữu khắp nơi cùng chốn, hiện hữu trong từ ý niệm, hiện hữu trong từng cử chỉ hành vi. Nếu chúng ta có thể sống và dùng được tinh thần "Tùy duyên bất biến" thì chúng ta sẽ luôn luôn duy trì được ánh sáng của tự tâm, sẽ không bị những cám dỗ lôi kéo, không bị bất cứ hiện tượng sự vật nào làm cản trở hoặc đánh mất giá trị cuộc sống, con đường lý tưởng của chúng ta. Hay tuyệt ! - Sưu tầm
    3 likes
  3. Trần Long xin giới thiệu đến mọi người một loại thuốc mà Trần Long nghĩ là nên có trong tủ thuốc của gia đình, Trần Long đã dùng qua và thấy rất hiệu quả khi bị rối loạn tiêu hóa, đau bụng tiêu chảy..... COLOSOL - Liệu pháp cho viêm đại tràng cấp và mãn tính. Thành phần: - Lactobacillus rhamnosus lysate 100mg - Bạch truật 150 mg - Bạch phục linh 150 mg - Hoài sơn 100 mg Cơ chế tác dụng: Bạch Truật (Atractylodes alba) Bạch truật có vị ngọt đắng, mùi thơmnhẹ, tính ấm, có tác dụng kiện tỳ, táo thấp, chỉ tả, hoà trung, lợi thuỷ, anthai. Bạch truật được coi là một vị thuốc bổ, bồidưỡng và được dùng điều trị các chứng bệnh đau dạ dày, bụng trướng đầy, nônmửa, ăn chậm tiêu, thấp nhiệt, tiêu chảy, phân sống, viêm ruột mãn tính, anthai trong trường hợp có thai đau bụng, ốm nghén nôn oẹ, chữa sốt trong cáctrường hợp sốt ra mồ hôi, phù thũng. Lactobacillus rhamnosus lysate là một trong các vi khuẩn lành tính có trong sữa, nhưngnó không phải vi khuẩn sống, mà chỉ là vách peptidoglycan của tế bào vi khuẩn.Trong quá trình tìm hiểu tại sao Lactobacillus rhamnosus có khả năngtăng cường miễn dịch, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng phần vách tế bào saukhi bị phân giải có hiệu quả điều hòa và kích thích hệ miễn dịch nhiều hơn bộilần do với vi khuẩn sống. Lactobacillus rhamnosus đặc biệt liên quan đến sự phòng ngừa hay giảm bớt những rối loạn đường ruột như tínhkhông dung nạp được đường lactose, bệnh tiêuchảy do virus hay vi khuẩn gây ra, táo bón, viêm đường ruột, dị ứng thứcăn. Bạch phục linh (Poria cocos) vị ngọtnhạt, tính bình, vào các kinh tâm, phế, thận, tỳ,vị có tác dụng lợi thuỷ, thẩmthấp, kiện tỳ, định tâm, an thần. Phục linh được dùng làm thuốc bổ chữa suynhược, chóng mặt, di mộng tinh; lợi tiểu chữa phù thũng, bụng đầy trướng, tiêuchảy, tỳ hư, ăn kém; an thần, trấn tĩnh, chữa mất ngủ. Hoài Sơn (Diascorea persimilis) có vị ngọt, tính bình, vào các kinh phế,tỳ, vị , thận. Có tác dụng bổ tỳ, dưỡng vị,sinh tân, ích phế, bổ thận, chỉ khát. Hoài sơn được coi là một vị thuốc bổ,chữa tỳ vị hư nhược, ăn uống kém tiêu, viêm ruột kinh niên, tiêu chảy kinh niên,tiêu chảy lâu ngày không khỏi, phế hư ho hen, bệnh tiểu đường, di tinh, diniệu, bạch đới. Công dụng: -Giúp tăng cường sức khỏe. -Hỗ trợ điều trị viêm ruột, viêm đại tràng mạn tính. -Giúp giảm loạn khuẩn đường ruột, rối loạn tiêu hóa, ăn uống kém do tiêu chảy kéo dài. Cách dùng: - Ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 1 - 2 gói, uống tốt nhất khi đói, trước khi ăn 30 - 60 phút.
    2 likes
  4. 1 like
  5. Chồng 83, vợ 81. Tuổi vợ chồng chị và con đầu ko HẠP. cháu hay ốm vặt, ko nge lời mẹ phải ko? con út: 2012, 2018
    1 like
  6. Điều bác khẳng định cũng là mong muốn của NASA với chúng ta, Những màu sắc sặc sỡ được thêu lên quanh một mô hình hạn chế, cũng như là tin vào sự hạn chế trong khả năng mỗi người. Chúng ta quen việc có bệnh thì tìm bác sỹ, và quên rằng bản thân ta chính là bác sỹ tốt nhất. Những mô hình sống quen thuộc đã vô tình mang lại bệnh tật cho cơ thể như: đồ ăn nhanh, rượu bia, uống đồ uống có gas, bận rộn trong vòng quay của cuộc sống. Nếu có một thoáng chúng ta quên đi vòng quay không ngừng nghỉ này, và trong giây phút đó, bạn có dành thời gian để nghỉ ngơi cho chính mình không? Cháu tôn trọng quan điểm của bác,
    1 like
  7. Những tư liệu mà anh đưa lên với cuốn sách nói trên tôi cũng xem rồi. Nhưng tôi chẳng bao giờ tin vào sinh vật sống ngoài hành tinh cả. Quan điểm của tôi rất dứt khoát:Không hề có sinh vật sống từ những hành tinh khác ngoài Trái Đất. Đã có lần một tờ báo có uy tín của Nasa đăng bài viết của một nhà khoa học tên tuổi của họ xác định rằng: Tìm thấy hóa thạch vi khuẩn trong một thiên thạch. Tôi dứt khoát bác bỏ và xác định rằng đây là sai lầm của nhà khoa học này. Vài hôm sau Nasa cải chính bài báo trên. Tôi đúng. Tôi không muốn tranh luận về điều này.
    1 like
  8. chả biết NASA giải thích thế nào về kim tự tháp dưới biển, tôi nghĩ đơn giản là do sự dịch chuyển của nền địa chất. Cụ thể là bị chìm xuống biển. Nếu xây đc dưới đáy biển mà vẫn xây thô sơ như trên ảnh thì nói thật là óc thẩm mĩ có vấn đề. Nhưng cũng đúng là nhiều hiện tượng bây h chưa giải thích đc.
    1 like
  9. Trong ảnh và video, 1 cái đầu của người khổng lồ đã to bằng 1 người thường ta rồi. Nhưng tôi ko tin lắm về những hình ảnh người khổng lồ trên. cấu trúc xương của người khổng lồ ko thể y hệt như của người thường đc. Vì nó phải đỡ 1 trọng lượng rất lớn. Kể cả xương đó có cứng như thép đi chăng nữa thì cấu trúc xương cũng ko thể giống đến 99,9% như ảnh đc. báo chí phương tây nhiều khi cũng lá cải, việc cắt ghép là hoàn toàn có thể.
    1 like
  10. anh down bộ gõ tiếng Việt tại đây. anh chị sinh 2015, 2016. Có 2 năm này là hợp với anh chị thôi.
    1 like
  11. Con người xuất hiện trên trái Đất từ bao giờ thì chuyện đó tìm hiểu sau; hoặc để các thế hệ sau tiếp tục tìm hiểu! Vấn đề là theo anh vũ trụ này có tiến hóa không và trên quả Địa cầu này thuyết tiến hóa có phản ánh đúng sự thật về sự tiến hóa không? Nếu không thì nó xuất hiện theo cách như thế nào. Nếu có thì câu chuyện bàn sang đề tài khác.
    1 like
  12. Được biết có đệ tử của lương Y Võ Hoàng Yên chữa bệnh cứu người theo phương pháp của Ông, hiện nay đang ở Tp HCM cụ thể là Quận tân bình ai có thân nhân bị những chứng như trên liên hệ sô đt văn phòng trung tâm (ngoài trang chủ diễn đàn) chúng tôi xin cuộc hẹn và được chữa trị!
    1 like
  13. Chúng tôi không đi sâu vào sự huyền bí của những lời đồn thổi bởi cũng chỉ là nghe lại truyền nhau kể lại, chúng tôi chỉ khảo sát một hiện tượng và ứng dụng Thần Chú với mong muốn họ dù là ai cũng được Giải Thoát ở thế giới hiện sinh hay tâm linh tất cả đều đáng được hưởng một khi đặt sự tín tâm vào gốc từ bi của Đức Phật. Trần sao Âm vậy người đại diện cao nhất là Sư Phụ đã lâm râm cất lời thương lượng và thước đo cho sự thỏa thuận ấy là quả lắc đã xoay tròn. Hy vọng! Vâng tôi rất hy vọng với sự toàn năng cao cả của Thần Chú họ sẽ được diệt trừ tội chướng của 300 triệu kiếp và siêu sinh về cõi tịnh độ. Chuyến đi này Trung tâm NCLH ĐP đã làm đúng tiêu chí Lý Học là chân lý của sự Nhân đạọ cho cả 2 phần âm dương được thuận hòa. Tiếp theo với chuyên môn của Trung Tâm, SP cũng đã nhiệt tình xem xét Phong Thủy của Ngôi Chùa, Chẳng biết Sư Thầy đón nhận sự nhiệt tình của chúng ta thế nào nhưng dù có hoài nghi đi nữa thì Sư Thầy cũng cảm nhận được việc chúng ta làm hôm nay hoàn toàn được gieo duyên và dẫn dắt của Thần Chú Giải Thoát. Âm thầm mà không danh lợi! Sư Thầy đã cho chúng ta xem bản vẽ cho việc tái thiết lại ngôi chùa. ACE mỗi người 1 ý nghĩ khi đứng giữa sự hoang sơ của cánh rừng.
    1 like
  14. 2. Câu chuyện cô gái treo cổ ở cây đa này đã là vài chục năm về trước, lúc đó cây còn thấp chứ ko như bây giờ. Đừng lấy cái hiện tại suy xét quá khứ chứ! Qua kiểm tra con lắc và khu vực xung quanh thì cây đa này đa có từ thời chiến tranh, và cạnh cây đa này cũng có thêm 2 cây đa khác nhưng sau khi làm đường người ta đã chặt 2 cây giáp ngoài đường, còn lại cây này. Trước đây khu vực này là rừng, thuộc địa phận chiến trường khu D nổi tiếng trong lịch sử, bây giờ khu này gần với Hồ Trị An.
    1 like
  15. Tiền mất tật mang khi chữa ung thư ở Trung Quốc Mỗi lần sang chữa bên đó kinh phí tăng theo cấp số cộng, còn nghe ngóng trong người lại oải theo cấp số “trừ”, một ngày, anh chợt nhận ra tóc rụng dần, chân tay teo tóp, bụng lại có vẻ căng cứng... Tôi có anh bạn là chuyên viên cao cấp ngạch tổ chức cán bộ thuộc Bộ Kinh tế lớn, nghỉ hưu vẫn sung sức. Trong các cuộc VLC (vui là chính) anh cười phe phé, phong độ như thời đương nhiệm, nay đây, mai đó. Bỗng một dạo vắng tiếng, hỏi ra mới biết anh dính bệnh nan y. Số là, có đứa cháu quen ở bệnh viện mới sắm máy chiếu chụp hiện đại, kiểm tra toàn thân, phát hiện bệnh sớm, mời ông vào kiểm tra đang dịp khuyến mại. Khi nhận kết quả, mới tá hoả có khối u đại tràng. Bệnh viện K sinh thiết xác định ác tính. Nhập viện vào Khoa A, hội chẩn ngay. Kiểm tra bệnh bằng máy tại BV K Hà Nội. Ảnh: Tuổi trẻ Đang rối như tơ vò, anh được mách một bệnh viện chữa Ung thư có tiếng ở Quảng Châu (Trung Quốc) chữa được. Nghe quảng cáo như đang đuối nước vớ được cọc. Quảng cáo "hoành tráng" Nào là bệnh viện dùng dao quang động lực diệt tận gốc tế bào ưng thư, không phẫu thuật, không xạ trị, bởi ánh sáng của dao quang học là ánh sáng kích quang nên chỉ cần chút ánh sáng của nó có thể tiêu diệt tận gốc các tế bào quái ác này. Rồi phương pháp dao đông lạnh điều trị ung thư không đau đớn, vì không phải là con dao như thường, mà là hệ thống tiêu diệt bằng hơi lạnh ar-he. So với phương pháp phẫu thuật truyền thống thì sự tổn hại của phương pháp dao đông lạnh là rất nhỏ, nó đã được triển khai hơn sáu năm nay và đã có vài chục ngàn ca phẫu thuật, trong đó có hơn ngàn ca ung thư gan, kết quả rất tốt. Lại còn phương pháp cấy phóng xạ - sự lựa chọn tối ưu cho khối các tính tái phát, tận dụng đặc điểm liên tục phát ra tia xạ với liều lượng thấp để giết chết tế bào ung thư. Phương pháp này, giúp bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối kéo dài tuổi thọ và nâng cao chất lượng cuộc sống, còn giai đoạn đầu và giữa có thể triệt tiêu khối u hoàn toàn...vân vân và vân vân. Chào hàng còn dẫn lời các danh y Lưu Viện Sanh, Bành Xích Hiểu, khẳng định ưu thế của các phương pháp này. Họ còn nêu danh tính các bệnh nhân người Việt Nam thậm chí cả người Hồng Kông, Nhật Bản đã sang đây chữa trị, đều từ cõi chết trở về chói lọi... . Còn nghe nói lãnh đạo cấp cao của nước họ chỉ đạo sẽ xây dựng thành trung tâm ung bướu quốc tế. Không thể chần chừ, vả lại với khoản kinh phí chào hàng cho mỗi đợt - một tháng, chỉ hơn trăm triệu đồng, vô tư đi. Anh liên hệ với Văn phòng Đại diện tư vấn của họ tại Hà Nội, lên đường sớm để vái tứ phương, không chờ kết quả hội chẩn của bệnh viện nhà. Kinh phí cấp số cộng, người oải cấp số trừ Bay sang, nhập viện anh thấy quyết định của mình là sáng suốt. Cơ ngơi hoành tráng, phòng ốc khang trang, đón tiếp niềm nở, được rót ngay thứ tiếng Việt lơ lớ vùng giáp biên: Cái “nỉ sé” khỏi mà, ở “tây bá sí” giỏi lắm à. Nhưng mới chỉ qua thăm khám lập bệnh án, anh đã giật mình, đủ thứ tiền, chi phí đợt một đã vượt quá xa lời giao giá đặt cọc. Rồi bất đồng ngôn ngữ, muốn kể bệnh, cần cái này, muốn thứ kia, đều phải qua thông dịch - điều mà chú em đi cùng dù dùng hết cả tay, chân không thể nào chuyển tải được, chỉ được nghe lủng sủng loảng soảng ù tai. Loáng một cái đã một tháng - thời hạn cho một đợt, anh phải xuất cảnh. Về nhà mọi người ào đến thăm, thấy anh tự tin, da dẻ đỏ đắn, ai nấy đều mừng. Đến hẹn, anh sang chữa đợt hai. Cứ mơ màng, khi tỉnh, lúc mê, anh chẳng nhớ chữa chạy, thuốc thang những gì, chỉ thấy cũng loáng đã hết một tháng, lại xuất cảnh. Chỉ khác lần trước là, lúc khăn gói hồi hương, anh được dặn rằng về nhà vài hôm phải vào bệnh viện ta để “bổ dưỡng”. Cứ tưởng là nói đùa, hoá ra về được vài ngày anh thấy người là lạ, phải nhập chính bệnh viện hôm trước anh dứt áo ra đi, nay tiếp nhận lại mọi người vẫn tận tình. Rồi theo hẹn của bên kia, anh lại sang đợt ba. Lần này anh vẫn không hiểu đã được điều trị thế nào, phần vì chẳng đọc được các dòng chữ loằng ngoằng, phần không kè kè người phiên dịch, dẫn đến chỗ này thì lò dò đến, tới giờ bảo uống thuốc kia thì...ực. Nhưng chi phí thì biết ngay, tốn hơn hai lần trước. Thời hạn một tháng cũng vèo trôi, mà bệnh cứ dềnh dàng, thành thử đợt này quá hạn visa 4 ngày, khi xuất cảnh anh bị phạt, rồi phải xin visa mới, ngót nghét nhẩm tính gần triệu đồng tiền Việt. Cũng theo kịch bản cũ, về nước vài ngày, anh lại vào bệnh viện ta để “bổ dưỡng”. Nghe hai lần anh nói đến chữ “bổ dưỡng”, tôi thóc mách hỏi, thì ra chữa trị ở bên kia sinh ra chứng thiếu hồng cầu, về Việt Nam phải tức tốc vào bệnh viện bổ sung, chậm thì đứt. Đến lần này, chính bác sĩ chủ nhiệm khoa từng tiếp nhận anh ban đầu khuyên cứ ở nhà, chưa nói trước được thế nào, nhưng cùng vào với anh ngày ấy, có bệnh nhân đồng nghiệp của anh, phẫu thuật đã ra viện, sinh hoạt có cách rách, song kiểm tra hai lần thấy ổn. Điểm lại, anh thấy mỗi lần sang chữa bên đó kinh phí tăng theo cấp số cộng, còn nghe ngóng trong người lại oải theo cấp số “trừ”. Một ngày, anh chợt nhận ra tóc rụng dần, chân tay teo tóp, bụng lại có vẻ căng cứng. Chỉ khi bắt gặp ánh mắt u uất của người nhà, bạn bè đến thăm nhiều, anh rờn rợn đoán ra điều gì. Nhưng nhớ lời bệnh viện hiện đại phải kiên trì, trót đâm lao phải theo lao, anh lại lên đường lần thứ tư. Sau lần thứ tư, anh không còn "sức" để bay đi, bay về nữa. “Sức” hàm ý cả lực bản thân đã cạn, cả lương khô dành dụm cả đời làm công bộc cũng vơi, con cái làm ăn xa khó nghỉ dài ngày bay sang thăm nuôi, đành tạm trú tại bệnh viện nhà. Mọi người cũng vẫn tận tình, nhưng bó tay chấm com. Chỉ hơn tháng sau anh “đi”, khi mẹ già ngoài chín mươi đang quặt quẹo ở quê. Xin thắp nén hương nhân ngày giỗ đầu của anh! Độc giả Nguyễn Duy Nghĩa nguồn: Vietnamnet.vn
    1 like
  16. Tiffany Gardere: A Special Fighter [Posted 13th July 2007] Tiffany Gardere is not special just because she is the daughter of Master Eric Gardere – 9Th degree, owner/instructor of the Twin Tigers Kung Fu studio in Los Banos CA. She is different, a true fighter. Tiffany Gardere không chỉ đặc biệt vì cô là con gái của Ngài Eric Gardere - ông chủ, đồng thời là huấn luyện viên cấp độ 9 của lò Kungfu Những chú hổ sinh đôi ở Los Banos CA. Hơn thế nữa, cô là một chiến binh thực sự, một chiến binh khác biệt. Tiffany has trained in the martial arts since she was 4 years old. She was a natural. By the time Master Eric opened his studio in Los Banos, Tiffany was ready to compete in the tournament circuit, which she did for two seasons. On opening of the third season, Tiffany went to her father and asked if she could compete in the point sparring division. He refused her request, but she was persistent, and eventually he said yes. To everyone’s surprise, she was good. She started to dominate her division in point sparring. Tiffany đã được đào tạo võ thuật từ khi cô 4 tuổi. Cô ấy là một bản năng võ thuật. Vào thời gian ngài Eric đã mở lò luyện võ của mình ở Los Banos, Tiffany đã sẵn sàng để tham gia tranh tài các giải đấu, và cô đã hoàn thành hai mùa giải. Vào ngày khai mạc mùa giải thứ ba, Tiffany tới cùng cha mình, cô đã hỏi Eric để được tham gia thi đấu. Ông từ chối yêu cầu của cô, nhưng cô liên tục nài nỉ, và cuối cùng ông đã chấp thuận. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, cô thi đấu rất tốt. Cô bắt đầu thống trị bảng phân chia của mình tại mùa giải đó. At the age of sixteen, Tiffany was told that she had a brain tumor and would not be able to compete again. The devastating news left her not knowing what to do. She inquired of her father, who told her that she could either sulk about it the rest of her life or she could continue her life as normal. The next day, Master Eric was woken by noise in his home studio. It was Tiffany training. She decided that she was not going to let a tumor stop her life and she was not going to stop competing. The doctors at first did not agree with her decision, but she told them that martial arts was the best thing for her and that she was not going to give it up, so they started her on chemo. Năm 16 tuổi, Tiffanny phát hiện cô có khối u trong não và sẽ không thể thi đấu thêm được nữa. Tin về khối u như sét đánh khiến cô không biết mình phải làm gì. Cô hỏi cha cô, Eric nói, hoặc cô phiền não trong suốt quãng đời còn lại, hoặc cô vẫn tiếp tục cuộc sống như người bình thường. Hôm sau, Eric bị đánh thức bởi tiếng ồn trong lò luyện của mình. Đó là Tiffany, cô đang tiếp tục luyện tập. Tiffany không cho phép một khối u có thể chấm dứt cuộc sống của cô, cô quyết định vẫn tiếp tục thi đấu. Các bác sỹ lúc đầu không đồng ý với quyết định đó, song, cô đã nói với họ rằng võ thuật là điều tốt nhất đối với cô, cô sẽ không từ bỏ. Vì vậy, họ bắt đầu chữa trị. Tiffany has been competing for the past 2 years with a brain tumor and has not given up. She competed in the AMAPA Golden Gate Nationals in the 18-35 women’s point sparring division, defeated some of the national champions and made it all the way to the Super Grand’s. She told her father, “Dad all I want to do is to touch the stage this year”. She did, in a losing effort in the Super Grand’s to one of the best national champions. Tiffany’s dream is to some day get a sponsor and become a world champion competitor. Tiffany is not just a fighter in the martial arts, but she fights for her life on a daily basis. This makes her a true Starfighter. Tiffany đã phải chiến đấu trong 2 năm qua với khối u trong não và cô đã không từ bỏ. Cô tham gia thi đấu giải quốc gia AMAPA trong hạng 18-35 tuổi giành cho phụ nữ. Cô đã đánh bại một số nhà vô địch quốc gia và đã làm tất cả để tới Super Grand. Cô nói với cha mình, "Bố, tất cả những gì con muốn làm trong năm nay là được chạm vào giải thưởng này" . Cô ấy đã làm được. Với một nỗ lực đáng kinh ngạc trong giải Super Grand để trở thành một trong những nhà vô địch quốc gia xuất sắc nhất. Ước mơ của Tiffany là một ngày có được một nhà tài trợ và trở thành một nhà vô địch thế giới Tiffany không chỉ là một chiến binh chiến đấu trong võ thuật, hàng ngày, cô ấy đã chiến đấu cho cuộc sống của mình. Điều này đã cho thấy cô là một chiến binh ngôi sao thực sự. Twin Tigers Kung Fu, Los Banos CA, USA Nguồn: http://www.martialar...y/blog/features
    1 like