-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 10/04/2012 in Bài viết
-
Khó lắm! Hiện tương bà Diệu Hiền chỉ là một thành tố trong sự suy thoái toàn cầu. Vấn đề là bà này đã dùng quá nhiều tiền ....chùa để thỏa mãn tham vọng ảo. Phong thủy sai chỉ là hiện tượng thể hiện của một bản chất của sự suy thoái có thể dự đoán. Nếu ngay từ đầu thì may ra cứu vãn được. Nay căn bệnh đã nhiễm và di căn rồi. Chưa nói đến việc để sửa cái phong thủy nhiễm trùng nặng này thì gần như đập phá gần hết. Họ không đủ niềm tin để làm việc này. Ngày xưa, có một người đến đặt giá 50 triệu để tôi chữa bệnh cho cha - tuổi Quý Mão - bị bệnh nặng đang nằm ở bệnh viện chợ Rẫy. Tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi xem trước khi nhận lời. Đến nơi tôi nói: "Sau ba ngày nếu ông ta còn sống thì tôi nhận lời chữa". Ba ngày sau ông ta chết. Cái này gọi là "thày chạy, bác sĩ chê". Tùy Hải thôi. Biết đâu lòng nhân ái mãnh liệt và tâm vô tư vì việc thiện có thể cứu vãn tình thế. Nhưng khó lắm. =================== PS: Tóm lại thế này: Phong thủy dù siêu việt vẫn cần thời gian để chứng nghiệm. Nhanh nhất cũng phải 21 ngày. Nhưng cái xe đã lao xuống dốc chỉ còn vài giây nữa thì tan. Chịu.4 likes
-
Phong thủy là một yếu tố tương tác rất quan trọng. Vận số cũng là một yếu tố tương tác rất quan trong. Tất nhiên không chỉ một hòn núi - hoặc một hình tượng tương tự là cái bảng đá lớn chắn chính ình - mà còn phải nhiều yếu tố tương tác khác do phong thủy sai nữa. Tuy nhiên đó là một yếu tố xấu - rất xấu theo phong thủy Lạc Việt. Giả thiết cho dù phong thủy đúng thì yếu tố số phận vẫn xác định định tính của nó. Nhưng nếu phong thủy đúng thì dù số phận có hẻo thì cũng không đến nỗi thảm hại. Có ai quyết định được môi trường sống của họ khi họ chào đời không? Một đứa trẻ sơ sinh không thể chọn bố mẹ giàu hay nghèo, ở thành thị hay miền xa xôi hẻo lánh. Và đấy là một yếu tố đầu tiên quyết định sự phát triển sau đó của đứa trẻ. Đó là cái nhìn trực quan dễ thấy nhất của con người. Có những người bày đặt, không tin phong thủy cho ra vẻ khoa học - thực chất chỉ là không hiểu gì về nó nên phản đối. Không trách gì họ. Nhưng họ không phải đối tượng tranh luận. Phong thủy Lạc Việt tuy chưa phổ biến. Nhưng tôi chắc chắn rằng hiệu quả của nó rất khả quan, mặc dù không phải tuyệt đối.4 likes
-
TRƯNG NỮ VƯƠNG PHỤC QUỐC HÙNG LẠC nguonAnviettoancau HAI BÀ TRƯNG ĐÁNH ĐUỔI GIẶC HÁN Từ xa xưa mãi cho đến ngày nay, hàng năm toàn dân Việt vẫn tổ chức Đại lễ kỷ niệm “Hai Bà Trưng” với tất cả sự thành kính xen lẫn niềm tự hào về hai Bà, bậc nữ lưu Việt tộc đã lưu lại trang sử oanh liệt hào hùng của dân tộc. Thế nhưng, các sách sử Việt Nam cứ trích dẫn sử Trung Quốc nên cho đến ngày nay, chúng ta vẫn chưa biết gì hơn về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng ngoài những sách sử của Trung Quốc ghi chép lại với luận điệu của “Thiên triều Đại Hán”. Chính vì vậy, chúng ta phải tìm hiểu xem bối cảnh lịch sử của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và nơi đã xảy ra cuộc chiến đầu tiên của Hai bà với quân xâm lược, chúng ta sẽ thấy toàn bộ vấn đề với ý nghĩa cao đẹp của sự thật lịch sử bị chôn vùi hơn 2 ngàn năm nay. Hậu Hán thư, Mã Viện truyện của Phạm Việp sử gia triều Hán viết về Hai Bà Trưng như sau:“Người đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Trắc với em là Trưng Nhị làm phản, đánh chiếm các quận (Chú: Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, là vợ người huyện Chu Diên tên là Thi (Sách) rất hùng dũng (1). Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc, Trắc oán giận mà làm phản). Người man di các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, cướp chiếm hơn sáu mươi thành ở Lĩnh Ngoại. Trắc tự lập làm vua. Bấy giờ vua (Hán) cho Viện làm Phục Ba Tướng quân, lấy Phù Lạc Hầu Lưu Long làm phó, đốc xuất bọn Lâu thuyền tướng quân Đàn Chi đánh Giao Chỉ ở phương Nam. Quân đến Hợp Phố thì bị bệnh chết. Vua chiếu cho Mã Viện kiêm thống suất binh của Chí. Viện bèn dọc theo bờ biển mà tiến, theo núi phát đường hơn nghìn dặm. Năm 18, quân đến Lãng Bạc, đánh phá được giặc, chém hơn nghìn đầu, giặc đầu hàng đến hơn vạn người. Viện đuổi theo bọn Trưng Trắc đến Cẩm Khê, đánh thắng nhiều lần giặc tan chạy. Năm sau tháng giêng chém Trưng Trắc, Trưng Nhị gửi đầu về Lạc Dương.(Chú: Việt chí nói rằng Trưng Trắc khởi binh, đóng đô ở huyện Mê Linh. Khi bị Mã Viện đánh chạy vào suối Kim Khê, 2 năm sau mới bắt được)”. Hán sử với luận điệu “Thiên triều” cho rằng Tô Định là tên thái thú tham lam tàn bạo nên Hai Bà Trưng mới đứng lên chống lại. Đây chính là luận điểm của Hán tộc cho rằng dân Việt vẫn chịu thuộc Hán nhưng chỉ vì thái thú tham lam tàn bạo nên người Việt mới đứng lên chống lại sự đô hộ của những tên Thái Thú tham lam tàn bạo này mà thôi. Các sử gia Việt Nam, từ Ngô Sĩ Liên tới các sử gia sau này cứ sao chép rập khuôn luận điệu xuyên tạc bóp méo lịch sử của các sử gia “Đại Hán”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết: “Năm Ất Hợi, năm thứ 15 niên hiệu Kiến Vũ, thái thú Giao Chỉ là Tô Định là người tham lam bạo ngược. Trưng Nữ Vương nổi binh để đánh. Năm Canh Tý tháng 2 mùa Xuân, Ngài khổ vì Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc và thù Định giết chồng mình bèn cùng em là Trưng Nhị cử binh đánh lấy các châu trị …”. Lịch sử chứng minh rằng Bà Trưng đã lãnh đạo các Lạc Tướng cùng với nhân dân đứng lên giành độc lập dân tộc. Sau khi đánh đuổi quân Hán ra khỏi đất nước, các Lạc Hầu Lạc Tướng và toàn dân đã suy tôn Trưng Trắc lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh và đặt tên nước là Hùng Lạc để tiếp nối sự nghiệp của vua Hùng. BÀ TRƯNG ĐÁNH ĐUỔI QUÂN HÁN XÂM LƯỢC Sử Trung Quốc chép rằng sau khi chiếm Nam Việt, Hán triều đổi tên nước là Nam Việt thành Giao Chỉ bộ và chia ra làm 9 quận gồm: Nam Hải (Quảng Đông), Thương Ngô (Quảng Tây), Uất Lâm (Quảng Tây), Hợp Phố (Quảng Châu), Giao Chỉ (Bắc Việt Nam), Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá), Nhật Nam (Nghệ An ), Châu Nhai (Đảo Hải Nam) và Đạm Nhĩ (nay là Đam Châu thuộc đảo Hải Nam). Tuy chiếm được Nam Việt nhưng Hán Vũ Đế không dám tiến quân xuống Tây Âu Lạc vì lời khuyên của Lưu An nhắc lại kinh nghiệm thất bại năm xưa của đại quân Tần. Vì thế Lộ Bác Đức đóng quân ở Hợp Phố, chờ 2 viên Điền sứ của Triệu Đà dâng nộp ấn tín sổ sách và một ngàn vò rượu rồi giao cho 2 viên Điền sứ tiếp tục cai trị như xưa. Hậu Hán Thư chép: “Năm 111 TDL, sau khi chiếm được Nam Viêt rồi thì Lộ Bác Đức phải nhờ “Việt Quế Lâm Giám Cư Ông dỗ Âu Lạc thuộc Hán”. Như vậy, các quận Giao Chỉ (Bắc Việt Nam), Cửu Chân (Vân Nam xuống Thanh Hoá) và Nhật Nam (Nghệ An) vẫn do 2 viên Điển sứ và các Lạc Tướng cai quản chứ không do Hán triều thống trị trực tiếp. Trên thực tế, Hán triều vẫn không kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ Nam Việt chứ đừng nói tới Âu Lạc. Sau khi Thạch Đái chết, Hán Chiêu Đế cử Chu Chương làm thứ sử Giao Châu. Từ đó đến thời Đông Hán, sử sách Trung Quốc không nhắc gì đến Giao Chỉ cả. Điều này chứng tỏ rằng, nhân dân Hoa Nam đã nổi lên giành quyền tự chủ nên sử Hán không ghi chép gì vào thời kỳ này. Mãi đến khi Vương Mãng lật triều Tây Hán để lập triều đại Tân từ năm 9 đến 23, mà Hán sử chỉ chép vỏn vẹn là “quan châu mục Giao Chỉ là Đặng Nhượng và các quận đều đóng bờ cõi tự phòng trị một thời gian”. Năm 25, Lưu Tú lên ngôi lấy hiệu là Hán Quang Vũ, năm sau Hán triều cử Sầm Bành xuống đánh Kinh Châu. Sầm Bành viết thư cho Đặng Nhượng mãi tới năm 29 thì Giao Chỉ mục mới cử Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và thái thú các quận là nhóm Đỗ Mục mới sai sứ sang cống, tất cả đều được phong làm Liệt Hầu. Sử Hán chép là các quan châu mục tự cai quản nhưng trên thực tế, các thủ lĩnh Quân trưởng Việt đã cùng với nhân dân đứng lên giành lại quyền tự chủ. Sử TQ Hậu Hán thư chép: “Xưa Sầm Bành cùng Giao Chỉ mục Đặng Nhương quen biết thân thiện nên viết thư cho Nhượng trình bày uy đức quốc gia, rồi lại sai Thiên tướng quân Khuất Sung gửi hịch đến Giang Nam ban hành chiếu mạng. Do thế, Nhượng cùng Thái thú Giang Hạ là Hầu Đăng, Thái thú Vũ Lăng là Vương Đường, tướng Trường Sa là Hàng Phúc, Thái thú Quế Dương là Trương Long, Thái thú Linh Lăng là Điền Hấp, thái thú Thương Ngô Đỗ Mục, Thái thú Giao Chỉ Tích Quang cùng nhau sai sứ sang cống. Tất cả đều được phong là Liệt Hầu”. Như vậy, chỉ có Thái thú Giao Chỉ lúc này còn ở Hoa Nam mà không nhắc gì đến Cửu Chân(2). Năm 29, Hán triều mới cử Nhâm Diên sang làm Thái thú Cửu Chân thì đến năm 32, Hán triều đã phải “bãi chức” thái thú Cửu Chân của Nhâm Diên. Hán sử chép là “Năm 31, triệu hồi Thái thú Giao Chỉ Tích Quang về triều” mà không nói gì thêm, điều này có nghĩa là nhân dân Cửu Chân, Giao Chỉ ở Hoa Nam đã giành lại độc lập tự chủ. Mãi đến năm 34, Triều Hán mới cử Tô Định là tên võ quan làm thái thú để đem quân đi đánh chiếm lại những vùng đã thuộc quyền tự chủ của dân ta. Trong khi đó, sách Đại Việt Sử lược không rõ tên tác giả viết vào khoảng đời Trần, dù bị Tiền Hy Tộ sử quan triều Thanh sửa đổi nhưng vẫn không thấy chép gì về Nhâm Diên và Tích Quang. Đại Việt Sử lược chép mục “Quan thủ nhậm qua các thời đại” chỉ ghi là “Thạch Đái thời Vũ Đế (140-86 TDL), Chu Chương đời Chiêu Đế (86-74 TDL0, Nguỵ Lãng Tư Minh đời Tuyên Đế (73-48 TDL) rồi tới Tô Định đời Hán Quang Vũ (34-40)”. Như vậy rõ ràng là thời kỳ này, ở phần đất Bắc và Trung Việt Nam tuy sử sách gọi là thuộc quận Giao Chỉ và Cửu Chân không có viên thái thú nào trấn nhậm cả. Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng Mê Linh thuộc hàng danh gia vọng tộc nên nuôi dưỡng hoài bão “Nối lại nghiệp xưa vua Hùng”. Trưng Trắc lấy chồng tên là Thi, danh sĩ đất Giao Châu cùng chí hướng, con trai của Lạc tướng Chu Diên là người có chí khí hơn người. Cuộc hôn nhân ngoài tình yêu nam nữ còn là sợi dây liên kết 2 dòng tộc để cùng với toàn dân đứng lên giành lại quyền tự chủ cho dân tộc. Vì thế, năm 39 khi Tô Định đem quân đến Trường Sa, Trưng Trắc đã cử Trưng Nhị cùng các nữ tướng đã chặn đánh tan tành quân Hán ở Trường Sa. Hán sử chép là Tô Định tháo chạy, còn các quan chức thứ sử thái thú chỉ giữ được mạng sống của chúng mà thôi. Sách “An Nam Chí lược” và “Thiên Nam Ngữ lục” chép Tô Định bị giết chết tại trận. Vua Hán phải cử Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân là chức cũ của Lộ Bác Đức thời Hán Vũ Đế đánh Nam Việt. Điều này có nghĩa là nhân dân Nam Việt đã giành lại nền độc lập tự chủ nên vua Hán phải cử Mã Viện tiến đánh Nam Việt như thời Hán Vũ Đế vậy. BÀ TRƯNG PHỤC QUỐC HÙNG LẠC Sách sử xưa chép rằng việc liên kết hai dòng họ không qua mắt được quân thù nên khi Tô Định đem quân Hán xâm lược tới phủ trị thì chúng cho quân đến vây bắt hai vợ chồng Trưng Trắc. Thiên Nam Ngữ lục chép: “Khi thấy quân Tô Định thế mạnh, Thi khuyên vợ nên đi đường tắt về Hát Môn. Nhân đấy hai chị em kéo về Hát Môn, lập thành lũy chuẩn bị dụng binh. Thế cô nên Thi không chống cự nổi bị Tô Định giết chết, đốt phá dinh thự. Tin dữ truyền đến Hát Môn, chị em Trưng Trắc quyết chí báo thù, truyền hịch đi khắp thiên hạ dấy nghĩa”. Nhận được hung tin, Hai Bà làm lễ tế cờ rồi truyền hịch đi khắp nơi dấy nghĩa “Giết quân Hán xâm lược để lập lại nghiệp xưa vua Hùng”. Đầu năm Kỷ Hợi (39DL), Trưng nữ Vương xuất quân đánh ngay vào Trường Sa, trị sở Đô Úy của Hán triều. Trận chiến do Trưng Nhị cùng các nữ tướng Phật Nguyệt, Trần Thiếu Lan, Trần Năng, Lại Thế Cường. Chiến thắng quân Hán ở Đô Uý trị huyện Mê Linh thuộc Trường Sa, giết chết Tô Định, tàn quân Hán tháo chạy về nước. Đây là chiến thắng vang dội mở đầu cho các chiến thắng liên tiếp trên các quận huyện. Trong vòng hơn 1 tháng, nghĩa quân đã chiếm được 65 thành trì trên khắp Hoa Nam. Quân Hán cuốn vó chạy dài, Hán triều thất điên bát đảo. Nhân dân suy tôn Trưng Trắc lên ngôi vua, lấy hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Trưng Nữ Vương cảm thông nỗi khốn khó của nhân dân nên ban hành chiếu chỉ miễn thuế cho nhân dân 2 năm liền. Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên chép: “Trưng Trắc công phá châu quận, hàng phục được các Lạc Tướng, họ đều suy tôn Trắc làm vua”. Đây chính là truyền thống suy cử quân trưởng Thủ lĩnh để nối nghiệp xưa của vua Hùng được các Lạc Tướng tôn trọng và truyền lưu mãi tới thời Trưng Nữ Vương. Khi lên ngôi, Trưng Vương đặt quốc hiệu là Hùng Lạc để tiếp nối nghiệp xưa của vua Hùng và miễn thuế cho nhân dân 2 năm để phục hồi sức dân. Sách Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi chép Bà Trưng lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh và đặt tên nước là Hùng Lạc: Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta... (3) BÀ TRƯNG ĐÁNH TAN QUÂN HÁN Ở HỒ NAM (TQ) Sách sử xưa chép rằng Trưng Trắc, con gái Lạc tướng Mê Linh lấy con trai Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách bị Tô Định giết chết nên Bà Trưng làm lễ tế cờ rồi xuất quân khởi nghĩa. Đầu thế kỷ thứ 4, Lịch Đạo Nguyên, một người đã từng làm việc ở Giao Chỉ nên rất thông hiểu, lịch sử, địa lý toàn vùng Hoa Nam Trung Quốc viết trong tác phẩm Thủy Kinh Chú Sớ rằng chồng của bà Trưng tên là Thi chứ không phải Thi Sách vì Hán văn viết liền “Thi sách thê” nghĩa thi là lấy vợ và một sự kiện khác là danh tướng Thi không bị Tô Định giết mà cùng với Trưng Trắc đánh phá các quận, thu phục các Lạc Tướng. Thủy Kinh Chú Sớ chép: “ Con trai Lạc Tướng Chu Diên là Thi lấy con gái Lạc Tướng Mê Linh là Trưng Trắc làm vợ. Trưng Trắc là người can đảm dũng lược, cùng chồng là Thi đánh phá các quận, thu phục được các Lạc tướng. Trưng Trắc làm vua, đóng đô ở Mê Linh…”. Trước đây các sử gia Việt Nam cứ cho rằng cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng diễn ra ở Mê Linh trong lãnh thổ Bắc Việt Nam. Đây là một sự sai lầm vì chính sách “Lĩnh Nam Trích Quái chép: “Hai Bà Trưng vốn dòng họ Hùng, chị tên Trắc, em tên Nhị người ở huyện Mê Linh đất Phong Châu, con gái quan Hùng tướng đất Giao Châu”. Địa danh Mê Linh ở Trường sa và đất Phong Châu là Phong Châu Thượng ở giữa Vân Nam và Quí Châu chứ không phải Phong Châu Hạ ở Bạch Hạc, Việt Trì Bắc Việt sau này do triều Đường mới đặt tên năm 622. Sách “Cựu Đường thư” của Lưu Hú chép: “Phong Châu ở Tây Bắc An Nam, Sở trị là Gia Ninh. Đời Hán, huyện Mê Linh thuộc quận Giao Chỉ là đất của Văn Lang Di xưa”. Cựu Đường thư đã ghi rõ là Phong Châu ở hướng Tây Bắc An Nam chứ không phải ở vùng Tây Bắc của nước An Nam. Sách “Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường chép: “Phong Châu là đất Văn Lang xưa, có con sông tên là Văn Lang”. Thuỷ Kinh chú dẫn Lâm Ấp ký” chép: “Phía Nam Chu Ngô có giống người gọi là Văn Lang. Họ không biết xây nhà mà ở trên cây (ở nhà sàn), ăn cá và thịt sống, buôn bán các chất thơm. Phía Nam huyện đó có con sông nhỏ tên là Văn Lang Cứu”. Sự thật lịch sử này đã được Lịch Đạo Nguyên xác nhận trong tác phẩm “Thuỷ Kinh chú” là đến năm 42, Mã Viện tâu trình kế hoạch tiến quân đánh Hai Bà ở Vân Nam như sau:“Năm Kiến Vũ thứ 19 tức năm 42, Phục Ba tướng quân là Mã Viện tâu lên vua rằng: Đi từ Mê Linh ra Bôn Cổ huyện Thuý tỉnh Vân Nam để đánh Ích Châu, thần sẽ đem hơn vạn người Lạc Việt, trong đó có hơn 3 nghìn người từng theo Viện chiến đấu có mang tên tẩm thuốc độc, bắn một lần mấy phát, tên bắn như mưa trúng ai nấy chết. ..”. Mã Viện tiến quân từ mạn Bắc xuống nên nếu Mê Linh là ở Bắc Việt Nam thì làm sao mà đi ra huyện Thúy tỉnh Vân Nam được. Sách Thủy Kinh chú chép về địa danh Mê Linh rõ hơn: “Huyện Tiến Tang là Đô uý trị ở miền Nam quận Tường Kha. Trên sông có cửa quan nên gọi là cửa Tiến Tang. Mã Viện xưa nói rằng theo đường sông Mê Linh ra vương quốc Tiến Tang, đến huyện Bí (Bôn) Cổ thuộc Ích Châu, chuyên chở thuận lợi nên đường binh xa chuyên chở là do đó …”. Như vậy rõ ràng là sông Mê Linh nằm ở cửa Tiến Tang miền Nam huyện Tường Kha tỉnh Hồ Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như các sử gia vẫn chép từ trước đến giờ. Theo Lĩnh Nam trích Quái, Triệu Vũ Đế của Nam Việt cũng là người Chân Định (Trường Sa tỉnh Hồ Nam TQ) là 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang. Đất Mê Linh lúc trước gọi là My Linh thuộc nước Sở, về sau là vùng Trường sa, Phan Hồ tỉnh Hồ Nam, nơi mà Hán Vũ Đế đặt “Đô Uý trị” ở đó năm Nguyên Đĩnh thứ 6 tức năm 111 TDL sau khi đánh thắng Nam Việt. Sự kiện này một lần nữa xác nhận Mê Linh lúc đó là địa danh ở Trường Sa, Tây hồ tỉnh Hồ Nam Trung Quốc. Sau khi bị Hán tộc xâm lược đẩy lùi dân tộc ta về phương Nam, tiền nhân ta đã mang theo địa danh Mê Linh, Tây hồ xa xưa để đặt tên cho vùng đất mới ở làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú. Địa danh Phan Hồ còn gọi là Tây Hồ ở vùng Ô Diên tỉnh Hồ Nam thuộc Giang Nam tức phía Nam sông Dương Tử là vùng núi có hình con chim Điêu, chim Ó sau đổi thành Chu Diên quê hương của danh tướng Thi, chính là vùng Hai Bà đã đóng quân chống quân Hán xâm lược. Phan Hồ còn gọi là hồ Tây hay hồ Dâm Đàm là một trong 5 hồ rộng lớn ở Giang Nam, sóng nước mênh mông nên còn gọi là hồ Lãng Bạc. Mùa hè năm 43, Mã Viện hành quân đến Lãng Bạc mà theo Thủy Kinh chú thì: “Ở phía Bắc huyện Phong Khê có con sông chảy về phía Đông qua Lãng Bạc. Mã Viện cho đó là đất cao bèn từ Tây Lý đem quân đến đóng ở đấy. Sông ấy lại chảy về phía Đông qua phía Nam thành cũ huyện Long Uyên”. Sử gia Đào Duy Anh và các nhà sử học CHXHCNVN nhất loạt gán ghép một cách vô lý đó là con sông Thiếp. Tây Lý là Tây Vu vì chữ Vu bị chép lầm thành chữ Lý! để cho rằng Lãng Bạc là vùng đồi núi huyện Tiên Du ở Bắc Ninh bây giờ. Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên viết rõ rằng con sông này còn gọi là sông Nam. Thực ra đó chính là sông Việt (Việt giang) mà sau này Hán sử cố tình chép đổi lại là Tây giang gồm 2 nhánh Tả giang và Hữu giang bắt nguồn từ Uất Lâm phía Bắc Quảng Tây chảy xuống Đông Nam ra thành cũ huyện Long Uyên ở Quảng Đông Trung Quốc. Mặt khác, chính sử sách chép rằng nhân dân các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nhất tề hưởng ứng Hai Bà Trưng nên chỉ trong 1 tháng Hai Bà đã đánh chiếm 65 thành trì dễ như trở bàn tay. Căn cứ vào “Quận quốc chí” của “Hậu Hán thư” thì Nam Hải có 7 thành, Thương Ngô 11 thành, Uất Lâm 11 thành, Hợp Phố 5 thành, Giao Chỉ 12 thành, Cửu Chân 5 thành, Nhật Nam 5 thành, như vậy là 53 thành. Nếu cộng với 12 thành ở Dương Châu và Kinh châu mới đủ 65 thành mới đúng với con số thành mà Hai Bà Trưng đã chiếm được. Điều này chứng tỏ cuộc chiến đã diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc bao gồm các quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Kinh Châu và Dương Châu. Sự kiện này đã được xác nhận qua thực tế lịch sử là nhân dân Hoa Nam cho đến nay vẫn tôn thờ sùng kính Hai Bà Trưng mà họ gọi một cách thân thương là vua Bà. Sự tôn sùng thờ kính vua Bà đã trở thành một tôn giáo dân gian gọi là đạo “Thờ Vua Bà”. Nhân dân khắp các tỉnh Hoa Nam từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, Tứ Xuyên, Hồ Nam có trên một trăm đền thờ, miếu thờ vua Bà và những nữ tướng của Hai Bà.(4) Trận chiến đầu tiên xảy ra đầu năm kỷ Hợi 39 DL được “Địa phương chí” của sở du lịch Trường Sa Trung Quốc xác nhận như sau: “Miếu thờ Liệt nữ Trần Thiếu Lan ở đầu sông Tương”. Như vậy, trận đánh đầu tiên của Trưng Nhị cùng các tướng Phật Nguyệt, Trần Năng, Trần Thiếu Lan, Lại thế Cường đánh Trường Sa vào đầu năm Kỷ Hợi tức năm 39. Trong trận đánh này, Nữ tướng Trần Thiếu Lan đã hi sinh được quân dân mai táng ở ghềnh sông Thẩm Giang. Thẩm Giang là một đoạn sông ngắn ở phía Bắc tiếp nối với hồ Động Đình. Sự kiện này cũng được ghi trong “Quốc phổ thời Nguyễn” chép rằng các sứ thần nước ta từ các triều Lý, Trần, Lê ... khi đi ngang qua đây đều sắm lễ vật đến cung miếu thờ vị liệt nữ anh hùng dân tộc Trần Thiếu Lan. Trong đền có đôi câu đối: Tích trù Động Đình uy trấn Hán, Phương lưu thanh sử lực phù Trưng … Động Đình chiến sử danh trấn Hán, Sử xanh ghi mãi sức phù Trưng ..! Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Sĩ thì khi Mã Viện huy động đại quân tiến đánh quân ta, Hai Bà giao cho 3 vị tướng họ Đào là Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống và Đào Tam Lang có nhiệm vụ trấn giữ Tượng quận là vùng đất ở giữa Vân Nam và Quảng Tây. Quân số ít oi, ba vị tướng họ Đào đã tử thủ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Nhân dân địa phương trân trọng lập đền thờ bên trong có đôi câu đối: Tượng quận giương uy nhiêu tướng lược, Bồ Lăng tuẫn tiết tận thần trung … (5) Các nhà viết sử trước đây cứ sao y bản chánh Hán sử chép rằng Bồ Lăng nay là bến Bồ Đề ở ngoại ô thành Thăng Long. Họ cứ nhắm mắt tin vào cái gọi là “chính sử” mà quên đi một điều là các sử gia Hán đã cố tình bóp méo sự thật, lấy tên cũ đặt cho vùng đất mới để xoá nhoà dấu vết của địa danh xưa cũ thời Văn Lang còn trải rộng khắp Hoa Nam. Trong khi đó “Việt chí” và ”Thiên Nam Ngữ lục” là thiên trường ca lịch sử Việt Nam từ đời Hồng Bàng đến đời hậu Trần gồm 8.136 câu viết theo thể lục bát chép rằng:“Hai Bà Trưng sau khi đánh chiếm được 65 thành thì bị đại quân của Mã Viện tiến đánh. Hai Bà chống cự không nổi phải rút lui dần”. Hai Bà không bị Mã Viện chém đầu mang về Lạc Dương như Hậu Hán thư chép và Hai Bà cũng không nhảy xuống tuẫn tiết trên dòng sông Hát mà Hai Bà vẫn tiếp tục chiến đấu như trong “Hậu Hán Thư, Mã Viện truyện” chép lại. Mặt khác trong khi sử Trung Quốc “Hậu Hán thư” chép là Hán Quang Vũ hạ chiếu cho các quận Trường Sa, Hợp Phố, Giao Chỉ sắm sửa thuyền xe, sửa chữa cầu đường, thông miền khe núi, tích trữ lúa gạo từ những năm 40-41 thì thời gian này, Mã Viện còn lo đánh Duy Dĩ ở Hồ Nam và Lý Quảng ở Hoãn Thành tỉnh An Huy TQ bây giờ. Mãi đến năm 42, Mã Viện mới được phong là Phục Ba tướng quân đem hơn vạn quân các quận tiến đánh Hai Bà Trưng. Trong khi sách sử chép rằng trong vòng 1 tháng, Hai Bà Trưng đã đánh chiếm 65 thành trì khắp 6 quận miền Hoa Nam bao gồm Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải thì làm sao có thể huy động được quân của các vùng này như Hậu Hán thư đã chép. Nếu có thì chỉ huy động được hơn một vạn quân sau khi thắng Lý Quảng ở Hoãn Thành An Huy và Duy Dĩ ở Hồ Nam để đánh Hai bà ở Trường Sa và vùng hồ Động Đình mà thôi. Sau 3 năm ráo riết chuẩn bị, Hán triều cử Mã Viện đem đại quân tiến đánh Hai bà. Cuộc chiến diễn ra hết sức ác liệt trên toàn cõi Hoa Nam. Trận chiến cam go ác liệt nhất xảy ra ở vùng Lãng Bạc khi Hai Bà đem quân tấn công quân Hán năm 43, Mã Viện phải rút quân lên vùng đất cao để đóng quân cố thủ. Quân Hán không thích hợp với khí hậu mùa hè phương Nam nên bị dịch bệnh chết nhiều. Tướng giặc Bình Lạc Hầu Hàn Vũ bị bệnh chết, quân sĩ hoang mang dao động. Sợ lâm vào tình thế nguy ngập, Mã Viện lợi dụng quân số đông, lại có thuỷ bộ phối hợp nên y dốc toàn lực liều chết phá vòng vây khiến quân ta bị tổn thất nặng. Hai Bà Trưng phải rút về Cẩm Khê huyện Mê Linh để bảo toàn lực lượng. Trong suốt 2 năm, Mã Viện nhiều lần tấn công nhưng đều thất bại. Cuối cùng theo Hậu Hán thư thì “Mã Viện đem quân đuổi theo Trưng Trắc đến Cẩm Khê, hai bên giao chiến nhiều lần. Mã Viện giết được Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về kinh đô Lạc Dương”. Chúng ta phải xét lại những gì Hậu Hán thư chép vì không những mâu thuẫn với Thông sử dân gian mà còn mâu thuẫn ngay với truyện Lưu Long trong Hậu Hán thư. Truyện Lưu Long, phó soái của Mã Viện lại chép rằng Lưu Long đánh đuổi nghĩa quân đến Cẩm Khê, bắt được Trưng Nhị, chém giết hơn ngàn người, bắt đầu hàng hơn vạn người mà không nói gì đến Trưng Trắc. Hậu Hán thư chép tiếp:“Tháng 11 năm 43, Viện đem lâu thuyền lớn nhỏ hơn 2 ngàn chiếc, chiến sĩ hơn 2 vạn người đánh giặc Đô Dương ở Cửu Chân là dư đảng của Trưng Trắc từ Vô Công đến Cư Phong, chém bắt hơn 5 ngàn người. Lĩnh Nam đều bình định. Viện tâu lên vua rằng Tây Vu có hơn 3 vạn 2 ngàn hộ, vùng xa cách huyện đình hơn ngàn dặm, xin chia làm 2 huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua đồng ý, chỗ Viện đi qua liền vì quận huyện dựng thành quách, đục ngòi tưới tắm để lợi cho dân. Viện điều tấu Việt luật cùng Hán luật sai hơn mười việc. Viện bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc. Tự hậu, Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân. Năm thứ 20 tức năm 44, mùa Thu, Viện thu quân rút về kinh đô. Quân lính trải qua chướng dịch, mười người chết hết 4,5”. Trận chiến ở Cửu Chân diễn ra ác liệt, tướng Đô Dương tử trận. Quận Cửu Chân theo các sách sử Trung Quốc như Thủy Kinh Chú và Thái Bình Hoàn Vũ Ký thì “Ái Châu tức Cửu Chân, phía Nam giáp quận Nhât Nam, phía Tây giáp quận Tường Kha, phía Bắc giáp Ba Thục, phía Đông giáp Uất Lâm” gồm một phần của tỉnh Vân Nam, một phần của tỉnh Quảng Tây TQ bây giờ chứ không phải vùng Thanh Nghệ như sử sách chép từ trước đến giờ… Theo Hán sử thì Mã Viện bắt hơn 300 Cừ Soái giải về Linh Lăng. Các thủ lĩnh còn lại biết không chống nổi trước thế giặc hung hãn nên rút dần về phương Nam để tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Hán xâm lược. Hậu Hán thư chép như thế trong khi “Nam Việt chí” của Thẩm Hoài Viễn lại chép là: “Trưng Trắc chạy vào miền trong thác Kim Khê, hai năm sau mới bắt được”. Sách “Việt Chí” cũng chép là Kim Khê ở phía Tây Nam huyện Mê Linh, như vậy thuộc Trường Sa, Hồ Nam TQ trong khi sách Thuỷ Kinh chú lại chép là Cấm Khê. Hậu Hán Thư chép là Mã Viện tâu lên vua Hán là Lĩnh Nam đã bình định. Như vậy là vùng Lĩnh Nam tức phiá Nam rặng núi Ngũ Lĩnh ở bên Trung Quốc chứ không phải ở phần lãnh thổ Việt Nam sau này như các sử gia thời trước đã hiểu sai. Đặc biệt “Viện điều tấu Việt luật cùng Hán luật sai hơn mười việc. Viện bèn cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc. Tự hậu, Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân”. Điều này chứng tỏ nước ta lúc đó còn độc lập tự chủ và xã hội Việt đã văn minh đã thể chế hóa luật Việt hẳn hòi chứ không phải “Man Di mọi rợ” như Hán sử bôi bác xuyên tạc, đồng thời chính Mã Viện phải thương lượng tôn trọng phong tục tập quán cũ của người Việt mà sách sử chép là “cùng người Việt nói rõ chế độ cũ để ước thúc, sau đó “Lạc Việt vâng làm việc cũ của Mã tướng quân !!!”. Thông sử dân gian được chép trong “Thiên Nam Ngữ lục” thì Hai Bà Trưng rút xuống vùng Vân Nam và lập căn cứ ở nước Nam Chiếu. Về sau Hai Bà bệnh mà chết. Con cháu và các Lạc Hầu Lạc Tướng dẫn dân quân lui xuống phương Nam tiếp tục mở đất từ Tứ Xuyên xuống Việt Tây tức Quảng Tây bây giờ rồi tràn xuống phương Nam dọc theo dãy Trường Sơn thành lập các vương quốc Champa và Phù Nam sau này. Cũng theo Thông sử dân gian thì sau khi quốc gia Nam Việt mất vào tay Hán tộc, con cháu họ Triệu và quân dân Nam Việt theo đường biển từ La Phù, Hợp Phố, ra Chu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) rồi về tới Đồ Sơn. Tiếng địa phương của chi Âu Việt gọi vua là “Chiếu” nên Nam Chiếu có thể hiểu là vua nước Nam. Họ xưng là dân nước Nam Chiếu nên thực hiện chiếu chỉ của vua Nam chống Hán tộc, trong trận thuỷ chiến họ đã giết được viên Thú lệnh của Hán triều. Một số khác trôi dạt ra đảo Hải Nam mà sử sách xưa chép là Hán triều chia ra làm 2 quận Chu Nhai và Đạm Nhĩ. Theo các công trình nghiên cứu thì dân địa phương trên đảo là người Việt cổ chi tộc Lê nên gọi là Lạc Lê, ngôn ngữ thuộc họ Hán Tạng. Chính vì thế mà quân dân Nam Việt dễ dàng hội nhập vì cùng một nguồn cội. Họ cùng nhau tiếp tục kháng chiến chống quân Hán xâm lược nên năm 81 TDL, Hán triều phải bỏ Đạm Nhĩ rồi đến năm 46 TDL, Hán triều lại phải bỏ Chu Nhai vì chịu thiệt hại nặng nề. Hán sử chép lại sự kiện phải bỏ đảo Hải Nam bằng cách bao biện cho việc rút quân của chúng một cách khôi hài láo xược. Giả Quyên Chi tâu lên vua xin bỏ cuộc chinh phục vì “ dân Lạc Việt ở Chu Nhai vốn còn man rợ, không khác loài cầm thú, cha con tắm cùng sông, quen uống nước bằng mũi nên không đáng để đặt đất này thành quận huyện ..!”. (6) Thần tích làng Hạ Lôi ở Cẩm Khê Mê Linh chép là Bà Trưng Nhị tử trận còn Trưng Trắc chạy lên núi My Sơn rồi hoá. Tương truyền Hai Bà xây thành giống tổ kén nên gọi là Kiển thành ở vùng Tư Minh, Vân Nam Trung Quốc bây giờ. Theo thông sử dân gian truyền tụng thì ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Mão tức năm 43, sau khi dốc toàn lực quyết chiến với quân thù, hai Bà sức cùng lực tận đã gieo mình xuống dòng sông Hát (Hát Giang) tuẫn tiết để giữ tròn khí tiết của bậc anh thư nước Việt. Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca chép: Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo, Chị em thất thế phải liều với sông ..! Sách “Thái Bình Hoàn vũ ký” gọi sông Hát là sông Chu Diên và “Dư Địa chí” của Nguyễn Trãi cũng chép:“Ở sông Hát có cá Anh Vũ bơi lội tới sông Giang Hán (Dương Tử giang và Hán thuỷ) vì cây Chiên Đàn ở sông Hát cao cả nghìn trượng, rễ lâu năm, gốc dài bám liền tới sông Trường Giang (Dương Tử giang) và sông Hán. Cá Anh Vũ bơi lội thông thương trong hốc đất vì thế ở Hoàng Hạc Lâu có Anh Vũ châu …”. Như vậy, sông Hát ở đây là ở hạ lưu sông Dương Tử khác với sông Hát sau này ở Bắc Việt nay là Ngã ba Hạc, mà theo tương truyền cá Anh Vũ cũng có tại Hoa Lư là gốc rễ Chiên Đàn nói trong truyện Mộc Tinh trong Lĩnh Nam Trích quái. SỐ PHẬN MÃ VIỆN VÀ CỘT ĐỒNG HUYỀNTHOẠI Mã Viện không chỉ là một danh tướng Hán chuyên đem quân đi xâm lược để bành trướng đế chế Đại Hán, mà y còn là tên quan thống trị hết sức thâm độc. Để dập tắt mầm mống chống đối, Mã Viện đã vô hiệu hoá mọi phương tiện truyền đạt hiệu lệnh khởi nghĩa của các Lạc Hầu Lạc Tướng Việt, đồng thời triệt tiêu trống đồng là vật biểu trưng cho nền văn minh Việt và cũng là biểu tượng quyền uy của giới lãnh đạo thời Hùng Vương. Mã Viện ra lệnh tịch thu tất cả trống đồng của Lạc Việt để đúc “ngựa thép” để dâng lên vua Hán. Sách “Hậu Hán thư” chép: “Viện ưa cưỡi ngựa hay có tiếng nên khi ở Giao Chỉ, lấy được trống đồng Lạc Việt bèn đúc ngựa thép về dâng vua”. Vấn đề không đơn giản như Hậu Hán thư chép vì trống đồng không chỉ là nhạc cụ truyền thống dùng trong các lễ hội mà trống đồng còn là biểu tượng quyền uy tuyệt đối của các Lạc Hầu, Lạc Tướng thủ lĩnh quân trưởng của địa phương nữa. Tiếng trống đồng là hiệu lệnh tập hợp của các thủ lĩnh Quân trưởng Việt. Mỗi khi nghe tiếng trống, người người kéo đến như mây. Chính vì vậy, việc làm của Mã Viện là chủ trương trước sau như một của đế chế Đại Hán bành trướng từ Mã Viện đời Hán đến Gia Cát Lượng đời Tam Quốc, Âu Dương Ngụy đời Lục triều và Lưu Hiển đời Minh. Thời nào Hán tộc cũng tìm cách tịch thu phá huỷ trống đồng Việt cổ, tịch thu tiêu hủy toàn bộ sách sử của nước ta nhằm hủy diệt mầm mống ý chí chống giặc thù của tộc Việt. Tuy thắng được Hai Bà Trưng nhưng theo Hậu Hán thừ thì quân số đi mười lúc về chết vì dịch bệnh chỉ còn bốn, năm. Hán thư chép xuyên tạc như vậy vì cho rằng quân Hán chỉ chết vì dịch bệnh chứ không phải chết trận. Nếu tính cả số thương vong thì lúc về chỉ còn 1,2 là nhiều chứ đừng nói tới việc để lại bọn mà sách sử Hán gọi là “Mã lưu”. Trước tình trạng quân Hán ngày một chết nhiều vì thương vong và dịch bệnh khiến giặc bị tiêu hao thiệt hại nặng nề nên Mã Viện nại cớ “Thuỷ thổ Giao Chỉ hơi độc bốc lên đến nỗi chim đang bay trên trời cũng phải rũ cánh sa xuống đất mà chết …” để rút quân về. Nhận được sớ của Mã Viện, năm 44 vua Hán hạ chiếu cho Viện rút quân về. Trước khi về nước, Mã Viện cho dựng một cột trụ bằng đồng làm ranh giới cuối cùng Hán Việt. Trên trụ đồng, Mã Viện cho khắc 6 chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” như để răn đe là nếu cột trụ đổ thì Giao Chỉ sẽ bị tiêu diệt. Sách sử cổ TQ chép về “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” không rõ ràng. Theo Đào Duy Anh thì Hậu Hán Thư, Mã Viện truyện không hề đề cập tới việc Mã Viện dựng cột đồng. Sách Hậu Hán ký cũng không nói gì đến việc này. Phải đến cuốn Ngô lục của Trương Bột viết vào thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên mới có chép đến cột đồng, nhưng tại vùng Quảng Nam của ta hiện nay chứ không phải bên châu Khâm. Theo “Man thư” (7) đời Đường thì vị trí của cột đồng Mã Viện tại huyện An Ninh tỉnh Vân Nam trong khi Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Tống chép cột đồng đặt tại động Cổ Sâm thuộc Khâm châu. Sử thần Ngô Sĩ Liên trong bộ “Đại Việt Sử ký Toàn thư” đã viết về cột trụ đồng như sau: “Mã Viện đuổi theo đánh các tàn quân là Bà Đô Dương. Tới huyện Cư Phong tất thảy đầu hàng. Viện bèn lập trụ đồng ghi bờ cõi tận cùng của Hán. Đồng trụ tương truyền ở trên động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu. Viện có lời nguyền rằng “Đồng trụ bị gãy thì Giao Châu sẽ bị diệt”. Người nước ta đi qua bên dưới thường lấy đá đắp thêm vào, sau thành ngọn núi. Ấy là vì sợ nó gãy! Mã Thống An Nam Đô hộ đời Đường lại dựng hai đồng trụ ở chỗ cũ đời Hán, ghi công đức Mã Viện để tỏ mình là dòng dõi Phục Ba”.(8) Nhà bác học Lê Quí Đôn trong “Vân Đài Loại ngữ” đã viết: “Gọi là phân mao cỏ rẽ vì núi cỏ mọc rẽ làm hai, phía Tây Phân Mao lĩnh là Khâm Châu (Trung Quốc), lưng chừng có cột đồng trụ lớn hơn 2 thước. Có lẽ là cột đồng do Mã Thống đời Đường dựng mà tương truyền đây là cột trụ đồng của Mã Viện”. Cho đến nay một số sách sử vẫn chép là có trụ đồng ở Phân Mao Lĩnh do Mã Viện trồng ở động Cổ Lâu thuộc Hồ Nam, phía Tây Phân Mao lĩnh thuộc Khâm Châu. Năm 751, viên quan Đô hộ Hà Lý Quang sau khi đánh Nam Chiếu ở Vân Nam đã dựng lại cột đồng ở chỗ cũ.. Sách sử xưa chép rằng Giao Chỉ thời Chu là Lạc Việt nước Sở vì theo Hậu Hán thư thì khi triều Chu suy, Sở hùng cường xưng Bá thì Bách Việt triều cống Sở nên thời kỳ này không thấy sử sách nhắc gì tời Giao Chỉ là như vậy. Giao Chỉ cuối thời Chiến quốc ở phía Nam nước Sở, đến thời Tần năm 214 TDL, Tần cướp đất Dương Việt lập ra 3 quận Quế Lâm (gồm phía Bắc và Đông Việt Tây tức Quảng Tây, Nam Hải (nguyên là Việt Đông sau này đổi là Quảng Đông và Tượng quận là vùng đất gồm phía Tây Việt Tây và Nam Quí Châu. Đến thời Hán Vũ Đế đánh chiếm Nam Việt thì quận Cửu Chân là vùng đệ tam lĩnh của Ngũ Lĩnh là dãy Đô Bàng ở Cửu Chân. Sang đến thời Tây Hán thì Bách Việt làm chủ lại địa bàn cư trú xưa cũ, Hán sử chép rằng mãi đến năm 29 thời Đông Hán thì các quan châu mục mới sai sứ sang cống, điều này có nghĩa là Hán triều chỉ tồn tại trên danh nghĩa mà thôi. Năm 43, sau khi thắng Hai Bà thì Mã Viện nếu có dựng trụ đồng thì chỉ dựng ở biên giới cực Nam của Trung quốc ở động Cổ Lâu phía Tây Phân Mao Lĩnh thì biên giới phía Nam Trung quốc mới tới vùng này là Hồ Nam. Chính vì vậy dân gian mới đặt tên là Phân Mao Lĩnh, nơi cỏ mọc rẽ sang hướng Bắc và rẽ sang phương Nam như một biên giới tự nhiên là như vậy. Một sự thật là các sử quan Hán tộc không phải là không phải là không phân biệt giữa khái niệm địa danh mà họ cố tình mập mờ đánh lận con đen, đem tên vùng này đặt cho vùng khác để xoá nhoà ký ức dân tộc về nước Việt Thường, Xích Qui rồi Văn Lang xa xưa của Việt tộc. Chính vì vậy các sử gia nước ta từ trước đến nay bị sa vào trận địa hoả mù của Hán tộc. Họ cứ cho rằng cột trụ đồng ở biên giới phía Nam của Lâm Ấp về sau này. Thực ra Lâm Ấp là tên của một chi tộc Việt bao gồm Lâm + Ấp + Môn + Điền (Việt) ở Nam Trung Quốc (Hoa Nam). Chi tộc này về sau xuôi Nam thành lập vương quốc Lin-Y phiên âm sang Hán Việt là Lâm Ấp trải dài từ rặng núi Hoa sơn ở Việt Tây dọc theo Trường Sơn đổ xuống Nam tới tận ven biển Trung Việt. Chính sách “Khâm Định Việt sử” của triều Nguyễn chép rõ là: “Lâm Ấp xưa thuộc nước Việt Thường, trải qua thời kỳ Tần xâm lược thì có tên là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận là phần đất giữa Vân Nam, Quí Châu và Quảng Tây. Đến đời Hán mới đặt tên cho vùng Hà Tĩnh là huyện Tượng Lâm thuộc quân Nhật Nam. Khi Khu Liên khởi nghĩa thành công mới đặt tên nước là Lâm Ấp. Về sau, Phạm Hùng là dòng họ ngoại làm vua truyền tiếp nhiều đời. Lâm Ấp còn có những tên khác như Hồ Tôn, Hoàn Vương, Chiêm Thành”. Một sự thật cần phải ghi nhận là sách “Hậu Hán Thư”, bộ sử chính thức của Hán tộc không chép gì về cột đồng Mã Viện. Hậu Hán Thư trong chương nói về tiểu sử của Mã Viện không hề nhắc đến việc Mã Viện cho dựng những cây trụ đồng ở nước ta. Sự thật lịch sử này đã góp phần làm sáng tỏ cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng xảy ra ở Hoa Nam Trung Quốc chứ không phải ở Bắc Việt Nam như chúng ta hiểu từ trước tới nay. Mãi đến thế kỷ thứ tư, một loạt sách sử Trung Quốc chép gần giống nhau như sách “Thông Điển” của Đỗ Hựu đời Đường viết: “Phía Nam Lâm Ấp đường thuỷ đường bộ qua 2 nghìn dặm đến Tây Đồ Di là nơi Mã Viện đặt đồng trụ để nêu bờ cõi”. Sách “Tân Đường thư” cũng chép: “Lâm Ấp có châu Bôn Đà Lăng. Bãi lớn phía Nam có 5 đồng trụ do Mã Viện đời Hán trồng. Hình núi như chiếc tàn nghiêng. Phía Tây là là mấy trùng núi, phía Đông là biển cả”. Sách “Thái Bình Hoàn vũ ký” chép: “Mã Viện đánh Lâm Ấp. Từ Nhật Nam đi hơn bốn trăm dặm có nước Tây Đồ Di. Viện đến nước ấy lập 2 đồng trụ ở chỗ biên giới Tượng Lâm giáp với Tây Đồ Di. Đường thủy thì đi từ Nam Hải hơn 3 nghìn dặm tới Lâm Ấp, năm nghìn dặm tới đồng trụ của Giao Châu”. Lịch Đạo Nguyên là một người đã từng làm quan ở nước ta đã biết rõ là trụ đồng không có thật nên tác giả Thủy Kinh Chú viết là “Núi sông dời đổi. Đồng trụ đã chìm vào sông biển ..!”. Đây là một sự hư cấu phục vụ cho chủ trương xâm lược bành trướng của “Đại Hán” mà thôi vì nếu cột đồng Mã Viện có thật thì nó phải ở Khâm Châu vì vào thời điểm đó, bên giới phía Nam của Trung Quốc chỉ tới đó. Sau này, vị trí của cột đồng Mã Viện được sách sử Trung Quốc dời về cực Nam theo thời gian để phù hợp với sử quan Hán tộc. Nhà Hán học nổi tiếng Henri Maspéro trong phần biên khảo về cuộc viễn chinh của Mã Viện đã không hề nhắc đến những cây cột đồng Mã Viện mà cũng chẳng có lời phủ nhận về sự hiện hữu của chúng. Trên thực tế, vấn đề cột đồng được Trung Quốc sử dụng như một vũ khí ngoại giao mỗi khi Trung Quốc muốn tạo cớ để xâm lấn hay xách nhiễu. Nó được viện dẫn như một cái cớ về việc tranh giành đất đai và “khôi phục” lãnh thổ cũ đời Hán xâm lấn.(9) Cho đến ngày nay, dân gian Việt vẫn xem cột đồng như có thật cũng như thi vị hoá truyện danh tướng Thi bị quân giặc giết chết nên Trưng Trắc phải trả thù chồng. Khi thế cùng lực tận, Bà Trưng đã nhảy xuống dòng sông Hát để đền nợ nước nên hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam sống mãi trong lòng dân tộc. Chính Hán sử còn ghi rõ là trong ngày vui chiến thắng của quân Hán, mùa xuân năm 43 chính viên danh tướng này hú hồn vừa thoát chết trở về đã ngao ngán thốt lên rằng: “Tùng đệ ta là Thiếu Du thương ta khẳng khái nhiều chí lớn, thường nói với ta là Kẻ sĩ sống một đời chỉ mong áo cơm vừa đủ, cỡi xe qua trằm đi ngưa nước kiệu, làm Duyên Lại quận, giữ mồ mả, làng xóm khen là người tốt. Đó là được rồi, chứ mong cầu dư dả, chỉ tự mình làm khổ mình thôi ..! Khi ta còn ở vùng Lãng Bạc Tây Lý, giặc chưa diệt xong, dưới lầy trên mù, khí độc ngun ngút, ngửng trông diều bay, sà sà rơi xuống nước. Nằm nghĩ lại lời của Thiếu Du lúc bình sinh sao mà thấy đúng quá ! Nay nhờ sức Sỹ Đại phu, được ban ơn lớn, đứng trước các ông, giữ ấn vàng mang đai tía, lòng không khỏi vừa mừng vừa thẹn ..!”. Trước khi xuất quân, Mã Viện biết rằng đi đánh Giao Chỉ là việc hiểm nguy không biết sống chết ra sao nhưng may mắn lại thắng trận trở về. Bà con họ hàng ra nghênh đón trong đó có người tên là Hư Ký ca tụng và ủy lạo công lao cực khổ của Mã Viện, thì viên tướng này lại giương giương tự đắc nói rằng “Làm trai nên chết ở chiến trường, da ngựa bọc thây, đem về quê chôn cất, chứ ai lại ngủ chết trên giuờng để cho con cái đem chôn”. (10) Về đến kinh đô còn chưa kịp hoàn hồn sau mấy năm trời chinh chiến thì 7 năm sau lại nhận được lệnh đi đánh dẹp “Mọi Năm khe” là vùng đất bộ lạc người Mèo (Chi Hmong-Mien của Bách Việt) là Tương Tây và Nguyên Lăng thì tinh thần đã suy xụp, sức khỏe suy kiệt rồi lâm trọng bệnh mà chết trên đường hành quân. Sau khi chết, Mã Viện lại bị buộc tội là phải chịu trách nhiệm vì không có khả năng chống lại bệnh dịch hoành hành truyền nhiễm khiến quân sĩ chết rất nhiều vì Mã Viện ra lệnh hành quân chống lại các bộ lạc Ô Hoàn và quan trọng hơn là đã chở ngọc trai và sừng tê giác về nhà mà không trình lên triều đình. Vua Hán Quang Vũ đã tin vào các cáo buộc này và đã tước đi thái ấp cũng như tước hầu của Mã Viện. Vợ con không dám đem thi hài đi chôn, bạn bè thân thuộc cũng không dám đi cúng điếu! Về sau, Hán Chương Đế mới truy tặng ông tước Trung Thành hầu (11) Tự ngàn xưa và mãi mãi ngàn sau, Việt tộc vẫn tự hào về chiến công hiển hách của Hai Bà Trưng, bậc anh thư Liệt nữ của nước Việt. Hai Bà đã chiến đấu kiên cường để tiếp nối nghiệp xưa của vua Hùng, kéo dài thêm thời kỳ tự chủ của dân tộc ta thêm được 4 năm nữa để rồi Việt tộc bước vào thời kỳ vong quốc. Với niềm tự hào dân tộc, không một người Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng trang sử oanh liệt của Hai Bà Trưng được ghi trong “Đại Nam Quốc sử Diễn ca” ngay từ thời tấm bé: Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận quân hung bạo thù chồng chẳng quên … Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ Nương tử thay quyền tướng quân … Ngàn Tây nổi áng phong trần, Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên … Hồng quần nhẹ bước chinh yên, Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thuỳ … Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta ..! Hai Bà Trưng được nhân dân cả nước sùng kính tôn thờ trên khắp các tỉnh thành. Hiện ở xã Hát Môn, huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây và nhiều nơi khác lập đền thờ Hai Bà. Nhân dân các tỉnh Hà Bắc, Vĩnh Phú còn lập đền thờ 35 vị nữ tướng đã cùng Hai Bà lãnh đạo cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Ngày mồng 6 tháng 2 hàng năm, nhân dân khắp nơi đổ về dự lễ hội Hai bà đông như trẩy hội. Không những đồng bào trong nước mà cả những đồng bào người Trung Quốc gốc Việt ở Hoa Nam, mặc dù đã bị Hán tộc thống trị cả ngàn năm vẫn còn giữ nhiều truyền thuyết về tiền nhân đã tham dự cuộc khởi nghĩa của Hai bà. Hiện ở vùng Ngũ Lĩnh gần hồ Động Đình vẫn còn địa danh “Động phủ Trưng Trắc” và ở Phiên Ngung, thủ đô của nước Nam Việt cũng có đền thờ Đức Trưng Nữ Vương cùng với những đền thờ, miếu thờ các anh hùng liệt nữ đã vì nước hy sinh. Nhân dân các tỉnh vùng Hoa Nam Trung quốc vẫn tôn kính thờ phượng vị anh thư liệt nữ Trưng Trắc mãi tới ngày nay như một tín ngưỡng dân gian gọi là đạo thờ “Vua Bà”.(12) Ngô Thì Nhậm khi đi sứ sang Tàu đã ngậm ngùi xúc động trước tinh thần cao cả của đồng bào ta tại Trung nguyên, dù bị thống trị cả mấy ngàn năm tuy buộc phải giống như người Hán “đồng” nhưng vẫn không bao giờ “hoá” thành người Tàu được. Đứng trước Động phủ Trưng Trắc ở hồ Động Đình, Ngô Thời Nhậm đã cảm khái: Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ, Uý Đà mọt quế động hang sâu … Đặng Minh Khiêm, cháu 4 đời của Đặng Dung là một nho sĩ yêu nước vào thế kỷ XV đã tôn vinh bậc Nữ lưu của dân tộc qua bốn câu thơ bất hủ: Vương hầu văn võ thảy đều Hùng, Mười tám chi vua hiệu vẫn chung … Đời trải hơn nghìn con cháu tiếp, Trưng Vương còn giữ nếp Tiên Rồng ..! Lịch sử danh nhân Việt Nam nói riêng và cả nhân loại nói chung, không có bậc nữ lưu nào có thể sánh ngang với Hai Bà Trưng. Lời hịch xuất quân của Bà Trưng gần 2 ngàn năm về trước đã thể hiện cao độ lòng yêu nước thương nòi kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của tiền nhân cùng với tình thuỷ chung chồng vợ của đạo lý Việt Nam được dân gian thi vị hóa: Một xin rửa sạch thù nhà, Hai xin nối lại nghiệp xưa vua Hùng … Ba kẻo oan ức lòng chồng, Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này ..! Sử gia Lê văn Hưu đời Trần trong “Đại Việt Sử ký” chép: “Trưng Trắc Trưng Nhị là phụ nữ, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và sáu mươi lăm thành trì ở Lĩnh ngoại đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, đủ biết là hình thế đất Việt ta có thể dựng cơ nghiệp Bá vương ! Tiếc thay trong khoảng hơn nghìn năm từ sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, bọn đàn ông con trai đành chỉ cúi đầu, bó tay làm tôi tớ cho Tàu chẳng hề xấu hổ với Hai Bà Trưng là phận nữ nhi .. Thương ôi ..!”. Từ nợ nước đến thù nhà, biểu trưng tuyệt vời của lòng yêu nước hòa quyện với tiết nghĩa thủy chung của người phụ nữ Việt Nam đã được nữ sĩ Ngân Giang diễn tả qua tâm trạng của Trưng Trắc: Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa, Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi … Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá, Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ loi ..! Sau khi Hán tộc xâm lược, Nam Việt tiêu vong năm 111 TDL và sau khi Hai Bà Trưng thất bại năm 43, một lần nữa quân dân Nam Việt phải rời bỏ Giao Chỉ bộ là phần đất cuối cùng ở Hoa Nam để xuống phương Nam. Các chi tộc trong Bách Việt ở Hoa Nam đã hội nhập với cộng đồng Bách Việt định cư từ lâu trên phần đất Việt Nam hiện nay. Tất cả đã tạo thành một sức mạnh tổng lực như một bức tường thành bất khả xâm phạm ngăn chặn Hán tộc xâm lược để Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay. Với lòng yêu nước thương nòi và tấm lòng trung trinh tiết liệt thanh cao vời vợi của người phụ nữ Việt Nam, Hai Bà đã biểu trưng cho khí phách anh hùng của bậc nữ lưu. Giá trị tinh thần này không chỉ riêng cho Việt Nam mà còn là di sản văn hoá của cả nhân loại nữa. CHÚ THÍCH. 1. Sự thật lịch sử này đánh tan luận điệu tuyên truyền của Hán tộc là Bà Trưng khởi nghĩa vì Thaí thú Tô Định tham lam tàn bạo và vì thù chồng mới nổi lên chống Hán. Chính lòng yêu nước đã thúc đẩy hai vợ chồng Trưng Trắc đứng lên giết giặc cứu nước, sau khi chồng bà bị giết thì thêm mối thù nhà để “vua Bà” làm nên lịch sử và cũng từ đó ý niệm “nước mất nhà tan, nợ nước thù nhà” thấm đậm trong ngôn ngữ văn chương dân gian Việt. Đọc lại đoạn sử xưa chúng ta không khỏi ngậm ngùi xen lẫn phần hãnh diện vì không có dân tộc nào gắn liền lòng yêu nước với tình thương nòi giống như dân tộc Việt. Trải dài suốt dòng lịch sử, trước một kẻ thù Hán tộc xâm lược tàn bạo gây bao cảnh tang tóc thương đau cho dân Việt nên hơn bất cứ dân tộc nào khác, người dân Việt thấm thía cảnh “Nước mất nhà tan ..!” để từ đó ý niệm quốc gia là nước nhà hình thành hòa quyện làm một “Gene yêu nước” truyền thống Việt tự xa xưa. Từ trước đến nay, sử sách Việt đều ghi là Thi Sách duy chi có sách Thủy Kinh Chú chép chỉ chép là Thi. Theo công trình nghiên cứu gần đây thì nguyên đoạn văn chép trong Hậu Hán thư như sau: “Chu Diên Lạc tướng tử danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê, Trắc vi nhân hữu đảm dũng tương Thi khí tặc, Mã Viện tương binh phạt, Trắc Thi tẩu nhập Kim Khê”. Sách chữ Hán không có chấm phết, nên chữ sách có nghĩa là hỏi (vợ). Nếu sách là tên riêng như Trắc thì câu sau phải viết là: ..Trắc Sách tẩu nhập Kim Khê, vì không lẽ tên riêng cho vợ (Trắc) rồi lại viết họ Thi của chồng thì hoàn toàn không ổn. Do đó, chồng của Trưng Trắc là Thi mới đúng chứ không phải là Thi Sách như sách sử vẫn viết từ trước đến giờ. 2. Hậu Hán thư chép: “Năm đầu hiệu Kiến Vũ, Nhâm Diên được triệu làm Thái thú Cửu Chân. Tục Cửu Chân không biết cày cấy, thường đong thóc ở Giao Chỉ và thường bị túng thiếu. Diên bèn sai đúc các đồ làm ruộng, dạy cho khai khẩn. Mỗi năm ruộng mở rộng thêm, trăm họ được no đủ. Dân Lạc Việt lại không có lễ phép cưới hỏi, không có giá thú, dâm háo, không rước đón mà vẫn đến với nhau. Không biết tình cha con, đạo vợ chồng. Diên bèn gửi thư đến các thuộc huyện, khiến trai từ 20 đến 50, gái từ 15 đến 40 đều lấy tuổi mình mà lấy nhau. Kẻ nghèo không có lễ rước thì ra lệnh cho Trưởng Lại trở xuống, mỗi người bớt bổng lộc để giúp đỡ họ. Lấy nhau cùng một lúc là hơn 2 ngàn người. Năm ấy mưa thuận gió hòa, lúa đậu được mùa. Họ sinh con mới biết dòng giống họ hàng, đều nói “Khiến ta có con này đều do Nhâm quân nên phần nhiều đặt tên con là Nhâm. Do thế, mọi rợ ngoài biên Dạ Lang mộ nghĩa giữ ải. Diên bèn ngưng bỏ do thám đóng quân…”. Đọc lại những gì mà Hậu Hán thư chép chúng ta thấy rõ hơn về cái gọi là Hán sử là chính sử (sic) mà các sử gia từ trước tới nay cứ sao chép một cách vô thức. Trước hết, theo Hậu Hán Thư thì Nhâm Diên mới được cử làm Thái thú Cửu Chân năm 29, nếu Nhâm Diên có nhiều công trạng như vậy thì tại sao đến năm 32 triều đình lại bãi chức Thái Thú của y. Những gì Hậu Hán Thư viết bôi bác xuyên tạc về dân Lạc Việt là man di mọi rợ chính là để biện minh cho chủ trương khai hoá của “thiên triều Đại Hán” văn minh tiến bộ trong khi chính Hán Hiến Đế (190-220) đã tuyên dương Giao Chỉ như sau: “Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất”. Trước đây, chúng ta cho là Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân là phần đất Thanh nghệ VN nhưng chính Hậu Hán Thư đã xác nhận sự thật lịch sử là Cửu Chân lúc đó còn nằm ở phần đất Dạ Lang cao nguyên Quí Châu Ba Thục. Khảo cổ học đã tìm được những lưỡi cày đồng ở phần đất Thanh Hóa Nghệ An thuộc quận Cửu Chân sau này, di chỉ khảo cổ trên chứng tỏ người Cửu Chân đã biết cày cấy từ lâu chứ không phải nhờ Nhâm Diên mới biết cày bừa. 3. Đại Nam Quốc sử Diễn ca của Phạm đình Toái và Lê Ngô Cát xác định Mê Linh ở Trường Sa, Hồ Nam nên mới viết là Lĩnh Nam là từ rặng Ngũ Lĩnh trở về Namphía Nam sông Dương Tử tức là vùng Hoa Nam. Như vậy cuộc kháng chiến diễn ra trong cả nước Văn Lang xưa của Việt tộc. Quê hương của Bà Trưng ở Hồ Nam nguyên là phần đất của nước Văn Lang xưa. Mười tám chi Hùng Vương truyền thừa đến An Dương Vương lập nước Âu Lạc rồi tới Triệu Đà lập nước Nam Việt. Sau khi Hán Vũ Đế thôn tính Nam Việt năm 111 TDL, mặc dù đã chia quận huyện trên giấy tờ nhưng đến thời hai Bà Trưng phần đất này, Hán tộc vẫn chưa kiểm soát được. Đặc biệt là thời đại Hùng Vương đã được chính sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên ghi rõ trong bộ Sử Ký. Sự thật lịch sử này đã đượcWilliam Watson trong tác phẩm "Cultural Frontiers in Ancient East Asia" viết về những đồ vật đào lên tại Liu-ch'êng-ch'iao Trường Sa thuộc tỉnh Hồ Nam trong đó có một cái qua (cây dáo)” còn nguyên vẹn có khắc tên một vị vua tên là Nhược Ngao. Sử Ký Tư Mã Thiên và Xuân Thu Tả Truyện viết rõ là vị vua có hiệu là Nhược Ngao là vị vua Hùng thứ 14 tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị vào năm 789 trước Tây Lịch. Điều này chứng tỏ thời đại Hùng Vương là có thật trong lịch sử và sự kiện lịch sử Hai Bà Trưng chống quân Hán xâm lược để khôi phục cơ đồ họ Hùng là một sự thật lịch sử. 4. Tại vùng Hồ Động Đình và thủ phủ Trường Sa của tỉnh Hồ Nam, cho đến ngày nay người dân địa phương vẫn còn nhắc nhở trận đánh lẫy lừng của Nữ tướng Phật Nguyệt và đền thờ Ngài. Ngay cửa Thẩm Giang chảy vào Hồ Động Đình, còn miếu thờ Nữ tướng Trần Thiếu Lan, và cả ngàn năm qua, cứ mỗi lần sứ thần nước ta đi ngang qua là đều vào tế lễ Ngài. Hiện nay cũng còn có ngôi mộ tên Ngài. Ngoài ra còn có nhiều di tích của các trận đánh lớn, như trận chiếm giữ thủ phủ Trường Sa của Hồ Nam; trận đánh kinh hồn của Nữ tướng Phật Nguyệt đã chiến thắng Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí ở Hồ Động Đình; trận thủy chiến lẫy lừng của Nữ tướng Trần Quốc ở Uất Lâm; trận đánh thần kỳ của Vĩnh Hoa Công Chúa, dẹp tan Đại tướng giặc Ngô Hán ở Độ Khẩu, Vân Nam, Khúc Giang, Hải Nam… Tất cả đều chứng tỏ binh lực của Đức Trưng Nữ Vương đã tung hoành khắp vùng Lĩnh Nam, và đã có lúc Đức Trưng Nữ Vương xưng danh Hoàng Đế toàn thể Lĩnh Nam. 5. Hiện ở ngã ba sông Ô giang và Trường giang có bến Bồ Lăng, ở đó có miếu thờ 3 vị thần họ Đào. Ngay trước miếu có đôi câu đối ca tụng công lao của 3 vị tướng họ Đào đã khẳng khái theo phò vua Bà, dù không đánh đuổi được quân thù nhưng thời của “Người” không lâu nên đau lòng phải tự tận, khí tiết thanh cao vút chín tầng mây: “Khẳng khái phò Trưng thời bất lợi, Đoạn trường trục Định tiết can vân !”. Bên trong miếu thờ có đôi câu đối: “Giang thượng tam anh phù nữ chúa, Bồ Lăng Bách tộc khấp trung thần ..!”Sông Trường giang, tam anh phò nữ chúa Bến Bồ Lăng trăm họ khóc trung thần ..! 6. Hải Nam: Diện tích 33.940 km2, dân số 7.870.000 người tromh đó có thổ dân sắc tộc Lý (1 triệu người), Miêu 50 ngàn ngườiKhu Tự trị ở miền Trung và miền Nam của đảo gồm 5 quận dành cho người Lý, 2 quận chung cho người Lý và Miêu, 4 thị trấn của người họ Lý, 1 Thị trấn chung cho người Lý và Miêu. Vũ hữu San Sđd tr 70. Đại Việt Sử lược đã bị Tiền Hy Tộ sửa đổi chép: “Đời Linh Đế nhà Đông Hán 184, người trong châu họp binh đánh Thứ sử. Vua Linh Đế dùng Giả Tôn làm thứ sử. Giả Tôn đến vỗ về hoà hợp được lòng người, cõi Giao Châu trở về yên ổn. Trăm họ ca ngợi rằng: Cha Giả đến muộn màng, khiến ta trước đánh càn. Thanh bình nay đã thấy, nào dám phản cho đang !?” Trong lịch sử chẳng có tên thái thú nào mà chẳng tàn bạo tham lam bóc lột dân ta và dĩ nhiên, chẳng bao giờ dân bị trị lại đi ca tụng một tên Thái thú cai trị là “cha”!!! Đây chỉ là sự bịa đặt của những tên Thái thú để tự tâng bốc công trạng của họ với triều đình cũng như các sử gia chính thống Hán tộc thêm thắt tô điểm cho “Thiên triều” mà thôi. Lời tâu của Giả Quyên Chi là luận điệu của các tên Thứ Sử, Thái Thú của Hán tộc xâm lược tự nhận là văn minh nên miệt thị dân ta “người dân như cầm thú, đời sống xã hội không biết lớn nhỏ … không có lễ phép cưới hỏi, nền kinh tế không biết cày bừa, lấy săn bắn làm nghề sinh sống”. Mặt khác, nó biểu lộ một thái độ hằn học trước sự chống cự ngoan cường của một dân tộc khát khao tự do đối với Đại Hán bành trướng. 7. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ, q. III, bản dịch Nhượng Tống (Hà Nội: Tân Việt, 1944 chép là dân ta đi ngang ném đá vào vì sợ cột đồng gãy chỉ đúng phần nào vì sợ lời nguyền “Giao Chỉ diệt!” nhưng mặt khác đó chính là biểu lộ lòng yêu nước muốn ném đá vào để lấp đi cái chứng tích của Mã Viện nên ngày nay không còn dấu vết của cột đồng nữa. 8. Man Thư là sách sử của người Man. Trước đây chúng ta cho rằng Hán tộc gọi tộc Việt là Man, man di mọi rợ nhưng công trình nghiên cứu của nhà ngôn ngữ Nguyễn Hy Vọng trích dẫn sách La Civilization de los Origenenes Los hombres de la historia. BuenosAires, Abril de 1977/ Centro editor de Am érica Latina, SA/ Junin 981-Bunos Aires cho chúng ta biết rằng hai chữ Vạn An là phiên âm của Mạn An (người Man). Điều này cho thấy chữ Man là danh từ riêng nên không thể hiểu theo chữ Tàu là man di mọi rợ được. 9. Henri Maspéro: tập XVIII, số 3 năm 1918 của tập san Bulletin de l'EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ),Cuối đời Mã Viện còn ảnh hưởng do “con ngựa thép” mà họ Mã tịch thu trống đồng Lạc Việt để đúc dâng vua Hán. Sử sách Trung Quốc chép rằng: “ Trên đường hành quân trời nắng nóng nên Mã Viện chi đi chậm rãi để dưỡng sức, lại bị 2 Phò mã là Lương Tùng và Đậu Cố và phó tướng Mã Vũ trình lên vua Hán là cố ý hành quân chậm chạp và khi đi đánh Giao Chỉ về đem theo vàng bạc nhưng giấu vua chỉ dâng vua một con ngựa thép mà thôi nên bị Hán Quang Vũ cho thu hồi ấn tín và không cho chôn cất...Vợ Viện lấy rơm buộc 2 con trai và 3 gái đến xin vua gia ân cho được chôn cất. Mãi đến lần thứ 6, vua mới đồng ý để nghe trình bày nỗi oan. Vua cho người đến khám xét nhà chỉ thấy xe đầy ý dĩ (bo bo) để Mã Viện chữa phong thấp mà thôi. Hán Quang Vũ biết Mã Viện bị oan nhưng vẫn không trả lại ấn tín và cũng không cho ghi vào bảng phong thần 28 anh hùng hảo Hán…!. Cuộc đời Mã Viện xét cho cùng thật là thấm thía làm sao ..!? 10. Hán tộc du mục lấy làm hãnh diện về câu nói này nên mới cổ vũ cho cái chết ngoài chiến trường của Nam tử Hán là “Da ngựa bọc thây”. Thanh niên Việt sẵn sàng hy sinh để bảo vệ giang sơn gấm vóc nên xem cái chết nhẹ như lông Hồng là con chim Hồng Hạc. Dân gian thường phân biệt hình ảnh của con ngựa chiến của tộc người du mục phương Bắc và vật biểu Chim của phương Nam để nói lên sự khác biệt giữa cư dân nông nghiệp và dân du mục Hán: “Việt điểu sào Nam chi, Hồ mã tê Bắc phong” nghĩa là con chim Việt thì đậu cành Nam còn con ngựa Hồ thường hí đón gió Bắc 11. Trong cáo buộc thứ hai, Mã Viện bị gán cho cái tội đã biển thủ ngọc trai và sừng tê giác trong các chiến dịch quân sự. Đây là sự thực khó tránh được của một đội quân xâm lược, dù rằng trong đoàn xe tải trở về, Mã Viện có chở một số lượng lớn hạt ý dĩ về Lạc Dương. Hạt ý dĩ là món ăn ưa thích của Mã Viện vì hạt ý dĩ có khả năng chống lại chướng khí, bệnh dịch truyền nhiễm hoành hành. Hạt ý dĩ là một loại cây thân thảo, có quả với nhân màu trắng, được trồng trọt tại miền nam Trung Quốc và miền Bắc VN. 11. Trong cáo buộc thứ hai, Mã Viện bị gán cho cái tội đã biển thủ ngọc trai và sừng tê giác trong các chiến dịch quân sự. Đây là sự thực khó tránh được của một đội quân xâm lược, dù rằng trong đoàn xe tải trở về, Mã Viện có chở một số lượng lớn hạt ý dĩ về Lạc Dương. Hạt ý dĩ là món ăn ưa thích của Mã Viện vì hạt ý dĩ có khả năng chống lại chướng khí, bệnh dịch truyền nhiễm hoành hành. Hạt ý dĩ là một loại cây thân thảo, có quả với nhân màu trắng, được trồng trọt tại miền nam Trung Quốc và miền Bắc VN. 12. Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (vietnamsante.com). Tại Khúc Giang (Quảng Đông) hiện nay còn đền thờ Nữ tướng của Đức Trưng Nữ Vương, là Đàm Ngọc Nga, tước Nguyệt Điện Công Chúa. Tại đây còn nhiều di tích trong trận chiến long trời lở đất của Bà với quân Mã Viện. Ngoài ra, còn có đền thờ Nữ tướng Trần Thị Phương Châu, tước Nam Hải Công Chúa. Bà tuẫn quốc tại đây vào đầu cuộc khởi nghĩa năm 39 dl. Sử Việt có ghi vào năm 1288 dl, Vua Trần Nhân Tôn đã sai Đại thần Đoàn Nhữ Hải qua Khúc Giang trùng tu đền thờ Ngài. Tại Quảng Đông và Quảng Tây có nhiều đền thờ Nữ tướng Nguyễn Thánh Thiên, tước Nam Hải Công Chúa. Và hy sinh tại vùng này vào năm 42 dl. Dọc miền duyên hải Quảng Đông, Phúc Kiến, và đảo Hải Nam có nhiều đền thờ Nữ tướng Trần Quốc, tước Gia Hưng Công Chúa. Dân trong vùng này đã tôn Bà là Giao Long Tiên Nữ giáng trần vì Bà rất hiển linh.4 likes
-
Không Ân Hận
nhakhanh and 2 others liked a post in a topic by wildlavender
KHÔNG ÂN HẬN Ân hận nói đây, là những ý nghĩ hối tiếc cho việc làm của mình. Như người làm việc mà không biết theo dõi suy tính thận trọng để rồi ân hận hối tiếc : Vì lẽ ra mình phải làm như vậy, hoặc không nên làm như vậy. “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Tại sao Bồ-tát và chúng sinh có suy nghĩ khác nhau như vậy? Vì ngay từ lúc đầu Bồ-tát biết thận trọng, chẳng tùy tiện tạo nhân, còn chúng sinh thì làm ác, tạo nhân ác mà không biết sợ, nên khi gặp quả báo xấu với muôn ngàn thống khổ, lúc ấy hối hận thì không còn kịp nữa. Trong cuộc đời, chúng ta có mười việc ân hận: 1. Gặp thầy mà không chịu học. 2. Gặp người hiền mà không kết bạn. 3. Họ hàng có chuyện tang ma mà không tham dự. 4. Đối với chủ lại không trung thành. 5. Thấy việc nghĩa mà không chịu làm. 6. Gặp việc nguy hiểm mà không cứu giúp. 7. Có tiền của mà không bố thí. 8. Yêu quê hương mà không trung thành. 9. Không tin tưởng việc nhân quả báo ứng. 10. Không chịu tu tập để hoàn thiện bản thân.Người xuất gia trong mọi việc đều phải cẩn trọng, và nhất là không để tâm ân hận thường xuyên xảy ra. Vì sao? Vì mỗi niệm đều phải chân chánh, mỗi niệm đều là Phật. Đối với mọi người, yếu tố quan trọng là đạo nghĩa. Đối với công việc phải có trách nhiệm và tận tụy. Dưới đây xin lược nói qua: 1. Khi đã nói thì không ân hận Mọi người đều có ngôn ngữ, nhưng hiểu biết được diệu dụng chân thật của nó thì không nhiều. Trong Luận Ngữ có nói: “Một lời nói có thể làm cho đất nước hưng thịnh, một lời nói có thể làm cho đất nước suy vong”. Ở đây cho thấy việc lợi, việc hại trong cách sử dụng ngôn ngữ. Có người dùng ngôn ngữ đưa đến thành công, một lời nói ra đều là thiện lành, đều là ái ngữ, ngọt ngào, khiến cho mọi người ưa thích muốn nghe, hợp với chân lý đạo đức. Nhưng cũng có người vì lời nói mà tạo ra bao lỗi lầm, khôn khéo nhưng đầy ác độc, làm cho người nghe mất niềm tin. Cho nên: Thử phương chân giáo thể, Thanh tịnh tại âm văn. Dịch:Phương này dạy chân thật, Làm thanh tịnh người nghe. Trong mười giới có : Không vọng ngữ, không ác khẩu, không lưỡng thiệt, không ỷ ngữ. Nếu như quý vị đã phạm bất kỳ một giới nào, thì không còn được mọi người tín nhiệm, không những nó phá hỏng sự nghiệp tu hành, mà còn làm cho chúng ta bị rơi vào địa ngục. Đức Phật đã từng dạy: “Người vọng ngữ, như bị gươm giáo vây phủ, mãi mãi không còn thân cận được với pháp lành thanh tịnh”. Vì thế, chúng ta phải thận trọng lời nói của mình, có như vậy mới mong tránh được sự ân hận về sau.Có một số người thấy chuyện đã xảy ra rồi mới chịu nói: “Ta chớ nên nói, chớ nên tố cáo ông ấy”. Đã không nên tố cáo thì còn nói làm gì? Ông bà ta thường nói: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Chỉ nên nói lời chính đáng, chân thật, thích hợp, không dối, không nói khác. Người xuất gia phải cẩn trọng, không nên để ân hận từ lời nói cho đến việc làm của mình. Tôi cũng thường hay nói: “Tôi suốt đời thuận theo bận rộn”, hy vọng quý vị phải có trách nhiệm với lời nói của mình. 2. Khi phát tâm thì không ân hận Có rất nhiều cách phát tâm, thí dụ nói: Phát tâm xuất gia, phát tâm làm việc, phát tâm tu hành, phát tâm đọc sách, phát tâm hoằng pháp… Nếu như vì một sự hứng khởi hay vì trông cậy vào một việc gì đó mà phát tâm đối đãi, thì việc làm này không thể lâu dài, và cũng không mang lại kết quả tốt đẹp cho người phát tâm.Khi phát tâm rộng lớn cao tột vượt trên đối đãi, tâm nguyện này có thể lâu dài. Như người phát tâm xuất gia rồi, ban đầu tâm rất mạnh mẽ, về sau lại biếng trễ, không chịu tu hành nên khi gặp phiền não, đau khổ, tai nạn, không biết làm sao để hóa giải, lúc ấy mới ân hận thì đã muộn. Hiềm nghi khi phát tâm làm việc, cũng là một cái khổ. Hiềm nghi như thế nào thì khổ như thế ấy. Trách móc người khác vì không khen thưởng, không khích lệ, không có một lời ca ngợi mình, như vậy phát tâm mà cũng còn ân hận. Khi phát tâm hoằng pháp, lại sợ việc nhiều, gặp khó khăn, khổ sở, buồn phiền vì Phật tử không cung kính, đây không phải là sự phát tâm chân thật.Khi đã phát tâm, thì không sợ việc nhiều, sẵn sàng hy sinh, gánh vác những khó khăn gian khổ, mình làm tốt mà không được khen thưởng, điều đó không quan trọng, tất cả việc gì cũng có nhân quả, mình làm thiện Phật Tổ sẽ chứng minh. Tóm lại, với những việc phát tâm như vậy không làm cho chúng ta ân hận. 3. Khi kết bạn thì không ân hận Bạn tốt phải là người có đạo nghĩa. Trong Luận Ngữ nói: “Người quân tử dùng văn chương làm bạn, nhờ bạn để hoàn thiện nhân cách”. Nói bạn tốt là nói đến người biết giúp đỡ và ảnh hưởng tốt cho ta trong việc học tập, văn hóa, đạo đức. Đức Khổng Tử đã nói về đạo lý bằng hữu: “Chân thành khuyên bảo và thân thiện”, đây là nói đến bạn bè khi có lầm lỗi, ta nên thật lòng dẫn dắt và khuyên bảo. Phật dạy có bốn loại bằng hữu:- Tình bạn như hoa. - Tình bạn như cái cân. - Tình bạn như núi. - Tình bạn như đất. 1. Tình bạn như hoa:Là khi anh giàu có, bạn ấy luôn đặt anh trên đầu, nhưng khi anh nghèo khó, bạn ấy quẳng anh xuống đất. 2. Tình bạn như cái cân:Là khi anh đương thời thịnh vượng, bạn khuất phục cúi đầu. Khi anh thất thế, bạn ngoảnh mặt làm ngơ. Đây là hai loai bạn không nên kết thân. 3. Tình bạn cao đẹp chân chính giống như núi lớn:Vì núi lớn dung được tất cả, chim muông thường tụ tập. 4. Tình bạn như đất:Đất có trong tất cả vạn vật.Như tôi giảng ở phần trước, là người xuất gia lấy đạo hạnh làm bằng hữu, lấy pháp thiện kết bạn bè. Anh có Phật pháp, tôi cùng anh giao du qua lại. Anh có đạo lý, tôi nương vào anh để học tập. Anh có tu học, tôi tự nguyện phục vụ, cống hiến sức lực để hỗ trợ anh, đồng cam cộng khổ với anh.Thời Xuân Thu Chiến Quốc có Quản Trọng và Bảo Thúc Nha, có thể nói là đôi bạn lành tri kỷ, họ lúc nào cũng hết lòng hỗ trợ lẫn nhau. Ngài Cưu Ma La Thập và ngài Huệ Viễn tuy chưa một lần gặp mặt, nhưng vì sự phát triển của Phật pháp mà dùng nhịp cầu thư tín qua lại để giúp đỡ lẫn nhau. Nếu như mọi người có sự tu hành chân chính, việc này có thể là tiền đề đưa đến sự giao hảo, không bị lợi dưỡng cám dỗ, cũng không vì những khó khăn trắc trở mà thối lui, nên không có gì phải ân hận. 4. Khi đã cho thì không ân hận Trong Phật pháp bố thí có nhiều cách như: Tâm thí, ruộng thí, pháp thí… Việc làm này chẳng đồng, công đức cũng có phần khác biệt. Phải như thế nào để công đức được trọn vẹn? Điều quan trọng nhất là không có lòng hối hận. Khi tôi bố thí là tôi hạnh phúc. Tôi bố thí pháp, bố thí vô úy từ sự tình nguyện, dù gian khổ hay khó khăn đến đâu cũng không sợ, không hối hận. Có người bố thí rồi lại hối hận, bởi vì người nhận không có sự báo đáp, không có lời tán dương, khen ngợi, coi thường tặng phẩm, hoặc còn mỉa mai chế nhạo, oán trách, gặp phải cảnh ngộ này, lòng hối tiếc sẽ phát sinh. Trên tinh thần nhân quả thì người biết bố thí sẽ được: “Tiền của đến cửa trước, phúc đức về tận nhà”. Ở đây nhân duyên quả báo dẫu chỉ một chút mảy may cũng không sai chạy, do vì ta có lòng tích lũy điều lành và phải biết đó là một việc làm hết sức quan trọng. Cho nên khi bố thí chúng ta đừng sợ khổ, đừng buồn rầu, hối hận, thực hành việc làm này là ta đã biết bố thí một cách chân chính rồi vậy. Đại sư Tinh Vân - Dịch già : Đạt ma Chí Hải3 likes -
I.- Tàu chỉ Chủ Nho giáo tự đời Tần Hán Câu trên mới nghe ai cũng cho là kỳ lạ nhưng nó sẽ bớt tính cách kỳ lạ khi nói thêm rằng: Tàu chỉ là chủ của Nho giáo tự đời Tần Hán mà thôi, còn hai đợt trước thì chính chủ là Việt Nam.Và câu này sẽ trở nên thường khi xét tới những chứng lý được viện dẫn ra. Ta có thể nói những chứng lý đó khá vững mạnh. Trước hết là nền văn hóa nông nghiệp bao giờ cũng cao hơn văn minh du mục như đã được rất nhiều học giả ghi nhận và chứng minh. Chúng tôi đã chứng minh và dẫn thêm mấy nhân chứng như Chu Cốc Thành, Oppeinheimer và Whitehead (quyển Adventures of ideas đã được dịch sang tiếng Việt do nhà Văn Đàn xuất bản “Bước đường phiêu lưu của những dòng tư tưởng” tr.224). Bằng chứng cụ thể: văn hóa Mohenjodaro nông nghiệp cao hơn văn minh Aryen du mục. II.- Lý do chính Việt Nam là Chủ của Nho 1.- Văn hoá Nông nghiệp bị Văn minh Du mục tiêu diệt Điểm thứ hai là khắp trên thế giới đâu đâu văn hóa nông nghiệp cũng bị văn minh du mục tiêu diệt: Aryen thắng Dravidiens, Hellens thắng Minoens… và do đó duy trì đẳng cấp cùng các đặc ân và chế độ nô lệ để du mục được ăn trên ngồi trốc. Song le tuy thắng mặt ngoài nhưng lại chịu ảnh hưởng về mặt tinh thần của nông nghiệp cho nên ngày nay những nhà nghiên cứu đứng đắn không ai dám phủ nhận phần đóng góp lớn lao của Dravidiens vào nền văn hóa Ấn Độ. Nếu vậy thì tại sao ta lại không tìm xem Viêm Việt đã đóng góp những gì vào nền văn hóa Nho giáo; vì Viêm Việt cũng gặp trường hợp tương tự như Dravidiens đối với Hoa tộc là Aryen. 2.- Viêm tộc đóng góp nhiều cho Kinh điển Điểm ba là nếu Dravidiens còn đóng góp vào văn hóa thì phương chi là Viêm Việt vì Viêm Việt hơn Dravidiens nhiều điểm: trước hết khi Hoa tộc tràn vào thì chưa có kinh điển như Aryen đã có Vệ Đà. Thế mà lúc ấy Viêm Việt đã có “tam phần, ngũ điển, bát sách, cửu khâu” vì thế chính Hoa tộc tuy thắng thế cũng đã phải mập mờ chấp nhận như trong những câu nói: “Tích giả Hoàng Đế đắc Si Vưu nhi minh ư thiên đạo” và trong biết bao truyện truyền kỳ khác như chúng tôi sẽ lần lượt phanh phui. 3.- Văn hoá Nông nghiệp giữ phần đóng góp trội hơn Chính đó là lý do khiến những yếu tố đóng góp của Hoa tộc như óc võ biền, óc tôn quân, óc thượng luật bao giờ cũng bị coi thường. Trái lại Nho giáo luôn luôn đề cao Văn trên Võ, nhơn trị, lễ trị trên pháp trị hình luật… dân trên quân nghĩa là tính chất văn hóa nông nghiệp vẫn giữ phần trội ít ra trong phạm vi văn hóa lý thuyết. Huống chi trong hiện thực như trong đời sống chính trị thì Viêm tộc được đóng góp phần rất then chốt tuy không có tiếng, nghĩa là Viêm Việt vẫn thành công khá trong chủ trương “vua trị vì, quan cai trị” c’est le roi qui règne mais ce sont les mandarins qui gouvernent. Trị vì thuộc vương triều thường là của Hoa tộc, còn cai trị thì thuộc các quan, tức là phía dân phía Viêm Việt vì các quan hay người hiền thì hầu hết xuất thân từ nông nghiệp ông Y Doãn cày ruộng ở đất Hữu Sằn. Ông Bá Lý Hề chăn trâu, ông Thuấn cày ruộng v.v… Chính nhờ chủ trương này mà Viêm Việt đã tham gia tích cực vào đời sống chính trị và đã đạt những thành quả mà chưa bao giờ người Dravidiens đã dành được trên đất Ấn Độ của họ. Nghĩa là tuy họ sống trong đất cha ông giối lại nhưng chỉ như là những nô lệ, hay ít nhất không được tham dự tích cực vào đời sống chính trị văn hóa như Viêm Việt. Chính nhờ đó mà chế độ nô lệ đã được bãi bỏ, và thiết lập ra chế độ công điền bình sản, bình quyền đi học: xóa bỏ sự phân cách giữa Hoa tộc và Viêm tộc để cho hai bên cùng một quyền lợi như nhau. 4.- Lý do không thiết lập nổi nền Quốc học Trở lên là những chứng lý rút ra trước hết do các kinh điển và sách vở của Tàu, còn của Việt Nam thì ta chỉ dùng để kiện chứng, như vậy là bớt được rất nhiều phần chủ quan mà những lý chứng đó còn có được tầm phổ biến và khách quan cả khi so sánh với các nền văn minh khác, cũng như khi xét về nội tình văn hóa Việt nho, vì thế chúng tôi không ngần ngại cho rằng chính sự tin tưởng như quen làm cho tới nay rằng Việt Nam mượn Nho giáo của Tàu là câu nói thiếu chiều sâu nên là sai lầm, và chính bởi tin sai lầm như vậy nên cho tới nay người mình vẫn hoàn toàn bất lực không thiết lập nổi nền Quốc học như chúng tôi sẽ đề cập trong quyển “Vấn đế quốc học”. 5.- Ảnh hưởng của Việt Nho Bạn sẽ nói: nếu quả có thực như thế vậy tại sao từ trước tới nay không ai nhìn thấy, không thấy có cuộc tranh đấu nào. Thưa rằng có nhiều điều cũng khá hiển nhiên mà vẫn nằm trong thiên nhiên phải chờ có người biết khám phá. Và vì chưa khám phá nên không có đấu tranh. Riêng trong trường hợp Việt Nho thì còn khó nhìn ra hơn nữa vì Việt Nho đã thành công trong những mục tiêu chính vì thế không còn gì để mà tranh đấu cũng như không còn phải tranh đấu cho ai. Trước hết là cho ai. Nếu ai ấy là Viêm Việt thì không còn nữa vì đã pha máu quá nhiều lần rồi, biết bao ông Hoa lấy bà Việt rồi, nên ít thế hệ không còn vấn đề thị tộc, chủng tộc. Cái mức đồng hóa của Viêm Việt mãnh mẽ đến đâu chỉ cần lấy dân Do Thái làm nhân chứng. Do Thái sinh sống trong văn hóa Âu Tây hai ngàn năm mà nay vẫn còn duy trì óc chủng tộc, đang khi Do Thái vào nước Tàu thì mất luôn óc chủng tộc. Vì thế bên Viễn Đông không có óc kỳ thị chủng tộc, ít ra tới độ đủ để tranh đấu, vì ai cũng được quyền như ai. Nghiêu Thuấn là Đông Di Tây Di cũng được làm thiên tử, có chăng chỉ còn vấn đề quan quyền và dân gian nhưng bờ cõi phân ranh này cũng đã được phá vỡ từ khi thực thi câu “hữu giáo vô loài”. Cửa đã mở ra rồi tranh đấu cái chi nữa. Vậy tại sao nay lại nhắc tới? 6.- Lý do cần phanh phui Nho giáo là của Việt Thưa vì hiện chúng ta đang từ chối Nho giáo như là đồ mượn của Tàu, nên cần phanh phui lại để nói lên tác quyền của cha ông, nói lên phần đóng góp của nhiều ngàn đời tiên tổ vào một nền văn hóa chung, mà nay lại còn cần thiết cho nước nhà hơn khi nào hết. Vì thế phanh phui ra sự thực thì không phải để tranh đấu với ai mà chính là để chúng ta thâu hồi lại cái di sản của chúng ta. Để sự thu hồi được hiện thực chúng ta hãy tìm cách nhận diện nền văn hóa cố cựu đó trong mấy điểm sau đây: - Nguồn văn minh là nông nghiệp - Gốc văn hóa là Viêm tộc mà - Việt tộc nằm trong khối đó. 7.- Phân biệt giữa Văn hoá Nông nghiệp và Văn minh Du mục Điểm trước hết là nông nghiệp. Nông nghiệp vẫn trường tồn ngược với du mục đã tiêu trầm nhưng đã trao tính chất du mục sang công thương nghiệp, nên công thương nghiệp là kẻ kế tự của du mục, muốn tìm hiểu du mục thì phải tìm hiểu qua thương, công. Thương công thường ở thành thị, còn nông nghiệp phải gắn liền với đồng quê. Văn hóa Tây Âu nặng về thương công thuộc homo mercator (thương nhân) và homo faber (công nhân) cả hai đều xem vật tự ngoại, nhất là mercator (Instinct. Bandoin 158). Bởi thường sống ở thành thị xa thiên nhiên nên dễ để trụt mất nội dung của các biểu tượng, vì thế dễ trở thành trừu tượng (Creel 297), văn hóa trở thành nhân vị đứng ngoài đời sống là do đó. Ngược lại văn hóa nông nghiệp vì không thể cưỡng ép thiên nhiên như bắt thảo mộc mọc mau chậm theo ý mình, nhưng phải hòa hợp với tứ thời, bát tiết, nhịp theo hai mùa lớn là Xuân Thu với gieo gặt. Vì thế có một sự liên đới rất cụ thể và mật thiết giữa người với thiên nhiên, được kết tinh trong câu nói của Vương Sung “thiên nhơn đồng đạo, chữ hán”. Chính vì đó mà tính chất của nó là yêu chuộng hòa bình, chống chiến tranh (Creel 77), đặt Văn trên Võ nên không có anh hùng ca (của riêng dân hiếu chiến). Văn minh nông nghiệp còn một đặc tính nữa là yêu nhà, yêu nước, vì thế đề cao non nước, đề cao thổ thần nên trong câu nói trung quân ái quốc thì chữ “Ái quốc” có màu sắc nông nghiệp, yếu tố địa vực (locale) trái lại chữ “Trung quân” lộ vẻ du mục đề cao người cầm đầu (personnel) vì văn minh du mục lang thang không nhà, không nước, hay thương công cũng không thiết với nước bằng: hễ “đâu dễ sống dễ kiếm ra tiền thì đấy là tổ quốc”, ubi bene vivere ibi patria, vì thế trào lưu vô gia đình vô tổ quốc phát xuất từ văn minh thương nghiệp và ngày nay hai chữ nhà và nước đã trụt mất rất nhiều nội dung là do sự lấn át của nên văn minh công thương du mục vậy. Nền văn minh này đã khởi đầu lấn át nông nghiệp từ lâu lắm: mãi từ ngày Cain giết chết em là Abel. Cain và Abel là hai biểu tượng cho hai nền văn minh nông nghiệp và du mục. Khi nói Cain giết Abel thì cũng là nói “du mục lấn át nông nghiệp” và được thể hiện qua lịch sử như anh Hellens đối với em Minoens, anh Aryens dối với em Dravidiens, anh Hoa đối với em Viêm v.v… và đâu đâu cũng thế: anh Cain giết em Abel cách này hoặc cách khác, ít hoặc nhiều. Phần lớn là nhiều, đôi khi là ít và ít hơn hết thì phải kể đến các em Viêm bởi các em này đã không để cho các anh Hoa làm mưa làm gió như bên Tây Âu hay Ấn Độ, nhưng đã chiến đấu nhất là trên phương diện tinh thần để cuối cùng đưa người đại diện vào việc kiến thiết văn hóa. Và những người đại diện đó chính là dân tộc. Vì thế dân tộc chính là yếu tố thứ ba định tính nền văn minh Viễn Đông. Thực ra thì ở đâu cũng có câu “tiếng dân là tiếng trời” = “vox populi vox caeli”, “the people are never wrong”. Nhưng không đâu người ta chịu để cho dân có tiếng nói, hoặc khuyến khích lắng nghe dân nói, hoặc gần dân để nghe dân nói, vì dân bao giờ chả nói và lới nói của dân đã kết tinh lại trong các câu ca dao, tục ngữ. Trên thế giới này không đâu là không có ca dao tục ngữ, chính nó làm nên cái minh triết của dân gian, của các dân tộc = la sagesse populaire, la sagesse des nations. Tuy nhiên đâu đâu ca dao tục ngữ cũng chỉ có ở đợt tản mác, vụn mảnh không được kể đến. Đặc biệt nơi Viêm tộc nhờ đã tranh đấu nên ca dao có được một địa vị trong kinh và do đó tiếng dân đã được đóng góp vào việc làm nền kinh điển, tức làm nên những sách cao quý nhất của một nước. Cũng như sau này đến lượt các sách cổ điển dân chúng vẫn đóng góp vào việc sáng tác. Vì thế tác quyền bên Viễn Đông không được chú ý nhiều là vì nó không có tính chất cá nhân nhưng là công cộng. 8.- Lạc Việt là đại diện chính của Viêm Việt Điểm thứ bốn là trong khối dân lớn lao của Viêm tộc đó thì ngành đại diện chính là Lạc Việt. Mấy hệ kia như Tạng, Mon-Khmer, Âu Việt… bị đồng hóa với Ấn Độ; Miêu Việt đồng hóa với Hoa tộc chỉ còn có Lạc Việt là đại diện duy nhất còn lại của Viêm tộc lúc trước đã chiếm lãnh toàn bộ Trung Hoa cổ đại và xuất hiện trước thị dân là Hoa tộc (Socio XVII, xem thêm Chu Cốc Thành trong Trung Quốc thông sử). Rồi sau mở đầu cho một cuộc tháo chạy dần dần trước kẻ xâm lăng: chạy từ Tây sang Đông từ Bắc xuống Nam, cuối cùng giữ cho mình được hai miền Đông Nam nhất là Nam nhưng khắp nơi đều để lại nhiều đại biểu, và tuy vì chính trị nên phải li biệt kẻ Bắc người Nam nhưng tình trong thì vẫn một nhà. Không hiểu vì hậu ý nào mà phần lớn học giả đời nay lại cố ý chối bỏ mối liên hệ này, cho đó chỉ là những “ước đoán mong manh”. Mong manh sao được khi có đầy những tang chứng nằm tản mác trong nhiều sử liệu nước Tàu, bởi vì cuộc di cư này không phải chỉ có xảy ra một lần lúc nước Sở diệt nước Việt, nhưng là trước nữa, rất lâu trước nữa, và mãi cho tới gần đây chỉ từng vài trăm năm vẫn còn. Thời Vương Mãn (đầu kỷ nguyên) biết bao nhân sĩ miền Bắc vùng Hoàng Hà chạy xuống lập nghiệp ở xứ Giao Chỉ mà đại biểu điển hình hơn cả là Sĩ Nhiếp, người đã lập ra “học phái nước Nam” lấy khẩu hiệu là “Đạt ư tòng chính” để vượt qua những tranh luận suông giữa hai phái kim văn và cổ văn trên Bắc, nhờ đấy văn hóa Giao Chỉ ảnh hưởng quật lại Trung Hoa. Cũng như Triệu Đà đại diện chính trị nhân lúc Hán Sở tranh hùng đã đứng lên giết quan lại nhà Tần để lập ra Nam Việt. Lại còn những vụ bắt cóc người Quảng Đông Quảng Tây bán làm nô lệ cho người Việt Nam. Trong quyển “Văn hiến thông khảo” (tr.26) Mã Đoan Lâm có kể lại văn kiện nhắc đến vụ này và nói mỗi năm tới hàng ngàn người Tàu bị bắt như thế. Nho sĩ thì giá đắt gấp bội. Đây là một sự kiện hiển nhiên mà bất cứ ai khởi công nghiên cứu cũng gặp thấy. Đến nỗi gần đây có người quả quyết dân Việt Nam là người Trung Quốc di cư sang đây trong thời Bắc thuộc. Đó là câu nói tuy quá đáng nhưng đứng ở phương diện tìm về nguồn gốc dân tộc thì gần với sự thực hơn những khuynh hướng đi tìm nguồn dân tộc về phía Mã Lại, Indonésie… tuy gần nhưng chưa sát vì cũng còn là câu nói có tính cách duy sử nghĩa là coi huyền sử như truyện nhảm nhí nên không nhìn ra chỗ đứng lớn lao của Việt tộc. Địa vị này chỉ nhận ra được khi chịu chú ý đến huyền sử vì chính huyền sử mới là quãng quyết định cho thời khai quốc, chính trong thời xa xăm đó mới kết tinh lên những thói tục riêng biệt và nhất là ngôn ngữ để làm thành một lò đúc đủ mạnh đặng đồng hóa các lớp dân cư đến sau. Các lớp này dầu có Tàu đến một trăm phần trăm và có đông đến mấy cũng chỉ ít thế hệ là đã bị tôi luyện trong cái lò Việt rồi. Khác xa với người Anh di cư sang Mỹ đã di cư luôn cả ngôn ngữ và thói tục nước Anh. Điều đó không có đối với người Tàu di cư sang đất Việt. Vì thế ta có thể kết luận nước Việt Nam đã được thành lập lâu đời trước và được huyền sử ghi nhận trong huyền thoại “ba vĩ tích của Lạc Long Quân”. Huyền sử kể rằng Lạc Long Quân đã tiêu diệt được Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh. Câu chuyện có nghĩa rằng Lạc Long Quân đã chống lại văn minh phương Bắc (Ngư tinh cá sống dưới nước, Bắc phương thuỷ; phương Tây là Hồ tinh: vật tổ thú; Mộc tinh = phương Đông) để duy trì văn hóa phương Nam hành hỏa, chính ngọn lửa này đã nung đỏ khối sắt (hồng = Viêm nhiệt) liệng vào miệng con ngư tinh, có nghĩa là lấy văn hóa Viêm tộc chống văn hóa của quần chúng thuỷ tộc (Bắc phương). Đó cũng chính là ngọn lửa đã phun ra tự miệng con ngựa của Phù Đổng Thiên Vương để đuổi quân thù. Thiên là dân, Vương là chủ, Phù Đổng Thiên Vương là tinh thần dân chủ của văn hóa phương Nam, của Việt tộc. Xem thế đủ biết tinh thần văn hóa Việt tộc đã thành lập lâu đời trước những người từ phương Bắc đến sau dù thuộc dòng máu Viêm hay Hoa cũng chỉ ít lâu là bị giết như Ngư tinh… nghĩa là bỏ tiếng nói, thói tục phương Bắc để nhận ngôn ngữ và phong thổ Việt Nam. Vậy thì trên dải đất này bản chất Việt Nam trổi vượt hơn bản chất Tàu nên phải gọi là Việt tộc mà không thể kêu là Tàu, và như thế muốn tìm đến nguồn gốc chân thực của Việt Nam thì phải tìm về tới Hồng Bàng thị; óc khoa học trung thực đòi phải như thế vì nếu bỏ quãng đó thì không thể nào giải nghĩa nổi thực thể Việt Nam, bao gồm tiếng nói và thói tục riêng như vừa bàn. Bởi vậy chúng tôi cho câu nói “dân Việt chỉ là người Tàu di cư sang đây” là quá đáng, tuy nhiên có tác động hay ở chỗ giúp người Việt nhớ lại nguồn gốc dòng tộc mình không nên tìm từ phía Nam (Mã Lai, Indonésie) nhưng phải tìm về phía Bắc. Làm như thế mới là đúng theo chiều toàn thể, tức là con đường di chuyển chung của nhân loại. Không cứ gì người Việt người Thái từ Bắc tiến dần xuống miền Nam, mà bên Âu Châu cũng xảy ra một hiện tượng như thế với các đợt tràn lấn của các dân miền Bắc: người Aryen tràn xuống Ấn Độ chiếm đất của Dravidiens… Tất cả còn lưu lại chứng tích không thể vì thiếu sử liệu mà phủ nhận cái thực thể lớn lao này được. Huống chi còn biết bao tang chứng sống động khác thuộc thể chế của nước của nhà: quan, hôn, tang, tế… Không nên bắt chước mấy học giả ti hí mắt lươn để cho tiểu tiết che lấp cái toàn thể. Chúng ta cần vượt qua lối giải nghĩa của sử học khách quan này, để tìm ra cái ý nghĩa uyên nguyên gắn liền với tiềm thức (psychanalyse du Feu. Bachelard p.91) có rất nhiều bảo đảm. Làm như thế mới có nhiều hy vọng nhìn ra cái di sản thiêng liêng của tổ tiên mà chúng ta có sứ mạng phải khai quật và vun tưới. Vì thế một lần nữa chúng tôi xin nhấn mạnh đến mấy việc lớn sau đây: Việc lớn hơn cả là trong khắp thế giới các dân bản thổ hoặc bị tiêu diệt hầu trọn vẹn như bên Úc, Mỹ hoặc một phần như dân Phi Châu, hoặc bị đồng hóa hay nằm trọn vẹn trong vòng nô lệ như bên La-Hy và Ấn Độ. Riêng có Viễn Đông thì dân bản thổ đã không bị tiêu diệt lại còn đồng hóa chính người xâm lăng. Việc này đã xảy ra ở những thời khuyết sử nên có phần lu mờ nhưng đã được kiện chứng do các đời sau: Hung Nô, Hồi Hột, Ki, Nguyên, Mãn… tất cả đều bị đồng hóa. Điều này không ai chối cãi được. Vậy chúng ta có thể nương vào đó kết luận ngược trở lên đến Hoàng Đế, Thần Nông và con cháu Thần Nông (tức văn minh nông nghiệp) đã đồng hóa con cháu Hoa tộc của Hiên Viên du mục. Dầu trong tiểu tiết có thể sai chạy ít hay nhiều đi nữa, nhưng trong đại cuộc thì kết luận được như thế. Việc thứ hai là kinh điển do dân gian Viêm Việt khởi công… Điều này cũng xảy ra mãi từ thời khuyết sử, nhưng lại được kiện chứng bằng các đời sau với những sách như Tam Quốc, Thuỷ Hử, Tây Du Ký… Trước khi thành tác phẩm bất hủ thì những sách đó đã trải qua một quá trình thai nghén hình thành dài lâu trong dân chúng. Điều này không ai chối cãi được, và vì thế nó là kiện chứng rất vững cho chúng ta suy luận ngược lên về tác giả kinh điển. Việc thứ ba là sự trường cửu bền bỉ của nền văn hóa Nho giáo. Không có một cuộc xét lại nào từ nền tảng giống các nền văn hóa khác cả. Ở đây tuy có biến đổi nhiều lắm nhưng toàn ở ngàn ngọn định chế tuỳ thời, còn về tinh tuý thì trường tồn y nguyên, thế mà các đợt tấn công từ ngoài tới thì cứ liên miên hết các loạt Hung Nô, Hồi Hột… lại đến các đợt Kim, Mông, Mãn… Dầu vậy nó vẫn đủ tiềm lực chỗi dậy nổi, như thế tỏ ra nó không phải là một cái gì hời hợt như một ý hệ do một cá nhân suy nghĩ ra. Cá nhân dẫu có tài ba tới đâu cũng là cá nhân, có tác động lâu lắm cũng trong vòng ba bốn chục năm. Ngược lại dân là “vạn đại chi dân” nó trường tồn và những gì do dân kiến tạo, lớn lên với dân đều bền bỉ như dân vậy. Điểm thứ bốn cũng rất lớn lao và thuộc riêng nước nhà đó là một đàng lịch sử nước ta chứng tỏ một óc quật cường bất khuất thế mà lại không bao giờ chối bỏ Nho giáo thì phải kể là nó có mối liên hệ thâm sâu nào đó. Và mối liên hệ đó thuộc văn hóa như chính những người muốn chối rồi cũng phải công nhân (Maspéro Chine p.17). Và nền văn hóa này sau những suy luận trên ta nhận ra không chỉ là vay mượn nhưng chính là cha ông tiên tổ ta đã đóng góp vào việc tạo dựng nên nó, và như thế Nho giáo là của nước ta cũng như của nước Tàu, cả hai đều là tác giả. Và đó là lý do sâu xa nhất nằm ẩn trong tiềm thức dân tộc khiên cho tiền nhân ta không hể chống Nho giáo mặc dầu về chính trị vẫn chống Tàu mãnh liệt. Đó là mấy sự kiện lớn lao về văn hóa Việt Nho, chính nó đã cho phép chúng tôi đưa ra nhiều quyết đoán mới lạ trong sách này. Những quyết đoán đó nếu chỉ dựa vào chính sử, hay khảo cổ thì không dám đưa ra. Nhưng chúng ta biết chính sử đã bị nhà cầm quyền bóp méo và xuyên tạ nhiều lần, còn khoa khảo cổ thì phạm vi quá hẹp hòi lại còn rất bấp bênh, vì thế chỉ dựa vào có hai khoa ấy thì không đủ. Trái lại khi nhìn dưới ánh sáng của 4 sự kiện lớn lao vừa kể trên thì những câu quyết đoán trong sách này tuy đi ngược chiều xưa nay lại tỏ ra có nên tảng hơn. Những sự kiện lớn lao đó ví được như cung đầu cung cuối của câu nhạc mà mỗi nhạc khí cần hòa hợp. Thí dụ câu “hồ xự hồ xang” thì ba nốt giữa có thể bỏ, hoặc đổi hồ ra xê hoặc thêm bớt cung tuỳ cái hứng riêng, miễn sao hợp ở nốt đầu và cuối là vẫn giữ được hòa âm của tiết điệu. Những điều chúng tôi quả quyết trong sách này về tác quyền của Việt Nam cũng thế: đúng với những điều lớn, còn các chi tiết có sai chạy đôi chút cũng không quan trọng đến nỗi làm hại được đường hướng lý tưởng đã đề nghị ra mặc dầu vẫn còn phải nghiên cứu thêm để tăng phần chính xác. Và đó là việc cần phải làm mãi mãi, trong lúc chờ đợi chúng ta cần phải có một lý tưởng. Durkheim nói rất đúng rằng khi nhận thấy một phong tục đã sống lâu đời với một dân tộc nhất định nọ thì phải hiểu là nó đã thích nghi được với những hoàn cảnh của khu vực đó. Viễn Đông ta nói “thuận thiên giả tồn” cũng một ý nghĩa, tức cái gì trường tồn thì là thuận thiên, hiểu là thuận tâm lý phong thổ và những điều kiện thời gian không gian, nên là những thực thể cần phải kể tới không thể vì thấy không hợp định đề của mình mà gạt bỏ đi được. Nguồn: Việt Nhân -anviettoancau1 like
-
Không cần thiết. Điều đó chỉ dành cho những tư duy đơn giản - phải nhìn thấy một vật thể cụ thể mới tin rằng vật thể đó có thật. Nếu như vậy không cần đến tư duy tri thức. Trong cuộc hội thảo tại Hanoi về chủ đề ông Nguyễn Văn Vĩnh, do Nxb Tri Thức chủ trì, ông Lại Nguyên Ân có đặt vấn đề: Có người cho rằng chữ Việt cổ là chữ Khoa Đẩu, nhưng không có di vật chứng minh. Ông Chu Hảo còn bồi thêm : Chỉ có vài di sản ghi một vài ký tự Khoa Đẩu chưa đủ chứng minh cho hệ thống chữ viết này. Đại ý vậy. Tôi đặt vấn đề: Vài ký tự Khoa Đẩu ấy nói lên điều gì? Ông Chu Hảo sau buổi hội thảo có nói riêng với tôi: Một nền văn minh phát triển thì phải có hệ thống chữ viết là điều tất yếu. Nhưng cần có sự chứng minh thuyết phục bằng những bằng chứng cụ thể. Đại để vậy. Tôi rất thất vọng vì những tư duy đơn giản. Bởi vậy, nếu như những nhà khoa học quốc tế xác định rằng: "Không có Hạt của Chúa" thì tôi nghĩ đấy là cơ hội cuối cùng để tôi tiếp tục minh chứng Việt sử gần 5000 năm văn hiến. Tôi không hy vọng lắm với những trí thức lúc nào cũng cần "chứng cứ thuyết phục" và có "cơ sở khoa học". Trong khí không đưa ra được một tiêu chí về "chứng cứ thuyết phục" và thế nào là "cơ sở khoa học"..1 like
-
============================================================================Ck VN tăng như vậy là sự vô lý với thực tại của nền kinh tế hiện nay - không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn cầu. Nhưng nó lại là một thực tế đang xảy ra. Vậy sự tăng giá CkVN này nó phải có một nguyên nhân rất bất thường. Sự dự đoán của tôi mang tính tổng hợp trong một năm. Vậy vài ba đợt sóng tăng giá hiện nay và mang tính bất thường này chưa đủ để tôi thay đổi ý kiến. Chúng ta hãy chờ xem..1 like
-
Nó phá sản là do nó năng lực quản lý điều hành yếu kém hoặc cố tình yếu kém thôi. Chả phải do phiến đá Biển trước mặt đâu. Không tin thì các vị bằng hữu cứ dạo quanh HN mà xem, cơ quan nào, Bộ nào chả để 1 tảng đá thế ghi tên tuổi mình chứ. Nếu phân tích là do tảng đá trước mặt mà phá sản, làm phép toán thống kê sẽ thấy những thằng cũng có đá như thế mà sống tốt ăn nên làm ra gấp nhiều lần những thằng bị chết đấy. Còn nữa, do đâu mà dầu khí hay vinashin bị chết á? Vì tiền NN chạy vào túi riêng theo con đường thoái vốn đầu tư, ... nên nhà nước thiệt, chứ các bác ấy toàn xe xịn nhà xịn cả đấy.1 like
-
1 like
-
(Kienthuc.net.vn) - Cần phải có những nghiên cứu cẩn trọng về quy mô không gian, thời gian cuộc chiến và thành tựu triều đại họ Trưng để trả lại tầm vóc xứng đáng cho Hai Bà trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Tái hiện hình ảnh Hai Bà Trưng xưng Vương. Điều đoán định về lãnh thổ rộng lớn của triều đại họ Trưng còn có thể được minh chứng thêm bằng nhiều đền thờ Vua Bà, Vua Trưng ở rất nhiều nơi trên đất Trung Quốc. Nhà báo Phạm Hồng cho biết, ông đã thấy những ngôi đền thờ "Mụ Trưng", "Mụ Trắc" trên đất Quảng Tây; BS Trần Đại Sĩ (trong chuyên luận Lĩnh địa thời vua Trưng) cũng cho biết, ông đã tìm được nhiều đền thờ Vua Bà và trong một ngôi miếu thờ ba vị tướng của Vua Bà ở Bồ Lăng còn thấy hai đôi câu đối minh chứng cho thực địa lãnh thổ và cuộc chiến của triều đại Hai Bà: Câu thứ nhất: "Khẳng khái phù Trưng thời bất lợi/Đoạn trường trục Định, tiết can vân". Ông Trần Đại Sĩ dịch là: "Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu/Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây". Câu thứ hai: "Giang-thượng tam anh phù nữ chúa/Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung". Ông Trần Đại Sĩ dịch là: "Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa/Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc các vị thần trung thành". Ngoài ra, ở Việt Nam cũng có rất nhiều đền thờ Hai Bà cũng như các tướng nam, tướng nữ của Hai Bà, đến nay vẫn rất tôn nghiêm, khói hương không ngớt. Có một ngôi đình tại xã Thanh Cao (Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội) thờ Cai Công, một vị tướng của Hai Bà văn võ song toàn. Sau cuộc chiến thất bại, Cai Công đã về làng mở trường dạy học, cả văn và võ, trở thành một vị thầy đức độ; Người dân thờ làm thành hoàng, đến nay vẫn cúng giỗ. Phải chăng những điều đó đã minh chứng một điều: Tinh thần yêu nước, khí tiết quật cường và lý tưởng gìn giữ non sông của Hai Bà bất diệt trong lòng người dân Việt? Hai Bà cùng các tướng tá đã được nhân dân tôn vinh, sùng kính tự nguyện, không cần đến một sự hướng dẫn chính thống nào! Vì những lẽ đó nghĩ rằng đã đến lúc nên có những cuộc khảo sát thực địa công phu, những công trình nghiên cứu cẩn trọng về quy mô không gian, thời gian cuộc chiến và thành tựu triều đại họ Trưng để trả lại tầm vóc xứng đáng cho Hai Bà trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Ghi chú: Tài liệu viết bài này đều theo Đại Việt sử ký toàn thư NXB Khoa học Xã hội in năm 1985 và An Nam chí lược, bản dịch, Tài liệu tham khảo của Thư viện Văn học và Bản dịch, NXB Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, in năm 2002. Băng Thanh (Bee)1 like
-
1 like
-
Tin này rất vui, chúc mừng yeu con nhá,! Sư phụ cho phép con chép bài giảng của sư phụ ở topic này vào CLB Luận tuổi nhé, để gom gọn và anh chị em học tập và rèn luyện ạ.1 like
-
Chúc mừng yeucon có tin vui1 like
-
@ Kieuoanh123, Tháng 3 này không hạn gì đáng phải lo. Nhưng chú ý tháng 7, 8 âm, có thể hao tài lớn. Nếu đã hỏi chuyện người âm thì sẽ được âm phù trợ. Mặt khác cũng nên năng thờ kính tổ tiên theo tôn giáo mình cho an lạc. Chúc bình an. Thiên Đồng1 like
-
Cuộc khởi nghĩa của người Việt ở Nam Dương tử dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng đã lấy lại toàn bộ lãnh thổ Văn Lang xưa gần như quá rõ ràng. Rất nhiều tư liệu lịch sử, bằng chứng di sản phi vật thể và vật thể , kể cả những kết quả trắc nghiêm ADN với các mối liên hệ với lịch sử văn hóa các dân tộc quanh Nam Dương tử đều chứng thực điều này và xác định Việt sử 5000 năm văn hiến. Vậy mà cái tuồng diễn vai Hai Bà Trưng trong hình minh họa ở trên vẫn để mấy cái lông chim trắng trên đầu. Thể hiện một khả năng tư duy trừu tượng kém phát triển.1 like
-
Chuyện phát lộ “kho báu bị yểm bùa” (1): Bàn tay từ cõi âm!? ANTĐ - Đã hơn một tháng trôi qua kể từ khi ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương dấy lên tin đồn xung quanh việc chính quyền huyện phá ngôi biệt thự cổ để xây dựng Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện. Tin đồn càng lan đi xa càng được thêm thắt với nhiều chi tiết khó tin. Những điều… kỳ bí Chuyện bắt đầu từ một quyết định do cố Chủ tịch UBND huyện Nam Sách Lê Huy Vụ ký với nội dung xây dựng Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện trên diện tích xưa kia vốn là biệt thự cổ thời Pháp. Dự án xây dựng có tổng đầu tư trên 3,8 tỷ đồng, bắt đầu phá dỡ từ đầu tháng 1-2012, động thổ, đào móng vào cuối tháng 2-2012. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu trong quá trình đào móng, đơn vị thi công không phát hiện nguyên một đoạn… xương hàm. Bác sỹ nha khoa được mời đến hiện trường đã xác định, đây là một chiếc xương hàm của người. Anh Trần Văn Diện - bảo vệ công trình Ông Nguyễn Đình Dũng, Phó Chủ tịch UBND huyện Nam Sách kể lại, ông có nhận được thông tin công nhân đào được một chiếc xương hàm người tại công trường xây dựng Trung tâm Bồi dưỡng chính trị của huyện. Ngay sau đó, đơn vị thi công đã đào rộng ra xung quanh, nhưng không tìm thấy thêm bất kỳ một phần hài cốt nào khác. Đoạn xương hàm kia cũng được mang đi mai táng tại Nghĩa trang thị trấn Nam Sách. Tuy nhiên, chuyện bắt đầu “nóng” khi đơn vị thi công tiếp tục đào được một số chiếc chum sành không biết đã nằm dưới lòng đất từ bao giờ. Thế là một đồn mười mười đồn trăm, rằng đơn vị thi công đào được… kho báu. Mũi khoan bị vỡ của đơn vị thi công Chắp nối các sự kiện với nhau, người dân ở huyện Nam Sách còn nhớ, nhiều năm về trước, có người đã từng đào được một chiếc chum đựng đầy bạc hoa xòe. Nhiều người dân nơi đây khẳng định, đúng là có chuyện từng có người đào được những chum chứa đồng bạc hoa xòe ở đây. Cũng vì thế, thị trấn Nam Sách có một tiền lệ xấu, mỗi khi gia đình nào đào móng xây nhà thì những hộ xung quanh thường đến ngồi… canh. Chỉ cần phát hiện những hũ, chum khả nghi là đổ xô vào giành, cướp. Ngược dòng lịch sử, khu đất này xưa kia vốn là của ông Nghị Dong, một đại phú hộ, địa chủ thời Pháp. Vì thế, bất cứ thứ gì được phát hiện, người dân đều gán cho nó hai từ “kho báu”. Người này truyền tai người kia, chẳng mấy chốc dân ở khắp nơi vây kín khu vực thi công chỉ chờ tranh cướp. Thậm chí, có người từ tận Hải Phòng, Hà Nội cũng lặn lội về đây để tìm kiếm vận may. Cái chết của Ông chủ Tịch Huyện Lời đồn càng trở nên có cơ sở khi chỉ 2 ngày sau khi chính thức động thổ, đào móng, ông Lê Huy Vụ - Chủ tịch UBND huyện Nam Sách lúc bấy giờ bỗng dưng chuyển bệnh và đột ngột qua đời. Có lời ác ý còn đổ cho ông cái “tội” dám động đến ngôi nhà của Nghị Dong. Nhưng, như một sự trùng hợp lạ lùng, liên tiếp những ngày sau đó, đơn vị thi công là Công ty CP Đầu tư xây dựng, dịch vụ và thương mại Hồng Châu gặp phải những chuyện ma quái. Máy xúc và mũi khoan của đơn vị thi công cứ đào trúng mấy chiếc chum là trở chứng. Cái bị hỏng, cái bị vỡ càng làm khuấy động không khí vốn yên bình ở thị trấn Nam Sách nhỏ bé này. Theo anh Trần Văn Diện, người bảo vệ công trình từ khi đơn vị bắt đầu thi công cho biết, đúng là có chuyện máy xúc bị vỡ, mũi khoan bị hỏng. Tuy nhiên, đó chỉ là những sự việc xảy ra ngẫu nhiên chứ không phải do bàn tay từ “cõi âm” gây ra như nhiều người đồn đoán. Anh Diện cho biết thêm, việc những chiếc máy hỏng hóc đều có lý do xác đáng. Như chiếc máy xúc cỡ lớn, người ta không để ý đổ dầu vào máy dẫn đến khô dầu, bị bó biên, vỡ máy. Còn chiếc máy xúc cỡ nhỏ cũng đã vài lần lăn ra “ăn vạ” do “có tuổi”. Anh em phải hàn đi hàn lại mấy lần để tái sử dụng. Chỉ là đến thời điểm này bỗng dưng đồng loạt “biểu tình” nên mọi người mới đồn thổi. Có thông tin tổ bảo vệ từ đầu còn sinh hoạt ở khu vực sát với công trường nhưng sau cũng phải chuyển ra phía ngoài. Trước câu hỏi này, anh viện lý do ở gần công trường lầy lội nên phải chuyển ra phía ngoài!? Vẫn biết, việc “lớn chuyện” đều do người dân thêu dệt, đồn thổi. Nhưng chính những hành động kỳ lạ của đơn vị thi công càng làm cho sự tò mò, tính hiếu kỳ của dân chúng trong vùng lớn hơn. Chuyện chết người, đào được chum vàng chum bạc bỗng chốc trở thành đề tài bàn tán ở khắp nơi với nghi vấn về việc Nghị Dong trấn yểm kho báu và bảo vệ ngôi biệt thự cổ. Sóng sau lại to hơn sóng trước khiến người dân càng thêm hoang mang, lo sợ. Lý giải tin đồn oan hồn trinh nữ. 2 Theo khẳng định của chính quyền huyện Nam Sách, ông Vụ đã mắc trọng bệnh từ hơn một năm nay. Năm 2011 ông cũng từng phải nghỉ một thời gian dài để chữa trị căn bệnh đại tràng. Sự ra đi của ông không phải là “bất đắc kỳ tử” như những lời đồn. Oan hồn trinh nữ Suốt mấy đêm liền, người dân quanh khu vực công trường cho biết thấy đơn vị mời pháp sư về làm lễ. Trong ngoài được canh gác cẩn mật. Dân chúng quanh vùng kéo tới xem đặc kín khu vực trước cổng công trường. Buổi làm lễ lại diễn ra vào ban đêm càng làm không khí ở đây thêm phần ma quái. Anh Đỗ Văn Hòa ở khu vực ga Tiền Trung cách đó khoảng 7km cũng mò vào theo dõi sự tình còn khẳng định, nửa đêm, pháp sư mới bắt đầu ra tay làm phép. Trước khi làm phép, thầy pháp sư tận Hải Phòng còn dặn dò những người xung quanh, có xem thì xem, nhưng xem xong thì bấm nhau đi về chứ đừng gọi tên kẻo những oan hồn trinh nữ được trấn yểm nơi đây theo về bắt người. Anh Tuấn, một người dân trong huyện còn cam đoan, chỗ những mô đất nơi tìm thấy 9 chiếc chum sau khi được làm phép phát hiện âm khí bắn lên rất lâu mới hết. Vị pháp sư còn khẳng định, đã trục hết 9 oan hồn trinh nữ ở đây, mọi người cứ yên tâm. Trong vòng một tuần, vị pháp sư nọ đã dựng đàn làm phép hai lần. Cả hai lần đều có những tiếng động lạ phát ra quanh khu vực công trường. Vậy Nghị Dong là ai mà chỉ nghe đến tên nhiều người đã liên tưởng đến những câu chuyện ma quái? Chiếc bể với nhiều chữ Hán ở khu vực công trường Bí ẩn những tin đồn Theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Lịch - thôn Si, thị trấn Nam Sách, Nghị Dong xưa kia là một đại phú hộ ở địa phương. Ông ta được ở khu nhà biệt thự dành cho người Pháp. Đất đai của Nghị Dong nhiều đến nỗi, ở thị trấn Nam Sách ai cũng cho rằng mình đang ở trên đất của ông Nghị xưa kia. Các cụ cao niên ở Nam Sách khẳng định, thời đó, quanh vùng chẳng có nhà nào giàu bằng nhà ông Nghị, các hũ bạc từng tìm thấy đều là của Nghị Dong chôn xuống đất cho con cháu sau này. Cứ ở đâu từng đào được bạc, ở đó xưa kia là đất của ông Nghị. Nghị Dong thời bấy giờ vừa có tiền, vừa có quyền. Chẳng thế mà ông là một trong số ít những người được ở khu biệt thự của Pháp. Căn nhà vừa bị phá là ngôi biệt thự cũ của ông. Người dân quanh vùng vẫn thường gọi đây là căn nhà bốn mái với thiết kế cổ của Pháp. Căn biệt thự từng được xem là biểu tượng của sự giàu sang của ông Nghị còn được nhân dân gắn với thời kỳ đen tối bị thực dân Pháp đô hộ. Nhiều người khẳng định, căn nhà trước đây từng được sử dụng làm nơi giam giữ những chiến sỹ Việt Minh. Nhiều cán bộ, chiến sỹ bị bắt giam trong đó và có cả những người không bao giờ trở ra. Sau này, khi giải phóng, căn nhà lại được sử dụng làm nơi giam giữ tù nhân của chính quyền. Tuy nhiên, các cụ cũng khẳng định, khi sinh thời, Nghị Dong được coi là một người yêu nước, thương dân, ông từng nuôi giấu rất nhiều cán bộ, cứu những người bị giam cầm trong căn biệt thự đó. Sự giàu có, thế lực của Nghị Dong xưa kia đã khiến người dân liên tưởng đến những hũ vàng hũ bạc còn chôn giấu. Các cụ cũng khẳng định, của cải của ông Nghị còn nhiều lắm. Nhưng chắc chắn ông đã cho trấn yểm chỉ để cho con cháu ông được hưởng. Ngày nay, hầu hết đất của Nghị Dong xưa kia giờ đã chuyển chủ, con cháu của ông Nghị cũng tản đi khắp nơi, nhưng chưa thấy ai tuyên bố là đã tìm được kho báu ông để lại. Duy chỉ còn lại mảnh đất vốn trước đây dùng làm trường cấp 2 của thị trấn, sau này dùng làm thư viện và giờ đang được xây dựng Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện là chưa bị đào xới. Thêm việc trước đây từng đào được hũ bạc càng làm dân chúng tin rằng đây chính là nơi Nghị Dong cất giấu của cải. Tin đồn vẫn chỉ là tin đồn, cho đến nay, đơn vị thi công đã kết thúc quá trình đào móng, đang chờ nghiệm thu. Chuyện trấn yểm cũng vẫn được truyền miệng bay đi khắp nơi. Giờ thì, ngoài những chuyện âm hồn hư hư thực thực, người dân ở đây lại có thêm một chút tiếc nuối. Người trẻ thì chưa nhận ra, nhưng những bậc cao niên đã ngậm ngùi, ngôi biệt thự cổ lộng lẫy một thời, chứng tích của biết bao thăng trầm lịch sử, giờ đã bị san phẳng, tiếc cho một công trình kiến trúc cổ giờ đã hoàn toàn biến mất. Vẫn biết, ngôi biệt thự cũng đã quá cũ, xuống cấp nhưng đó còn là lịch sử, là vẻ đẹp mà Nam Sách cần lưu giữ. Đỗ Nguyễn (An Ninh Thủ Đô)1 like
-
Tôi xóa xong nick bacsy. Tôi đề nghị ban kỹ thuật pan luôn IP cái nick tự nhận là bacsy mà tầm tư duy khốn khổ như thế này. Anh ta nói người Mỹ không cần phong thủy vẫn giàu có. Nhưng anh ấy nên hiểu rằng: Với con mẹ ve chai thì từ sách phong thủy cho đến sách viết về thuyết tương đối vĩ đại đều chỉ để cân ký bán. Anh ta coi thường môn phong thủy thì cũng như cũng như bà ve chai không cần đến thuyết tương đối thôi.Chúng ta đang tìm hiểu một giá trị tri thức cổ tồn tại hàng ngàn năm và khách quan vì nó có trước tất cả thế hệ nhân loại đang tồn tại hiện nay. Chúng ta xác định nó rất khoa học với phong thủy Lạc Việt thì chúng ta ứng dụng . Còn ai không tìn và có tính phá hoại sự nghiên cứu , tìm hiểu của chúng ta thì đưa ra khỏi diễn đàn . Chúng ta không có thời gian tranh luận và thuyết phục những loại người này.1 like
-
Với tôi thì việc Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống lại Mã Viện bình định toàn bộ Giang Nam thu hồi 63 thành trì là không có gì để hoài nghi. Hoàn toàn đầy đủ chứng lý khoa học - cho dù khoa học hiểu theo đám "Ở trần đóng khố". Nhưng vấn đề là sau khi xác định điều này thì sau đó sẽ ra làm sao?1 like
-
1 like
-
Khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến hạ tầng xã hội..... ========================== Điểm nóng 'Bão' thất nghiệp sắp đổ bộ? Tác giả: Cảnh Thái Bài đã được xuất bản: 1 giờ trước (VEF.VN) - Thông tin về tình hình người lao động khó tìm việc làm và số lượng lớn các DN đã và đang buộc phải giải thể, phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến công ăn việc làm của đội ngũ lao động đang có việc làm cũng như lực lượng lao động bổ sung hàng năm. Ước tính con số thất nghiệp Thông tin về con số thống kê với 79 ngàn doanh nghiệp giải thể và phá sản, và có thể tiếp tục có thêm rất nhiều doanh nghiệp ngưng hoạt động hoặc giải thể trong năm nay, trong đó có cả các doanh nghiệp lớn bên cạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) làm tăng nguy cơ thất nghiệp cho người lao động trên diện rộng với phạm vi cả nước. Chỉ ước tính riêng con số mỗi doanh nghiệp có thể có ít nhất 5-10 lao động thì con số người lao động mất việc đã có thể là hơn nửa triệu người! Nếu tạm tính thu nhập bình quân tại các doanh nghiệp này là 3 triệu đồng/người/tháng thì con số thu nhập mất đi của nửa triệu lao động sẽ là 1.500 tỷ đồng/tháng; tức khoảng 75 triệu USD thu nhập hàng tháng của nửa triệu người lao động đã và đang bị mất đi. Những người này vẫn phải ăn uống, tiêu dùng khoảng chừng đó tiền cho các chi tiêu tối thiểu hàng tháng, mặc dù đang thất nghiệp, thì số tiền chi phí cơ hội mất đi hay số lượng của cải vật chất không được làm ra thêm mà phải tiêu tán đi, sẽ còn tăng thêm nữa. Nói cách khác, thiệt hại có thể lên tới hàng trăm triệu USD mỗi tháng và đạt con số tỷ USD một năm! Thiệt hại này có thể sánh với các thiên tai, địch họa lớn như bão lụt, sóng thần hay các tai nạn hàng không rơi máy bay, các vụ tai nạn giao thông lớn cướp đi hàng chục ngàn sinh mạng hàng năm tại nước ta! Những con số rất đáng suy nghĩ và thật đáng sợ! Có việc làm như thế này là niềm mong ước của nhiều người hiện nay. Gánh nặng dồn lên xã hội Chưa kể, sinh viên ra trường và rủi ro thất nghiệp. Hàng năm chúng ta có thêm hơn một triệu thí sinh thi tốt nghiệp trung học phổ thông, nếu chỉ có khoảng một nửa số này vào được đại học và trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề thì số người trẻ 18-20 tuổi còn lại sẽ tham gia vào lực lượng lao động phổ thông gia tăng thêm hàng năm. Rồi còn lực lượng lao động do gia tăng dân số cơ học hàng năm (tỉ lệ sinh khoảng 1,87 trẻ em/1 phụ nữ) ngoài lực lượng lao động phổ thông từ các em tốt nghiệp trung học nhưng không vào đại học, cao đẳng và trường nghề). Nếu hơn nửa triệu người trẻ tuổi này có được việc làm phù hợp thì tốt biết mấy, ngược lại, nếu họ không tìm thấy việc làm thì có thể gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho xã hội. Các chi phí cơ hội của quốc gia phải trả giá cho việc lãng phí sức lao động có thể tính bằng tiền tỷ USD cho mỗi năm thất nghiệp của lực lượng lao động hùng hậu này. Ai cũng biết tỉ lệ tội phạm các loại, các tệ nạn xã hội, thường gia tăng nhanh chóng cùng với tỉ lệ thất nghiệp gia tăng tại các quốc gia. Rủi ro này luôn là gánh nặng cho toàn thể xã hội. Nghe đâu hiện nay, có con số thống kê mới thì có hơn 50% sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được việc làm so với con số 73% sinh viên ra trường kiếm được việc làm ngay vào cuối năm 2011 (1). Trong một góc nhìn khác dành cho các nhà quản trị giáo dục đại học thì nếu chương trình giáo dục đại học hay cao đẳng được tinh gọn, hoàn thiện và rút ngắn còn 2-3 năm như các nước tiên tiến và các nước trong vùng, thay cho 4 năm hoặc 4,5 năm như ở Việt Nam hiện nay thì sẽ tiết kiệm cho xã hội hàng tỉ USD mỗi năm. Số người đăng ký nhận bảo hiểm thất nghiệp đang gia tăng (ảnh NLĐ) Rõ ràng, khó khăn của doanh nghiệp cũng là khó khăn của người lao động. Các thông tin về tình hình người lao động khó tìm việc làm và số lượng lớn các doanh nghiệp đã và đang buộc phải giải thể, phá sản cũng phản ánh bức tranh lớn lơn về sự khó khăn đột biến thực sự của các doanh nghiệp như đang trong một cơn bão khủng hoảng kinh tế tài chính, ảnh hưởng trực tiếp đến công ăn việc làm của đội ngũ lao động đang có việc làm cũng như lực lượng lao động bổ sung hàng năm. Số lượng lao động chịu ảnh hưởng tới chất lượng việc làm hay thất nghiệp có thể lên tới hàng triệu người thì chúng ta không thể xem thường, hoặc chỉ đơn giản yêu cầu doanh nghiệp phải tự cải cách, tự cứu lấy mình, mà cần phải có một kế hoạch đối phó khẩn cấp ở góc độ quản lý nhà nước về kinh tế vĩ mô. Con số thiệt hại ước tính lên tới hàng trăm triệu USD hay hàng tỷ USD mỗi năm không phải chuyện nhỏ! Nếu từ đây đến cuối năm 2012, con số doanh nghiệp giải thể và phá sản tiếp tục gia tăng nhanh (2) thì số lượng người lao động mất việc, thất nghiệp gia tăng theo, cũng như các sinh viên mới ra trường, lực lượng lao động gia tăng cơ học của quốc gia hàng năm lại càng khó tìm việc! Một số giải pháp khả dĩ Cần có các nghiên cứu khẩn trương về thực trạng hoạt động và khó khăn của các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN đồng thời đưa ra các giải pháp khẩn cấp giải quyết nhanh các tồn tại hiện nay. Các kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp như giảm lãi suất cho vay, miễn giảm các sắc thuế cho doanh nghiệp gặp khó khăn, có các gói cho vay ưu đãi doanh nghiệp thực sự đến tay đối tượng cần giúp đỡ. Tránh tình trạng hô khẩu hiệu, thiếu thực tiễn, không khả thi như Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại hô hào hạ lãi suất nhưng thực tế lãi suất cho vay cho tới nay vẫn xấp xỉ 20%/năm cho các DNVVN! Hoặc một số lời an ủi, xoa dịu nhau rằng đây là cơ hội tốt để doanh nghiệp chuyển mình, tái cấu trúc .v.v. vì thực ra sự lãng phí hay kém hiệu quả và cần thiết tái cấu trúc khẩn cấp đang nằm ở hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) như nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra, cũng như các vấn đề của DNNN và DNVVN là tương đối khác nhau. Cũng như bệnh nào của bệnh nhân nào phải cho thuốc điều trị tương ứng, chẩn đoán bệnh sai hoặc cho duy nhất mỗi một phương thuốc cho mọi bệnh nhân cùng uống, sẽ dẫn đến việc phương thuốc không đúng với bệnh và tình trạng bệnh sẽ tất yếu nguy hiểm hơn. Kế đến, cần đồng thời có các nghiên cứu về thực trạng đời sống lao động, tình hình lao động thất nghiệp mới nhất, với các con số thực sát với tình hình thực tế. Cần tìm hiểu đâu là nguyên nhân thực sự của tình hình hiện tại. Từ đó, có các kế hoạch cứu trợ nhanh chóng cho người lao động bên cạnh các chính sách an sinh xã hội, chính sách trợ cấp thất nghiệp đang từng bước hoàn thiện. Thêm vào đó, các mục tiêu tạo thêm số lượng công ăn việc làm mới cho người dân, cần được xem như một tiêu chí hàng đầu để thẩm định năng lực làm việc của các quan chức do "dân cử, dân bầu" hoặc "Đảng cử, dân bầu". Ví dụ, khi một ứng cử viên cho một chức vụ nào đó ở cấp chính quyền địa phương hoặc trung ương, hay hội đồng nhân dân các cấp, thiết nghĩ cũng nên gắn với một tiêu chí quan trọng bậc nhất là người đó có thể có khả năng tạo ra được bao nhiêu công ăn việc làm cho địa phương mình ứng cử trong nhiệm kỳ công tác, bên cạnh các tiêu chí quan trọng khác. Một góc nhìn bổ sung khác là làm sao giảm được số người thất nghiệp phải đi bán vé số dạo, không kể số người già, tàn tật và trẻ em nghèo, hoàn cảnh đặc biệt phải bán vé số và ăn xin, họ không có khả năng lao động và cần sự trợ giúp của chính sách an sinh xã hội quốc gia; vì có lẽ không có quốc gia nào có đội ngũ bán vé số dạo đông như nước ta hiện nay! Sau cùng, việc gì cũng phải có ai đó, cơ quan nào đó, có nghĩa vụ và quyền lợi, có địa chỉ cụ thể và chấp nhận chịu trách nhiệm cá nhân, từ việc ra các chính sách công đúng hay sai gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp, cho tới chịu trách nhiệm về tỉ lệ thất nghiệp tăng giảm hàng năm, chúng ta mới có các quyết sách phù hợp cho tình hình khẩn cấp như hiện nay. Vì nên nhớ, chúng ta đã mất tiền tỷ USD các chi phí cơ hội do thất nghiệp rồi và sẽ có thể tiếp tục mất thêm nữa trong năm nay và những năm tới! ========================== (1). http://dantri.com.vn/c25/s25-547060/sinh-vien-that-nghiep-do-thieu-dinh-huong-nghe.htm (2).http://vef.vn/2012-03-30-dn-mac-ket-vi-chinh-sach- ========================== Khi bạn thất nghiệp. Ngoài việc đi xin một việc làm thuê thì bạn hãy tự kiếm cho mình một việc làm. Hơn ba mươi năm nay, tôi chưa đi xin việc ở đâu cả.1 like
-
Một trong những người nóng ruột nhất về kết quả việc đi tìm Hạt của Chúa là tôi. Hôm nay lên mạng đọc được cái tựa "Hạt của Chúa" xuất hiện vào tuần tới, nên hí hửng đưa lên đây. Nhưng đưa xong lúc sửa chữa để trình bày cho vừa mắt thì ra bài từ 10. 12. 2011 =============================== 'Hạt của chúa' xuất hiện vào tuần tới Thứ bảy, 10/12/2011, 08:57 GMT+7 Thế giới sẽ có cơ hội nhìn thấy hạt của chúa vào tuần tới khi nó được tạo ra lần đầu tiên ở nhà máy gia tốc hạt nhân hạt lớn nhất thế giới LHC của Tổ chức Nghiên cứu Nguyên tử châu Âu (CERN). > Máy gia tốc hạt của Mỹ ngừng chạy vì thiếu tiền Nhà máy gia tốc CERN. Ảnh: Telegraph. Thứ ba tuần tới, các nhà khoa học dự kiến sẽ công bố kết quả của cuộc nghiên cứu tìm kiếm dữ liệu mới nhất trong dự án nghiên cứu khổng lồ trị giá 6 tỷ bảng Anh tại nhà máy gia tốc hạt CERN, biên giới Pháp -Thụy Sĩ, gần Geneva. Một trong những mục tiêu chính của dự án này là chứng minh sự tồn tại 'Hạt của chúa' mà giới khoa học tin rằng, nó chính là hạt nhân hình thành nên vũ trụ sau vụ nổ Big Bang cách đây 13,7 tỷ năm. Telegraph trích lời giáo sư John Ellis, một chuyên gia từng đứng đầu phòng vật lý lý thuyết tại CERN nói với BBC rằng, sự phấn khích ngày càng tăng ở các nhà khoa học làm việc trong dự án. Theo ông, tìm kiếm hạt 'Hạt của chúa' là mục tiêu cực kỳ quan trọng của vật lý hiện đại. "Những gì chúng tôi có vào lúc này là mô hình chuẩn, mô tả tất cả các vật lý hạt cơ bản. Chúng tôi đã tìm kiếm nó suốt 30 năm qua và cuối cùng, có thể nó ẩn dưới mặt sau của chiếc ghế sofa LHC. Chúng tôi cuối cùng cũng đã tìm ra nó", giáo sư Ellis nói. Trang Nguyên1 like
-
Cần xác định rằng: Kinh Dịch + Thuyết Âm Dương Ngũ hành là của Việt Nam. Điều này đã quá rõ ràng. Nhưng cũng cần xác định rằng: Kinh Thư, Kinh Thi; Kinh Lễ là của Việt tộc. Hơn 1000 năm Hán hóa và sau đó là ảnh hưởng luận điểm, san định của Tống Nho , nên đã làm sai lệch rất nhiều tính nhân bản ban đầu của Việt tộc. Nhưng tôi tin rằng: Những trí giả Việt tộc sau này sẽ nhận ra được điều này và chứng minh một cách sắc sảo cội nguồn đích thực của Ngũ Kinh. Thí dụ một câu sau đây trong Kinh Thi: Quan quan thư cưu. Yều điệu thục nữ. Quân tử hảo cầu. Theo cổ thư chữ Hán, Khổng tuy một thời làm quan nước Lỗ. Nhưng rất ngắn ngủi. Nho giáo thời Khổng tử không phát triển. Khổng tử phải than: "Than ôi! Đạo ta cùng!". Vậy thì quan niệm về "Người quân tử" không thể phổ biến tới tận dân chúng Hán để mà họ làm ra những bài ca dân dã mà gọi là Khổng tử sưu tầm được làm thành Kinh Thi được. Hơn nữa - cũng theo cổ thư chữ Hán - thì đến đời Hán Vũ Đế thế kỷ II BC - Khổng An Quốc mới san định mớ sách ở trong vách nhà Khổng tử bằng chữ Khoa Đẩu (Đây là chi tiết đáng chú ý), san định lại và phổ biến, lúc đó Nho Giáo mới thịnh hành trong xã hội Hán. Nhưng cả 300 năm trước thì trong Kinh Thi - những bài thơ gọi là dân dã được coi là Khổng tử sưu tầm được - thì đầy những khái niệm. ý tưởng cứ làm như có sẵn rồi. Bài thơ trên là một ví dụ.1 like
-
GẶP NGƯỜI MẠNG HỎA Số là Thiên Sứ tui đi mần phoengshui, tư vấn thân chủ - một bà to béo đẫy đà, vòng vàng, nhẫn xuyến đeo đầy người. - Bà nên đặt bể cá cảnh ở đây. "Sơn chủ nhân đinh , Thủy quản tài". Bể cá đặt ở đây là cung Sinh Khí, mục dích để kích tài lộc cho gia đình. Tỏ vẻ hiểu biết, thân chủ của tôi băn khoăn hỏi lại: - Dạ thưa thày, nhà em mạng Hỏa, Bể cá thuộc Thủy. Liệu thày đặt bể cá ở đây có kỵ mạng với em không ạ? Thiên Sứ tôi giật mình như chợt nhớ ra điều gì: - Thôi chết, tôi quên không dặn bà. Bà một năm chỉ nên tắm một lần vào ngày Thìn Tuất Sửu Mùi sau 23 tháng Chạp. Nếu không Thủy Hỏa kỵ nhau, bà sẽ tắt thở mà chết mất!1 like