-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 25/02/2012 in all areas
-
Hôm nay, đi đền Hùng với Cty DTT. Cuối buổi đi tham quan, tôi có bài nói chuyện ngắn gọn với anh chị em nhân viến Cty rằng: Chỉ cần ngay tại di tích đền Hùng này cũng đủ chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến. Tôi điểm những yếu tố sau: - Yếu tố thứ nhất: Anh chị em đã thực mục sở thị ba đến Thương Trung Hạ, đền nào cũng thờ đủ 18 Tổ Hùng Vương. Trong khi đó, phong tục của người Việt chỉ thờ tổ là một người ngành đầu tiên. Không có thờ 18 đời liên tiếp đều là Tổ. Đấy là lý do thứ nhất để 18 vị tổ thờ trong đền Hùng là 18 tổ của 18 chi các vua Hùng. - Yếu tố thứ hai: Vua Hùng Vương cuối đời thứ VI thờ riêng ở ngoài không thờ chung chính điện. Vậy thì cộng với 18 vị trong chính điện là vua Hùng thứ XIX chăng? Vậy sự hiện diện của lăng vua Hùng thứ VI bên ngoài chính điện nói lên điều gì? Tất nhiên cách giải thích hợp lý và "khoa học" hơn cả chính là 18 vị vua Hùng thờ trong chính điện chính là 18 Tổ các chi của các thời vua Hùng và vị vua Hùng thờ ngoài chính điện chính là vị vua Hùng cuối cùng của chi trị vì gọi là thời Hùng Vương thứ VI. Vị vua này do chủ quan làm mất nước bởi giặc Ân - mà theo truyền thuyết thì mặc dù Đức Quốc tổ Lạc Long Quân đã sai hịch nữ báo tin, nhưng vị vua này vẫn cậy binh hùng , tướng mạnh, chủ quan , nên giặc Ân bất ngờ tấn công. Vua phải bỏ cả kinh đô Phong Châu chạy sang đất Mân (Phúc Kiến bây giờ). Điều này có ghi trong Kinh Dịch. Đất nước bị tàn phá, dân chúng lầm than. Bao di sản văn hóa của cải đất nước bị mất. Đó là nguyên nhân chấm dứt thời Hùng Vương thứ VI và chi Hùng Vương thứ VII lên ngôi trị vì Văn Lang. Vị vua cuối cùng của thới Hùng Vương thứ VI do có lỗi với dân tộc và lịch sử nên phải thờ bên ngoài chính điện. - Yếu tố thứ ba: Các bạn xuống đền Giếng thấy thờ hai vị công chúa là Tiên Dung và Ngọc Hoa. Chúng ta thấy gì qua hình ảnh hai vị Công chúa này? Truyền thuyết Sơn Tinh Thủy tinh ghi rất rõ -" Cuối thời Hùng Vương thứ XVIII - nhà vua có người con gái duy nhất là Mỵ Nương". Lưu ý các bạn là truyền thuyết ghi lại không hề nhắc đến con gái vua Hùng cuối thời Hùng Vương thứ XVIII là "Ngọc Hoa". Công Chúa Ngọc Hoa lấy Đức Ngài Tản Viên Sơn thánh ở trong một truyền thuyết khác về Đức Thánh Tản Viên. Truyền thuyết Đầm Nhất Dạ cũng ghi rất rõ: "Vào đầu thời Hùng Vương thứ XVIII vua Hùng Vương có người con gái là Tiên Dung". Như vậy, chính nội dung hai truyền thuyết đã xác định rằng: Thời Hùng Vương thứ XVIII không thể là một vi vua. Bởi vì, nếu chỉ có một vị vua thì không thể có một người con gái duy nhất được. Mà là có nhiều vị vua thuộc chi Hùng Vương thứ XVIII. Công chúa Tiên Dung của vị vua Tổ ngành Hùng Vương thứ XVIII (Vị vua đầu thời Hùng Vương thứ XVIII) lấy Chử Đồng Tử - Một trong Tứ Trụ Thiên Vương Hộ quốc; Công chúa Ngọc Hoa lấy Đức Ngài Tản Viên Sơn thánh - Một trong Tứ Trụ Thiên Vương Hộ quốc. Nên được thờ chung. Nhưng đám tư duy "Ở trần đóng khố" sống sượng coi mỗi thời Hùng Vương chỉ có một vị vua, nên đành phải gán ghép bừa công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa thành hai chị em ruột và cho rằng người chị lấy Chử Đông tử và người em thì lấy Sơn tinh. Đồng thời gán luôn Sơn tinh chính là Đức Ngài Tản Viên Sơn Thánh và thay tên Mỵ Nương trong truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh bằng Ngọc Hoa. Điều này mâu thuẫn với chính nội dung truyền thuyết. Nhưng nếu thừa nhận thời Hùng Vương thứ XVIII - và các thời Hùng Vương nói chung - là một ngành của dòng họ Hồng Bàng (Họ lớn, chủng tộc lớn) thì hoàn toàn không hề có mâu thuẫn trong nội dung. Các bạn hãy xem "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại" tôi đã nói rất rõ về các hiện tượng này (Sách có ngoài trang chủ). Yếu tố thứ tư: Cột đá thể An Dương Vương mà các bạn đã nhìn thấy. Rõ ràng là: Nếu đền Hùng chính là kinh thành xưa của các thời Hùng Vương và cuộc chuyển giao quyền lực đã diễn ra ở đấy - để có cột đá thề - thì tất yếu chung quanh vùng này phải còn những di chỉ xác định thành quách cũ và chẳng ai xây cung điện hoành thành tận trên núi cao ngất để vua trèo lên ngự ở đấy cả. Qui mô của đền Hùng không phải quy mô của cung điện - điều này qúa rõ ràng. Qua đó thấy rất rõ rằng: Việc có cột đá thề chỉ là di sản phục chế của tổ tiên xưa đã rút lui xuống đồng bằng bắc Bộ - nơi trú chân cuối cùng của giống nòi Lạc Việt trước sự xâm lăng của Bắc Phương - và tổ tiên ta đã dựng lại những di chỉ để tưởng nhớ một thời Việt sử huy hoàng ở Nam Dương tử mà thôi. Điều này cho thấy rất nhiều địa danh có ở Trunng Quốc thì cũng có ở Việt Nam. Đám tư duy "ở trần đóng khố" khăng khăng Phong Châu chính là Phú Thọ. Tôi đố tất cả đám "hầu hết" và "cộng đồng" chứng minh có cơ sở khoa học điều này. Trừ trường hợp dí súng vào đầu tôi bắt tôi công nhận, hoặc dùng những thủ đoạn khác. Như vậy - vì thời gian có hạn - tôi chỉ vắn tắt những yếu tố căn bản như vậy để các bạn suy ngẫm. Và ngay với di sản đền Hùng cũng đủ để chúng ta thấy thời đại Hùng Vương, kéo dài 18 chi hoàn toàn khoa học và đó là chân lý. Sau buổi tham quan đền Hùng chúng tôi xem hát Xoan - một điệu hát với những nghệ nhân vừa hát vừa múa để dâng lên các vua Hùng - cho thấy Việt sử với một nền văn hiến rất huy hoàng mới có thể tạo ra những điệu hát và nghệ thuật múa cao cấp như vậy. Hoàn toàn không hể có cái gọi là "liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố" như đám người vô sỉ cố tình phủ nhận những gía trị văn hóa truyền thống của Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. ======================== PS: Tôi không đối thoại đồng hạng với đám tư duy "Ở trần đóng khố", cho dù chức danh của họ là cái gì. Trước đây, trong một cuộc hội thảo thơ Ngân Giang - tôi là một trong những người tài trợ chính. Ban tổ chức định mời một người thuộc đám tư duy "ở trần đóng khố" chống lại văn hiến truyền thống Việt tham dự. Tôi kiên quyết không đồng hạng với người này và rút lui sự tài trợ, đồng thời sẽ không tham dự, nếu người này có mặt trong hội thảo thơ Ngân Giang. Đây là hội thảo thơ của mẹ tôi. Cuối cùng Ban tổ chức phải nhương bộ.2 likes
-
Cháu tìm được bài viết này ở đường link khác. Mặc dù bài viết trước trên diễn đàn mình vẫn có. Nhưng hình ảnh thì không nhiều bằng ở trang này. http://www.vanhoahoc...=2110&Itemid=33 Hội thảo quốc tế Dịch học 2011 - Sơn Đông, Trung Quốc Hội thảo học thuật quốc tế “Sự hình thành và tiến hóa Dịch học thời kì đầu” Đại học Sơn Đông, Tế Nam, Trung Quốc 13-17/10/2011 Nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày thành lập Đại học Sơn Đông - một trong những trường đại học lâu đời và có uy tín nhất ở Trung Quốc, trong 4 ngày từ 13 đến 16 tháng 10 năm 2011 tại thành phố Tế Nam (thủ phủ tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) đã diễn ra Hội thảo Khoa học Quốc tế “Sự hình thành và tiến hóa Dịch học thời kì đầu” do Hội Dịch học Trung Quốc và Trung tâm nghiên cứu Triết học cổ đại thuộc Đại học Sơn Đông tổ chức. Các đại biểu tại hội thảo Gồm 70 học giả đến từ các trường đại học và Viện nghiên cứu Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Việt Nam, Đức, Mỹ, Brasil trình bày các thành quả nghiên cứu nổi bật của mình. Nội dung chủ yếu của hội thảo bàn về: Sự hình thành của Dịch học; Quá trình viết thành sách Chu Dịch; Giải thích và giải nghĩa Chu Dịch; Quan hệ giữa Khổng Tử và Dịch học; Vai trò của Dịch học trong sự hình thành triết học Trung Quốc; Quá trình tiến hóa Dịch học qua các thời đại lịch sử, v.v. Phiên khai mạc: GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm (bìa phải) và các thành viên Chủ tịch đoàn Đoàn Việt Nam gồm GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm và ThS. Nguyễn Ngọc Thơ đến từ Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng và Khoa Văn hóa học của Trường Đại học KHXH & NV thuộc ĐHQG tp. HCM trình bày hai báo cáo có liên quan mật thiết với nhau: “Về nguồn gốc triết lý âm dương và ảnh hưởng của nó đến tính cách người Việt” (GS. Trần Ngọc Thêm) và “Ảnh hưởng của âm dương ngũ hành trong truyền thống văn hoá Việt Nam” (ThS. Nguyễn Ngọc Thơ). Hai đại biểu Việt Nam tại phiên báo cáo sáng ngày 15 tháng 11 năm 2011 Ai cũng biết cốt lõi của Chu Dịch là Bát quái, và cơ sở của Bát quái là triết lý âm dương. Âm dương còn là cơ sở của Hà đồ, Lạc thư, Ngũ hành cùng nhiều tư tưởng triết lý khác và phần lớn các ứng dụng trong mọi mặt đời sống của người Á Đông. Song nguồn gốc triết lý âm dương là từ đâu và từ bao giờ thì lại là vấn đề còn để ngỏ, những lời giải đáp hiện có đều khá mơ hồ, thiếu sức thuyết phục. Phần lớn sách vở lâu nay đều chép theo nhau mà cho rằng triết lý âm dương do vua Phục Hy là một nhân vật truyền thuyết hoang đường sáng tạo ra. Một số đông khác thì quy công sáng tạo âm dương cho Trâu Diễn và phái Âm dương gia (đều là những người sinh ra sau khi đã có các khái niệm Bát quái, Ngũ hành từ lâu). Hai báo cáo của đoàn Việt Nam đã đem đến hội thảo một cách nhìn mới và những kết quả mới: Nguồn gốc âm dương không nên chỉ tìm ở Trung Quốc phải tìm rộng ra trong cả khu vực mà triết lý âm dương tồn tại là Đông Bắc Á và Đông Nam Á; không nên chỉ tìm trong các sách vở hàn lâm mà phải tìm trong đời sống văn hoá dân gian nguyên thủy. Theo đó, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm đã chứng minh rằng triết lý âm dương hình thành từ thực tiễn đời sống nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á, hai từ “âm dương” bắt nguồn từ hai từ “mẹ” và “trời” trong các ngôn ngữ Đông Nam Á (ina – yang). Cặp khái niệm “âm dương” với trật tự âm trước dương sau được hình thành trên cơ sở tổng hợp hai cặp khái niệm quan trọng bậc nhất trong cuộc sống của người trồng lúa nước là “mẹ cha” và “đất trời”. Nó mang đậm nét dấu tích của một truyền thống văn hoá trọng nữ Đông Nam Á, khác hẳn truyền thống trọng nam Trung Hoa thể hiện qua hai cặp từ “phụ mẫu” và “thiên địa”. ThS. Nguyễn Ngọc Thơ đưa ra hàng loạt biểu hiện của tư tưởng âm dương ngũ hành trong mọi lĩnh vực phong tục, tập quán, truyền thuyết, v.v. của Việt Nam từ xưa đến nay như những minh chứng cho tính nguyên thủy, tính tự phát của tư tưởng âm dương, lưỡng phân lưỡng hợp trong truyền thống văn hoá Việt Nam và Đông Nam Á. Bình luận về các báo cáo của đoàn Việt Nam, GS. Ngô Di (Viện nghiên cứu Chỉnh thể học California, Mỹ) nhận xét rằng: “Lâu nay giới nghiên cứu Dịch học thường chỉ dựa vào sách vở xưa và các tư liệu khai quật được từ lăng mộ mà bỏ qua quá trình phát triển lịch sử của nó. Chu dịch chắn hẳn phải là kết quả sự đóng góp của cư dân nhiều vùng, là sản phẩm phát triển qua nhiều thời đại. Do vậy việc tìm hiểu nguồn gốc Dịch học phải được mở rộng ra để nhìn từ nhiều góc độ như các học giả Việt Nam đang làm, chứ không phải chỉ giới hạn ở một nơi, bằng một loại chứng cứ quen thuộc. Tổng kết phiên hội thảo này, GS. Vương Tuấn Long (Viện nghiên cứu tư tưởng truyền thống Trung Quốc thuộc Đại học Sư phạm Thượng Hải) kết luận: Trong báo cáo của mình, GS. Trần Ngọc Thêm đến từ Việt Nam đã cho thấy rằng nguồn gốc của Kinh Dịch không thể tìm trong truyền thuyết mà phải đi tìm trong sự phối hợp giữa điều kiện tự nhiên với bối cảnh lịch sử - xã hội của thực tiễn cuộc sống. Bằng những nghiên cứu tỷ mỷ, với những dẫn chứng rõ ràng, trên cơ sở phân tích tính đặc thù của cuộc sống nông nghiệp lúa nước, tác giả đã chứng minh có sức thuyết phục về nguồn gốc Đông Nam Á của tư tưởng âm dương. Phát triển theo hướng này, báo cáo của ThS. Nguyễn Ngọc Thơ cung cấp hàng loạt tư liệu sống cho thấy tư tưởng âm dương đã thẩm thấu sâu rộng trong cuộc sống dân gian Việt Nam, những biểu hiện này rõ ràng là mang tính nguyên thủy. Hai báo cáo của các nhà khoa học Việt Nam liên kết chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất, cho thấy kiểu văn hoá âm dương ưu tiên mẹ hơn cha, địa hơn thiên, với một tư duy lưỡng phân lưỡng hợp rất thú vị. Nó rất khác lạ với truyền thống trọng nam Trung Hoa và khái niệm lưỡng nghi vốn rất quen thuộc ở Đông Bắc Á. GS.TSKH.Trần Ngọc Thêm nói chuyện chuyên đề tại Đại học Sơn Đông Bên lề hội thảo, các đại biểu Trung Quốc và quốc tế được mời đi thăm chùa Linh Nham Tự, một ngôi chùa cổ kính pha trộn hai phong cách Tịnh độ tông và Mật tông có từ thời Bắc Ngụy ở vùng Thái An, ngay bên cạnh núi Thái Sơn. Trong thời gian diễn ra hội thảo, đoàn Việt Nam được mời trình bày hai chuyên đề giới thiệu văn hóa Việt Nam tại cơ sở chính của Đại học Sơn Đông (Tế Nam) vào chiều ngày 13/10/2011. Các chuyên đề gồm có “Tính cách văn hóa Việt Nam” (GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm), và “Phong tục tết Đoan ngọ Việt Nam và Trung Quốc dưới góc nhìn so sánh” (Th.S. Nguyễn Ngọc Thơ), song do hạn định về thời gian, chuyên đề thứ nhất giới thiệu hoàn chỉnh, thứ hai chỉ giới thiệu tóm tắt. Trong khuôn viên Linh Nam Tự - Thái An, Sơn Đông, Trung Quốc Sau Sơn Đông, đoàn Việt Nam đến Bắc Kinh. GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm được Hội Dân tục học Trung Quốc và Đại học Thanh Hoa (một trong hai đại học hàng đầu Trung Quốc) mời nói chuyện chuyên đề “Tính cách văn hóa Việt Nam” lúc 14h30 ngày 18 tháng 10 năm 2011. GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm là học giả Việt Nam đầu tiên trong khối khoa học xã hội – nhân văn giới thiệu chuyên đề ở Đại học Thanh Hoa. GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm nói chuyện tại Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh Sau Bắc Kinh là Côn Minh (Vân Nam). GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm tiếp tục nói chuyện chuyên đề “Tính cách văn hóa Việt Nam” tại Đại học Dân tộc Vân Nam. Đối tượng chính là giảng viên và sinh viên chuyên ngành Việt Nam học tại các trường Đại học Dân tộc Vân Nam, Đại học Sư phạm Vân Nam, Đại học Ngoại ngữ Vân Nam v.v.. Sau phần nói chuyện, nhiều thầy cô giáo và sinh viên Trung Quốc đã thảo luận, trò chuyện với GS. Trần Ngọc Thêm về những vấn đề văn hóa Việt Nam trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm 2001, NXB. Tp. Hồ Chí Minh) vốn rất được giới nghiên cứu chuyên ngành Việt Nam học tại Trung Quốc quan tâm. Cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm) được giáo viên và sinh viên ở đây sử dụng rộng rãi (nhiều ngườiđãđem sách tới xin chữ ký tác giả). GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm nói chuyện tại Đại học Dân tộc Vân Nam (Côn Minh, Vân Nam) Khoa Văn hóa học Người post bài: Nguyen Ngoc Tho Cập nhật ( 05/11/2011 )1 like
-
NÔI khái niệm Hãy đọc trên mạng bài báo của Phúc Kiến Nhật Báo ngày 23/02/2012: “Hãy làm cho rừng rậm tiến vào thành phố, Hãy làm cho thành phố rộng tay ôm lấy rừng rậm” 让 森 林 走 进 城 市 让 城 市 拥 抱 森 林 ( 2012-02-23 09:10:42 来 源:福 建 日 报 ) với 6 hình ảnh cực đẹp của các thành phố huyện thị xanh mát mắt bởi rừng cây, đa số là rừng cây vải cho trái, xanh mượt quanh hồ hoặc hai bên bờ sông, mà khung cảnh ấy nằm ở vị trí lọt thỏm ở giữa lòng thành phố, gọi là “thành phố sinh thái”, 58% diện tích khu dân cư là cây xanh, với nguyên tắc thực dụng “bên thân là xanh, xanh cho thu nhập” (giống như cây Me với cây Sấu của phố Hà Nội xưa). Chữ “Dung 拥 Bao 抱” ở trên, tôi dịch là “Rộng Tay Ôm” vì hai chữ đều có bộ “tay 扌” ; mà theo QT: Rộng=Dông, dông dài,=Dung 拥 ; Ôm=Áo=Bao 抱 , trong các âm tiết trên thì âm tiết Rộng là cổ xưa nhất, vì theo logic của QT, nó được phát ra từ Ruột, cho nên tôi mới gọi mỗi âm vận là cái “Rỡi”, tức cái “Ruột nhờ Lưỡi mà đưa ra Lời”=Rỡi , còn cái “Tơi” là cái phụ âm đầu, tức cái “Tay đưa Lời”=Tơi. Có Tơi+có Rỡi thì thành một âm Tiết, mà trong tiếng Việt thì Tiếng=Tiết=Tế=Từ tức phải có nghĩa hoàn chỉnh. Cũng như con Troi=Dòi là khi nó còn ở Nôi một chỗ, khi mọc cánh thì nó Rộng Rong Ruổi mất rồi, nên mới gọi nó là con Ruồi .Tơi cũng là cái vỏ ngoài, tiếng Việt cổ còn gọi cái vỏ rạ của cây lúa là Toóc, đi “bứt Toóc” tức là đi “cắt rạ”, công đoạn hai, sau khi đã gặt cái bông lúa rồi, Toóc = Tơi = Túc 足, như bộ chân nhiều vô số kể ở bên ngoài thân của con sâu cuốn chiếu; ( hay là sau khi Sĩ Nhiếp dạy cho dân Việt biết đọc chữ Túc 足 rồi, dân Việt mới quay ngược lại một vạn năm trước để gọi cái vỏ rạ của cây lúa là Toóc ? ngôn ngữ hàn lâm có trước hay ngôn ngữ dân dã là có trước ?). Cái “Vắng phụ âm đầu” cũng gọi là cái “Tơi”, thực tế thì có thể gọi là cái vắng tơi, vì trong ngôn ngữ thì cái không có vẫn là “có khái niệm” chẳng thế mà cái lỗ trống vẫn có thể đếm được là có bao nhiêu lỗ trống; ở trường hợp này Ôm=Áo là hai từ cùng nôi khái niệm, vì tuy Rỡi của chúng khác nhau do bị thay, nhưng chúng vẫn có cái chung là cùng “Vắng Tơi”, ( QT thay Rỡi hoặc thay Tơi đã giải thích rồi). Trong tiếng Việt, từ đối là hai từ ngược nghĩa về chất, làm thành một cặp, mà tôi ghi bằng cách có một dấu xẹt “ / “ giữa chúng, như Nắng/Nước, Đất/Đầm. Từ đôi là hai từ đồng nghĩa ghép với nhau thành một từ hai âm tiết, mang nghĩa nhấn mạnh cho tiếng đầu, nghĩa là “nhiều” cái đó, như từ Đất Đai, hiểu ngay là nhiều loại đất nói chung, sau người ta hay nói tắt, chỉ có một chữ Đất, để cho bớt ký tự ghi, ví dụ “quyền sử dụng đất” thì trong trường hợp này phải hiểu chữ Đất ở đây ám chỉ Đất Đai, loại đất nào cũng áp dụng quyền như vậy cả. Nhưng khái niệm “chất đất” thì phải cứng nhắc là chất đất, chứ không thể có khái niệm “chất đất đai”. Nhưng cái tính “nhiều” trong nghĩa của từ đôi Đất Đai thì nó bao gồm rất nhiều tính trong đó như Chất đất (thổ nhưỡng), Địa lý, Phong thủy, Dân cư, Văn hóa, Lịch sử (biết bao di chỉ đang nằm trong lòng nó) v.v. Khi qui hoạch xây dựng, thường người ta chỉ chú ý mỗi một nửa từ đôi Đất Đai là Đất (QSDĐ), Đất ấy được tính giá trị bằng Tiền, và giá trị đó sẽ thay đổi theo thời, bởi vậy thường bỏ quên hoặc coi thường các yếu tố khác có trong ý nghĩa của từ đôi Đất Đai (chỉ có luật là sử dụng đúng ngôn từ là: Luật Đất Đai). Ngày xưa đi học phổ thông có môn Địa Dư, tức là Đất Đai+Dân Cư, mà từ Dư 轝 chính là Dân Cư = Dư (QT lướt), từ Dư轝 còn được nâng ý lên, nghĩa là “công luận” (không có dân cư thì làm sao có công luận ?). Ngày nay đi học phổ thông chỉ có môn Địa Lý chứ không có môn Địa Dư, mà địa lý chỉ là một tính trong cái “nhiều” mà khái niệm bằng từ đôi Đất Đai bao hàm (cho nên công luận trong lĩnh vực đất đai sẽ vẫn còn dài dài). Bởi vậy qui hoạch để đô thị hóa quả là cực khó, nhất là với những huyện mà có tên như là huyện Thạch Thất (bây giờ là ngoại thành Hà Nội). Cái NÔI khái niệm của ngôn từ Việt, với các QT đã nêu, đơn giản thế, mà có lẽ cũng không thể coi thường. Thạch Thất = Thật Thật = Thật Nhất = Thật Thách. Cái âm tiết nó tồn tại nguyên vẹn từ hàng nhiều ngàn năm kể từ khi nó có. Bởi vậy Hứa Thận hướng dẫn cách đọc cách nay 2000 năm, mà ngày nay tiếng Việt Nam đọc ra vẫn đúng như thế, vậy cái âm tiết đó nó còn có trước khi Hứa Thận vận dụng ít ra là 3000 năm nữa, tức cách nay 5000 năm (?). Ví dụ con Ốc là nó có cái vỏ là nhà ở của nó (QT thay Rỡi: Ổ = Ở = Ốc), nên con người cũng còn gọi cái nhà của mình là Ốc, chữ nho viết là chữ Ốc 屋, Hứa Thận hướng dẫn đọc là : lướt Ô 烏 Cốc 谷 = Ốc 屋, giải tự nghĩa là: nhà, hộ, chỗ trú ( thì rõ ràng là Ổ = Ốc = Hốc =Hộ 戶 = Chỗ = Chỉ 趾 của người Giao Chỉ 交 趾). Người Quảng Đông đến nay vẫn đọc chữ Ốc屋 là “ốc” chứ không đọc là “vu 屋” như Hán ngữ hiện đại đọc . Mà ốc thì nhiều lắm, dân số ốc cũng ngang ngửa dân số nhân loại, nên Nhiều Ốc = Nhốc ( QT lướt: Nhiều Ốc = Nhốc ) và để nhấn mạnh ý nhiều thì dùng từ đôi Nhốc Nhốc = Lốc Nhốc( bời vì lướt Lắm Ốc = Lốc, lại còn từ láy “Lốc Nha Lốc Nhốc” nữa chứ, làm lộ cái từ Nhà với Nha là nơi làm việc của công chức ). Thời thượng cổ khi buôn bán, người Việt bán ốc cho người Hán ( cổ Hán thư có ghi: “người Việt ăn nhiều loài nhuyễn thể và hải sản”), người Việt bán ốc mới nói rằng: “tôi có Lốc Nhốc” ý rằng rất nhiều ốc, người Hán ghi ký âm, để giản tiện, chỉ ký âm có một nửa từ đôi Lốc Nhốc là Lốc, ghi âm tiết Lốc bằng chữ Loa 螺, sau mới thành cái tên, họ gọi con Loa 螺 là chỉ con Ốc. Người Việt bị Hán hóa lâu đời hàng ngàn năm rồi thì quên mất khái niệm nhà ở vốn là từ con ốc mà ra, cũng quên luôn từ con ốc, mà gọi là con “lúa” của chữ Loa 螺 . Công nhận rằng, thời thượng cổ, khi còn chưa có ký tự trên mui rùa, con người ghi sự bằng thắt gút dây thừng.(Cổ Hán thư cũng có ghi, kiểu ghi sự bằng thắt nút thừng từng có từ thời xưa ở xứ sở của Việt Thường thị). Kiểu ghi sự này các nhà khảo cổ học phát hiện cũng có ở người bản địa Đài Loan tại di chỉ có cách nay cả vạn năm, và đó là một sự Thật. Còn cái NÔI khái niệm của ngôn từ Việt thì: NÔI = Nút = Gút = Chút = Chắc = Chắt = Chặt = Thắt = Thật = Thấy = Thị 示 = Thực 實 = Thị 是 = ý 意 Tí 子 = Tử 子 = Tế 細 = Từ 詞 = Tiết 節 = Tiếng = Thiêng = Liêng = Linh 靈 = Nghinh 迎 = Nghênh 迎 = Nghĩa 義. Nôi khái niệm cho ra nghĩa của ngôn từ. Cái một âm tiết ấy của tiếng Việt, mỗi tiếng chỉ ngắn gọn có một Chút, mà nó Chắc và Chặt và là Thật, trải dài 5000 năm bền bỉ từ nền văn minh Văn Lang Lạc Việt, thì quả thật là rất có Ý Nghĩa và Thiêng Liêng nên nó mới Linh và được nhân loại hoan Nghinh. Sơn bất tại cao, hữu Tiên tắc thanh. Thủy bất tại thâm, hữu Long tắc linh.1 like
-
Nhà bạn nên cưới vào năm nay, 3 năm tới cưới sẽ ko tốt cho Nam 87 đâu. Nhất là năm 2014. Tuổi 2 bạn nói thật là ko phải đẹp, nhưng nếu biết cách sinh con đúng năm hóa giải, thì gia đình vẫn hp, làm ăn thuận lợi. 2 năm tốt là 2014, 2015. Đặc biệt chọn con út 2015 sẽ hóa giải tốt.1 like
-
Thế nào là hầu hết? Đã là phương pháp nghiên cứu thì phải có sự logic và khoa học, ko thể theo "đám đông" được. Ở đây chúng tôi đã nghiên cứu phục hồi lại Lạc Thư Hoa Giáp của người Việt, đổi mạng Thủy - Hỏa so với sách TQ mà chị gọi là "hầu hết" đấy. 1978 Mậu Ngọ Hỏa 1980 Canh Thanh Mộc 2004 Giáp Thân Hỏa 2009 Mậu Tý Thủy Năm nay Nhâm Thìn sinh được, con hợp mẹ, tuy nhiên sẽ không hợp bố (Mậu phá Nhâm) bằng sinh 2013 Quý Tỵ, vừa hợp mẹ (Thân - Tỵ Nhị Hợp, mạng mẹ Mộc sinh con Hỏa, Canh sinh Quý, vừa hợp bố (Mậu hợp Quý, Tỵ Ngọ hợp trong hành Hỏa) )theo các tiêu chí của Luận Tuổi Lạc Việt. Thân mến.1 like
-
Chúc may mắn, thành công và hạnh phúc.1 like
-
Bài thơ " Lịch Sử nước ta " của Hồ Chủ Tịch Để khơi gợi lòng tự hào dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài kêu gọi "Lịch sử nước ta". Bài gồm 210 câu thơ lục bát, dễ thuộc, dễ hiểu, phù hợp với nhân dân Việt Nam lúc đó với trên 90% dân số mù chữ. Bác đã viết tác phẩm này năm 1941, tại rừng Pác Bó, khi Người đang hoạt động cách mạng tại căn cứ địa Cao Bằng Lịch sử nước ta Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Kể năm hơn bốn ngàn năm Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà. Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang Thiếu niên ta rất vẻ vang Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời. Tuổi tuy chưa đến chín mười Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương. An Dương Vương thế Hùng Vương Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân. Nước Tàu cậy thế đông người Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam Quân Tàu nhiều kẻ tham lam Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi? Hai Bà Trưng có đại tài Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian Ra tay khôi phục giang san Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta Tỉnh Thanh Hoá có một bà Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi. Tài năng dũng cảm hơn người Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương. Phụ nữ ta chẳng tầm thường Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời. Kể gần sáu trăm năm giời Ta không đoàn kết bị người tính thôn. Anh hùng thay ông Lý Bôn Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người. Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài Lập nên triều Lý sáu mươi năm liền. Vì Lý Phật Tử ngu hèn Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta. Thương dân cực khổ xót xa Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu. Vì dân đoàn kết chưa sâu Cho nên thất bại trước sau mấy lần. Ngô Quyền quê ở Đường Lâm Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm. Đến hồi thập nhị sứ quân Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn. Động Hoa Lư có Tiên Hoàng Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh. Ra tài kiến thiết kinh dinh, Đến Vua Phế Đế chỉ kinh hai đời. Lê Đại Hành nối lên ngôi Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành. Vì con bạo ngược hoành hành Ba đời thì đã tan tành nghiệp vương. Công Uẩn là kẻ phi thường Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta. Mở mang văn hoá nước nhà Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân. Lý Thường Kiệt là hiền thần Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành. Tuổi già phỉ chí công danh Mà lòng yêu nước trung thành không phai. Họ Lý truyền được chín đời Hai trăm mười sáu năm giời thì tan. Nhà Trần thống trị giang san, Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài, Quân Nguyên binh giỏi tướng tài: Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu, Tung hoành chiếm nửa Âu châu Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la, Lăm le muốn chiếm nước ta Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ, Hải quân theo bể kéo đi, Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nêm. Dân ta nào có chịu hèn Đồng tâm hợp lực mấy phen đuổi Tàu. Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu, Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang. Mênh mông một dải Bạch Đằng Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh, Hai lần đại phá Nguyên binh, Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời. Quốc Toản là trẻ có tài, Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền Mấy lần đánh thắng quân Nguyên Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung. Thật là một đấng anh hùng. Trẻ con Nam Việt nên cùng neo theo. Đời Trần văn giỏi võ nhiều Ngoài dân thịnh vượng trong triều hiền minh. Mười hai đời được hiển vinh, Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi. Cha con nhà Hồ Quý Ly, Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên. Tình hình trong nước không yên, Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu, Bao nhiêu của cải trân châu, Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn. Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn. Mấy phen sông Nhị núi Lam, Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng. Kìa Túy Động nọ Chi Lăng, Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành. Mười năm sự nghiệp hoàn thành, Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan. Vì dân hăng hái kết đoàn, Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng. Vua hiền có Lê Thánh Tôn, Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành. Trăm năm truyền đến cung hoàng, Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi. Bấy giờ trong nước lôi thôi, Lê Nam, Mạc Bắc rạch đôi san hà, Bảy mươi năm vạn can qua Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi. Từ đời mười sáu trở đi, Vua Lê, chúa Trịnh chia vì khá lâu Nguyễn Nam Trịnh Bắc đánh nhau, Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng. Dân gian có kẻ anh hùng, Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn, Đóng đô ở đất Quy Nhơn, Đánh tan Trịnh, Nguyễn cứu dân đảo huyền Nhà Lê cũng bị mất quyền, Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương. Nguyễn Huệ là kẻ phi thường Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc tàu, Ông đà chí cả mưu cao, Dân ta lại biết cùng nhau 1 lòng. Cho nên tàu dẫu làm hung, Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà. Tướng tây Sơn có một bà, Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân, Tay bà thống đốc ba quân, Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là. Gia Long lại dấy can qua, Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài. Tự mình đã chẳng có tài, Nhờ tây qua cứu tính bài giải vây. Nay ta mất nước thế này, Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà, Khác gì cõng rắn cắn gà, Rước voi dầy mả thiệt là ngu si. Từ năm Tân Hợi trở đi, tây đà gây chuyện thị phi với mình. Vậy mà vua chúa triều đình, Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoai. nay ta nước mất nhà tan Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn. Năm Tự Đức thập nhất niên, Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây. Hăm lăm năm sau trận này, Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan, Ngàn năm gấm vóc giang san, Bị vua họ Nguyễn đen hàng cho Tây ! Tội kia càng đắp càng đầy, Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng. Nước ta nhiều kẻ tôi trung, Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương. Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương, Cùng thành còn mất làm gương để đời. Nước ta bị Pháp cướp rồi, Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng; Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương. Mấy năm ra sức cần Vương, Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên, Giang san độc lập một miền, Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành. Anh em khố đỏ, khố xanh, Mưu khoải nghĩa tại Hà thành năm xưa, Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa, Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn. Kìa Yên Bái, nọ Nghệ Anh Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu. Nam Kỳ im lặng đã lâu, Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây. Bắc Sơn đó, Đô Lương đây! Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn. Xét trong lịch sử Việt Nam, Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng. Nhiều phen đánh Bắc dẹp Đông, Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên. Ngày nay đến nỗi nghèo hèn, Vì ta chỉ biết lo yên một mình. Để người đè nén, xem khinh, Để người bóc lột ra tình tôi ngươi ! Bây giờ Pháp mất nước rồi, Không đủ sức, không đủ người trị ta. Giặc Nhật Bản thì mới qua; Cái nền thống trị chưa ra mối mành. Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh, Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà. Ấy là nhịp tốt cho ta, Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông. Người chúng ít, người mình đông Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên. Hỡi ai con cháu Rồng Tiên ! Mau mau đoàn kết vũng bền cùng nhau. Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu, Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn. Người giúp sức, kẻ giúp tiền, Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta. Trên vì nước, dưới vì nhà, Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh. Chúng ta có hội Việt Minh Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh Mai sau sự nghiệp hoàn thành Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh ! Nguồn: hoangsa.org.1 like
-
Cảnh Giới Tối Cao Của Phong Thủy “Sơn Hoàn Thủy Bão , Tàng Phong Tụ Khí , Khí Tụ Hữu Tình” là cảnh giới tối cao mà Phong Thủy Học truy cầu , cũng là cái mà phong thủy luôn đề cao và nghiên cứu . Khí , không có gì là Thần Bí hay trừu tượng . Phong Thủy học bắt đầu từ Đại Khí , Không Khí . Không Khí lưu động thì thành ra gió , Trong Phong Thủy , nghiên cứu gió chính là để xem vì sao sản sinh tốt xấu . Vì sao trong lúc lưu động lại nảy sinh tốt xấu ? là vì có sơn xuyên hà nhạc ( Núi đồi sông suối ) . Không khí đí qua núi cao tất bị ngăn trở , thay đổi phương hướng và tốc độ . Gió bắc thì lạnh lẽo , gió năm nóng ẩm , lốc bão thì là quá mạnh mà sinh tai họa , đó là các kiến thức thông thường . Toàn Cảnh Thập Tam Lăng ( 13 Lăng Mộ Của Các Hoàng Đế Minh Triều ) Chúng ta sống trong các ngôi nhà cao tầng ( Chung cư ) cũng giống như núi cao , nó làm biến đổi phương hướng và tốc độ của gió , gió mang không khí đi vào theo cửa và cửa sổ ( Phong Thủy Học gọi là khí khẩu ) mà vào trong nhà , tạo ra ảnh hưởng đối với người và động vật trong nhà . Tốt xấu từ đó mà sinh ra . Trong Phong Thủy có hai khái niệm đối lập là “Vượng Khí” và “Suy Khí” , hai cái này cũng không có gì Thần Bí . Vượng Khí là khí tốt , Suy Khí là khí xấu tất cả đều do môi trường , thời gian tạo nên . Xem xong Phong Thủy cần cái biến vị trí cửa , cửa sổ cũng phương hướng , là để đón vượng khí vào mà thôi . Cho nên nghiên cứu phương vị mở cửa , cửa sổ chính là một vấn đề lớn của Phong Thủy Học . “Khí Thừa Phong Tán , Giới Thủy Tắc Chỉ” là một thuật ngữ quan trọng trong Phong Thủy . Ý nghĩa của nó là khi không khí chuyển động mà gặp sông biển thì dừng lại . Sông Biển chính là một nơi không khí ít khi tán rộng . Khí ở chỗ này ngưng tụ lại từ nhiều hướng khác nhau ( Đây cũng chính là nguyên nhân hình thành các vùng khí tập trung sản sinh ra bão , lốc ) . Chọn lựa tựa núi quay ra biển chính là một kinh nghiệm đúc kết trải qua nhiều đời . Nó phù hợp với nguyên tắc : “Sơn Hoàn Thủy Bão , Khí Tụ Hữu Tình” . Đề Có Được Phong Thủy Tốt Nên Theo Bốn Nguyên Tắc Lớn Như Sau : 1.Sảnh ( Phòng Khách ) Nên Lớn , Phòng Ngủ Nên Nhỏ . Phòng khách là nơi cả nhà hoạt động sinh hoạt suốt ban ngày , nên cần rộng rãi , thoáng mát . Còn phòng ngủ lại không nên quá lớn , bày vật không nên quá thưa thớt rời rạc . Không khí đương nhiên cần lưu thông , tuy nhiên nếu như 3 mặt đều có cửa sổ , nên đóng bớt lại . Vì như thế khí sẽ tán . 2.Không Nên Chọn Tầng Quá Cao . Không nên sống ở nơi cô lập trên cao , như ngày trước khi còn ít người xây nhà cao , có một số người xây nhà cao vưới xung quanh bốn bên , như thế Phong Thủy Học gọi là Cô Cao ( Cô đơn cao một mình ) . Cô tức là vị trí cô lập , không có chỗ tựa sau , không có chỗ dựa bên cạnh , không có bạn bè , không có sự giúp đỡ . Cao là quá ư nổi trội , chót vót , tất nhiên bị cô lập . Nhà bị Cô Cao sẽ không được che chắn , mưa gió trút vào , lại bị gió dữ . “Khí Thừa Phong Tác Tán – Khí gặp gió thì loãng ra” , mà khí tán sẽ phá tài , tổn thân , người và tài sản đều tổn thất , chỉ còn lại cô đơn , yếu ớt , dần dần biến thành tiêu điều , điêu linh . 3. Mô Thức Đẹp Chuẩn Của Phong Thủy . Khi lựa chọn nên chọn vị trí trung tâm , nơi đó sau lưng phải có núi , gọi là “Kháo Sơn – Tựa núi .” . Ở bên trái gọi là “Thanh Long” ; Bên phải gọi là “Bạch Hổ” . Trước mặt mở ra một khoảng lớn . Tốt nhất là một vùng đất rồi tiếp đến là một vùng nước trong xanh đẹp đẽ hữu tình , như thế gọi là “Minh Đương” . phía sau Minh Đường nến có núi . Gần gọi là “Án Sơn” xa gọi là “Triều Sơn” . Như thế là bốn núi vây quanh , ở giữa là đất bằng hoặc sông hồ , gọi là “Sơn Hoàn Thủy Bão” . Núi bốn bên che chắn , chặn luồng gió quá mạnh , bảo hộ cho những người sống trong nhà . Khí do núi cao đi xuống được vùng đất bằng phẳng hoặc vùng nước trước mặt ngưng tụ lại , trong mát , quyến luyến hữu tình . Chọn lựa một vùng đất như thế để ở tất nhiên sẽ có đủ Phúc Lộc Thọ Khang Ninh , phát Phú Phát Quý . 4 . Kháo Sơn Nên Là Vật Thể To Lớn Vững Chắc . Kháo Sơn ( Núi tựa phía sau nhà hoặc mộ huyệt ), còn có tên là “Tứ Nghĩa – Ban Ơn Nghĩa ” , tức là có vai trò rất lớn . Trong quan hệ giao tiếp với người khác thường là "Tựa trên quản dưới " cho nên đây chính là người đề bạt cho bạn , là người đứng phía sau bạn . Tả Thanh Long , Hữu Bạch Hổ , tức là trợ lực . Tức là thuộc cấp của bạn , hoặc trợ thủ , bạn bè . Minh Đường , đại biểu trước mắt . Án Sơn biểu tượng cho danh tiếng . Triều Sơn biểu tượng cho sự kính phục , cung phụng của người khác đối với bạn . Cũng đại biểu cho quý nhân đến với bạn . Cao một phân là Núi , thấp một phân là thủy . Trong Phong Thủy Học hiện đại lấy nhà cao làm núi, đường đi là thủy từ đó mà xem xét phán đoán Thế Anh.1 like
-
Tuổi 26 bạn không nên tự thấy cuộc đời bấp bênh, vô định. Thay vì vậy hãy tự hỏi, tuổi 26 cuộc đời ai đã ổn định đàng hoàng? Tuổi 26 mà mọi sự đã xong, tương lai thấy trước, v.v thì cuộc sống càng về sau càng tẻ nhạt. Có thể dùng LVĐT để dự đoán kết quả của công việc sắp tới, nhưng không dự đoán được ảnh hưởng của kết quả đó đến cuộc sống sau này. Thành công chưa chắc đã tốt mà thất bại chưa chắc đã xấu. Rất nhiều doanh nhân thành công ngày nay đã trải qua không ít lần thất bại nặng nề, nếu họ dùng LVĐT dự báo được trước thất bại mà lại không quyết tâm làm thì họ cũng không có được ngày hôm nay. Chúc bạn may mắn.1 like
-
Truyền thuyết về Kỳ Hươu - Tản mạn Phong thủy, Lịch sử Ở Trung Quốc , người ta rất quan trọng phong thủy, có thể thấy ở bất kì công trình xây dựng này. Trung Quốc có 3 linh vật rất được sùng bái, có tác dụng đem lại tài vật , bảo vệ gia trạch , trấn trạch cho những nơi nào phong thủy không tốt, hóa giải mọi điều bất lợi. Đó là 3 linh thú : Sư tử, Kỳ Lân, Kỳ Hươu. Đến đây mọi người thấy rằng đã nhìn thấy rất nhiều tượng đôi sư tử đá tại nhiều công trinh của Trung Quốc từ cổ chí kim đúng không Sư tử đá thì ai cũng biết và nhìn thấy rồi nên không bàn đến. Còn Kỳ Lân thì tượng trưng cho người quân tử, vì vậy hợp với giới quan chức, làm chính trị. Xin nói nhiều đến Kỳ Hươu : Là linh thú thứ 3, đây là 1 con vật trong truyền thuyết ( ở VN gọi là Tỳ Hưu hoặc Thiên Lộc ), con thú này chỉ ăn tiền, vàng bạc châu báu, nhưng lại không có hậu môn nên chỉ kiếm tiền và tích lũy, không hề thải ra, vì vậy nên cực kì hợp với người làm kinh doanh, buôn bán, và nó rất hung dữ nên dùng để trấn trạch trừ tà . Nếu đến Bắc Kinh, mọi người nên đến tham quan Ngân hàng Trung Quốc, ở đây là một ví dụ về phong thủy, trấn trạch và đặt kỳ hươu. Ở Lầu Đức Thắng Môn ( lầu phong thủy ) Bắc Kinh có đặt một con Kỳ Hươu bằng đá trắng, có niên thọ gần 600 năm rồi, trong lịch sử, mỗi lần hoàng đế Mãn Thanh duyệt binh ra trận đều ở đến thỉnh kỳ hươu bảo hộ ( cờ xuất trận của Hoàng đế Mãn Thanh có thêu hình Kỳ Hươu ở đuôi cờ. trong lịch sử 600 năm của Kỳ hươu tại lầu Đức Thắng môn, có 2 sự kiện lớn : vua Sùng Chinh mất nhà Minh về tay nhà Thanh do bị gián điệp của Mãn Châu lừa xoay ngược lại hướng của Kỳ Hươu. Năm 1989 trong quá trình trùng tu lầu Đức Thắng, do sơ ý nên công nhân đã làm đổ con Kỳ Hươu này và bị mẻ 1 miếng lớn ở cánh, và năm 89 đã xảy ra 1 biến cố chính trị rúng động toàn nước Trung Hoa, đó là biến cố Thiên An Môn. Kỳ Hươu có 1 đặc điểm, đó là luôn luôn hướng ra cửa, đuôi hướng vào trong thì mới chiêu tài, trấn trạch được, còn ngược lại sẽ đem tai họa đến nhà. Các cassino tại macao và 1 số cassino trên thế giới đều đến thỉnh kì hươu đem về trấn , có lẽ vì thế nên có ai đem được tiền từ đấy về đâu. 1 Khách sạn lớn tại Sài Gòn đã thỉnh 1 đôi Kỳ Hươu lớn về đặt tại KS trị giá > 3 tỷ đồng, và luôn thuê 2 vệ sỹ để bảo vệ không cho ai được sờ vào, vì nếu ai sờ vào Kỳ Hươu của bạn, có nghĩa là người ta sẽ đem mất lộc của bạn do Kỳ Hươu đam lại đi mất. Kỳ Hươu luôn phải chế tác bằng vật liệu quý như ngọc, vàng. Nếu chế tạo bằng vật liệu rẻ tiền thì sẽ phản tác dung. sau khi chế tác xong, người ta phải đưa Kỳ Hươu vào lầu phong thủy đặt tối thiểu 5 năm để tích tụ tinh hoa của trời đất, đủ hạn kỳ thì mới có thể làm lễ khai quang điểm nhãn cho nó, sau đó chúng ta mới có thể thỉnh về được, còn không thì cũng chỉ là 1 vật lưu niêm thông thường. Sau khi tích tụ đủ linh khí, con kỳ Hươu sẽ được khắc chữ " Vân " vào dưới bụng. Nhờ cơ duyên, em đã thỉnh được 1 đôi kỳ Hươu, 1 con bằng bạch ngọc em để ở nhà để trấn trạch ( nhà em cũng phạm phong thủy- mệnh hợp Đông tứ trạch mà nhà em lại hướng Tây tứ trạch ), 1 con bằng bích ngọc em đặt tại phòng làm việc công ty, nói thật các bác tin không, từ hôm em thỉnh về đặt tại Cty & nhà riêng, em thấy mọi công việc đều tốt lên rất nhiều. Em up hình con Kỳ Hươu bằng bích ngọc lên cho mọi người xem nhé. Nếu ai không tin về lĩnh vực này thì hãy coi như đọc một mẩu chuyện mà thôi, còn ai muốn tìm hiểu, em sẽ rất vui được chia sẻ ạ http://img218.imageshack.us/img218/6319/dsc00497se0.jpg Mỗi nơi đặt tên nó 1 khác, theo khẩu âm ở địa phương. Ngày xưa thời còn chế độ phong kiến, con Kỳ hươu đặc biệt được yêu chuộng vào thời Minh và Thanh. Nó là con vật biểu tượng cho giai cấp vua quan. Nếu dân thường mà thỉnh Kỳ hươu thì sẽ phạm vào tội diệt tộc. Các triều đại nhà Thanh, vì cấm dân chúng sử dụng kỳ hươu để trấn trạch, sợ ảnh hưởng đến long mạch đế vương của mình nên đã đổi tên là Thao Thiết ( đấy là em phiên âm ra tiếng Việt chứ chữ Hán của em 1 chữ không cần bẻ đôi em cũng ứ biết nó là chữ gì ) Và như thế sau một vài trăm năm, dân chúng đã quên đi con Kỳ hươu này, vì vậy vào những triều đại cuối cùng của nhà Thanh, kỳ hươu chỉ xuất hiện trong Tử Cấm thành, Di Hòa Viên, và trong phủ của Hòa Thân ( Cúng Vương Phủ ) mà thôi. Còn trong dân gian chỉ còn lại các hình ảnh sư tử đá và kỳ lân mà thôi. Có lẽ vào triều đại Mãn Thanh, hình tượng Kỳ Hươu chỉ đứng sau hình tượng Rồng của hoàng đế mà thôi. Trước khi Thanh binh nhập quan ải tiến chiếm giang sơn Đại Minh ( hồi đó còn là Mãn Châu - tộc Nữ Chân dòng Đại Kim ) đã nghiên cứu rất kĩ về văn hóa, phong thủy, biết rằng nhà Đại Minh long mạch đế vương còn thịnh lắm, nếu không phá được phong thủy của Bắc Kinh thì không thể nào chiếm chọn Trung nguyên được, mà có chiếm được cũng không thể giữ được vì Trung Nguyên rông lớn, Mãn Châu sẽ nhanh chóng bị nuốt chửng và bị đồng hóa. Trong truyền thuyết, Lưu Bá Ôn đã từng để lại lời dặn cho nhà Minh rằng muốn Đại Minh trường tồn thì phải giữ gìn đặt con Kỳ Hươu trên lầu thành Đức Thắng Môn, mặt ngoảnh về phía Vạn Lý trường thành để trấn áp dân Hung Nô, dân Nữ Chân. Chừng nào mặt Kỳ Hươu còn ngoảnh về phương ấy thì Đại Minh còn. Mãn Châu biết được truyền thuyết ấy, biết được Sùng Chinh rất tin tưởng vào con Kỳ hươu này, nên nghĩ ra 1 kế, cho 1 đại sư về phong thủy của mình, lập kế chiếm được lòng tin tưởng của Sùng Chinh, sau đó mới xui Sùng Chinh xoay lại con Kỳ Hươu vào, hướng về nội đô. Vận khí nhà Minh đã hết ,và Sùng Chinh đã nghe lời xui khiến , và giặc giã nổi lên khắp nơi, đầu tiên là Sấm Vương Lý Tự Thành ( cũng là 1 anh hùng áo vải ), và sau đó là sự cố Ngô Tam Quế mở ải Sơn Hải Quan, dẫn Thanh binh nhập quan. Nhà Minh tuyệt diệt, Sùng Chinh phải tự tay chém Trường Bình công chúa rồi treo cổ tự vẫn. Đó là nguyên nhân vì sao Đại Thanh lên ngôi, cấm tuyệt dân gian dùng kỳ hươu, và vì sao trên đuôi cờ của Bát Kỳ ( 8 đạo quân thân vương ) đều có thêu hiệu kỳ hươu , bởi vì Kỳ hươu đã đem lại giang sơn cho bộ tộc Nữ Chân, 1 bộ tộc nhỏ, đã bắt 1 dân tộc Hán cúi đầu, thắt bím tóc ( ước gì các "bô lão " VN có kỳ hươu nhỉ - hihi ) Rất tiếc là con kỳ hươu 600 năm đó không thể chụp ảnh - Còn nữa nguồn thegioivohinh.com1 like
-
Hunggisu thân mến. Hunggisu viết: Hi! Chính vì ai cũng muốn làm giầu nên ai cũng muồn có con Kỳ Hưu trong nhà chỉ có nuốt vào không có nhả ra. Đúng là chẳng ai than rằng: "Đau khổ vì nhiều tiền". Nhưng chẳng phải ai cũng thỏa mãn rằng "Ta đã có nhiều tiền theo như ta muốn". Chính vì những con Kỳ Hưu nuốt vào chỉ có giới hạn: Bụng nó chứa đến đấy là...hết, nếu không nhả ra để nuốt tiếp. Bởi vậy, những nhà để kỳ hưu một thời gian là...chỉ đến đấy hoặc đi xuống. Muốn nó phát triển thì phải cho nó nhả ra những cái không cần thiết. Nên phải khoan một lỗ sau đuôi. Nhưng khoan thì cũng phải biết cách khoan, không khóe kỳ hưu bị dịch tả thì cũng ...tiêu. Đấy chính là bí ẩn của con Kỳ Hưu. Chẳng ai tin Thiên Sứ cả. Híc! Thôi thì từ nay đến mùng 10/ 5. Thiên Sứ chọn ngày lành tháng rách, tậu một con kỳ hưu bằng đồng và khoan một lỗ sau đuôi xem sao. Nếu sau này Thiên Sứ khá lên thì hãy nghe tôi cũng chưa muộn. Thiên Sứ1 like
-
1 like
-
Cảm ơn Viethuy đã cho thông tin, cũng xin cảm ơn nhận xét của Phoenix. Chính xác là như vậy! Nếu một lý thuyết sai thì không thể có một ứng dụng đúng. Tuy nhiên Phong Thủy Lạc Việt nhân danh khoa học nên nó cũng chỉ là một phương tiện do con người đã ứng dụng qui luật tự nhiên để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của mình. Là một phương tiện tất nó không thể tuyệt đối. Sự tuyệt đối dành cho Thượng Đế và Phong Thủy Lạc Việt không nhân danh siêu nhiên mà nhân danh sự huyền vĩ của nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Vẫn còn rất nhiều bí ẩn phía trước cần khám phá. Thiên Sứ1 like