-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 11/04/2012 in all areas
-
Khêu sài cho trẻ nhỏ Hôm nay TĐN xin giới thiệu và hướng dẫn cách khêu sài cho trẻ nhỏ giúp các bà mẹ và các gia đình có con nhỏ tránh được nhiều biến chứng do sài (vía) gây ra. Kính thưa quí vị: Sài theo dân gian là những trẻ nhỏ bị nhiễm những tà khí, vía xấu trong quá trình khôn lớn. Thông thường hay gặp là các cháu nhỏ hay bị sài do đám ma, đám bốc mộ, người nặng vía đem đến. Trong cuộc sống thường tình hằng ngày cho dù ở thành thị hay nông thôn, miền sơn cước hay đồng bằng chúng ta không tránh khỏi những chuyện như đám mà, đám cải, đi qua nghĩa địa…nơi mà ở đó tồn tại nhiều tà khí hoặc gặp gỡ những người mà dân gian hay nói là “nặng vía”. Khi trẻ nhỏ nhiễm tà khí trực tiếp hoặc do người thân đi dự những đám ma, đám cải…về cũng gây nhiễm tà khí cho trẻ nhỏ. Trong dân gian có nhiều cách phòng trừ như đốt đống lửa ở đầu ngõ, ăn trầu, bôi nước trầu cho trẻ nhỏ, đeo bùa…tuy nhiên có thể do bất cẩn, quên hoặc có những trẻ vẫn bị nhiễm tà khí qua một con đường nào đó hoặc cũng có thể không thích hợp với những cách trên. Biểu hiện là các cháu kém ăn rồi dừng không ăn sau một thời gian bị nhiễm tà khí, đêm ngủ không ngon giấc, giãy nhiều, chân hay đạp lung tung, trở mình nhiều lần, hay giật mình, sốt nhẹ đến sốt cao, quấy khóc, mê mệt, thậm chí nếu bị nặng dẫn tới mê sảng co giật và gây nhiều biến chứng cực kỳ nguy hiểm sau này như tâm thần, động kinh, bại não, trí tuệ không phát triển, còi xương, và rất nhiều chứng bệnh khác… Khi trẻ bị nhiễm sài hoặc vía xấu sẽ hình thành một “đường chỉ đỏ tím”(Tà khí tích tụ) rất nhỏ ở lườn 2 ngón tay trỏ như hình vẽ, đường này bắt nguồn từ đốt thứ nhất sang đốt thứ 2 (Nếu sang đốt thứ 3 thì tính mạng bị đe dọa và sẽ có những biến chứng đã nói ở trên) Cách khêu sài: Các bạn dùng 1 cái mũi kim nhọn sau khi đã được tiệt trùng khêu đúng vào phần đầu đường sài (vị trí số 1 trên hình vẽ) cho ra máu sau đó dùng tay nặn máu độc (Tà khí) theo hướng từ gốc lên đốt thứ 2 cho ra hết máu độc. Làm như vậy đối với cả 2 ngón tay trỏ. Xong bạn đi nấu bột cho cháu đợi 10 đến 30 phút cho các cháu ăn bột, nếu khêu chuẩn và nặn hết máu độc cháu nào khỏe sau thời gian trên sẽ hết sốt và ăn được bột ngay. Nếu cháu nào chưa khỏi các bạn hãy đợi 1 khoảng thời gian nữa xem cháu có giảm sốt không thì cho ăn. Nếu cháu nào chưa khỏi hẳn ngày sau các bạn lại khêu tiếp. Lưu ý: - Kiểm tra ngón tay các cháu trước khi đưa đi viện - Tiệt trùng kim nhọn trước khi khêu - Đừng thương các cháu mà khêu qua loa - Người này khêu không được thì nhờ người khác (Cách này rất hiệu nghiệm tôi học được từ người Mường Hòa Bình) Xin cám ơn! Bài sau: Thần chú chữa sâu róm đốt cho trẻ nhỏ và người lớn5 likes
-
Một bộ phim trác tuyệt và lắng đọng! http://www.phatam.com/video/index.html2 likes
-
Có một câu chuyện ngụ ngôn khiến người ta phải suy gẫm: Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa. Một hôm nọ trâu đi làm về, thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó nổi cáu bảo: - Không có ai sung sướng bằng mày, chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự! Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu: - Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc, sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được . Đêm đêm trong khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ? Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảm của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi: - Đúng là mày cũng không sung sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả. Đang nói con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn nên rồi than thở: - Bọn chim trời cá nước sung sướng làm sao! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như thế. Khi ấy một chú chim nghe thấy lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu nói: Anh trâu ơi, anh không biết đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc, nhưng chúng tôi cũng có nỗi khổ của mình. Hiểm họa luôn dình dập chúng tôi, những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó khăn vất vả biết bao, chưa chắc ở được lâu vì sự phá hại của con người. Trứng chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất. Loài người biết thương con của mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ lông, xẻ thịt, nấu nướng, thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống muôn loài. Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng tôi, không có ai sung sướng cả. Bày cá đang ở dưới mé nước nghe trâu nói mình sướng cũng không đồng tình: - Còn loài cá chúng tôi cũng không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả bầy đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi yên tâm mà sống, đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay con người truy bắt. Trâu nghe chim và cá nói thì ngao ngán thở dài não nuột: -Hóa ra tụi mày cũng khổ. Hiểu biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời này. Nói như thế rồi trâu buồn bã đi vào chuồng,nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ, loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu sự khổ sở nào. Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném đĩa trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gỗ. Tiếng ông chủ gào lên: -Sao tôi khổ đến thế này, không bằng con trâu con chó nữa! con trâu đi cày còn được nghỉ, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo gạo tiền, làm quần quật đêm ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ sở như vậy là vì ai? vậy mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, đay nghiến. Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở! Nghe chủ nhà nói thế trâu bỗng giật mình, bất giác than rằng: Hóa ra sống ở trên đời đâu có ai không khổ! Trong chúng ta, mỗi người có một hoàn cảnh, xuất thân, có một hoàn cảnh sống, có thể là vui, có thể là khổ, nhìn chung là như thế, song nếu xét cho kỹ thì không ai hoàn toàn hạnh phúc, chỉ khác nhau là ít, nhiều những nỗi vui, khổ mà thôi. Khổ và vui đan xen, chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa cuộc đời chúng ta, không một ai thoát cả. Người trẻ có những cái khổ của người trẻ, người già có những cái khổ của người già người giàu có cái khổ của người giàu, người nghèo có cái khổ của người nghèo, dù trong hoàn cảnh nào cũng có những điều không như ý, cũng có những nỗi khổ thân, khổ tâm, hoặc cả thân tâm đều khổ. Có ai không lo lắng, không hối tiếc, không trông mong, hy vọng điều gì ? Có ai chưa bao giờ buồn phiền, thất vọng, hay bất mãn, chán nản? Có ai hoàn toàn khỏe khoắn, thoải mái cả về thể xác lẫn tinh thần? Chắc chắn là không có ai !2 likes
-
Bài học làm người từ một… con chó LỜI TÒA SOẠN: “Một con chó có thể không hiểu được đạo lý làm người nhưng con người có thể lấy bài học từ con chó để nghiền ngẫm lại chính họ…”. Đây là thông điệp từ câu chuyện thú vị về chú chó Faith, từng lên hình bìa tạp chí People, được cộng đồng mạng truyền tay nhau những ngày qua. Qua đó, Báo NLĐO muốn chia sẻ với quý độc giả rằng hãy sống nhân ái và đừng bao giờ đầu hàng số phận! theo nguoilaodong2 likes
-
THẦN CHÚ GIẢI THOÁT QUA SỰ NHÌN NGẮM Vì lòng đại bi thương xót chúng sanh, Chư Phật và Bồ Tát đã tạo ra những phương tiện thật thiện xảo để cứu vớt chúng sinh. Xin giới thiệu một phương pháp thanh tịnh nghiệp chướng thông qua sự thấy cho những người hữu duyên. Trong Kinh Thác Nước Mạnh Mẽ (Forceful Waterfall Sutra) có chép: Chỉ cần nhìn thấy câu chú này một lần có thể thanh tịnh nghiệp chướng của ba trăm triệu kiếp trong quá khứ. Xin giới thiệu “Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy” (Liberation Upon Seeing). Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy là một terma (kho tàng giáo pháp do đức Liên Hoa Sanh và Yeshe Tsogyal ẩn dấu, sẽ được phát hiện tại thời điểm thích hợp bởi một bậc thầy giác ngộ) viết bằng ngôn ngữ của những Không Hành Nam (Dakas) và Không Hành Nữ (Dakinis). Terma này được phát hiện bởi Terton Mingyur Dorje ở thế kỷ 17. Terton Mingyur Dorje (1645-1667) được xem là vị guru thứ 27, dòng Giác Ngộ Hoàn Hảo (Perfect Enlightenment Sect) của trường phái Nyingma. Những người may mắn được thấy hình này sẽ không kinh nghiệm qua ba cõi thấp và sẽ được giải phóng khỏi nỗi sợ rơi vào các cõi thấp; sẽ được thanh lọc năm độc (tham, sân, si, kiêu mạn và đố kị) và giải thoát khỏi nghiệp chướng; được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi của phần còn lại trong luân hồi. ( "Those who see this script will not experience the three lower realms and will be liberated from the fear of falling into the lower realms; will be purified of the five poisons and will be freed from the results of one's karma; will be freed from the fear of remaining in samsara.") Trích từ Terma của TERTON Migyur Dorje. ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- "Từ diễn đàn Lý Học Đông Phương và Phatca.com, Bản in (như chữ ký dưới đây) sẽ được tặng cho những ai có lòng tôn kính Thần Chú Giải Thoát với mong muốn hóa giải muôn triệu kiếp nạn của chúng sinh, hội tụ con đường an lạc. Các bạn đăng ký thỉnh nhận kèm tên và địa chỉ chúng tôi sẽ gởi qua đường bưu điện trên khắp mọi miền đất nước! Thay mặt Ban từ thiện Trung Tâm phát Bồ Đề Tâm xin hân hạnh được chuyển giao đến tất cả thành viên tham gia Diễn Đàn."1 like
-
Chuyện về những lời "an ủi" kỳ lạ khiến người bệnh ra đi thanh thản. Bài này từ báo tuoitredoisong.vn nhưng tiếc là không copy & paste được, mong các bạn quan tâm tìm đọc lại!1 like
-
Tượng Phật A Di Đà lớn nhất Việt Nam Đầu tháng 4, Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức lễ an vị đại tượng Đức Phật A Di Đà cao 44 m, lớn nhất Việt Nam hiện nay, tại chùa Tòng Lâm Lô Sơn ở xã Vĩnh Phương, phía tây thành phố Nha Trang. Tượng Phật A Di Đà lớn nhất Việt Nam cao 44 m. Đường kính tòa sen chân đế là 24 m. Ảnh: Mỹ Giang. 500 tăng ni và 10.000 phật tử thập phương đã về dự đại lễ và chiêm bái bức tượng Phật A Di Đà với chiều cao 44 m, gấp đôi tượng Phật trắng tại chùa Long Sơn (phường Phương Sơn, TP Nha Trang). Thượng tọa Thích Trừng Thi, trụ trì chùa Tòng Lâm Lô Sơn cho biết, chùa có từ năm 1954, tọa lạc trên diện tích 5 ha. Từ năm 2002, chùa bắt đầu được xây dựng lại và năm 2009 xây tượng Phật khổng lồ này. Đến nay, tổng kinh phí xây chùa lên trên 20 tỷ đồng, trong đó chi phí xây dựng bức đại tượng bằng bê tông trên 6 tỷ. Thượng tọa hy vọng chùa và bức đại tượng nằm ngay cạnh quốc lộ sẽ trở thành điểm du lịch hấp dẫn của phật tử và du khách thập phương. Cận cảnh bức tượng. Ảnh: Mỹ Giang. Gần đây, nhiều ý tưởng xây đại tượng Phật đã được đề xuất với chính quyền thành phố Nha Trang. Đó là công trình tượng Phật Thích Ca bằng đá cao 70-100 m tại khu vực hòn Dồ, phía nam thành phố Nha Trang (xã Phước Đồng) và bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát cao 108 m ở núi Cô Tiên, phía bắc Nha Trang (phường Vĩnh Hòa). Nếu tất cả công trình đều được thực hiện, tại Nha Trang sẽ có 3 pho tượng Phật khổng lồ “trấn” ở 3 cực bắc, nam và tây. Đó là chưa kể pho Kim thân Phật Tổ trên đỉnh đồi Trại Thủy, thuộc chùa Long Sơn ở trung tâm Nha Trang. Bức tượng được xây dựng trên một ngọn đồi. Ảnh: Mỹ Giang. Nói về việc xây dựng tượng Phật, Hòa thượng Thích Thiện Bình, Phó thư ký Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa cho rằng, xây tượng lớn quá sẽ khó bảo trì, nếu để bị hoen ố, bám bẩn là có tội, thiếu tôn kính Đức Phật. Lường trước những khó khăn này, Thượng tọa Thích Trừng Thi cho biết, chùa đã chuẩn bị giàn giáo chắc chắn để sẵn sàng cho việc bảo đảm pho tượng A Di Đà luôn trắng đẹp. Mỹ Giang1 like
-
1 like
-
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam Bình-nguyên Lộc Chương II Những sai lầm căn bản của quý ông H. Maspéro, L. Aurousseau, Nguyễn Phương, Kim Định và Trần Kinh Hoà A. Sự thật về các chủng Mông Gô Lích I. Bắc và Trung Mông Gô Lích Theo sử gia Nguyễn Phương thì dân ta là người Tàu thuần chủng. Thật ra, sử gia không hề có thốt ra hai tiếng “thuần chủng”; nhưng trong sách, sử gia luôn luôn viết: “Người ta (người Tàu) sẽ loại người man-di (Lạc Việt) ra khỏi hàng ngũ công dân” (trang 244), hay là: “Sự giống nhau giữa ta và Tàu là một sự dời chuyển cả người lẫn phong tục, tập quán, tôn giáo” (trang 230). Cũng ở trang 230, sử gia viết: “Người Trung Hoa đã, đợt nầy rồi đợt khác, sang thực dân tại đây, và cuối cùng khi mọi sự đã tỏ ra thuận lợi, đã đứng dậy, lập một nước riêng, nước Việt Nam”. Thế nên ngoài quyển sách nói trên, ở các tạp chí, sử gia đã cố chứng minh rằng Lý Công Uẩn, Đinh Bộ Lĩnh là người Tàu, nhưng ông chưa thành công. Sử gia lại viết: “Dân Việt Nam là người Trung Quốc di cư sang trong thời Bắc thuộc”. Câu nầy được in bằng chữ đậm, chữ tít (trang 231). Hơn thế, ở trang 335, sử gia còn quả quyết rằng, mặc dầu người Tàu ở đất Việt có lai Chàm và “các thứ dân khác” về sau, nhưng những dân đó không có làm cho Tàu cải biến (Chính sử gia đã gạch dưới dòng để nhấn mạnh rằng cả đến ngày nay, ta vẫn cứ là Tàu, không cải biến. Sử gia lại viết rằng sau Mã Viện thì ở đất cổ Việt, có sự dời đổi con người, tức dân Lạc Việt đi mất hết hoặc bị tiêu diệt hết, và dân Tàu đến thay thế. Hai tiếng dời đổi không thể có nghĩa nào khác hơn. Những câu sử như thế có nghĩa không thể chối cãi rằng dân Việt Nam là dân Tàu thuần chủng, hai tiếng không hề được thốt ra, nhưng ai cũng lắng nghe được, bởi vì cuộc hợp chủng với thổ dân quá nhỏ, không làm cải biến người Tàu kia mà. Bao nhiêu chứng tích mà sử gia đưa ra, đều là chứng tích di cư không hề có chứng tích hợp chủng, và những tiếng hợp chủng, lai giống, chỉ được thốt ra có một lần, nhưng được gỡ gạc lại ngay bằng ba tiếng “không cải biến”. Nhưng đó là những câu khẳng định suông. Sử gia nói như thế thì quá dễ, ta bác cũng quá dễ bằng một tiếng “Không” suông, như tiếng “Có” suông của sử gia. Chúng ta chỉ có thể làm việc trên cái gì cụ thể, tức cần tìm cho được một chứng tích của sử gia để mà nhìn nhận, hay bác bỏ. Và chúng tôi đã may mắn tìm được câu sau đây, một câu sử có vẻ khoa học, có tham vọng chứng minh. Sử gia viết ở trang 229: “Về phương diện nhân chủng, tức phương diện căn bản, không sao nói được là hai dân tộc không giống nhau… đại đa số người Việt Nam đều thuộc giống Mông Cổ, da thì vàng, tóc thì thẳng, có hình sọ giống hình sọ người Trung Hoa”. Quả đúng như giáo sư Nguyễn Phương nói, khoa chủng tộc học (mà giáo sư gọi theo trước 1945 là nhân chủng học) là nền tảng căn bản. Giáo sư lại nói đến cái sọ là cái gì căn bản nhứt trong khoa đó. Nhưng đó lại cũng chỉ là một lời khẳng định vô bằng. Chắc chắn là sử gia chưa nghiên cứu về chủng Mông Cổ và chưa hề đối chiếu sọ người Tàu và sọ người Việt nên mới dám viết ra một câu sử táo bạo và liều lĩnh như vậy. Hai thứ sọ đó khác nhau đến 9 đơn vị, còn những nhơn thể tính khác, cũng khác nhau. Trước khi trình ra vài mươi biểu chỉ số sọ của nhiều thứ dân ở Á Đông, để đối chiếu, chúng tôi xin nói rõ rằng ta cần nhớ vài chi tiết nho nhỏ, không tôi sẽ có ngộ nhận. Chẳng hạn khoa chủng tộc học dạy ta biết rằng sọ của một chủng tộc, vẫn thay đổi với thời gian. Nhưng phải hiểu là hai tiếng thời gian đó có nghĩa là 50 ngàn năm, chớ đối với 5, 7 ngàn năm thì hoàn toàn không thay đổi, hay có, mà sự thay đổi ấy không thấy được. Dung lượng của sọ người mà khoa học gọi là người Bắc Kinh, dung lượng ấy là 1000 phân khối, còn dung lượng của sọ người Tàu đời nay trung bình là 1400 phân khối. Nhưng người Bắc Kinh đã sống cách đây mấy trăm ngàn năm, và không phải là tổ tiên của người Tàu. Thế nên chúng tôi dùng khoa chủng tộc học một cách an lòng, hơn thế một cách sung sướng, vì khoa ấy có tánh cách dứt khoát. Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu các chủng Mông Gô Lích xem nó có giản dị như giáo sư đại học Nguyễn Phương nói hay không, xong rồi mới nghiên cứu riêng chủng của dân Việt Nam ta. Không bao giờ ta có hình sọ giống hình sọ người Trung Hoa như sử gia họ Nguyễn đã nói. * * * Người Trung Hoa chỉ là kẻ đến sau cùng trên nước Tàu, cũng như dân ta là kẻ đến sau cùng trên đất Việt. Đó là điều chắc chắn như khoa khảo tiền sử đã cho biết. Nhưng họ là ai và từ đâu đến thì người ta biết chắc thêm một điều nầy nữa là họ từ Tây Bắc nước Tàu mà đến và họ có máu của người da trắng trong huyết quản của họ. Nhưng tới đây thì có hai thuyết khác nhau. Thuyết thứ nhứt đã được thấy là sai lầm, nhưng cũng xin kể ra đây. Nhà bác học Terrien de Lacouperie trong quyển Western Origin of the Chinese Civilization và quyển Early History of the Chinese Civilization, và nhà bác học C. J. Ball trong quyển Chinese and Sumerian cố chứng minh rằng dân Trung Hoa phát tích tại Ba Tư. Ở đó họ chịu ảnh hưởng của nền văn minh Lưỡng Hà, nên chi nền văn minh Trung Hoa mang nhiều yếu tố Lưỡng Hà. Đó là một sai lầm của hai nhà bác học nói trên mà toàn thể các nhà bác học khác đã bác bỏ vì bằng chứng không vững vàng. Dân tộc Trung Hoa lập nền văn minh của họ trên đất Trung Hoa chớ không phải mang từ đâu mà đến cả. Sự giống nhau đó, chỉ là ảnh hưởng về sau, hoặc tình cờ tương đồng, chỉ có thế thôi. Cũng như người da vàng gồm rất nhiều chủng, người da trắng cũng thế. Dân cổ Ai Cập, dân Á Rập đều thuộc chủng da trắng, nhưng khác dân Âu Châu. Các chủng da trắng chia ra như sau: chủng Hamite là chủng của dân Ai Cập, chủng Sémite là chủng của dân Lưỡng Hà, dân Do Thái, dân Á Rập và chủng Ấn Âu là chủng của Hy Lạp, La Mã, Ba Tư, Ấn Độ và các quốc gia Âu Mỹ hiện nay. Riêng chủng Ấn Âu thì nguồn gốc và thành phần như thế nầy: Vào thượng cổ, người da trắng, phát tích tại Bắc Âu (có thuyết lại cho rằng tại Nam Nga) bắt đầu di cư. Thuyết của Salomon Reinach (Origines des Aryens, 1892) vì chủ trương họ ở Bắc Âu nam thiên, nên cho rằng họ để Schyte dọc đường, tại Nam Nga ngày nay. Thuyết của A Carnoy (Les Indo-Européens, 1921) chủ trương họ phát tích tại Hắc Hải, nên sự thiên di đi các nơi xảy ra một lượt với nhau. Họ gồm 8 nhóm lớn, ngôn ngữ khác nhau nhưng đồng tánh cách, tức cùng gốc mà ra: 1. Nhóm Ba Tư - Ấn Độ (Ấn Độ xưa vốn da trắng như Ba Tư) 2. Nhóm Hy Lạp 3. Nhóm Italo Celtique, tổ tiên của La Mã và Gô Loa, rồi sau nầy là Ý, Pháp, Tây Ban Nha v.v. 4. Nhóm Nhật Nhĩ Mạn tổ tiên người Đức và Anh 5. Nhóm Xilao, tổ tiên người Nga 6. Nhóm nhỏ xíu Albanie 7. Nhóm Arménie cũng nhỏ xíu 8. Nhóm Tokarien tổ tiên người Tàu Nhóm Tokarien vì đi sang Á Đông một mình nên bị quên mất, và người ta chỉ mới tìm được nền văn minh của họ và nền văn chương của họ cách đây không lâu. Ngôn ngữ, chữ nghĩa của họ cũng được khám phá ra, đọc được và mới thấy rằng nó đồng tộc với 7 nhóm khác. Và nhóm Tokarien tức Scythe Oriental cũng được người Trung Hoa biết đến vì họ chỉ mới bị tiêu diệt vào đời nhà Hán đây thôi. Các cổ thư Trung Hoa xác nhận rằng thứ người ấy da trắng, mắt xanh và tóc đỏ, chỉ có điều là Trung Hoa xưa không biết đó là tổ tiên của họ mà thôi. Bọn nầy mãi về sau có vào định cư ở nước Tàu và được nhà Nguyên gọi là dân Sắc Mục tương đương với thành ngữ Hommes de couleur của Pháp, nhưng Tàu nói đến màu mắt, còn Pháp thì nói đến màu da. Dưới đây là thuyết mới nhứt được dựng trên kết quả của khoa khảo tiền sử. Vào đời thượng cổ, từ miền Nam nước Nga cho tới biên giới tỉnh Cam Túc của Trung Hoa ngày nay, nói cho đích xác hơn, cho tới thành Đôn Hoàng, là một vùng đất đã có người sinh sống. Vùng đất ấy người Hy Lạp gọi là Sérinde, và mãi lâu lắm về sau Tây Lịch, Âu Châu mới đặt tên là Turkestan. Người Tàu vẫn biết đất ấy vào đời thượng cổ, nhưng không có đặt tên, hoặc có mà vì thiếu sách vở, còn việc truyền khẩu thì bị đứt đoạn, nên không ai biết cái tên cổ ấy, mãi cho tới đời Hán mới được nghe họ gọi vùng đó là Tây Vức. Người thượng cổ ở đó thuộc giống da trắng mà người Hy Lạp gọi là Tokhares. Trong xứ Tây Vức, tại một trung tâm nay mang tên là Anau, các nhà khảo tiền sử có phát kiến được dấu vết của một nền văn minh tối cổ mà giai đoạn tân thạch khí của họ cổ đến 10 ngàn năm (giai đoạn tân thạch khí của chủng Việt chỉ cổ có 5000 năm tức là tiến sau họ đến 5 ngàn năm) và như vậy thì họ đã phát tích từ 12 ngàn năm sắp lên, tại đó (hay tại nơi khác rồi di cư đến đó thì mỗi thuyết mỗi nói khác nhau). Dân Tokhares được Tàu gọi là rợ Nhục Chi hoặc Bạch Địch, mặc dầu các nhóm Nhục Chi đã hết là rợ cả ngàn năm rồi và đã lập ra non 40 quốc gia phồn thịnh và hùng mạnh ở đó, vào thời Xuân Thu. Cũng cứ vào thời thượng cổ, rợ Nhục Chi đụng đầu với một thứ rợ khác mà Tàu gọi là Hung Nô hoặc Mông Cổ, Âu Châu gọi là Huns, thuộc chủng da vàng, hai bên đụng đầu với nhau tại biên giới của Tây Vức và của nước Trung Hoa ngày nay. Hai thứ rợ đó đều còn du mục, rất dữ tợn, nhưng lại không có đánh nhau, mà lại sống chung hòa bình với nhau và hợp chủng với nhau tại đó. Cuộc hợp chủng đầu tiên xảy ra có lẽ lối bốn ngàn năm trước Tây lịch, tức cách đây 6 ngàn năm. Thế thì sử Tàu không lâu đời quá lắm như họ thường khoe. Thứ con lai giống của họ có tánh cách Mông Cổ ở cái xương sọ, ở loại tóc thẳng và đen (tóc Nhục Chi dợn sóng và màu đỏ hoặc màu râu bắp), ở nước da vàng, ở mắt xếch và mi mắt lót, màu mắt luôn luôn đen. (Tuy nhiên, cũng có người Trung Hoa mắt không xếch, mí mắt không lót) và ở ngôn ngữ độc âm. Họ lại có tánh cách Nhục Chi ở thân thể cao lớn như Tây, mà hiện nay người Hoa Bắc còn mang, khác hẳn người Hoa Nam về tầm vóc. Xem ra thì yếu tố Mông Cổ lấn hơn, vì vùng đất đó là đất chính của Mông Cổ mà là đất phụ của Nhục Chi. Nhưng cả hai yếu tố ấy đều giống nhau ở điểm nầy là cằn cỗi tâm hồn và quá thực tế, vì khí hậu ở đó đã đào luyện họ ra như vậy. Thế nên con cháu của họ là người Tàu Hoa Bắc mới là những con người chỉ biết lý trí mà thôi. Họ không bao giờ lập ra nổi một tôn giáo vì trí óc của họ không thể đi tới chỗ siêu hình. Họ có Lão, Trang, nhưng Lão, Trang lấy nguồn hứng ở phương Nam tốt tươi ấm áp, đất mới có về sau mà thôi, còn Mông Cổ thì thuở ấy quá lạnh, Tây Vức lại bắt đầu bị sa mạc hóa, tức quá nóng. Mặc dầu là thuyết mới nhứt, trong đó có nhiều điểm được giới khoa học nhìn nhận là đúng, Tuy nhiên, thuyết trên đây vẫn chưa được nhìn nhận trọn vẹn. Nhưng chưa có thuyết nào được nhìn nhận trọn vẹn cả, nên chúng tôi dùng thuyết nầy, trong đó có các điểm sau đây được coi là đúng sự thật: 1. Hoa chủng là kết quả của một cuộc hợp chủng giữa chủng Bắc Mông Gô Lích của người Mông Cổ và với một chủng nào đó cao lớn như Tây, thế nên người Hoa Bắc, nhứt là ở Cam Túc, Sơn Tây và Thiểm Tây, mới cao lớn như vậy. 2. Cuộc hợp chủng ấy xảy ra ở ngoài nước Tàu, tại đâu không rõ, nhưng họ xâm nhập Trung Hoa từ hướng Tây Bắc, qua hành lang Cam Túc. 3. Cái sọ của họ khác sọ Việt Nam 9 đơn vị về chỉ số. 4. Sọ Việt Nam có tánh cách brachycéphale, còn sọ Hoa Bắc và Hoa Nam thì có tánh cách mésocéphale. Dung lượng sọ cũng khác. Đây là chúng tôi chỉ mới nghiên cứu có một chủng Mông Gô Lích mà thôi, mà đã khác xa Việt chủng như vậy đó, nhưng có đến bốn chủng Mông Gô Lích khác nhau. Chúng tôi tạm ngưng việc xét sọ vì bấy nhiêu đó đủ bác sử gia Nguyễn Phương rồi. Chúng tôi xin bước qua vài chi tiết khác để bác giáo sư Kim Định. Người lai căn ấy không có đất dung thân, xứ Tây Vức phải để dành cho Nhục Chi, còn đất Mông Cổ thì để dành cho Hung Nô, cả hai thứ dân đó cần đất quá nhiều vì lối sống bằng nghề chăn nuôi súc vật của họ. Thành thử bọn mang hai dòng máu phải biến thành quân xâm lược đi cướp một vùng đất mà nay là Hoa Bắc, đã có chủ rồi. Một chủng mới đã ra đời, mà 5 ngàn năm sau, các nhà chủng tộc học Âu Châu mới đặt tên, đó là chủng Trung Mông Gô Lích, tức chủng của người Hoa Bắc, nó khác với chủng Bắc Mông Gô Lích là chủng Mông Cổ thuần túy, và khác hẳn chủng Nam Mông Gô Lích của người Hoa Nam, và khác rất xa chủng của ta. Theo khoa chủng tộc học (Anthropologie physique) thì khi hai cái sọ khác nhau từ hai đơn vị sấp lên, thì phải xem đó là hai chủng khác nhau, và nếu hai cái sọ ấy bị ràng buộc với nhau bằng vài tánh cách khác thì phải xem một cái sọ trong đó là một phụ chủng của cái sọ kia, vì thế mà khi nói đến chủng Mông Gô Lích là nói một điều vô nghĩa đối với khoa học vì khoa học phân biệt đến bốn chủng Mông Gô Lích khác nhau: A. Bắc Mông Gô Lích của người Mông Cổ B. Trung Mông Gô Lích của người Hoa Bắc C. Nam Mông Gô Lích của người Hoa Nam Một phụ chủng thứ tư ra sao, và tên gì, chúng ta sẽ biết trong sách nầy. Có một điều nầy lạ lắm là tất cả các sọ lai căn đều được khoa chủng tộc học biết rõ cả hai yếu tố hợp thành cái sọ đó, lai qua lai lại bốn ngàn năm cũng còn biết được, nhưng sọ của người Tàu thì khoa chủng tộc học chỉ biết có một yếu tố độc nhứt là yếu tố Bắc Mông Gô Lích, còn yếu tố thứ nhì thì họ không thể biết chắc lắm. Họ chỉ kết luận rằng Hoa chủng là Mông Cổ hợp với Nhục Chi, chỉ vì họ thấy người Hoa Bắc cao lớn như Tây, và quanh nơi xâm nhập không có một trung tâm văn minh Tân Thạch nào hết, trừ trung tâm Anau. Họ suy luận rằng người Tàu văn minh sớm như thế thì phải có một trung tâm Tân Thạch sớm gần họ, chớ không lẽ họ lại nhảy vọt được từ Cựu Thạch lên đến đồng thau, mà cái trung tâm đó thì tuyệt nhiên không có, trừ trung tâm Anau nằm trong đất Nhục Chi. Thế nên thuyết trên đây, mặc dầu chưa được công nhận trọn vẹn, vẫn chưa bị ai bác về điểm lai giống với Nhục Chi, người ta xem đó là một nghi vấn. Dầu sao cũng có bốn điểm trên kia là bốn điểm chắc và được toàn thể nhìn nhận. Bọn lai căn đó, xâm nhập vào đất lạ, vào lối năm nào? Khoa khảo tiền sử ước lượng là cách đây 5000 năm, tức trước Kitô kỷ nguyên ba ngàn năm, tức sau khi Ai Cập và Lưỡng Hà đã văn minh cao rồi. Họ gặp ai tại cái địa bàn đó? Nói một cách khác ai đang làm chủ cái địa bàn bị Hoa tộc xâm nhập ấy? Trước hết xin nói rõ cái địa bàn đầu tiên của Hoa tộc. Đó là Hoa Bắc, ở trên sông Hoàng Hà. Tàu phải mất hai ngàn năm từ buổi xâm nhập cho đến đầu đời Hạ mà chỉ chiếm được có một diện tích đất bằng hai tỉnh rưỡi của Trung Hoa ngày nay mà thôi. Tỉnh Cam Túc không được kể, vì đó là hành lang xâm nhập, dân ít ở lại mà chỉ dùng làm đường đi qua. Họ chiếm được nơi mà nay là phía Nam của tỉnh Sơn Tây, nơi mà nay là phía Đông của tỉnh Thiểm Tây, nơi mà nay là phía Bắc của tỉnh Hà Nam, nơi mà nay là phía Nam của tỉnh Hà Bắc, và một vùng đất nhỏ xíu ở cái nơi mà nay là tỉnh Sơn Đông. Như vậy dân thổ trước ở đó phải giỏi ít lắm cũng gần bằng Trung Hoa và những ông vua mà sử Tàu ca ngợi là vua Thánh vua Hiền, thật ra phải vô cùng tàn bạo vì cuộc tranh cướp đất đai phải vô cùng khốc liệt. Đó là địa bàn được biết cho tới nhà Hạ. Nhưng cho đến đời Chu, tỉnh Sơn Đông cũng cứ còn nhiều quốc gia của “Rợ” Đông Di mà Tàu phải chinh phục, mà một quốc gia kia rất nổi danh, đó là nước Cô Trước đã biết xây cất thành trì hàng ngàn năm rồi. Về dân thổ trước thì ta thử dựa vào thượng cổ sử Tàu trước cái đã. Người Tàu gặp tại địa bàn mới nhiều dân tộc, nhưng không phải nhiều chủng tộc đâu. Như đã nói, ở đây chỉ dựa vào sử Tàu, chớ chưa kể đến công trình Âu Mỹ khác xa Tàu. Thí dụ Âu Mỹ khai quật quê hương của rợ Khuyển Nhung, một thứ rợ rất dữ tợn đã làm áp lực cho nhà Chu phải thiên đô về hướng Đông, thì họ thấy rằng dân Khuyển Nhung (Tây Thiểm Tây) có cái sọ giống hệt sọ của người Miến Điện mà sọ Miến Điện lại là sọ Mã Lai. Mặt khác họ lại tìm được dấu vết Nam thiên của người Khuyển Nhung, từ Tây Thiểm Tây xuống Miến Điện ngày nay. Điều đó cũng ăn khớp với sử Tàu vì sử Tàu cũng cho rằng dân Lạc (Lạc bộ Chuy) ở vùng sông Lạc (Thiểm Tây Ba Thục), tức họ chỉ Khuyển Nhung bằng một tên khác, là danh xưng Lạc, mà Lạc, như ta sẽ thấy, chỉ là tiếng phiên âm danh tự xưng Lai (Mã Lai) mà thôi. Nhưng vì Tàu ít dùng danh xưng Lạc bộ Chuy để chỉ dân ở đó hơn là danh xưng Khuyển Nhung, nên rồi không ai chắc chú ý đến bọn Lạc bộ Chuy đó cả. Hơn thế ngày nay khi viết tên con sông của dân Lạc bộ Chuy thì họ lại viết với bộ Thủy, thành thử Lạc bộ Chuy mất tích luôn. Người Tàu có gặp Miêu tộc ở địa bàn ấy hay không? Và Miêu có phải là Việt hay không, như giáo sư Kim Định đã dùng làm căn bản lớn cho sách của ông. Xét chỉ số sọ của chủng Miêu, thấy nó không giống chủng nào khác hết, nó khác với Hoa chủng mà cũng khác với Việt, với Mã Lai. Sọ lai căn ba bốn chủng tộc, khoa chủng tộc học cũng biết được, mà chỉ lai một lần hay lai đi lai lại mãi, khoa đó cũng biết được một cách đích xác, lai mấy ngàn năm rồi, cũng cứ còn biết được như thường. Nhưng khoa đó xác nhận là Miêu thuộc một chủng riêng, rất lớn, có mặt ở khắp nước Tàu, mà không có mặt ở đâu nữa cả, trừ cuộc di cư cách đây hai ba trăm năm đến Thượng Lào và Thượng du Bắc Việt. Có, họ có gặp chủng Miêu ở đó, có xung đột, nhưng không có chiến tranh lớn với chủng đó mà cho đến ngày nay vẫn còn quá kém cỏi. Miêu cũng bị đẩy lui lần từ Hoa Bắc đến Hoa Nam, và cuộc nhường đất của Miêu hoàn toàn xảy ra trên bộ và dưới đời nhà Chu, theo Kinh Thư, Miêu đã bị đẩy xuống vùng đất giữa hồ Động Đình và hồ Bành Lãi. Nhưng đến nay thì Miêu cũng mất luôn địa bàn đó và đất xa nhứt của họ ở phía Bắc là tỉnh Quý Châu. Đây là một dịp cho ta thấy rằng không thể diệt chủng ai được hết. Miêu chủng bị lấn từ 5 ngàn năm rồi mà chỉ mất có phân nửa đất đai, vì Quý Châu là nơi chia hai nước Tàu về mặt diện tích và về bề ngang. Họ chỉ mất hết Hoa Bắc mà thôi. Giáo sư Kim Định tuyên bố không dựa vào sử Tàu thường bóp méo sự thật, cũng không dựa vào khoa khảo tiền sử mơ hồ. Nhưng ở giai đoạn nầy thì ông lại dựa vào quyển sách Tàu Cổ sử nhân vi của Mông Văn Thông là một người chưa học khoa chủng tộc học lần nào hết, để nói rằng Tàu gặp Viêm tộc trước nhứt mà Viêm là Việt + Miêu. Một chủng tộc, tự xưng là gì mặc kệ nó, người Tàu có quyền đặt tên khác cho nó, là Viêm chẳng hạn, nhưng khi bảo rằng Viêm = Việt + Miêu thì sai sự thật quá xa vì sọ Miêu khác xa sọ Việt, lại không bao giờ có sọ lai Miêu + Việt. Nhưng nếu lại bảo thêm rằng khoa chủng tộc học là khoa học không đáng tin, đừng nói đến việc đối chiếu sọ mất công, thì một giáo sư đại học không có quyền nói. Đó là khoa học chính xác như toán chớ không phải khoa học nhân văn nữa đâu mà có quyền tin nó hay không tin nó. Người ta cải thiện khoa học chính xác, chẳng hạn như Tân Toán Học cải thiện Toán học, nhưng không ai lại phủ nhận Toán học được. Thí dụ họ đặt tên cho chủng Việt là chủng Viêm đi, ta cũng cho qua, nhưng nói Viêm là Việt + Miêu thì là bất chấp đến một khoa học chính xác là khoa đo và đối chiếu sọ đã được nhìn nhận là khoa học chính xác đủ khả năng truy nguyên các chủng. Nói thì thế nhưng trong bức bản đồ ở trang 77, thì giáo sư lại cho vẽ khác hết. Theo bức bản đồ thì Viêm Việt gồm có Anh-Đô-Nê, Môn, Chàm, Miến Điện, Miêu, Lạc v.v.,, Đã khá hơn rồi, nhưng vẫn còn sai quá xa, vì khoa chủng tộc học thấy rằng tất cả các dân tộc đó, trừ Miêu đều có sọ giống hệt nhau, nhưng không đặt tên nó là Viêm, vì nó đã tự xưng là Mã Lai từ 5 ngàn năm rồi (có chứng tích), còn Chàm, Miến Điện v.v. thì đều là danh xưng mới có về sau. Và Mã Lai = Anh-Đô-Nê. Vậy cái Viêm tộc của giáo sư Kim Định ăn vào Mã Lai chủng của khoa chủng tộc học, nhưng sai ở danh xưng. Danh xưng Viêm không bao giờ có, còn danh xưng Mã Lai thì đã có từ sáu ngàn năm, hơn thế đó là danh tự xưng. Mà điều cần nhấn mạnh nhiều nhứt là Miêu là một chủng rất lớn và không có mặt trong cái chủng mà Mông Văn Thông và giáo sư Kim Định gọi là Viêm nhưng khoa chủng tộc học gọi là Mã Lai, vì gọi theo danh xưng của nó từ ít lắm là sáu ngàn năm rồi. Đã bảo người Tàu có quyền đặt tên một chủng, khác với khoa chủng tộc học. Nhưng danh xưng Viêm thì không hề thấy dùng để chỉ chủng tộc bao giờ cả mà chỉ có dùng để trỏ vài dân tộc nhỏ ở phương Nam của Hoa Bắc và chỉ có nghĩa mơ hồ là dân xứ nóng, chớ không trỏ hẳn ai. Họ có chỉ nước ta là Viêm bang, nhưng đó là sau đời Hán, còn về thượng cổ thì họ mù tịt về bọn phương Nam Hoa Bắc. Phương chi Miêu lại là chủ đất Hoa Bắc thì họ không có lý do để gọi Miêu là Viêm, vì thuở đó rõ ràng Miêu là dân xứ lạnh y hệt họ. Nhưng cái sọ mới là cái gì mà không ai nói ra nói vào gì được cả. Vậy thì gốc tổ tiên là Mã Lai chớ không phải tên Viêm, mà Tàu cũng không bao giờ gọi nó là Viêm, chỉ có một ông Tàu đời sau là Mộng Văn Thông mới phịa ra đấy thôi. Tàu gọi nó là Ló là Lỉa, tức Lai đấy vì Tàu độc âm, bỏ mất Mã hoặc vì Mã Lai cũng có thói quen tự bỏ bớt một âm, có nhóm chỉ tự xưng là Mạ mà thôi. Nhưng cái nhóm chánh cổ sơ nhứt thì tự xưng rất dài là Malaya (núi Hymalaya) và nhóm thứ nhì có sáu ngàn năm tự xưng là Malayalam được kinh Phệ Đà phiên âm là M’leccha. Điều sai thứ nhì là giáo sư gồm Miêu trong bản đồ đó là lấy số 3 của Tam Miêu để diễn dịch và quy nạp thành ra trên 400 trang sách, trong khi đó thì khoa chủng tộc học cho biết sọ Miêu thuộc chủng Miêu, khác hẳn với sọ Mã Lai về chỉ số và về nhơn thể tính (Indice-crânien et caractères anthrropologiques) và họ có đến Ngũ Miêu, chớ không phải Tam Miêu như Tàu cổ đã nói (Coi chừng giáo sư sẽ cho Ngũ hành, Ngũ kinh, Ngũ nhạc, Ngũ phương, Ngũ sắc, Ngũ đế, Ngũ hồ, Ngũ lĩnh là của Ngũ Miêu khi mà số 3 sụp đổ vì số 5 lòi ra thành sự thật khoa học). (Bản đồ nầy cho thấy rằng giáo sư biết Anh Đô Nê ở Nam Dương, nhưng lại gọi họ là Mán, Thổ). Giáo sư biết là dân Anh-Đô-Nê ở xứ Anh-Đô-Nê-Xia ở Nam Dương, chỉ có thế thôi, nhưng lại cứ hiểu họ là “Mọi” chớ không là Mã Lai, vì trong bản đồ, sau danh xưng Anh-Đô-Nê và Nam-Dương, giáo sư chua là Mán Thổ mà Mán Thổ đó cũng lại được giáo sư hiểu là Mọi, nhưng cái nghĩa khoa học của Mán Thổ, không là Mọi như thường dân hiểu. Mán là một chi của Miêu tộc có di cư tới Việt Nam, còn Thổ là một chi của Thái có di cư tới Việt Nam, chớ không bao giờ có mặt tại Nam Dương như bản đồ đã vẽ, và bản đồ mà vẽ như vậy là người cho vẽ bản đồ hiểu Mán, Thổ là Mọi, y như dân chúng đã hiểu. Xin giáo sư học hai nền văn minh Shri – Vishayaa và Madja – Pahit ở Nam Dương, xem họ có là Mọi hay không. Đó là hai nền văn minh của thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch mà Pháp gọi là “Très haut degré de Culture d’un faste inoui” (Một nền văn hóa rất cao với một sự xa hoa chưa hề nghe nói đến hồi nào và ở đâu cả). Vậy bài viết: Viêm = Miêu + Việt không ăn với bản đồ, bản đồ có hơi đúng hơn nhưng chỉ được dùng có một lần còn bài viết thì được dùng làm căn bản cho cả cuốn sách với con số 3 nồng cốt là dân Tam Miêu. Điều sai thứ ba là giáo sư cho rằng dân Hoa Bắc có dòng máu Viêm mà Viêm thì như đã thấy, ăn vào với Anh-Đô-Nê = Mã Lai. Nhưng khoa chủng tộc học lại không hề thấy có cái sọ nào ở Hoa Bắc từ 6 ngàn năm nay mà có chất Viêm, hay chất Anh-Đô-Nê Mã Lai nào cả. Mà khoa chủng tộc học thì có cái gì đưa ra làm chứng: những cái sọ với phương pháp đo đủ mọi khía cạnh để biết sọ nào của chủng nào, sọ nào lai căn mà lai với ai, còn cái triết của giáo sư thì chỉ có những con số 3 (Tam Miêu), số 9, Cửu Lê, Cửu Trù. Con số 3 căn bản ấy, thì lại có cái sọ không phải của Tàu, cũng không phải của Việt, cũng không có lai căn với ai bao giờ hết. Tóm lại Viêm tộc theo quan niệm của giáo sư Kim Định, không bao giờ có. Còn theo bản đồ thì có, nhưng nên loại trừ Miêu ra một chủng riêng, và nên gọi Viêm tộc như tự nó đã xưng là Mã Lai chủng. Và điều nầy quan trọng hơn hết là không hề có sọ Mã Lai hoặc sọ Việt, sọ Cửu Lê chủng tại Hoa Bắc để cho Mộng Văn Thông và giáo sư Kim Định cho rằng chính họ sáng tạo nên nền văn minh ở đó rồi bị Hoa tộc cướp lấy. Nếu quả thế, thì phải có sọ cổ của Mã Lai, của Cửu Lê hay của Việt ở đó chớ sao lại không bao giờ có, nghĩa là làm sao? Ở trang 75 giáo sư viết rằng: Khảo tiền sử, khoa khảo cổ, khoa chủng tộc học (mà giáo sư gọi là nhân chủng học) chỉ có giá trị giả thiết (có lẽ giáo sư muốn nói giả thuyết). Còn viết theo quan niệm văn hóa như giáo sư đã làm mới cho thấy được sự thật. Rồi giáo sư lại ám chỉ H. Maspéro. Quả Maspéro trong quyển Les religions đã cho rằng Hoa tộc và các dân tộc Đông Nam Á khi xưa có một nền văn hóa chung. Nhưng ông H. Maspéro chỉ dám nói có bấy nhiêu đó thôi. Còn giáo sư Kim Định thì phát triển mạnh cái câu đó ra, cho họ đồng chủng và nhứt là cho tác giả chính là chủng Viêm nào đó. Các dân tộc có một địa bàn dính nhau thì dĩ hiên phải có văn hóa chung vào buổi sơ khai, nhưng điều đó không bao giờ có nghĩa là Miêu đồng chủng với Việt, lại không bao giờ có nghĩa là sự phát triển ban đầu ấy theo một chiều hướng nào đó là do Tàu ăn cắp của Việt.1 like
-
Cái phân tích mà anh nói là ngắn gọn ấy, nếu mà giải thích ra thì nó cũng sơ sơ khoảng trăm trang giấy, học sơ sơ khoảng dăm bẩy tháng thì nắm được căn bản, luyện thêm một vài năm thì sơ sơ có thể hiểu hết. Và nói chung là những gì SP Thiên Sứ, Thiên Luân và các anh chị khác trao đổi, bạn không đọc tí nào thì phải! Cho nên có nói hay giải thích thế chứ giải thích nữa cũng vậy thôi !1 like
-
III - Phoenix Chú Thiên Sứ sẽ trả lời 3 người, mỗi người 3 câu và mỗi câu dài không quá 15 chữ. Xem ra nhiều bạn phạm quy rùi. Vậy nên Phoenix cứ đăng câu hỏi. Nếu không phạm quy và đủ điều kiện thì chú Thiên Sứ phải giữ lời giải đáp. Câu 1: Ngày 10/3 AL đã được công nhận chính thức là ngày giỗ Tổ. 1 - 1: Vậy sau này ngày 5/5 AL có được thừa nhận chính thức như ngày 10/3 không? Nếu "có" thì xin hỏi thêm: Đỗ Tiếu Cát: Sau này sẽ được công nhận như là ngày Quốc lễ. Nhưng tốn nhiều giấy mực (Tiểu Cát) mới thành công. Sau vận 8 (Tức hết 2023) sang vận 9 (Từ 2024 đến 2043) việc này sẽ được thừa nhận. 1 - 2: Ai sẽ là người khiến nhà nước thừa nhận ngày này? Nếu "không" thì bỏ qua câu hỏi thêm. Cảnh Vô Vong. Có hai thành phần quyết định chuyện này. Tri thức và chính trị. Không thành phần nào nổi trội để quyết đinh cuối cùng. Khó đoán được cụ thể người quyết định. Câu 2: Trong tương lai, di tích đền Hùng có được công nhận là di sản văn hóa thế giới không? Tử Đại An. Hơi bị khó. Kể cả việc nền văn hóa Đông phương huyền vĩ được thừa nhận về tính khoa học của nó và ứng dụng trong mọi lĩnh vực trong cuộc sống, xã hội và con người. Thời gian tính phải là hàng trăm năm. Câu 3: Đã có nhiều người đi thăm khu di tích đền Hùng (kể cả chú Thiên Sứ). Xin hỏi: Lối đi từ cổng chính lên đến điện Kính Thiên (chỉ tính lối đi chính) có bao nhiêu bậc? Híc! Tôi đến thăm đến Hùng nhiều lần. Nhưng lần nào cúng cắm cổ leo lên đến Thượng, khấn vái rồi về. Nên không để ý Điện Kính Thiên ở đâu. Nhưng với quẻ Kinh Lưu Niên thì thật là ứng với điện Kính Thiên. Cứ theo độ số của quẻ này thì số bậc sẽ nằm một trong hai độ số sau: 1- Xấp xỉ 160 bậc. 2 - Xấp xỉ 490 bậc. Thiên Sứ1 like
-
Thiên Sứ tư vấn: I: V - Star E hem, giờ là đúng giờ tý rồi, em xin chen 1 vé vào nhờ chú Thiên SỨ giúp đỡ cháu là nữ sinh ngày 8-11 âm lịch, tuổi Kỷ Tỵ (1989). Cháu muốn nhờ chú trả lời giúp cháu vài câu hỏi I - 1: Năm nay cháu có thể đậu vào trường ĐH mà cháu mong muốn ko (đúng ngay nguyện vọng đầu mà cháu đã đăng kí). Giờ mão (Mẹo). Ngày 10 tháng Ba - Mậu Tý: Sinh Tốc Hỷ. Cô đang có kỳ vọng lớn vào một trường mà cô nhắm tới. Quẻ cho thấy cô tự tin vào khả năng của mình do sự thông minh và khả năng học của cô. Nhưng Sinh Mộc quá yếu không đủ sức sinh Tốc Hỷ Hỏa. Do đó điều kiện thi vào trường mà cô mong muốn sẽ gặp khó khăn lúc ban đầu. Tuy nhiên, cô vẫn đậu do sự hiệu chỉnh những điều kiện nhập học sau khi thi và chỉ đậu nều cuộc thi được tiến hành từ cuối tháng Ba đến hếtvv tháng 5 Âm lịch. I - 2: Con đường học hành cũng như công danh sự nhiệp tiền bạc sau này của cháu có tốt ko (có sự xuất ngoại ko). Thương Xích Khẩu. Xích khẩu Kim khắc thương Mộc. Cô sẽ được xuất ngoại và thành công nơi đất khách quê người. Thời hạn nhanh là 4, chậm đến 8 năm sau (Tính năm Mậu Tý là năm thứ nhất). Nhưng vì tính bản thân phấn đấu nên để đạt được điều này cần có sự cố gắng. Khi xuất ngoại cô sẽ phải lựa chọn giữa tình cảm và sự nghiệp. Nhưng cô sẽ lựa chọn sự nghiệp. I - 3: Sau này cháu có khả năng có nhà, có đất riêng ko? Đỗ Tiểu Cát: Trong cuộc đời cô sẽ lần lượt sở hữu đến ba cái nhà. Cô sẽ giữ được hai cái. Nhà tuy không lớn , nhưng vừa ý và đẹp. Cái nhà đầu tiên cô có được lúc ít nhất 32 chậm là 37 tuổi. I - 4: Cảm ơn chú trước Đây là câu thứ 4 thuộc ngoại lệ. Nhưng thôi khuyến mãi đi. Cảnh Vô Vong. Câu trả lời của tôi là: "không có chi". :rolleyes: Thiên Sứ1 like