-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 22/03/2012 in all areas
-
Tôi có một kỷ niệm buồn như sau: Ngày mẹ tôi còn sống, tôi đến thăm mẹ tôi - Nữ sĩ Ngân Giang. Bà nói với tôi: Mẹ vừa có tiểu luận viết chung với mấy tác giả ....trong đó mẹ tôi có nhắc đến ông Trần Quốc Vương. Tôi trả lời ngay: Mẹ ạ! Ông Trần Quốc Vượng có quan điểm lịch sử phủ nhận truyền thống văn hiến Việt . Mẹ viết sách chung với ông này có thể mang tiếng. Mẹ tôi nói : Thế à! Vậy từ này mẹ sẽ chú ý vấn đề này và tránh in chung với ông ta. Cuốn sách của mẹ tôi, tôi cũng không lấy về. Mẹ tôi từ đó cũng không nhắc đến cuốn sách này nữa. Bây giờ ông Ngô Bảo Châu đang viết chung một cuốn sách với một tác giả như vậy. Tôi thấy tiếc cho ông ta. Nhìn chung tôi rất coi thường những kẻ phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống Việt. Nó chứng to một khả năng tư duy tầm "ở trần đóng khố" về mặt khoa học và học thuật, nó chứng tỏ một thứ vô liêm sỉ về mặt văn hóa. Bài này tôi muốn chứng minh cho các quí vị quan tâm sự trơ tráo và tầm tư duy "Ở trần đóng khố" của tác giả bài viết này. Qua đoạn trích dẫn trên chúng ta thấy rằng: Tác giả muốn lấy công văn của vua Khải Định để xác định ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là hoàn toàn mới đây, hay xác định một cách gián tiếp là nó vốn không có và chỉ có từ thời Khải Định. Nhân chứng vật chứng hẳn hoi , tư liệu rõ ràng. Nhưng cái dốt nát của tác giả này là: Trước đó - trước năm 1917 - khi vua Khải Định chưa ban chiếu quy định thì người Việt có kỷ niệm này giổ Tổ không:? Tác giả cũng xác định là có nhưng cho rằng nó vào ngày 11. 3 và vênh váo cho rằng lập luận của ngài Kim Định gẫy đổ hoàn toàn. Cả bài viết của tácgiả toát lên khí chất của sự phủ nhận văn hóa dân tộc trên blog 5xu. Trước khi phân tích cái sai của người này, tôi muốn kể một câu chuyện mà bọn trẻ con chúng tôi chơi đánh quay hồi còn nhỏ. Sau khi Oẳn tù ì xong thì thằng thắng sẽ cầm quay chọi vào đống quay của những thằng chơi nằm một đống cho giăng những con quay ra. Tức là quay của những thằng oẳn tù tì thua phải bị quay của thằng thắng bổ tra tấn sứt sẹo cả. Thằng nào hân hạnh vì chơi thân với nhau, được nó bổ giăng ra trước thì sống lại và tiếp tục bổ những thằng còn lại . Cho đến khi chỉ còn một con quay của thằng nào đó xấu số nằm lại cuối cùng thì quay thằng ấy bị cả bọn bổ sứt sẹo cả. Nhưng nếu trong quá trình bổ quay , chăng may thằng nào bổ trượt mà lăn ra chết thì cả bọn nhao nhao lên nói một câu "Sâu bọ lên làm người". Đấy là câu thiệu trong trò chơi quay của bọn trẻ con chúng tôi. Đến nay, khi thời gian đưa bọn trẻ con hồi ấy thành "hàng quá đát chờ thanh lý", ngẫm lại câu nói trong trò chơi trẻ con ngày xưa cũng thấy buồn cho nhân tình thế thái. Quay trở lại bài viết của tác giả trên blog 5xu. Nếu tôi chỉ viết vài câu ngắn gọn như bài viết trên thì dễ bị hiểu nhầm là lập luận sắc sảo của tác giả, khiến tôi không dám nói năng gì. Mặc dù đề tài này tôi đã nói qúa nhiều trên dd. Nhưng với những ai lười tìm kiếm, hoặc khó tìm sẽ hiểu nhầm. Còn vấn đề lấy chiếu của vua Khải Đinh làm tư liệu lịch sử để minh chứng ngày giỗ Tổ Hùng vương chỉ đơn giản mới xuất hiện gần đây thì cũng không phải là tác giả này mới phát hiện. Trước đó cũng vài tay tư duy tầm "ở trần đóng khố" cũng hí hửng nói từ lâu rồi. Bởi vậy tôi cũng cần bày tỏ vài lời: - Phong tục chọn ngày giỗ của Việt tộc , có nơi chọn đúng ngày mất của người thân quá cố làm ngày giỗ. Có nơi lùi lại một ngày. Trài hàng ngàn năm trôi qua với bao thăng trầm của Việt sử, ngày giỗ tổ 10. 3 được lùi lại 1 ngày thành 11. 3 thì cũng không có gì là lạ. Bởi vì tính biểu tượng của ngày Giỗ bị hiểu nhầm thành ngày mất thực tế của vị vua tổ. Nên người ta lùi lại 1 ngày cũng không có gì là lạ. Vua Khải Định quyết định lấy 10. 3 không phải vì nhà vua muốn áp đặt một cách chủ quan. Mà nhà vua chỉ xác định lại chính xác tính nguyên thủy của ngày giỗ Tổ có từ trước đó trong truyền thống văn hóa sử Việt. Hoàn toàn không phải ngày giỗ Tổ 10. 3 chỉ xuất phát từ thời vua Khải Định - tức là từ 1917. Cần phải xác định rõ ràng như vậy. - Trong phong tục thờ Tổ của Việt tộc chỉ xác định 1 vị Tổ. Vậy tại sao đền thờ Tổ các vị vua Hùng lại thờ 18 vị Tổ và lại thờ chung 1 ngày? Không lẽ cả 18 vị Tổ mất chung một ngày là 11, hoặc mùng 10 tháng Ba? Tất nhiên điều này chứng tỏ rằng ngày 10 . 3 Âm lịch hàng năm hoàn toàn mang tính biểu tượng cho việc nhắc nhở cội nguồn Việt tộc qua các thời Hùng Vương - cội nguồn lịch sử của Việt tộc. - Tại sao lại chọn ngày 10. tháng Ba Âm lịch hàng năm làm ngày giỗ Tổ các vị vua Hùng mà không phải là một ngày khác? Tất nhiên điều này thì đám tư duy "Ở trần đóng khố" phủ nhận truyền thống văn hóa sử tổ tiên làm sao đủ khả năng hiểu được bản chất của ngày 10. 3. Ở đây tôi giải thích rõ như sau: Tháng Ba là tháng thứ 5 kể từ tháng Tý - tức tháng "Một" theo cách gọi dân dã của Việt tộc: Một - Chạp - Giêng - Hai - Ba...". Tháng là tập hợp - là Mẹ - của ngày là cái có trước thuộc Dương. Ngày là con của tháng - là cái có sau - là phần tử trong tập hợp tháng thuộc Âm. Đây chính là độ số 5/ 10 thuộc Trung Cung Hà Đồ - Ngôi Hoàng cực - tượng trưng cho Vương quyền. Độ số 5 thuộc Dương nên lấy tháng Ba là tháng thứ 5 kể từ tháng Tý - cũng là tháng Thìn - Rồng thuộc thổ và biểu tượng của Vương Quyền. Ngày 10 thuộc Âm, nên chọn là ngày 10. Ngày 10 tháng Ba mang tính biểu tượng của vương quyền thời Hùng Vương lập quốc, nên nhà vua Khải Định ra chiếu chỉ phục hồi chính xác ngày này. Chứ không phải vua Khải Định tự ý xác định. Hiện tượng lấy ngày 10. 3 làm ngày giỗ Tổ các vua Hùng mang tính biểu tượng cũng là một hiện tượng mang tính minh triết trong truyền thống văn hóa sử Việt xác định rằng: Chính Hà Đồ là nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành - chính là "Pháp Đại uy nỗ" trong tranh thờ Ngũ Hổ trong nền văn hiến Việt. Đồng thời cả 18 vị vua Tổ thờ chung một ngày mang tính biểu tượng trên cũng xác định rằng - Thời Hùng Vương không phải có 18 vị vua cha truyền con nối . Mà là 18 tổ ngành của 18 thời Hùng Vương. Trong đó có một vị vua Hùng cuối cùng của ngành Hùng Vương thứ VI phải thờ ngoài chánh điện Thượng - Trung - Hạ. ======================= PS: Cá nhân tôi sẽ không bao giờ mua cuốn sách Ai&Ky của ông Ngô Bảo Châu , nếu ông ta viết chung với tác giả này theo như lời quảng cáo trên blog 5xu.2 likes
-
Trong topic này, chúng tôi mong muốn sự công tác của quí vị và anh chị em quan tâm sẽ đưa vào đây những bài viết sưu tầm được có quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt nhân danh khoa học. Mục đích của topic này là tập hợp tất cả các luận cứ minh chứng cho quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt của các nhà nghiên cứu, học giả trong và ngoài nước - dù họ ở bất cứ học vị nào - để làm cơ sở chứng minh cho sai lầm và tính phi khoa học của họ. Đề nghị ghi rõ nguồn và tác giả.1 like
-
Giới Thiệu Từ xuân Nhâm Thìn 2012, Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương (TTNC Lyhocdongphuong) cộng tác với báo Thế Giới Gia Đình (TGGĐ), một ấn phẩm của báo Đồng Nai, trong chuyên mục tư vấn phong thủy thường kỳ, với nhiều thành viên nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương cộng tác, nhằm đem đến cho đọc giả những hiểu biết hữu ít về Phong thủy Lạc Việt. Ởsố báo số 3, phát hành ngày 01/02/2012, thành viên nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương, Nguyễn Đức Thông, tức Hatgaolang, đã có bài viết đầu tiên về chuyên đề ứng dụng của Phong Thủy Lạc Việt về cách bố trí hoa trong phong thủy, theo quan niệm Phong thủy Lạc Việt thuộc nền văn hiến Việt 5000 năm huyền vĩ. Ban biên tập TTNC Lyhocdongphuong xin trân trọng giới thiệu cùng các thành viên diễn đàn Lyhocdongphuong.org.vn và các đọc giả gần xa. TM Ban Biên Tập1 like
-
Bài Thơ Thư Cưu
thaochau liked a post in a topic by Lãn Miên
Bài thơ Thư Cưu 关关雎鸠,在河之洲。窈窕淑女,君子好逑。 参差荇菜,左右流之。窈窕淑女,寤寐求之。求之不得,寤寐思服。悠哉悠哉,辗转反侧。 参差荇菜,左右采之。窈窕淑女,琴瑟友之。参差荇菜,左右芼之。窈窕淑女,钟鼓乐之。 Thời Tiên Tần, “Thi Kinh” chỉ gọi bằng một tiếng là Thơ=Thi, có tới hơn 1000 bài sưu tầm trong dân gian, bao gồm Phong (phong dao) là ca dao nói về phong tục tập quán của dân cư thuộc 15 quốc; Nhã là những bài ca của nhã nhạc trong triều đình; Tụng là những bài nhạc ca cúng vua (lướt “Tế Cúng”=Tụng). Tất cả đều viết theo thể thơ 4 chữ (thể 4 chữ kiểu này thì đầy rẫy trong thành ngữ, tục ngữ, đồng dao của Việt Nam, như: Nhất nước nhì phân, Tam cần tứ giống; Tốt giống tốt má, Tốt mạ tốt ló; Chi chi chành chành, Cái đanh thổi lửa, Con ngựa chết chương, Ba vương ngũ đế, Bắt dế đi tìm, Ú tim ù ập v.v.). Sau chỉ còn có hơn ba trăm bài, gọi là “Thi” hoặc “Thi Tam Bách”, Khổng Tử chỉnh lý lại. Sau, Hán Vũ Đế giao cho Đổng Trọng Thư và các học giả, độc tôn Nho thuật, giải nghĩa, tôn “Thi” thành kinh điển, nên gọi là “Thi Kinh”, gồm 305 bài, là của sưu tầm từ thời đầu Tây Chu đến thời giữa Xuân Thu, dài hơn 500 năm. 包括 : 周南、召南、邶、鄘、卫、王、郑、齐、魏、唐、秦、陈、桧、曹、豳(邠)十五国 Theo giải thích trên mạng này (http://www.ccview.net) thì 15 quốc, đều là “chư hầu quốc” của nhà Chu gồm: Bội 邶 (ở Hà Nam), Đường 鄘 (ở Hà Nam), Vệ 卫 (ở Hà Nam), Vương 王(ở Hà Nam), Trịnh 郑 (ở Hà Nam), Tề 齐 ( ở Sơn Đông), Ngụy 魏 (ở Sơn Tây), Đường 唐 (ở Sơn Tây), Tần 秦 ( ở Thiểm Tây), Trần 陈 (ở Hà Nam – An Huy), Cối 桧 (ở Hà Nam), Tào 曹(ở Sơn Tây), Mân 豳(邠) (ở Thiểm Tây - khác với Mân 闽 có về sau là ở Phúc Kiến). Loanh quanh chỉ ở vùng Thiểm Tây - Sơn Tây - Hà Nam - An Huy - Sơn Đông. Trong đó có hai quốc không giải thích là nằm ở đâu, đó là Chiêu Nam 召 南 ( vậy quốc Chiêu Nam 召 南 này chính là Nam Chiếu 南 召 ở Vân Nam), và quốc Chu Nam 周 南(Chu Nam 周 南 này chính là Văn Lang ở Lĩnh Nam). Chu Nam nó không còn là quốc nữa mà là Nước của các quốc còn lại nêu trên, các “chư hầu Quốc”, tức các “thứ hai Của Nước”. “Của Nước”=(lướt)=Quốc. Hứa Thận giải thích “Quốc” nghĩa là “khu vực”. Chữ Chu Nam chỉ là dùng chữ để dịch nghĩa mà thôi. Chu 周 nghĩa là cái Vòng (chu vi), tức cái Vùng, cái Vuông 口, mà về sau viết lệch đi thành chữ Văn 文 (người Triều Châu vẫn đọc chữ Văn 文 này là “Vuông”, còn người Quảng Đông vẫn đọc chữ Văn 文 này là “Mảnh” vì cái Vuông ấy nó Vuông Vắn mà Vành Vạnh như cái Mủng nên đọc nó là Mảnh, cái âm tiết “Văn” ấy cũng do từ dính Vuông- “Vắn” của tiếng Kinh mà ra). Hứa Thận giải thích chữ Văn 文 nghĩa là vuông, viết cách sai nét đi. Chu Nam 周 南 có nghĩa là Vùng đất của người Nam, ở Lĩnh Nam. (Lang=Nang=Nam chỉ là sự biến âm). Chu Nam cũng có nghĩa là Đông Đúc ở phía Nam. Chữ Chu 周(=Châu 周) trong Việt ngữ còn có nghĩa là Trọn Vẹn (chu toàn, châu đáo) là một khái niệm mang nghĩa Âm Dương hài hòa, bản thân chữ Trọn Vẹn nói lên điều đó, bởi nó là hình ảnh của cái bánh Dầy trên chốc bánh Chưng, tức Tròn trên Vuông, Tròn Vuông đã được nâng lên nặng ý (đổi thành hoàn toàn dấu nặng) thành Tròn Vuông = Trọn Vẹn. Đúng như Hứa Thận giải nghĩa chữ Chu 周 nghĩa là: Mật dã 密 也 “Mật ạ”, tức đông đúc, mà đông đúc là kết quả của Âm Dương hài hòa (theo tư duy phồn thực), cách đọc nó là: lướt Chức 職 留 Lưu = Chưu. Chưu=Chu=Châu=Chậu=Chứa=Chửa, là kết quả của sự giao hợp, tức Chung Đậu = Châu, Chung Đụ = Chu. Tượng hình trong cổ văn của chữ Chu là giống hình Âm vật và Dương vật cùng nhau, có Tròn, có Vuông (để sẽ cho ra cái Trọn Vẹn). Về sau Nho viết đẹp hơn, chữ Chu 周 gồm bộ Cung bên ngoài, tượng trưng cho cái tử cung, bên trong gạch chia đôi trên dưới hai phần, bên dưới là Vuông 口 tượng trưng Trứng (cái) Âm, bên trên là hai gạch tượng trưng Tinh Trùng (đực) làm thành dấu cộng + Dương. Trứng và Tinh Trùng cùng chen nhau Chung Đậu = Châu trong tử cung nên mang nghĩa là Mật (khi ở bên trong), để rồi có thể đẻ ra một lúc chục con hay trăm con, là “mẹ tròn con vuông” tức Trọn Vẹn và đương nhiên là đông đúc, tức Mật (khi đã ở bên ngoài). Các bài thơ trong “Thi Kinh” từ thời Xuân Thu, đã được người nay chú giải, nếu không thì không ai hiểu. Bởi nó là thơ của người Việt. Để xem thơ trong “Thi” có phải là thơ của người Kinh hay không, ta xem bài đầu tiên là bài “Quan Thư” (“Con Cu”, tức con chim cù cu hay còn gọi là con chim gáy, con nào có lông lốm đốm đẹp thì còn được gọi là con cu cườm). Chim cù cu sống có đôi, rất chung thủy “trống”- “mái”, một “chồng”- một “mợ”. Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu lưu chi. Ngô muội cầu chi. Cầu chi bất đắc, Ngô muội tư phục. Du tai Du tai, Triển chuyển phản trắc. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu thái chi. Yểu điệu thục nữ, Cầm sắt hữu chi. Sâm sai hạnh thái, Tả hữu mao chi. Yểu điệu thục nữ, Chung cổ lạc chi. Dịch: Con Con Cù Cu, Ở ổ chỗ cao. Yểu điệu thục nữ, Cu Tí ham nhau. Ngắn dài bông sen, phải trái lay chen. Ngỏ muồi cầu chứ , Cầu mà không được, Ngỏ muồi lại nhớ. Dài dài dài dài, trằn trọc lăn lóc. Ngắn dài bông sen, Phải trái lay chen. Yểu điệu thục nữ, cầm sắt tình chứ. Ngắn dài bông sen, Phải trái ngắt lên. Yểu điệu thục nữ, chuông cối vui chứ. 【注释】(chú giải) 01、关关:指雌雄两鸟相对鸣叫 02、雎鸠(JuJiu):一种鱼鹰类的水鸟,传说此鸟雌雄终生相守。 03、洲:水中陆地 04、窈窕(YaoTiao):娴静端正的样子 05、淑女:贤德的女子。淑,善 06、君子:对男子的美称 07、好逑:好的配偶 08、参差:长短不齐的样子 09、荇(Xing)菜:一种根生水中、叶浮水面的可食用植物 10、流之:随着水流而摇摆的样子 11、寤寐(WuMei):指日夜。寤,睡醒;寐,睡着。 12、求:追求 13、悠:长久 14、辗转反侧:躺在床上翻来覆去睡不着 15、芼(Mao):采摘 Xem chú giải: 01.Quan关 quan关: Chỉ trống mái hai chim hót mừng đối đáp nhau. Chữ Quan 关 này theo nghĩa chữ là “đóng” (bế quan) nhưng cái âm của nó là âm Việt: Cu=Con=Quan=Quân, dù có viết bằng chữ gì thì cái âm tiết “con” vẫn hiển hiện trong từng chữ khác nhau đó, dù Quan 官 là ông quan, hay Quân 君 là ông vua, hay Quân 军 là ông bộ đội thì vẫn là Con. Quan 关 Quan 关 chính là Con Con, đó là hai Con (chim) 02.Thư cưu 雎 鸠(JuJiu): Một loài chim nước giống chim ưng ăn cá (?), truyền thuyết nói rằng giống chim này trống mái chung thủy với nhau đến cuối đời. Từ điển Hán Việt (nxb KHXH –HN 1997) giải thích Thư Cưu là: chim gáy trong sách cổ (điều này đúng). Có lẽ do người ta đọc chữ Tại Hà Chi Châu nên nghĩ nó là chim nước. Âm tiết Thư, ngoài chữ Thư 雎 bộ chuy 隹 là chim, còn có chữ Thư 狙 mà Từ điển trên giải thích là: chỉ “người” thời Xuân Thu, như Phạm Thư, Đường Thư. Vậy gọi theo kiểu Việt là Thư Phạm, Thư Đường, tức Cu Phạm, Cu Đường (hoặc cả như Cu Tí là Câu Tiễn, vua nước Việt từng đóng đô ở Cối Kê). Cu = Cụ = Cử = Thư đều là cách người Việt gọi người. Người Vân Kiều hay người Kinh ở nông thôn vẫn gọi người là Cu, nặng kính trọngg thì gọi là Cụ. Cu Trai = Chài (Chài tiếng Tày là Anh, “noọng ơi noọng au Chài mí ?” là “nàng ơi nàng yêu Anh mấy?”, “mấy ?” là dấu hỏi, nghĩa là “không?”), Cu Gái = Cái, Cu Hòn = Con (con trai mới có hòn giống), do đó mà có từ “Con Cái” trong tiếng Việt, Hán ngữ gọi là “Tử Nữ”. Cu = Cụ = Cử = Cưu. Thư Cưu là Cù Cu, con Cù Cu là con chim gáy. Loài chim nữa cùng loại, cũng sống đôi chung thủy, được lấy làm biểu tượng đôi lứa là chim Câu, mà người Việt gọi đôi theo mái trống là Bà Cu = Bồ Câu. 03.Châu 洲: Lục địa trong nước. Chữ Châu mang nghĩa lục địa là về sau mới có. Thời cổ đại chữ Châu này là Chỗ Đậu = Châu. Châu=Cầu=Cao=Cồn=Hòn (do thời Nghiêu có thiên tai biển dâng, người Việt đò đến những đỉnh núi đã thành chơ vơ giữa biển nước, gọi đó là Cồn Đậu (Cồn Đậu = Côn Đảo). Cồn Đậu = Cầu, nên quần đảo Đài Loan và Nhật Bản xưa gọi là Lưu Cầu. Hà, xưa là chỉ nơi đựng nước: Ổ = Hố = Hồ = Hà. Ổ = Ao = Áo = Âu = Au = Yêu đều là những cái đựng, dù là đựng người (cái Ổ, cái Áo, “yêu nhau cổi áo cho nhau”), đựng nước (cái Ao, cái Âu, cái bát chiết Yêu), hay đựng tình cảm ( cái Yêu, cái Au “Au chài mí ?”). Bài thơ viết “Tại Hà Chi Châu” là dùng hình tượng đảo giữa nước nhưng là để nói ý cái ổ trên cao, vừa nhắc điển tích trận biển dâng thời Nghiêu, ý nói đôi chim Cù Cu đã phải qua bao gian lao mới có được cái ổ để nên vợ nên chồng 04.Yểu Điệu 窈 窕(YaoTiao): Dáng nhuần tịnh đoan chính Chữ này phải chú phiên âm, vì chỉ có trong “Hán cổ”. Nhưng tiếng Việt thì dễ hiểu, là “đáng Yêu mà lại Điệu đàng”, tức rất nữ tính mà lại sang trọng, có tri thức. 05.Thục nữ 淑 女: Người con gái hiền đức. Thục,Thiện Các cặp từ đối Âm/Dương theo phồn thực trong tiếng Việt là Nường/Nõn, Nọc/Nái, Nòi/Nụ , từ đó mà có từ Nữ. Thật Đức =Thục, Thật Hiền = Thiện. 06.Quân Tử 君 子: Mĩ xưng đối với nam tử Đơn giản Quân 君 Tử 子 là do từ Cu Tí của tiếng Việt cổ 07.Hảo Cầu 好 逑: Phối ngẫu tốt Việt ngữ không gọi là phối ngẫu mà gọi là “Cùng Nhau” = Cầu. Hám Cùng Nhau thì viết là Hảo Cầu. 08.Sâm Sai 參 差: Dáng ngắn dài không bằng nhau Đây là chữ mượn âm để ký âm: Sâm=Ngâm=Ngắn, Sai=Dài. 09.Hạnh Thái 荇(Xing)菜: Một loại thực vật ăn được, rễ ở dưới nước, lá nổi trên mặt nước (rau hạnh: nymphides peltalum – Từ điển Hán Việt nxb KHXH 1997) Chữ của sách cổ nên ngày nay phải phiên âm, chẳng biết nó là rau gì. Đơn giản hiểu là loại rau ao nhà, người con gái tần tảo hái nấu hàng ngày lo cho bữa ăn gia đình. Nhưng lá nó cọng ngắn dài khác nhau, chen nhau chao động theo sóng nước, nên tôi nghĩ nó là cây sen. Bông sen biểu trưng cho đức hạnh của người con gái “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” nên con dâu thường hái bông sen ngày một, ngày rằm thắp nhang cúng tổ tiên nhà chồng để tưởng nhớ, tỏ lòng hiếu thảo, xin chứng giám cho tấm lòng trong trắng của mình 10.Lưu Chi 流 之: Dáng dao động theo sóng nước Lắc lư chớ, viết bằng chữ Lưu 流 Chi 之. Chữ Lưu 流 trong Hán ngữ chỉ có nghĩa là nước chảy. Chẳng qua mượn chữ Lưu 流để phiên âm chữ Lắc Lư 11.Ngô Muội 寤 寐(WuMei): Chỉ Ngày Đêm. Ngô là ngủ tỉnh, Muội là ngủ say Chữ này phải phiên âm, vì không có trong Hán ngữ. Thực ra nó là âm tiết Ngỏ Muồi của tiếng Việt. Ngỏ là ngủ mà mở mắt thao láo vì không ngủ được, còn có từ ghép Mở Ngỏ. Muồi là ngủ say (“Ru tam, tam thẹc cho muồi. Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu”- Bài ru con xứ Huế, “tam” là gọi tránh, mẹ, cha rồi đến con là thứ ba) 12.Cầu 求: Truy cầu Kêu xin ơn Sâu=(lướt)=Cầu 13.Du 悠: Trường cửu Trong thơ viết là Du Tai, đó là phiên thiết của từ Dài (lướt Du Tai = Dài; lướt Dài Lâu = Dâu) 14.Triển Chuyển Phản Trắc 辗 转 反 侧: Nằm trên giường lật qua lật lại, ngủ không được Hán ngữ chú giải cụm từ “trằn trọc lăn lóc” của tiếng Việt nghe mà thấy khó nhọc cho họ wá xá. Tiếng Việt chỉ có cụm 4 từ đó thôi mà hình dung được hết rồi, biết là ở trên giường luôn và ngủ không được: Trằn là kết quả lướt của Trở Lăn,Trở Lăn = Trằn; Trọc là kết quả lướt của Trở Dọc, Trở Dọc = Trọc; Lóc là kết quả lướt của Lăn đến Góc, Lăn đến Góc = Lóc. Lăn đến góc giường rồi tất nhiên phải lăn trở lại nếu không thì rớt xuống đất, nên từ đôi Lăn Lóc là đã nói lên cái sự lăn đi lăn lại đó mà vẫn là ở trên giường (các nhà ngôn ngữ học VN thì nói: những từ như kiểu từ Lăn Lóc không phải là từ Láy, cũng chưa định nghĩa được là từ gì, trong đó Lăn là rõ nghĩa, còn Lóc chưa rõ nghĩa, gọi nó là từ “chờ chưa sử dụng”). Hán ngữ đã phiên âm từ Trằn Trọc bằng mượn âm từ Triển Chuyển, Triển 辗 là cán bằng trục xoay, Chuyển 转 là chở bằng xe, còn phiên âm từ Lăn Lóc bằng Phản Trắc. Dịch được ngôn từ của Nhã ngữ đã khó ( Người Việt thì mới có khái niệm “khó nhọc với việc bên ngoài” thì gọi là Vất-Vả, còn “khó nhọc với chính bên trong bản thân” thì gọi là Vật-Vã, đều cùng tơi “V” với Việt. Người Hán hay người Anh chẳng có kiểu đặt tên khái niệm được như vậy), dịch ý thơ của Nhã ngữ còn khó hơn. Trên mạng này chỉ thấy chú giải, không thấy dịch ý thơ. 15.Mao 芼(Mao): Thái Trích Hái=Thái, Tách=Trích. Chữ Mao phải phiên âm, vì không có trong Hán ngữ. Mắn Vào = Mao, có nghĩa là Ngắt. Mắn=Ngắn=Ngắt. Mắn là sự cắt ngắn, cả đối với cọng rau (Mắn Vào = Mao nghĩa là Ngắt đem về), cả đối với thời gian (ví dụ từ Mắn Đẻ là rút ngắn thời gian giữa hai lần đẻ). Trong bài thơ này tôi coi cây Rau Hạnh chỉ là do Nhã ngữ muốn ám chỉ cái đức hạnh của người con gái đi làm dâu, mà chồng đang đi xa, ở nhà nhớ nhung, trằn trọc không ngủ được, vẫn cầu mong tốt lành cho chồng và nhà chồng, hiếu thảo thờ phụng gia tiên. Tôi nghĩ Rau Hạnh đó là ám chỉ Bông Sen. Người con gái hiền thục đó khi nhớ chồng đem đờn ra gẩy. Cuối cùng thì họ cũng đến lúc sum vầy “Chuông Cối vui chứ”, Chuông = Chung (tượng trưng người chồng), Cối = Cổ là cái trống đồng hình giống cái cối úp (tượng trưng người vợ). Bài thơ lấy bối cảnh ổ chim Cù Cu để ca ngợi tình nghĩa vợ chồng. Thời Việt Nho còn rất hồn nhiên, tự do yêu đương cũng như tự do tư tưởng, không bị gò ép như thời Hán Nho về sau, phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” gái bó chân, nhốt trong lầu hồng, như nô lệ của đàn ông. Người phụ nữ Việt của Nhã ngữ đoan trang đức hạnh lại tự do bình đẳng, vui vẻ chủ đọng trong hạnh phúc, tình dục và trách nhiệm gia đình chồng, qua hình ảnh đôi chim Cù Cu. Ca dao Việt còn có câu: “Thương chồng nấu cháo cù cu. Chồng ăn chồng đụ như tru phá ràng”. Hình ảnh ngắt bồng sen đem về cúng cầu gia tiên, đúng là vai trò đảm đang của người con dâu: Con trai có hiếu thường tình. Con dâu có hiếu làm vinh gia đàng.1 like -
1 like
-
Chúng ta đang phục hồi một học thuyết đã từng tồn tại trên thực tế, chứ không phải tổng hợp từ những nhận thức và các lý thuyết riêng phần đã được kiểm chứng để làm ra một học thuyết tổng hợp những tri thức đã có. Đây là một trường hợp hy hữu chưa từng có trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại nhận thức được. Bởi vậy, công việc của chúng ta có những đặc thù của nó. Nếu chúng ta cứ phải chứng minh bằng thực chứng tất cả mọi hiện tượng thì có thể nói chúng ta sẽ phải làm lại từ đầu những gì tiền nhân đã làm để có được thuyết Âm Dương Ngũ hành. Mong rằng anh chị em hãy cố gắng học và suy nghiệm tất cả những vấn đề từ lý thuyết căn bản liên quan đến Phong thủy Lạc Việt và chứng tỏ được tính hợp lý lý thuyết của học thuyết này cũng đủ là một kỳ công.1 like
-
1 like
-
Nếu xây mới, tính tâm khu đất, phân cung tốt xấu rồi đặt ngôi nhà ở cung xấu và hợp với loan đầu. Sau đó chỉ cần tính tâm ngôi nhà là được. Thân mến Để như thế cũng được, tránh cạnh bàn chứa bồn rửa đâm vào bếp Thân mến híc, cô này hình như đang xem cho ai, lúc thì mẹ 1951, lúc thì mẹ 1961 Tôi sẽ không xem cho nữa đâu Em nên đưa link chỗ cũ đã tư vấn cho anh, anh đỡ phải tìm nhé Thân mến1 like
-
nhà chị sinh ngay trong năm nay thì tốt, sang năm thì xấu ko kể xiết. Nếu chị vẫn sinh con sang năm thì con út nên sinh đúng năm tốt. Như: 2015, 2019, 2021.1 like
-
Cứ nghe mấy thấy vớ vấn phán bậy phán càng rước khổ vào thân, rước phiền cho mọi người. Theo nghiên cứu của Trung tam nghiên cứu Lý học Đông phương, xác nhận Lý học Đông phương với những môn ứng dụng của nó là Tử vi, Bốc dịch, Độn toán, Phong thủy...thuộc nền văn hiến Việt 5000 huyền vĩ thì nam nữ yêu thương nhau thì cứ lấy, cứ cưới chả cần gì phải cưới âm cưới iết gì cả. Thương nhau thì cứ cưới nhau Không cần coi tuổi sách Tầu sách tây Sinh con thì phải hỏi thầy Tuổi con kị hạp việc này chớ khinh. Thiên Đồng1 like
-
Mẹ ơi! hồi chưa biết PTLV...Vợ chồng TB làm ăn cũng có chút để dành.. Vợ kêu mua vàng trữ nha anh... TB phang ngang...Tui sinh năm 72 mạng mộc, em sinh năm 81 mạng mộc luôn... Trữ "kim" cho nó chém à...mua "đô" thì được... Dù sao "đô" cũng là giấy...mà giấy từ đâu ra...từ "gỗ" chớ đâu...! Vậy là vợ TB te te mua đô...khoảng 1.500 "đô" à lúc đó tỉ giá khoảng 18.0...18.1 (2008) Mẹ ơi sau đó "kim" từ 17tr...nó lên một mạch 23-24. Vợ sốt ruột, TB cứ kệ, nó lên tiếp 31...32... "Đô" cứ tà tà... 18,1...18.2...đến ...19....vợ dấu TB bán "đô" sắm "kim"... (lỗ hết 5 chỉ)... Sau đó "kim" leo lên 37...38... Vợ TB "bóng gió": mang tiếng là dân Kinh tế mà đi..."mê tín"...mộc với kim... TB "giả lả"...kinh tế là chuyện anh...nhưng "kê tính" em là số 1...Vợ anh giỏi mà... Huề cả làng... Giờ biết PTLV rồi...nên không "ba mứa" như hồi trước nữa...1 like
-
1 like
-
Không biết giờ sinh có chắc chắn? Nếu đúng lá số năm nay nếu có dự định du học thì cũng sẽ thành công, nhưng cẩn thận có vài cản trở có thể là thủ tục giấy tờ mà sự định đi phải hoãn lại khoảng tháng 7 hay 9,10 âm lịch. Công danh và hôn nhân đều thuận lợi tốt đẹp, năm nay sức khỏe kém thường hay bị đau bụng phụ nữ, đau dạ day hay đường ruột, đi đứng nhìn trước ngó sau không bị xe tông, tiền bạc hao hụt nhiều việc phải chi tiêu cẩn thận bị trộm cắp hay dính tới các thủ tục pháp lý mà hao tài... Từ tháng 7 âm trở đi thì thuận lợi Với lá số này thì dạng người hơi cao, da trắng, mặt hơi vuông hay tròn đầy đặn, khá xinh đẹp nữ tính ra ngoài nhiều chàng để ý, dịu dàng ít nói có điều chi hay để trong lòng , cũng lãng mạn hay mộng mơ, thích đọc sách, tiểu thuyết...biết nhiều nữ công gia chánh. Răng yếu hay bị sâu, có bệnh liên quan tới hô hấp, tay chân có tỳ vết sẹo phía bên phải?1 like
-
1 like
-
1 like
-
Ôi chết nhìn lộn hành vợ và chồng rồi, để luận lại vậy! Chồng: Bính Dần mạng Giáng Hạ Thủy Vợ: Canh Ngọ mạng Lộ Bàng Thổ Thiên can Vợ khắc chồng là tốt nhì theo LTLV Mạng: Vợ khắc chồng là xấu nhất Địa chi: Dần Ngọ tam hợp là tốt nhất Tương quan giữa vợ chồng thì tính Thiên Can là chính nên tổng quan chung 2 bạn hợp được phần Thiên Can và Địa chi, chỉ xấu phần mạng! Cộng lại cũng được 7 phần tốt @longphibaccai: Luận Tuổi Lạc Việt chỉ tính Thủy Hỏa thông thường là dư luận rồi! Thân mến1 like
-
Chiêunam xin chân thành cám ơn sự nhiệt tình của bác VUILONG. Bài trả lời của bác rất nhanh và chi tiết khiến chiêunam cảm động vô cùng: - Thứ nhất: mặc dù bận nhiều việc và nghiên cứu sơ đồ luận giải rất mất thời gian nhưng bác đã trả lời rất nhanh, tỉ mỉ và công phu. - Thứ hai: bài viết phân tích sâu sắc, mở mang cho chiêunam nhiều kiến thức Tử Bình rất quý báu, có đọc sách 10 năm cũng không nghiệm ra. Như vậy, qua sự phân tích của bác VUILONG thì Tứ trụ của anh bạn này cũng không phải là mệnh cục quá xấu 3 xung 1, chỉ kiên nhẫn vượt qua những vận xấu thì tương lai sẽ rất khả quan, chẳng những thế mà mệnh cục còn nhận được giải cứu vào những năm xấu, vận xấu, không quá bi đát như chiêu nam giải đoán, thật là may mắn. Một lần nữa, chiêunam xin cám ơn bác VUILONG rất nhiều Và kính chúc bác luôn dồi dào sức khỏe, có nhiều thành tựu và đóng góp quý báu trong nghiên cứu học thuật. Kính CHIÊUNAM1 like
-
Sau đây là sơ đồ diễn tả điểm hạn khắc chết cha của anh ta năm 2010 (Canh Dần) cùng với điểm hạn của anh ta cũng năm 2010. Rất may là dụng thần của Tứ Trụ này và Thiên Tài (sao cha) Kỷ tàng trong Ngọ trụ năm (sao cha) là một. Vì chi ở tuế và vận đều hóa Mộc và có tổ hợp của thiên can liên kết tuế vận với Tứ Trụ nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại và tính thêm điểm vượng của các can chi ở tuế vận. Thân trước và sau khi tính lại vẫn vượng chỉ có hành Thủy là kỵ vượng đã chuyển sang hành Mộc nhưng điểm hạn của ngũ hành bình thường và theo sao cha vẫn không thay đổi. Theo sơ đồ trên thì điểm hạn khắc cha là 6,5. Số điểm này không được giảm nên nó thừa sức làm cho cha của anh ta chết nếu vẫn sống cùng với anh ta (tức cha của anh ta không đi nơi khác càng xa anh ta càng tốt để sống). Các điểm hạn bị xóa trên sơ đồ là các điểm hạn thêm cho anh ta. Tổng điểm hạn là 9,67, số điểm này được giảm giữa 2 mức 1/2 và 7/12 bởi vì trong Tứ Trụ có 3 chi giống nhau hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này (nếu hóa cùng hành sẽ được giảm cao hơn). Còn Mậu trụ năm là sao vợ, vì vậy Mậu có -1 điểm hạn tại thái tuế nhưng có thêm 1 đh của nước biển trụ tháng khắc lửa đỉnh núi trụ ngày nên tổng điểm hạn là 5,5. Số điểm này cùng lắm là ly hôn. Chú ý : Khi một trong 3 tai họa này xẩy ra thì các tai họa kia sẽ không xẩy ra hoặc có xẩy ra thì rất nhẹ bởi vì trong 3 tai họa này có chung rất nhiều điểm hạn nên nếu nó đã gây ra cho tai họa này thì số điểm đó đã mất, vì vậy nó không thể gây ra cho tai họa khác. Thân chào.1 like