-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 18/02/2012 in all areas
-
Tướng pháp qua ảnh đã là khó khăn cho người xem. Vì vậy một lần nữa nhắc nhở mọi người muốn xem khi gửi ảnh lên cần lưu ý một số vấn đề sau: 1- Ảnh phải đủ ánh sáng không tối quá không sáng quá. 2- Khuôn mặt phải thể hiện được (Trán toàn bộ) đây là bộ phận quan trọng của tướng pháp. 3- Ảnh chụp phải cân đối khuôn mặt để người xem nhìn thấy cả xương lưỡng quyền ( 2 gò má). 4- Không cười , không mím môi, để xem được nhân trung và pháp lệnh, hình dáng miệng. 5-Tóc mai vén cao, để lộ tai . 6- Mắt không nhướn lên hoặc nhìn xuống. (nhìn thẳng ống kính một cách bình thường)vì tướng mắt và tướng mi khá quan trọng. Vì vậy khi mọi người gửi những ảnh không rõ ràng ngũ quan ...Tam đình... thì coi như người xem cũng chỉ xem được những phần rất nhỏ. Nên không thể xem và trả lời các câu hỏi của quý vị được . Mong các vị xem xét và cân nhắc trước khi gửi ảnh lên DĐ . @: Ban quản trị để Toppic này lên đầu để người xem được biết . Tránh gửi loại ảnh mà người xem dở khóc dở cười Mấy lời của lão Say .2 likes
-
Dự Án Khu Đô Thị Mới Thủ Thiêm - Quận 2 Nhìn từ Phong Thuỷ Lạc Việt Nhóm nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt Chịu trách nhiệm chính: Achau Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ. Nhìn trên bản đồ Thành phố HCM, có thể thấy lợi thế của bán đảo Thủ Thiêm nằm ngay giữa khu vực trung tâm của TP. Theo qui hoạch bán đảo Thủ Thiêm có vị trí rất thuận lợi về giao thông: Là cửa ngõ của TP, điểm đầu của nút giao thông xa lộ Hà nội đi các tỉnh phía Bắc, đại lộ Đông Tây đi qua khu vực bán đảo Thủ Thiêm nối liền các tỉnh miền Tây với miền Đông Nam bộ, khoảng cách từ bán đảo Thủ Thiêm đi sân bay quốc tế Long Thành - Đồng Nai trong tương lai cũng không phải là quá xa khi lưư thông bằng xa lộ. Dự án khu đô thị Thủ Thiêm (Hình minh họa) Đã có những phong thủy gia ca ngợi vị trí đắc địa của bán đảo Thủ Thiêm với những khái niệm chuyên môn, mà chúng ta có thể thấy được qua bài viết trên báo TT&VH sau đây: Nhưng ngược theo thời gian, chúng ta có thể thấy không phải chỉ bây giờ, mà ngay cả khi Sài Gòn là một thành phố sầm uất với danh xưng “Hòn ngọc Viễn Đông” thì bán đảo Thủ Thiêm vẫn là một khu vực có rất nhiều hộ dân có thể coi là nghèo, trình độ dân trí thấp. Dù về địa lý chỉ cách những khu vực sầm uất nhất của TP có một con sông Sài Gòn…. Rõ ràng, đây là thực tế trái ngược với những nhận xét của các phong thủy gia khi áp dụng một cách máy móc những khái niệm phong thủy. Không những vậy, mà ngay cả với những quyết tâm - Từ những năm 2000. TP HCM đã có những qui hoạch phát triển cho tương lai khi mong muốn Quận 2, đặc biệt là khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành một trung tâm Thương mại – Tài chính của TP, nhằm có những bước đột phá chuyên sâu trong lĩnh vực này trong thời kỳ mới. Gần 10 năm trôi qua, cũng có một số nhà đầu tư cơ sở hạ tầng lớn trong và ngoài nước tới xem xét. Nhưng việc phát triển Quận 2 theo đúng qui hoạch gần như vẫn còn dậm chân tại chỗ….. Nếu chúng ta loại suy những yếu tố ngoại quan khác và phân tích những nguyên nhân khiến cho bán đảo Thủ Thiêm chưa phát triển, dưới góc nhìn theo Phong Thuỷ Lạc Việt thì vị trí địa lý ở đây có những khiếm khuyết lớn cần khắc phục với mục đích mang lại sự phồn vinh nơi đây. Xét về Hình lý - Khí Nhìn qua ảnh vệ tinh, ta thấy toàn bộ khu vực đô thị mới bán đảo Thủ Thiêm nằm theo trục Đông Bắc - Tây Nam. Mặc dù được bao bọc bởi sông Sài Gòn. Nhưng lại nằm bên “Tả Ngạn”, có thể thấy rằng toàn bộ khu vực bán đảo không phải là một nơi tụ khí với sự phân tích về khí của Phong thủy Lạc Việt. Về hình dáng, cả khu vực bán đảo như một chiếc chậu bông nông đáy để nghiêng, đổ toàn bộ sinh khí của cuộc đất ra phía miệng chậu (phương Đông Bắc). Toàn bộ bán đảo với rất nhiều kênh rạch, thêm một chỉ dấu rất rõ của một cuộc đất yếu, có thể ví như một bình bông bị nứt rạn nên càng khó có thể giữ được nguồn sinh khí của cuộc đất. Khu vực từ Tây Bắc tới Tây (ô số 1): Khí lực cuộc đất của khu vực này rất kém. Mặc dù có phà Thủ Thiêm & tuyến đường Lương Đình Của nối từ Quận 1 sang. Cách cục của âm dương giao trì nhưng hầu như khu vực này có thể coi là phát triển rất chậm và chỉ mang tính cục bộ , dân cư hầu hết chỉ tập trung ở khu vực bên trái của tuyến đường Lương Đình Của. Khu vực từ Tây Nam- Nam (ô số 2): Khí lực cuộc đất của toàn bộ dải này đã kém lại bị cộng hưởng tác động xấu của sông Sài Gòn càng làm cho khu này khí bị thoái mạnh, nên có thể thấy, dù mật độ dân số của dân cư Quận 2 ngày càng tăng nhưng khu vực này có thể coi là có mật độ cư dân rất thấp. Khu Đông Bắc – Đông (ô số 3) Diện tích của bán đảo Thủ Thiêm khoảng 7km2, như một chiếc chậu bông nông đáy khổng lồ đổ toàn bộ khí lực sang khu Đông (miệng bình) trôi tuột ra phía Đông, nên có thể thấy khu vực này không thể coi là tốt được theo Phong Thuỷ Lạc Việt. Tuy nhiên vì khí dồn vào góc phía Đông, nên ở đây có cơ hội phát triển. Đó chính là khu đô thị mới Thủ Thiêm. Tuy nhiên vì tổng thể vô khí, nên sự phát triển chậm chạp. Dương khí qua các tuyến giao thông chính Phong thủy Lạc Việt quan niệm rằng: Những tuyến đường giao thông đều mang tới dương khí cho cuộc đất do tương tác của những phương tiện vận động, tính chất giống như những dòng sông chảy. Nhưng phân Âm Dương so với sông và là một sự tương tác với các khái niệm đồng đẳng theo Phong Thủy Lạc Việt. Trên cơ sở này, chúng ta xem xét sự tương quan của nguồn khí do giao thông đem lại. Điều này tương tự như ở Bắc sông Hồng (Tả ngạn), trước đây vốn là vùng đất không phát triển. Nhưng từ khi những cây cầu bắc qua sông Hồng hình thành , như: Cầu Thăng Long, cầu Thanh Trì….vv…xuất hiện thì trở thành khu đô thị trù phú. Giao thông đi lại hiện tại trong bán đảo Thủ Thiêm, gồm 2 tuyến chính như sau: Tuyến đuờng Trần Não từ chân cầu Sài Gòn cắt ngang qua đường Lương Đình Của kéo dài thẳng xuống khu vực phía Nam của bán đảo. Có tính chất tiếp khí từ cầu Sài Gòn và theo trục Bắc Nam. Nhưng do nằm không đắc cách, bị xéo tạo khúc gãy so với góc nhọn xa lộ Hà Nội. Đã vậy, tuyến đường khi chạy qua Thủ Thiêm thì dừng ở sông Sài Gòn, Như vậy, Dương khí bị bế không thông. Nên dù là đường lớn, nhưng việc kinh doanh ở tuyến đường này hầu như còn rất hạn chế. Tuyến đường Lương Đình Của từ phà Thủ Thiêm (Quận 1) đổ sang, chạy cắt ngang đường Trần Não từ ngày hợp tuyến với cầu Thủ Thiêm từ quận Bình Thành đổ sang và do tính tiếp khí tích cực của cây cầu này, cũng làm cho những hộ kinh doanh ở ven đường phát đạt hơn trước. Nhưng cũng chỉ mang tính cục bộ cho cư dân sinh hoạt hai bên đường. Qua đây, có thể thấy tại sao Khu đô thị mới Thủ Thiêm có vị trí rất gần Trung tâm TP, nhưng tốc độ phát triển qui hoạch lại diễn ra chậm trễ đến như vậy. Như vậy, theo quan điểm riêng của người viết từ góc nhìn của Phong thủy Lạc Việt, để khu đô thị mới Thủ Thiêm phát triển được theo đúng ý tưởng đề ra ban đầu thì rất có một qui hoạch thích hợp với vị trí Địa Lý cần tụ khí nơi đây. Người viết rất hy vọng rằng bài viết này dưới góc nhìn của khoa Phong Thủy sẽ góp phần cho khu đô thị Thủ Thiêm được tốt đẹp hơn với mục đích mang lại sự phồn vinh và phát triển của T/P chúng ta. Trong năm nay, theo huyền không thì sao Nhị Hắc vận niên tinh đều chiếu hướng Đông Bắc. Tuy đây là hai sao không được coi là tốt trong sinh hoạt, nhưng lại là sao Quý nhân cho những cuộc đất mới phát triển. Cho nên, người viết hy vọng rằng trong năm nay sẽ có nhiều cơ hội để những nhà đầu tư đến với dự án quy hoạch khu đô thị này.1 like
-
(2) Người Việt không chỉ lấy tên đất làm họ mà còn lấy tên cây cỏ làm họ (Người Nga lại thường lấy tên nghề làm họ, ví dụ họ Tkatrốp, thì tkatrốp vốn nghĩa là thợ rèn; người Nhật hay lấy vị trí nơi ở làm họ, ví dụ họ Yenoda viết chữ là Điền Trung, tức dân trong đồng chứ không phải là dân ngoài bãi). Ví dụ họ Lê 黎, chữ Lê theo Hứa Thận hướng dẫn cách đọc: lướt Lang 郎 Khê 奚 =Lê (hoặc lái Lang Khê = Lê Khang), giải thích nghĩa: dính dựa gạo dính thơm. Vậy nghĩa chữ Lê chính là lúa Nếp. Việt ngữ có các từ Lề Nếp, Lề Thói, Nề Nếp đều là nâng ý của Lê ( lúa nếp), có dã xôi nếp để làm bánh dầy thì mới biết nó dính đến mức nào, nên còn có từ Lề Mề là dính lại rất chậm, lại còn từ Nền Nếp là cái nền bằng bánh chưng đỡ cái bánh dầy bên trên là trời trong trắng, đều là từ do nâng ý của vật cụ thể (Minh triết là: hạ giới có nền nếp tức sống theo luật, tức biết Buộc nhau bằng Lạt Hồng = Luật Rộng, mà Luật là do đã Luộc kỹ bằng hội nghị rồi mới thành Luật Chín = Chính Luật, thì trời mới được bảo vệ trong trắng mãi mãi như cái bánh dầy chứ không bị ô nhiễm đến thủng ô dôn để gây ra “biến đổi khí hậu toàn cầu”). Bản thân chữ Lê 黎 là có bộ Hòa 禾(Hột lúa Ta=Hòa), bộ tia nắng mặt trời, bộ Nhân 人 là người, bộ Thủy 水 là nước, nghĩa là: dân trồng lúa nước (xưa chỗ bộ Thủy 水 là bộ Hắc黑, đều như nhau cả, hoặc là nước, hoặc đại diện bằng màu ngũ hành của nước là màu đen, Đen=Hoẻn=Hắc=Đặc=Đậm=Lầm=Thâm=Thủy, màu đặc, màu lầm, màu thâm là những từ dùng trong nghề nhuộm vải, đàn bà Việt mặc váy vải lầm hoặc vải thâm, Vải Quay = Váy, (nói lái như Hứa Thận thì Vải Quay = Váy Quai, nên còn có câu “xắn váy quai cồng”) Mảnh Quấn = Mấn (nói lái Mảnh Quấn = Mấn Quảnh) đều hình giống như “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không”. “Lê tộc phổ” (của Trung Quốc) thì ghi họ Lê là dòng Cửu Lê ( tức Lê rất cổ) thuần chủng là gen phương nam, da ngăm đen, là dân trồng lúa nước đầu tiên. Nếp cũng là giống lúa đầu tiên của văn hóa Hòa Bình cách nay hàng vạn năm. Khi ấy là ở bên Ni, làm Nương, có Nếp, còn gọi là Nếp Nhứt, sau biển rút, khai thác đồng bằng là bên Tê thì mới có giống lúa Tẻ (Tẻ=Tê là số hai, tiếng Khơ Me) năng suất cao hơn. Lúa Nếp là ăn phổ biến ở Tây ĐNÁ lên tận Qúi Châu ( tức Cửu Chân), nơi có rượu nổi tiếng vùng sông Xích Thủy (nơi xưa là nước Xích Qủi). Lê cũng mang nghĩa là đen, màu ngũ hành của nước. Việt ngữ có từ dính âm-dương là Le-Lói tức Tối-Sáng, Le=Lem=Đêm=Đen, Lói=Blời=Rọi=Chói=Cháy=Tày=Thay=Thái… toàn bộ các tộc Bách Việt của dân mặt trời phương nam nóng ẩm trồng lúa nước. Về sau có từ nâng ý là từ Lê Dân tức "dân đen" = "dân đông" để chỉ số đông dân thường không có quyền lực gì trong xã hội. Nhưng cũng giống chữ Lê, ban đầu là chỉ thực vật: Nếp, chữ Dân ban đầu cũng là chỉ thực vật: Mầm, nhưng mầm lúa thì nó rất đông ở ngoài đồng, cũng giống như người rất đông trong xã hội. Chữ Dân 民 theo Hứa Thận: đọc: lướt âm Di彌 Lân 鄰 = Dân, (hoặc lái Di Lân = Dân Li ) , nghĩa: là rất nhiều cái mầm cây, chữ cổ văn , chữ triện . Hóa ra những từ chỉ người: Mân = Mằn = Man cũng là do từ Mầm mà ra, từ Dân là do từ Dâm mà ra, lấy một đoạn mía mà dâm xuống đất thì nó mọc lên rất nhiều mầm. Thế mới hiểu ra là từ tư duy nào mà có câu thành ngữ “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” từ truyện truyền thuyết “Cao Biền dấm binh”( cắm vào đất khô thì gọi là dâm, cắm vào nước vì có sắc nên gọi là dấm). Chuyện kể rằng Cao Biền dấm đậu xanh cho nó mọc mầm để hô biến thành quân binh vô số kể, nhưng chúng dậy non chết yểu hết, bởi vậy mà không đánh được nước Việt. Dân, nghĩa là đông đúc như mầm lúa sạ ngoài đồng. Mầm ấy đúng là mầm, mầm phúc cũng đó mà mầm họa cũng đó, do chính sách và giáo dục mà sẽ gây nên, nhân nào thì quả nấy. Tư duy Việt, con người là quí trọng nhất. Theo Hứa Thận, chữ Nhân 人 đọc: lướt Như 如 Lân 鄰 = Nhân ( hoặc lái Như Lân = Nhân Lư cũng vậy, nếu Hán ngữ phát âm thì Rú 如 Lín 鄰 = Rín, không đúng với phát âm chữ Nhân 人 của họ là Rấn), nghĩa: kẻ tính quí nhất trong trời đất. Những từ chỉ cá nhân một cách kính trọng trong Việt ngữ là Kẻ = Cả = Gia 家 = Giả 者 = Cha. Kẻ như Kẻ sĩ, Kẻ anh hùng (nhưng câu “Nguyễn Huệ là Kẻ anh hùng…” trên bia ở đền thờ Quang Trung Hoàng Đế tại núi Quyết thì lại bị chúng cho đục mất để thay bằng bài khác). Cả thường dùng đi với chuyên môn, như Cả Kèn là người chuyên thổi kèn, Cả Trống là người chuyên đánh trống, Cả Nề là chuyên làm xây dựng, Cả Chài chuyên đánh cá, Cả Văn chuyên viết văn, Cả Nhạc chuyên viết nhạc. Về sau khi bị đô hộ, những kẻ có học, chịu nô lệ để được làm quan nên viết theo kiểu Hán hóa là Nhạc Gia, Văn Gia… Nhưng Hứa Thận hai ngàn năm trước thì giải thích cách đọc chữ Gia 家 : đọc: lướt Cổ 古 Nha 牙 = Cả ( hoặc lái Cổ Nha = Cả Nhô), nếu theo phát âm Hán ngữ thì lướt Củ 古 Yá 牙= Cả, trong khi họ đọc chữ Gia 家 là Jia, trật lấc, vẫn phải Củ 古 Yá 牙 = Cả (hay lái Củ Yá = Cả Yú), vẫn thành là Cả, của Việt thì trước sau gì cũng trả về cho Việt là vậy. Trong khi các “hàn lâm” thì không gọi ông đánh cá là ông Cả Chài, mà gọi là ông Chài Gia (!). Hứa Thận giải thích chữ Giả 者: đọc lướt Chi 之 Dã 也 = Cha (hay lái Chi Dã = Cha Dĩ), chữ Giả đọc là Cha. Hai từ đồng nghĩa ghép thành từ đôi càng nhấn ý nói lên sự tôn trọng hết mực, nên mới có từ Cha Cả . Qua hướng dẫn cách đọc mà Hứa Thận nêu thì thấy QT (thay Rỡi và thay Tơi để có một nôi khái niệm) là hoàn toàn đúng: Kẻ=Cả=Gia=Giả=Cha. Chỉ có những kẻ phủ nhận văn hiến Lạc Việt 5000 năm ở nam Dương Tử mới cho rằng từ Giả là sang còn từ Kẻ là nhà quê. Hứa Thận là người tỉnh Hà Nam tức vùng Trung Nguyên, viết “Thuyết Văn Giải Tự” hồi đầu công nguyên, giải thích cách đọc chữ nho bằng cách lướt (thiết 切) hai âm của hai chữ khác , hoặc lái (phản thiết 反 切) hai tiếng đó. Vậy mà cứ phải đọc chữ nho như người Việt Nam đọc hay như người Quảng Đông đọc thì mới lướt thành đúng hoặc lái thành đúng, còn đọc như người Hán đọc thì trật. Vậy thì cái âm đọc của người Việt Nam mới đúng là cái ngôn ngữ chân chính ở Trung Nguyên thời cổ đại ? Lại còn kiểu nói lái của Hứa Thận vận dụng lại phải như là kiểu nói lái của người đàng trong mới đúng (ví dụ Độ Hầu = Đầu Hộ, để hướng dẫn cách đọc đúng chữ Đầu), còn nếu như kiểu nói lái của người đàng ngoài thì cũng sai (ví dụ Độ Hầu = Hậu Đồ, chẳng ra được âm Đầu) Chữ Mẫu 母, đọc: lướt Mạc 莫 Hậu 后 = Mậu, (lái: Mạc Hậu = Mậu Hạc), nếu phát âm như Hán lướt: Mua 莫 Hâu 后 = Mâu, (lái: Mua Hâu = Mâu Hua), sai, Hán đọc Mẫu 母 là “Mủ” Chữ Đầu 頭, đọc: lướt Độ 度 Hầu 矦 = Đầu (lái: Độ Hầu = Đầu Hộ), nếu phát âm như Hán lướt: Tu 度 Hấu 矦 =Tấu, (lái: Tu Hấu=Tâu Hú), sai, Hán đọc Đầu 頭 là “Thấu” Chữ Ngưu 牛, đọc: lướt Ngữ 語 Cầu 求 = Ngầu (lái: Ngữ Cầu = Ngầu Cữ), nếu phát âm như Hán lướt: Uỷ Xíu = Uýu (lái: Uỷ Xíu = Uýu Xủy), sai, Hán đọc Ngưu là “Níu” (Ngầu là con trâu, tiếng Quảng Đông. Cái nôi Việt: Tlu=Tru=Trâu=Ngầu=Ngưu=Sửu). Qua chữ Ngầu này của Hứa Thận (cùng vô vàn chữ khác) thì thấy thời Hứa Thận 2000 năm trước người ở Trung Nguyên nói ngôn ngữ là tiếng Quảng Đông ( vậy thì trách gì cái việc người Hồng Kông nói tiếng Hồng Kông ?) Hứa Thận giải thích: “Xuất 出 nghĩa là tiến, giống như tre mọc đầy lên trên”. Chữ Xuất 出 đọc: lướt Xích 尺 Luật律 = Xuất, (lái: Xích Luật = Xuất Lịch), nếu Hán phát âm: Xử 尺 Luy 律 = Xủy, (lái Xử Luy = Xủy Lư), sai, Hán đọc Xuất 出 là “Su” Hứa Thận giải thích: “Mộc 木 là Mạo 冒 , đội đất lên mà sống”. Như vậy nó chính là chữ Mọc của tiếng Việt, cũng giống như là Xuất. Qua giải thích của Hứa Thận thì thấy như QT (thay Rỡi và thay Tơi để tạo được một nôi khái niệm) là đúng: Mầm=Mào=Mão帽 = Mạo 冒 = Mộc 木 = Mọc = Xóc = Xảy = Xuất 出. Tất cả những từ này đều là tạo ra từ sự quan sát nảy mầm hạt giống của dân Việt nông nghiệp trồng trọt: Mầm là cái gạo (Gạo=Đạo=Đầu) của hạt đã nở ló ra, Mào là cái như mọc ra trên đầu con gà, Mão là cái đội như mọc trên đầu, Mạo là đội (mạo danh là đội danh), Mộc là “đội đất lên mà sống” như Hứa Thận giải thích, tức là cái mầm rồi lớn thành cây, chứ không phải mộc là gỗ,( người Nhật Bản đọc chữ Mộc 木 là “ky” theo cái âm thuần Nhật có nghĩa là “cây”), Xóc là cho ra như xóc đĩa, Xảy là nảy ra, Xuất là ra. Tất cả những từ trên đều là từ thuần Việt hết. Vậy mà những từ có viết bằng chữ nho thì người ta lại bảo là “từ Hán Việt” và lớn giọng tuyên bố rằng “Trong tiếng Việt hiện đại có đến 70% là từ Hán Việt, tức từ gốc Hán”( ! )1 like
-
1 like
-
Năm nay công việc và tài lộc đều tốt đẹp ,có thể được tăng lương ,tiền bạc cũng dễ kiếm thu nhập nhiều hơn ,tình cảm rất đẹp với ai đó ,năm nay và năm tới sẽ lên xe hoa .1 like
-
Trong thời gian qua có nhiều bạn muốn xem tướng pháp. vì nhiều lý do: 1- Không nắm rõ giờ sinh. 2- Muốn biết tướng mệnh , chỉ tay ... và tìm hiểu sự thay đổi của từng thời gian 3- Muốn biết tướng mệnh thay đổi như thế nào? con người nếu sống tốt, tướng mệnh có thay đổi không? 4- Trong tử vi số là định trong tướng pháp định hay biến? Vì vậy có nhiều người khi xem tử vi lại muốn xem thêm tướng pháp để khẳng định. Nay Lão say có mấy lời khuyên cho mọi người như sau: a- Tướng pháp khi xem qua ảnh đã gặp rất nhiều hạn chế. b- Mọi người khi post ảnh lên diễn đàn lưu ý không nên gửi các loại ảnh có tính chất nghệ thuật hay tạo dáng vì những ảnh này gây khó khăn cho người xem và không phản ánh được chân thực khách quan. c- Ảnh gửi lên nên thể hiện được toàn bộ khuôn mặt , không nên cười toe toét. tóc búi cao để lộ tai , trán ...nếu có thể thêm một ảnh chụp nghiêng khuôn hình để tiện cho người xem phần tai cốt, xương đầu (ngọc chẩm)... Dáng đứng thẳng tự nhiên để người xem xem phần cốt tướng không đứng ưỡn ẹo, tạo hình....(lưu ý Diễn đàn xem tướng chứ không xem hoa hậu hay người mẫu ảnh) d- Đói với bàn tay nên chụp rõ toàn bộ từ ngón tay, lóng tay , cạnh bàn tay các ảnh mờ chất lượng kém không nên gửi lên làm hao phí tài nguyên DĐ mà người xem không thể xem được. e- Ngoài ra người được xem phải hết sức cộng tác với người xem để đạt được kết quả. Không hỏi quá nhiều lạc chủ đề và quá sức đối với người xem. Nên nhớ tướng mệnh xem qua ảnh là rất khó vì ánh sáng đã làm mất đi tính chân thực của tướng mệnh vì vậy mọi người lưu ý . Chân thành cảm ơn! ......LÃO SAY CHẤP BÚT.1 like
-
Vào tháng đó thì có hy vọng cao hơn 1 chút .1 like
-
Bạn có quý tướng đồng nghĩa với việc luôn luôn có quý nhân phù trợ. Năm 26, 27 tuổi trong cuộc sống có biến cố ( ốm đau bệnh tật, tai nạn) Là một người khá khéo trong ăn nói, khi nói dễ thuyết phục được người khác nghe theo mình. Tính tình nhiều khi bốc đồng ( Trăm vàng đổi một trận cười như không). Thông minh học ít hiểu nhiều. ( Ngũ nhạc triều sơn, trung đình tốt) tự tay gây dựng cơ nghiệp Tính tình thất thường Khuyên bạn không nên đa tình quá nên tu nhân tích đức làm nhiều việc thiện để được hưởng phúc tổ tiên1 like
-
Thật ra cháu nghĩ tranh luận hay chứng minh là tốt. Càng nhiều ý kiến tranh luận thì càng đi tới gần chân lí thôi. Cháu thì chẳng nghĩ là ông phó giáo sư này có " ý đồ phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt " đâu. Tại vì mục đích bài nói của ổng là chuyện khác mà. Tuy nhiên, cách nhìn và sở học khác nhau nên ý kiến khác nhau thôi. Chỉ có tranh luận và chứng minh, bảo vệ luận điểm của mình thì mới đi tới sự thật. Nếu sự thật là sự thật thì ko ai che dấu được đâu. Trước sau gì cũng phải công nhận thôi. Hợp lý. Thật ra ông không phủ nhận, nhưng nói lịch sử Việt 800 TCN là sai do phân tích và tổng hợp dữ liệu của cá nhân. Mục đích bài nói tập trung vào sự tha hóa của con người, cùng chấp nhận sự thật trong một hệ thống loạn mục đích + vô trách nhiệm mà không có phản kháng tối thiểu với ý phân tích là không tổng hợp từ văn hóa cổ... Kính.1 like
-
Chồng chị có hay fai đi công tác xa? Con gái xem ra nghe lời mẹ hơn bố (hợp mẹ hơn). Chị muốn sinh mấy bé? Nếu sinh 2 thôi, thì nên sinh bé út vào năm 2016 hoặc 2017 nhé. Năm 2017 thì tốt cho 2 chị em và bố hơn là 2016. Sinh trong 6 tháng cuối năm.1 like
-
Nhà nghiên cứu Lưu Thụy phòng nghiên cứu khảo cổ Tây An trong bài viết đăng kỳ 5 năm 2006 tạp chí Nghiên cứu dân tộc có bài viết khẳng định chữ Hùng Vương 雄 王là viết đúng, còn chữ Lạc Vương 雒 王là viết sai. Các lý do nêu để minh chứng là: Học giả Lưu Thụy viết: 《Đầu năm 2005 tại di chỉ khảo cổ Cung Thự ở Phiên Ngung Quảng Châu có phát hiện một loạt thẻ gỗ Nam Việt ghi sự việc, trong đó thẻ đánh số nghiên cứu 73 có ghi nội dung đóng tô cho quan “dã Hùng kê thất, kỳ lục Thư, nhất Hùng 野 雄 鸡 七,其 六 雌 一 雄”. Các nhà khảo cổ thắc mắc ở hai chữ Hùng trong câu này, vì Hùng Kê là gà trống, Thư Kê là gà mái. Câu trên thẻ viết “dã Hùng kê bảy, trong đó sáu Thư, một Hùng” tức là bảy gà trống rừng (dã 野 = dại), trong đó sáu mái một trống, không làm sao hiểu nổi, đã bảy trống rồi sao lại còn sáu mái》. Lưu Thụy thì cho rằng chữ Hùng đầu không phải là chỉ giới tính con gà mà là chỉ loài gà gọi là gà Hùng 《vì vùng này xưa là đất của Hùng Vương》, còn chữ Hùng kê sau thì có nghĩa là gà trống, tức bảy con gà Hùng, mà là gà rừng, trong đó có sáu mái một trống》. Nhà khảo cổ học Mạch Anh Hào ở Quảng Châu thì lại cho rằng:《 chữ Dã Hùng có thể là tên một địa danh, tức là gà Dã Hùng bảy con, trong đó sáu mái một trống》. [ Vì các nhà khảo cổ chưa học tiếng Việt, nên không hiểu được câu viết trên thẻ trên, một câu hoàn toàn Hán, do người Hán ngày xưa viết. Lãn Miên hiểu câu trên dễ ợt: Người Lĩnh Nam cũng như người Đài Loan, không gọi gà trống là Hùng Kê, mà đến tận bây giờ vẫn gọi xuôi theo kiểu Việt, Gà Trống gọi là Kê Công, Gà Mái gọi là Kê Mẫu, “con gà” thì họ không gọi như kiểu Hán viết ngược là Kê Tử 鸡 子, mà gọi xuôi theo kiểu Việt là “tu cáy”. Chữ viết trên thẻ gỗ ấy đích thị là do nha lại người Hán viết, vì thu tô cho quan là người Hán, còn người đóng tô là dân Việt. (Thời Triệu Đà lập nước Nam Việt là thời người Bách Việt giành lại độc lập ở phía nam, sau khi các nước Việt khác của khối Bách Việt đã bị diệt, Triệu Đà thực thi sách lược hòa hoãn: đoàn kết Bách Việt và dung hòa với người Hán). Chẳng lẽ người đóng tô phải tự viết vào thẻ nộp? người đóng tô nói bảy con ”cáy dừng” ( gà rừng) thì nha lại ghi là bảy con “dừng kê”, nhưng dùng chữ để ký âm từ “dừng” (rừng) bằng hai chữ “dã hùng 野 雄” (Dã Hùng=Dừng). Chữ “Rừng”, hay “Dừng” như người Bắc Bộ phát âm, cũng đã từng được ký âm bằng hai chữ Dã 野 Tùng 叢( nghĩa là Lùm cây Dại, tức Rừng), chữ Dã 野 là âm nho của từ “dại” như cỏ dại, chữ Tùng 叢 là âm nho của từ “lùm” như lùm cây (Dã Tùng=Dừng, Dã Hùng=Dừng, Hán ngữ chỉ có âm “u”, không có âm “ư”), cũng có chữ âm nho của từ “lùm” là chữ Lâm 林 (biểu ý có hai cây 木+ 木 tức nhiều cây thì là “lùm”). Lắm=Lùm=Lớn=Lao=Lãnh. Người Lào Lùm là tộc đa số ở Lào, họ tự xưng là Thay Lao, gọi các tộc thiểu số khác là Khạ Nọi. Ngạn ngữ Lào có câu “Lìn má, má lề nạ. Lìn khạ, khạ nhịp pua” nghĩa là “Lờn chó, chó liếm mặt. Lờn người, người sờ đầu” ( người Lào kiêng xoa đầu người khác). Từ đôi trong Việt ngữ: chó má là nhiều chó, gà qué (cáy) là nhiều gà. Học giả Lưu Thụy viết:《Khi nghiên cứ sử dân tộc thời Tần Hán thì gặp rất nhiều lần từ Hùng Vương 雄 王 và Lạc Vương 雒 王 trong các thư tịch, vậy từ nào là đúng? Nhìn hình chữ thì Hùng 雄 và Lạc 雒 hơi giống nhau nhưng phát âm thì khác xa nhau. Trong một số thư tịch nói rằng Hùng Vương là tên gọi mà dân tộc vùng Giao Chỉ thời Tần Hán tôn xưng thủ lĩnh của mình. “Cựu Đường thư. Địa lý chí”, “An Nam đô đốc phủ. Bình Đạo huyện” có ghi. “Nam Việt chí” ghi: Đất Giao Chỉ cũ có quân trưởng Việt: Hùng Vương 雄 王, tá của ông viết là Hùng Hầu. Sau Thục Vương đem ba vạn quân tướng đánh diệt Hùng Vương. Thục dựng con trai làm An Dương Vương, trị Giao Chỉ. “Lĩnh Nam cổ đại phương chí tập dực” tập “Nam Việt chí” ghi: Đất Giao Chỉ cũ có quân trưởng viết là Hùng Vương, tá của ông viết là Hùng Hầu, đất viết là Hùng Điền, nhất Lạc điền kỳ điền giả viết Lạc Hầu, chư huyện tắc viết Lạc Tướng. (“ Quảng Đông tân ngữ” dẫn). “Thái bình quảng ký” cũng có viết Giao Chỉ có Hùng Vương 雄 王, Hùng dân, Hùng điền, Hùng Hầu, Hùng Tướng. Một số thư tịch khác thì cũng những nội dung tương tự nhưng chữ Hùng 雄 lại viết thành chữ Lạc 雒. Như “Thủy kinh chú. Diệp du thủy chú” ghi : Khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, trên đất có Lạc điền, ruộng ấy tùy nước lên xuống, dân làm ruộng ấy ăn vị chi Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc Hầu, làm chúa các quận huyện; huyện nhiều thì là Lạc Tướng, có ấn đồng [ đương nhiên phải có chữ viết thì mới có triện đồng]. Sau con trai Thục Vương đem ba vạn quân tướng đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, chinh phục các Lạc Tướng, lên làm An Dương Vương. Sau, Nam Việt Vương Uý Đà sang đánh An Dương Vương. Con trai là Thủy hàng phục An Dương Vương, xưng làm thần…Thủy thấy nỏ bèn lấy trộm lẫy, chạy về báo Việt Vương. Nam Việt tiến binh đánh. An Dương Vương phát nỏ, nỏ gẫy, thế là bại. Việt chinh phục các Lạc Tướng…Lĩnh Nam chích quái, đoạn Hồng Bàng thị có viết: Âu Cơ với 50 con trai cư ở Phong Châu, tôn Hùng trưởng giả ( kẻ trưởng Hùng=cha trưởng Hùng) làm Chủ, hiệu viết Hùng Vương, quốc hiệu viết Văn Lang quốc. Vân vân và vân vân, tóm lại trong các thư tịch có tới 5 cách viết chữ: Hùng “雄”,Lạc“雒”,Lạc“骆”,Lạc“貉”, Hùng“碓” . Nhưng chữ Hùng Vương 雄 王 là đúng hơn cả, vì trong các truyện truyền miệng của Việt Nam phù hợp với hầu hết các chuyện trong Lĩnh Nam chích quái, đều có bối cảnh là thời Hùng Vương 雄 王》 Thuyết văn giải tự của Hứa Thận thì giải thích: (chú ý thấy là hành văn theo kiểu Việt), 《雄Hùng: 鸟父也điểu phụ dã (chim bố ạ = chim bố dạ = chim bố vzậy), 从 佳 厷 声 tùng giai Hoằng thanh (cùng giống Hoằng ở tiếng), 羽 弓 切 Vũ Cung thiết (Vũ Cung lướt)》 [ Vũ Cung=Vùng ] (nếu theo âm đọc của người Hán mà đọc sách Hứa Thận thì là: “Uỷ 羽 Cung 弓” lướt thành “Uỳùng” chứ không thể thành “xiúng” như họ đọc chữ Hùng 雄 được, rõ ràng là trật lấc). Theo Hứa Thận giải thích cách đọc, thì chữ Hùng 雄 đọc là “Vùng”, theo biểu ý của mặt chữ thì cũng đúng nghĩa đó: bộ Hoằng 厷 nghĩa là rộng (Rộng=Hồng 洪 =Hoằng 宏), bộ Chuy 隹 nghĩa là Chim, Hùng = 厷 + 隹 = 雄 Hùng, nghĩa là “Vùng rộng của cư dân Bách Việt có totem là con chim” ( như hình chim trên trống đồng). Chữ Vương cũng có nghĩa là Vùng ( theo QT: Văn=Vuông=Vương=Vùng, theo chữ: 文 = 口 = 王 = Vùng, người Triều Châu đọc chữ Văn文là “vuông”, người Quảng Đông đọc chữ Văn 文 là “mảnh”, đi học để có “văn bằng” hay “mảnh bằng” thì cũng rứa .Theo QT, thì: Vuông Chứa=Văn Chữ=Văn Tự, Chữ Vuông=Tự Vựng, bởi mỗi chữ là một âm “tiết” là một “tiếng” có nghĩa hoàn chỉnh, Vuông Chứa còn lướt nữa thành Vựa). Chữ Hùng Vương 雄 王 là các thư tịch thời Tần Hán về sau viết. Còn theo hành văn của người Việt thì phải viết là Vương Hùng . Hùng nghĩa là vùng rộng của người Việt, Vương nghĩa là vùng. Ghép hai từ đồng nghĩa vùng thành ra từ đôi thì nghĩa được nhấn mạnh là nhiều vùng, thành vùng rất rộng lớn của người Việt, gọi là Nước. Nước thì có nhiều Vùng tức nhiều Vuông, mỗi Vuông ấy là của Nước, Của Nước=Quốc, nên chữ Quốc 國 có cái áo ngoài là một Vuông 口. Vùng nhỏ trong nước, viết bằng chữ Động 洞 gồm bộ “nước 氵” và bộ “đồng 同”, nghĩa là cùng Nước. Vương Hùng=Vùng Hùng, Vùng Hùng tức Vùng của Hùng (như “cơm tôi” tức “cơm của tôi”, “cơm anh” tức “cơm của anh”). Vùng Của=Vua (QT lướt). Vương Hùng=Vùng của Hùng=Vua Hùng. Theo QT thì: Vua=Chúa=Chậu=Chủ=Cụ=Quân=Quan=Con=Kẻ=KÔ đômô (tiếng Nhật)=Cu=Tu (tiếng Tày)=Tử(chữ nho). (Quân bài còn gọi là con bài; kẻ sĩ; sĩ tử; tu cáy là con gà , tiếng Quảng Đông và Tày Thái, con gà=con cà=con kê; quan Lang=cụ Lớn). “Quân trưởng Hùng Vương” như thư tịch Tần Hán viết, tức là Vua Hùng. Hùng Vương là chữ mà thư tịch Tần Hán viết là chỉ đất nước của người Việt cổ đại (nên ta quen gọi là thời Hùng Vương, tức là thời mà người Việt cổ đại lập quốc ở nam Dương Tử), thủ lĩnh của đất nước ấy cũng mang tên đất nước ấy luôn, là Vua Hùng, quốc gia ấy tồn tại 3000 năm trải qua 18 thời đại, con người cụ thể làm thủ lĩnh quốc gia ấy gọi là Lang. Lắm=Lùm=Lớn=Lao=Lang=Lãnh; lãnh thổ là đất lớn, lãnh hải là biển lớn. Lãnh Đầu=Lãnh Đạo. Vùng Lang , tức vùng của Lang, do Lang quản, Vùng Lang viết chữ nho là Văn Lang. Đó là quốc gia Văn Lang của người Việt cổ đại ở nam Dương Tử. Đó là tổ quốc của Bách Việt. Mà hậu duệ của dân tộc ấy còn thấy trong các từ chỉ “người” trong Việt ngữ, nói về dân mặt trời, thờ Bà Trời (“Ông Trăng mà lấy Bà Trời. Mùng năm hỏi cưới, mùng mười rước dâu”), tức đại tộc Bách Việt: Kẻ=Cả=Ta=Kha=Khơ=Kháng=Khùa=Khạ=Xá=Cả=Kinh=Keo=Lèo=Lào=Lao=Lão=Ly= =Lý=Lê=Lầu=Lửa=Lói=Nòi=Nọi=Chói=Choang=Chái=Ai=Trại=Thái=Thay=Tày=Tao= =Cao=Chao=Cháy=Chiếu=Liêu=Miêu=Mèo=Mông=Man=Mán=Mọi=Mường=Mằn= =Mân=Cần=Nhân=Dân=Duôn=Dương=Duê=Duyệt=Việt=Nhiệt=Nhật=Nhắng=Nắng= =Nùng=Hùng=Họ=Hộ=Ngô=Ngộ=Ngã=Người. Nhiều từ ghép hai từ nêu trên với nhau để chỉ người hay nhiều người: Kinh Kha: tráng sĩ người nước Việt được cử đi thích sát Tần Thủy Hoàng. Thay Lao: tiếng tự xưng của người Lào Lùm, họ gọi các tộc khác là Khạ Nọi. Duôn: tiếng người Khơ Me và người Thái Lan gọi người Kinh. Cần Keo: tiếng người Tày-Nùng gọi người Kinh. Mằn: tiếng người Quảng Đông chỉ người Mọi Người=nhiều người Ai Lao: chỉ cộng đồng Lào Lèo: tiếng nam Trung Bộ gọi người Lào Duê: tiếng người Hán gọi người Việt Nùng Chao: một nhánh cộng đồng Nùng Dương Việt quốc: người Việt của Nước Mân Việt quốc: người Việt của Nước (Từ Kinh Kha cũng hiểu là Kẻ Khạ, là một người Việt, cũng như Kinh Dương Vương, tức Vương Kinh Dương, hiểu là ông Vua người Việt, không phải là ông họ Kinh tên Dương. Người Việt đặt tên địa danh bằng chữ “người” lên đầu, do tư duy coi người là quí nhất, đó là chữ Kẻ, là chung nhất, chỉ dân đất ấy, cụ thể cá nhân thì cũng nhan nhản các tên núi Bà…, chợ Bà…, núi Nàng…, đền Bà…, đền Ông…, cầu Ông…. Nhan nhản các tên làng có chữ Kẻ còn tồn tại ở Lĩnh Nam, mà thư lại đem ký âm trên giấy tờ ghi bằng chữ Kê, dù có nơi viết đảo ngược theo kiểu Hán, chữ Kê đứng sau. Các nhà khảo cổ cứ theo nghĩa chữ Kê là con gà nên đoán sai hết cả. Ví dụ địa danh viết chữ là Kê Tâm Sơn (núi Kê Tâm) ở Quảng Đông, lại đoán là “núi tim gà” rồi mò là do dân cư ở đó có tục bói chân gà. Thực ra nó là “núi Kẻ Tằm” do dân ở đó là kẻ chuyên trồng dâu nuôi tằm. Nếu là tên Núi Gà, hay suối Kênh Gà thì còn có lý. Dân Việt có làm cỗ cúng thì nguyên con gà luộc đặt trên mâm xôi, chẳng có tục cúng rời bằng cái tim con gà, cũng chẳng có logic nào moi tim con gà ra coi để hình dung nó giống trái núi mà đặt tên núi, tim gà hay tim heo thì đều hình dáng giống nhau cả . Nước Sở, sau thời Hùng Vương, còn gọi là nước Kinh Sở, đơn giản thì cũng là Kẻ Sở vậy, nghĩa là dân đất Sở là dân Bách Việt. Các đời vua Sở lấy chữ Hùng làm họ, Hán thư về sau không viết bằng chữ Hùng 雄 (Hồng Vùng=Rộng Vùng, nhưng có totem Chim=Teen=Tiên; Rộng Vùng=Rồng=Rắn Sông, một chữ Hùng 雄 đủ nói lên lịch sử nhờ cả ý cả âm) mà viết bằng chữ Hùng 熊 (nghĩa là con gấu theo Hán ngữ, phát âm là “xiúng”, nhưng biểu chữ thì lại là chữ Năng 能 ở trên và chữ Lửa 灬ở dưới, thì cũng là dân Nắng Lửa tức dân Mặt Trời, vậy chữ này là được mượn để ký âm “xiúng” là con gấu, chữ nó không có tượng hình hay biểu ý gì đến gấu cả) . Nhà văn Nhật Bản Shiba Hirotaro viết: “…Thời các nước Ngô, Sở, Việt ở vùng Trường Giang, ngôn ngữ họ nói là ngôn ngữ Nam Á, khác xa ngôn ngữ ở Trung Nguyên. Thời ấy họ mạnh hơn các nước ở Trung Nguyên nhiều, đơn giản là vì họ đông dân và lắm gạo…”. Cái Nước to rộng ấy là Nước Hùng Vương, hay Nước Văn Lang. Có học giả Trung Quốc (W: xinbang wang) lý luận: 《 Hán thư chẳng thấy có nói đến Văn Lang quốc, nói đến người Văn Lang thì có, như “Lâm Ấp ký” viết thế kỷ thứ 5. Vậy Văn Lang quốc là không có, vì xã hội phải có phân chia giai cấp thì mới hình thành quốc gia. Lại nữa, kết hợp với lý giải chữ Quốc, thì chữ Quốc cổ đại chỉ có ý nghĩa là thành ấp, thành bang, tức thành vực, khu vực 结合古代对国字含议的理解(古代“国”字指城邑、城邦即地域、区域的思)》 . Vậy hóa ra cũng phải công nhận Quốc không phải là Nước. Việt ngữ Nước là địa lý lớn có chủ, Quốc là vùng nhỏ của Nước. Của Nước=Quốc. Phong hầu cho đất Trần thì gọi là Trần Quốc tức xứ Trần của Nước, người được phong lấy tên đất là Trần làm họ v.v. Cổ thư viết hai chữ Trung Quốc thì phải theo kiểu Việt mà hiểu nghĩa của nó là Trong của Nước (thì mới dịch được cổ văn sang Hán ngữ hiện đại), chứ thời cổ đại chưa có nước lớn gọi là nước Trung Quốc ( thời nhà Thanh gọi là nước Đại Thanh), mà chỉ có hàng trăm quốc gia Bách Việt.1 like
-
1 like
-
Cảm ơn Tuệ Nhi đã hồi âm. Về mặt tương quan tuổi thì gd 02 và 03 thấy ổn, nhưng theo thông tin Tuệ Nhi thì 2 là xấu nhất, vì đã ra tòa ly dị. Điều này không có gì là lạ bởi đôi khi do những yếu tố khác, có thể phong thủy như nhà cửa không tốt, đất dữ hay có thay đổi môi trường ... Cũng có khi, trong thực tế, có người chồng có vợ , sinh con, nhưng lại có thêm phòng 02, cũng sinh con...dẫn đến lũng cũng. Theo kinh nghiệm của Thiên Đồng, có nhiều tuổi thấy hợp nhưng lại có chuyện, có nhiều tuổi không hợp nhưng lại êm đềm, hỏi ra thì phong thủy nhà cũng có những ảnh hưởng. Thiên Đồng1 like
-
Tuổi gia đình chị chỉ có năm Ất Mùi 2015 là tốt nhất và gần nhất để sinh con út. Giáp cha hợp Ất con, mạng con Kim tương sinh mẹ Thủy (theo Lạc Thư Hoa Giáp), Ngọ Mùi hợp, như vậy là đảm bảo tiêu chí sinh con hợp tuổi rồi. Thân mến.1 like
-
Với trường hợp của 2 bạn thì các năm này là tốt để sinh : 2015 Ất Mùi và Kỷ Hợi 2019. Đây là 2 năm tốt ưu tiên sinh con út, con đầu nếu sinh các năm khác thì ưu tiên con gái nhé. Thân mến.1 like
-
F- Phải là đương số hỏi,tránh xem dùm người khác hay tò mò.1 like
-
Chưa đến mức độ xuyên tâm sát. Nhưng làm thoái khí khu vực này. Còn cái hồ làm khu này khí khó tụ. Nếu cái cầu đã xây rồi thì phải điều chỉnh một số cảnh quan khu vực. Còn cái hồ phải lấp một cách bài bản. Thế đất này rất đẹp, nếu như dự án có tham khảo ý kiến chuyên gia phong thủy từ đầu.1 like
-
Thế đất của Bán đảo Linh Đàm rất quý. So với Thủ Thiêm thì tốt hơn nhiều, mặc dù quy mô nhỏ hơn. Tuy nhiên chỗ hỏng của thế đất này là con đường màu xanh chạy qua và nước hồ Linh Đàm tràn vào bên phải khu CC6.1 like
-
Đệ tử cảm ơn Sư phụ rất nhiều! Nhờ có kiến thức về PTLV của Sư phụ truyên dạy, nên đệ tử nhìn nhận thấy có sự tác động, ảnh hưởng của Phong thủy tới khu vực bán đảo Thủ Thiêm. Q2 này. Nay, Tp HCM đã có ý tưởng qui hoạch lại toàn bộ Khu Bán đảo này & chuyển đổi công năng toàn diện của Khu bán đảo thành một Trung tâm Thương mại của TP,.... Đệ tử thiết nghĩ, giá như có sư quan tâm đúng nghĩa của TP về toàn bộ qui hoạch, cũng như cần & rất cần có thêm sự tham vấn của các Phong thủy gia giàu kinh nghiệm, chắc chắn sẽ tạo nên một Trung Tâm Thương Mại trên toàn Khu vực Bán đảo có một bộ mặt hoàn toàn mới theo đúng như ý tưởng của các nhà hoạch định, cũng như sự kỳ vọng của rất nhiều người dân TP.1 like
-
Đô thị mới Thủ Thiêm phải trả lãi vay 4 tỉ đồng/ngày 07/03/2011 09:07:59 Đoàn kiểm tra về phòng chống tham nhũng của TP.HCM vừa có kết luận việc kiểm tra tại Ban quản lý khu đô thị mới Thủ Thiêm. Theo đó, đoàn kiểm tra lưu ý tiến độ triển khai bồi thường giải phóng mặt bằng, điều chỉnh quy hoạch chi tiết khu trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm hoàn thành chậm, nên việc kêu gọi đầu tư, xây dựng các công trình còn hạn chế. Việc này dẫn đến hệ quả là TP.HCM phải chi trả lãi vay (để thực hiện dự án, trong đó có giải phóng mặt bằng...) bình quân là 4 tỉ đồng/ngày, gây lãng phí lớn. Đoàn kiểm tra kiến nghị cần nhanh chóng ban hành cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, sớm phát huy hiệu quả khu đô thị mới Thủ Thiêm, tránh lãng phí. Theo Tuổi trẻ ================================== Chỉnh sửa lại Phoengshui theo đề án của Á Châu thì xong ngay ấy mà. chứ mỗi ngày 4 tỷ thì kinh quá!1 like
-
PHẦN TIẾP THEO ( Về Tướng phụ nữ ) G _ CHÍN ĐIỀU XẤU CỦA PHỤ NỮ . 1_Quyền cao , mặt xấu : Hại chồng . 2_ Lộ hầu : Chiêu họa . 3_ Đầu xù , mặt bẩn . : Bần tiện. 4_ Đi như rắn bò : Bần tiện , lao khổ . 5_ Cặp chân mày giao nhau , áp mắt : Cùng khốn . 6_ Cạnh mũi có vết móc câu : Hại chồng . 7_ Mắt lộ bốn phía lòng trắng : Vụng , hung hãn . 8 _ Tiếng nói như đàn ông : Khắc sát phu . 9_ Tóc xoăn như ốc : Bần tiện , keo kiệt , khắc tử . Nếu người đàn ông nào lấy người đàn bà bị một trong 9 điều xấu đó tất nhiên sẽ gặp nguy khốn vì đó không phải là tướng “ Vượng phu ích tử “ . H_ CHÍN ĐIỀU TỐT CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ 1_ Đầu tròn trán sáng ,bằng phẳng . 2_ Xương nhỏ nhắn , da mịn màng ,thanh sạch . 3_ Môi hồng, bộ răng đều và trắng . 4_ Cặp lông mày dài ,mắt thanh tú . 5_ Ngón tay thon, bàn tay đầy đặn . 6_ Tiếng nói nhẹ ,âm thanh như suối chẩy êm . 7_ Bước đi ngay ngắn , khoan thai ,tự nhiên .Tư thế nằm ngồi nhàn hạ . 8_ Cừơi mà không lơi lả ,không hở lợi . 9_ Thần khí thanh hòa ,da thơm mịn màng . Khi quan sát người phụ nữ mà không có điều kiện đi sâu xem chi tiết, chỉ thoáng qua nếu họ có đủ 3 tiêu chuẩn “ 3 trắng , 3 đen , 3 đỏ .” ta cũng đã thấy người phụ nữ này có tương lai sáng sủa . Ba trắng là : Da trắng , răng trắng , bàn tay trắng . Ba đen là : Tóc đen, mắt đen , lông mày đen . Ba đỏ là : Môi đỏ , lưỡi đỏ , móng tay đỏ .( Nếu được thêm một đỏ nữa là gót chân đỏ _ Ta thường nói gót chân son _thì càng hay .) Trước khi tạm dừng để tới các chương sau đề cập tới CHỈ TAY và NỐT RUỒI , LỐC CỐC TỬ tôi có một mẩu chuyện ngắn muốn kể lại cho các quý độc giả , chuyện này ngày xưa Mẹ tôi thường kể cho anh em chúng tôi . Chuyện kể rằng : “ Có một ông Thầy Tướng rất nổi tiếng khắp vùng ,khách tới xem đông lắm ! Một hôm có một người bạn ở phương xa đến nói rằng “ Tôi không tin về xem tướng ! “.Ông Thầy Tướng hỏi lại :” Tại sao anh không tin ? “. Anh kia nói :” Theo thầy nói chỉ có những người có tướng tốt như da trắng, tai to mặt lớn,v .v . .thì mới giầu có , hạnh phúc , con cháu mới thành đạt. Thế tại sao ở vùng quê kia có một tay địa chủ dáng người thì thấp bé , mắt lại lé ,da lại đen . . .mà tại sao mấy chục năm nay càng ngày càng giầu có . Vợ lại đảm đang , con cái học hành lại thi đỗ cao . Vậy là ngược lại với lời thầy nói .” Ông Thầy không tin, nói :” Anh đưa tôi đi tận nơi xem nhé ! “. Anh kia vui vẻ nhận lời . Sau mấy giờ lặn lội , khoảng gần trưa , hai người đến một nơi đồng ruộng thẳng cánh cò bay , lúa chin vàng nặng trĩu bông , đang vào mùa gặt .Anh bạn chợt chỉ tay đến một khoảng cách hơi xa có mấy người đang lúi húi gặt lúa : “ Người địa chủ mà tôi nói kia kìa .” Hai người tiến lại gần . Sau hồi chào hỏi ,tay bắt mặt mừng , người địa chủ mời cả hai về nhà . Mới đi được một đoạn ngắn, chợt người tá điền đi cạnh chỉ tay ra phía xa trên đường đi tới và nói với người địa chủ : “Ông chủ ơi ! Ở đằng kia có mấy người đang gặt trộm lúa của đồng ta ! Để tôi đến bắt họ giải lên quan nhé ! “ Nhưng người địa chủ ngăn lại và nói : “ Không được , năm nay đói kém , mất mùa , dân đói khổ mà ruông nhà ta lại tốt , cứ để cho họ lấy một ít có sao đâu ! Nhà ta có mất một ít thì vẫn thừa ăn ,nhưng họ không có ít đó thì gia đình họ sẽ đói !”. Nói xong ,ông địa chủ quay lại nói với anh bạn và ông thầy : “ Chúng ta đi đường này tắt về nhà gần hơn ,đừng để họ thấy chúng ta .” Ngừoi tá điền thì hậm hực , còn ông Thầy Tướng cúi đầu ngẫm nghĩ . Đến nhà người địa chủ quả nhiên như anh bạn nói . Nhà cửa khang trang sạch sẽ . Vào đến sân , những tá điền đang làm việc đứng dậy lễ phép cúi chào rồi lại tiếp tục làm . Bước vào hiên nhà bà vợ có tướng phúc hậu đon đả chào hỏi .Ngay sau đó bốn người con đủ trai , gái từ trong buồng bước ra khoanh tay lễ phép cúi chào . Vào đến trong nhà , ông Thầy thấy ngay một bàn thờ đang nghi ngút khói hương . Trên cao sát tường là ba bức tranh thờ Đức Phật Tổ Như Lai , Đúc Quan Thế Âm Bồ Tát và Đức Thánh Mẫu Thiên Cung .Đặt trên bàn thờ là 5 bát nhang đang tỏa khói hương thơm ngào ngạt , tàn nhang lộc xoắn suýt . Ông thầy Tướng quay sang nói với người bạn : “ Bây giờ tôi đã hiểu ra nguyên nhân . “ Nguyên nhân đó là gì chăc các độc giả đọc đến đây đã hiểu lý do mà người địa chủ có TƯỚNG MẠO xấu mà lại thành công vẹn tròn .Đó là TÂM ĐỨC . Các cụ từ xưa đã dậy chúng ta ĐỨC NĂNG THẮNG SỐ . Xin cám ơn các bạn đã bớt thời gian đọc câu chuyện này.1 like
-
Tướng Mạo
Trí Phương liked a post in a topic by Lốc Cốc Tử
TƯỚNG MẠO LỐC CỐC TỬ Tiếp theo MIỆNG * Miệng vuông vắn có thành có bờ ( Bờ ở đây là ở viền môi có một đương viền sáng ) Phú quý * Miệng rộng , đầy đặn : Sang giầu . * Miệng như thoa son : Không sợ đói khổ . * Miệng như vành trăng treo ( ngưỡng nguyêt khẩu ), góc miệng đưa lên thật rõ ràng cộng với * Răng trắng môi hồng : Là người văn chương đày bụng , có tiếng tăm * Miệng hình vòng cung ( Loan khẩu ) góc miệng nhích lên , đôi môi đỏ hồng : Người này sẽ được phú quý lâu dài . * Đôi môi thật dầy dầy ( Ngưu khẩu ), quang nhuận , hơi thở thơm tho , tiêng nói như sấm : Thuộc loại người đại phú quý . * Miệng rộng ( Hồ khẩu )cộng đôi môi dầy : Người giầu có . * Miệng dài , nhân trung dài và sâu : Người có phúc lợi nhiều * Miệng lệch và mỏng : Bần hàn . * Miệng như túi buộc túm : Chết đói . * Hai mép xệ xuống như miệng cá : Loại người phá gia bại sản . * Miệng như người đang thổi lửa : Nghèo hèn . * Miệng như cái thuyền úp , môi dầy , mép xệ : Loại người bần cùng , tham ăn . * Miệng như miệng con cá Ngão ( Khang ngư khẩu ) : Bần cùng khổ suốt đời. * Miệng Lợn ( Chư khẩu ) là người có môi trên dài mà thô , môi dưới nhỏ , hai mép chẩy dài : Là loại người nham hiểm , không thọ được lâu . 6 ĐÔI MÔI . Đôi môi là thành quách của cái miệng , môi nên dầy và có bờ . Môi mỏng mà không có bờ là không tốt (Bờ là đường viền sáng quanh môi). * Môi có mầu sắc hồng nhuận , quang minh :Tốt . * Đôi môi dầy : Người trung tín . * Đôi môi bóng bẩy , đỏ cộng với vừa nói vừa thỉng thoảng liếm môi ;Người ham khoái lạc và dâm . * Môi xám mặt xanh : Bệnh tật và tai họa luôn luôn rình rập . * Môi trên mỏng : Người sảo trá . * Môi dưới mỏng : Bần tiện . 7 HÀM RĂNG. * Răng trắng như bạch ngọc : Cao quý . * Răng đều như hạt lựu : Phúc lộc nhiều . * Người có răng nanh : Thường là người có duyên và có khả năng kinh doanh . * Răng trên rộng dưới hẹp : Hay được ăn uống . * Răng đen , xám : Đoản thọ . Đừong tình cảm không được suôn sẻ . * Răng vàng khè : Chuân chuyên . * Răng trên nhọn dưới bằng : Ăn uống kham khổ . * Răng nhỏ ngắn thô : Người nhu nhược . Không thọ , uổng công đèn sách . * Răng trắng , môi hồng : Sĩ tử văn chương , có năng khiếu về nghê thuật , hoặc mỹ thuật . 8 LƯỠI . * Lưỡi ngay ngắn , sắc hồng , cử động dễ dàng : Cao quý . * Lưỡi dài có thể liếm được đàu mũi : Đại quý . * Lưỡi đỏ chót như son : Hoạnh tài . * Lưỡi ngắn nhỏ : Vấy vả , tham lam . * Lưỡi trắng bệch : Khổ sở . * Có nốt ruồi ở lưỡi : Nói dối như cuội . * Chưa nói lưỡi đã thè ra đầu môi : Dối trá . * Vừa nói vừa liếm môi :Con gái cực dâm . * Lưỡi cử động như lưỡi rắn : Là người có tâm địa độc ác . * Lưỡi đầy mồm : Người vụng về . 9 MÁI TÓC . * Đầu tóc bù xù : Thể hiện sư sa đọa . * Tóc thô cứng , đỏ : Người hung ác , ngu xuẩn , độc ác . * Tóc rít không chải được : Bất hiếu bất trung . * Tóc mọc trên trán : thời niên thiếu khổ sở . * Tóc quá rậm : Khắc thê . * Tóc quá ít : Thiếu sinh lực . * Tóc đen , cứng bóng : Người có sinh lực dồi dào . * Ngừời có mái tóc như trên cộng với thân thể to lớn : * Phong phú sinh lực , gan dạ ,tham lam , hiếu sắc , ương ngạnh . * Người nào sau gáy có tóc lô nhô : Trong đời cần đề phòng bệnh hoa liễu . Các cụ xưa có câu : “ Cái Răng , cái Tóc là vóc con người “ . Khi xem tướng ta cần lưu ý .1 like -
Nhớ cái hồi trước năm 2000, còn sống ở đây (tuyến đường Trần Não) phải nói là tuyến đường đầy ổ gà, ổ voi, mùa nắng thì bụi bay mù mịt, mùa mưa thì lầy lội, bùn xìn bê bét, còn cái cầu Đen bắt qua cái kênh bằng sắt lót ván gỗ, xe lớn chạy riết làm gẫy ván gỗ taọ nên cái hố nhỏ, đi xe cứ sợ lọt, rồi chấp vá lại nhìn cái cầu thấy thảm hại, nay thì ngon lành rồi.Anh Achau nói về khí hay lắm đó, đúng vậy, những tuyến đường đang khởi tạo là sự dẫn khí từ trung tâm TP cho vùng này, với lại trong vận 8 này thì vùng này là nơi sẽ phát triển mạnh chứ không phải trong năm nay mà thôi, taọ nên đà phát triển về phía Đông, Đông Nam sau này.1 like
-
Anh chị em và quí vị quan tâm thân mến. Hôm nay tôi tìm được toàn văn bài viết về khu đô thị mới Thủ Thiêm. Nói chung là so với bài viết của Achau thì bài viết này mang tính ca ngợi sự phát đạt một chiều của Thủ Thiêm, theo góc nhìn của khoa phong thủy. Còn bài viết của Achau thì cho rằng có những yếu điểm về Phong Thủy cần khắc phục. Tôi ủng hộ bài viết của Achau. ----------------------------------------- Thứ Sáu, 26/03/2010 15:47 http://thethaovanhoa.vn/138N20100326034713...gon.htm#comment Đi tìm vùng đất chấn long chính mạch của Sài Gòn Ngày xưa, cách đây đúng 1000 năm, vào mùa thu tháng Bảy năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã đưa ra quyết định quan trọng làm thay đổi toàn bộ bản đồ đất nước cũng như vận mệnh của dân tộc: dời đô từ Hoa Lư ra phủ thành Đại La, rồi nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long. Sau 1000 năm, trải qua rất nhiều nạn binh biến can qua hỏa khốc, thành Thăng Long vẫn vững chãi với vị thế của vùng đất tổ văn hiến cũng như một trung tâm kinh tế văn hóa quan trọng của cả nước. Quyết định “an cư” của vua Lý Thái Tổ là tiền đề cho mọi vượng đạt “lạc nghiệp” về sau của hồng vận đất nước. Câu chuyện “an cư, lạc nghiệp”, việc mong mỏi tìm được một chốn đất dung hợp được Tam Tài (Thiên – Địa – Nhân), do vậy, chẳng phải là ước muốn riêng của thời đại nào, cá nhân nào, mà chính là khát vọng chung của con người trên con đường mưu cầu sự nghiệp, hạnh phúc. * Sài Gòn – đất “rồng chầu, hổ phục” Ở phía Bắc, Việt Nam có thành Thăng Long giữ lấy thế đất vượng niên cho mệnh nước; còn ở phương Nam, khi Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh của chúa Nguyễn đem quân đi mở cõi và định danh cho đất Sài Gòn – Gia Định, thì lịch sử cũng bước qua một trang mới. Không đầy 300 năm sau, Sài Gòn trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông của cả khu vực Đông Nam Á, và nay là trung tâm kinh tế đầu não năng động và phát triển nhất nước. Xét theo phong thủy mà bàn vận, Sài Gòn ngày xưa, hay Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, có được sự hưng thịnh ấy chính là do ở địa thế trời cho của mình. Ở phía Bắc, Sài Gòn dựa lưng vào chân của long mạch là dãy Trường Sơn tạo nên thế Huyền Vũ vững chãi. Phía Tây Bắc có dãy núi Bà Đen, phía Đông Nam có khu núi Vũng Tàu hợp thành thế Tả Thanh Long – Hữu Bạch Hổ tạo thành thế quân bình, thu nạp vượng khí của toàn bộ vùng đất. Phía Nam và Tây Nam Sài Gòn là hệ thống các sông Vàm Cỏ, xa hơn nữa là vùng đồng bằng sông Cửu Long phù sa với hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang, tạo thành thế Chu Tước nuôi dưỡng và lưu chuyển cho mạch khí của vùng. Thế đất Sài Gòn, theo phong thủy, là thế đất sinh vượng. Ngoài ra, dòng sông Sài Gòn chảy uốn lượn phía hữu ngạn của thành phố đã tạo nên luồng ngoại khí, tiếp dẫn cho nội khí của địa thế Thanh Long – Bạch Hổ, khiến vượng khí liên tục được sinh ra không dứt. Sách xưa viết rằng: sinh khí là khí sinh ra do sự kết hợp của ngũ hành, là khí sinh ra vạn vật. Sài Gòn được thừa hưởng sinh khí ấy là do sự có mặt của dòng sông Sài Gòn uốn lượn, gấp khúc nhiều lần rất đẹp trước khi hội với sông Đồng Nai để đổ ra biển. Sài Gòn nhận về mình vẻ hài hòa của núi non, sông nước tạo nên bản sắc phong thủy hữu vận lai niên. Nơi vượng khí hội tụ nhiều nhất, không phải nằm bên hữu ngạn dòng sông, tức là trung tâm thành phố bây giờ, mà chính là nơi sông ngòi uốn khúc giao nhau, như sách “Sơn thủy trung can tập” viết: “Núi hướng về không bằng có dòng nước hướng về, dòng nước hướng về không bằng có dòng nước vây quanh, dòng nước vây quanh không bằng có dòng nước tụ. Dòng nước tụ thì long hội, long hội thì đất lớn”. Vậy nên, vùng đất hiệp lộ như ý nhất theo phong thủy chính là vùng đất Thủ Thiêm ngày nay. * Đất Thủ Thiêm: chân long chính mạch Vùng đất Thủ Thiêm được các nhà phong thủy gọi là chân long, nơi hội tụ sinh khí dồi dào nhất của cả vùng Đông Nam Bộ. Trước khi giao nhau với sông Đồng Nai để đổ ra biển, sông Sài Gòn đã uốn lượn rất đẹp và ôm lấy đất vùng Thủ Thiêm, dáng sông thế này gọi là đại cát, rất tốt đẹp cho cơ nghiệp và vinh hiển cho công danh. Sau khi uốn khúc ở Thủ Thiêm, sông Sài Gòn đổ ra giao với sông Đồng Nai, tạo ra vượng khí cho vùng đất trù phú này. Thủ Thiêm được sinh ra để ưu ái lĩnh nhận trọn vẹn tất cả sinh khí hưng vương của dòng chảy ấy. Ngày xưa, những nơi thủy địa đẹp như vậy được dùng làm nơi xây cất thành trì cũng như định đặt lăng mộ của các vua chúa. Sách Thủy Long Kinh (NXB Hải Phòng, 2007) chép: “Cần long quẩn quanh, ôm ba mặt, hình dáng giống như kim thành, đến đi có tình, khí thế lớn, có thể chọn làm lăng của đế vương”. Xét ra trong lịch sử Trung Hoa, minh chứng cho điều này có thể tìm thấy chẳng mấy khó khăn. Khu táng mộ của vua chúa đời Ân Thương nằm ở đoạn uốn khúc của sông Hoàng Hà, khu phủ Liễu Châu ở Quảng Tây cũng nằm trong thế hồi hoàn ba mặt của nhánh Liễu Giang (Giang Tây), khu Lang Trung Cực ở Tứ Xuyên cũng được dòng nhánh Gia Lăng Giang của Trường Giang quấn lấy… Những triều đại và phủ thành được kể trên đều được đặt trong những nơi đại cát về phong thủy, thế nên, lịch sử tồn tại đều trên dưới 1000 năm, hưng thịnh lưu truyền đến cả các đời hậu thế. Cần nói thêm là dáng khúc của sông Sài Gòn khi đến gần thành phố đã uốn khúc rất nhiều lần, khi chảy đi lại quay đầu thêm hai lần nữa (hai lần khúc sông uốn cong trở lại), tạo ra hình dáng cát nhất trong thủy pháp. Sách xưa viết: “Làm quan thanh quý, thường là vì dòng nước vây quanh Thanh Long; được phúc dài lâu, nhất định là dòng nước quẩn Huyền Vũ”. Nếp sông uốn khúc đem lại cho Sài Gòn sự phồn thịnh, hưng túc hiếm có. Nhưng để hưởng được vượng khí lưu niên của toàn cõi Đông Nam Bộ này, không đâu có thể hơn được khu vực Thủ Thiêm – nơi chính mạch của dòng nước đại cát, đem lại phồn thịnh, phú quý, sung túc và an lạc đời đời cho cư dân trong vùng. Thế đất Thủ Thiêm là thế đất đẹp hiếm có theo phong thủy. Vùng Thủ Thiêm rất đắc địa để cư dân có thể lạc nghiệp an cư bởi thế đất lớn sẽ đem lại phúc lộc dồi dào, cơ nghiệp thịnh đạt, và sinh khí cát lợi do dòng sông mang đến hứa hẹn nhiều thành đạt trong công danh và cử nghiệp cho con cháu. Tóm lại, gia thế hưng thịnh, lộc tồn bền lâu, an lành phước thọ… có lẽ là lời chúc phúc trọn vẹn mà phong thủy dành tặng cho con người nơi đây. Hoàng Thu http://thethaovanhoa.vn/138N20100326034713995T138/di-tim-vun g-dat-chan-long-chinh-mach-cua-sai-gon.htm1 like