• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 15/02/2012 in all areas

  1. BỔ SUNG THÊM MỘT VÀI HÌNH ẢNH MINH HỌA VĂN PHÒNG TRUNG TÂM TẠI HANOI Bể cá cảnh đúng tiêu chuẩn ISEO - (Ì SÈO )- 2012 Âm Dương Lạc Việt - Một minh triết tuyệt vời cho khái niệm Âm Dương và là hình ảnh cách điệu đầy đủ nhất của các sự vận động, tương tác trong vũ trụ. Phòng làm việc chính của Văn Phòng Trung Tâm. Qua bao thăng trầm. Bây giờ tạm ổn.... Điện thờ Đức Mẫu Thoải (Thủy) - Biểu tượng của Trí tuệ và nhận thức chân lý tuyệt đối ở trần gian. Hai bên Đức Mẫu Thoải là cô Chín - Thánh tổ về dự báo, tiên tri trong thần thoại Việt và cô Bơ. Điện thờ riêng của cô Chín bao giờ cũng có biểu tượng con gà trống - Đấy chính là hình tượng của Kê Nghi - trù thứ 7 Trong Hồng Phạm cửu trù. Nhưng sao lại là "Cô Chín" trong thần thoại Việt? Điều này liên quan gì đến việc hoán vị Đoài 9 và Ly 7 trong Huyền Không Lạc Việt?
    5 likes
  2. Những người bắt bẻ lỗi chính tả trong tranh luận là những người lý sự cùn. Đưa ra ngoài diễn đàn, Vậy thôi. Chúng ta không có thời gian tiếp những loại này. Từ nay, những người tham gia diễn đàn có dấu hiệu không lành mạnh: Số DT ko rõ ràng, tên tuổi xuất xứ mập mờ vào đây lợi dung để quảng cáo, cắt ngay.Trên Thiên Đường không có dân chủ. Chưa thấy ai đi bầu Thượng Đế cả. Nhưng ở đấy chân lý ngự trị. Đây là diễn đàn học thuật, chúng ta tôn trọng chân lý và tranh luận để tìm chân lý, chứ không phải dành hơn thua.
    2 likes
  3. Hai người lấy nhau được đó Sửu là thổ, mà 2 thổ kết hợp lại thì các cụ có câu là: "Lưỡng Thổ Thành Sơn" rất tốt
    1 like
  4. Sinh con vào năm: 2020 đi quá tốt: 9/10 điểm Còn vụ ông bà già thì mặc kệ đi, sao phải soắn thế nhỉ, quyết cưới đi xem ông bà ý làm được gì Làm thằng con trai mà ko quyết định được cs của mình, để ông bà già tác động, ngăn cản, thì vì sau có gia đình rồi thì lèo lái cái gia đình đó làm sao được Với lại trên thế giới này 1985 lấy 1985 có lẽ phải tính lên hàng vạn người lấy nhau, chả lẽ bỏ nhau hết (Bọn tây nó có xem tuổi lấy nhau đâu mà) Năm sinh con: 2020 Tuổi: Canh tý - mệnh Bích Thượng Thổ Tuổi bố, Mẹ: 1985 Tuổi: Ất sửu - mệnh Hải Trung Kim Ngũ hành sinh khắc: Mệnh con tương sinh với cả bố và me (Thổ sinh kim), đẻ ra 2 vợ chồng làm ăn sẽ rất tốt (10/10) Thiên Can sung hợp: Thiên can con tương hợp với thiên can bố và mẹ (Ất hợp với Canh) (10/10) Địa chi sung hợp: Địa chi của bố, mẹ lục hợp với địa chi của con (Tý hợp với sửu) dư mà có hơi khắc 1 chút vì Tý là thủy, sửu là Thổ, vì thế bố mẹ hơi khắc con 1 tí (9/10) Tổng điểm 9/10 Đứa đầu thì làm đứa sinh năm 2013 nha, kiếm cái tam hợp và cái ngũ hành
    1 like
  5. Con đầu tuy hợp mẹ nhưng mẹ Dương sinh con âm nên con ỷ lại là đúng rồi, con sau 2007 bị mạng mẹ khắc, đáng ra sẽ hay bệnh, nhưng là con gái nên cái khắc giảm đi, con đầu hợp tuổi nhưng là con gái nên mọi việc vẫn chưa như ý, nếu là con trai thì càng hợp hơn nữa. Nói chung tuổi chỉ phản ánh 1 phần, còn phải xét thêm 1 số yếu tố khác mới biết chính xác. Nếu mốn sinh con thứ 3 thì gia đinh nên chọn năm Quý Tỵ. Mậu cha hợp Quý con, Thân và Tỵ là Nhị hợp, mạng mẹ tương sinh con. Đảm bảo mọi việc trong nhà sẽ may mắn và phát đạt hơn. Không nên sinh Nhâm Thìn nhé vì không có lợi cho bố. Con út nếu là con trai thì càng tốt.! Thân mến.
    1 like
  6. Cùng tuổi thì bình hòa, ko sinh ko khắc, xem phy cung là phương pháp không chính xác, ở đây chúng tôi đề cập nhiều về vấn đề này rồi, bạn nên đọc thêm một số bài ở mục chú ý để hiểu thêm. Tuy nhiên, Ất Sửu có Ất Mộc, Sửu Thổ, Hành khí lại là Kim, nên ban đầu lấy nhau về sẽ khó khăn, về sau mới khá dần lên được, nên sinh con năm tốt với tuổi vợ chồng để thêm thuận lợi. Các năm tốt so với tuổi 2 vợ chồng để sinh con : 2014 Giáp Ngọ, 2016 Bính Thân, 2017 Đinh Dậu và 2020 Canh Tý. 2 bạn tự sắp xếp nhé. Thân mến.
    1 like
  7. Nhà chị sinh con đầu rất hợp, nghe lời bố mẹ hơn bé thứ 2. Chồng chị sức khỏe ko tốt lắm. Gia đình chị từ lúc sinh bé 2 ko ấm êm bằng bé đầu tiên. Nhưng vì là con gái nên cũng chưa bị ảnh hưởng lớn. Chị nên sinh bé út vào năm 2017 (Đinh Dậu) thì rất tốt.
    1 like
  8. Sĩ Nhiếp nếu quả là người Việt như bài viết này nói thì cũng là ...Việt gian vì làm quan đô hộ của ngoại bang thống trị dân Việt trong hơn 1000 năm Bắc Thuộc. Đang có kẻ muốn khôi phục lễ hội tôn vinh Sĩ Nhiếp vì cho là có công với dân Việt trong thời Bắc thuộc. Bọn vô liêm sỉ. Bị nhiều người phản đối - cá nhân tôi cũng viết nhiều bài về vấn đề nay trên cả blog và trên diễn đàn Lý học - nên tụi nó vẽ ra Sĩ Nhiếp họ Phạm và là người Việt hòng hợp thức hóa việc phục hồi đền thờ Sĩ Nhiếp. Tổ tiên rực rỡ thì vùi dập chỉ là liên minh bộ lạc với những người dân "ở trần đóng khố", còn thằng đè đầu cưỡi cổ dân Việt thì một bọn vô sỉ trâng tráo tôn vinh. Liệu cái thần hồn. Bài này có nguồn từ đâu vậy, Hoangnt có thể cho tôi biết không?
    1 like
  9. Bất kỳ ngành nghề nào cũng vậy, đều có nhiều trường phái. Tử Vi cũng không ngoại lệ. Diễn đàn này Tử Vi có trường phái riêng, em tham gia bao lâu mà chưa biết tên của trường phái ở đây sao?? Trường phái này tên tiếng Anh gọi là HaiThienHa, thêm dấu tiếng Việt là HạiThiênHạ Nguyên tắc là không bao giờ nhận xét hay bàn cãi lời giải đoán của bất kỳ ai là đúng hay sai vì câu trả lời cho tất cả lời giải đoán là chuyện em sẽ gặp trong tương lai!!! Nên em có mang lời giải đáp của bác PHL rồi hỏi ở đây thì thật đã hỏi nhầm đối tượng!!! Nếu còn gút mắc gì trong lời giải của bác PHL, thì em nên mang đi mà hỏi bác ấy. Chị thì không thể đọc nổi vì quá dài, mà chị thì quá lười. Việc gì tới trước thì giải quyết trước, đừng có tính bao sân mới 20 mà tính chuyện 60, còn đi học hãy lo cố gắng học cho tốt!!!
    1 like
  10. chị hỏi gia đình là "bố mẹ đi xem tổng cộng bao nhiêu ông bói? bao nhiêu ông nói là tuyệt mệnh? bao nhiêu ông nói ko? Vì sao tuyệt?" Dân gian có câu: bằng tuổi nằm duỗi mà ăn. Trừ khi bố mẹ ngta ko thích
    1 like
  11. chắc ông thầy lại xem cung phi đây chị nghe hay ko thì tùy, nhưng quan điểm chung của diễn đàn là: yêu nhau cứ lấy. Chị sinh con năm 2014 nhé. Cực cực tốt
    1 like
  12. BỜ TÂY NƯỚC MỸ LẠI RUNG CHUYỂN VÌ ĐỘNG ĐẤT Thứ tư, 15/2/2012, 15:44 http://vnexpress.net...en-vi-dong-dat/ Bắc bình Nam. Tây bình Đông ==> tiếp theo phương Đông chuẩn bị !
    1 like
  13. 1. Nhà này hợp hướng với mẹ bạn, rất tốt, chỉ cần bố trí phong thủy hợp lý là được. 2. Nếu vườn không lớn hơn gấp 2 lần ngôi nhà và có bờ bao thì tính luôn cả vườn. 3. Muốn xây dựng như thé nào thì tự thiết kế ý tưởng rồi đưa lên để chỉnh sửa lại cho hợp phong thủy. 4. Cây sung ở vị trí đó được, không nhất thiết phải chặt. Thân mến
    1 like
  14. Vui lòng xem lại các trang trước của Topic này cũng nhiều người có mong muốn tốt đẹp như bạn, nhưng tiếc thay, để thực hiện trọn vẹn và phát huy công năng của Thần chú lại không đơn giãn như thiện ý của các bạn!Tôi sẽ gởi đến bạn 10 bản chú để bạn có thể giúp phát triển nhiều người chỉ cần sự tín tâm chúng tôi luôn sẵn sàng.
    1 like
  15. 1 like
  16. 1 like
  17. 1 like
  18. Cũng được cái mạng con Nhâm Thìn Hỏa (Theo Lạc Thư hoa giáp) sinh mạng mẹ, Nhưng xấu cái địa chi khắc mẹ, sợ về già mẹ ốm đau. Đinh Nhâm hợp cha (Tuy về lý tiên thiên thì khắc), nhưng mạng cha Thủy (Lạc Thư hoa giáp) khắc con Hỏa, sợ con đau yếu, khó nuôi (Hoặc mẹ khó sinh). Tính đi tính lại thì không nên sinh năm Thìn. Mấy đứa hãy còn trẻ, làm gì mà lo quá vậy. Vợ tôi 50 tuổi cũng muốn sinh thêm một đứa. Tôi sợ qúa gọi bà ấy bằng chị để bà ấy tha cho. Nhưng nay nghĩ lại thấy bà ấy đúng thì đã muộn rồi. Con cái lớn cả . Chúng nó đi lượn ngoài đường valantin gì đó, để hai ông bà già hết đát ngồi nhìn nhau hết muốn nhậu. Nếu có một thằng con nhỏ bi bô thì cũng vui. Bởi vậy, thời buổi bây giờ, kinh tế cũng không đến nỗi khó khăn, sinh con muộn chưa hẳn đã là không tốt.Thôi cũng tùy!
    1 like
  19. Anh xem lại, anh mới post 2 bài, 1 bài trong topic này http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/20966-sinh-con-nam-2012-va-2013-nham-quy/page__st__40__p__165489#entry165489 và 1 bài ở đây, ngay phía trên. Tính ra thì tôi chưa tư vấn cho anh nhỉ?
    1 like
  20. Tôi ko hiểu vì sao Thiên Luân lại tư vấn sinh năm Nhâm Thìn? Đường link đâu? Theo tôi thì không nên sinh năm 2012. Nguyên lý của Luận tuổi Lạc Việt là: Con phải hợp với mẹ về vận khí theo Lạc Thư hoa giáp và Địa chi và hợp cha về Thiên Can là tốt nhất. Tuyệt đối con không được khắc mẹ về Địa chi và vận khí. Theo tôi sinh con năm Giáp Ngọ là gần nhất 2014.
    1 like
  21. Thầy Thiên Sứ luôn nói, Yêu nhau cứ lấy, quan trọng nhất là yêu nhau. sau khi cưới xong thì sinh con mới cần chọn năm để sinh. GIàu con út -Khó con Út, cho nên quan trọng hơn cả là có sinh con được đúng năm mình chọn hay không thôi Chúc vạn sự an lành
    1 like
  22. @Vaio1988 Anh Thiên Đồng thân mến, Em cầu mong được anh Thiên Đồng thương xem giúp em với ạ... Em xin chân thành cảm ơn anh Thiên Đồng rất nhiều ạ. Em là nữ, sinh năm 1988 tuổi Mậu Thìn Em khấn nguyện thiết tha lúc 12:05 trưa ngày 16 tháng 1 năm 2012 dương lịch ạ. Kính xin anh Thiên Đồng xem giúp em với ạ. Câu hỏi 1 của em: Em và bạn trai em đã chia tay được 1 tháng 3 ngày rồi, em kính xin được hỏi là em và bạn trai em có thể quay lại với nhau không ạ? Quay lại vào cuối xuân năm Nhâm Thìn. Câu hỏi 2: Chúng em có thể nên duyên phu phụ trong cuộc đời này không ạ? Được. Nhưng phải chịu khó một thời gian lâu Câu hỏi 3 ạ: Nếu chúng em không có duyên nợ vợ chồng với nhau thì khi nào em mới gặp được người chồng của em và kết hôn ạ? Em kính xin được anh Thiên Đồng giúp em với ạ. Em xin chân thành cảm ơn anh Thiên Đồng nhiều lắm. Em kính chúc anh luôn luôn khỏe mạnh an lành và hạnh phúc ạ. @ngadong Cháu chào chú! Mong chú giúp cháu 3 câu hỏi này. -Nữ tuổi Canh Ngọ -Hỏi vào 17/01/2012 (DL) 11:46AM ( giờ thủ đô) Câu 1: Cháu vừa mới bị mất việc, năm nay cháu có xin được việc nào khác không ạ? Ăn hết tết. Tháng 2 âm nhâm thìn có việc. Câu 2: Hiện cháu đang để ý 1 người, người ta cũng có tình cảm với cháu, liệu có kết quả gì không thưa chú? Tốt. người ta chờ mình bật đèn để...vượt đèn đỏ. Câu 3: Người chồng sau này của cháu có vẻ ngoài, tính cách ra sao ạ? Ít nói, nhưng vui vẽ, kín kẽ, tướng tròn đầy, da sáng. @datvietnam Gửi anh Thiên Đồng. Em là Nam, tuổi Ất Sửu. Em hỏi vào lúc 0h 47phút (khuya) ngày 18 tháng 1 năm 2012 (dương lịch) Em cám ơn anh rất nhiều vì đã trả lời 2 câu hỏi trước đó của em. Hiện nay em đang gặp 1 vấn đề nan giản, nên cần có sự tư vấn của anh Thiên Đồng. Vừa rồi, ngoài công việc chính em đang làm hiện nay, cơ quan có giao thêm cho em một công việc phụ nữa. Tuy nhiên công việc phụ thêm này khiến em hao tốn sức khỏe rất nhiều và lại gây xích mích với nhiều người nữa. Ở đây em có câu hỏi: Nếu em xin từ bỏ công việc phụ thêm này thì sẽ ảnh hưởng đến công việc chính của em như thế nào? Cơ quan có sa thải em không? Từ chối công việc phụ, lương giảm, không liên quan gì đến chuyện sa thải. Cần phải nói chuyện chí tình thì sẽ thuận. Không lo.Em xin chân thành cảm ơn anh Thiên Đồng. Năm mới sắp đến, em chúc anh Thiên Đồng dồi dào sức khỏe, vạn sự như ý. @Zhuan Tuổi: Đinh Mão Hỏi vào ngày Mười lăm, tháng Mười hai, năm Tân Mẹo,15 giờ33' (dương lịch). 1: Cháu muốn hỏi sang năm cháu công việc của cháu có ổn định lâu dài không ạ? Cũng còn bấp bênh. nhưng ổn định lâu dài. 2: Cháu đang yêu một người, cho cháu hỏi sau này có tiến đến hôn nhân với người này thì cuộc sống gia đình hòa hợp không? và sống với nhau có lâu dài không ạ? Được. tranh thủ đi. Bật đèn là tới liền à. 3: Tài chính sau này của cháu như thế nào ạ? chỉ đủ, không dư. Cháu xin cảm ơn chú Thiên Đồng! @hoangvu Nhờ anh Thiên Đồng xem giúp em vấn đề này.Em là nữ Tân Dậu,Hỏi vào lúc 0h52 phút ngày 21/1/2012 dương lịch (Hà Nội). Hiện em có anh bạn đồng nghiệp trước giờ vẫn rất quý, tuy nhiên dạo gần đây em thấy anh ấy có biểu hiện lạ. 1- Vậy xin hỏi đó chỉ là tình cảm bạn bè khác giới hay có tình cảm nào khác? Coi chừng bị cưa! 2- Nếu là bạn bè thì về lâu dài có sinh chuyện không hay không? Có. Và có thể kết thân được không? Có. Người này chắc đang muốn có người nâng khăn kiểm ví dài lâu nè! Mong anh xem giúp để biết ứng xử em đang rất phân vân. Xin cảm ơn anh nhiều. @Zingme Năm cũ qua đi , năm mới sắp tới cháu xin kính chúc Chú Thiên Đồng và các cô chú cùng mọi người trên diễn đàn một năm Hạnh phúc - An khang Thịnh vượng, niềm vui phơi phới - Bình an Tấn tới . Cháu lại xin làm phiền chú TĐ xem giùm cháu 1 quẻ cho năm mới. Đặt câu hỏi như sau:Tuổi gì: Kỷ Tỵ Hỏi vào 14h 13 phút ngày 22..tháng.1..năm 2012..giờ (bao nhiêu phút) dương lịch. Câu hỏi 01: Cháu đang có tình cảm với 1 người. Xin cho cháu biết tình cảm của người đó đối với cháu như thế nào? Chưa phải là lúc. Bạn bè thôi. Nhưng cố gắng vì có sẵn vốn rồi. Câu hỏi 02: Chồng cháu sau này có phải là người cháu đã từng gặp, hay quen hay ko? Không phải là người từng gặp, mà là người quen khác lạ. Câu hỏi 03: Trong năm 2012, cháu có thể sẽ phải trải qua 1 đợt phẫu thuật? Sẽ là một cuộc phẩu thuật thành công tốt đẹp. Vậy xin cho cháu biết kết quả có tốt đẹp ko? Liệu có để lại di chứng xấu hay ko? Không hề gì. An toàn. Bình an. Xin cảm ơn chú! @acet Tuổi gì: Giáp Tý Hỏi vào ngày 22 tháng 1 năm 2012 giờ 20g20 dương lịch. Câu hỏi 01: cháu có tình cảm với 1 người tuổi Nhâm Tý, nhưng vì nghịch cảnh nên chia tay. Cháu đang cố gắng níu kéo. Xin cho cháu biết cháu và người đó có thể nên duyên được không ạ. Tạm xa nhau ngắn, sẽ tái hợp vào xuân nhâm thìn Câu hỏi 02: tình hình sức khỏe của cháu năm Nhâm Thìn có xấu lắm không ạ? Không, chú ý huyết áp hoặc gan yếu. Câu hỏi 03: Tình hình công viêc năm Nhâm Thìn sẽ thế nào ạ? Cháu có nên thay đổi công việc không? Tệ. Sẽ thay đổi công việc vào phút 90. tháng 4 hoặc 5 âm. Cháu xin cảm ơn. Chúc chú và mọi thành viên trong diễn đàn năm mới sức khỏe, hạnh phúc và bình an ạ. @Mẹcoca Chào chú Thiên Đồng, nhờ chú luận giúp cháu một quẻ đầu năm ạ. Cháu sinh 26/09/1986, nữ Bính Dần. Hỏi vào lúc 21h40 phút ngày 25/01/2012 (nhằm ngày mồng 3 Tết AL) 1. Con trai cháu sinh 27/06/2011, chồng 26/03/1983. Con trai cháu rất hay bênh lặt vặt, cụ thể 2 tháng tuổi, 4 tháng tuổi , 6 tháng tuổi, 7 tháng tuổi ..bệnh ạ. Lúc 4 tháng và 7 tháng có hiện tượng tím môi, tím mặt... cháu rất sợ và mọi người nói sợ bệnh tim, đi khám bác sĩ chỉ đặt ống nghe thì nói không có gì...cháu chưa cho cháu đi khám chuyên khoa. Bác xem giúp con cháu có bị bệnh nghiêm trọng không ạ, và có cách nào khắc phục về phong thủy không ạ? Theo quẻ thì nhà bạn hoặc tù túng, hoặc trong ngỏ hẹp và có thể bạn có bỏ một đứa con trước đó. Nếu có thì, về mặt tâm linh nên giai3 quyết theo tâm linh mặt khác chỉnh sửa nhà theo phong thủy. 2. Công việc trong năm 2012 của vợ chồng cháu có gì tiến triển không ạ? vẫn khó khăn, nhưng ổn vào phút chót. Cứ vậy thôi. 3. Trong cuộc sống gia đình có tốt đẹp hay có gì không tốt xảy ra không (về tình cảm, tiền bạc), tháng nào ạ? Tháng 7, 8 âm thì tốt. Tình cảm có nhiều chuyện phiền lòng vô duyên. Tiền cứ vừa tới thì bốc hơi. May mà cũng kịp trang trải nhu yếu. Và cuối cùng năm mới cháu chúc chú cùng gia đình một năm mới " AN KHANG THỊNH VƯỢNG, PHÁT TÀI PHÁT LỘC". Cám ơn chú rất nhiều ạ. @bi2007 Cháu chào chú Thiên Đồng. Đầu xuân năm mới cháu kính chúc gia đình chú mạnh khỏe làm ăn phát đạt Chau tuổi Tân Dậu Hỏi vào ngày 26tháng01năm2012 tức ngày 04/1 AAL Hỏi vào 13giờ 15 phút Câu hỏi 01:Cháu và chồng cháu đang làm đơn ly hôn, liệu chúng cháu có ly hôn được không? Không Câu hỏi 02: Con trai cháu sinh năm Bính Tuất liệu sau này có thành đạt không? Thằng nhóc này hiếu động, thông minh, tốt. Câu hỏi 03:Năm nay kinh tế của gia đình cháu có được cải thiện nhiều không? Công việc của cháu có bị thuyên chuyển không? Ráng chịu khó, sẽ cải thiện được, tranh thủ 3 tháng đầu năm. Không thuyên chuyên đâu cả. (Cháu xin chú trả lời giúp cháu với ạ. Cháu xin cảm ơn chú nhiều ạ @Phạm trung Chào bác Thiên Đồng! Mong bác xem giúp! Tuổi gì: Tân Dậu Hỏi vào ngày 27 tháng 01 năm 2012 giờ 03 phút 41 (theo múi giờ tôi đang sống, còn giờ Việt Nam là 15h41) Câu hỏi 01: Tôi có thể tiếp tục làm việc với người hướng dẫn hiện tại không? Được. Tết xong sẽ tốt trở lại. Câu hỏi 02: Công việc của tôi với người hướng dẫn ấy có đi đến kết quả cuối cùng được không? Câu hỏi 03: Nếu có thể đi đến đích, xin hỏi năm 2012 này có thể xong không? Nhanh thì tháng 5 xong, chậm tháng 9 âm xong Xin cảm ơn bác Thiên Đồng! Thiên Đồng
    1 like
  23. Tôi đã nói đây chỉ là một ví dụ, sao cứ hỏi hoài vậy? Hoangnt nên xem kỹ các bài viết rồi hãy hỏi!Muốn biết "tinh kỳ" trong cở lễ hội Việt như thế nào , tìm cuốn: "Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ XX" Nxb Trẻ, trong đó có hình minh họa một đám rước, trong hình đó miêu tả một lá cờ có vẽ một hình sao trên đó theo cách vẽ trện lưng ông Khiết , hay các chòm sao trên bầu trời của ngay khoa học hiện đại. Bây giờ làm gì còn lá cở có ghi hình sao trên đó nữa mà đi tìm?
    1 like
  24. Tự chữa bệnh bằng tĩnh tọa Châu thiên pháp Lương y Võ Hà Nhiều phương pháp luyện tập khí công đã phối hợp khai thông kinh lạc có ý thức với tĩnh tọa vô thức. Những nhà khí công cổ đại cho rằng trong điều kiện nhập tĩnh vô thức, con người và vũ trụ sẽ tiến đến sự hòa hợp. Khi "Thiên Nhân hợp nhất", nội khí và trường khí năng lượng bên ngoài sẽ được giao hòa và hệ thống kinh lạc trong cơ thể sẽ tự động vận hành khế hợp nhất cho yêu cầu khử trược lưu thanh, diên niên ích thọ. Tĩnh tọa châu thiên pháp là một phương pháp khí công mang tính tổng hợp cao qua phối hơp giữa ngồi thiền với việc khai thông Nhâm Đốc, hai kinh mạch lớn nhất và là hai biểu tượng quan trọng nhất của hai thành tố Aâm Dương trong cơ thể. Ý nghĩa dưỡng sinh và chữa bệnh của vòng Tiểu Châu thiên Vòng Tiểu Châu thiên bao gồm mạch Nhâm và mạch Đốc. Mạch Nhâm ở phía trước thân người, dưới da, nằm trên đường dọc giữa cơ thể, từ huyệt Hội âm phía dưới bộ phận sinh dục, chạy lên Đan điền, Đản trung, Thiên đột và kết thúc ở huyệt Thừa tương ở chỗ lõm dưới môi dưới. Mạch Đốc ở phía sau cơ thể, bắt đầu từ huyệt Trường cường ở đỉnh xương cùng, chạy dọc theo cột sống đi lên Mệnh môn, Chí Dương, Đại chùy, vòng lên Bách hội, Thần đình, Nhân trung và chấm dứt ở huyệt Ngân giao gần nướu răng trên. Y học truyền thống và khí công cổ đại đều cho rằng mạch Đốc là chủ quản của các kinh Dương và mạch Nhâm là bể chứa của các kinh Aâm. Theo quan điểm chỉnh thể của y học phương Đông, một tạng hoặc một phủ khi phát sinh bệnh biến sẽ có biểu hiện trên đường tuần hành của kinh lạc đi qua nó và cả những điểm phản xạ tương ứng trên hai kinh chính là Nhâm và Đốc. Ngược lại, ta có thể thông qua những huyệt vị trên kinh lạc tương ứng và chung nhất là qua hai mạch Nhâm Đốc để điều chỉnh những rối loạn bệnh lý ở toàn thân. Nói cách khác, nếu hai mạch Nhâm Đốc thông thì trăm mạch đều thông, các tạng phủ sẽ hoạt động điều hòa và cơ thể sẽ khỏe mạnh. Việc công phu vòng Tiểu Châu thiên còn có một ý nghĩa quan trọng khác. Đó là việc làm cân bằng Aâm Dương. Đông y cho rằng bệnh tật xảy ra là do sự chênh lệch thái quá giữa hai yếu tố Aâm và Dương trong cơ thể. Do đó nếu có thể làm cho hai bể khí Aâm và Dương, tức mạch Nhâm và mạch Đốc có thể thông nhau và giao hóan nhau, luân chuyển tuần hòan thành một Tiểu Châu thiên thì con người sẽ khó xảy ra bệnh tật. Trên thực tế, việc luyện tập vòng Tiểu Châu thiên có tác dụng tự chữa bệnh, gia tăng nội khí, tăng cường sức khỏe. Ngoài ra, tập khí công còn giúp con người dễ thích ứng với môi trường, hoàn cảnh, hòa hợp với cuộc sống, tự tin và yêu đời hơn. Sự tương quan giữa hơi thở, xúc cảm tâm lý và vòng nội tức Từ hàng ngàn năm trước, y học cổ đã ghi nhận con người và vũ trụ thăng giáng, giao hòa thông qua hô hấp: "hô tiếp thiên căn, hấp tiếp địa khí". Hơi thở không chỉ có tác dụng giúp cơ thể tiếp nhận dưỡng khí và đào thải thán khí qua đường mũi mà còn kích hoạt để tạo ra sự trao đổi một loại năng lượng có công năng cao hơn mà những nhà khí công Trung hoa gọi chung là khí, thiên khí hoặc địa khí; những nhà Yogi Aán độ gọi là Prana. Sự trao đổi có thể được thực hành khắp bề mặt của cơ thể, đặc biệt là thông qua một số huyệt vị quan trọng trên hai mạch Nhâm Đốc ở vùng xương cùng và vùng đỉnh đầu. Sự trao đổi này diễn ra khác nhau giữa một người bình thường và một người đã tập luyện khí công. Ở mỗi người, sự trao đổi này cũng luôn thay đổi do bị chi phối bởi nhịp thở và điều kiện tâm lý. Chẳng hạn khi ta quá tức giận thì nhịp thở sẽ gấp gáp, kinh khí sẽ nghịch chuyển và rối loạn. Khoa học ngày nay cũng đã xác nhận rằng ở những người bị căng thẳng thần kinh, nếu điều hòa được nhịp thở sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm thì tâm lý sẽ được ổn định và hoạt động nội tạng, nội tiết cũng được cải thiện. Các đạo gia thời cổ còn tiến xa hơn khi chiêm nghiệm và quan sát hoạt động khí hóa của những thai nhi cũng như của các đạo sĩ và các nhà khí công ở tình trạng nhập tĩnh sâu. Khi cảm xúc không còn, niệm tưởng đã dứt thì hơi thở cũng êm nhẹ như có như không. Trong điều kiện này, sự trao đổi chất và tiêu hao năng lượng trong cơ thể sẽ ở mức tối thiểu nhưng sự hòa hợp giữa nội khí và trường năng lực ở bên ngoài sẽ ở mức tối đa, các kinh lạc sẽ tự khai thông và vòng Tiểu Châu thiên tự khắc phát động giống như đã từng xảy ra lúc bào thai còn trong bụng mẹ, khi mà con người – tức thai nhi – thuần phát tự nhiên, không hô không hấp, chỉ có một luồng Châu thiên triền chuyển không ngừng. Do sự tương đồng này, vòng Tiểu Châu thiên còn được gọi là vòng thai tức, chơn tức hay nội tức. Từ những quan sát trên, những đạo gia thời cổ đã khám phá ra quy luật "phàm tức đình, chơn tức tự phát động." Từ điều này ta có thể hiểu tại sao những nhà Yogi Aán độ có thể nằm trong quan tài được chôn xuống đất nhiều ngày, không ăn, không thở mà vẫn có thể sống được. Cũng vì lý do này, luyện khí công thường kết hợp với ngồi thiền để vươn tới nội tức. Phương pháp tập luyện Để tiện thực hành, trong phạm vi bài này, khi đề cập đến hít vào nên hiểu là hít thiên khí hay Prana vào từ huyệt Thần đình ở chân tóc hoặc Bách hội ở đỉnh đầu. Chuẩn bị: Tìm một nơi yên tĩnh thoáng mát. Mặc quần áo rộng rãi. Ngồi trên ghế, chân buông thỏng chạm mặt đất hoặc ngồi xếp bằng kiểu bán già hoặc kiết già. Miệng và mắt khép hờ, lưng thẳng, vai hơi thu lại, buông lỏng phần bụng, cằm hơi đưa vào, đầu lưỡi chạm nướu răng trên, hai bàn tay úp trên hai đùi hoặc đan chéo nhau để trước bụng, hai đầu ngón cái chạm nhau, miễn sau thấy thoải mái, dễ giãn mềm cơ bắp Khai thông mạch Nhâm: Hít vào từ huyệt Thần đình. Khi hít vào hãy nghĩ rằng ta đang hít một luồng thiên khí từ Thần đình chạy dọc theo đường giữa dưới da, trước mặt và trước ngực dần xuống Đan điền. Đan điền là một huyệt vị ở vùng dưới rốn, cách rốn khoảng 3cm. Ngưng thở một chút để tụ khí tại Đan điền. Thời gian ngưng thở khoảng từ vài tiếng đếm đến mười tiếng đếm tùy theo khả năng mỗi người. Trong thời gian ngưng thở vẫn tập trung sức chú ý tại Đan điền. Thở ra từ từ, chậm, nhẹ và đều. Trong khi thở ra nên tự ám thị chân khí phát sinh tại Đan điền lan tỏa ra toàn thân và khắp tay chân, xua tan tất cả trược khí. Trược khí, sự căng thẳng, mệt mõi đang theo hơi thở thoát hết ra ngoài. Đến đây là xong một chu kỳ thở. Tiếp tục tập trung tư tưởng tại huyệt Thần đình để hít vào cho chu kỳ thở tiếp theo. Chỉ cần thực hành từ 7 đến 9 lần. Thời gian đầu, một số người chưa quen với ý nghĩ "lan tỏa ra toàn thân" thì chỉ cần thở ra từ từ, chậm, nhẹ và đều khi đến Đan điền là đủ. Hơi thở cần tự nhiên, không thô, không khựng nên chỉ cần thở bình thường. Không cần hít vào sâu, cũng không cần nín hơi lâu để dễ tạo được cảm giác thư giãn. Cách thở này không những giúp khai thông mạch Nhâm, sinh nội khí ở Đan điền, tạo nguồn lực khai thông mạch Đốc mà còn là phương pháp ngắn nhất, đơn giản nhất để giải toả "stress". Những nghiên cứu về hiệu ứng "stress" của hai bác sĩ H.S. Liddell và A.V. Moore đã đưa đến kết luận rằng nếu những cảm xúc khó chịu có điều kiện ngắt khoảng, tức không xảy ra liên tục dù chỉ trong giây lát thì những cảm xúc này sẽ không dẫn đến bệnh tật. Do đó một vài hơi thở thỉnh thoảng xen kẽ trong thời gian làm việc, sẽ không tốn kém thời gian nhưng có thể giúp ta giải tỏa "stress", duy trì được cân bằng của hệ giao cảm trước những áp lực và căng thẳng trong cuộc sống công nghiệp. Khai thông mạch Đốc, nối vòng Tiểu Châu thiên: Sau khoảng 7 đến 9 hơi thở theo mạch Nhâm thì bắt đầu tập nguyên vòng Tiểu Châu thiên. Hít vào từ Thần đình, theo mạch Nhâm xuống Đan điền. Ngưng thở nhưng không cần dừng lại một chút ở Đan điền như cách thở trước mà dùng ý chầm chậm đưa khí sang huyệt Trường cường ở xương cùng. Khi đến Trường cừơng nên nhíu hậu môn lại để vừa kích hoạt khai mở hai huyệt Trường cường và Hội âm ở hai bên của hậu môn, vừa tạo thế để chuyển khí từ Trường cường theo mạch Đốc đi lên dọc cột sống lưng. Khi ý và khí đến khoảng nữa sống lưng thì bắt đầu thở ra. Thở ra. Trong lúc thở ra, tiếp tục dùng hơi thở đẩy khí đi lên mạch Đốc, qua Đại chùy, Bách hội, trở lại Thần đình là xong một vòng Tiểu Châu thiên. Tiếp tục hít vào từ Thần đình xuống mạch Nhâm để vận hành vòng Châu thiên kế tiếp. Cuối cùng, trước khi chấm dứt giai đoạn này nên tập trung ý tưởng tại Đan điền vài phút để tụ khí tại Đan điền. Có thể tập khoảng 21 vòng Châu thiên trước khi đến giai đoạn tĩnh tọa. Lưu ý: Không cần phải hít vào hoặc thở ra trong suốt quá trình vận hành vòng Châu thiên mà chỉ hít vào ở phần đầu và ở mạch Nhâm, thở ra ở phần cuối của mạch Đốc. Đoạn còn lại từ Đan điền sang Trường cường đến quá nữa lưng là giai đoạn ngưng thở, dùng ý để chuyển khí để tránh hụt hơi hoặc đuối hơi. Do đó không cần thở sâu, chỉ cần thở nhẹ, thở bình thường cũng sẽ dễ dàng đi hết đường dài của vòng Châu thiên. Lâu dần, người tập chỉ cần dùng hơi thở thật nhẹ và dùng ý lướt từ Thần đình hoặc Bách hội, theo hơi thở đi suốt vòng Châu thiên mà không cần phân biệt hít vào, ngưng thở hay thở ra. Càng thở nhẹ càng dễ chuyển khí và dễ tiến vào nhập tĩnh. Trên thực tế, có nhiều người sẽ "cảm thấy" luồng khí bị gián đoạn hoặc không thẳng mà chạy vòng khi đi qua một điểm nào đó trên mạch Đốc. Điều này cho biết ở vị trí đó và vùng tạng hoặc phủ tương ứng với nó đang có một rối loạn bệnh lý nhất định. Cứ tiếp tục tập luyện, qua thời gian kinh mạch sẽ được thông, đường khí sẽ thẳng. Trường hợp này có thể tự hỗ trợ bằng cách dùng hai ngón tay trỏ và giữa vuốt nhẹ dọc theo chiều đường kinh mỗi lần vận khí đi qua điểm bế tắc đó. Đừng ngại rằng bạn sẽ không thể tự mình khai thông được kinh mạch. "Đả thông Nhâm Đốc nhị mạch" không quá huyền thoại như trong phim "chưởng". Trước hết, gọi là kinh mạch nên vốn dĩ nó là những con đường đã có sẵn. Nhâm Đốc lại là hai đại mạch nên có thể ví như những con kênh lớn, những đại lộ chớ không phải những hẻm nhỏ khó tìm, khó đi. Công việc chỉ là qua thời gian cần nạo vét hoặc làm thông thoáng đường kênh mà thôi. Mặc khác, vì "thần đâu khí đó", ở đâu có ý tất ở đó có khí, nên tập trung tư tưởng ở đâu hoặc dẫn đi đâu thì chắc chắn khí sẽ ở đó, sẽ theo đến nơi ta muốn. Chữa bệnh từ xa cũng không nằm ngoài nguyên tắc này. Ngồi thiền Một trong những nguyên tắc căn bản của việc luyện tập khí công là thuận tự nhiên. Việc luyện tập không những phải thuận theo những quy luật vận hành chung của vũ trụ và con người mà còn phải thuận theo sự phát triển tự nhiên cá biệt cho từng cá nhân. Mỗi cá nhân có căn cơ và bẩm thụ khí chất khác nhau nên sự phát triển khí hóa cũng không giống nhau. Do đó Tĩnh toạ Châu thiên pháp ngoài việc khai thông Nhâm Đốc còn phối hợp với tĩnh toạ để đưa cơ thể tiến dần đến vô thức hoặc nhập tĩnh. Chính trong điều kiện nhập tĩnh hệ thần kinh trung ương sẽ phục hồi khả năng tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, tối ưu nhất cho từng cá nhân và vòng Tiểu Châu thiên, tức nội tức cũng sẽ tự động luân chuyển với tốc độ và hiệu quả cao nhất. Từ đó nội khí sung mãn có thể lan tỏa tự nhiên sang các kinh mạch và tạng phủ toàn thân thành vòng Đại Châu thiên theo một trình tự khế hợp với sự phát triển sức khỏe và tâm linh riêng cho mỗi người. Ngồi thiền là con đường đưa đến nhập tĩnh. Có nhiều phương pháp thiền khác nhau, tựu trung vẫn là giúp người tập tập trung sức chú ý về một điểm, một hình ảnh, một đề tài hoặc một câu ám thị nhất định nhằm dẫn cơ thể tiến dần đến tình trạng nhập tĩnh, khi tâm không còn bám víu vào bất cứ ý niệm nào. Như vậy ngồi thoải mái, lặng lẽ, tập trung sức chú ý vào hơi thở lên xuống ở mạch Nhâm hoặc vào ra ở Đan điền, hoặc theo dõi luồng chân khí triền chuyển trên vòng Tiểu Châu thiên, hoặc chỉ tập trung quán chiếu Đan điền,… đều là những phương pháp thiền. Điều quan trọng là nếu đã chọn phương pháp nào để thiền thì nên giữ mãi phương pháp đó để từ thế ngồi, thế tay, cách thở, lời ám thị, đường khí vận luyện,… được bộ não ghi nhận qua thời gian sẽ hình thành nên những mã khóa, những cung phản xạ có điều kiện để đưa người tập tiến nhanh vào trạng thái nhập tĩnh. Trong quá trình ngồi sẽ có những lúc tâm bị phân tán, các tạp niệm xen vào. Điều này là bình thường. Chỉ cần tiếp tục phương pháp hoặc tập trung vào đề tài là đủ. Lâu dần những tạp niệm sẽ thưa dần, thời gian tập trung sẽ được dài hơn, hơi thở sẽ điều hòa hơn, chậm hơn, đến lúc không còn ý niệm và quên luôn cả hơi thở. Đây là một quá trình lâu dài. Tùy theo khí chất của mỗi người, mức độ nhập tĩnh đạt được sẽ khác nhau. Tuy nhiên để tự chữa bệnh bằng khí công tĩnh toạ, việc duy trì tình trạng bám víu vào đề tài hoặc vào điểm tập trung một thời gian nhất định là đủ. Điều quan trọng là nên tập đều đặn hàng ngày, mỗi ngày một hoặc hai lần, mỗi lần từ 15 phút trở lên. Nếu không thiền bằng cách quán chiếu Đan điền thì trước khi xã thiền cũng cần tập trung ý vài phút tại Đan điền để tụ khí lại nới đây. Đan điền còn gọi là Khí hải hoặc Khí huyệt, vì là nơi ở của khí, nguồn gốc của sự sống. Tụ khí về Đan điền để tránh tình trạng khí nghịch, khí trệ do chân khí còn lưu đọng ở kinh lạc ở tạng phủ, vùng đầu hoặc vùng ngực trong quá trình luyện công. Nếu thời gian ngồi thiền lâu, cần quan tâm đến việc xã thiền để giúp khí huyết lưu thông bình thường trở lại. Trước khi đứng dậy nên co duỗi tay chân, xoay người qua lại nhiều lần. Xoay ở vùng eo, vùng cổ. Dùng cả hai tay vuốt nhẹ hai bên sống mũi, từ đầu mũi đến tận chót cằm. Vuốt ấm hai vành tay. Xoa nóng hai lòng bàn tay rồi áp vào hai mắt. Dùng hai bàn tay xoa bóp dọc theo hai chân từ đùi ra đến bàn chân. Xoa ấm hai lòng bàn chân. Cuối cùng áp lòng bàn tay phải vào bụng dưới xoa vòng tròn quanh rốn 36 vòng, xong lại xoa 36 vòng theo chiều ngược lại. Những hiệu ứng khi luyện công Luyện tập khí công có thể mang đến những kết quả chữa bệnh rất kỳ diệu. Tuy nhiên kết quả này không thể sinh ra trong ngày một ngày hai mà phải thông qua một quá trình cần mẫn lâu dài. Tuần tự tiệm tiến là một nguyên tắc cần tuân thủ trong khi luyện công. Thông thường, việc "đánh thức" Đan điền, sinh nội khí có thể xảy ra từ vài ngày đến vài tuần. Những hiệu quả tích cực đối với sức khỏe như giảm hoặc hết bệnh, ăn ngon hơn, ngủ dễ hơn (nếu khó ngủ) hoặc ngủ sâu hơn, tăng cân (hoặc giảm cân nếu trước đó béo phì)… có thể thấy được từ 3 đến 6 tháng. Những cảm nhận về khí cũng khác nhau ở mỗi người. Những cảm nhận này có thể là cảm giác nóng ở một huyệt vị hoặc cảm giác về luồng khí di chuyển theo đường kinh, hoặc về màu sắc của khí… Có nhiều người không hề cảm nhận được những dấu hiệu này dù sức khỏe được cải thiện và việc luyện tập vẫn tiến bộ. Do đó không nên lo lắng, mong cầu. Lòng tin và quyết tâm tất sẽ đưa đến kết quả. Quá trình tập có thể xảy ra đau, tức, ngứa ngáy, co giật do việc khai mở một sốâ huyệt vị trên đường kinh hoặc công phá một tổ chức bệnh trước khi những bế tắc này được thải trừ hết. Thông thường những phản ứng này sẽ tự chấm dứt sau đó. Một số ít trường hợp luyện công xảy ra tức ngực, khó thở, tim đập nhanh hoặc căng nặng ở đầu. Những trường hợp này thường do hít vào sâu quá hoặc ngưng thở quá lâu. Cần điều chỉnh lại hơi thở và tăng cường buông lỏng cơ thể trong quá trình luyện công. Có một số người, nam hoặc nữ, sau một thời gian luyện công thì tính dục xung động, gia tăng cảm giác ham muốn tình dục. Đây không phải là một hiệu ứng xấu mà là một dấu hiệu của tập luyện có hiệu quả dẫn đến nội lực sung mãn. Vấn đề chỉ là điều tiết chuyện phòng the và tận dụng nguồn nội lực ấy để tái bổ sung cho cơ thể như thế nào. Để tái bổ sung, chỉ cần ngồi yên tĩnh, lặng lẽ vận hành vòng Tiểu Châu thiên cho đến khi có cảm giác bình thường trở lại. Điều này sẽ khiến năng lực tính dục thông qua Nhâm Đốc phân bố lại để nuôi dưỡng cơ thể. Đây là điều mà các đạo gia gọi là luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, chuyển năng lực tính dục theo mạch Đốc lên đầu để phát triển trí não và huy động những chức năng còn tiềm ẩn. Trên thực tế, sau một thời gian luyện tập tốt Tỉnh toạ châu thiên pháp, chỉ cần ngồi vào tư thế, nhập tỉnh hoặc lặng lẽ quan sát vùng bụng dưới thì việc "hoá khí" sẽ tự động diễn ra và hoàn tất trong vòng vài phút mà không cần phải tác ý hay vận luyện gì. Ngoài ra người tập cũng có thể tập trung tư tưởng tại Mệnh môn thay vì Đan điền khỏang 10 phút trước mỗi lần xả thiền. Mệnh môn là chỗ ở của chân Hỏa. Tập trung ý tại Mệnh môn để dẫn Hỏa về đây sẽ giải tỏa được áp lực ở vùng sinh dục hoặc Đan điền. Nói đến Hỏa, không thể không đề cập đến Trường cường. Trường cường là nơi xuất phát chân Hỏa, tương ứng với luồng hỏa xà Kundalini của khí công Aán độ. Sự khai mở và vận dụng hợp lý trung tâm lực này có thể mang lại một nguồn nội lực to lớn cho việc chữa bệnh và dưỡng sinh. Ngược lại, nếu không kiểm soát được, nguồn năng luợng này có thể gây tác hại. Sự khai mở Trường cường phải tiến hành đồng thời với sự khai mở hai huyệt Thần đình và Bách hội và cả sự khai thông mạch Đốc. Khai mở Thần đình, Bách hội không những để thu nhận ngoại khí, bổ sung cho chân khí mà còn để tạo một van an toàn để tiết bớt chân Hỏa trong quá trình vận hành Châu thiên qua vùng đầu. Việc khai thông Nhâm Đốc là điều kiện để chân Hỏa ở Trường cường cũng như nội khí sinh ra ở Đan điền có thể luân lưu tuần hòan tạo ra sự giao hóan, cân bằng giữa Aâm và Dương, giữa ngủ tạng và lục phủ. Thỉnh thoảng nếu có những biểu hiện dương Hỏa quá vượng như ù tai, nhức đầu, nổi mụn, sưng nướu răng… do phong nhiệt hoặc do sự phát tác của những ổ nhiễm khuẩn cũ thì nên tạm ngưng kích hoạt Trường cường. Trường hợp này, khi chuyển vận Châu thiên đến Đan điền nên đưa thẳng từ Đan điền sang Mệnh môn đi lên mạch Đốc mà không cần qua Trường cường. Ngoài ra, sử dụng tư thế kiết già khi vận hành Châu thiên hoặc ngồi thiền cũng là một biện pháp để cân bằng với chân Hỏa. Ở tư thế này, xương mác của một chân đã tạo một sức ép khá mạnh lên đúng vị trí của huyệt Tam Aâm giao của chân còn lại. Như vậy trong suốt thời gian ngồi kiết già, những đường kinh Aâm và huyệt Hội âm liên tục được kích hoạt, có tác dụng tăng cường Âm khí và tạo thêm một kênh an toàn để trung hòa với chân Hỏa và khí Dương ở mạch Đốc. nguồn: http://www.ykhoanet..../voha/vh018.htm
    1 like
  25. Rõ ràng rồi còn gì. Hướng cửa chính thì phải so sánh với hướng Ngũ Quỷ chứ! Bạn cứ ngẫm thật kỹ Hướng sẽ hiểu đúng. Cái này thầy Thiên Sứ hay nói là so sánh phải "đồng đẳng". Giải thích thêm 1 chút trong câu trích dẫn của bạn là, nếu hướng cửa chính là hướng Ngũ quỷ thì đặt bếp quay về hướng Sinh khí. Nếu bạn học PTLV ở phần định tâm nhà sẽ hiểu hướng và phương vị sâu hơn!
    1 like
  26. Mạn phép bổ xung cho Quí cô Giờ Tị: mắt kém, thức đêm ngủ ngày, ưa lười nhắc, khắc cả song thân. Đại hạn này Quí cô vui ít buồn nhiều, âu cũng bệnh lo xa mà tự dự đoán trăm bề ngổn ngang. Mấy tháng qua, nếu Quí cô đã chạm những gì TPVT đã luận đoán trước đây, Quí cô cũng nên cẩn trọng lời nói và hành vi trong lần vi hành sắp tới
    1 like
  27. Giờ Thìn: Dáng người hơi thấp, đầy đặn, chân tay ngắn, mặt tròn hay vuông nhỏ đầy đặn, lúc nhỏ khó sinh hoặc khó nuôi. Lời nói thường đanh đá, không êm tai, ít hòa đồng. Cha mẹ khá giả, nhưng 1 trong 2 chắp nối, có đèo bồng bên ngoài, cha mẹ khắc khẩu, cha mẹ làm việc ở vị trí nhàn hạ. Bản thân ra ngoài hay bị té ngã. Hợp với mẹ hơn với cha. Cha là người kiếm tiền chính trong gia đình. Mẹ là người đẹp, nói chuyện có hơi khách sáo. Lá số này chỉ học ở mức trung, thi cử nhiều lúc không thuận. Giờ Tỵ: Chiều cao thì giống giờ sinh trên, mắt nhỏ, có sẹo gần đuôi mắt hoặc chân mày. Có gãy tay hoặc gãy chân hay do phỏng mà để lại sẹo ở tay chân trái. Bố mẹ là con trưởng hay đoạt quyền trưởng, 2 thân túng thiếu, bất hòa hay xa cách nhau, cha mẹ không hợp tính con. Lá số giờ Tỵ là người học rất giỏi, thi đâu đậu đó. Vì có cách Dương Lương Xương Lộc. CUng Quan có Lương Y Riêu thì có thề làm việc liên quan đến ngành Y. Mệnh có Âm Dương Khoa Lộc thêm Quang Quý thì càng nghĩ nhiều đến ngành Y, hoặc có thể làm trong ngành sư phạm. Hơn nữa, lá này có Xương Khúc Đà, là người nói 1 câu, nhưng hàm ý đến trăm nghĩa. Em xem thử giờ sinh nào phù hợp với mình?
    1 like
  28. Có 3 môn mệnh học chính là: Tử Vi đẩu số, Hà Lạc lý số và Mệnh lý học (2 môn sau xuất thân do Bát tự) cứ đọc, danh từ lên, cũng đã thấy sự khác biệt rồi: Đẩu số là Thuần số, Mệnh lý là Thuần lý, còn Lý số là dung hòa cả đôi. I. Đẩu số tử vi Nói về số, có câu “Vạn sự bất cầu nhân kế giảo, nhất sinh đô thị Mệnh an bài: muôn sự chẳng cầu người đời phải tính toán so sánh, cuộc sống đều do Số Mệnh an bài hết”. Vậy thì người chỉ là một con số do ảnh hưởng kết tụ của nhiều vì sao (tính đẩu) sinh ra. Người không thể cãi được Mệnh, cứ việc an nhiên tuần tự (cự dị dĩ sĩ mệnh) mà thụ động cuốn phim huyền bí của đời mình do thầy Tử vi là chuyên viên phụ đề để giải thích những ký hiệu (tên Sao). Có thể nói Tử vi là môn học có duy nhiên tinh thích hợp với trạng thái siêu hình trên tiến trình tư tưởng nhân loại tức là trạng thái thứ 2 mà A,Comte (2) mãi tới thế kỷ 18 mới bàn đến. II. Hà Lạc lý số Tiến lên một bước, Hà Lạc đã mở cho con người cánh cửa lý trí, đặt con người trước sự suy nghĩ lựa chọn giữa dạng thức của cuộc sống, để cư xử, tiến thoái, hành chỉ, sao cho thích hợp với nghĩa chữ Tuỳ, tức là với một đạo sống mà ý thức hệ Kinh Dịch đã hướng dẫn. Có thể nói: Hà Lạc là một môn học có duy đạo tính bao hàm một nghệ thuật nhân tinh. III. Mệnh lý Còn như mệnh lý, nó mang một dấu hiệu tích cực hơn có ý chí tạo tác hơn Hà Lạc, nó phân tích giữa những nguyên liệu vật lý (Ngũ hành và thời tiết) mà con người được bẩm sinh, để xem thứ nào thừa, thứ nào thiếu, ưa, ghét (hỷ, kỵ) thành, hoại ra sao, để rồi làm gì? Để có đường lối (dụng thần) điều động diệu dụng những nguyên liệu ấy, mà tự tạo lại cách cục của mình cho được hoàn hảo hơn thiên nhiên, cho phát triển được hết khả năng tiềm lực bẩm sinh để đạt được mức tối đa thực hiện. Có thể nói: Mệnh lý là môn học cấp tiến nhất trong 3 môn, nó thích hợp với sáng tạo tính của loài người, bao hàm một kỹ thuật nhân sinh mới vậy. Tóm lại, Tử vi nói chữ Hẳn, Hà Lạc nói chữ Nếu và Mệnh lý nói chữ Nên. Xem như trên, thì trong 3 môn Mệnh học mỗi môn mở cho ta một cánh cửa vào Khoa học huyền bí (theo danh từ thường dùng). Nếu tổng hợp được cả 3 môn ấy, để có cả 3 cánh cửa mở, thì ắt là phải nhìn được rõ hơn, đầy đủ hơn vào Mệnh vận con người.
    1 like
  29. PHONG THỦY LUẬN Thân gửi các bạn trên Diễn đàn Phong thủy.Từ trước tới nay,phần lý thuyết Phong thủy được viết rất nhiều,hằng hà sa số cuốn sách đã được in hoặc lưu truyền trong dân gian.Tuy viết rất nhiều,nhưng vấn đề lý thuyết của bộ môn Phong thủy,vì không được dựa trên một căn bản Lý thuyết thống nhất và triệt để nên tùy theo điều kiện cụ thể mà phát triển ra rất nhiều Môn phái Phong thủy,có lý luận và cách thực hiện nhiều khi trái ngược lẫn nhau,khiến người đời sau không làm sao hiểu được và tính chất Thần bí cứ dần dần xen vào và từ đó Thuật Phong thủy trở nên một cái gì đó Huyền bí,khó hiểu và được coi là Mê tín dị đoan. Việc tìm lại cội nguồn Lý thuyết của bộ môn Phong thủy nói riêng và Lý thuyết của Dịch lý Đông phương nói chung,là một vấn đề rất thiết yếu.Công việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian nghiên cứu,sưu tầm,nhận định ,tập hợp và sắp xếp lại.dienbatn không dám có tham vọng làm việc đó,chỉ xin làm viên đá nhỏ lót đường cho sự nghiên cứu của các bạn.Nếu thành công thì thành quả đó xin tặng lại các bạn ,hoặc nếu chẳng đi đến đâu cả thì âu cũng là số Trời,và những gì có được xin các bạn cứ dùng làm tư liệu để tiếp tục những bước sau này.Mọi việc đều phải có sự khởi đầu và như người xưa nói :"VẠN SỰ KHỞI ĐẦU NAN ".Trong bài viết này dienbatn xin được công bố,những bài viết,những ý tưởng của một số Cao nhân ẩn danh,không muốn xuất hiện. Đúng hay sai còn phụ thuộc nhiều yếu tố, song dienbatn xin kính cẩn cảm ơn các vị Tiền bối đã chỉ giáo. dienbatn chỉ là người trích dẫn,sắp xếp lại cho thứ tự và mạch lạc hơn,ngoài ra do sự kém cỏi thô lậu, không có ý tưởng gì hay nên xin các bạn cũng đừng chấp.Nào ,bây giờ chúng ta bắt đầu khởi hành. 1/LỜI NÓI ĐẦU : Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ,xa thì trông Thiên văn,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh. ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa. NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần. Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động. THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định. ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật. NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh. Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt. Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc. NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ. Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000 huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể.Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do vậy,các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng. Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như: -Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước. -Thần giao cách cảm.Tương tác giữa người này và người kia. -Sử dụng tâm năng Tiên đoán,thấu thị. -Hóa giải theo ý muốn. -Biết được Thiên vận,Địa thế,Nhân cơ,các nguồn thông tin,dữ liệu từ Vũ trụ. -Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu... -Trị liệu bằng Trường Sinh học. Ngày xưa ở Trung quốc,Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật xây dựng,kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ. 1/KHÍ :là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật thể,Đất,Nước,con người.. 2/LÝ :Là quy luật vận động,vận chuyển ,tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm ba nguyên tắc : a/Trời chưởng quản Địa,Nhân. b/Trời,Đất đều tác động đến Vật chất và con người,nên phải biết vận dụng ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống. c/Vận mạng ,hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết,tức là Âm trạch.Do vậy người xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà ,người chết thì xem cái mồ ". 3/SỐ :Là những tượng số của Dịch lý(Nghi,Tượng,Quái,Hào). 4/HÌNH :Là hình thể vùng đất,dòng nước,cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng tốt đến mạch khí. Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau.Yếu tố được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của Đất hay còn gọi là sóng điện từ.Chính hai lực này chi phối,ảnh hưởng đến hoạt động của Trường Sinh học con người,nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết quả xấu cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở,hoặc Âm trạch táng tử thi.Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt,sức khỏe dồi dào,kinh tế phát triển lên mãi. Do vậy,Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái,là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải nghiệm trên 5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định. PHONG THỦY. Phong : Là Gió.Thủy :Là nước. Hỏa :Là Lửa. Là tinh túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công nói :Một Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một động là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm. Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ Nam chuyển hướng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng hà ,còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa". Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc. TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT. Sách có câu :"Tiên tu nhân lập âm chất,nhi hậu tầm Long ".Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi,nhằm thăng hoa cuộc sống vật chất đầy đủ,công danh hiển hách,vợ đẹp con ngoan,Gia đình hạnh phúc.Sách THÔI QUAN THIÊN viết :"Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ".Qua câu nói trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khícủa chính mình.Các Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm. Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là Thiên Đạo (Đạo Trời );sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất,tạo nhân quả tốt.Tục ngữ có câu :"Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ".Do vậy,tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị,Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản.Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng,thì ắt Thiên cơ sẽ ứng,Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc.Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi ,vận Trời ứng cho,chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung,cứ tưởng rằng tầm được Long huyệt rồi,con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc,cái gốc chúng ta chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn,rõ là ta chẳng biết gì cả.Nếu như các Phong Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vương,Công Hầu,Khanh tướng cho con cháu họ,chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ? Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An nam Tiết độ sứ đô hộ nước ta,thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long,sau đó xưng Vương.Cao Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta,nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát ,làm hư hại rất nhiều Long mạch.Nhưng ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời ).Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi,phải bỏ thành Đại La.Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt,nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm,giành chiến thắng cho dân tộc. HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho,Đạo xem đó là căn bản.Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí.Khí là hình thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm.Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì :"Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa..."(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ trụ),luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người.Quách Phác nói :"Cát hung cùng cảm ứng lẫn nhau,họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ". Khi táng di hài Tổ tiên,chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt mà an táng,song song với việc trên ,người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo.Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt,sẽ cho kết quả trái ngược,làm tổn hại đến con cháu đời sau. Nếu như có Nhân,tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào Tâm khi chiêu lấy họa phúc.Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng một cách ngẫu nhiên,con cháu sau này phát Đế Vương,Công hầu.Trường hợp như thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG ),Âm phần phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua...vv.Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ nhiều đời nên chiêu tập được Nhân -Quả,được Trời -Đất cho hưởng Phúc,đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được. Triệu Quang viết cuốn :"PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ",có nói rằng :"Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ".Dẫu cái tốt,xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung,nhưng Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng.Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Biền,Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa ,nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình,bời biết đạt Địa lợi,nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết,không dám nghỉ bàn.Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC,NHI HẬU TẦM LONG " của người xưa dạy quả không sai. PHẦN TẦM LONG -CẮM HUYỆT : Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn,xem tinh tú trên trời.Sao Tử vi ở phương Bắc;Sao Thiên thị ở phương Đông;Sao Thiếu vi ở phương Nam;Sao Thái vi ở phương Tây,nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương.Lấy tứ chánh vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long,và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên ).Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó,thấy cảnh vật xung quanh xinh đẹp,trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa ,dị thảo thì phải biết đó là Long,phải biết phân biệt đầu ,đuôi,Can,Chi,Triền,Giáp,Hộ vệ sơn chạy đến đâu.Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này,xem cục thế lớn,nhỏ,tốt xấu.Sau cùng quan sát xem tính tình,ăn ở của dân địa phương nơi đây thì ta mới nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long.Kinh Thư có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn tương hỗ với nhau,Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành...Dương đức sẽ hình thành từ thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta ".Tóm lại thuật Sư Phong thủy phải tiến hành tính toán,nhìn thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm Long mạch ắt phải sáng tỏ. MINH SƠN BẢO GIÁM chia Long ra làm 12 loại :SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG,UỔNG LONG,SÁT LONG,QUỶ LONG,KIẾP LONG,DU LONG,BỆNH LONG,TUYỆT LONG,TỬ LONG.Các tên này nhằm chỉ vào sự tán tụ của chân Khí mà gọi.SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG là bốn loại Chân Khí hội tụ,còn tám loại Long kia là tán Chân Khí;hình thể của Long ngắn,gấp khúc ít lần đi lên,xuống hoặc đi lên mà không đi xuống,xuống mà không lên,cho nên nó làm cho mạch Khí thế đi xuống.Còn tụ Chân Khí thì trải dài ,lên xuống theo hình thể nhiều lần. Tổ tông sơn là nơi xuất phát Long mạch,theo đường hướng mà đi xuống,đoạn ẩn ,doạn hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ đoan chính thì gọi đó là SINH LONG. Loại có thêm hoành án hai bên như có cánh dơi thì gọi là PHÚC LONG. Loại Mạch này mà không có Hoành án mà chạy hai bên,ôm vòng trở lại thì gọi là ỨNG LONG. Long mạch ôm vòng trở lại nhiều lần,khí trùng điệp,hình dáng giao đầu lẫn nhau gọi là ẤP LONG. Long mạch hình thế hiểm ác,gấp rút,trùng điệp,nhưng không đối xứng chỉnh tề gọi là UỔNG LONG. Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn gọi là SÁT LONG. Loại phân chi,chia cắt mạch gọi là QUỶ LONG. Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG. Loại mà Khí lưu ly,tán loạn khắp nơi gọi là DU LONG. Mạch Khí không lên,xuống,không chuyển động gọi là BỆNH LONG. Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG. Mạch nằm riêng biệt không hộ,giáp,triền và không có Khí lực gọi là TUYỆT LONG. Các Long mạch ứng chuyển thuận khí theo THIÊN -ÐỊA -NHÂN thì tác động cho những âm phần táng trong cuộc đất như : SINH LONG thì con cháu ðược hưởng Phúc ,Thọ.PHÚC LONG thì con cháu Phú quý.ỨNG LONG thì con cháu giầu có,hiếu thuận.ẤP LONG thì con cháu Lễ ðộ ,nhường nhịn,thuận hòa. SÁT LONG và KIẾP LONG thì con cháu bị tai họa,chết chóc.QUỶ LONG và BỆNH LONG thì con cháu bị bệnh tật,không an cư,nghèo khổ.DU LONG thì con cháu hoang đàng,dâm loạn.TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu bị tử thương,tuyệt tự,không có người nối dõi Tông đường. 12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần,quan hệ đến người còn tại tiền,nên vì thế khi mai táng cho người chết,không thể không lựa chọn đất cắm Huyệt. Ngoài ra còn những thế đất của Tứ Linh và có 5 thế núi căn cứ vào hình dáng,tư thế mà chia ra làm 9 RỒNG : 1/XUẤT DƯƠNG LONG. 2/SINH LONG. 3/GIÁNG LONG. 4/PHI LONG. 5/HỒI LONG. 6/NGỌA LONG. 7/ẨN LONG. 8/ÐẰNG LONG. 9/LĨNH QUẦN LONG. Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ,lấy Long Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem Phong thủy chính là quan sát sự thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy,Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dương,lý Phân ly,hội hợp của tụ và tán. Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao,vượt lên,hướng đi của Ðịa mạch hoạt bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền.Ðịa mạch xuất hiện ở giữa,xung quanh có Sa trướng trùng trùng.Sa trướng của nó có gần có xa,có nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi hiệp cốc xuất hiện ,chúng đều thu giữ Ðịa Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc ) vậy,có nơi tạo ra thế cử đỉnh,có chỗ tạo ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn,khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc ,thì Ðịa mạch lại tựa như hai bên mạn thuyền song song mà ra.Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng sủa lại cùng tương ứng với Tinh thần,tựa hồ như sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi này.Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ,muôn hình vạn trạng.Minh đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu giao kết ,uốn lượn xung quanh,bốn phương tám hướng không có nơi nào bị khuyết hãm.Ðịa Huyệt hạ lạc kết Huyệt ở nơi này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ cao chỗ thấp,lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dưới hợp lại,Ðịa thế tròn và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm ấp,bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội.Nơi được như vậy được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy." Trong phần trên chúng ta đã phân tích mối quan hệ giữa tam tài THIÊN -ÐỊA -NHÂN ,mối quan hệ giữa Long mạch,Huyệt vị....vv.Từ ðây chúng ta lần lượt xem xét đến hai nhánh chính của Phong thủy là ÂM TRẠCH VÀ DƯƠNG TRẠCH. Phần ÂM TRẠCH rất phức tạp và còn nhiều rối rắm,dienbatn sẽ viết ở phần sau.Bây giờ chúng ta đi vào địa hạt thứ nhất của Phong thủy là DƯƠNG TRẠCH -Tức là nơi sinh sống của người tại tiền.Theo định nghĩa : Dương trạch là nơi sinh sống của người tại tiền (đang sống ),nó không chỉ bao gồm nhà cửa,cơ sở làm ăn,buôn bán mà xét rộng ra nó còn bao gồm cả các Thành phố,Tỉnh lỵ.... Trong thuật Phong thủy hiện nay,có rất nhiều Trường phái,đang bàn cãi lung tung cả và ai cũng cho rằng Trường phái của mình là đúng nhất.Tạm thời người ta có thể chia ra các Trường phái chính như sau : 1/PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH -Hiện nay do Thái Kim Oanh đang chủ xướng.2/PHÁI DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU (Còn đi theo nó là Dương cơ chứng giải ) của Triệu Cửu Phong chủ xướng. 3/PHÁI HUYỀN KHÔNG HỌC . 4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY. 5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY. Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác ,nhưng dienbatn chỉ xét đến những Trường phái nổi bật nhất hiện nay.
    1 like