-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 16/04/2012 in all areas
-
Đúng vậy, các e bé thiếu Ca thường bị như trên. Nhưng Ca bổ sung không dễ, chỉ có thể từ thực phẩm dễ tiêu như bơ sữa hoặc hải sản, ngao sò, trai hến. Các bé ra mồ hôi trộm ngày xưa các cụ cho ăn cháo trai là thế. Không nên cho bé uống viên Ca, vì nó rất khó tiêu. Trong trường hợp không tiêu hóa được – vì Ca vốn ko dễ tiêu – thì dễ có cặn ở thận và gây sỏi thận. @Thảo Nguyên Vấn đề e bé ko tiêu hóa được dẫn tới tình trạng như thế rất có khả năng là hệ tiêu hóa của bé kém. Đa dạng hóa thức ăn dạng bơ sữa dụ bé thử xem nhỉ. Tắm nắng sáng cũng tốt, và hàng ngày nhỏ cho bé thêm mấygiọt Vitamin D nữa. Chị thử xem sao nhé. BS Ba có mấy sp rất hay cho e bé là DELTA IMMUNE và KIDMUNE, nhưng hiện 2 sp này khá khó tìm. Ngoài ra, với thể trạng bé như trên, bạn nên dùng các sp sau: 1. Colosol ngày 4v chia 2 để tăng cường hệ tiêu hóa của bé cho tốt 2. Phytoplankon 4v chia 2 để tăng khả năng hấp thụ thức ăn, chuyển hóa thức ăn Cho bé dùng ít nhất 3 tháng rồi giảm liều xuống mỗi thứ 2v/ngày. Nếu thuyên chuyển chậm (trường hợp bé còn nhỏ hoặc hệ tiêu hóa quá khó khăn) thì phải uống đúng liều ít nhất 6 tháng. 2 sp này có rất nhiều công hiệu khác nữa, dùng cho các thành viên gia đình cũng vô cùng tuyệt hảo.2 likes
-
video bổ sung http-~~-//www.youtube.com/watch?v=tOia154n_WE&feature=player_embedded Thí nghiệm 2: Nước của chúng ta Nhóm của Tiến sỹ Masaru Emoto đã ghi lại hàng triệu mẫu nước kết tinh khác nhau, và cuối cùng đã kết luận rằng: Khi mọi người gửi những thông điệp tốt và xấu khác nhau tới nước, dù là dưới dạng đoạn văn, hình ảnh, âm thanh, đoạn nhạc hay những hình thức khác, thì nước đều thấy được những thông tin đó, và quá trình kết tinh của nó sẽ cho ra những mẫu hình khác nhau. Những thông điệp tốt đẹp, biết ơn và thánh thiện sẽ tương ứng với tinh thể nước tươi đẹp, cân đối và trong sáng. Trong khi những thông điệp của lòng căm hờn, nỗi đau và sự lo lắng sẽ tương ứng với những tinh thể nước xấu xí, vỡ nát, đen tối… Những suy nghĩ khác nhau sẽ đem lại những mẫu nước kết tinh khác nhau. Tinh thể nước được nhận thông điệp “Tình yêu và Cảm ơn” Tinh thể nước nhận thông điệp “Đồ ngu” Tinh thể nước bị nhận thông điệp “Mày làm tao phát ốm, tao sẽ giết mày” Kết quả cùng một nước nhưng cho nghe các loại nhạc khác nhau. Nhạc rock nặng làm tinh thể nước trông thật ghê sợ. *** Dùng tư tưởng để xử lý ô nhiễm nước Trên thế giới có những nhóm người đã thử sử dụng ý nghĩ để xử lý ô nhiễm nước. Hàng trăm người đã thể hiện ý nghĩ tốt đẹp trước một cái hồ bị ô nhiễm. Một vài ngày sau, những đám tảo mục nát trong hồ đã biến mất và nước hồ đã trở nên sạch hơn, và điều này kéo dài được 6 tháng. Những thí nghiệm này cũng cho chúng ta hiểu lý do tại sao ngày nay có nhiều thảm họa thiên nhiên đến như vậy. Trên thế giới có 7 tỷ người. Nếu tư tưởng của 1 tỷ người là xấu xa thì không chỉ hành vi của họ tàn phá thế giới mà ngay cả những suy nghĩ của họ cũng gây thảm họa cho thế giới. Bởi vì, ý nghĩ của chúng ta có thể thay đổi môi trường và thực tại, do đó khi chúng ta có những suy nghĩ tốt đẹp, nói chuyện ân cần, làm những việc tốt và sống tốt, ví dụ như hàng triệu người cùng cầu nguyện bằng những tư tưởng chính trực và nhân từ, thì chúng ta có thể thay đổi cả thế giới này. Xin hãy nhìn xem những hình ảnh sau đây: Nước máy lấy tại Higashi Nihonbashi trước khi nhận được nguyện cầu Nước máy từ chính chỗ đó nhưng sau khi nhận được thông điệp tốt lành trong 10 ngày Hình ảnh này được chụp 3 ngày sau khi tai nạn hạt nhân xảy ra ở Tokaimura, Nhật Bản vào tháng 9/1999. Tinh thể của nước được lấy từ một cái giếng, cách hiện trường vụ tai nạn hạt nhân khoảng 400 mét. Chúng ta có thể thấy tác động rõ ràng của phóng xạ ở đây Hình ảnh của tinh thể nước cũng tại giếng đó, sau khi những thông điệp yêu thương và cảm thông được gửi tới nơi này Tinh thể nước lấy từ đập Fujiwara trước khi được nguyện cầu. Nước ở đây ô nhiễm nặng. Tinh thể nước lấy từ đập Fujiwara sau khi được nguyện cầu Tinh thể nước được lấy từ Kobe Nhật Bản ngay sau khi trận đại động đất Hanshin-Awaji xảy ra Tinh thể nước cùng nơi đó 3 tháng sau, khi khu vực này được quan tâm chia sẻ từ những người lương thiện khắp thế giới Nước máy tại Tokyo Nước máy tại Tokyo sau khi nhận được những tư tưởng tốt lành do một nhóm 500 người phát đến Thuyết lượng tử đối với các thí nghiệm sức mạnh tư tưởng Các thí nghiệm tương tự cũng chỉ ra rằng không chỉ nước có khả năng tiếp nhận và phản ứng với các dòng tư tưởng, mà thực vật, cơm và những vật chất khác cũng có khả năng này. Các nhà khoa học vật lý lượng tử đã chứng minh rằng tất cả mọi năng lượng của vũ trụ này có quan hệ qua lại lẫn nhau và vì vậy những thông điệp trên thế giới này đều có ảnh hưởng tới nhau. Khoa vật lý lượng tử cũng chứng tỏ rằng ý thức rất quan trọng trong việc định hình thực tại vật lý. Trong trường hợp thí nghiệm với nước thì năng lượng tư tưởng đã làm thay đổi cấu trúc tinh thể của phân tử nước. Không phải ngẫu nhiên mà người Trung Quốc có câu “Trong lòng nghĩ suy gì, trời đất đều biết cả”. Trong nhiều thế kỷ, mọi người luôn tranh cãi với nhau rằng “cái nào có trước” – ý thức hay vật chất. Những thí nghiệm hết sức thực tại này đã chứng tỏ ý thức và vật chất chỉ là 2 mặt của một đồng tiền, quyện vào nhau. Chúng tuy hai mà một. Những “nhà khoa học chủ lưu” nói rằng các thí nghiệm của Tiến sỹ Masaru Emoto là “không có thật”, hoàn toàn phớt lờ một cách giản tiện. Nhưng sự thật vẫn là sự thật dù họ có thích sự thật hay không. Rất nhiều các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư đều dễ dàng lặp lại các thí nghiệm của Tiến sỹ Masaru. Ngay cả bạn cũng có thể tự làm thử thí nghiệm đơn giản với cơm và làm cho bạn bè của bạn phải thốt lên rằng: “Thật tuyệt vời, trời ạ, chuyện này là sự thật!!!”. (còn tiếp) Minh Trí (tổng hợp)2 likes
-
Thiên Đồng Tư Vấn
lidi liked a post in a topic by Thiên Đồng
Khai Trương Quán Tư Vấn Lạc Việt Độn Toán Quán mở ra cho mọi người cùng tham khảo tư vấn về nhân tình nhân sự, công danh tài lộc, thi cử học hành, tơ tình vấn vươn... Quán cũng hoan nghênh các thành viên có khả năng Lạc Việt Độn Toán cùng tham gia tư vấn. Quy Định Của Quán Đặt câu hỏi như sau: Tuổi gì: ? Hỏi vào ngày ...tháng...năm...giờ (bao nhiêu phút) dương lịch. Câu hỏi 01: Câu hỏi 02: Câu hỏi 03: (Chỉ được 3 câu hỏi thôi) Ghi, ngày hai lăm tháng tư năm Tân Mẹo, giờ Ngọ, Cảnh Đại An Thiên Đồng1 like -
Nét Việt
thanhdc liked a post in a topic by Thiên Sứ
‘Lửa tam muội bí truyền’ kì bí trong thuật ướp xác của người Việt Cập nhật lúc :10:25 AM, 04/04/2012 Nhục thân của thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu (Bắc Ninh) mang đậm màu sắc tâm linh, nhưng với nhãn quan khoa học, người đời nay đặt câu hỏi rằng, bằng phương pháp gì và con đường nào mà thi thể của ông không bị thời gian hủy hoại? Bí ẩn trong am cổ Cách Hà Nội hơn 20km, trên đường đi Bắc Ninh, có tấm biển lớn chỉ đường về chùa Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn. Ngôi chùa này vốn có tên Thiên Tâm, dựng từ thời Tiền Lê, là nơi thiền sư Vạn Hạnh tu hành, giảng đạo và dạy dỗ Lý Công Uẩn, người khai sinh Thăng Long - Hà Nội. Ai đã đến chùa Tiêu đều không quên ni sư Đàm Chính, người có vẻ mặt đôn hậu và đôi mắt hiền hòa. Hơn 60 năm về trước, khi là một thiếu nữ 17 tuổi, sư Đàm Chính đã về tu nghiệp ở chùa. Nhục thân được phục dựng lại của thiền sư Chuyết Chuyết (chùa Phật Tích) là một minh chứng khác cho thấy phương pháp tượng táng đặc biệt của người Việt: sau khi thiền sư tịch, các tín đồ đã lấy dây đồng để dựng khung xương theo thế ngồi thiền rồi tạo tượng phủ bên ngoài xương bằng chất bồi mà chủ yếu là mạt cưa, vải, sơn ta… Pho tượng trước khi phục chế đã bị vỡ thành 342 mảnh, gồm 133 mảnh xương và 209 mảnh bồi, được phục dựng lại hình hài bằng phương pháp Geraximov. Năm 1971, cái năm mưa liên miên, cây cối mọc nhiều trong vườn tháp, khiến nhà chùa phải bắc thang lên cắt rễ cây ăn sâu vào tháp. Vén một nhành cây phủ tháp Viên Tuệ, ni sư thấy một viên gạch màu đỏ, trên có ghi tên và năm tịch của người trong tháp. Qua khe nứt, ni sư kinh hãi nhận thấy một người ngồi thiền trong tháp, nhưng ni sư bịt chặt kẽ hở và giữ kín chuyện, mãi tới năm 1996 mới thưa lại với Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt, khi tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni sư ngỏ lời nhờ Hòa thượng giúp đỡ và người của Thiền viện Trúc Lâm ngỏ lời với PGS Nguyễn Lân Cường. Lần theo văn tự trên viên gạch đính trên tháp, được biết rằng, người ngồi trong tháp có đạo hiệu là Ma ha đại Tỳ kheo Như Trí; tháp được kính cẩn hoàn thành vào ngày lành mùa Xuân niên hiệu Bảo Thái thứ 4 (1723) triều Lê Dục Tông. Thân thế sự nghiệp của Thiền sư Như Trí đến nay chưa tìm thấy sử sách, chỉ xuất hiện trong một vài tác phẩm văn Nôm chưa có dịp kiểm chứng. Những tư liệu đó cho biết, ngài có cùng một số huynh đệ có cùng chữ Như, phụ giúp Thiền sư Chân Nguyên sao lục ấn hành những tác phẩm của thời Trần còn sót lại trong nhân gian như Khóa Hư Lục, Tam Tổ Trúc Lâm, Kiến Tánh Thành Phật và đặc biệt là năm 1715 in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục - một bộ sách rất có giá trị về văn hóa Phật giáo Việt Nam. Theo Thượng tọa Thích Thông Phương – Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử thì “Thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của Thiền sư Chân Nguyên, một thiền sư thời Hậu Lê có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, do sư tổ Trúc Lâm – vua Trần Nhân Tông mở ra và từng trụ trì chùa Long Động ở Yên Tử, nay là Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Hiện nay ở đây còn tháp đá tôn thờ Thiền sư, gọi là tháp Tịch Quang”. Thượng tọa Thích Thông Phương cũng nhận xét rằng, Thiền sư Như Trí đã an nhiên trước sinh tử, thị tịch trong tư thế khiết già và để lại nhục thân cho đến ngày nay, càng làm sáng tỏ dòng Thiền Trúc Lâm trên đất Việt và cho thấy chư Tổ người Việt tu hành rất có kết quả cao sâu, đúng với chân lý bình đẳng mà Phật đã dạy. Ngày 5/3/2003, nhục thân Thiền sư Như Trí được đưa ra khỏi tháp, trong tư thế bán già, tay kết ấn tam muội, nhưng vì ẩm mốc nên bị mục rớt phần cẳng tay, nhiều phần hư hỏng nặng, có nhiều vỏ trứng của các loài côn trùng hoặc bò sát nằm rải rác quanh bệ sen làm bằng gốm non màu đỏ. Điều khác biệt là trong lớp bồi không có thếp vàng, thếp bạc, nhưng trong lớp bồi lại có những miếng đồng mỏng, có tác dụng đỡ cho nhục thân Ngài qua nhiều năm không bị gục xuống. Khi PGS Cường tu bổ pho tượng táng này là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm trong bụng thiền sư. Ông khẳng định: “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được”. Đưa nhục thân thiền sư Như Trí vào khám rồng. Ông Cường và các nhà khoa học lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích bằng phương pháp phổ nhiễu xạ tia X, kết quả cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là các chất còn lại của phần phủ tạng. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam chúng ta phát hiện và chứng minh được có phần nội tạng trong bụng Thiền sư, tức là thi thể Thiền sư được ướp theo một cách thức riêng, không hề giống với cách ướp xác của người Ai Cập. Việc tu bổ pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí đã hoàn thành, Ngài đã trở lại dáng vẻ gần như ban đầu và tiếp tục ngồi “kiết già” trong nhà thờ Tổ với sự bảo quản cẩn thận của khoa học hiện đại. Tuy nhiên, câu hỏi lớn đặt ra với các nhà khoa học là, sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm năm, vì sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn còn nguyên vẹn? Yếu quyết tự ướp xác Theo nhà Phật, người chết mà để lại những phần không bị thiêu hủy sau khi hỏa táng thì gọi là xá lợi. Xá lợi ấy nhiều khi cũng rất đặc biệt, ví như cái lưỡi của ngày Duy Ca Mật, một vị thuyết pháp người Ấn Độ, hay như quả tim của vị danh tăng Thích Quảng Đức để lại do tự thiêu để phản đối chế độ Mỹ - ngụy ở miền Nam Việt Nam. Theo truyền thuyết kể lại thì, đức Phật sau khi viên tịch cũng để lại xá lợi là những viên ngọc ngũ sắc mà ngay cả nhiệt độ rất cao cũng không thiêu hủy được. Nếu là những bậc chân tu, sau khi luyện được tâm thanh tịnh thì họ đạt được ngũ thông hoặc lục thông. Tai họ có thể nghe được âm thanh cực nhỏ hoặc từ rất xa; mắt nhìn được xa những vật rất nhỏ, tâm có thể đọc được ý nghĩ của người khác. Tuy nhiên, các gốc của Phật giáo không phải là để đạt được ngũ thông, lục thông mà là để chuyển hóa cái tham, sân, si trong con người mình đến chỗ an nhiên, thanh tịnh. Để dù mắt thấy sắc, mũi thấy mùi, tai nghe rõ… nhưng trong tâm không nảy sinh bất kỳ một ý niệm nào ưa thích hay ghét bỏ, phiền não. Nếu tu được đến mức độ như vậy thì quá khứ hay hiện tại sẽ không còn ngăn cách nữa. Tất cả những yếu quyết để tự ướp xác này là một phương pháp bí truyền có tên là “lửa tam muội”. Tương truyền, lửa tam muội nghĩa là một ngọn lửa huyền bí, là thứ năng lượng đặc biệt của con người. Người ta dùng hô hấp để kích động các bí huyệt trong cơ thể, để lúc nào cũng cảm thấy ấm áp như được khoác một bộ áo dày, mà người Tây Tạng gọi là “mặc áo tiên”. Khi đã nhập định, người ngồi thiền cảm thấy thân tâm thoải mái, an lạc, dễ chịu mà người ta hay gọi là “sống trong tiên cảnh”. Cũng như khinh công, luyện lửa tam muội là một phương pháp bí truyền, phải có thầy chỉ dẫn, chứ không thể học theo sách được. Thầy phải là người đã luyện thành công lửa tam muội mới có thể chỉ dạy được, để biết rõ các nguy hiểm trên đường tập luyện, vì một sai lầm có thể đưa đến điên loạn hay tử vong. Hành giả phải có một thân thể cường tráng, mới có thể khắc phục được những khó khăn bước đầu. Viên gạch đính trên tháp chứa nhục thân Ngài ghi rõ: Nhục thân ở trong tháp có tên là Ma ha Đại Tỳ kheo Như Trí (theo bản dịch của PGS.TS Đỗ Thị Hảo). Cũng như mọi phương pháp bí truyền, người ta thường thêu dệt nhiều điều huyền hoặc, khó kiểm chứng. Tuy nhiên, đằng sau những điều khó tin này, vẫn ẩn tàng một cái gì đó cần gạn lọc để tìm ra tinh hoa ở bên trong. Thông thường, môn sinh ngồi cho thật vững vàng, thoải mái. Cách ngồi phổ biến là kiết già hoặc bán già. Sau khi tập ngồi thuần thục, chân tay hết nhức mỏi thì bắt đầu tập thở cho thật đều, thật sâu trước khi hít thở theo nghi thức. Như vậy, môn sinh ngồi thế kiết già bắt chéo hai chân, bàn tay đặt lên đầu gối, ngón cái, ngón trỏ và ngón út thẳng ra, ngón giữa và ngón áp út thu vào lòng bàn tay. Thoạt đầu, họ thở cho thông hai lỗ mũi, sau đó tập trung tư tưởng vào hơi thở. Khi thở ra, họ tưởng tượng mình đang xả bỏ các tính xấu như tham lam, ích kỷ, ngạo mạn, hận thù. Khi hít vào, họ tưởng tượng mình đang thu vào những tính tốt như từ, bi, hỷ, xả, thanh tịnh. Tiếp theo, họ hít vào, dồn khí xuống bụng, nín thở trong một thời gian ngắn, trước khi từ từ thở ra. Cứ tập như thế, đến khi cơ thể hoàn toàn thả lỏng, tâm trí dứt hết các nỗi lo lắng, ưu phiền, hoàn toàn thoải mái tự tại. Nếu đạt yêu cầu, môn sinh được chấp nhận cho làm lễ điểm đạo truyền pháp. Họ sẽ bỏ bộ áo dày, chỉ khoác một tấm vải mỏng. Và từ đó, họ không ngồi gần lửa, tìm đến nơi hoang vu, thanh vắng, có độ cao trên bốn ngàn thước để hít thở không khí trong lành. Bí kíp ghi rõ: “Không được tập luyện trong nhà cửa, xóm làng, vì không khí ở đó bị ô nhiễm củi lửa, có những rung động không tốt, ngoại cảnh làm xáo trộn tâm trí của hành giả”. Hành giả sẽ sống cô đơn ở nơi hoang vu, bỏ hết phiền não cõi trần. Sau khi hợp nhất khí huyết, môn sinh tưởng tượng có một quả cầu lửa to bằng nắm tay sẽ sáng rực ở rốn, mỗi hơi thở sẽ như ống bễ quạt cho ngọn lửa này cháy to hơn, mỗi lần dồn khí xuống sẽ kích thích quả cầu này tỏa nhiệt mạnh mẽ. Hít hơi vào, giữ hơi lại và thở hơi ra đều nương theo một câu chú để giữ ngọn lửa đó không tắt. Nhờ trước đây đã luyện thành thục cách quán tưởng xả bỏ tham sân si khi thở ra, và thu từ bi hỉ xả khi hít vào nên tâm được thanh tịnh. Nếu đốt cháy giai đoạn, cẩu thả luyện khí mà chưa điều ngự được tâm, thì vọng niệm nảy sinh, luồng hơi nóng sẽ chạy loạn xạ vào các kinh mạch, khiến môn sinh có thể điên loạn và tử vong. Nếu tâm không còn vọng động, môn sinh có thể dùng tư tưởng hướng dẫn luồng hơi nóng đi thẳng vào các thần mạch. Đỉnh cao của phương pháp luyện lửa tam muội là tự thiêu đốt đi lớp mỡ trong cơ thể mình và chỉ để lại những phần bất hoại với thời gian. Khi những thiền sư đốt đến giọt năng lượng cuối cùng thì cũng là lúc họ vĩnh biệt cõi trần. Chính vì thế, nhục thân của họ không bị phân hủy và trở nên bất tử. Người đời vẫn thường kể lại câu chuyện, trước khi qua đời, thiền sư Vũ Khắc Minh đã chuẩn bị sẵn cho mình một am nhỏ trên vách núi. Khi bước vào trong am, thiền sư dặn dò các đệ tử của mình rằng: “Mang cho ta một chum nước uống và một chum dầu để thắp. Khi nào thấy dứt tiếng mõ hãy mở cửa am ra. Nếu thấy thi thể của ta đã hỏng thì dùng đất lấp am đi, còn ngược lại thì dùng sơn ta mà bả lên thi thể”. Nhiều chuyên gia cho rằng, thiền sư Vũ Khắc Minh đã luyện được lửa tam muội tới mức tối thượng và dùng nó để bước vào cõi hư vô, bất tử. Như lời hòa thượng Thích Thanh Tứ nói lúc sinh thời thì, đây là kết quả của một quá trình rất dài chứng nghiệm trong tu tập, loại bỏ tất cả những tạp niệm của tâm để đạt đến sự giác ngộ viên mãn. Năng lượng con người là một thế giới còn ẩn chứa vô vàn những bí mật chưa được khám phá. Nhục thân của các vị thiền sư Việt có lẽ đã gợi mở rằng, con người sở hữu một nguồn năng lượng vô hạn và khát vọng bất tử đã tồn tại trong nhiều thế kỷ qua.1 like -
Như vậy sẽ có hai khả năng xảy ra cho dòng tiền đổ vào TTCK để đẩy giá lên:1/ Khi giá lên đến mức có lợi chính họ sẽ bán ra và thu tiền vào với lợi nhuận do giá CK tăng. 2/ Người mua đến lúc thấy không thể mạo hiểm bán ra ồ ạt và kẻ bỏ tiền đẩy giá lên thiệt. Cả hai đều phi tự nhiên và mạo hiểm.1 like
-
Cháu bé Thân nhược, dụng thần là Ấn (thuộc Kim), nên đặt tên có thêm chữ Kim để bổ cứu, hợp với màu trắng.1 like
-
Tháng 3 âm lịch thì giờ âm lịch trễ hơn so với giờ thực tế 30', vì vậy con bạn sinh vào giờ Tuất. Tứ trụ : Canh Tuất - Nhâm Dần - Giáp Thìn - Nhâm Thìn1 like
-
Trong khi chứng khoán trên toàn thế giới đang đi xuống rất mạnh cả 2 tuần nay báo hiệu chúng ta đang ở trong cuộc khủng hoảng mới. Các doanh nghiệp BĐS đang chết lâm sàng, ngành thủy sản vỡ nợ, Các đại gia Càfe Tây nguyên ôm tiền bà con nông dân bỏ trốn, doanh nghiệp các ngành khác cũng tương tự. Ngân hàng đang vật lộn với đống nợ xấu. Vậy mà Chứng khoán Việt nam lại đang tăng mạnh nhất thế giới! Chỉ có thể giải thích là có một lượng tiền lớn được bơm vào thị trường với ý đồ đẩy giá cổ phiếu lên gây hiệu ứng tâm lý. Chúng ta hãy chờ xem nguồn tiền này mạnh tới đâu, liệu họ sẽ đẩy được thị trường lên tới giá nào. Câu hỏi nữa là nếu đẩy lên ngưỡng cao mới thì sẽ bán cho ai, hay là sẽ phải ôm đống cổ phiếu của các công ty phá sản về nhà làm kỷ niệm ...1 like
-
rồi, để tôi thử xem như thế nào nhé, dạo này bận quá, chịu khó chờ nhé thân mến1 like
-
@Zingme Mong chú Thiên Đồng xem giúp cháu: Hỏi lúc 10h 03' A.M ngày 16/4/2012 - Tuổi Kỷ Tị 1. Cháu có thể tin tưởng và chơi thân với người bạn nữ cùng tuổi đc ko ? (Tính cách bạn này hơi khó gần và ''men'' tính,con gái mà tính cách hệt con trai, theo chủ nghĩa cao ngạo). Chơi bình thường thôi, ăn thua là mình. 2. Có thể quay lại với người yêu sn Mậu Thìn ko? Nếu ko thì chú có thể dự đoán cho cháu nguyên nhân là gì ko ạ? Hơi lâu, hơi khó, cứ từ từ tìm cơi hội mà hòa bình nhé. 3. Cháu có người em họ sắp tới thi Đại học ( NV1 vào Học viện quản lý giáo dục). Liệu em ấy có thể đỗ ko ạ? Tốt. Đỗ tốt. Cháu cảm ơn chú. Chúc chú ngày đầu tuần vui vẻ, cả tuần tràn đầy niềm vui ! Thiên Đồng1 like
-
@thutrangnt Hỏi lúc 16:18' ngày 15/04/2012 : Cháu chào bác Thiên Đồng, hnay cháu rất mong bác có thể giúp cháu xem 1 quẻ được không ak, Hiện cháu đang rất rối bời. Cháu chỉ có 1 câu hỏi duy nhất, mong bác có thể xem được không a?. Vừa rồi cháu có đăng lên trong Thread của bác về chuyện tình cảm, và bác cũng có nói "Yêu nhau cứ lấy" và cháu thấy mừng vì điều đó nhưng hiện nay gặp phải rắc rối sau - người yêu cháu hiện đang mệt mỏi về chuyện tình cảm, và anh ấy nói và làm những chuyện lung tung khiến cháu không thể không giận được. Dường như anh ấy ko còn yêu cháu như trước kia nữa. Và mặc kệ chuyện tình cảm muốn đi đâu thì đi (Cháu có thể khẳng định là không có người thứ 3). Bác có thể xem giúp cháu, liệu 2 chúng cháu sẽ chia tay phải không ạ? Cháu cũng rất mệt mỏi nếu cứ kéo dài tình trạng thế này. Người yêu cháu tuổi Giap Tý (5/6/1984) Cháu tuổi canh ngọ (17/11/1990) Chúc bác sức khỏe dồi dào và luôn luôn manh khỏe, cháu cám ơn bác nhiều. Giáp tý canh ngọ thiệt xung cũng bởi những chuyện lùng bùng nhỏ nhoi Khi mâu thuẩn bình tĩnh coi có phải là lỗi của mình hay chăng? Đấm ngược ba cái nhủ rằng Lỗi tại tôi lỗi tại tôi mỗi đằng Bây giờ tình thế chưa căng chưa có xuất hiện một "thằng " thứ ba thì mình tranh thủ nghị hòa khéo chừa cơ hội mới là độc chiêu tất cả vì là tình yêu lạc mềm buộc chặt là điều nhớ ghi @Thiên Nhiên Em cảm ơn anh Thiên Đồng nhiều lắm ạ, em chưa biết chuyện thế nào nhưng anh đã giúp em có thêm hi vọng. Anh à, em có đứa bạn muốn hỏi mấy câu, mong anh trả lời giúp: Ngày sinh: 25/09 năm Giáp Tý (19/10/1984). Giờ hỏi 00h22 ngày 26/3 năm Nhâm Thìn. Hỏi: 1/ Khi nào thì công việc ổn định? tháng 7 âm trở đi mới ổn. 2/ Có duy trì công việc hiện tại hay thay đổi công việc mới? Vẫn làm công việc hiện tại. 3/ Giai đoạn này có chuyển nhà trọ được không? Sẽ chuyển nhưng tìm hơi khó, hơi lâu nhanh thì cuối tháng 3 âm chậm cuối tháng 4 âm Em cảm ơn anh nhiều!1 like
-
1 like
-
Bí ẩn của sức mạnh tư tưởng: Yêu thương & thù hận (kỳ 1) ( 5:49 PM | 17/01/2012 ) Tư tưởng của con người có thể sản sinh ra năng lượng rất lớn và nếu được sử dụng đúng cách, năng lượng này không chỉ có thể giúp cải thiện cuộc sống của mỗi cá nhân mà còn làm thay đổi cả thế giới. Thế giới khác trong một giọt nước: (Phần 2) Nước, nguồn gốc của sự sống “Tri giác nguyên sơ” – Đời sống bí mật của cây cối (kỳ 3) Kinh nghiệm cận tử: 30 năm nghiên cứu (kỳ 3) Bí ẩn kỳ dị của những ca cấy ghép nội tạng (kỳ 2) Rất nhiều thí nghiệm khoa học đã chỉ ra rằng ý nghĩ của chúng ta có thể làm biến đổi thế giới vật chất. Thật may mắn là các thí nghiệm đó đều rất dễ làm, ai cũng tự làm được, và thú vị tuyệt vời! Thí nghiệm 1: Cơm của chúng ta Khi chúng ta gửi đến cơm một thông điệp dạng tiếng nói, chữ viết, âm nhạc, hình ảnh, … thì cơm đều nhận được thông điệp ấy. Cơm sẽ phản ứng lại tương ứng với thông điệp đó. Thông điệp tốt lành thì cơm cũng tốt lành, để 1 tháng vẫn thơm, không mốc hỏng. Thông điệp xấu ác thì cơm xấu, mới để vài ba ngày đã hôi thối, mốc đen. Cách làm rất dễ: Lấy một ít cơm, chia làm 2 phần bằng nhau, cho vào 2 lọ sạch giống nhau. Đổ lượng nước bằng nhau vào mỗi lọ rồi đậy lại. Dán nhãn một lọ bằng những từ ngữ tốt đẹp đại loại như “Tôi yêu bạn”, “Hạnh phúc”, “Kỳ diệu”, vv… Lọ cơm kia dán nhãn ghi những từ ngữ xấu kiểu như “Đồ ngu”, “Tao sẽ giết mày”, “Đau khổ”, vv… Mỗi ngày một lần nói với mỗi lọ cơm những lời như trên nhãn của nó (thường là 30 giây mỗi ngày), yêu cầu tỉnh táo, tập trung ý nghĩ. Quan sát kết quả thu được sau một khoảng thời gian (thường là 2 tuần trở lên). Các bạn sẽ thấy là: Thời gian hàng ngày nói với cơm càng nhiều, tư tưởng phát ra hướng về các lọ cơm càng mạnh, thí nghiệm càng kéo dài thì khác biệt càng rõ. Có rất nhiều người khác nhau đã thử thực hiện thí nghiệm cơm như thế và các kết quả của họ đều như nhau. Kết quả thu được sau hơn 1 tháng, trong thí nghiệm cơm do Tiến sỹ Masaru Emoto tiến hành Thí nghiệm cơm này đã được rất nhiều gia đình và nhà giáo trên khắp thế giới thực hiện, với kết quả y hệt như nhau. Một thí nghiệm cơm khác http-~~-//www.youtube.com/watch?v=xLJJ9vCXvOI&feature=player_embedded Thí nghiệm này sẽ khiến bạn sửng sốt! Nó thực sự cho thấy tư tưởng và ngôn từ của chúng ta có sức mạnh rất lớn. Hãy thử nghĩ khi bạn đối xử với những người bạn yêu thương bằng lòng tốt và sự biết ơn, và điều đó ảnh hưởng tốt đến họ cả về thể chất lẫn tinh thần ra sao. Qua đó chúng ta hiểu được những suy nghĩ tiêu cực và lòng thù hận có thể tác động xấu đến cuộc sống của thế giới chúng ta mạnh mẽ như thế nào.Đây là điều gì đó mà bạn cần phải thấy để tin. Hãy thử làm xem! Đó là một cách kinh ngạc để học hỏi về Sức mạnh của ý nghĩ. Con cái của chúng ta bị ảnh hưởng bởi những lời nói và ý nghĩ hướng về chúng, cũng như điều mà thí nghiệm này cho thấy. Bạn đang trút lên con cháu bạn và những người xung quanh những ý nghĩ như thế nào? Một số nhà nghiên cứu đã mở rộng thí nghiệm này. Chúng ta sẽ dùng 4 lọ cơm. Ngoài 2 lọ “Tôi yêu bạn” và “Đồ ngu”, thêm một lọ “Bạn làm tôi tổn thương nhưng tôi vẫn nguyện cầu phúc lành cho bạn”, và một lọ không gắn nhãn gì cả. Chúng ta lại tiến hành thí nghiệm theo cách giống như thí nghiệm ban đầu. Ở 2 lọ đầu, kết quả cũng giống như ở thí nghiệm trước. Ở lọ “Tôi yêu bạn” hầu như không có vết mốc nào, cơm trắng tinh. Ở lọ “Đồ ngu” cơm hỏng rất nhanh. Lọ cơm “Tôi yêu bạn” và lọ cơm “Đồ ngu” Còn ở 2 lọ mới, kết quả sẽ khiến bạn phải suy nghĩ. Ở lọ cơm có dán nhãn “Bạn làm tôi tổn thương nhưng tôi vẫn nguyện cầu phúc lành cho bạn”, tình trạng của cơm vẫn rất tốt gần bằng như ở lọ “Tôi yêu bạn”. Nó chỉ hơi tệ hơn đôi chút mà thôi. Có một vết mốc nhỏ nằm dưới đáy lọ như trong hình mũi tên chỉ. Lọ cơm “Bạn làm tôi tổn thương nhưng tôi vẫn nguyện cầu phúc lành cho bạn” Còn ở lọ cơm không gắn nhãn và chúng ta hoàn toàn phớt lờ nó đi, tình trạng cơm cũng rất tồi tệ. Nó chỉ ít tồi tệ hơn lọ “Đồ ngu” một chút. Lọ cơm bị phớt lờ Lọ cơm “Bạn làm tôi tổn thương nhưng tôi vẫn nguyện cầu phúc lành cho bạn”, điều đó cũng tương tự như điều mà người xưa vẫn gọi là “lấy đức báo oán”, kết quả tốt đẹp. Lọ cơm bị phớt lờ cũng tương tự như những nạn nhân của tình trạng lạnh lùng vô cảm trong xã hội. Chúng ta đều biết sự lãnh đạm thờ ơ cũng có sức tàn phá ghê gớm như thế nào đối với nhân loại.Còn tiếp1 like
-
1 like
-
Đúng như vậy đấy. Ngày xưa để tìm mạng vận học thuộc lòng bài quyết.Ngân đăng giá bích câu. Yên mãn tự trung lâu. Hán địa siêu sài thấp. Thì bây giờ đọc cho nó chỉnh thêm là: Ngân đăng giá bích câu. Yên mãn tự trung lâu. Hán địa siêu sài thấp. Viêm thủy lạc kim âu. Tức là cứ như cũ, nhưng xong thì đổi lại Thủy Hỏa. * Ngân đăng giá bích câu. Ngọn đèn bạc đã làm lạnh bức tường vàng. Những gía trị giả đã thay thế những gía trị thật. * Yên mãn tự trung lâu. Lửa đã cháy tràn ngập từ trong tòa lâu đài. Nền văn hiến Việt - nước Văn Lang - đã sụp đổ bởi những mâu thuẫn nội tại của nó và bị xâm lược. * Hán địa siêu sài thấp. Đất nhà Hán đã nghiêng tràn đến chỗ thấp nhất. Đất nước Văn Lang - nền văn minh thứ V - bị diệt vong. * Viêm thủy lạc kim âu. Bởi vậy đó là lý do những bí ẩn của nền văn hiến Việt đã phải dấu đi bằng cách đổi lại Thủy Hỏa trong bảng Lạc Thư Hoa giáp. Thôi nhé! Tiểu Nhị đừng viết gì thêm vào đây nữa. Nếu viết dù là khen hay châm chọc tôi cũng xóa bài và đưa ra ngoài diễn đàn. Vì ko muốn mất thì giờ. Cái quan trong của tôi lúc này là có hay không "Hạt của Chúa", chứ không còn cần thiết đúng hay sai được mọi người công nhận trong Lạc Thư Hoa Giáp nữa. Ai thích thì dùng. Không thì thôi. Tôi không ép Tiểu nhị dùng Lạc Thư hoa giáp. Tôi khóa topic này. Từ nay nó chỉ để tham khảo.1 like
-
2018,2020, 2021 chị sinh bé thứ 2 nhé. các năm trc đó đều ko tốt. việc chị sinh non bé đầu là do số phận, đâu phải cái j cũng đổ do năm sinh. Bé đầu sinh năm đó là tốt rồi.1 like
-
Ăn Chay Có Phạm Tội Sát Sinh Không & Cỏ Cây Có Linh Hồn Không? Lời Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen: Hiện nay vẫn còn có một số người tin rằng những người ăn chay vẫn phạm vào giới sát và họ còn cho rằng cây cỏ cũng có linh hồn nên (họ cho rằng) việc không ăn chay của họ là hoàn toàn hợp lý.Chúng tôi tôn trọng ý kiến của họ và cũng xin giới thiệu bài viết dưới đây của tác giả Tâm Diệu. Bài viết, tuy có tính cách giải trình hai vấn đề nhưng không có ý thuyết phục những người đang ăn mặn chuyển đổi qua chế độ ăn chay vì đó là điều không cần thiết nữa. Bây giờ ai cũng rõ ăn chay có nhiều lợi ích hơn ăn mặn, nhất là trong bối cảnh công nghiệp chăn nuôi gia súc với nhiều hoá chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và nguy hiểm đến con người. (Xem báo chí nói về cơn sốt hoá chất tạo thêm thịt nạc, gia tăng trọng lượng). Phần 1- Trước hết cần định nghĩa rõ ràng ăn chay là gì và sát sinh là gì? Ăn chay, theo các nhà dinh dưỡng học định nghĩa là một chế độ dinh dưỡng mà thực phẩm được lấy từ các nguồn thực vật bao gồm rau đậu qủa củ và ngũ cốc; còn sát sinh là giết hại sự sống hay nói một cách khác, sát sinh là hành động của một con người làm đoạn sự sống của một chúng sanh khác. Trong nhà Phật chúng sinh được phân chia làm hai loại: (1) chúng sinh hữu tình là các loài có tình thức, có hệ thần kinh, biết cử động, biết đi, biết bò, biết bay, biết lội, nói chung là tất cả động vật có sinh mạng, bao gồm cả con người, (2) chúng sinh vô tình là những sinh vật không nằm trong các loài chúng sinh hữu tình như đất đá, cỏ cây. Cỏ, cây là sinh vật sống nhưng không được xếp vào hàng chúng sinh hữu tình vì chúng không có giác quan, không có hệ thần kinh, không có biểu hiện của ngũ ấm, không có cảm xúc, tư tưởng, hành nghiệp...Vì thế, nếu ăn các loài chúng sinh hữu tình được gọi là ăn mặn (xuất xứ từ chữ “mạng” sống) và nếu ăn các loài chúng sinh vô tình được gọi là ăn chay. Sát sinh là đoạn diệt sự sống của chúng sinh. Chúng sinh ở đây bao gồm cả hai loại như đã nói trên và theo như kinh Phật thì mọi chúng sinh đều bình đẳng, như vậy không phải chỉ có những người giết mổ thịt hoặc đánh cá mới là phạm giới sát sinh mà những người giết hại cây cỏ hoa mầu cũng vậy.... Điều này không sai, nhưng cỏ cây là sinh thể sơ đẳng nhất, không có hệ thần kinh và có cấp độ tiến hoá thấp hơn rất nhiều so với động vật, khi bị cắt chúng không có cảm giác đau, có chảy mủ nhưng sau đó lại lành và tiếp tục nảy nhánh mới, hoàn toàn không sinh khởi phản ứng của tâm thức chống trả hay oán thù; còn động vật khi đau đớn biết rên la, khi sợ hãi biết chạy trốn, khi bị giết có những sinh khởi phản ứng của tâm thức, oán thù với đối tượng giết chúng. Một động vật, khi bị giết chết là chấm dứt sinh mạng, không nảy mầm hay nảy cành non như loài thảo mộc. Loài thảo mộc có nhị đực và nhị cái ở trên cùng một cái hoa hay trên cùng một thân cây, nhờ ong bướm hay gió thổi mà nhị đực rơi vào nhị cái, kết thành trái và hột để di truyền giống. Loài động vật thì con đực và con cái là hai thân thể, hai sinh mạng khác nhau, chúng có tình thức và lòng dục nên tìm đến nhau luyến ái và giao phối, để truyền giống. Đạo lý cơ bản của người Phật tử là 5 giới cấm, trong đó có dạy là không sát sinh. Đối với cỏ cây cũng là chúng sinh, nhưng là chúng sinh vô tình, khác với con người và các loài động vật khác (chúng sinh vô tình). Người Phật tử tu, cái chính là không sát hại các loài hữu tình, còn nếu ở cấp độ tu chứng cao hơn thì không sát hại cả các loài vô tình. Tuy nhiên, mục đích chính của việc không sát sinh là để gieo trồng hạt giống từ bi và phát triển tâm từ bi đến với muôn loài chúng sinh từ gần đến xa, từ lớn đến nhỏ. Tưởng cũng nên bàn thêm ở đây, chúng ta đang sống trong thế giới nhị nguyên “tương đối”, luôn có sự phân biệt đối đãi, tốt và xấu, sướng và khổ.. Ở thế giới tương đối này, chắc chắn mọi người đều cho rằng mạng sống của nhà bác học Einstein quý giá hơn mạng sống của một con chuột rất nhiều... Tương tự, việc giết một con bò phải được xem là một hành động sát sanh lớn hơn việc cắt một cành hoa hay ngọn cỏ vì con bò có hệ thần kinh, biết cảm giác đau đớn. Nhờ sống trong thế giới tương đối này, chúng ta mới biết con người có giá trị vô cùng về sự hiểu biết, trí thông minh và có tâm phân biệt mà các loài động vật khác không có. Cũng vì thế mà chúng ta mới không tin tưởng rằng mọi vật đều phải được nuôi sống bằng sinh mệnh của một loài nào đó. Ngược lại với thế giới “tương đối” mà chúng ta đương sống là thế giới “tuyệt đối”, nơi đó hoàn toàn bình đẳng, không có sự phân biệt giữa thấp và cao, giữa tốt và xấu hay giữa hữu tình và vô tình chúng sinh. Ở đó, chúng ta không còn quan niệm hay ý tưởng cho rằng việc giết đi sinh mạng của một con bò là ác hơn việc cắt đi một nhánh hoa. Đây là thế giới của những người đã có trình độ tu chứng, đã tiến hoá cao. Cũng như chuyện Tuệ Trung Thượng sĩ ăn mặn, không ăn chay, vì ngài là người đã giác ngộ, tâm không còn phân biệt, không còn vướng mắc, chấp trước vào chuyện ăn uống. Ăn chay hay ăn mặn đối với ngài chỉ là để nuôi thân và hành đạo. Nói về sát sinh, còn một khía cạnh khác, đó là còn tùy thuộc vào tâm ý của chúng ta vào giây phút chúng ta lấy đi sinh mạng của sinh vật khác. Chính sát na đó quyết định rằng hành động đó có phải là phạm giới sát hay phạm đến một sự sai lầm về đạo đức không. Trong giới không sát sanh của người xuất gia, Đức Phật có đề cập đến các vi sinh vật, nhưng nếu có phạm đến chúng thì chỉ là tội nhẹ chứ không phải là trọng tội. Ngày xưa khi Phật còn tại thế, có một Tỳ kheo đi qua một cánh đồng khô, trời nóng khát nước, gặp vũng nước thấy có nhiều vi sinh vật nên không dám uống. Tỳ kheo ấy đến bạch với Đức Phật: Bạch Thế Tôn, con rất khát nước, con dùng thiên nhãn thấy vũng nước bên đường có vô số vi trùng nên không uống được. Phật bảo: Sao ông không dùng nhục nhãn (mắt thường) mà nhìn? Câu chuyện cho thấy “tác ý” trong hành động mới là điều quan trọng. Nếu nhìn trong nước bằng con mắt thường sẽ không thấy những vi sinh vật và cứ tự nhiên uống thì sẽ không tạo nghiệp vì không tác ý. Tương tự, khi uống thuốc trụ sinh diệt vi trùng hay vi khuẩn trong cơ thể để trị bệnh cũng thế. Phần 2 Bàn về cỏ cây cũng có linh hồn thần thức thì có một số ít người nói kinh Phật dạy rằng “mười phương cây cỏ cũng đều là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây chết làm người, người chết trở lại làm cỏ cây.” Và họ còn viện dẫn nghiên cứu khoa học cho biết cây cỏ cũng có linh hồn tình thức (*). Điều này không đúng vì như phần thứ nhất chúng tôi đã trình bày, cỏ cây là sinh vật sống nhưng không được (Phật Giáo) xếp vào hàng chúng sinh hữu tình vì chúng không có giác quan, không có hệ thần kinh, không có biểu hiện của ngũ ấm, không có cảm xúc, tư tưởng, hành nghiệp. Trong kinh Lăng Nghiêm Đức Phật dạy rằng: "Người tu thiền định, khi hành ấm hết, tướng sanh diệt đã diệt, chơn tâm tịch diệt chưa hiện bày, lúc bấy giờ thấy thức ấm biến khắp tất cả, rồi sanh tâm chấp: "Mười phương cây cỏ cũng đều là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây chết làm người, người chết trở lại làm cỏ cây". Vì mê mờ tánh Bồ Đề, mất chánh kiến, nên sẽ làm bè bạn với hai chúng ngoại đạo Bà Tra và Tán Ni, chấp tất cả vạn vật đều có tri giác (biết)." (Phật Học Phổ Thông Khóa thứ 6-7, Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm, Hòa Thương Thiện Hoa, Phật Học Viện Quốc Tế tái xuất bản năm 1987, Bài thứ 16: Mười Món Ma Về Thức Ấm, phân đoạn 4, chấp cỏ cây cũng đều biết, trang 252). Bản dịch Kinh Lăng Nghiêm do Hòa Thượng Thích duy Lực dịch như sau: "Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi sở tri, kiến lập tri giải, cho các loài cây cỏ mười phương đều gọi là hữu tình, với người chẳng khác ; cây cỏ làm người, người chết rồi lại thành cây cỏ, cho đến loài vô tình đều có sự giác tri, hữu tình vô tình chẳng có phân biệt, sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào cái chấp "Tri vô tri", làm bạn với hai thứ ngoại đạo Bà Tra và Tiện Ni, chấp tất cả đều có sự giác tri, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm viên tri, thành cái quả hư vọng, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống Điên Đảo Tri thứ tư." (Kinh Lăng Nghiêm, Từ ân Thiền đường xuất bản tại Hoa Kỳ, trang 253). Ngoài ra, bản dịch của cụ Tâm Minh Lê Đình Thám cũng tương tự. Như thế, trên đây đã trả lời rõ ràng về cây cỏ, cũng đồng thời trả lời luôn về một câu hát của nhạc sĩ họ Trịnh được một vị thầy lập lại nhiều lần "làm sao em biết bia đá không đau?". Bia đá không biết đau vì chúng là vô tình chúng sinh, là vô tri giác. (*) Ingo Swann, môt nhà Sinh Thực Vật (Biologist ) viết trong quyển The Real Story-Chuyện Có Thật, Quyển sách được xuất bản ngày 15-11-1998, trong đó có đoạn: “Sự nghiên cứu của Backster khởi đầu chỉ là môt khám phá hầu như tình cờ vào năm 1996 là thực vật có khả năng tri giác và đáp ứng tự nhiên những cảm xúc của con người... Những cây cỏ của bạn, biết là bạn đang nghĩ gì.” (His reseach started with the 1996 almost accidental rediscovery, plants are sentient and respond to the spontaneous emotions of relevant humans... Your plants know what you are thinking ). (Nguồn: Thư Viện Hoa Sen, http://www.thuvienhoasen.org)1 like
-
1 like
-
Đúng vậy ạ. BS Ba luôn đưa ra phác đồ đã tính toán đầy đủ, không cần phải dùng thêm bất cứ thứ gì khác nếu bác sỹ không khuyên. Hơn nưa, thuốc công thức của BS Ba thì BS luôn mong muốn giá cả luôn ở mức phù hợp với số đông, để nhiều người được sử dụng các sp chăm sóc sức khỏe chất lượng, bởi thế khi em còn trong viện chăm người nhà cũng thấy nhiều người nói có nhiều sp để giá lỗ lắm, còn lại thì để giá thấp tối đa để hỗ trợ bệnh nhân. BS thương yêu bệnh nhân và nhân từ lắm. Người nhà e đã ra đi nhưng e vẫn yêu quý và kính trọng bác sỹ vô cùng. Có 2 sản phẩm chăm sóc sắc đẹp của BS Ba: 1. CO Q10 - cái này được ngành mỹ phẩm dùng nhiều lắm, nhưng giá của họ rất đắt, thuốc nhập cũng hơn 1tr/lọ mà hàm lượng thấp. Có tác dụng chống oxy hóa tế bào, hỗ trợ tim mạch nên khiến ng dùng thường xuyên sẽ trẻ lâu, da căng mịn, tóc xanh, môi hồng. 2. L anpha: Cái này theo e thấy còn hay hơn CoQ10. L anpha có tác dụng chống lão hóa, tiêu mỡ thừa, đốt cháy mỡ thừa trong cơ thể. Đặc biệt người nào béo phì hoặc muốn ng thon gọn, săn chắc thì dugnf L anpha. Ngoài ra, tác dụng chủ yếu BSs Ba dùng để chữa bệnh của L anpha ngoài tiêu mỡ thừa (thì dùng cho bệnh nhân gan nhiễm mỡ, mỡ máu cao, ...) còn một tác dụng chủ yếu nữa là nâng cao chất lượng tế bào. Chính vì thế, khi dùng L anpha thường xuyên, tế bào khỏe hơn, loại bỏ cặn bã và chất độc cơ thể. Dùng L anpha 1 thời gian thấy rõ rệt nhất là da mịn màng láng hồng như tuổi 18, dáng người thon gọn, tóc mướt đẹp. E đã nhìn thấy 1 chị dùng L anpha được hơn 1 năm, da đẹp lắm, có 2 con, tuổi ngoài 30 mà thực sự da và tóc như tuổi 20 vậy. Đúng là như da e bé luôn.1 like
-
Nét Việt
nhakhanh liked a post in a topic by Bach Dang Giang
Chùm ảnh: Những bức hình "không thể kìm nổi" về thác Bản Giốc (GDVN) - Thác Bản Giốc, hơn cả một địa danh, hơn cả một thắng cảnh, cái tên ấy đau đáu một phần máu thịt người Việt với bao tháng năm dâu bể cùng nắng mưa miền biên ải... Nơi biên cương địa đầu tổ quốc ấy có ý nghĩa thiêng liêng với mỗi người dân nước Việt Từ xa nhìn xuống khu vực thác Bản Giốc trong sương mờ như thực như mơ. Ngược về Bắc 300km từ Hà Nội lên thị xã Cao Bằng, thêm gần 100km nữa để vào huyện lỵ Trùng Khánh và ngược về xã Đàm Thủy, thác Bản Giốc hiện ra ngỡ ngàng trong vẻ đẹp nguyên sơ và trinh bạch giữa núi rừng Việt Bắc. Là con dân nước Việt, hãy đến nơi đây - nơi địa đầu tổ quốc này dù chỉ một lần. Mỗi lần tới đây, đứng trước những dòng thác hiên ngang tung bọt trắng trời kia, hẳn ai cũng chung một cảm xúc rất lạ dâng lên, ấy chính là xúc cảm chủ quyền, là cảm thức đất mẹ, cái cảm thức vừa thiêng liêng như tình mẫu tử, vừa đau đáu nỗi dấu yêu với tấc núi tấc sông trong di huấn tiền nhân! Thác được chia làm 2 thác: thác chính và thác phụ. Trong ảnh là hình ảnh toàn cảnh thác chính nhìn từ phía Việt Nam. Nơi đây, Việt Nam và Trung Quốc đã cùng khai thác du lịch với dịch vụ chèo bè mảng đưa du khách dạo vòng quanh hồ. Du khách về nơi đất mẹ thiêng liêng này ai nấy cũng đều chụp ảnh lưu lại hình ảnh bên cột mốc biên giới tổ quốc Những dòng thác nước chảy tung bọt trắng xóa. Toàn cảnh thác chính nhìn từ giữa hồ. Những dòng thác nước chảy tung bọt trắng xóa. Thác Bản Giốc là cực Bắc của tổ quốc giáp ranh với Trung Quốc. Du khách hai nước tham quan thắng cảnh nơi đây chỉ được đi thuyền dưới lòng hồ mà không được lên bờ phía bên kia của hồ. Hiện nay là mùa cạn nên nước ở đây không được đầy và nước chảy ít lộ ra những gân bờ đất đá rêu xanh Do mùa cạn nên khu vực thác phụ không có nước chảy. Tuy nhiên, cảnh nơi đây vẫn được ví như chốn bồng lai tiên cảnh. Một góc mặt hồ (thác phụ) nước còn lại rất ít nhưng nước rất trong và xanh. Nam Phong http://giaoduc.net.vn1 like -
@phuongthao0908 Nhờ anh Thiên Đồng coi giùm em 1 quẻ nha Hỏi lúc 12:34AM ngày 29/03/12 Trần Thụy Phương Thảo ngày sinh 10/07/1983 giờ Thân 1. Em mới chuyển qua cty mới được 2 tháng. Cty này em có làm bền ko? Cty có phát triển ko? làm ở đây không bền. Công ty có vẻ bề ngoài vậy thôi chứ đang khó khăn. 2. Đường công danh sự nghiệp của em như thế nào ạ? sáng sủa, nhưng thăng trầm lúc đầu trong khoảng 3 - 6 năm. 3. Số em có mua được nhà ko? được. Hơi lâu. 4. Con trai em sinh ngày 28/11/2010 Canh Dần lúc 1:40 sáng. Cháu biếng ăn từ nhỏ, càng lớn càng biếng. Từ giao thừa năm Nhâm Thìn đến giờ bị té liên tục, hầu như lần nào té cũng bị đập đầu xuống đất, có nhiều lúc bị té rất vô duyên nên ko ai đỡ kịp. Ko biết cháu có bị phạm gì ko. Xem lại chức năng gan của bé, hay tiêu hóa. Không để bé bị cảm. Ông xã sinh ngày 27/06/75. Sinh bé ra nhà này thì tài chánh rất khá. Nhưng tình cảm gia đình hơi lục đục không yên. Có bỏ một đứa trước hoặc sau đứa này. Cảm ơn anh rất nhiều. @memitxuxi Cháu chào chú Thiên Đồng Cháu nhờ chú giúp cháu với ạh Cháu sinh 10/08/1981 (11/07 năm Tân Dậu) Là Nữ Giờ hỏi: 14h 02 phút ngày 29/03/2012 (tức mùng 8 tháng 3 Nhâm Thìn) Câu hỏi 1: Cháu có nên thay đổi công việc không? Nếu được thì có ổn định và có cơ hội phát triển không? Nên thay đổi ngay. Câu hỏi 2: Cháu muốn học thêm một chứng chỉ kế toán quốc tế nhưng kẹt kinh tế và cũng bận con cái. Vậy khi nào cháu mới có thể hoàn thành khóa học này? Tùy theo chương trình tính năm hay tháng? Lâu thì 2 năm, nhanh thì 7 tháng. Câu hỏi 3: Cháu muốn mở lớp dạy thêm ngoại ngữ cho trẻ em tại nhà, việc này có thuận lợi không ạh? Nếu có thì bao giờ nên mở ạh? Cũng tốt. Có khó khăn tí nhưng sẽ ổn. Tháng 4 âm nên mở. @zero Anh Thiên Đồng lần này trả lời mọi người toàn văn thơ hay thế . Cho em hỏi anh thêm 3 câu nữa nhé: Tuổi: Nam Giáp Tý (28/09/1984 DL) Hỏi lúc 21h14' ngày 29/02/2012 1. Công danh sự nghiệp của em sau này thế nào ạ? Một là ăn mày hai là trung gia. 2. Khi nào thì em gặp được vợ tương lai của mình? Bọn em biết nhau trong hoàn cảnh nào, có phải do mai mối, giới thiệu ko anh? một là năm sau hai là 2017 3. Kinh tế của 2 vợ chồng em sau này có khá ko? Tùy vào đứa con út Em cảm ơn anh rất nhiều. @xuka8584 Chào anh Thiên Đồng! Em đang có nhiều điều muốn hỏi thì gặp chủ đề của anh. May quá! Anh cho em hỏi chút xíu nha: 1. ngày giờ hỏi: 9:46PM ngày 29/3/2012 2. Nữ sinh giờ Mão ngày 8/5/1984 (DL) 3. Em mới nghỉ làm nhà nước đầu tháng 3 này, nguyện vọng của em là mở shop kinh doanh thời trang. Anh xem giúp em có nên mở shop hay ko? và công việc có thuận buồm xuôi gió ko ah? nếu nên mở thì mở vào thời gian nào là tốt? Nên mở, sang năm khá. 4. Em mới gặp lại người í sau 4 năm, chuyện này có đi đến đâu ko anh? Năm nay em có cưới hỏi gì ko ah? Anh này sinh năm 76. Chỉ có 2 vấn đề này là em băn khoăn nhất trong thời gian này, hic! Xin anh tư vấn dùm em, em cảm ơn anh nhiều ah. thích thì tới luôn! Thương thì cho...cơ hội. Nhưng phải xem coi có phải người tử tế đàng hoàng không nhé. @hin Cháu chào chú Thiên Đồng, mong chú xem giúp hộ cháu ạ Ngày giờ: 05:07 sáng (50/3/2012) Nữ, sinh giờ Thìn ngày 5/1/1987 DL Câu hỏi: 1.Bao giờ mua được nhà riêng ạ? 8 năm nữa hoặc năm 36 tuổi 2.Chồng tương lai là người thế nào? Chậm chậm ít nói nhưng có hiểu biết. 3.Có xuất ngoại được không ạ? Được. Cháu cảm ơn chú ạ. Cháu xin sửa lại chút xíu ạ: Ngày giờ: 05:07 sáng 30.03.2012 nhưng giờ diễn đàn là 04:22 am ah T.T Thiên Đồng1 like
-
Bài đăng báo Thế giới Gia Đình, báo điện tử. =============================================== Nước vào nhà tài lộc tiến Thiên Đồng - Bùi Anh Tuấn - Thành viên nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. trích báo: www.thegioigiadinh.com Thứ Hai, 12/03/2012, 08:35 Người Việt có câu “tiền vào như nước” trùng với quan niệm phong thủy là “thủy quản tài lộc”. Nước được coi như yếu tố tích cực, quan trọng để đón tài lộc, nhưng nếu vận dụng sai cách, nước trở thành yếu tố xấu. Đưa nước vào trong nhà theo quan niệm phong thủy là cách để tạo sinh khí cát tường. Vận dụng bể cá, hồ thủy sinh, thác nước ở không gian sống, làm việc là hình thức đưa một phần sinh khí bao la của đất trời vào nơi sinh hoạt và tồn tại của con người. Đây là mối dây kết nối vô hình giữa nước với con người để tạo ra sinh khí và thời vận. Trong phong thủy, nơi nào có sinh khí, nơi đó thời vận sẽ hanh thông. Đón tài lộc Theo cấu trúc Dương trạch Lạc Việt (thiết kế của ngôi nhà) , khoảng không gian trước cửa chính hoặc cổng chính được gọi là Minh đường và thuộc tính dương. Vì vậy, việc bố trí tiểu cảnh như tường nước hoặc thác nước ở vị trí Minh đường không chỉ đảm bảo yếu tố thẩm mỹ trong bố cục không gian mà còn mang lại sự cát vượng dương khí. Đây được gọi là Minh đường tụ thủy. Tùy theo sở thích hay điều kiện không gian mà gia chủ chọn lựa việc bố trí tường nước, thác nước hay hồ nước trong sân nhà, đại sảnh. Tuy nhiên, tốt nhất nên bố trí tường nước, vì đây được coi như thác nước thu nhỏ, có dòng chảy to, mạnh, mang nhiều sinh khí cho ngôi nhà. Trong kiến trúc chùa, miếu của người Việt thường có nước trước sân, trước cửa chính. Đó là một nét phong thủy đặc sắc và phổ biến của văn hóa Việt. Đối với công ty, cơ sở kinh doanh, nhà hàng khách sạn... việc bố trí nước trong khuôn viên mặt tiền là điều cần thiết và rất quan trọng. Không chỉ tạo không gian mát mẻ, thoáng đãng và nhẹ nhàng về cảm giác, cảm quan mà nước còn là yếu tố kích hoạt cho sự cát vượng vận khí của nơi đó. Một hồ nước với vòi phun cực mạnh hay một đài phun nước với lượng nước hoạt động dồi dào luôn là yếu tố tụ thủy, đồng nghĩa với việc tụ tài, tụ tiền và tạo ra nguồn động lực tiềm ẩn tích cực cho mọi cá nhân tồn tại, hoạt động trong môi trường đó. Đây được gọi là Hoạt khí sinh tài. Lưu ý Nếu tạo hồ nước, phải đảm bảo nước luôn sạch sẽ, không bị dơ bẩn, không để rong rêu phát triển; phải thay đổi nước hay súc sạch hồ định kỳ. Nếu là thác nước, không để rác bẩn tù đọng; nước phải luôn chảy róc rách hay được lưu thông thay đổi thường xuyên; nước luôn được lọc sạch để tạo sinh khí mới. Vị trí sau nhà hay sau khu đất được gọi là Tọa sơn, thuộc tính âm, vì vậy tuyệt đối không bố trí tường nước, thác nước hay hồ nước ở đó. Đây là yếu tố tối kỵ trong phong thủy, được gọi là Hạ thủy sát. Đặc biệt, đối với những nhà biệt thự, việc bố trí hồ bơi cá nhân cũng cần phải cân nhắc, tuyệt đối không thiết kế hồ bơi sau nhà.1 like
-
Bài viết đăng báo Thế giới Gia Đình, báo điện tử Trồng cây xanh thêm sinh khí Thiên Anh - Nguyễn Hoàng Anh Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. trích báo: www.thegioigiadinh.com Thứ Hai, 12/03/2012, 02:41 Mang cây cỏ vào không gian sống là sở thích của nhiều người. Song trong phong thủy, không phải loại cây nào cũng thích hợp trồng trong, trước hoặc sau nhà. Do có tính tương tác mạnh với môi trường xung quanh nên trong phong thủy, cây xanh được sử dụng để hóa giải sát khí và mang lại sức sống cho môi trường và không gian làm việc của con người. Phong thủy Lạc Việt cho rằng những cây sum suê có tác dụng hấp thu sát khí, mang lại bình an cho gia chủ. Tuy nhiên, căn cứ vào màu sắc, hình dáng của cây, phong thủy phân loại theo tính chất ngũ hành. Do đó, việc sử dụng cây xanh phải tuân theo nguyên lý Âm dương ngũ hành, kết hợp với không gian cho hài hòa. 1. Cây trồng trước nhà Hoa có màu sắc rực rỡ, cành lá sum suê như: đào, mai, kim quýt hoặc các loại cây có trái tròn như cam, táo, bưởi… thuộc hành Kim, phù hợp khi trồng ở những vị trí từ phía Tây Nam đến Tây Bắc của căn nhà. Cây sẽ hấp thu sinh khí, mang lại tài lộc đến cho gia chủ. 2. Cây trồng trong nhà Không nên trồng các cây như: vạn niên thanh, trầu bà… ở trong nhà, về cơ bản những cây này ban đêm hút ô-xy, ban ngày nhả carbonic, làm không gian ngột ngạt, không có lợi cho gia chủ, vì thế không mang lại sinh khí cho ngôi nhà và không sinh tài lộc cho gia chủ. Chỉ nên trồng ở vườn bên trái nhà tính từ trong nhìn ra. 3. Cây trồng sau nhà Các loại cây cao và lá to như: chuối, cau... do tính hấp thụ dương quang rất mạnh nên dễ mang lại cảm giác ấm cúng, ổn định tình cảm, bình yên cho gia chủ. Ngoài ra có thể trồng các loại cây như: trúc, xương rồng để hóa giải khí xấu. Lưu ý Không nên trồng cây thiết mộc lan, hoàng nam... trong khu vực nhà ở và môi trường kinh doanh vì thể hiện tính bạc nhược, không có chí vươn lên. Tránh trồng cây dạ hương, trạng nguyên, thụy hương trong nhà vì những loại cây này dễ tụ khí xấu. Nếu nhà có ao, hồ nên trồng cây liễu để cân bằng âm dương. Trong phong thủy, cây xanh còn được sử dụng như một nhân tố trấn yểm nơi ở dựa trên tính chất ngũ hành của từng loại cây và vị trí, hình dáng từng căn nhà, mảnh đất. Lưu ý, khi cây trồng bị khô héo, phải chăm sóc kịp thời hoặc thay loại cây khác phù hợp với môi trường để cây luôn xanh tươi, vừa đảm bảo tính thẩm mỹ, vừa giúp mang sinh khí cho căn nhà. Như vậy, cây xanh không đơn thuần chỉ là vật trang trí cho ngôi nhà, nó còn là nhân tố quan trọng bảo vệ sức khỏe con người và mang lại tài lộc.1 like
-
Bài viết đăng báo Thế giới Gia Đình số 03 ngày 1-2-2012 ====================== NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ HOA TRONG PHONG THỦY Hạt gạo làng - Nguyễn Đức Thông Thành viên nghiên cứu phong thủy Lạc Việt Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Cứ mỗi độ xuân về, các loài hoa chen nhau đua nở mang lại sắc thái mới cho mùa xuân, xua tan giá lạnh của những cơn gió mùa đông bắc. Con người, với khả năng thụ hưởng nghệ thuật của mình luôn gắn bó với loài hoa, coi hoa là một món ăn tinh thần không thể thiếu được trong cuộc sống. Hoa mang lại sự tươi tắn, trẻ trung và sinh khí cho căn nhà của mình. Hoa tô điểm, đem lại sự vui tươi, làm tinh thần phấn chấn, khiến con người thêm yêu đời, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên. Về nghệ thuật cắm và trang trí hoa, đã có nhiều bài viết về nó. Người viết không đi sâu về nghệ thuật cắm hoa mà chỉ muốn tạo ra một cách nhìn mới về cách trang trí hoa theo phong thủy để làm tăng thêm tình cảm gia đình và tình yêu đôi lứa. Người ta cho rằng hoa hồng biểu thị của tình yêu đôi lứa. Phòng ngủ vợ chồng có một giỏ hoa hồng càng làm cho tình yêu thêm mặn nồng. Hoa mẫu đơn cũng là một loài hoa biểu thị tình yêu đôi lứa mang sắc thái về hôn nhân. Việc cắm hoa hồng làm tăng tình cảm cũng cần hết sức chú ý. Đối với những người chưa có gia đình, tình cảm hay gặp trục trặc, tình duyên không thuận lợi nên cắm hoa hồng để thúc đẩy tình duyên của mình. Với người đã có gia đình thì có một số vị trí không nên đặt hoa hồng vì sẽ khiến người đó có những mối quan hệ ngoài hôn nhân. Những người tuổi Thân, Tý, Thìn chưa có gia đình hay tình duyên lận đận nên đặt lọ hoa hồng ở phương chính Tây trong căn nhà. Ngược lại, những người tuổi này đã có gia đình thì tuyệt đối không nên đặt hoa hồng ở vị trí đó mà nên thay bằng hoa mẫu đơn để thúc đẩy tình yêu trong gia đình. Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất muốn thúc đẩy tình duyên nên đặt lọ hoa ở vị trí phương chính Đông của căn nhà và ngược lại đối với những người đã lập gia đình chỉ nên đặt hoa mẫu đơn ở đó. Những người tuổi Hợi, Mão, Mùi cần thúc đẩy tình duyên thì ở phương chính Bắc của căn nhà. Ngược lại đối với những người đã lập gia đình chỉ nên đặt hoa mẫu đơn ở đó. Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu cần thúc đẩy tình duyên thì đặt ở phương Đông Nam của căn nhà. Ngược lại đối với những người đã lập gia đình chỉ nên đặt hoa mẫu đơn ở đó. Cần chú ý là hoa hồng phải là hoa tươi thì mới thúc đẩy tình duyên. Hoa hồng khô biểu thị một tình yêu đã chết và hoa hồng giả biểu thị tình yêu ỡm ờ, tình cảm giả tạo hay một tình yêu chỉ để trong lòng mà không nói ra được. Ngoài ra, còn cần chú ý đến màu và hình dáng của bình cắm hoa. Những người mạng Mộc nên dùng bình hoa màu xanh lá cây, màu xanh dương hoặc có thể dùng màu vàng. Hình dáng của bình hoa cho những người mạng mộc là bình hoa uốn lượn hoặc bình hoa cao và thon thon. Trong bình cắm hoa hồng cắm, nên thêm loài hoa có màu xanh làm chủ đạo đan xen những bông hoa màu đỏ biểu thị cho tình yêu đôi lứa. Những người mạng Hỏa nên dùng bình hoa màu xanh lá cây, màu đỏ hoặc màu vàng hay màu trắng. Hình dáng bình hoa có thể cao thon hay vuông hoặc tròn. Hoa có màu hồng, màu đỏ là chủ đạo đan xen những loại hoa màu xanh lá cây và trắng. Những người mạng Thổ thì nên dùng bình hoa màu đỏ, màu hồng hoặc màu vàng. Về hình dáng thì nên dùng những bình hoa hình vuông. Màu sắc của hoa là màu đỏ đan xen hoa màu vàng. Những người mạng kim nên dùng bình hoa hình vuông, hình tròn có màu trắng, màu vàng. Màu sắc của hoa là màu vàng đan xen hoa màu đỏ và trắng. Những người mạng Thủy nên dùng bình hoa hình tròn, hình gợn sóng uốn lượn có màu trắng hay màu xanh dương. Hoa hồng nên chọn những hoa có màu trắng là chủ đạo đan xen loại hoa màu xanh dương và màu đỏ. Ngoài ra, một lọ hoa hồng hoặc hoa mẫu đơn đan xen những loài hoa khác đặt ở cung hôn nhân cũng làm cho tình cảm thêm mặn nồng. Trên đây là những điều cần thiết để trang trí hoa nhằm thúc đẩy tình duyên đôi lứa và hạnh phúc gia đình. Các bạn cũng nên lưu ý theo quan niệm phong thủy Lạc Việt thì để bình hoa có tác dụng thúc đẩy hôn nhân, hạnh phúc gia đình thì sinh khí trong nhà phải dồi dào. 27/12/20111 like
-
Bài Thơ Thư Cưu
thaochau liked a post in a topic by Lãn Miên
Bài thơ Thư Cưu 关关雎鸠,在河之洲。窈窕淑女,君子好逑。 参差荇菜,左右流之。窈窕淑女,寤寐求之。求之不得,寤寐思服。悠哉悠哉,辗转反侧。 参差荇菜,左右采之。窈窕淑女,琴瑟友之。参差荇菜,左右芼之。窈窕淑女,钟鼓乐之。 Thời Tiên Tần, “Thi Kinh” chỉ gọi bằng một tiếng là Thơ=Thi, có tới hơn 1000 bài sưu tầm trong dân gian, bao gồm Phong (phong dao) là ca dao nói về phong tục tập quán của dân cư thuộc 15 quốc; Nhã là những bài ca của nhã nhạc trong triều đình; Tụng là những bài nhạc ca cúng vua (lướt “Tế Cúng”=Tụng). Tất cả đều viết theo thể thơ 4 chữ (thể 4 chữ kiểu này thì đầy rẫy trong thành ngữ, tục ngữ, đồng dao của Việt Nam, như: Nhất nước nhì phân, Tam cần tứ giống; Tốt giống tốt má, Tốt mạ tốt ló; Chi chi chành chành, Cái đanh thổi lửa, Con ngựa chết chương, Ba vương ngũ đế, Bắt dế đi tìm, Ú tim ù ập v.v.). Sau chỉ còn có hơn ba trăm bài, gọi là “Thi” hoặc “Thi Tam Bách”, Khổng Tử chỉnh lý lại. Sau, Hán Vũ Đế giao cho Đổng Trọng Thư và các học giả, độc tôn Nho thuật, giải nghĩa, tôn “Thi” thành kinh điển, nên gọi là “Thi Kinh”, gồm 305 bài, là của sưu tầm từ thời đầu Tây Chu đến thời giữa Xuân Thu, dài hơn 500 năm. 包括 : 周南、召南、邶、鄘、卫、王、郑、齐、魏、唐、秦、陈、桧、曹、豳(邠)十五国 Theo giải thích trên mạng này (http://www.ccview.net) thì 15 quốc, đều là “chư hầu quốc” của nhà Chu gồm: Bội 邶 (ở Hà Nam), Đường 鄘 (ở Hà Nam), Vệ 卫 (ở Hà Nam), Vương 王(ở Hà Nam), Trịnh 郑 (ở Hà Nam), Tề 齐 ( ở Sơn Đông), Ngụy 魏 (ở Sơn Tây), Đường 唐 (ở Sơn Tây), Tần 秦 ( ở Thiểm Tây), Trần 陈 (ở Hà Nam – An Huy), Cối 桧 (ở Hà Nam), Tào 曹(ở Sơn Tây), Mân 豳(邠) (ở Thiểm Tây - khác với Mân 闽 có về sau là ở Phúc Kiến). Loanh quanh chỉ ở vùng Thiểm Tây - Sơn Tây - Hà Nam - An Huy - Sơn Đông. Trong đó có hai quốc không giải thích là nằm ở đâu, đó là Chiêu Nam 召 南 ( vậy quốc Chiêu Nam 召 南 này chính là Nam Chiếu 南 召 ở Vân Nam), và quốc Chu Nam 周 南(Chu Nam 周 南 này chính là Văn Lang ở Lĩnh Nam). Chu Nam nó không còn là quốc nữa mà là Nước của các quốc còn lại nêu trên, các “chư hầu Quốc”, tức các “thứ hai Của Nước”. “Của Nước”=(lướt)=Quốc. Hứa Thận giải thích “Quốc” nghĩa là “khu vực”. Chữ Chu Nam chỉ là dùng chữ để dịch nghĩa mà thôi. Chu 周 nghĩa là cái Vòng (chu vi), tức cái Vùng, cái Vuông 口, mà về sau viết lệch đi thành chữ Văn 文 (người Triều Châu vẫn đọc chữ Văn 文 này là “Vuông”, còn người Quảng Đông vẫn đọc chữ Văn 文 này là “Mảnh” vì cái Vuông ấy nó Vuông Vắn mà Vành Vạnh như cái Mủng nên đọc nó là Mảnh, cái âm tiết “Văn” ấy cũng do từ dính Vuông- “Vắn” của tiếng Kinh mà ra). Hứa Thận giải thích chữ Văn 文 nghĩa là vuông, viết cách sai nét đi. Chu Nam 周 南 có nghĩa là Vùng đất của người Nam, ở Lĩnh Nam. (Lang=Nang=Nam chỉ là sự biến âm). Chu Nam cũng có nghĩa là Đông Đúc ở phía Nam. Chữ Chu 周(=Châu 周) trong Việt ngữ còn có nghĩa là Trọn Vẹn (chu toàn, châu đáo) là một khái niệm mang nghĩa Âm Dương hài hòa, bản thân chữ Trọn Vẹn nói lên điều đó, bởi nó là hình ảnh của cái bánh Dầy trên chốc bánh Chưng, tức Tròn trên Vuông, Tròn Vuông đã được nâng lên nặng ý (đổi thành hoàn toàn dấu nặng) thành Tròn Vuông = Trọn Vẹn. Đúng như Hứa Thận giải nghĩa chữ Chu 周 nghĩa là: Mật dã 密 也 “Mật ạ”, tức đông đúc, mà đông đúc là kết quả của Âm Dương hài hòa (theo tư duy phồn thực), cách đọc nó là: lướt Chức 職 留 Lưu = Chưu. Chưu=Chu=Châu=Chậu=Chứa=Chửa, là kết quả của sự giao hợp, tức Chung Đậu = Châu, Chung Đụ = Chu. Tượng hình trong cổ văn của chữ Chu là giống hình Âm vật và Dương vật cùng nhau, có Tròn, có Vuông (để sẽ cho ra cái Trọn Vẹn). Về sau Nho viết đẹp hơn, chữ Chu 周 gồm bộ Cung bên ngoài, tượng trưng cho cái tử cung, bên trong gạch chia đôi trên dưới hai phần, bên dưới là Vuông 口 tượng trưng Trứng (cái) Âm, bên trên là hai gạch tượng trưng Tinh Trùng (đực) làm thành dấu cộng + Dương. Trứng và Tinh Trùng cùng chen nhau Chung Đậu = Châu trong tử cung nên mang nghĩa là Mật (khi ở bên trong), để rồi có thể đẻ ra một lúc chục con hay trăm con, là “mẹ tròn con vuông” tức Trọn Vẹn và đương nhiên là đông đúc, tức Mật (khi đã ở bên ngoài). Các bài thơ trong “Thi Kinh” từ thời Xuân Thu, đã được người nay chú giải, nếu không thì không ai hiểu. Bởi nó là thơ của người Việt. Để xem thơ trong “Thi” có phải là thơ của người Kinh hay không, ta xem bài đầu tiên là bài “Quan Thư” (“Con Cu”, tức con chim cù cu hay còn gọi là con chim gáy, con nào có lông lốm đốm đẹp thì còn được gọi là con cu cườm). Chim cù cu sống có đôi, rất chung thủy “trống”- “mái”, một “chồng”- một “mợ”. Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu lưu chi. Ngô muội cầu chi. Cầu chi bất đắc, Ngô muội tư phục. Du tai Du tai, Triển chuyển phản trắc. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu thái chi. Yểu điệu thục nữ, Cầm sắt hữu chi. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu mao chi. Yểu điệu thục nữ, Chung cổ lạc chi. Dịch: Con Con Cù Cu, Ở ổ chỗ cao. Yểu điệu thục nữ, Cu Tí ham nhau. Ngắn dài bông sen, phải trái lay chen. Ngỏ muồi cầu chứ , Cầu mà không được, Ngỏ muồi lại nhớ. Dài dài dài dài, trằn trọc lăn lóc. Ngắn dài bông sen, Phải trái lay chen. Yểu điệu thục nữ, cầm sắt tình chứ. Ngắn dài bông sen, Phải trái ngắt lên. Yểu điệu thục nữ, chuông cối vui chứ. 【注释】(chú giải) 01、关关:指雌雄两鸟相对鸣叫 02、雎鸠(JuJiu):一种鱼鹰类的水鸟,传说此鸟雌雄终生相守。 03、洲:水中陆地 04、窈窕(YaoTiao):娴静端正的样子 05、淑女:贤德的女子。淑,善 06、君子:对男子的美称 07、好逑:好的配偶 08、参差:长短不齐的样子 09、荇(Xing)菜:一种根生水中、叶浮水面的可食用植物 10、流之:随着水流而摇摆的样子 11、寤寐(WuMei):指日夜。寤,睡醒;寐,睡着。 12、求:追求 13、悠:长久 14、辗转反侧:躺在床上翻来覆去睡不着 15、芼(Mao):采摘 Xem chú giải: 01.Quan关 quan关: Chỉ trống mái hai chim hót mừng đối đáp nhau. Chữ Quan 关 này theo nghĩa chữ là “đóng” (bế quan) nhưng cái âm của nó là âm Việt: Cu=Con=Quan=Quân, dù có viết bằng chữ gì thì cái âm tiết “con” vẫn hiển hiện trong từng chữ khác nhau đó, dù Quan 官 là ông quan, hay Quân 君 là ông vua, hay Quân 军 là ông bộ đội thì vẫn là Con. Quan 关 Quan 关 chính là Con Con, đó là hai Con (chim) 02.Thư cưu 雎 鸠(JuJiu): Một loài chim nước giống chim ưng ăn cá (?), truyền thuyết nói rằng giống chim này trống mái chung thủy với nhau đến cuối đời. Từ điển Hán Việt (nxb KHXH –HN 1997) giải thích Thư Cưu là: chim gáy trong sách cổ (điều này đúng). Có lẽ do người ta đọc chữ Tại Hà Chi Châu nên nghĩ nó là chim nước. Âm tiết Thư, ngoài chữ Thư 雎 bộ chuy 隹 là chim, còn có chữ Thư 狙 mà Từ điển trên giải thích là: chỉ “người” thời Xuân Thu, như Phạm Thư, Đường Thư. Vậy gọi theo kiểu Việt là Thư Phạm, Thư Đường, tức Cu Phạm, Cu Đường (hoặc cả như Cu Tí là Câu Tiễn, vua nước Việt từng đóng đô ở Cối Kê). Cu = Cụ = Cử = Thư đều là cách người Việt gọi người. Người Vân Kiều hay người Kinh ở nông thôn vẫn gọi người là Cu, nặng kính trọngg thì gọi là Cụ. Cu Trai = Chài (Chài tiếng Tày là Anh, “noọng ơi noọng au Chài mí ?” là “nàng ơi nàng yêu Anh mấy?”, “mấy ?” là dấu hỏi, nghĩa là “không?”), Cu Gái = Cái, Cu Hòn = Con (con trai mới có hòn giống), do đó mà có từ “Con Cái” trong tiếng Việt, Hán ngữ gọi là “Tử Nữ”. Cu = Cụ = Cử = Cưu. Thư Cưu là Cù Cu, con Cù Cu là con chim gáy. Loài chim nữa cùng loại, cũng sống đôi chung thủy, được lấy làm biểu tượng đôi lứa là chim Câu, mà người Việt gọi đôi theo mái trống là Bà Cu = Bồ Câu. 03.Châu 洲: Lục địa trong nước. Chữ Châu mang nghĩa lục địa là về sau mới có. Thời cổ đại chữ Châu này là Chỗ Đậu = Châu. Châu=Cầu=Cao=Cồn=Hòn (do thời Nghiêu có thiên tai biển dâng, người Việt đò đến những đỉnh núi đã thành chơ vơ giữa biển nước, gọi đó là Cồn Đậu (Cồn Đậu = Côn Đảo). Cồn Đậu = Cầu, nên quần đảo Đài Loan và Nhật Bản xưa gọi là Lưu Cầu. Hà, xưa là chỉ nơi đựng nước: Ổ = Hố = Hồ = Hà. Ổ = Ao = Áo = Âu = Au = Yêu đều là những cái đựng, dù là đựng người (cái Ổ, cái Áo, “yêu nhau cổi áo cho nhau”), đựng nước (cái Ao, cái Âu, cái bát chiết Yêu), hay đựng tình cảm ( cái Yêu, cái Au “Au chài mí ?”). Bài thơ viết “Tại Hà Chi Châu” là dùng hình tượng đảo giữa nước nhưng là để nói ý cái ổ trên cao, vừa nhắc điển tích trận biển dâng thời Nghiêu, ý nói đôi chim Cù Cu đã phải qua bao gian lao mới có được cái ổ để nên vợ nên chồng 04.Yểu Điệu 窈 窕(YaoTiao): Dáng nhuần tịnh đoan chính Chữ này phải chú phiên âm, vì chỉ có trong “Hán cổ”. Nhưng tiếng Việt thì dễ hiểu, là “đáng Yêu mà lại Điệu đàng”, tức rất nữ tính mà lại sang trọng, có tri thức. 05.Thục nữ 淑 女: Người con gái hiền đức. Thục,Thiện Các cặp từ đối Âm/Dương theo phồn thực trong tiếng Việt là Nường/Nõn, Nọc/Nái, Nòi/Nụ , từ đó mà có từ Nữ. Thật Đức =Thục, Thật Hiền = Thiện. 06.Quân Tử 君 子: Mĩ xưng đối với nam tử Đơn giản Quân 君 Tử 子 là do từ Cu Tí của tiếng Việt cổ 07.Hảo Cầu 好 逑: Phối ngẫu tốt Việt ngữ không gọi là phối ngẫu mà gọi là “Cùng Nhau” = Cầu. Hám Cùng Nhau thì viết là Hảo Cầu. 08.Sâm Sai 參 差: Dáng ngắn dài không bằng nhau Đây là chữ mượn âm để ký âm: Sâm=Ngâm=Ngắn, Sai=Dài. 09.Hạnh Thái 荇(Xing)菜: Một loại thực vật ăn được, rễ ở dưới nước, lá nổi trên mặt nước (rau hạnh: nymphides peltalum – Từ điển Hán Việt nxb KHXH 1997) Chữ của sách cổ nên ngày nay phải phiên âm, chẳng biết nó là rau gì. Đơn giản hiểu là loại rau ao nhà, người con gái tần tảo hái nấu hàng ngày lo cho bữa ăn gia đình. Nhưng lá nó cọng ngắn dài khác nhau, chen nhau chao động theo sóng nước, nên tôi nghĩ nó là cây sen. Bông sen biểu trưng cho đức hạnh của người con gái “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” nên con dâu thường hái bông sen ngày một, ngày rằm thắp nhang cúng tổ tiên nhà chồng để tưởng nhớ, tỏ lòng hiếu thảo, xin chứng giám cho tấm lòng trong trắng của mình 10.Lưu Chi 流 之: Dáng dao động theo sóng nước Lắc lư chớ, viết bằng chữ Lưu 流 Chi 之. Chữ Lưu 流 trong Hán ngữ chỉ có nghĩa là nước chảy. Chẳng qua mượn chữ Lưu 流để phiên âm chữ Lắc Lư 11.Ngô Muội 寤 寐(WuMei): Chỉ Ngày Đêm. Ngô là ngủ tỉnh, Muội là ngủ say Chữ này phải phiên âm, vì không có trong Hán ngữ. Thực ra nó là âm tiết Ngỏ Muồi của tiếng Việt. Ngỏ là ngủ mà mở mắt thao láo vì không ngủ được, còn có từ ghép Mở Ngỏ. Muồi là ngủ say (“Ru tam, tam thẹc cho muồi. Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu”- Bài ru con xứ Huế, “tam” là gọi tránh, mẹ, cha rồi đến con là thứ ba) 12.Cầu 求: Truy cầu Kêu xin ơn Sâu=(lướt)=Cầu 13.Du 悠: Trường cửu Trong thơ viết là Du Tai, đó là phiên thiết của từ Dài (lướt Du Tai = Dài; lướt Dài Lâu = Dâu) 14.Triển Chuyển Phản Trắc 辗 转 反 侧: Nằm trên giường lật qua lật lại, ngủ không được Hán ngữ chú giải cụm từ “trằn trọc lăn lóc” của tiếng Việt nghe mà thấy khó nhọc cho họ wá xá. Tiếng Việt chỉ có cụm 4 từ đó thôi mà hình dung được hết rồi, biết là ở trên giường luôn và ngủ không được: Trằn là kết quả lướt của Trở Lăn,Trở Lăn = Trằn; Trọc là kết quả lướt của Trở Dọc, Trở Dọc = Trọc; Lóc là kết quả lướt của Lăn đến Góc, Lăn đến Góc = Lóc. Lăn đến góc giường rồi tất nhiên phải lăn trở lại nếu không thì rớt xuống đất, nên từ đôi Lăn Lóc là đã nói lên cái sự lăn đi lăn lại đó mà vẫn là ở trên giường (các nhà ngôn ngữ học VN thì nói: những từ như kiểu từ Lăn Lóc không phải là từ Láy, cũng chưa định nghĩa được là từ gì, trong đó Lăn là rõ nghĩa, còn Lóc chưa rõ nghĩa, gọi nó là từ “chờ chưa sử dụng”). Hán ngữ đã phiên âm từ Trằn Trọc bằng mượn âm từ Triển Chuyển, Triển 辗 là cán bằng trục xoay, Chuyển 转 là chở bằng xe, còn phiên âm từ Lăn Lóc bằng Phản Trắc. Dịch được ngôn từ của Nhã ngữ đã khó ( Người Việt thì mới có khái niệm “khó nhọc với việc bên ngoài” thì gọi là Vất-Vả, còn “khó nhọc với chính bên trong bản thân” thì gọi là Vật-Vã, đều cùng tơi “V” với Việt. Người Hán hay người Anh chẳng có kiểu đặt tên khái niệm được như vậy), dịch ý thơ của Nhã ngữ còn khó hơn. Trên mạng này chỉ thấy chú giải, không thấy dịch ý thơ. 15.Mao 芼(Mao): Thái Trích Hái=Thái, Tách=Trích. Chữ Mao phải phiên âm, vì không có trong Hán ngữ. Mắn Vào = Mao, có nghĩa là Ngắt. Mắn=Ngắn=Ngắt. Mắn là sự cắt ngắn, cả đối với cọng rau (Mắn Vào = Mao nghĩa là Ngắt đem về), cả đối với thời gian (ví dụ từ Mắn Đẻ là rút ngắn thời gian giữa hai lần đẻ). Trong bài thơ này tôi coi cây Rau Hạnh chỉ là do Nhã ngữ muốn ám chỉ cái đức hạnh của người con gái đi làm dâu, mà chồng đang đi xa, ở nhà nhớ nhung, trằn trọc không ngủ được, vẫn cầu mong tốt lành cho chồng và nhà chồng, hiếu thảo thờ phụng gia tiên. Tôi nghĩ Rau Hạnh đó là ám chỉ Bông Sen. Người con gái hiền thục đó khi nhớ chồng đem đờn ra gẩy. Cuối cùng thì họ cũng đến lúc sum vầy “Chuông Cối vui chứ”, Chuông = Chung (tượng trưng người chồng), Cối = Cổ là cái trống đồng hình giống cái cối úp (tượng trưng người vợ). Bài thơ lấy bối cảnh ổ chim Cù Cu để ca ngợi tình nghĩa vợ chồng. Thời Việt Nho còn rất hồn nhiên, tự do yêu đương cũng như tự do tư tưởng, không bị gò ép như thời Hán Nho về sau, phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” gái bó chân, nhốt trong lầu hồng, như nô lệ của đàn ông. Người phụ nữ Việt của Nhã ngữ đoan trang đức hạnh lại tự do bình đẳng, vui vẻ chủ đọng trong hạnh phúc, tình dục và trách nhiệm gia đình chồng, qua hình ảnh đôi chim Cù Cu. Ca dao Việt còn có câu: “Thương chồng nấu cháo cù cu. Chồng ăn chồng đụ như tru phá ràng”. Hình ảnh ngắt bồng sen đem về cúng cầu gia tiên, đúng là vai trò đảm đang của người con dâu: Con trai có hiếu thường tình. Con dâu có hiếu làm vinh gia đàng.1 like -
Hi Oanh,Đỗ Anh đến trực tiếp Trung tâm và anh Thiên Đồng đã xem giúp ngày cưới (tháng 1& 7 Đại lợi, tháng 6&12 tiểu lợi) do Đỗ Anh và bạn trai chọn tháng 1 nên đc 3 ngày tốt (17,28,29/1 âm lịch) nếu bạn muốn cưới tháng 1 giống Đỗ Anh thì bạn chọn 1 trong 3 ngày này đi :)1 like
-
Ngày tốt 2013 Trung Tâm chưa chọn, bạn đọc từ đầu topic sẽ có bài nói về tháng cưới tốt, bạn cứ chọn tháng đi, rồi gần cuối năm hay xem ngày. Thân mến.1 like
-
Sắc Và Không
thaochau liked a post in a topic by Lãn Miên
Sắc và Không Nghiên cứu nền văn minh cổ đại Lạc Việt, ta dùng từ “người Việt” là để nói chung đại tộc Việt. Thông thường, ta nói “người Việt” hàm ý là người Việt Nam bất kể sắc tộc bản địa nào sống trên đất nước Việt Nam (vì thực tế trong gen chỉ ra rằng thời cổ đại đều thuộc đại tộc Việt cả mà thôi, vì vậy trong ngôn ngữ Việt Nam có từ “đồng bào”). Nhưng về ngôn ngữ thì ngôn ngữ chung dùng cho giao tiếp cộng đồng cả nước Việt Nam, ta gọi là ngôn ngữ Việt Nam, mà đó là tiếng Kinh. Người Kinh là sắc tộc đa số ở Việt Nam. Bởi vậy “ngôn ngữ Việt Nam” hay “tiếng Kinh”, ta dùng từ thông dụng gọi là “tiếng việt”. Dùng từ “tiếng Việt” chứ không gọi lộn là “Việt 粤 ngữ 語”, vì từ “Việt 粵 ngữ 語” thì trong Hán ngữ hiện đại dùng để chỉ tiếng Quảng Đông, chữ Việt 粵 này viết bằng chữ “Việt 粵 ở”. Người dân Quảng Đông cũng gọi “tiếng Quảng Đông là “Việt粵 ngữ 語”, món ăn Quảng Đông thì gọi là “cơm Việt 粵”, nó khác với “cơm Triều Châu” hay “cơm Trung Quốc”. Vậy trong lịch sử thì danh từ “người Kinh” có trước hay danh từ “người Việt” có trước? Tôi cho rằng danh từ “người Kinh” là có trước. Trong tiếng Việt thì bất cứ cái gì có tồn tại đều gọi là Kẻ: vật, người đều là Kẻ hết vì chúng đều là có xuất hiện, tồn tại và kết thúc. Theo QT Lướt thì “Có Đẻ”=Kẻ, nó là cái có xuất hiện thành một cuộc đời. Nhưng cái Kẻ chỉ bản thân thì lại là “Kẻ Mình”=(lướt)= “Kinh”, đó là cách người Kinh tự xưng. Dân tộc nào trên thế giới cũng lấy danh từ tự xưng để chỉ tộc người của mình. Như đã giải thích theo QT: Kẻ=Thẻ=Thể=Thịt=Thân=Thần=Mẫn=Minh=Mình (theo nghĩa mà dịch tương ứng sang Hán ngữ thì có phiên âm: Zi, Pian, Ti, Rou, Shen, Min, Ming, Min. Chúng không thể tạo được QT để có thể nối với nhau bằng dấu =, thể hiện là cùng một nôi khái niệm), lại liên tục từ vô tri như Thẻ hay Thể đến có Thịt rồi có Thần (thần kinh) để có Minh tức là có hồn để thành Mình. Vậy danh từ “người Kinh” là một danh từ đáng tự hào vì nó nghĩa đen là kẻ có hồn tức có tư duy, là người, khác với loài vật. (Vậy mà người ta cứ khăng khăng là trong nôi khái niệm trên, những chữ có viết bằng chữ nho như: Thể 體, Thân 身, Thần 神, Mẫn 敏, Minh 冥 ấy là “từ Hán-Việt”. Chữ Mình không có viết bằng chữ nho, ở trên do tôi phiên âm là Min mà thôi. Khi đã thành danh từ “Kinh” thì gọi phân biệt với các Kẻ khác (tức các sắc tộc khác) là Kẻ Kinh (mà người Tày, người Thái gọi Kẻ Kinh là Cần Keo). Người Kinh lấy vỏ cây Lanh làm sợi dệt ra vải, vỏ ấy phải là vỏ Già=vỏ Dày gọi là Vỏ Cái. “Vỏ Cái”=(lướt)=Vải, có Vải mới có Váy, có Váy mới có Vận=Quấn, cái “Mình Quấn”=(lướt)= “Mấn” ( đó là “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không”), cái “Mình Quấn” ấy chữ nho viết là chữ Quần 裙, người Hán phát âm là “xuýn” để chỉ cái Váy. Còn đàn ông thì vận cái “Không cho Lộ”=(lướt)= “Khố”, chữ nho viết là chữ Khố 裤, người Hán dùng chữ ấy, phát âm là “khu”, lại để chỉ cái quần hai ống, vì họ là dân du mục, ngồi lưng ngựa, không mặc váy. Đàn bà người Kinh mặc Váy và Yếm. Sau đến thời kim loại đồ đồng mới làm ra kim để may thì Yếm=Y 衣 =Aó袄 =Bào 袍, yếm thành ra có ống tay để xỏ, nên “Xỏ Yếm”=(lướt)= “Xiêm”, mới có từ đôi là Xiêm Y, Áo Bào. Y phục ngày càng phong phú, nhưng tất cả các thứ đó đều từ cái Yếm của đàn bà người Kinh mà ra cả (Hán ngữ hiện đại không dùng từ Áo 袄, cho rằng đó là “tiếng Hán cổ”, mà dùng từ “thượng y 上 衣” để chỉ cái áo). Cây lấy vỏ làm sợi gọi là cây Kinh 荆 hay cây Sở 楚 (Sợi=Sở), chữ nho viết cây Kinh 荆ấy là chữ Kinh荆 , cũng để chỉ người Kinh 荆 < chữ hoàn toàn là “hội ý” gồm bộ thảo 艹 là cây cỏ+ bộ đao 刂 là dùng dao+ bộ khai 开 là bóc vỏ, chẳng có âm “inh” nào, vẫn đọc là “kinh”, vậy âm gốc của nó phải là “Cây Lanh”=(lướt)= “Canh”= “Kinh”, dùng để chỉ người Kinh thì từ đôi Canh Kinh=Cần Keo mà người Tày và người Thái vẫn gọi >, danh từ người Kinh còn gọi là người Kinh荆 Sở楚 hay người Kinh荆 Man蠻, nước Kinh荊 Sở楚 hay gọi tắt là nước Sở 楚. Về sau không biết từ bao giờ chữ Kinh 荊 chỉ người Kinh 荊 được thay bằng chữ Kinh 京, chỉ là mượn chữ để phiên âm vì trùng âm “kinh” mà thôi. Thời còn là người Kinh ấy, cả vạn năm sau mới thành gọi là người Việt, công cụ để người Kinh tạo ký tự, sau thời dùng thắt nút thừng, là công cụ Cứng để Kẻ nên mới có ký tự là kẻ vạch như biểu tượng bát quái đã thấy, Kẻ=Que=Thẻ=Quẻ=Quái, mà mỗi tên trong bát quái đều là tên phát âm bằng tiếng Kinh, đúng nghĩa mà nó biểu trưng < Ví dụ quẻ Ly là Lửa, người Hán về sau mượn chữ có âm na ná để “giả tá” là chữ Ly 离nghĩa là Lìa, Rời, chỉ được phần âm, còn phần nghĩa của chữ thì chẳng logic tí nào cả. Những chữ trong 12 con giáp cũng vậy, nó là tiếng Kinh, ví dụ Ngọ là chỉ con ngựa, người Hán mượn chữ Ngọ午 là giờ Ngọ tức giờ giữa trưa là lúc của cái giờ “Ngày Rõ”=(lướt)=Ngọ của tiếng Kinh để phiên âm từ Ngựa, chỉ được phần âm còn nghĩa thì chẳng logic gì với con ngựa của tiếng Kinh cả. Ngay cả chữ nho Ngự 御 cũng liên quan đến con ngựa của tiếng Kinh, đó là cái động tác người chủ điều khiển con “Ngựa Dữ”=(lướt)=Ngự 御, mà Hứa Thận hai ngàn năm trước trong cuốn Thuyết Văn Giải Tự là “từ điển đầu tiên trong lịch sử của Trung Hoa” đã giải thích Ngự 御 là “Sử mã dã !” tức “Sửa (khiến) ngựa ạ !”. Chẳng qua người Hán về sau đã nâng chữ đó lên tính hàn lâm như trong từ “chế ngự”, “phòng ngự” mà được gọi là “từ Hán-việt”(!), phải gọi chính xác nó là từ Việt-Hán, tức nó là tố gốc Việt, phát âm như Việt (thì mới đúng như Hứa Thận dạy phát âm), được Hán ngữ sử dụng, phát âm lơ lớ là “uy” vì người Hán không phát âm được vần “ng” như người Quảng Đông nói Việt 粤 ngữ 語 vẫn phát âm được vần “ng”, ví dụ từ “ngộ” > Thời còn dùng công cụ Cứng để Kẻ ký tự, người Kinh đã tạo các hoa văn trên gốm toàn bằng các kẻ thẳng gọi là Kẻ Chỉ < “Kẻ Chỉ”=(lướt)=Kỷ >, để làm cho Hình Ra <Hình Ra=(lướt)=Hà >, đó là hoa văn mà khảo cổ học gọi là hoa văn Kỷ 幾 Hà 何 có trên đồ gốm của các di tích khảo cổ dày đặc trên đất Hoa Nam mà các nhà khoa học Trung Quốc nhận định là di tích của người Bách Việt ( chữ Kỷ Hà chỉ là chữ mượn “giả tá” để phiên âm, vì nghĩa chữ không logic với tiếng Kinh, chữ Kỷ 幾 nghĩa là “mấy?” làm sao logic được với nghĩa “Kẻ Chỉ”, chữ Hà 何 nghĩa là “thế nào?” làm sao logic được với nghĩa “Hình Ra”) , hoa văn Kỷ Hà còn tồn tại phong phú trên thổ cẩm thêu của người Mường và các sắc tộc bản địa khác ở Việt Nam. Các động từ thể hiện việc tạo tác hoa văn trên mặt gốm của tiếng Kinh là: Kẻ=Khẻ=Khứa=Khoét=Khót (nạo bên trong)=Khắc, mà chữ nho chỉ có một chữ Khắc刻. Khi phân tích cặp từ đối Đi/Ở nguyên thủy là Ù/U ta đã thấy tính đối Dương/Âm của nó, và diễn giải bằng số học nhị phân thì U=0. Nhưng chỉ cần thêm dấu Huyền cho U thì thành Ù là đối nghịch ngay. Vậy mà chữ Huyền trong tiếng Việt có nghĩa là màu Đen (“Răng đen nhưng nhức hạt huyền”,bởi vì Lửa=Lả=Tá=Tỏ=Đỏ=Đun=Hun=Hóng=Hoẻn=Huyền, nó đã từ trong Đỏ của Lửa là Dương mà sinh ra Huyền là Âm qua một quá trình dài Cháy Đẫy= Chãy để thành bồ hóng). Màu Đen theo Ngũ Hành là màu của Nước, vậy Huyền là Âm, theo số học nhị phân thì Huyền=0. Thêm vào tức là phép tính cộng, ta có: U+Huyền=0+0=1 (đúng như số học nhị phân) mà 1 lại là Ù=Dương. Cũng vậy, trong sự hình thành một người Kinh: Kẻ=Thẻ=Thể 體 =Thịt=Thân 身 =Thần 神 =Mẫn 敏 =Minh 冥 = Mình có từ đôi “Kẻ Mình”=(lướt)= “Kinh”. Nôi khái niệm dẫn từ vô tri đến có Thịt rồi có Thần rồi có Minh là hồn (cũng có từ đôi là “thần hồn” chữ không thể đảo ngược nói là “hồn thần”, như qui tắc của từ dính). Chữ Minh 冥này là cái hồn khi chưa ra cuộc đời, đang còn trong Ổ tức trong bụng mẹ, nó là hồn Âm. Chỉ cần thêm dấu Huyền thì nó thành Mình, là một hồn ở ngoài Dương, gọi là ra đời. Theo số học nhị phân Minh=0, cộng thêm Huyền=0, ta có Minh+Huyền=0+0=1, đó là Mình=1=Dương. Đưa thêm cái Huyền vào Minh冥 (là cái hồn khi chưa ra cuộcđời) thì thành Mình (là cái hồn ở ngoài đời), mà Huyền là màu đen, tức cái mà ngày nay ta gọi là “chất xám”. Vậy cái danh từ Kẻ Mình=Kinh, là người Kinh, nó đáng tự hào biết bao. Chữ Mình là nói cái hồn của người Kinh. Khi đã thành người Việt, thì gọi là Kẻ Việt. “Kẻ Việt”=(lướt)= “Kiệt”( nghĩa là xuất chúng, có từ ghép “kiệt xuất”), người Việt còn đặt chữ “Hồn Việt”=(lướt)= “Hiệt” (chữ này “hội ý” bằng chữ Hắc 黑là chất xám, với chữ Cát là tốt 吉, chẳng có biểu âm nào cả nhưng lại đọc là Hiệt, nghĩa là tài năng, tiếng thì là Hồn Việt=Hiệt), từ đôi Hiệt Kiệt là nói con người tài năng xuất chúng. Vậy mà tất cả chỉ từ một từ nghĩa là “đi” tức trạng thái hoạt động, năng động ( Ù=Vù=Việt=Kiệt=Hiệt ). Khi màu đen của bồ Hóng đã lên đến Hoẻn rồi thành Huyền là đã đen lắm rồi nhưng chưa tối đa. Đến “Huyền Đặc”=(lướt)= “Hắc” là tối đa, quá độ đó ắt thái âm sẽ biến thành dương, lúc đó nó bị đổi Tơi, Hắc biến thành Bặc, vẫn cùng Nòi vì cùng Rỡi, đó là màu Bạc (Hán ngữ dùng hai chữ nho này, phát âm Hắc黑 là “hây”, Bạc=Bạch白 là “bái”, trật với nguyên lý Âm Dương và với QT do trong phát âm). < Chỉ một việc tưởng chừng rất nhỏ là đặt tên cho cái dấu nhỏ, gạch hơi xiên trên con chữ latin thuộc cái Rỡi của Lời, gọi là dấu Huyền, đã thấy công lao của người xưa đặt ra chữ Nòng Nọc (khoa đẩu) ký âm, làm nền tảng cho việc latin hóa ký tự thành chữ Quốc Ngữ như ta dùng ngày nay, thật là ơn hết biết luôn . Bởi vậy người Việt Nam có câu “Ơn cha như núi Thái Son, Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra”.(Tôi sẽ giải thích câu này sau, bởi có người nói câu “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” là có xuất xứ từ bênTàu) > Từ đối nguyên thủy, nguyên tắc theo QT, chúng phải là hai từ cùng Tơi hoặc cùng Vời. Về sau do không nắm qui tắc, dùng lẫn lộn đi, nhiều từ có viết bằng chữ nho thì lại được dùng bên Tàu, lại bị coi là “từ Hán-Việt”. Ví dụ: Sự bắt đầu/Sự kết thúc, hai khái niệm nghịch này nguyên thủy nó được diễn tả bằng các cặp từ đối là: Chớm/Chung=Từ/Tận= Có/Kết= Hé/Hết= Mở/Mất= Khai/Khép= Đầu/Đuôi = Bắt/Bế=Cớm/Cùng. Các từ đôi tương ứng sẽ cũng tạo ra các cặp đối là Bắt Đầu/ Bế Đuôi=Cầu Cớm/ Cuối Cùng= Chớm Có/Chung Kết=Có Đầu/Kết đuôi=Từ Đầu/Tận Đuôi. Từ Việt không phải là nó cứ Sắc Sắc Không Không, cũng là Có cũng là Không, chẳng chính xác gì, như người ta nói. Thực ra từ Việt nó vô cùng chính xác, như số đếm hệ nhị phân vậy, 1 ra 1, 0 ra 0 đàng hoàng. Cặp từ đối SẮC/KHÔNG trong Phật giáo là có sau, không phải là từ đối nguyên thủy. Từ đối nguyên thủy của nó là cặp CHỘ/CHĂNG. Chộ nghĩa là thấy, là có, là 1, suốt dải đất miền Trung “trọ trẹ” người Việt vẫn dùng “Chộ” nghĩa là Thấy. Vì CHỘ=Lộ=Ló=Thó=Thấy=Thọ=Có=Cắc=Chắc=SẮC, có nghĩa là bản thân mình thấy, người khác không thấy (“Mày thó cái gì đấy?” nghĩa là “mày thấy cái gì đấy mà người khác không thấy”, Thó=Ngó, từ “Thó” sau được mở rộng nghĩa ra, là “ăn trộm” tức lấy chỉ mình mình biết, người khác không biết). Cắc là con số 1 (“chẳng có cắc bạc nào” nghĩa là không có một đồng bạc nào). Chắc là con số đếm 1 của hệ thập phân của người Việt, từ Chắc đến Chục là từ 1 đến 10, “Chắc” tiếng Tày nghĩa là Biết, tiếng Việt có từ đôi Biết Chắc là Biết+Chắc=0+1=1=nhiều, ý là biết nhiều hơn. Chăng nghĩa là không có gì cả, trống trơn, trong suốt. Vì CHĂNG=Trắng=Trong=Vong=Vắng=Vô=Mô=Mù=Mông=Trống=KHÔNG. Ngày nay ta dùng cặp từ đối Đen/Trắng là một cặp sai lầm, vì Đen cũng thuộc Âm, Trắng đồng nôi với Chăng cũng thuộc Âm, nguyên nhân là do dùng sai nghĩa từ “Trắng”, lấy làm màu, chính màu ta cần diễn đạt đó là màu Bạc (“Bạc như vôi”, đúng bản chất màu của nó. Dùng màu đặc trưng để đặt tên kim loại có Vàng, Bạc). Trắng nghĩa là không có gì , trống trơn, trong suốt (“mất trắng”, “trắng tay”. Tạo hóa cho vụ “Nổ Trắng”=(lướt)= “Năng”. Cái Năng ấy đã nở ra Nắng/Nước đều là thứ hoàn toàn trong suốt, hoàn toàn Trắng. Bản chất Lửa là Nắng, trong suốt không nhìn thấy được, sở dĩ thấy lửa màu đỏ hay vàng hay màu xanh là do các tạp chất cháy tạo ra mà thôi. Người Việt đã lấy hai cái trong suốt mà lớn lao nhất trong tạo hóa là Nắng và Nước để ví von với Ơn Cha và Nghĩa Mẹ. Tôi sửa lại cho đúng nguyên thủy của câu Việt ấy là: Ơn Cha như núi Thái Son. Nghĩa Mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Câu này hoàn toàn chuẩn ý đối: Ơn Cha/Nghĩa Mẹ, Núi/Nước, Thái Son/Trong Nguồn. Ơn Nghĩa là cặp từ đôi, Ơn=Nghĩa, tách thành vế đối. Núi=Nước, tách ra thành vế đối. Thái Son nghĩa là Nắng, từ đôi Thái Son, Thái=Son, vì Son là màu đỏ màu ngũ hành của nắng, nắng và lửa là một (lấy cái kính lúp hội tụ rọi thì có lửa ngay), như QT đã dẫn Lửa=Lả=Tá=Thá=Thái=Chái (phát âm Nam Bộ)=Chá (phát âm Quảng Ngãi)=Cháy (phát âm Bắc Bộ)= Chói (phát âm Triều Châu). Nắng là Sáng, là trong suốt, chữ nho viết Thái 彩 và Thái Hà 彩霞 nghĩa là ánh nắng mặt trời (câu “sáng danh Chúa ở côi Lời”). Trong Nguồn nghĩa là Nước, từ Trong Nguồn là một từ đôi, Trong=Nguồn, Trong là Trong suốt, như từ đôi Trong Trắng , Nguồn là cái năng lượng đầu tiên, kể cả cái đầu tiên của vũ trụ là cũng trong suốt, nước đầu nguồn cũng trong suốt. Ơn Cha nghĩa Mẹ lớn lao và trong suốt, trong sáng, như Nắng và Nước. Công lao thì có thể trả được bằng vật chất hoặc tinh thần, chứ ơn nghĩa thì không gì có thể trả được, chỉ có là phải nhớ thôi, mà muốn nhớ được thì cái tâm mình phải trong suốt. Đó là tất cả ý tứ của câu Việt. Người Tàu không hiểu triết lý đó. Họ dịch câu Việt thành: Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Chữ Trong này hiểu là từ bên trong, Nguồn hiểu là to lớn. Công chỉ đi với Lao thành công lao là một từ đôi, nói về sức lực cha mẹ bỏ ra cả đời cho con thì là Công Cha, Lao Mẹ. Khi nói công ơn thi đó là một từ ghép công và ơn, hai khái niệm khác nhau.Vế đối ở câu này không chuẩn. Do nghĩ sai như vậy nên Thái Son được phiên âm thành Thái Sơn 太 山 tức núi Thái, là trái núi quá to, viết chữ là Thái Sơn 太 山 , nghĩa là núi to thái quá (để ví với cái công). To và đẹp làm sao được bằng Nắng và Nước. Cái ơn nghĩa phải là trong suốt, làm ơn cũng trong suốt, nhớ ơn cũng trong suốt. Cái đơn giản mà cao cả ấy người Việt chỉ viết bằng một chữ nho là chữ Trạch 澤. Từ Trạch trong từ điển giải thích nghĩa là ơn huệ, như từ đôi “ân trạch”. Nhưng biểu ý của chữ thì nó là từ Việt: “Trong sạch”=(lướt)=Trạch 澤, như bản chất của nước, ơn huệ là cái trong sạch, vô tư. Ở chùa Ông Bổn của đồng bào Hoa gốc Phúc Kiến tại 264 Hải Thượng Lãn Ông phường 14 quận 5 , chính điện có bức hoành phi đề 4 chữ Trạch 澤 Cập 及 Lân 鄰 Phong 封 nghĩa là ơn huệ (của tổ tiên) đem đến với vùng láng giềng gần, hoặc đem cái lòng trong sạch mà đến với láng giềng gần. (Chữ Lân là “Láng giềng gần”= “Lân”. Chữ Phong là Vùng. Nguyên chữ Phong 封 là chữ kiểu “hội ý” gồm hai bộ thổ 土 là nhiều đất, bộ thốn 寸 là tấc tức có đo đạc, không có biểu âm gì mà lại đọc là Phong, vì gốc nó là từ Việt: “Phát cho nhiều đất trong một Vòng”=(lướt)= “Phong”, một vòng thì có lớn có nhỏ nhưng chắc chắn là có đo vì có bộ thốn 寸. Các tên địa danh ở Lĩnh Nam đều có gốc Lạc Việt là “Phong 封” nghĩa là Vùng lớn. Nếu theo nghĩa này như của tiếng Choang, thì phủ Khai Phong ở Trung Nguyên vốn nguyên thủy nó phải là phủ “Phong Khơi”, tức “Vùng lớn Mới” , vì so lịch sử thì nó vẫn là mới hơn Phong Châu ở Việt Nam hay Phiên Ngung ở Quảng Đông. Khai Mới=(lướt)=Khơi , đi biển khi ra Khơi thì càng ra càng Mới. Ví dụ ở phía bắc Hợp Phố thuộc Quảng Tây có Phong Xuyên 封 川, Phong Khê 封 溪 ( Phong Xuyên nghĩa là “Vùng lớn của Sông”, Phong Khê nghĩa là “Vùng lớn của Khe”, còn giải nghĩa theo cấu trúc Hán ngữ và biểu ý chữ là “Sông bịt Kín” và “Khe bịt Kín” thì vô lý), Phong Sơn 封 山, Phong Khai 封 開; ở đông Khai Bình cũng có Phong Khai 封 開; ở tây nam huyện Nhữ Nam có Phong Môn Sở 封 門 所; ở bắc Tân Hội có Phong Lạc 封 樂; ở đông bắc huyện Phong Khai có Phong Hưng 封 興,v.v.1 like