-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 02/02/2012 in all areas
-
Năm Rồng với luận tuổi Lạc Việt Từ xa xưa, con người đã coi Rồng là một biểu tượng tốt lành, một biểu tượng mang lại mưa thuận gió hòa nên vua chúa lấy biểu tượng Rồng để biểu tượng cho quyền lực của mình. Năm Nhâm Thìn có thiên can Nhâm thủy và Thìn thổ có mạng nạp âm theo sách cổ thư là Trường lưu thủy và được nhà nghiên cứu học thuật cổ phương Đông Nguyễn Vũ Tuấn Anh với lập luận chặt chẽ của mình đổi hai hành thủy và hỏa của mạng nạp âm (Tức vận khí của năm trong chu kỳ 60 năm, gọi là Lạc Thư Hoa giáp), do vậy năm Nhâm Thìn theo Luận tuổi Lạc Việt của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh có mạng nạp âm là Tích lịch hỏa. Năm Nhâm Thìn là một năm có địa chi Thìn Thổ khắc thiên can Nhâm thủy. Vận khí Hỏa bị Thiên Can Nhâm thủy khắc, nên coi là Thiên Khắc Đại xung, điều này cho thấy thiên nhiên năm Nhâm Thìn có nhiều bất thường và con người trong năm nay sẽ phải bỏ nhiều sức lực để chiến thắng thiên nhiên. Năm Nhâm Thìn cũng chính là biểu tượng cho truyện Sơn Tinh Thủy tinh của ông cha ta về con người chống lại thiên nhiên khắc nghiệt. Tuy nhiên năm Nhâm Thìn lại là năm rồng vờn mây nên cũng là một năm bội thu về ngũ cốc và trồng trọt. Những người sinh năm Nhâm Thìn là người năng động, hoạt bát nhiệt tình, về tình cảm là người khá nóng tính. Người tuổi rồng có năng lực lãnh đạo nhưng rất giàu lòng vị tha, thông minh, chính trực, biết mình cần thực hiện những gì để đạt được hoài bão của mình. Những người sinh năm Nhâm Thìn thường là người có hoài bão lớn, nhiều dự định lớn lao nhưng thường hay gặp trục trặc khi đi vào công việc, tuy nhiên với ý chí kiên cường của mình nên người tuổi Rồng luôn thành công. Người nữ sinh năm Nhâm Thìn là người ưa nói nhiều, tình cảm nồng nhiệt Năm Thìn là năm tuổi của tuổi con Rồng, đây cũng là hạn tam tai cuối của các tuổi Thân, Tý, Thìn. Những người này nên thận trọng trong những việc làm hàng ngày của mình. Những người đàn ông sinh năm Thân, Tý, Thìn cũng không được cưới hỏi hay xây dựng nhà cửa trong những năm tam tai của mình. Về công danh và tài lộc của người tuổi Thìn trong năm Nhâm Thìn: Những người sinh năm Giáp Thìn gặp được nhiều thuận lợi nhất, công việc trôi chảy, gặp được nhiều may mắn và thành công mỹ mãn trong những dự định và công việc mình thực hiện. Nhưng họ cũng phải phấn đầu mệt mỏi và đến cuối năm mới gặt hái được kết quả. Nên cân nhắc trong việc đầu tư và cho vay mượn. Đề phòng hao tài tốn của. Những người sinh năm Nhâm Thìn có nhiều thuận lợi trong năm nay, mọi việc đều đạt kết quả tương xứng. Những người sinh năm Bính Thìn thì đây là một năm không có nhiều may mắn trong công việc nhưng lại thuận lợi về tình cảm. Những người sinh năm Canh Thìn trong năm nay cần thận trọng trong vấn đề tình cảm và công việc của mình, phần nhiều phải chiều lòng người khác để được việc, về tình cảm thì hay bị ức chế trong lòng mà không nói ra được. Với những người lớn tuổi còn cần cẩn trọng trong sức khỏe. Những người sinh năm Mậu Thìn thì đây là một năm đầy vất vả, thường phải tự thân vận động mà không có sự trợ giúp của người khác, nhưng về tình cảm thì thuận lợi và tốt đẹp. Về sinh con trong năm Nhâm Thìn, tuy đây là một năm Rồng gặp mưa nhưng cũng không phải là năm mà người phụ nữ nào cũng có thể sinh con được. Trong năm Nhâm Thìn, những người phụ nữ mạng mộc sinh con là tốt nhất, thứ đến là những người phụ nữ có mạng hỏa (tức những người có mạng nạp âm thủy theo sách cổ thư) và thổ. Những người phụ nữ có mạng thủy (tức những người có mạng nạp âm hỏa theo sách cổ thư) sinh con trong năm Nhâm Thìn thì thường sẽ gặp trắc trở trong công việc và tình cảm. Đặc biệt, những người phụ nữ mạng kim không nên sinh con trong năm Nhâm Thìn vì nếu những người phụ nữ mạng kim mà sinh con trong năm nay thì sẽ gặp trục trặc có thể dẫn đến sứt mẻ tình cảm và công việc cũng gặp nhiều trắc trở. Về thiên can, vì năm Nhâm Thìn có thiên can Nhâm thủy nên những cặp vợ chồng có thiên can Canh, Tân trong tuổi của mình sinh con thì sẽ gặp nhiều thuận lợi trong công việc, trong những dự định của mình. Những cặp vợ chồng có thiên can Nhâm, Quý, Giáp Ất sinh con trong năm Nhâm Thìn cũng gặp nhiều may mắn, thuận lợi trong công việc. Những cặp vợ chồng có thiên can Mậu Kỷ, Bính Đinh sinh con trong năm nay thì trong công việc sẽ gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Đối với Địa chi, thường biểu thị mối liên kết bền vững trong gia đình nên những cặp vợ chồng có địa chi năm trong tam hợp Thân, Tý, Thìn hoặc nhị hợp Thìn – Dậu sinh con trong năm nay rất tốt. Những cặp vợ chồng đang dự định sinh con trong năm Nhâm Thìn cần chú ý ưu tiên trước hết là mạng nạp âm, thứ đến là địa chi do tính biểu thị sự bền vững trong gia đình của nó và sau mới đến thiên can. Và đặc biệt tránh sinh con xung tuổi Địa chi và mạng theo Lạc Thư Hoa Giáp (Đổi chỗ Thủy Hỏa so với cổ thư) với tuổi vợ. TỨ HÀNH XUNG TRONG HÔN NHÂN Thường trong các gia đình, khi con cái cưới hỏi mà rơi vào các trường hợp hai tuổi rơi vào tứ hành xung như Thìn – Tuất – Sửu – Mùi, Dần – Thân – Tỵ – Hợi, Tý – Ngọ – Mão – Dậu thường hay ngăn cấm và chia ly đôi trẻ. Vậy thực hư của tứ hành xung là gì? Người viết cho rằng, các cụ đặt ra tứ hành xung như một công thức của vòng trường sinh, trong đó, Dần Thân Tỵ Hợi được gọi là tứ sinh; Tý Ngọ Mão Dậu được gọi là tứ vượng và Thìn Tuất Sửu Mùi được gọi là tứ mộ. Trong bốn địa chi thuộc tứ hành xung chỉ có hai chi đối xung nhau mới thực sự xung khắc nhau như: Dần Thân xung, Tỵ Hợi xung chứ Dần Hợi không xung nhau lại còn hợp với nhau. Tỵ Thân không xung nhau lại hợp với nhau. Hai vòng tứ hành xung còn lại cũng tương tự như vậy. Ngoài ra, việc địa chi xung nhau thì trong gia đình thường chỉ xảy ra xung khắc nhau, hay cãi nhau do địa chi biểu thị tính bền vững trong mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình chứ không có vấn đề gì về tuổi thọ vì tuổi xung của địa chi chỉ là yếu tố rất nhỏ trong nhiều yếu tố tương tác khác liên quan, như: Thiên Can và vận khí , tức là mạng của đôi nam nữ. Còn điều quan trọng nữa là sinh con phải hợp tuổi mẹ như đã nói ở trên.Ngoài ra còn yếu tố Phong thủy và tùy thuộc vào sự vận động cụ thể của từng con người. Do đó, việc cấm đôi trẻ có tuổi nằm trong tứ hành xung lấy nhau thực sự là khiên cưỡng và có những trường hợp đã khiến đôi trẻ đi đến quyên sinh. Đây là một điều rất đáng tiếc mà những người làm cha, làm mẹ cần phải hiểu. ĐỊA CHI TUYỆT Có bốn vòng trường sinh theo ngũ hành là các vòng trường sinh thuộc kim, mộc, thủy, hỏa. Ngũ hành thổ không có vòng trường sinh vì thổ là nơi quy tàng và sinh trưởng của bốn vòng trường sinh khác nên vòng trường sinh của thổ ký gửi ở vòng trường sinh hỏa. Trong mỗi vòng trường sinh có một cặp địa chi tuyệt, như vòng trường sinh thuộc mộc sinh tại Hợi, vượng tại Mão và mộ tại Mùi có cặp Mão Thân tuyệt tức Mão tuyệt tại Thân và Thân tuyệt tại Mão trong vòng trường sinh âm kim. Các cặp địa chi tuyệt khác là Tý - Tỵ, Dần - Dậu, Ngọ - Hợi. Nếu trong gia đình có những tuổi rơi vào cặp địa chi tuyệt như trên thì những người thuộc địa chi tuyệt này thường không sống cùng với nhau hoặc nếu sống cùng với nhau thì dễ khắc khẩu, hoặc không thuận lợi trong công việc. Do vậy, trong việc sinh con cái, cần xem xét và cân nhắc kỹ tuổi của những thành viên trong gia đình để tránh rơi vào trường hợp địa chi tuyệt như trên. Nguyễn Đức Thông - Hạt gạo làng Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương nguồn: http://www.ktcatbd.c...-lun-tui-lc-vit2 likes
-
Thắc mắc về câu: ĐỒNG TRỤ CHIẾT, GIAO CHỈ DIỆT Chẳng là từ sau hôm nhìn thấy lễ nghi gì đó chỗ tượng đài Lý Thái Tổ, nhìn cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược chợt nhớ tới 1 vật phẩm được coi là đại diện cho lịch sử và văn hóa Việt Nam: trống đồng! Nhớ lại hồi 1000 năm Thăng Long, có được dự 1 buổi đúc trống và xử lý sau khi đúc, gõ thử thấy kêu không to hơn gõ nồi quân dụng Liên Xô bao nhiêu. Lòng tự bảo lòng buồn thay cho lớp con cháu, có sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật mà chẳng thể tái hiện được truyền thống cha ông. Phải chăng cùng với sự thất truyền của kỹ thuật đúc đồng và sự biến mất của trống đồng ra khỏi các lễ nghi chính thức, nền văn minh Lạc Việt bắt đầu chìm nổi từ đây? Nhớ lại truyền thuyết về Mã Viện, sau khi chiến thắng Hai Bà Trưng, đem toàn bộ khí giới và các vật phẩm bằng đồng đúc nên 1 cột đồng to lớn, trên khắc 6 chữ thật lớn: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt. Di tích cột đồng đó hiện nay không rõ ở đâu, nhưng sử gia bao đời của đất Việt vẫn đau đáu coi đây là mốc bắt đầu của thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc. Nhưng liệu cách hiểu đó đã đúng với lịch sử hay chưa? Hãy đi tìm 1 cách hiểu khác! Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt, chỉ có 6 chữ gọn gàng đó nhưng khắc sâu vào tim óc con dân Lạc Việt bao đời. Người ta vẫn hiểu câu này nghĩa là: Cột đồng này mất thì Giao Chỉ bị diệt. Tuy nhiên, cách hiểu này cực kỳ khó hiểu về logic: Mã Viện khi đó đã thắng Hai Bà Trưng và biến nước ta thành châu, quận (Giao Chỉ), vậy thì cột đồng đó phải là mốc đánh dấu chiến thắng vẻ vang của ông ta chứ! Nếu vậy tượng đài phải ghi theo kiểu: Đồng trụ THÀNH, Giao Chỉ DIỆT ... chứ tại sao lại CHIẾT? Hãy suy luận từ vế thứ 2, nếu dân Giao Chỉ không muốn bị DIỆT thì phải bảo vệ ĐỒNG TRỤ khỏi CHIẾT. Vậy rõ ràng ở đây có 1 cái gì đó đã bị đánh tráo! Phải chăng ĐỒNG TRỤ không phải là cái cột đồng có khắc 6 chữ đó? Nhìn lại hình vẽ trên mặt trống đồng Đông Sơn, ta có thể thấy có 1 điều đặc biệt là mô tả bản thân trống đồng được đánh bởi hai người khi nằm trên mặt đất. Điều này khác xa so với các loại trống, chiêng hiện tại. Và tại 1000 năm Thăng Long, thèm lắm nghe được âm thanh đích thực của trống đồng nhưng cuối cùng cũng chỉ được nghe thứ âm thanh giả dối từ tiếng cồng, chiêng qua sự trợ giúp của kỹ thuật điện tử. Hơn 100 chiếc trống được đúc ra, được nâng niu đó không cái nào cất nổi âm thanh của dòng giống Lạc Hồng! Từ cái tư thế đặc biệt của trống đồng, đánh khi đặt trên mặt đất như vậy, chợt giật mình liên hệ với câu ĐỒNG TRỤ CHIẾT, GIAO CHỈ DIỆT trên cột đồng Mã Viện. Phải chăng với cái tư thế đặc biệt của trống đồng, người ta gọi nó là ĐỒNG TRỤ! Và khi Mã Viện cho gom hết trống đồng cũng như đồ thờ khí về để đúc nên tượng đài chiến thắng của mình, Mã Viện đã hàm ý rằng, diệt đi nền văn hóa trống đồng sẽ diệt được cái mầm họa Giao Chỉ? Và hàng ngàn năm sau, người ta chỉ hiểu thô thiển ĐỒNG TRỤ là cái cột do Mã Viện đúc nên? Nếu so thời kỳ Hùng Vương rực rỡ với lịch sử dân tộc kể từ khi Hai Bà Trưng thất thủ thì đúng là khi còn trống đồng, đất nước còn cường thịnh. Sau khi mất trống đồng, con Lạc cháu Hồng ly tán, kẻ nhận giặc làm cha, người phải ly hương bảo tồn nòi giống. Và những giá trị văn hóa, tinh thần cứ phải ẩn sâu, lùi sâu vào các câu chuyện cổ tích, thần thoại để truyền lại cho con cháu đời sau! Hôm nay nhậu cả ngày, tinh thần không được thoải mái, đầu óc không được minh mẫn, có gì ngày mai sửa lại :D :D :D1 like
-
Bị ngăn cản kết hôn vì không hợp tuổi Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. From: Xuân Thu Sent: Thursday, November 25, 2010 2:44 PM Kính gửi các anh chị Ban biên tập mục Tâm sự! Tôi viết câu chuyện của tôi với mong muốn duy nhất là có thể chia sẻ lòng mình cả với những người tôi không hề quen biết dù câu chuyện của tôi có lẽ đã thuộc vào đề tài quá cũ. Hơn 4 năm trước đây tôi đã gặp và nhận lời yêu người yêu tôi bây giờ. Tình cảm của chúng tôi đã trải qua rất nhiều sóng gió với hiểu lầm, không liên lạc và xa cách. Nhưng khi gặp lại nhau vào năm ngoái, cả hai chúng tôi đã quyết định quay lại. Chúng tôi là tình yêu đầu đời trong sáng và đã có rất nhiều kỷ niệm vui buồn, những lúc vượt qua khó khăn luôn ở bên nhau. Giờ đây khi cả hai có công việc ổn định và có thể tiến đến hôn nhân thì tình yêu của chúng tôi cũng đang đi đến lúc bế tắc vô cùng chỉ vì một lý do duy nhất: tôi và anh kỵ tuổi nhau. Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Đọc đến đây có thể rất nhiều người sẽ nói rằng thời buổi nào rồi mà còn coi trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nhưng có thể các anh chị nằm trong số ít không coi trọng chuyện này. Trong khi đó người Việt Nam rất xem trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nếu lấy nhau trong sự ngăn cản quyết liệt của gia đình 2 bên hẳn tôi và anh đều sẽ không thực sự hạnh phúc. Tôi có thể khẳng định chúng tôi yêu nhau rất nhiều và tình yêu đã đủ lớn, đã được thời gian chứng minh. Nhưng tôi cũng không hiểu sao giờ đây tôi đang quyết định không liên lạc với anh để chúng tôi suy nghĩ lại chuyện này. Tôi có cảm nhận rằng tình yêu của tôi sắp ra đi. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. Các anh chị ai đã có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này xin hãy chia sẻ cùng tôi. Hiện tại tôi cảm thấy hụt hẫng trong lòng. Rất mong Ban biên tập đăng bài viết này của tôi để tôi có thể tìm ra hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Chân thành cảm ơn anh chị! Thu http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/11/3BA237EF/ Hai mối tình của tôi đều tan vỡ vì không hợp tuổi Khi cô ấy nghe nói không hợp như vậy thì tinh thần yêu đương tan biến đi đâu mất và xoay 180 độ. Cô ấy nói thôi mình chỉ có duyên phận tới đó, dừng lại là đúng mức rồi. Tôi nghe mà không tin vào tai mình nữa. (Hung) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23EAB/ Đau khổ khôn nguôi sau mối tình kỵ tuổi Phải chia tay anh, tôi hụt hẫng, đau khổ, mất niềm tin. Hơn một năm đầu tiên tôi đã đi tìm anh, nấp ở một góc nào đó để đợi anh đi làm về, để thấy bóng dáng anh cho đỡ nhớ, cho đến ngày anh có người khác thì tôi không còn đến tìm anh nữa. (Hien) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23E2C/ -------------------------------------- Bài trả lời của TTNC Lý Học Đông Phương Kính gửi ban biên tập mục Tâm sự và quý bạn đọc, Mấy hôm nay chúng tôi theo dõi mục tâm sự và cảm thấy khá bức xúc vì các vấn đề về tuổi hợp hay không hợp trong hôn nhân. Là những người đã và đang nghiên cứu văn hóa truyền thống, nghiên cứu hệ thống lý học Phương Đông nên chúng tôi cũng muốn có đôi lời chia sẻ với quý bạn đọc.Chúng tôi viết bài này nhằm cung cấp cho quý vị quan tâm một cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tuổi và tương tác tuổi trong mối quan hệ nam nữ. Trong truyền thống văn hóa Á Đông, lúc cưới vợ gả chồng thì những người có tuổi trong gia đình đều quan tâm đến vấn đề luận tuổi. Nhưng qua thời gian cũng như thăng trầm của lịch sử, ngày nay, việc luận tuổi đã bi thất truyền dẫn tới những quan niệm chưa chính xác, lệch lạc và trở thành một nỗi lo sợ vô lý cho các cặp trai gái yêu nhau muốn tiến đến hôn nhân. Và cũng qua cả ngàn năm nay, sự thất truyền, tam sao thất bản đã dẫn đến những phương pháp luận tuổi không đầu không đuôi, gây ra những cảnh dở khóc dở cười, chia ly vô cớ và đầy nước mắt của những đôi yêu nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay đa số các “thầy” xem tuổi đều áp dụng phương pháp cung phy. Có 8 cung phi cho nam (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn) và 8 cung phi tương tự cho nữ, kết hợp lại sẽ cho ra 64 trường hợp, hay còn gọi là 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Khảm, Đoài – Ly, Cấn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ : Sinh Khí – Diên Niên – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy chỉ có 64 trường hợp tương tác tuổi. Chúng ta thử làm phép tính nhỏ, với nhân loại mấy tỷ người mà chỉ có 64 trường hợp để xem tốt xấu thì xác xuất giống nhau là rất lớn. Cứ 64 cặp thì có 1 cặp giống nhau. Có thể thấy rằng đây là điều thiếu logic. Ngoài ra, còn có phương pháp ít phổ biến hơn, đó là phương pháp Cao Ly Đồ Hình. Phương pháp này lấy 10 thiên can theo tuổi nam phối 12 địa chi theo tuổi nữ, sau đó sẽ có 1 bảng phân loại và định tuổi cát-hung. Nếu ta lấy 6 tỷ người trên thế giới và giả định có 1 tỷ cặp vợ chồng với trung bình có 4 con một cặp (ứng với 6 tỷ), đem chia cho 120 trường hợp thì ta sẽ có: 1000. 000. 000: 120 = Gần 8.300.000 triệu cặp vợ chồng có chung một hoàn cảnh. Chỉ cần 3/ 10 trong số 120 trường hợp phối cung đó chia ly hoặc chết thì ta sẽ có 8.300.000 x 36 = 298. 800. 000 cặp vợ chồng ly tan. Và hơn 1 tỷ trẻ em mồ côi trên thế gian này. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng trong dân gian vẫn lưu giữ và truyền miệng những câu như “Dần Thân Tỵ Hợi” “Tý Ngọ Mão Dậu” “Thìn Tuất Sửu Mùi” là Tứ hành xung, hoặc “Canh cô Mậu Quả”, “gái tuổi Dần”, nhưng người ta quên rằng đằng sau những câu trên là cả 1 hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh các mối quan hệ của Thiên can, Địa chi, mạng. Qua các phương pháp trên, các bạn cũng có thể nhận thấy thiếu sự hợp lý và khập khiễng trong phương pháp luận tuổi. Nhưng đáng tiếc là sự coi tuổi khập khiểng này đã tồn tại trên thực tế và ăn vào tiềm thức của các bậc ông bà cha mẹ, làm họ tin một cách mù quáng. Các phương pháp coi tuổi vợ chồng khập khiễng trên từ những vị thầy nửa mùa, chẳng hiểu thấu lý, nên vô tình đã để lứa đôi tan nát. Để thay đổi những quan niệm sai lầm trên, chúng tôi cần thấy phải có một phương pháp hoàn chỉnh, logic, nhằm giúp cho những đôi lứa yêu nhau đến được với nhau. Chính vì vậy chúng tôi, những người làm công việc nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã tổng hợp, nghiên cứu và kiểm nghiệm để có được một phương pháp luận tuổi đúng đắn, hợp lý và mang tính khái quát cao nhất. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Luận Tuổi Lạc Việt” với sự điều chỉnh mạng Thủy – Hỏa trong Lạc Thư Hoa Giáp so với Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc nhằm chứng mính cách so tuổi vợ chồng còn sót lại trong dân gian hiện nay chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hoàn chỉnh dẫn đến những sai lầm tai hại. “Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy” là quan điểm của chúng tôi. Ngoài ra, tương quan vợ chồng chỉ là những điều kiện ban đầu, khi gia đình có con thì tương quan này sẽ thay đổi tốt hoặc xấu phụ thuộc vào tuổi đứa con có hợp với cha mẹ hay không, đặc biệt là con út! Ông bà ta có câu “giàu con út, khó con út” Theo phương pháp này, tương tác giữa người với người xảy ra ở cả 3 yếu tố Thiên can, Địa chi và Mạng thông qua mối quan hệ về ngũ hành sinh khắc và nguyên lý âm dương. Như vậy, để dể hình dùng, ta có thể làm phép tính như sau : 60 tuổi nam phối 60 tuổi nữ, cùng với tuổi của 60 đứa con út có khả năng sinh ra theo tương quan tuổi vợ chồng, Tức là ta sẽ có: 60 x 60 x 60 = 216.000 trường hợp khác nhau. Xác xuất để tinh toán cao hơn nhiều lần so với các phương pháp trên. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến các cách cục tốt trong việc phối tuổi vợ chồng và con cái trong gia đình. Nhưng vấn đề không dừng lại ở những con số khô khan và phương pháp lạnh lùng. Phương pháp “Luận tuổi Lạc Việt” còn có tính nhân bản ở chỗ là nó khẳng định một cách hợp lý theo thuyết Âm Dương Ngũ hành về tình yêu nam nữ -"Yêu nhau cứ lấy" và sinh đứa con chính là nguồn hạnh phúc gia đình, dù tuổi cha mẹ có khắc nhau đi chăng nữa. Và một vấn đề chúng tôi cũng muốn chia sẻ với quý bạn đọc, đó là “tuổi tác” là một trong những điều kiện tương tác mang tính căn bản ảnh hưởng đến một hoặc nhiều mối quan hệ giữa người với người, chứ không có nghĩa tuổi tác sẽ quyết định mọi thứ diễn ra xung quanh bạn. Có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, mỗi gia đình như : hoàn cảnh gia đình, công việc, thu nhập, tính cách cá nhân… Chính vì vậy khi gặp các vấn đề nan giải trong cuộc sống, các bạn không nên quy hết vào lý do… không hợp tuổi, để rồi có những đáng tiếc xảy ra và xã hội lại tiếp tục duy trì những quan niệm không chính xác về việc xem xét tương quan tuổi giữa người với người! Xin chân thành cám ơn quý báo và quý bạn đọc. Thiên Luân Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.1 like
-
Chương trình dự kiến là vậy, nhưng còn tùy thuộc nhiều yếu tố: thời gian và ngẫu hứng phát sinh của ý kiến ACE khác, mình hoàn toàn chủ động việc này Thiên anh ah!1 like
-
Bạn có biết cách gửi video lên không tôi gửi cho về bác ở K91 like
-
Quả thật nếu đưa Kim Tự tháp vào chuyên mục bàn luận phong thủy thì thật là đúng đắn. Quan điểm Kim Tự tháp lẫn Angkor Wat là do một nền văn minh siêu việt xây dựng nên là chính xác, chỉ có điều cần thêm dẫn chứng. Kim Tự tháp, Angkor Wat, Himalayas, Đảo Phục sinh.... và một số địa danh nổi tiếng khác đều được xây dựng một cách tuyệt đối khoa học. Tất cả các địa danh trên đều có 1 điểm chung đó là năm trên "Long mạch" của trái đất hay còn gọi là 1 hệ thống các dòng năng lượng di chuyển bên dưới lòng trái đất. Riêng về Kim Tự tháp thì theo các nhà khoa học chứng minh có 2 điểm sau: - Xây dựng theo tròm sao trên trời, - Xây dựng nằm trên dòng năng lượng của trái đất Theo quan điểm riêng của PhucTuan thì người Ai Cập cổ an táng vua và hoàng hậu vào Kim Tự tháp không phải là vô lí. Bởi vì theo quan niệm của phương Đông, thì họ đã lấy được địa khí từ dòng năng lượng của trái đất và họ đã lấy được thiên khí qua đường thông hơi (đường thông hơi phía nam phòng Vua xếp thẳng với chòm sao Orion, đường thông hơi phía Bắc cỉa Hoàng hậu xếp thẳng với chòm sao Sirius) mà PhucTuab đã trình bày ở bài viết sau http://www.lyhocdong...nh-ai-cap-1698/. Thậm chí khi chúng ta để ý đến vị trí sắp xếp thì sẽ thấy rõ 1 điểm khá trùng hợp với quan niệm phương Đông, Vua - Đàn ông - Dương thì phòng hướng về phía Nam - Dương, Hoàng Hậu - Đàn bà - Âm thì phòng hướng về phía Bắc - Âm. Nếu trình bày thì còn dài dòng PhucTuan xin phép trình bày ở một bài viết đầy đủ khác.1 like
-
Cô đã gởi lại cho 2 bạn trên đây ngay chiều nay rồi đấy!1 like
-
Nếu trong tuần này không nhận được, vui lòng post bài Cô sẽ gởi lại cho Kimyen248 theo dạng bảo đảm CPN. yên tâm nhé!1 like
-
Ngày xửa ngày xưa… Sử từng ghi: Nước Văn Lang, bắc giáp Động Đình Hồ, đông giáp Đông Hải, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn. Nước Văn Lang có từ thời trước khi sử này ghi. Khi đó biên giới không phải là phân vạch như thời Tần Thủy Hoàng xây vạn lý trường thành, cũng không giống như sau này thời thực dân chia thuộc địa châu Phi và châu Mỹ bằng kẻ những vạch thẳng tắp trên bản đồ. Thời nước Văn Lang, Giáp=Giới=Tới=Tận=Tất. Nên Văn Lang là thể hiện một vùng ảnh hưởng văn hóa bao trùm của một cộng đồng dân tộc rộng lớn đã có nhà nước, có ngôn ngữ riêng, văn hóa riêng. Văn Lang là “Vùng văn hóa của Lang”, đó là văn hóa làng của dân định cư làm nông nghiệp. Văn=Vạn (vạn chài) của dân Biển, dòng Rồng. Rồng=Rộng=Lộng=Long. Rộng=Hồng=Hoằng=HÙNG. Dân vạn chài đi biển cùng Bè nên gọi là Bạn, lên bờ họ quần tụ thành Bản. Lang=Làng ( của dân đất liền), dòng Chim=Teen=Tiên=Viễn, cùng chiếm địa vực rất rộng. Rồng Tiên hợp lại với nhau thành nhiều bản,làng. Bản Làng=Bang. Lang=Làng=Vàng=Vùng=Vuông=VƯƠNG. HÙNG VƯƠNG là một quốc gia gồm dân biển và dân đất liền, đó là quốc gia Văn Lang. Đứng đầu quốc gia Văn Lang là Vua Hùng, truyền 18 thời đại trải dài 3000 năm lịch sử cho đến khi văn minh Văn Lang sụp đổ ở bờ nam Dương Tử. Văn=Vạn=Vuông=Vùng. Lang=Làng=Vàng=Vương=Vuông=Vùng. “ Vùng văn minh Văn Lang” ấy viết bằng một chữ Vuông to 口, bên trong có hình linga, biểu ý bằng một gạch ngang( 一 ) nằm dưới; và yonny, biểu ý bằng một hình vuông nhỏ ( 口 ) nằm trên ( xếp yonny nằm trên do quan niệm mẫu hệ), tất cả là năm kẻ thẳng của quẻ Ly, cũng có thể xếp lại thành chữ Nhật 日 là Mặt Trời, tượng trưng của dân Lửa xứ nóng. Tá=Lả=Lửa=Ly=Liệt 烈 =Việt 越 =Hiệt 黠 =Hỏa. Hiệt 黠 viết bằng ghép Chất Xám (chữ Hắc 黑) và Lòng Thiện ( chữ Cát 吉). Kẻ=Kiệt. Kiệt Hiệt=Kẻ Lửa. Không ít làng Việt cổ có tên là Kẻ Lửa hay Kẻ Lói, Kẻ Chói, Kẻ Cháy (như Bãi Cháy ở Hạ Long). Về sau tên ấy bị phiên âm bằng chữ Cổ Lôi , Cổ Loa hoặc những chữ khác nữa có âm na ná như vậy. Nếu nghiên cứu cứ dựa vào chữ Tàu thì sẽ có hậu quả là “tam sao thất bản”. Bên trong Vuông to 口 còn một chữ nữa là chữ Qua 戈. Qua là của ta. Của Ta=Qua. Chữ Vuông to có các bộ phận vừa nêu chính là chữ Quốc 國. Văn Lang chính là chữ Quốc. Quốc tức là của Nước. Của Nước=Quốc. Biểu ý của chữ Quốc ấy là: “Vùng của Ta là dân Mặt Trời”, tức dân trống đồng. Trống đồng chỉ khảo cổ thấy từ nam Dương Tử trở về nam, nhiều nhất và đẹp nhất là ở Việt Nam. Quốc gia là một từ Việt Hán, có nghĩa là nhà của nước tức chính phủ . (Ngân hàng quốc gia Việt Nam, sau bị đổi là Ngân hàng nhà nước Việt Nam, sau nữa lại thành lập Đại học quốc gia Hà Nội mà không đổi lại là đại học nhà nước Hà Nội cho nó đồng bộ với ngân hàng nhà nước Việt Nam). Thủa xưa, tư duy phồn thực, thì Kẻ “Dính” tức Kẻ truyền “Gen” hay truyền “tinh”. Kẻ Dính=Kinh, là người Kinh. Lạc Long Quân (dòng Rồng) và Âu Cơ (dòng Tiên) chia 50 con trai ra biển và 50 con trai vào lục địa, đó là Tổ Tiên của Bách Việt. Đàn ông Kinh=Đinh, Đàn bà Kinh=Đinh. Chữ Đinh丁 viết cách điệu biểu ý: yonny ở trên là vạch ngang 一, linga ở dưới là vạch dọc丨, vì còn là thời mẫu hệ, mẹ đặt trên. Thờ Mẫu là đạo nguyên thủy của người Việt. Khi tiếp thụ Phật giáo thì Phật cũng còn có hiện thân là Phật bà Quan Âm. Những điều kể trên là từ ngày xửa ngày xưa…Xưa (về thời gian là Trước). Xưa Trước là rất xa về trước. Xưa Trước=Xược. Không được hỗn xược là không được hỗn với xa xưa, không được hỗn với người xưa, không được hỗn với Tổ Tiên. Xưa=Xược=Thước=Tược=Tích. Vườn tược là vườn xưa của Tổ Tiên để lại. Không được để mất một tấc đất của Tổ Tiên. Thời khắc Trước=Thước (chim Hỉ Thước là con chim biết báo trước niềm vui sắp đến, cũng còn gọi là con chim Khẽ Mách=Khách). Chuyện cổ tích có nội dung hấp dẫn thường được biên soạn thành Truyện được Chuộng=Tuồng. Tuồng Cũ=Tuồng Cổ còn gọi là Tích Tuồng (cũng còn gọi là Việt kịch. Người Hàng Châu, đất Cối Kê xưa, ngày nay vẫn thích xem Việt kịch, nhưng không còn hiểu tiếng Quảng Đông, Việt ngữ, nên kịch phải có hàng chữ chạy thuyết minh). Hỗn hào là lời mắng Hỗn Hẳn với Tao. Hỗn Hẳn với Tao=Hỗn Hào. Hỗn hào là hỗn với người đang sống, Hỗn xược là hỗn với người đã khuất. Kẻ phủ nhận lịch sử tức phỉ báng Tổ Tiên là kẻ hỗn xược. Hai đầu của trục thời gian là Xưa/Xuôi, cũng cùng logic Đầu/Đuôi. Nếu lấy Ngày là điểm hiện tại của trục thời gian thì NgàyTrước=Ngược, Ngày Xuôi=Nguôi. Nguôi thì cứ Nguôi mãi bất tận. Nguôi và nguôi Mãi=Ngoai, có từ nhấn mạnh là Nguôi Ngoai. (Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam vẫn đang cãi nhau về từ ghép kiểu như Nguôi Ngoai. Có người cho rằng đó là một từ láy. Có người cho rằng đó không phải là từ láy, nó là từ kiểu gì còn phải tiếp tục nghiên cứu để định nghĩa. Vì họ cho rằng những từ kiểu như Nguôi Ngoai, do ghép hai tiếng, thì trong đó chỉ có một tiếng có nghĩa là Nguôi, còn tiếng kia là Ngoai là chưa có nghĩa, là “từ chờ”, chưa được sử dụng). Nguôi Mãi=Ngoai. Cũng vậy “Người giữ cái gì trong lòng thì nó càng theo thời gian trôi nó càng Phai”=Ngoai. Phai quá độ thì Nguôi=Nguội=Ngỏm chứ Nguôi không còn bất tận nữa. Bởi vậy để khỏi phai mờ bản sắc, người Việt nhắc nhớ con cháu bằng kể chuyện cổ tích.Chuyện cổ tích của người Việt có nội dung là những mật ngữ nhắc nhớ về cội nguồn dân tộc, tính minh triết của nó chứng tỏ nền văn minh Văn Lang rực rỡ. Nguyên bản nội dung và lời kể của những chuyện cổ tích đó tồn tại hàng ngàn năm nay để nuôi tâm hồn Việt. Bởi vậy đừng lấy ný nuận của chủ nghĩa chia giai cấp để đi “phân tích” chuyện cổ tích thời HÙNG VƯƠNG mà phá hỏng mất nó, vì như thế là hỗn xược.1 like
-
Nguồn gốc con Rồng Hình tượng Rồng để tôn thờ có trong các dân tộc, cả ở phương Đông và phương Tây, Rồng phương Tây ngắn mình, lại có đôi cánh to rộng như cánh con dơi. Xuất xứ của hình tượng Rồng thì có rất nhiều giả thuyết. Có giả thuyết cho rằng hình tượng con Rồng, lại bay được lên mây, lại phun ra lửa, lại hút được nước, là do con người đã lấy hình tượng của hiện tượng thiên nhiên là lốc xoáy thường hay xảy ra ở Mỹ rồi hình tượng hóa nên thành con Rồng. Cái này chắc ngược với logic tư duy. Con người thường lấy vật cụ thể rồi mới tưởng tượng để thần thoại hóa nó lên thành con vật thần thoại. Nhân năm Rồng,“Bắc Kinh Nhật Báo”(ngày 04/01/2012) cũng có bài giải thích nguồn gốc hình tượng Rồng: “Tám nghìn năm trước đã có hình tượng Rồng. Chữ Rồng đã có từ trong Giáp cốt văn, là hình một cái đầu to với một cái thân uốn khúc. Theo truyền thuyết, thời Đế Thuấn có ông Đổng Phụ thuần dưỡng Rồng rất giỏi, được phong cho cái họ là “Mông Long thị”. Thời nhà Hạ cũng có người thuần dưỡng Rồng tên là Lưu Lụy, được phong họ là “Ngự Long thị”. Từ truyền thuyết này mà xem thì thấy rằng thời Nghiêu-Thuẫn-Vũ giữa người và Rồng đã có quan hệ. Giáo sư Chu Nãi Thành ở viện nghiên cứu khảo cổ TQ nói, tới nay đã phát hiện được 10 di chỉ có Rồng niên đại 3600 năm trước, ở Sơn Tây TQ có di chỉ phát hiện được chậu gốm có vẽ Rồng, niên đại khoảng 4400-4300 năm, đó chính là giai đoạn mà cổ sử nói là thời Nghiêu-Thuấn-Vũ đến nhà Hạ, như vậy quan niệm ý thức về Rồng là hình thành từ thời đó. Sớm hơn nữa ở di chỉ Tây Thủy Pha tỉnh Hà Nam TQ có hình tượng Rồng và Hổ trong một ngôi mộ niên đại cách nay 6000 năm, chôn một người đàn ông đầu quay hướng Nam, chân về hướng Bắc, hình tượng Rồng và Hổ nằm hai bên thì đầu Bắc, chân Nam; Rồng nằm bên Đông, Hổ nàm bên Tây; Rồng dài 1,78 m. Văn hiến thời tiên Tần có ghi về Rồng. “Tả Truyện” ghi năm Lỗ Chiêu Công thứ 29 có Rồng xuất hiện ở ngoại ô kinh thành nước Tấn. Trong “Xuân Thu Phồn Lộ” của Đổng Trọng Thư thời Tây Hán có ghi dân gian có lễ cầu Rồng ban mưa với mong ước được mùa, trong mộ cổ Tây Hán ở Trường Sa Hồ Nam cũng có vẽ Rồng. Như vậy thời Tây Hán ý thức văn hóa Rồng đã là phổ biến trong xã hội…Người Trung Quốc tự xưng là “con của Rồng”, ở đâu có người Trung Quốc thì ở đó có Rồng Trung Quốc”. Tìm trong ngôn ngữ thì nguồn gốc hình tượng Rồng có từ trong cái NÔI khái niệm của ngôn ngữ Việt Nam. Bạn hãy viết một chữ NÔI và viết đủ sáu từ với sáu thanh điệu của tiếng Việt, NÔI-NỒI-NỘI-NỔI-NỐI-NỖI, bạn sẽ tìm ra được rất nhiều thứ để hiểu sâu cội nguồn, sơ lược qua loa thì: -NÔI là cái để ru con, ru con tức tập khái niệm cho con từ khi mới đẻ ra còn đặt nằm ngửa trong nôi. - NỒI là cái để chứa nước, chứa nước kể cả chứa cả Nước Việt Nam (ngạn ngữ “cây tre có mắt, nồi đồng có quai”, có quai = có Quẻ Quái, là có bát quái, trên các trống đồng mà khảo cổ tìm được ở Việt Nam có cả hình quẻ quái và kinh dịch, ở đâu tìm thấy di tích trống đồng thì ở đó là có dấu ấn của nền văn minh Văn Lang Lạc Việt, đó là Đông Nam Á đến nam Dương Tử). - NỘI là cái ở trong (Lõi=Nòi=Nội), là cái mầm (Mầm=Ngầm=Nguồn). Truyền thuyết nói rằng khi hình thành vũ trụ, khí nặng lắng kết thành trái đất, đó là cái Nôi nặng thành Nội. - NỔI là cái ở trên. Truyền thuyết nói rằng khi hình thành vũ trụ, khí nhẹ nâng trôi trồi lên thành trời (Nôi Trồi=Nổi). - NỐI là sự di truyền (Nối=Dồi=Dõi=Di=Dòng=Giống). - NỖI là cái tư duy (Nôi Nghĩ=Nỗi), là cái nỗi niềm (“nỗi khổ”, đó là chẳng qua nghĩ nó là khổ thì nó là khổ, chưa chắc cái đó đã là khổ) Ngôn ngữ của các dân tộc đều bắt đầu bằng chữ A. Đứa trẻ ra đời là HÁ miệng khóc “A…, a…oa…, a…oa…”. Tiếng Việt là ngôn ngữ Nam Á, hệ ngữ Môn-Khơ Me. Ngôn ngữ Việt là NA ( ngạn ngữ “Nôm Na là cha mách quẻ”- người Nam nói ra thì mách cho biết là quẻ tức bát quái có nghĩa gì). Nguồn gốc Nam Đảo thể hiện ở chỗ: Ngôn ngữ Việt là NA, ngôn ngữ Đài Loan là LA, ngôn ngữ Nhật Bản là HANAXƯ, ngôn ngữ Indonexia là HABASA. Ngôn ngữ Việt là NA, còn cái Ổ khái niệm của nó là cái NÔI (Na Nôi=Nói), người Việt mà đã nói thì ra cả ổ khái niệm. Theo nhân chủng học nghiên cứu thì đại tộc Việt đã từ Đông Nam Á ra bắc khai phá nông nghiệp đến tận vùng sông Hoàng Hà. Đọc lại đoạn văn ở trên về di chỉ khảo cổ Tây Thủy Pha: ở di chỉ Tây Thủy Pha tỉnh Hà Nam TQ có hình tượng Rồng và Hổ trong một ngôi mộ niên đại cách nay 6000 năm, chôn một người đàn ông đầu quay hướng Nam, chân về hướng Bắc, hình tượng Rồng và Hổ nằm hai bên thì đầu Bắc, chân Nam; Rồng nằm bên Đông, Hổ nằm bên Tây; Phân tích: Cách nay 6000 năm mà người đàn ông ấy được chôn quay đầu về hướng Nam, bởi vì hướng Nam là quay về quê Tổ (ngạn ngữ “Cóc chết quay đầu về núi”). Còn hình Rồng và Hổ thì ngược lại, đầu bắc chân nam, vì Rồng và Hổ chỉ là ám chỉ hai phương tiện (đường thủy và đường bộ) đưa con người Nam đi bắc tiến khai phá nông nghiệp. Rồng đặt nằm bên Đông là đúng vì Rồng xuất xứ từ biển Đông. Truyền thuyết của tộc Việt nói người Việt là con của Rồng và Tiên, cha Rồng ở biển Đông, mẹ Tiên ở lục địa phía Tây (Chuyện Lạc Long Quân dòng Rồng lấy Âu Cơ dòng Tiên đẻ ra trăm trứng). Về Lý học truyền thuyết này phản ánh quan niệm lưỡng hợp của người Việt, chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Về nhân chủng học truyền thuyết này phản ánh đại tộc Việt là sự hòa huyết của hai dòng người cùng gen Nam Á là dân biển (Rồng) và dân lục địa (Tiên). Dân dòng Rồng có totem là con Rắn sống dưới nước, dân dòng Tiên có totem là con Chim bay trên trời (Xem hình con cá sấu và con chim trên trống đồng). Xét về ngôn từ: Rồng: Xuất xứ từ một loài động vật sống dưới nước, có thể giống con rắn, lại cũng hơi giống con cá sấu, loài thủy tộc này xưa có con Thuồng Luồng, bơi dưới nước, thân cũng dài như con Xuồng ghép bằng dăm cây Luồng mà người Việt vẫn dùng đi biển. Nó to, khác với các giống rắn khác, Nôm Na gọi nó là con Rắn Lớn. Từ Rắn Lớn này để lại từ DraGon cho tiếng Tây. Con Rắn Lớn ấy nó vào được cả sông, ở sông thì gọi là con Thuồng Luồng vì nó to như cái Xuồng Luồng người dân vẫn đi sông, hoặc gọi là con Rắn Sông (Rắn Sông=Rồng). Từ totem là con Rắn Lớn ấy về sau người ta thần hóa nó lên, tô điểm tạo hình tượng trưng tổng hợp tất cả các loài vật nuôi của nền nông nghiệp định cư vào trong nó, đầu heo, mũi trâu, râu cá, móng gà, vảy tê tê, bốn chân như gia súc v.v. để tượng trưng mong ước đời sống vật chất đầy đủ. Hình tượng Rồng chẳng có gì là quyền uy trong tâm thức dân gian, mà nó là gần gũi thân ái (múa rồng còn đến bây giờ là múa dân gian, do dân tự lập đội múa rồng, không phải là múa cung đình), mái đình , mái chùa là hình tượng “đôi rồng chầu ngọc”, biểu trưng lưỡng hợp của tư duy phồn thực, chầu ngọc là nâng niu sự giàu có vật chất, dùng hình tượng Rồng để cầu mưa cũng là mong cho đời sống vật chất đầy đủ. Vì Rồng tượng trưng cho đời sống vật chất nên thường làm nó màu vàng, là màu thứ kim loại đại diện cho giàu có. Cũng bởi Rồng chỉ tượng trưng cho đời sống vật chất nên chuyện cổ tích chẳng thấy chuyện nào nói Rồng làm hại ai hay Rồng cứu nạn cho ai. Rồng cũng đẻ trứng như Chim (ca dao “Trứng rồng lại nở ra rồng, Liu điu lại nở ra dòng liu điu”), để đẻ trứng thì Rồng cũng làm ổ. Rồng ở biển Đông nhưng ổ để rồng đẻ là cái vịnh Hạ Long, tức vịnh rồng đẻ (sinh hạ). Chữ NÔI của tiếng Việt đã nói rõ nguồn gốc loài thủy tộc này: N là Nước, Ô là chỗ nó làm ổ, I là nó biết bơi, NƯỚC-Ổ-BƠI=NÔI=con Rồng Tiên: Xuất xứ là Chim, con vật biết bay trên trời. Khi Chim đã là totem thì nó được thần hóa là Tiên. (Ngôn ngữ các dân tộc ở Trường Sơn: Chim=Teen=Tiên. Từ Tiên là đã thần hóa, phiên thiết thì Tiên=Tản Viên, ngọn núi thần, nơi thờ Thánh Mẫu của người Việt). Hình tượng của Tiên là con chim Phụng hay đôi chim Hạc thường đặt hai bên bàn thờ gia tiên trong mỗi gia đình Việt, tế là mong ước ở Tiên ban cho cái đời sống tinh thần tốt đẹp. Chỉ thấy cầu Tiên, cầu Thánh Mẫu, tức xin cái tinh thần. Vì là Tiên, đã bay lên trời, nên Tiên chỉ tượng trưng cho ao ước đời sống tinh thần tốt đẹp. Bởi vậy chuyện cổ tích Việt thường có gặp Tiên cứu nạn, giúp giải quyết các khúc mắc, bấn loạn về tinh thần, Tiên hiện hình thành Bà Tiên hay Ông Bụt. Vì có quan niệm là con của Rồng và Tiên nên người Việt có đạo thờ Mẫu từ vạn năm trước khi có Phật giáo. Tại đền Ngọc Sơn ở Hồ Gươm Hà Nội có câu đối: Sơn bất tại cao, hữu Tiên tắc thanh.Thủy bất tại thâm, hữu Long tắc linh (Núi chẳng cứ cao, có Tiên thì có tiếng. Nước chẳng cứ sâu, có Rồng thì có hiệu quả) cũng nói lên ý : Tiên là đời sống tinh thần, Rồng là đời sống vật chất. Cứ nhìn vào một gia đình dân chài vùng biển Việt Nam thì thấy ngay con của Rồng Tiên. Rồng=Chồng đi đánh cá quanh năm suốt tháng ở Rộng=biển Đông, để lo bảo đảm đời sống vật chất. Tiên=Thiếp ở nhà lo đời sống tinh thần, dạy con học ăn, học nói, học gói, học mở cho đến khi lớn đủ sức khỏe theo cha ra biển. Tóm lại Rồng có xuất xứ Việt Nam. Rồng Tiên vừa nói lên nguồn gốc tộc Việt, vừa nói lên thuyết Âm Dương Ngũ Hành là của người Việt, vừa nói lên khát vọng phấn đấu bền bỉ của người Việt để có một đời sống vật chất đầy đủ cùng một đời sống tinh thần phong phú.1 like
-
Trong truyền thuyết Việt thì vị vua đầu tiên của Việt tộc Lạc Long Quân tức vua Rồng Lạc Việt. Trên trống Đồng hình rồng và tiền thân của Rồng khá rõ. Người Việt vẫn nhận mình là Con Rồng cháu Tiên. Sau này, nền văn minh Việt bị sụp đổ ở Nam Dương tử và bị Hán hóa thì các vua Hán mới bắt đầu tự nhận mình là "Rồng". Còn ngay Sử Ký thì vua Tần Thủy Hoàng cũng chưa nhận mình là Rồng nữa. Nhưng di sản tìm thấy có hình tượng rồng phần lớn đều ở Nam Dương tử. Trong Dịch lý quẻ Bát thuần Càn sử dụng hình tượng rồng giải thích quẻ. Dịch của người Việt vậy không có lý gì Rồng lại của Trung Quốc. Tiếc thay! Hàng ngàn năm Hán hóa nên người ta ngộ nhận vậy thôi.1 like
-
LẠC VIỆT TRÁNG (CHOANG), ZHUANG, NAM TRUNG QUỐC. Tác giả Nguyễn Xuân Quang đứng trước bảng hiệu Làng Tráng Zhuang trong Trung Tâm Văn Hóa Sắc Tộc Quảng Tây tại Nam Ninh. (ảnh Michelle Mai Nguyễn). Như chúng ta, Tráng Việt Zhuang là một thứ Lạc Việt trong Bách Việt, Người Mặt Trời, như đã thấy họ thờ Mặt Trời còn vẽ lại trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây cách đây trên dưới 2.700 năm (Đạo Mặt Trời Của Bách Việt, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Cảnh Tế Lễ mặt trời, thờ mặt thời của Lạc Việt Tráng Zhuang vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây (ảnh của tác giả). Vì thế hiển nhiên họ có văn hóa Lạc Việt ngành Thần Nông Lạc Long Quân như nhánh Lạc Việt Việt Nam. Họ cũng như nhánh Lạc Việt Việt Nam nhận mình là con cháu của Rồng. Bước vào một làng Tráng Zhuang thường thấy các trụ cổng làng thờ Rồng: Trụ cổng làng thờ thần Rồng, thần tổ của người Tráng Zhuang tại Làng Tráng Zhuang (ảnh của tác giả). Lưu ý trụ tròn mang âm tính (khác với trụ vuông có góc cạnh mang dương tính) biểu tượng của ngành nòng nước giống như ta đã thấy ở Đền Động Đình thờ Long Vương, ông ngoại của Lạc Long Quân ở hồ Động Đình (xem Hồ Động Đình). Giống như Việt Nam, văn hóa của họ cũng có cốt lõi dựa trên lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Hai vị thần tổ của họ là một vị thần Chim và một vị Thần Rồng: Thần tổ đầu chim ở Làng Tráng Zhuang (ảnh của tác giả). Lưu ý Thần tổ chim đầu có sừng. Ta đã biết chim sừng (hornbill) mỏ cắt, chim khướng, chim Việt là chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế họ Khương (Sừng), thần tổ của ngành Nọc mặt trời Viêm Việt. Quanh cổ thần có vành sóng nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) mang nghĩa dương, lửa, mặt trời. Tấm che ‘hạ bộ’ hình cờ nọc mũi tên có các tua viền hình sóng lưỡi lửa. Tay cầm kiếm nhọn, thẳng biểu tượng cho nọc, dương, mặt trời nọc thái dương. Bao quanh người có những ngọn lửa… Vị thần chim sừng này là hình bóng của thần mặt trời Viêm Đế. Mẹ Tổ Âu Cơ của chúng ta mang hình ảnh chim Tiên thuộc ngành chim Sừng Mỏ Cắt, Chim Việt thần mặt trời Viêm Đế. Ngành rắn, nước, mặt trời âm (theo duy dương) hay không gian (theo duy âm) ứng với Thần Nông thấy rõ qua vị thần tổ đầu rồng: Thần tổ đầu rồng (ảnh của tác giả). Lưu ý thần tổ rồng có sừng là thần tổ của ngành Nòng Thần Nông. Rồng là dạng thần thoại hóa của rắn sừng (Rắn Việt ), theo duy âm là biểu tượng cho Thần Nông không gian. Viền trên áo có hình sóng nước. Tấm che ‘hạ bộ’ cũng có viền tua sóng nước. hai tay cầm kiếm đầu cong vòng cung mang âm tính biểu tượng cho không gian. Vì là thần âm, nước nên thần hai tay cầm hai cây kiếm. Số 2 là số chẵn, số âm trong khi đó vị thần Chim ngành lửa, dương chỉ cầm có một cây kiếm thẳng. Số 1 là số lẻ, số dương. Dưới chân có hình sóng cuộn bạc đầu… Đây là hình bóng của Thần Nông không gian của ngành Rắn, Rồng. Lạc Long Quân thế gian thuộc ngành nòng Thần Nông không gian này. Rõ như ban ngày Tráng Zhuang có hai vị thần tổ chim-rắn, Tiên-Rồng giống hệt Việt Nam chúng ta. Việt Nam có một gốc Lạc Việt. Lạc Việt Tráng Zhuang ruột thịt với gốc Lạc Việt Việt Nam. Hiển nhiên văn hóa Tráng Zhuang có cốt lõi là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng như văn hóa Việt Nam. Họ cũng có ngôi nhà thờ phượng ngày nay gọi là nhà cộng đồng giống như nhà Lang Mường, nhà đình Việt Nam: Nhà cộng đồng kiểu nhà sàn Tam Thế (ảnh của tác giả). Những ngôi nhà cộng đồng, nhà hội kiểu nhà sàn này giống hệt nhà làng, nhà đình của Việt Nam, ngày nay dùng làm nơi hội họp, gặp gỡ của giới trẻ. Lưu ý mái cũng có đầu đao nhưng ở giữa nóc nhà có một kiến trúc hình thuyền cho thấy rõ họ thuộc đại tộc nước Rồng Lạc Long Quân. Họ còn giữ được truyền thống cổ không như các đình làng dòng Lạc Long Quân của chúng ta hiện nay trên nóc bây giờ toàn thấy hình rồng kiểu rồng long Trung Hoa. Người Lạc Việt Tráng Zhuang ruột thịt với nhánh Lạc Việt Việt Nam nên họ cũng có trống đồng thuộc đại tộc trống đồng nòng nọc, âm dương Đông Sơn. Hình trống đồng còn thấy vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây có tuổi cùng thời với trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Hình trống đồng vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây (Đạo Thờ Mặt Trời Của Bách Việt, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Trống đồng là tộc biểu, tộc bảo của người Tráng Zhuang (hình chụp tại Làng Tráng Zhuang). Trống đồng Tráng Zhuang thuộc loại trống đồng tượng Nước Nguyễn Xuân Quang IV tức trống chệt Heger IV hình cái âu hay nồi úp thuộc đại tộc mặt trời Nước Lạc Long Quân. Trống đồng tượng Nước Tráng Zhuang chỉ là một tộc trong đại tộc trống đồng nòng nọc, âm dương Đông Sơn có trống biểu là trống Đông Sơn hình Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI hay Heger I (xem Cơ Thể Trống Đồng). Trung Quốc hiện nay dốc hết toàn lực ra quảng bá trống đồng Tráng Zhuang nói riêng, trống Nam Trung Hoa nói chung để lôi cuốn du khách và cố tình nói cho thế giới là văn hóa trống đồng phát gốc từ Vân Nam (họ cho là trống Vạn Gia Bá ở Chử Hùng là trống cổ nhất) rồi truyền qua Việt Nam (sic). Họ cố tình chiếm đoạt văn hóa đại tộc Đông Sơn của Việt Nam để dễ bề đồng hóa Việt Nam về mặt văn hóa. Khắp Nam Trung Hoa nhất là ở Nam Ninh, thủ đô của người Tráng Zhuang, chỗ nào cũng thấy những điêu khắc, kiến trúc về trống đồng đồ sộ. Đặc biệt nhất là Bảo Tàng Viện Sắc Tộc Quảng Tây, Nam Ninh xây theo hình trống đồng. Bảo Tàng Viện Sắc Tộc Quảng Tây, Nam Ninh Lưu ý tên Bảo Tàng Viện được viết bằng chữ ‘quốc ngữ’ ABC Tráng Zhuang ở dưới chữ Hán giống như Việt Nam ngày nay người Tráng Zhuang dùng chữ Quốc ngữ ABC. Tráng Zhuang là Lạc Việt có gốc hay ruột thịt với Tai (thái) vì thế ngôn ngữ Tráng Zhuang ruột thịt với Tầy Thái. Họ có một thứ chữ tượng hình cổ một ngàn năm dựa trên Hán ngữ (một thứ chữ ‘nôm’ Tráng Zhuang) và hiện nay chữ viết chính thức được viết bằng mẫu tự ABC (giống như Việt Nam ngày nay dùng chữ Quốc ngữ). Ta đã biết trống đồng nguyên khởi là trống biểu của Vũ Trụ giáo là họ biễu, quốc biểu, tộc biểu (như thấy qua các trống Quảng Xương, Hòa Bình, Phú Xuyên, Trống Miếu Môn I…) về sau ở các trống muộn thường có tượng cóc/ếch gọi là trống ếch trống mưa, mang khuôn mặt thờ sấm mưa nổi trội lên làm lu mờ đi ý nghĩa biểu tượng nguyên thủy của trống. Các trống Nam Trung Hoa và các quốc gia khác như Lào, Campuchia, Thái Lan… gọi trống đồng là trống ếch trống mưa. Ở tộc Tráng Zhuang cũng vậy, họ coi trống đồng là trống biểu tượng cho sấm, mưa. Trống tiêu biểu mà họ hãnh diện nhất là Trống Đại Lôi (Great Thunder Drum). Thờ trống sấm mưa nên họ thờ thần sấm mưa: Miếu thờ Thần Sấm qua biểu tượng ‘đĩa sấm’ Lửa-Nước Càn-Khôn vũ trụ giao hòa (ảnh của tác giả). Trang phục cũng thấy có những nét giống trang phục cổ truyền ViệtNam rang phục nam nữ của một tộc Tráng Zhuang (ảnh của tác giả chụp tại Bảo Tàng Viện Sắc Tộc Quảng Tây, Nam Ninh). Đa số các chi tộc Tráng Zhuang mặc trang phục mầu đen (rõ nhất là chi tộcNapo). Mầu đen là mầu của nước thái âm của tộc Nước, mặt trời Nước ứng với Rắn (Rồng) Lạc Long Quân. Tộc nước Lạc Việt nhuộm răng đen là vậy. Lưu ý khăn đội đầu của người nam mang hình ảnh khăn đóng của Việt Namvà khăn trùm đầu của người nữ mang hình ảnh chiếc khăn vuông đen cổ truyền của phụ nữ Việt Nam. Họ cũng có tục ném còn (ném một trái cầu tròn qua lỗ của một đĩa tròn) giống như một vài sắc tộc ở miền Bắc ViệtNam. Ném còn (ảnh của tác giả). Ném còn, tung còn là trò chơi nòng nọc, âm dương. Quả cầu tròn và đĩa tròn mang hình ảnh chữ viết nòng nọc vòng tròn-que là chữ chấm nọc nguyên tạo (.) và chữ nòng vòng tròn (O). Chữ chấm nọc dương biểu tượng cho nọc, dương sinh tạo, bộ phận sinh dục nam nguyên tạo. Vòng tròn có lỗ là chữ nòng O có một nghĩa là bột phận sinh dục nữ nguyên tạo. Ném trái còn lọt vào vòng tròn để cho nòng nọc, âm dương giao hòa. Trong lễ cưới một vài sắc tộc ở miền Bắc Việt Nam (trong đó có người Mường?), chú rể cầm quả cầu, cô dâu cầm một cái vòng tròn có dán giấy kín biểu tượng cho màng trinh, họ đứng cách nhau một khoảng xa về phía hai họ. Chú rể phải ném cho tới khi quả cầu lọt vào được vòng tròn chọc thủng tờ giấy màng trinh mới chính thức trở thành người chồng. Trò chơi nòng nọc, âm dương giao hòa này là một nét của cốt lỗi văn hóa lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Vân vân… nguồn: http://bacsinguyenxu...06/img_3467.jpg1 like
-
(tiếp theo) http-~~-//www.youtube.com/watch?v=qBdh3bRHbAo&feature=related VanHoaNBLV với Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đã được Viet Roots cho xem một số cổ vật Lương Chữ và cuộc khảo sát sơ khởi này được thực hiện vào ngày 22 tháng 07 năm 2011 tại Thành phố Santa Ana, Southern California, Hoa Kỳ. "Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ truyền đến đời Hùng Vương lập nước Văn Lang với bờ cõi rộng lớn Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (Chiêm Thành) chia nước làm 15 bộ..." Câu chuyện nói trên tưởng như huyền thoại được ghi trong sách Dã sử Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp (1370-1400) bỗng nhiên được minh chứng bằng cổ vật thời Đồ Đá Mới, được ông Shi Xingeng đào được ở làng Lương Chữ (Liangzchu), Chiết Giang vào năm 1936. Từ sự khai quật này các học giả Hoa Kỳ và Trung Hoa đã gọi tên là Văn Hóa Lương Chữ. Điều lạ lùng là các cổ vật Lương Chữ đã trải rộng khắp Miền Gió Mùa, gắn liền với Văn Minh Luá Nước và chăn nuôi gia súc là đất cũ của nước Cổ Việt (Bách Việt) tương ứng với việc Sử gia Tư Mã Thiên (145 năm trước Công Nguyên) mô tả "Năm Tân Mão (1109 trước Công Nguyên) đất Việt là Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Châu, Nam Hải, Nhật Nam đều là phần đất của dân Việt xâm mình, cắt tóc để tránh giao long làm hại..." Về Văn Minh Lúa Nước, lý thuyết của Tiến sĩ Madeleine Colani khai quật thóc hóa thạch ở Hòa Bình Việt Nam từ năm 1920 đến 1927 nói rằng nền Văn Minh Hòa Bình có từ hàng ngàn năm trước Công Nguyên. Lý thuyết của Colani tiếp đó được Tiến sĩ Solheim II của Đại Học Hawaii của Hoa Kỳ xác nhận năm 1971 là Văn Minh Hòa Bình có từ 15 ngàn năm trước Công Nguyên; hai nền Văn Hóa Long Sơn (Longshan) và Ngưỡng Thiều (Yangshao) đều có gốc ở Văn Hóa Hòa Bình. Văn minh Lương Chữ(3400-2250 BC) Giai đoạn nền văn minh Bách Việt thời vương quốc Xích Quỷ chuyển giao sang thời vương quốc Văn Lang nguồn: http://hoangsa.org/1 like
-
Quí vị quan tâm thân mến. Có thể tác giả Đỗ Thành có tấm lòng nghiên cứu nhằm phục hồi những giá trị văn hóa sử của Việt tộc. Nhưng với cái nhìn của tôi, tôi e rằng với cách phân tích chủ quan của tác giả dẫn đến sự ngộ nhận về Việt tộc có sự liên hệ nguồn gốc với dân tộc Hán. vv....và ...vv... BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH.1 like
-
Cập nhật nguồn: Việt học ĐỗThành Khảo cứu Bách Việt Sử : Những Lớp bụi mờ của lịch sư... ( 1 ) Haǹg hàng lớp lớp bụi mờ phủ lên trên bề dầy lịch sử Bách Việt... Người Việt Nam ngày nay khi viết chử Việt với dần A B C thì người ta gọi là chử Việt , khi người ta gập chử tượng hình 越 (Việt ) thì đa số người ta nói là chử Tàu ! Người Quảng _Đông ngày nay khi viết 2 chữ 越 南 ( Việt Nam ) thì họ đọc là "Duyệt -Nàm" , và khi phát âm đọc lên 2 chử đó theo giọng nói địa phương Quảng Đông thì họ gọi tiếng của họ là Việt Ngữ...; Xin kễ 1 Chuyện xảy ra hiện nay tại 1 trường Đại học ở Califronia -USA : Một sinh viên người Việt Nam biết chút it́ tiếng Quảng Đông , Tự giới thiệu mình với một sinh viên đến từ Tỉnh Quảng đông -Trung Quốc rằng : "Ngọ hầy Duyệt-Nàm dành " (Tôi là người Việt Nam) , Người Sinh Viên kia cũng tự giới Thiệu : "Ngọ hầy Duyệt dành" (Tôi là ngườ Việt) ; thế là người sinh viên Việt Nam ngớ ngẩn !!! ...Hả ?...Uả ? sao kỳ Vậy ??? ...tuổi trẽ ngày nay it́ biết được lịch sử Bách Việt , ...nhiều người lớn tuổi mà còn không biết ! vì không muốn biết , vì không được biết v v...thì nói chi đến lứa tuổi sinh viên hiện giờ ! vì sao ??? đó là vì có sự Ngộ Nhận "Hoa-Hạ"- "Hán" và "Việt" ... Từ khi nào thì có chuyện người ta tự xưng là "Hoa-Hạ" hay "Hán" tộc ??? _Điều nầy khá phức tạp , nếu như thiếu dẩn chứng hoặc trình bài qúa ..."đơn sơ" ! thì khó thuyết phục ! Hôm nay tôi tìm cách trình bài những trường thiên dài lê thê của mấy ngàn năm bằng cách ngắn gọn , nhưng, củng phải kể ra những chi tiết quang trọng theo tuần tự -Những chi tiết sẽ được trình bài rỏ ràng theo từng bài khảo cứu tiếp theo sau nầy ; rất mong qúi vị ...cũng như tôi sẽ cố gắng để khảo cứu thêm chi tiết và viết thành nhiều bài đễ công bố online... 1 cách khoa học và nghiêm túc Khảo Cứu :Những chi tiết quang trọng...thời Cổ sử và Cận đaị -Cổ thư được gọi là "Việt Tuyệt ký" hay "Việt Tuyệt Thư"(*thời Xuân -THu chiến quốc : trước Sử Ký của Tư Mã Thiên ) , Trong đó ghi chép Vua Việt là con cháu của vua Vủ thuộc triều nhà Hạ ; Việt Tuyệt thư viết bằng chữ tượng hình như "Việt cổ Văn" và "Trung Văn" , ngày nay , sách phải dùng bằng bản phiên dịch qua Trung -Văn bởi những học giả Việt Học xưa nay , vì cổ Việt văn có 1 số từ ngữ của Cổ ngữ mà ngày nay người ta sẽ khó hay không hiểu khi đọc ! ...Ví dụ chử "Cuấy" hay "Cuây" là "Hội" , "kây " là "kế"; "cuấy kây" chính là "hội-Kế" , "Cuấy -kây"...mà viết theo chử tượng hình xưa thì mấy ai biết được bây giờ ? Đa số sẽ đọc là "Hội -kế" , (Lại có 1 giọng Cối -kê = Cuấy Kây =Hội-Kê ..là Hàn -Châu ngày nay ) , chử 會計( Hội-Kế ) là : 會稽 ngày xưa , Chử "Hội" với chử " kế "nhưng lại đọc là Cuấy-kây với dần "C-hay K " đó là nét đặc biệt của vùng Giang Đông và Phiên Ngung ( bên bờ biễn đông -Thái Bình Dương ) ; nhờ Việt Tuyệt Thư mà sau nầy "Sử Ký" (Cuả TƯ MẢ THIÊN )và nhiều sách sử khác có tài liệu về nguồn gộ́c Bách Việt bên cạnh những truyền thuyết... Truyền thuyết ...***Đế Nghiêu truyền ngôi cho Đế Thuấn , Đế Thuấn truyền ngôi cho Vua Vủ , Vua Vủ lên ngôi rồi truyền ngôi cho con là "Khải" : lập nên triều "HẠ" , triều Hạ là của Việt tộc : VIỆT TUYỆT THƯ chép rằng bởi vì "Vua Vủ được chôn cất ở Mao Sơn ̣(Cuấy kây- Hội kê ) , con cháu trong nhà phải có người theo ở đó đễ giử đất mộ của Vủ gia cho tròn đạo hiếu , và rồi lập ra Việt Quốc ." ; vậy , theo VIỆT TUYỆT cổ thư : Hạ và Việt là 1 nhà , đả là 1 nhà thì "Hạ " ngữ hay "Việt " ngữ là 1 , Có ai cần tranh luận điều nầy không ? ..chú ý : Nghiêu , Thuấn , Hạ là Truyền Thuyết ..., nhưng "Việt Tuyệt thư" là cổ thư thời Xuân Thu - chiến Quốc được lưu lại cho đến ngày nay mà nội dung được ghi chép thật rỏ ràng , cổ thư nầy mang tên "Việt Chép" và chép lại sử Việt ; sau nầy "Hoa"văn không có chử "chép " nên dùng chử "Choẻ , choé : 絕jue "/ đọc theo Hán -Việt ngày nay là "Tuyệt "... có phát âm na ná đễ thay chử "chép" ; Xin đón đọc : sẽ nói rỏ về VIỆT TUYỆT THƯ ở những bài khảo cứu tiếp theo sau nầy ; Việt Tuyệt Thư và những chử viết được khắc trên xương ( Giáp cốt văn )và những đỉnh bằng kim loại đồ đồng ( Chung Đỉnh Văn ) thời nhà Thương và Chu mà khảo cổ học phát hiện đã bổ sung và minh chứng cho truyền thuyết , và vì vậy Việt Tuyệt thư càng thêm giá trị . Triều Hạ bị lật đỗ bỡi Triều Thương , Thương là con cháu của Đế Nghiêu , lấy họ Chử , người Việt không xa lạ với họ Chử qua câu chuyện "Chử Đồng Tử "...,Thương không phải là Việt tộc ??? hay là Việt tộc ??? ( Xin xem bài tiếp theo )-Đọc giã sẽ tự có câu trã lời : Vì Đế Nghiêu truyền ngôi cho đế Thuấn , Đế Thuấn truyền ngôi cho vua Đại Vủ cuả nhà Hạ ;...Sau nầy nhà Thương của họ Chử ( 子 -đọc là Chử khi là họ , chứ không đọc là Tử . ) lớn mạnh và lật đỗ triều Hạ , và chử viết và văn hóa của Thương đều là kế tục của nhà Hạ : Những chử viết trong chung Đin̉h Văn và Giáp cốt văn cuả Khảo cổ học chứng minh được điều nầy , ...Nhà Thương thôn t́inh và Đồng hóa Người Siberia da trắng là "Trung Sơn Quốc" : gọi là "Bạch-Địch " , nói chung nhà Thương bao gồm Việt tộc và những ngoại tộc ̉ bị Việt tộc đồng Hóa ..., ngay cả tên của Trụ Vương ...cũng được ghi chép lại là Đế Tân theo văn phạm Việt ..chứ không phải là Tân Đế ! Triều nhà CHu củng bị Việt tộc đồng Hoá ; Tộc Chu là Tộc Khương đã liên kết với những tộc khác tiêu diệt nhà Thương , trước khi lật đỗ nhà Thương , thì trên bước đường đông tiến từ cao nguyên phía tây tiến về Trung Nguyên là họ đã bị Việt Đồng Hóa rồi , và họ đỗi tên , xưng là : CHu 周 , Chu : có nghiã là Điền 田-Khẩu 口 , Ráp chử Điền đễ phía trên và Khẩu chung sẽ thành chử 周 -Chu , ...Chu là khẩu sống nhờ Điền-(ruộng lúa)- ..., và triều CHu tự xưng là con cháu đích tôn của vua Vủ nhà Hạ để được "chính Danh"; Chu Tự xưng là "Hạ" hay là "Hoa" -vì lẩn lộn phát âm giữa chử Hoa và Hạ của tiếng Việt , Tiếng Khương của dân tộc Khương vẩn tồn tại cho đến ngày nay , cho nên khi đối chiếu tiếng Khương với cổ sử và Tứ THư , NGủ̉ Kinh v v...thì sẽ thấy rỏ Chu đã Bị văn hóa Việt của nhà Hạ và nhà Thương đồng Hóa...: Bỡi vì Triều Chu đã không còn dùng tiếng Khương như người dân tộc Khương hiện nay vẫn tồn tại và nói tiếng Khương , -và ngay cả việc nhà Chu phải nhâṇ thầy và học hỏi từ nước Sở củng ̣được ghi rõ ràng trong chính sử .(điều nầy ghi rỏ trong Sử Ký của Tư Mả Thiên ) Nhà Hạ được xem là chính danh , là Hoa = hoa nghiã là " hoa lệ " , là "qúi phái " , là tiến bộ- là qúi tộc , là thống lỉnh , là chính thống ở Trung Nguyên. Cho nên khi mà Chu muốn gồm thâu thiên hạ qui phục với Chu thì phải tự xưng là "Hoa-Hạ" , ngay cái tên "hoa-Hạ" đả tự bộc lộ là bị Đồng Hóa rồi....!!! Vì lẫn lộn "Hoa" Và "Hạ" !!! bỡi Vì là bị đồng hóa mà vẫn khó phân biệt phát âm của 1 ngôn ngử "mới " đối với họ , cho nên họ không phân biệt được "Hạ" là tên gọi Hoàng Triều , và "Hoa" là tên gọi của qúi Tộc theo lối phát âm tiếng Viêṭ , cho nên mới có việc tự xưng vừa Hoa lại vưà Hạ ...trong khi lẽ ra chỉ cần xưng là HOA , hoặc chỉ xưng là Hạ ...là được rồi ! ( Hoa = 華 , Hạ=夏 ) -華 - 夏 Tiếng Việt cổ đại Hoa Và Hạ đọc rất là giống nhau ... _ 華 - 夏Tiếng Việt ở Việt Nam ngày nay : đọc "Hoa"-"Hạ". ..Phát âm rất giống nhau , chỉ vì dùng cố định dấu nặng trong chử Hạ theo qui định ngày nay cuả phiên âm a , b , c , theo Latin mà tạo nên khác biệt hơi nhiều . -華 - 夏Tiếng Việt ở Qủang Đông nay : Đọc : "Hoà" -"Hà" ...Phát âm rất giống nhau . _華 - 夏Tiếng Mân-Việt Triều / Phước Kiến : đọc : "Hoe"-"he" ...Phát âm rất giống nhau . ....Mãi cho đến Sau nầy qua nhiều triều đại sau nhà Chu nữa , khi nhiều dân tộc khác tiếp tục bị người Việt đồng hóa nữa thì dần dần mới có sự "Lai Căn" văn hóa khác mà đổi phát âm chử "Hạ" đọc thành "seaé" hay "Xié" , và phiên âm theo tiếng Anh / English ngày nay 夏 là "Xia" ; Ngày nay tiếng Bắc kinh đọc 華 - 夏 là "Hoả-Xié" / ( là "HUA-Xia " khi dùng English phiên âm ). ...Chính vì vậy mà có từ ngữ Hoa- Hạ 華 - 夏 đọc thành "Hỏa -xié" theo tiếng "Quang Thoại" ngày nay để tự cho rằng : ta là "truyền nhân" đích tôn của của nhà Hạ !!! ...Việt Tộc thống lỉnh Trung Nguyên từ xa xưa , mà nổi bật là nhà Hạ , Việt , Bách Việt ... ngày nay xét kỷ thấy rằng : các ngôn ngữ cuả người da trắng vùng SIBERIA đã lập ra "TRUNG SƠN Quốc" rồi bị nhà NHà THương thôn tính , rồi CHu thôn tính THương ; Rồi loạn Hung Nô thời Tấn v v..., Xét kỷ ngôn ngữ Siberi , Turky , KHương , Mông Cổ v v... vẩn tồn tại đến bây giờ , đễ người ta có thễ đối chiếu và thấy khác với các tiếng nói phương ngôn Việt và tiếng Quang thoại- phổ thông : Đó chính là 1 bằng chứng người SiBeri thời nhà Thương và luôn cả nhà CHu đã bị Việt đồng hóa : vì họ đã không còn sữ dụng những ngôn ngữ "hung Nô" nêu trên... Vì đã bị Việt Đồng Hóa .mà họ tự Xưng là dân tộc "Hoa-Hạ" 華夏 !!! là con cháu của nhà "Hạ夏 "...! Vì Văn Hóa và ngôn ngữ Việt đã đồng Hóa Thương , Chu , và Yến , Nguỵ ( Người Siberi Thời xuân thu -chiến quốc) v v...cho nên tiếng Việt có thêm "1 nhánh mới phía bắc" mà ngày nay người ta gọi là tiếng Bắc-Kinh hay Mandarin , khi có thêm tiếng phía bắc thì 2 tiếng việt Nam Bắc khác giọng và biến âm khó thông với nhau nên người ta chọn tiếng Việt phía nam là tiếng xưa - "có sẵn từ trước "và là tiếng "tiêu chuẩn" đễ làm tiếng "phổ thông" dùng cho thời đó ! -và tiếng Việt đễ "phổ thông " thời đó đã được gọi là "Nhã ngữ 雅 語 " : thời Xuân -THu Chiến Quốc đã gọi Việt Ngữ là Nhã NGữ , Nho Giaó thời đó đã phát triễn mạnh , lịch sử đã được ghi lại khá hoàn chỉnh , cho nên người ta có thể kiểm chứng rỏ ràng 100 % chuyện nầy . "nhã ngữ雅語 " Mặc nhiên trở thành tiếng đễ dùng chung "phổ thông" phổ cập vào thời xuân thu-chiến quốc , và được gọi là "Nhã ngữ" vì nghĩa là : -Nhã : là Đẹp , văn nhã...; Khổng Tử Dạy học củng là dùng "nhã Ngữ" (雅語) . - Nhã ngữ là Việt Ngữ 粵 語 ( 粵 hay 越 hoàn toàn giống nhau , xưa dùng chung cả 2 chử nầy là "Việt" ) tồn tại cho đến ngày nay ờ Tỉnh Quảng Đông và nước Việt Nam . ...Nhưng tiếng Việt Nam lại mang giọng nam nhiều hơn vùng PHiên -Ngung / Quảng Châu và sau nầy laị biến giọng khi tiếp xúc nhiều với tiếng Mường , rồi lại biến âm nhiều khi dùng A , B , C đễ phiên âm . ...Tiếng Quảng Đông chỉ biến gịọng rất it́ dù và vì bỡi tiếng Bắc-kinh ngày càng phát triễn mạnh nhưng vì không dùng Latin a , b ,c đễ phiên âm , không có "sắc , huyền , hỏi , ngã , nặng " cố định cho nên giữ được nhiều âm thanh cổ ..., điều nầy có thể kiễm chứng được khi so sánh với phương cách thuyết văn giaĩ tự của thời Hán đã được Hứa Thận biên sọan trong sách "Thuyết -Văn". Người ta có thể phục chế ngôn ngữ bằng cách nắm vững quy luật biến hóa cuả ngôn ngữ , người ta nghiên cứu 1 vùng "Việt" ngày xưa bị "hung nô " xâm chiếm rồi biến âm và trở thành sử dụng ngôn ngữ mới ...khác âm như thế nào , rồi lại đối chiếu với ngôn ngữ của những nhóm Việt chạy xa ...xuống phương nam , người ta lại tổng hợp , rồi phân tích 1 từ ngữ đã biến thành nhiều âm cuả các phương ngôn khác nhau : đễ tìm ra 1 từ gốc gác căn bản nhất đã biến hóa thành nhiều phương ngôn mà lại rất giống nhau vì cùng 1 gốc... Nhưng tiếc thay ...nhóm nghiên cứu phục chế ngôn ngữ còn it́ ...và lại rất "bí Mật" , và không được Công Bố đễ phổ biến !!! ...Trong thế gíới Của Blogger tiếng Hoa ngày nay -thông tin gần như là duy nhất và được rò rỉ một cách vô tình hay cố ý cuả nhóm phục chế CỔ Hán NGỮ thì Từ ngữ "Thén Thỉnh" Cuả Tiếng Bắc Kinh , "Thín thìn" cuả Tiếng Qủang Đông , "Thenn thénn" của tiếng Triều Châu ...là : Với kết qủa cuả "phục chế Cổ Hán Ngữ " thì những chữ đó ngày xưa có phát âm là "THIÊN_ĐÌNH -天庭 " : nếu như có hàng trăm hay hàng ngàn nhóm nghiên cứu "phục chế Cổ Hán Ngữ " thì kết qủa sẽ to lớn và hùng tráng hơn nhiều , và cũng sẽ ...không còn gì là "bí mật" hay lạ lùng nữa ! Khi Tần Thủy Hoảng thống Nhất "thiên hạ" thì tiếng Việt-Nhã Ngữ được Triều đình "qui định" để dùng thống nhất hóa về chử viết và tiếng nói... ; nhà Tần ra qui địnḥ thống nhất về chử viết , đơn vị đo lường ...nhưng tồn tại chĩ có 15 năm thì bị người Việt của vùng Sở và vùng Việt Giang Đông liên kết lật đổ ...rồi lập nên Triều Hán . Sách " Thuyết văn"( 説文 ) của Hứa Thận - 許 慎 biên soạn và viết ra thời Hán : phần đánh vần của thuyết văn phải đọc bằng tiếng Việt ... (nếu như ai đọc sách đó mà đọc theo giọng "Quang Thoại-Bắc kinh-Mandarin" thì sẻ không đánh vần được rất nhiều chử ) ; Đó là tiếng Việt cổ đại thời Hán và thời Tần và trở về trước nữa ...; Bỡi hoàng cãnh và điều kiện kịch sử : Tiếng Việt Cổ là tiếng còn lưu lại được ở Quảng Đông và Việt Nam ngày nay , thời Nam Việt Vương Triệu Đà thì Quảng Đông - Việt Nam ngày nay là chung 1 nước và ngôn ngữ rất là tương đồng giữa các vùng bắc và nam , đông và tây dù có khác giọng Âu , Lạc , Mân ...; Còn tiếng Việt gần biễn đông Thái Bình Dương ở phía bắc là Sơn Đông , Tô Châu , Thượng hải sau nầy bị ảnh hưỡng mạnh cuả giọng Bắc -kinh nên trỡ thành 1 nhánh riêng được gọi là NGô-Việt Ngữ ; Phía nam Ngô-Việt ngữ là vùng Phước kiến, Triều Châu lại bị ảnh hưỡng cuả gịọng nói Ngô Việt mà trỡ thành một nhánh riêng gọi là Mân Việt Ngữ ; Laị có riêng 1 nhánh của người Bộc Việt ở Trung Nguyên thời xa xưa qua bao lần loạn lạc vì chiến tranh mà di cư khắp nơi , nhưng vẩn giử được phần cơ bản ngôn ngữ cuả bộ tộc họ , mà lại trộn lẫn ảnh hưỡng các phương ngữ khắp nơi trên đường di cư nên hình thành tiếng Hẹ / khách-Gia -Hakka ngày nay . và Mân Việt Ngữ trên Đảo Hải-Nam thì có qúa nhiều dân cuả bộ tộc Lê /"Cữu-Lê" _Lê -Việt ngày xưa nên hình thành tiếng Hải Nam , và Việt -Nam thì độc lập và tách riêng trở thành tiếng Việt Việt -Nam ; Những Vùng NGô , Sở và phía bắc thì ngày nay đã bị phát âm Bắc-Kinh / Quang thoại /Mandarin ảnh hưỡng gần như là toàn diện bỡi lịch sử xâm chiếm cuả "hung Nô" và vì đa số triều đình của các triều đại đều đặt tại những vùng đất "Trung Nguyên "nầy trong mấy ngàn năm lịch sữ , nên việc sữ dụng quan thoaị trở thành chuyện đương nhiên . Toàn bộ văn hóa Hạ , Thương , CHu , xuân thu- chiến quốc , Ngô , Việt , Sở ,Văn Lang , Mân , Âu , Lạc Việt , Tần , Hán ...là văn Hóa Việt ; Tại sao goị là văn hóa Việt ? vì quốc hồn , quốc túy đã mang tên Việt ! Việt đã là tên của truyền thống dân tộc cho nên các vương triều mới có tên là Việt chiếm đa số như : Sở ,Tần , HÁN, NGÔ VIỆT , MÂN VIỆT , ĐÔNG VIỆT , DƯƠNG VIỆT , NAM VIỆT , ÂU VIỆT , LẠC VIỆT v v... , Triết học và địa danh cuả sử xưa từ xa xưa đã được định hình và lưu laị cho đến ngày nay ... chử viết đã lưu lại là Đế Đoan Hạn , Đế Cảo , Đế Nghiêu , Đế Thuấn ...chứ không phải là Thuấn Đế , Nghiêu Đế v v...,và Địa danh là Sơn Đông chứ không phải Đông Sơn , Hà Nam chứ không phải Nam Hà , Thượng Hải chứ không phải Hãi Thượng , Quảng Đông chứ không phải Đông Quảng và đảo Hải Nam chứ không phải Nam hải V v.... Chỉ đến khi nhà Hán mất , Thời nhà Tấn có nhiều bộ tộc phương bắc tràn xuống chiếm cứ cái nôi văn Hóa Việt vùng Hoàng Hà , Thái Sơn , sông Hoài , sông Lạc , sông Phần v v...thì văn Hóa Việt cổ ở Trung Nguyên mới bị biến đổi và chỉ có phương nam là còn giữ lại được văn hóa Việt gần nguyên vẹn , ...ở phía nam là vùng : sông Trường Giang và Ngủ lỉnh , phương nam ... Từ thời xa xưa đã có người da trắng di cư xuống nam và lập ra Yến Quốc , đến khi thái tử Yên Đan dùng Kinh Kha mưu Sát Tần Thủy Hoàng là Yến Đã bị Việt Hóa lâu rồi , ngành Khảo Cổ ở bán Đảo Sơn Đông cũng đào được mộ của người da trắng ; Loạn thời Tấn cũng là 1 lần nữa làm xảy ra việc văn Hóa Việt Đồng Hóa thêm 1 số nhiều-rất nhiều- người Turky và và nhiều tộc Hung Nô -Siberi , nhưng , vẫn chính là vì vậy mà văn hóa và ngôn ngữ phía Bắc đã đổi khác thật nhiều với sự lai căn mạnh mẽ bởi tiếng Thổ nhị Kỳ , siberia, Hung nô -Chitan / Khiết Đan v v..do đó mà có tiếng "phổ thông-quan thoại" ngày nay khác xa về văn phạm với Việt ngữ bằng cách Đảo ngược văn phạm Việt , nhưng phát âm thì lại tương đương Việt ...ví dụ : Hoa trở thành Hỏa , "Diệt" trở thành "yué" , "to" lớn trở thành "ta" hay lả chỉ đọc giọng cao hơn là "Tá ,Tó" v v... Sau khi nhà Tấn mất phân nửa đất phía bắc , thì phía bắc có qúa nhiều chủng tộc và ngôn ngữ khác nhau , ...những chủng tộc cuả người mới xâm chiếm trung nguyên thành lập nhiều quốc gia với tình trạng đa chủng tộc và đa ngôn ngữ , thì bắt buộc phải chọn và bị đồng hóa bỡi tiếng "Phổ thông " , chứ mạnh ai nấy giữ tiếng Turky , mông Cổ , Nga , Tạng v v thì sẽ qúa nhiều khó khăn khi giao tiếp ..., và sau nhiều đời thì đã bị đồng hóa bỡi văn hóa Việt , Vì Văn hóa Việt nầy thời đó đã mang danh là nhà "Hán" và "Tiền Hán" , thì khi đã bị đồng hóa rồi thì họ cũng xưng là "Hán"... Sau nầy , Khi Dân số phát triễn và cùng Với Sự phức tạp của giọng Việt ở các miền khác nhau như vùng THái Sơn , Sông Hoài , Sở , Dạ Lang , Mân , Lạc , Âu , An Huy , Hà nam , Tô Châu , Hàn châu , Phiên Ngung , Giao Châu V v...đã bắt buộc mỗi 1 triều đại các triều đình các đời sau luôn luôn phải dùng và bổ túc cách nói và cách viết chung "phổ thông " ở triều điǹh , đó là "tiếng Phổ thông" chung cho bá quan văn vỏ mọi miền ...bao gồm luôn nhửng người mới đã bị đồng hóa : cho nên đả điṇh hiǹh và phát triễn thành tiếng "Quan Thoại" , là tiếng nói "mới " của chung cuả những người củ và mới -đã bị đồng hóa ..đễ "phổ thông" , đễ dễ dùng chung cho tất cả các chủng tộc củ và mới của Trung nguyên ...,vì vậy : cho nên đả -hoàn chỉnh dần dần -và- chính thức- sinh ra tiếng "quan Thoại"- "phổ thông"; do đó : Cần chú ý điều nầy : những cổ văn từ Hán , Tần ...trở về trước thì không phải là "Quan Thoại" hay "Phổ Thông" mà là Việt Ngữ-Nhã Ngữ ; Dù "quan-thoại " đã được hình thành dần dần , nhưng chỉ Đến đời nhà Tùy và Đường thì tiếng Phổ Thông mới được đầy mạnh và phát triễn mạnh thêm 1 lần nữa , bỡi vì Tùy và Đường đều là gốc Hung Nô ở Siberia , tuy vậy , thời đó tiếng Phổ thông chưa đủ để thay thế nỗi cho Việt Ngữ , nên Đường thi là đa số phải đọc theo Việt ngữ ... thì mới đúng theo vần đả gieo trong Đường Thi ( Chú ý : Thơ văn từ Tống < Đường trở về trước là Việt , phải đọc theo giọng Việt , nhưng củng có 1 số ít dùng theo tiếng "Phổ thông-Quang Thoại " do những người "mới" đã viết ra ...mà truy nguyên ra sẽ thấy Họ là họ nhà làm quan cha truyền con nối nên đã chỉ rành và chỉ biết "quan thoại " hoặc họ chính là dòng người Hung-Nô , Siberi ...ví dụ như điễn hình là nhà thơ Lý Bạch / lý Bạch gốc Hung Nô-Siberia ) . Sau nhà Đường là nhà Tống ..., Tống -Từ và Đường Thi điều phải đọc theo giọng Việt ...Bởi vì tiếng việt "xưa" tiếp tục vẩn còn mạnh ; Nhưng rồi Nhà Tống bị mất bỡi nhà Nguyên của tộc Mông Cổ ...làm thay đỗi lớn , Tiếng Bắc-kinh / phổ thông lại lớn -và mạnh thêm ... Văn chương xa xưa từ trước là nhà Hán , Tần v v...thì văn phạm Việt rỏ ràng :Ví dụ ... , Người Mân Việt là người Triều châu từ xưa đến nay vẩn dùng từ "CÔI -BÓ 雞 母" ( Gà mẹ ) cho đến ngày nay , -"Côi" là "kê" của tiếng Việt cổ đại mà bên đạo Phật ở Việt Nam ngày nay vẫn còn nhiều người biết ..., ''côi 雞 '' là Kê/Gà , ''Bó 母 '' là ''Po'', là "a-phò" , là "bà" , "bà mẹ" , "mẹ", -"Côi bó" là "gà mẹ" ; Đối chiếu "Côi bó" hay "gà mẹ" với văn chương tiền Tần-Hán thì thấy rỏ văn phạm và phát âm bị gọi là "cổ Hán ngữ" đúng là như vậy và chính là Việt ngữ , và xa xưa thì sách thời tiền Hán đúng là dùng là : 雞 母 . -Côi Bó雞 母= Gà mẹ ; chử Gà là "kê"雞 -viết trước- : Văn Phạm tiếng "Việt" . -ngày nay tiếng Bắc kinh dùng là "Mẩu -kê 母雞 " với chử Gà là "Kê"雞 viết sau : văn phạmBắc kinh/ Phổ-Thông hiện giờ . => rỏ ràng thời Tần , Hán và trở về trước thì ngôn ngữ toàn là Việt. -xưa : tra cổ thư thấy viết là "bộ hành 步行 " : nghiã là Bước Đi ( chử Hành 行 là "Đi"... phải viết phía sau ) ,chứ không phải "hành lộ 行路 " như hiện giờ ( Chử Hành 行 là "Đi"... viết phía trước ) . - Xưa viết là "Mắt" 目 chứ không viết là "nhản tinh"-眼睛 như bây giờ v v.. =>quá nhiều bằng chứng và quá rỏ ràng là trước đây là Hán , Tần , xuân thu-chiến quốc , Chu , Thương , Hạ , Ngủ Đế , Tam Hoàng v v...xa xưa là văn hóa và ngôn ngử là Việt . Đến khi Mông Cổ thôn tính trung nguyên và lập ra nhà Nguyên qúa lâu , thì tiếng Phổ Thông chiếm thượng phong , nhà Minh lật đổ nhà Nguyên , cố khôi phục lại ngôn ngữ , nhưng khi dời thủ đô từ phía nam lên vùng Bắc -Kinh thì quan và triều đình lại phải dùng "quang -Thoại"... , nhưng ...và rồi lại đến 1 nhánh Hung Nô khác là tộc Nữ Chân -của vùng Mản Châu lập nên nhà Thanh , tiếng Phổ Thông -Bắc kinh tiếp tục "lên ngôi" và đồng hóa người tộc Mản/ Kim , Triều đình Mản Thanh bắt buộc thi cử tuyễn "Trạng nguyên" , "tiến-Sĩ" V V...là phải thi tuyễn bằng tiếng Phổ-Thông / Quang Thoại .... , vùng Lưỡng Quảng là Quảng Đông và Quảng -Tây chống đối , vẫn chỉ thi bằng tiếng Việt , Vủng Mân Việt là Phước -Kiến , Triều Châu thì dung hòa thi bằng song ngữ Quan-Thoại và Mân Việt Ngữ ....; Nếu gộp chung lại là "Thương"-Bị ảnh hưỡng bỡi Bạch Địch Siberia , "Chu" , "yến" , Ngụy" , "kim" , "liêu" ,"Tây Hạ" v v...thêm vào nhà "Nguyên" và "Mản Thanh" tính chung cộng lại hàng ngàn năm bắc thuộc "Hung Nô" làm cho vùng Hoàng Hà và bán đảo Sơn Đông -Trung Nguyên đả bị ...trở thành "Văn hóa Việt đồng hóa ngoại tộc " : Trở thành văn hóa "phổ thông" -mà thành phần mới nầy lại rất là mạnh và xưng...là dòng dỏi của "Hạ" ," Hán " , xưng ...là " Hoa Hạ " tộc ! ...xưng là " Hán " tộc với tiếng nói là tiếng Phổ Thông - Quang Thoại ! -Và sau nầy còn có tên là tiếng "Bắc Kinh " hay là "Madarin "- (Mandarin là Do phiên âm từ chử Mản Đại cuả Triều Mản -Thanh bỡi người Tây Phương " ....; Họ đọc chử Hạ夏 là "Xia" ...TRONG KHI SỬ SÁCH CỦA "HẠ 夏" LÀ VIỆT TỘC VỚI VĂN PHẠM Và NGÔN NGỮ RỎ RÀNG ...đọc là " Hạ " . Sau khi nhà Thanh bị Mất bỡi Tôn Dật Tiên làm cách mạng ..., nước "Trung-Hoa" mới được thành lập , Việt ngữ phương nam đã được cân nhắc làm tiếng Phổ thông để dùng thống nhất , nhưng vì trong hàng ngũ tướng lãnh có qúa nhiều người phương bắc sử dụng tiếng Phổ Thông , nên vì đại cuộc mà một lần nữa tiếng Phổ thông-Quang Thoại -Mandarin lại được chọn làm tiếng "Phổ-Thông". _Và điều đó tiếp tục ảnh hươn̉g trở thành hiện traṇg ngày nay... Khi HỨA THẬN Biên soạn "TỰ ĐIỂN" THUYẾT VĂN Thời HÁN Thì chữ ''HẠ'' Vẫn là được ghi phiên âm là : 胡 雅 切= Hồ Nhả Thiết " , hồ nhả thiết...,nghiã là ...Hồ a ha . Hạ 夏 ", đó là tiếg Việt : Khác xa với "phổ thông là "Xia 夏 ". Chú Ý : Xin đón xem bài bài khào cứu " Thuyết Văn " ... Theo Tôi thấy : =>Chỉ khi nào có việc sách THUYẾT VĂN ...để giải tự của Hứa Thận thời nhà Hán mà lại đánh vần chử "HẠ" là " x-i -a -xie =xié ",và toàn bộ những chử khác trong thuyết văn phải đọc theo giọng "Phổ thông-Bắc kinh" thì người ta mới tin được là có 1 nền văn Hóa gọi là "Hoa-Hạ" hay "Hán" có trước văn hóa Việt . =>Chỉ khi nào có việc triều Hán không nói tiếng Việt mà lại có riêng 1 thứ tiếng "Hán !" thì người ta mới nên nghỉ tới những lập luận : Hán ngữ , Hán tộc , Hán hóa những dân tộc khác , v v....; Nhưng chĩ riêng 1 quyển "tự điển"/ "Thuyết Văn" của triều đại mang tên Hán 漢 do Hứa Thận biên soạn cũng đủ chứng minh tất cả Hán là Việt : 越 / 粵 ...bởi phát âm của từ điển , của ngôn ngữ là Việt 越 ; Vậy thật ra là Việt Hóa 越 化...các tộc khác . .=> -Và đặc biệt là nên phải nhấn mạnh và lập lại điều nầy : tất cả NHỮNG CHỬ KHÁC trong TOÀN BỘ SÁCH "THUYẾT VĂN" của Hứa Thận thời nhà Hán PHẢI ĐỌC THEO TIẾNG VIỆT ̣( đã biến thành mấy phương ngôn Việt ngày nay ).../ Nếu như đọc theo tiếng "Mandarin-quang thoại" thì : thứ nhất là đánh vần sẽ sai , thứ hai là đọc được 1 it́ chử trùng hợp thôi , và thứ ba là có chử sẽ không đánh vần phiên âm được : Điều nầy có thể kiểm chứng dễ dàng bằng cách mở sách "thuyết Văn" của Thời Hán ra mà Đọc thử ... =>Và ĐƯỜNG THI Với TỐNG TỪ PHẢI ĐỌC THEO CÁC PHƯƠNG NGÔN VIỆT ...mới đúng vần , mới hay... -...=>Và KHỔNG TỬ DẠY HỌC BẰNG NHÃ NGỮ tiếng VIỆṬ̣( 雅語) , NHÀ CHU VÀ NHỮNG NƯỚC THỜI XUÂN THU -CHIẾN QUỐC PHẢI DÙNG NHÃ NGỮ VIỆT ĐỂ LÀM TIẾNG "PHỔ THÔNG'' KHI GIAO THIỆP...LIÊN LẠC , tất cả những điều nầy được ghi trong nhiều cổ thư , bằng chứng vẫn còn đó và qúa nhiều bằng chứng ... Tất cả sách diển giải sử của từng thời đại đều khó thoát khỏi "tư tưởng sử" của THẾ LỰC Chính Trị của mổi 1 thời đại ! Nhưng hảy dùng khoa học nghiên cứu về NGÔN NGỮ , PHONG TỤC , khảo cổ , di truyền , tôn gíao ,thiên văn , địa lý , toán học v v... để lý giải bằng tinh thần Chân , Thiện , Mỷ thì lịch sử sẻ ̣được sáng tỏ ...; Chúng ta không có máy thu âm thời cổ sử để lưu lại tiếng Việt thời xưa : Nhưng đả có VIỆT TUYỆT THƯ , và có thể tham khảo Chiến Quốc Sách , Ngô Việt -Xuân Thu , Tứ Thư -Ngủ Kinh , Thuỷ kinh chú ,Tiền Hán Ký , Hán Thư , Sử Ký , Tống Sử , Minh Sử , Thanh Sử -Tứ Khố Toàn Thư , Quảng Châu Ký v v...và bên cạnh sách sử của nước Việt-Nam ; Về văn hóa dân giang còn có những bài Đường Thi , Tống Từ , còn Việt Kịch của Giang-Tô , Chiết Giang , những văn hóa , và phong tục dân giang ...và đặc biệt là có sách "Thuyết Văn " với ghi chú cách đánh vần Việt rỏ ràng ở thời nhà Hán của Hứa Thận , cộng thêm có nhiều ngôn ngữ Bách Việt còn tồn tại cho đến ngày nay như Bộc Việt ,Ngô Việt , Mân Việt , Lê Việt ̣( tiếng của người dân sống trên đảo Hải Nam ) ,Lạc Việt , Việt v v..., Tất cả chi tiết trên đã là bằng chứng sống động cho thấy Văn Hóa người Việt đã trải rộng và đồng hóa biết bao dân tộc khác ở Trung Quốc từ ngàn xưa cho đến hiện thời...; Những sự ngộ nhận và diễn giải sai lầm ý nghiã chung quanh chử Hoa và Việt bởi các thế lực chính trị để tranh dành vai trò "chính Thống" và "quyền lực" đã làm gây ra phân ly và chiến tranh và đau khổ cho biết bao muôn dân của đại gia đình Bách Việt. Có 1 thuyết cho rằng nước Việt cuả vua Câu Tiễn không phải là con cháu của vua Vủ nhà Hạ như Việt Tuyệt thư đã ghi chép , vì vua Việt mang họ Mi , sau đổi họ Lạc , trong khi nhà Hạ mang họ 姒-Tự, lập luận nầy rất quang trọng và cần chú ý , Xưa hay đỗi họ do được phong Quan và Đất v v..Các đời tổ tiên trước cuả Vua Vủ cũng thay đổi Họ nhiều lần , THuyết trên không đủ bằng chứng thuyết phục đễ bải bỏ những gì đã được ghi chép trong Việt Tuyệt thư , bỡi vì Việt thư ghi chép qúa rỏ ràng ; muốn phủ nhận Việt thư không phải là dễ . Có thuyết cho rằng người Việt là THổ dân lâu đời ở 1 vùng rộng lớn , lập ra nhiều nước Việt nhỏ và trong đó có nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn , thuyết nầy được các nhà nghiên cứu sử "tin Cậy" hơn , bỡi vì khảo cứu theo thực tế lịch sử thì nhóm Việt cư trú trên địa bàn qúa rộng . Tại sao người ta không nhập 2 thuyết làm 1 ? Và Còn chuyện đỗi họ vẫn đầy vẫy trong lịch sữ xa xưa cũng như sau nầy , họ Mi , họ Lạc cũng đổi làm họ ÂU và Âu_Dương ở vùng Âu giang của Âu Việt , Họ Mi cũng đỗi thành Họ Sỡ ..., Họ Lạc khi chạy loạn cũng đỗi thành họ LA , Họ Lai đễ giữ an toàn ... ; Và từ cổ xưa cũng thế thôi , ở đâu thì gọi theo tên đó lâu ngày thành họ mới , đất Trịnh , đất Triệu , đất Ngụy v v...đều tạo ra họ mới ; xưa có họ Cơ là vì sống ở sông Cơ , lâu ngày thì được gọi là Cơ , Họ Khương là vì ở sông Khương V v....; nên nghĩ đến là nhóm Việt trải rộng trên 1 địa bàn bao la bỡi vì giỏi dùng ghe thuyền , cho nên theo bờ biễn và theo dòng sông di chuyển , di cư rất dễ dàng ? Dù không phải là du mục , nhưng còn phương pháp du canh đốt rừng làm rẩy , đễ tiã lúa khô , trồng kê , bấp , đậu , khoai trên cạn ...cũng đòi hỏi phải di chuyển hoài đễ đốt rẩy mới là có thu hoạch tốt hơn cho mùa trồng tiã kế tiếp , như hiện nay chúng ta vẫn hiểu và thấy rỏ qua lối du canh , du cư , ... Câu "khoai đất lạ , mạ đất nhà " cũng là 1 lý do đễ phải "di cư " ..., hiện nay thì việc trồng lúa và nuôi heo đã được xát định là của Việt tộc biết làm sớm nhất... , gia đình , dòng họ , gia phả , xả hội , đời sống và thực phẩm phong phú , ở đâu có người Việt là ở đó có trái bầu và rau qủa v v..., văn minh nông nghiệp cũng tạo ra âm lịch và quang sát thời tiết , bầu trời , thiên văn-địa lý , sau nầy còn có đoàn quân Hổ và Voi ra trận xông pha chiến trường của Mạnh Hoạch và của Hai bà Trưng , đời sống thực tế cuả người Việt mới thật là lạ và hay cho những sáng kiến và ứng dụng , thuyết nhất nguyên Thái cực sinh lưỡng nghi của vùng đất Sở thật là cao thâm khó lường , vẽ bùa và thần chú của vùng Mao-Sơn (Cối-kê) , yêu tinh hay thần thánh nhập xác người dùng cây nhọn xuyên gò má , xuyên lưỡi , cắt lưỡi lấy máu làm bùa vùng Phước kiến- Triều châu thật lạ lùng đặt biệt , gọi hồn , xem phong thủy địa lý , tử vi , bói toán thuật số , thư-trấn-yếm bùa đối với người và công tr̀inh xây dựng thật là huyền bí , nghiên cứu vỏ công , thế trận-binh thư , nhạc cụ , thi ca , tiên tri , khoa học v v..., chế tạo thuốc pháo , giấy , xe , ghe , nhà sàn , thành quách -cung đình , đền thờ- lăng tẵm , vủ khí , mỷ phẩm , y dược v v...; những người khảo cứu lịch sử Bách- Việt còn hay nhắc lại những phát hiện người Việt giỏi dùng ghe , thuyền di chuyễn trên sông biễn và trồng lúa , cắt tóc ngắn đễ dễ làm việc đồng án ở ruộng lúa nước ... ? có tục xâm mình , vẽ mặt , đội lông chim (điều nầy cũng thấy rỏ ở thổ dân Châu ÚC và Châu Mỹ La-tin), quan niệm sống là "THiên" và "NHân" hợp nhất , khi làm lễ cúng tế thì ca hát và nhảy múa , những từ ngữ "chìa khoá" cuả tiếng Việt có liên hệ với nhóm ngữ hệ nam đảo Thái Bình Dương v v...; người ta ước tính rằng ngày xưa 1 chiếc thuyền bườm (không có́ máy móc cơ khí như hiện nay ) nếu xuất phát từ vùng Cối -kê / Hàn Châu thì chỉ trong vòng 1 tuần lễ là đến nước Nhật hiện giờ... Tiếng Việt thời tiền sử là đa âm , rồi biến dần thành đơn âm , tôi không dám lạm bàn nhiều hơn , không dám đụng đến "chuyên khoa" ngôn ngữ học với mớ kiến thức Lơ-tơ-mơ cuả mình ," lang -thang " và "lênh- đênh" trên 1 biễn taì liệu cổ sử Bách Việt , khảo cứu và đối chiếu với thực tế là sở thích cuả tôi đễ tìm cội nguồn tổ tiên , chuyện nầy rất là bình thường đối với tôi và với biết bao người khác , bài khảo cứu của tôi sẽ chẵng mang lại lợi lộc vất chất gì ! sẽ chẳng có danh hay lợi gì đễ bóp méo sự thật , chỉ là những lời tâm tình và chia sẽ công khai đễ mong những người có tâm huyết nghiên cứu sẽ đưa ra những bằng chứng mà phê phán cho tôi biết là tôi hiểu đúng hay là Sai ...??? Khi qúi vị đọc bài viết nầy : xin phép cho tôi nhắc lại Ca dao Việt ...đễ thấy người Việt Ngày xưa với tiếng Việt đã từng sống ở đâu ... _Gió Động Đình mẹ ru con ngủ Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh ...Bống bồng bông , bống bồng bông Võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên ...Và _Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chử hiếu mới là đạo con ( Động Đình Hồ là hồ nước lớn chính giữa 2 tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ; Thái Sơn là ngọn núi hùng vĩ ở bán đảo Sơn Đông ). Và... Nước đóng băng khi thời tiết băng giá , khi băng tan rồi thì băng lại là nước ..., với thành tựu khoa học và văn hóa khiêm tốn của nhân loaị ngày nay cũng đã bắc đầu vén được bức màn bí mật của DNA và của lịch sử ; trong tương lai thì lịch sử Việt hóa , và lịch sử Việt tiến hóa như thế nào từ xưa cho đến nay ...cùng với những trang sử bị cải biên hay bị ngộ nhận chắc chắn sẽ được làm sáng tỏ rỏ ràng. _Một ngày nào đó ...tất cả tiếng Việt : gồm Hoa ngữ- Phổ Thông -Bắc Kinh của phương bắc ,Bộc Việt-Hakka ,Ngô Việt-Tô Châu , Thượng Hải , Dương Việt-Vùng Kinh Sở và Dương Châu , Giang Tây , Mân Việt-Phước kiến , Triều Châu , Lôi Châu , Lê Việt-Hải Nam , Việt-Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam ,_một ngày nào đó _Vì lý do "Toàn cầu hóa" , hay vì khoa học vi tính và "bàn phím đánh máy hóa" mà tất cả các tiếng Việt nêu trên được đánh vần chung 1 phương cách và bằng cùng 1 loại mẩu tự La-tinh A B C ...thì tât́ cả Việt ngữ nêu trên sẽ lại quay về 1 gốc Việt thống nhất ;Và đó cũng là cách học và hiểu các Việt Ngữ khác biệt nhau hiện nay của tôi là cứ việc phiên âm tất cả trở thành tiếng Việt A B C... thì sẽ thấy được sự tương đồng hay tương đương với tiếng Việt gốc của cá nhân gia đình mình đang dùng- thì sẽ dễ học và dễ hiếu lắm ! Kính bút : Cùng qúi vị đọc giã... -Đề tài "đồng hóa" rất dễ trở thành đụng chạm đến tinh thần "tự ái dân tộc" , với tinh thần cầu và xin tìm được sự thật khi khảo cứu lịch sử ..., xin trân trọng gữi lời chào qúi mến -không phân biệt chủng tộc , vì sự thật khoa học -đến qúi vị nào đã lưu tâm và đọc hết bài nầy ; tất cả mọi ý kiến đóng góp thêm hay phê bình hoặc phản biện đều rất đáng qúi ... Kính chào qúi vị và xin bổ túc thêm những chi tiết và ý khác ở những bài khảo cứu sau ... Nhạn Nam Phi ( Thanh Đỗ ) . Lãn Miên: Tiếng Việt đã được giữ gìn nguyên vẹn nhất, từ phát âm đến ngữ pháp, là ở ngôn ngữ của người Việt Nam ngày nay , hậu duệ đích tôn của Lạc Việt=Bách Việt. Lấy một từ Quốc để lý giải. Từ “quốc” làm sao lại giải thích như từ điển tiếng Việt là quốc=nước được. Nước là Land như Scotland, Thailand. Còn “quốc” là “của nước” (do QT lướt, “của nước”= “quốc”, “của nác”= “quấc”, như cụ Hồ ký tên là Nguyễn Ái Quấc). “Lắm Nác” Việt= “Lạc” Việt= “Trăm Nước” Việt= “Bách” Việt. Của nước=Quốc là chỉ cái chính phủ, đại diện cho Nước, Hán ngữ có từ Quốc Gia nghĩa là cái “nhà của nước” tức cái Phủ, chính phủ là cái nhà cơ quan đại diện cho Nước, gia cũng có nghĩa là người, Quốc Gia là người đại diện Của Nước. (Còn từ Tổ Quốc lại chính là một từ Việt hoàn toàn theo ngữ pháp Việt, Tổ Quốc là Tổ Của Nước, vì Của Nước=Quốc. Về sau bị Hán hóa ngữ pháp thì người ta mới gọi cái ông Tổ của Nước ấy là Quốc Tổ). Chữ Quốc 國 viết ra đúng biểu ý là Của Nước: Một Vuông 口 to bên ngoài là Vùng, biểu trưng cương Vực, bên trong gồm có: chữ Qua 戈 là cây dáo (“Cây dáo của Ta”= “Qua”), biểu trưng đã có chính quyền; một Vuông 口 nhỏ, đó là chữ Văn 文 (cũng gồm bốn nét kẻ, xếp lại, mà người Triều Châu vẫn đọc là “vuông”, người Quảng Đông đọc là “mảnh”, vuông lụa với mảnh lụa thì cũng là một, trong tiếng Việt), biểu trưng đã có văn hiến; một gạch ngang đó là chữ Nhất 一 tức mang ý nghĩa là Việt, vì Việt=1 (còn Vô thì là 0, Vô=0, Vô/Việt tương đương 0/1). Của Nước tức chữ Quốc 國 này đồng thời đồng nghĩa là Của Nước của người Việt, bởi các bộ biểu ý của nó đã nói rõ ra như vậy. Gộp các bộ bên trong Vuông lớn của chữ Quốc thì đó là chữ Hoặc 或, Hoặc là một âm lướt của chữ Hồng Lạc (“Hồng Lạc”= “Hoặc”). Hồng nghĩa là Rộng, Lạc nghĩa là Lắm Nác ( “Lắm Nác”= “Lạc”), Lạc cũng là chữ tắt của Lạc Việt . Vuông 口 to bên ngoài và chữ Hoặc 或 bên trong, đó là chữ Quốc 國, đọc rõ biểu ý thành nghĩa của chữ Quốc 國 là: Vùng đất Rộng của dân Lạc Việt. Chữ Hoặc 或 được dùng trong văn, mang nghĩa là “hoặc” ( “or/and” của tiếng Anh) , có nghĩa là hoặc nước Việt này, hoặc nước Việt nọ trong đám Bách Việt thì cũng đều là cùng một gen và nói cùng một ngôn ngữ Việt cả. Chữ Quốc 國 nghĩa là Của Nước, nó không đơn thuần đồng nghĩa với Nước tức Đất Nước (quốc tế gọi là Land), Đất Nước có thể là chưa có chủ hoặc đã có chủ sở hữu, còn Quốc=Của Nước là vùng đất nước đã có chủ sở hữu tức đã thành lập nhà nước. Từ “Của” trong tiếng Việt có nghĩa là “Quyền sở hữu”, “Của tôi”= “Quyền sở hữu thuộc về tôi”, chẳng phải ngẫu nhiên mà Của=Quyền, là cùng “tơi” theo QT, (trong Hán ngữ thì “của” là “tơ”, “quyền” là “xoén”, “tơ” với “xoén” không cùng “tơi” như QT của tiếng Việt). Về sau để xóa nốt dấu vết Việt trong lý giải biểu ý của chữ, người ta đổi thành chữ Quốc 国 với bên trong Vuông 口 to chỉ có một chữ Ngọc玉, lý giải ngụy biện rằng đó là biểu trưng cho “ngọc tỷ của vua”. Thời Hứa Thận viết Thuyết Văn, viết “trung Quốc 中國” phải hiểu theo ngữ pháp Việt là “trong Của Nước”, chứ thời đó chưa có nước gọi là Trung Quốc như bây giờ. [ Một chữ Trung 中 đó thôi nhưng người ta có thể đọc là Trong=Trung=Trũng=Trụng=Nhúng, tùy theo từng ngữ cảnh mà nó được dùng, đều một nghĩa là ở bên trong hay đưa vào trong. Cũng giống như một chữ Hành 行người ta có thể đọc là Hành=Hạnh=Hàng=Hãng=Hạng, tùy theo ngữ cảnh nó dùng). Bởi thời đó các tên địa danh đều theo ngữ pháp Việt hết, như Sơn Đông 山 東= Núi Đông, Sơn Tây 山 西= Núi Tây, Hà Nam 河 南 = Sông Nam, Thượng Hải 上 海 = Trên Biển (chẳng lẽ Thượng Hải thời đó phải hiểu theo ngữ pháp Hán là Biển Trên tức biển trên trời, ai làm đô thị ở biển được, chỉ có ở trên biển tức trên bờ biển mới làm đô thị được mà thôi – Mời tham khảo bài trên của Đỗ Thành). Thời lương y Lê Hữu Trác, cụ đặt bí danh là Hải Thượng Lãn Ông là theo ngữ pháp Hán, vì đó là thời nhà Thanh, văn bản viết theo Hán hóa ngữ pháp hoàn toàn rồi, theo ngữ pháp Việt thì phải viết là Ông Lãn Thượng Hải tức vẫn có thể đọc là Ông Lười Trên Biển. Mỗi âm tiết mà người Việt Nam phát âm ngày nay là một từ Việt, không có âm nào như người ta gọi là “từ Hán-Việt” cả. Cái âm Thiên Đình từ cổ xưa nó là phát âm chính xác như vậy, như Đỗ Thành đã nói ở trên, nó là từ Việt, do Trên Đỉnh=Thiên Đình (đúng theo QT, Blời=Trời=Trên=Lên=Then=Thiên=Thượng)]. Tại sao Việt lại mang nghĩa là 1, ký hiệu biểu ý là chữ Nhất trong chữ Quốc 國 như đã phân tích ở trên. Bởi vì Vô/Việt là một từ đối nguyên thủy (phải cùng “tơi” theo QT), tương đương cặp số nhị phân 0/1. ( Mà Vô là một từ Việt có gốc do Mô=0, Mô đi cặp đối với Một, Mô/Một tương đương 0/1). Việt là một từ Việt có gốc do từ Chắc cổ xưa là con số 1 trong hệ đếm thập phân của người Việt , từ Chắc đến Chục tức từ 1 đến 10 (còn Lép là con số 0, nên người ta hay “dự đoán Chắc/Lép” hoặc “mặc cả Chắc/Lép”) . Hãy xét từ Biết Chắc, đó là một từ đôi, do ghép hai từ đồng nghĩa nhau là Biết và Chắc để nhấn mạnh ý. “Chắc” tiếng Tày đang dùng nghĩa là “biết”, đó là một từ Việt cổ, một từ dùng để khẳng định, tức con số 1 (number one). Ngôn ngữ nào của loài người cũng dùng con số 1 để chỉ sự khẳng định và con số 0 để chỉ sự phủ định, mà khẳng định tức là Biết (hay Có !) và phủ định tức là Không Biết (hay Không !). Vậy từ 0 tiến lên có 1 tức là có tư duy, tức là Biết, và sự tiến bộ bắt đầu từ con số 1. Chắc=Bắc=Biết=Việt=Vượt (theo QT “tơi” và QT “rỡi”). Bắc mạ là đã biết cách, biết phương tiện, quải hạt thóc mầm xuống bùn cho nó Chắc ở đó như một sự khẳng định sự bắt đầu phát dục của cây lúa. Bắc là đã biết phương tiện để vượt, nên tiếng Nam “chỗ biết để mà vượt sông” gọi là “Bắc”, dù phương tiện dùng là đò hay phà hay cầu (ngày nay cầu bắc Mỹ Thuận đã thay cho phà bắc Mỹ Thuận trước đây). Để có thêm tri thức thì “Bắc thang lên mà hỏi ông trời”. Chắc=Bắc=Biết=Việt, nên chữ Việt dù có viết bằng ký tự gì như 粵,hay 越,hay Việt, thì cái âm đọc của nó 5000 năm nay vẫn thế, là “việt”, có nghĩa là con số 1 (nó ngược với con số Vô là 0, từ đối Vô/Việt như là cặp số đối 0/1 của toán học nhị phân), con số 1 tức Số Dách= Số Nhất, như tiếng Sài Gòn, là “ Number One”. Cho nên biểu thị sự thán phục, khen ngợi, chỉ cần giơ hai ngón tay hình chữ V và phát âm một tiếng “Việt !” là trọn mọi ý nghĩa, để chào nhau, hứa hẹn nhau, cũng được, mà không cần phải bắt chước phương Tây giơ một ngón cái và nói “Number One !”. Do số 1= Chắc, là sự khẳng định, nên nó đã sinh ra các từ để khẳng định mà ta thấy rõ: Chắc=Chắt=Chứ=Chi之=Đi=Đó=Có=Cứ=Cơ=Đỡ=Đã=Được= =Đấy=Đắc 得 =Đích 的 (Hán ngữ hiện đại dùng chữ Chi 之 phát âm là “trư”, dùng chữ Cơ 的 của tiếng Quảng Đông, lại phát âm là “tơ” để biểu thị khẳng định. Nhật ngữ dùng chữ Đấy phát âm là “Đês”, và cũng đặt ở cuối câu để chỉ sự khẳng định)1 like
-
Mất văn hóa là nguy cơ lớn của một dân tộc. Kẻ cướp đất đã nguy hiểm, còn cướp văn hóa thì nguy hiểm gấp ngàn lần hơn.1 like
-
Văn hóa Choang thì tất nhiên không phải văn hóa Hán. Qua những sự kiện này chúng ta thấy rất rõ một di sản văn hóa trống Đồng phổ biến pở Nam Dương Tử mà chính Sử ký và các tư liệu lịch sử Trung Quốc cũng thừa nhận: Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở. Nước Văn Lang: Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Đông giáp Đông Hải, Tây giáp Ba thục. Vua là Hùng Vương. Chỉ có đám tư duy thuộc loại "Ở trần đóng khố" - ông cha 7 đời ăn củ chuối mới ngu ngục mà phủ nhận truyền thống văn hóa của tổ tiên mà thôi. Người Nhật, kinh tế và khoa học đều phát triển. Vậy mà có một tay giáo sư - cũng loại tư duy thuộc dạng "Ở trền đóng khố" - phát biểu : "Không có cơ sở khoa học cho việc dân Nhật là con cháu của Thái Dương thần nữ". Chính phủ Nhật tống cổ về nhà đuổi gà. Bởi vì văn hóa Nhật không có nguồn gốc Hán.1 like
-
Hằng nằm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lễ kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống. Vào năm 40 sau công nguyên (SCN), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng. Năm 42 SCN Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó. Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiển Giang hình tổ kén ở Phong Khê. Trang lịch sử này đã gây nhiều tranh cãi về nhiều vấn đề như là: - Nguyên do khởi nghĩa của Hai Bà vì thù chồng hay vì nợ nước? - Hai Bà lập nên chế độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt Nam chăng? - Ngày lễ kỷ niệm của Hai Bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay 6/3 Âm lịch? - Nguyên do cái chết của Hai Bà là nhảy sông tự tử hay bị chém đem đầu về Trung Quốc? Cho dù có đặt nghi vấn như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị nữ vua đầu tiên tại Việt Nam, một vị vua thành tựu do công sức và tài trí trực tiếp đánh quân xâm lược. Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa do lòng yêu nước chân chính của mình, xuất thân từ giai cấp quí tộc, chứ không phải từ quan niệm đấu tranh giai cấp như nhà sử học xã hội chủ nghĩa lý giải. Hai bà Trưng đã tạo dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam. Ðền thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, Sơn Tây đang trong giai đoạn trùng tu Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong suốt gần 2.000 năm kế tiếp dân tộc ta vẫn không xuất hiện được một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho đến nay? Phải chăng người phụ nữ Việt Nam yếu hèn? Hay là có sự cản trở bởi một huyền lực nào đó xuất phát từ thời gian sau khi Hai Bà Trưng thua trận, đất nước rơi vào sự đô hộ của người Hán, mà lịch sử chưa làm sáng tỏ chăng? Thật vậy nghi vấn đó phát xuất từ hai hành vi cụ thể đầy bí ẩn của Mã Viện sau khi xâm chiếm đất nước ta chưa được lý giải rõ ràng. Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thương Giám Cương Mục (KDVSTGCM), trang 24-25 ghi: “Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh quân đội của hai bà là bọn Ðô Dương đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của Nhà Hán…”. Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Ðạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc... Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh có chép: Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã viện có thề rằng: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Ðó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy. Tướng Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang. Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang. Ba năm sau Mã Viện về nước. A- Trụ Ðồng Mã Viện Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau: I - Sự thật của trụ đồng Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu. Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy. “Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219) “Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này” (KDVSTGCM, Quyển IX Tr.279). II - Vị trí của trụ đồng Ða số sử liệu đã thống nhất vị trí của trụ đồng như sau: - Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh chép: Cột đồng ở về động Cổ Sâm, châu Khâm. - Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Ký của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22 ghi: Mã Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động cổ Lâu, châu Khâm. Tóm lại theo sử liệu trên có thể kết luận là trụ đồng nằm ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán. Một vấn đề cần được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm ở đâu? Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”, thì: Sau khi dẫn chứng lịch sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng kết quả thử nghiệm DNA đã kết luận rằng: Biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên. Sự phát hiện này có thể xác quyết một điều là vị trí trụ đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam qua thời gian đô hộ đã bị Trung Quốc lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm (Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lãnh địa Trung Quốc hiện nay. III - Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý. 1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật. 2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy. 3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý. Do vậy, sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử sẽ được phân tích rõ ở dưới đây. IV- Công dụng của trụ đồng Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp. 1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui. 2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử). Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này. Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn. Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng. Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc? 3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng? Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh? B - KIỂN THÀNH Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử. Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau: - Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng. - Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài. - Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác. Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách. Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng. Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là "kẻ giặc". Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau: Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua... Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng... Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy. Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau: 1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị. Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao. 2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương. 3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn: Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, (Âm: Thủy) tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, (Dương: Hỏa) tượng hình của người đàn ông. Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái. Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch. Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành (Âm thủy) và trụ Ðồng Mã Viện (Dương Hỏa). Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Cởi truồng” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý. Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau: - Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ. - Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?). - Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc. Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây: - Ðặt đúng huyệt vị. - Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm. - Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này. Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách của Việt Nam dạy cho học sinh sau này!!! (Nguồn: Sưu tầm )1 like
-
Đô Dương, Mã bất tiến Đăng ngày: 21:26 13-11-2011 Thư mục: Đường về nguồn cội Đình Hội Phụ, quê hương của các tướng Đào Kỳ - Phương Dung Trong tác phẩm Anh hùng Lĩnh Nam, bác sĩ Trần Đại Sỹ có kể lại câu chuyện khá cảm động của hai vợ chồng Đào Kỳ và Phương Dung, là tướng của Hai Bà Trưng, đóng ở vùng Bắc sông Đuống. Trong trận Cấm Khê Đào Kỳ đã bị thương, về đến Cổ Loa thì mất. Phương Dung tuẫn tiết theo chồng. Câu đối còn truyền lại nói về hai vị tướng này: Vị lý Phục Ba thi, loan giá lâm lưu không ẩm hận Bất ly Tiên trấn giáp, Loa thành qui mã thượng trì thanh. Dịch nghĩa: Chưa bọc xác Phục Ba, cạnh sông xe loan còn vang uất hận. Không rời giáp Tiên Trấn, ngựa về Cổ Loa, vẫn vọng âm thanh. Lăng Đào Kỳ ở Mai Lâm – Đông Anh Câu đối khác tương truyền có ở đền thờ Đào Kỳ - Phương Dung ở làng Hội Phụ: Giao Chỉ tượng thành công dư lục thập thành giai kiện tướng. Đô Dương mã bất tiến hậu thiên vạn tải hữu linh thần. Bác sĩ Trần Đại Sỹ dịch là: Voi Giao Chỉ đã thành công, hơn sáu mươi thành đều công tướng giỏi Ngựa Đô Dương chậm bước, nên muôn ngàn năm sau thần vẫn linh. Tuy nhiên, câu đối này nếu dịch như vậy thì có chỗ không ổn. “Mã bất tiến” đúng nghĩa phải là “không tiến lên được”, không phải là “chậm”. Nếu hiểu là “ngựa Đô Dương” không chịu tiến thì thành ra vì Đô Dương không chịu đi ứng cứu nên Đào Kỳ - Phương Dung mới tử trận và hóa thần? Thật vô lý. Đô Dương là tướng của Hai Bà sau đó còn kiên cường chiến đấu ở Cửu Chân chống giặc. Chẳng nhẽ câu đối ở đền thờ này nói tới chuyện “bất hòa” nào đó giữa Đô Dương và Đào Kỳ - Phương Dung? Hiểu chính xác hơn: “Mã bất tiến” đây là quân của Mã Viện đã không thể tiến lên được bởi sự kháng cự của Đô Dương. Đây là một bằng chứng cho thấy cuộc đàn áp của Mã Viện đã không hoàn toàn thành công như sử vẫn chép. Sau khi Hai Bà mất, Đô Dương lui về giữ Cửu Chân và đã cản được bước tiến của Mã Viện xuống phía Nam. Đô Dương không phải chỉ cầm cự được với Mã Viện trong 2 năm như chính sử viết, mà Mã Viện đã “không thế tiến” được qua đất của Đô Dương. Vậy Đô Dương, người thực tế đã tiếp nối thành công sự nghiệp của Trưng Vương là ai? Sử cũ hầu như không cho biết gì về Đô Dương cả. Người đã ngăn được bước tiến của giặc Mã phương Bắc không thể không có những vết tích để lại. Theo Thiên Nam ngữ lục thì Mã Viện và quân Hai Bà đã giảng hòa và dựng cột đồng làm mốc giới ở Man Thành (Bắc Quảng Tây). Cột đồng Mã Viện dựng nên chính nơi Mã Viện đã không thể tiến thêm được nữa, tức là nơi đánh mốc giữa nhà Đông Hán và nước của Đô Dương. Biên giới này nằm ở nơi Đô Dương trấn giữ là Cửu Chân. “Cửu Chân cương lý dư, địa thượng Bắc Nam công bán tại” (Đền Hát Môn) Rõ ràng Cửu Chân, nơi phân chia Nam Bắc không thể là vùng Thanh Hóa mà phải ở Quí Châu, nơi có Man Thành và cột đồng được dựng. “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là lời đe dọa của Mã Viện sẽ bẻ gãy mốc giới để tấn công tiêu diệt Giao Chỉ. Cột đồng như vậy là hình ảnh tương trưng cho sự bất khuất của quân dân Giao Chỉ chứ không phải là biểu trưng thành tích của Mã Viện. Trong câu đối trên từ “Mã” được dùng để chỉ quân Đông Hán nói chung chứ không riêng gì Mã Viện. Và như vậy đối lại, từ “Tượng” ở vế trên cũng là danh từ riêng, chỉ quân vua Trưng, chứ không phải là chỉ "voi Giao Chỉ" như vẫn dịch. Tượng là phương Tây, Mã là phương Bắc. Một lần nữa lại thấy triều đại của vua Trưng có thể đã được gọi là Tây, cũng như trong câu: “Tiếp Lạc khai Đinh, quan miện xưng vương tam tải sử” (Đền Đồng Nhân) Đinh= Tây, Tượng = Tây. Tới đây ta hiểu vì sao lại có hình ảnh Trưng Vương cưỡi voi. Đó là hình ảnh của vua Trưng trên ngôi Hoàng đế của nước Tượng - Tây - Đinh. Có sách ghi cha của Hai Bà Trưng cũng có tên là Hùng Định, có phải cũng muốn nói Hai Bà là dòng giống vua Hùng ở hướng Tây? Liệu Tượng ở đây có phải muốn nói tới Tượng quận đời Tần? Theo Văn nhân, Đô Dương có thể chính là Khu Liên / Khu Đạt, người lập nên nước Lâm Ấp, và là Đạt Vương của người Choang ở Quảng Tây. Theo gia phả họ Phạm: “Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trc CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Viêt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa...” Dễ dàng thấy rằng Lý Kiên là tên phiên thiết của Liên, hay Lý Khu Kiên = Khu Liên. Thông tin Khu Liên họ Lý, là Đô Dương lại đóng ở Cửu Chân sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng dẫn đến một suy nghĩ khác. Khu Liên hay Đô Dương có thể chính là Lý Thiên Bảo trong cuộc khởi nghĩa tiếp theo vì: - Lý Thiên phiên thiết là Liên. Lý Thiên Bảo = Bảo Liên = Khu Liên. Nơi Khu Liên khởi nghĩa được biết là Tượng Lâm, có thể là gồm Tượng quận và Lâm Ấp, tức là Vân Nam và Quảng Tây. Địa bàn này hoàn toàn trùng với ghi chép về Lý Thiên Bảo ở Ai Lao (đất người Di ở Vân Nam - Quí Châu) và Đạt Vương ở Quảng Tây. Nước “Lâm Ấp” ở vị trí miền Trung Việt Nam ngày nay như vậy không phải bắt đầu từ Khu Liên mà là từ sau khởi nghĩa Bà Triệu vào thời Ngô của Tôn Quyền, với vị vua đầu tiên họ Phạm (Phạm Hùng). Lý Thiên Bảo theo sử Việt chạy về Cửu Chân rồi lập nước Dã Năng ở Ai Lao, lên ngôi Đào (Đoài) Lang Vương. Đoài = Định Đoạt = Đạt, là quẻ Đoài chỉ phương Tây. Như vậy Đoài Lang Vương của người Ai Lao Di có thể cũng là Đạt Vương của người Choang ở Quảng Tây. Nước của Đô Dương như trong các câu đối về Hai Bà Trưng có tên là Đinh hay Tượng, tức là Tây. Nước của Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử lập nên sau này cũng sẽ là Tây, là nước Thục. Thật bất ngờ khi biết khởi nghĩa Trưng Vương đã dẫn đến sự hình thành nước Thục của Lý Phật Tử - Lưu Bị. Như vậy khởi nghĩa Hai Bà Trưng không gì khác chính là khởi nghĩa Hoàng Cân cuối đời Đông Hán. Quân Hai Bà Trưng dùng màu vàng làm cờ hiệu có lẽ muốn nhấn mạnh tính “Lạc Hùng chính thống” của mình theo quốc tổ Hữu Hùng Hoàng Đế. Giặc Mã không tiến được trước quân của Đô Dương – Lý Thiên Bảo /Lưu Biểu ở Quí Châu rõ ràng như vậy chính là quân của Tào Tháo. Dịch lại câu đối ở đền Đào Kỳ - Phương Dung theo nghĩa mới phát hiện: Giao Chỉ, Tượng thành công, dư lục thập thành giai kiện tướng. Đô Dương, Mã bất tiến, hậu thiên vạn tải hữu linh thần. Dịch là: Chốn Giao Chỉ quận Tượng thành công, sáu mươi thành lẻ đâu cũng là tướng giỏi Gặp Đô Dương giặc Mã hết lối, muôn ngàn năm sau mãi mãi có thần thiêng. Nghè Lê Xá thờ Đào Kỳ - Phương Dung ở Đông Anh với câu đối: Cử mục sơn hà vô Hán tướng,Thệ tâm thiên địa hữu Trưng vương .Dịch: Ngước mắt núi sông không tướng Hán Tâm nguyền trời đất có vua Trưng. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng quả là một thời bi tráng. Dưới sự đàn áp tàn bạo của quân Đông Hán, khởi nghĩa vẫn không thất bại mà cả một vùng Lĩnh Nam đã được giữ vững, buộc giặc Hán phải cắm mốc phân biên, khai mở một triều đại mới của người Việt là nước Thục của họ Lý.1 like
-
24 Loại Ngạ Quỉ
tnd liked a post in a topic by wildlavender
Ngạ Quỉ Thứ Mười Bảy: 17.- Ngạ quỉ nầy tên NIMUGGA thân hình xấu xa, thịt da cứng rắn, thối tha, dính đầy những phẩn, luôn luôn cấm đầu xuống hầm phẩn ngộp thở, phải ăn uống đầy chướng bụng, mới trồi lên được; khổ não vô cùng, rồi cũng phải cấm đầu xuống hầm phẩn nữa, luôn luôn như thế ấy. Ngạ quỉ nầy là người trước kia tâm tánh đê tiện xấu xa, lén lúc tà dâm vợ con người, bất cần già trẻ, lại còn hành hạ vợ nhà, làm oai cho kiêng sợ, giả bộ tánh tình như người trong sạch ngay thật, nhưng vắng mặt vợ lại mèo mỡ, vợ nhà chịu đau khổ. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sa vào cảnh địa ngục, bị quỉ sứ bắt leo lên cây gòn bằng sắt cháy đỏ có gai thật bén, leo lên leo xuống, lủng xẻ mình mẩy, đau khổ hằng triệu năm; khi còn sót quả, sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười Tám: 18.- Ngạ quỉ nầy tên SUKARA hình tướng dị kỳ, mình người đầu heo, trong miệng có đuôi mọc ra trám đầy cả miệng, ăn uống chi cũng không được, phải chịu đói khát khổ sở vô cùng, lại có giòi bò lúc nhúc, rút vào miệng lở lói hôi thúi như thây ma, đau khổ thật lâu đời, thường ở nơi rừng sâu núi thẳm, hoặc gần núi Kỳ Xá Quật. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người không biết đạo đức, tánh nết đê hèn, không có lòng thành thật, thường hay nói láo, nói đâm thọc làm cho người chia rẽ, có khi lại nói phao vu để hảm hại người, khi thì nói lời độc ác, chửi mắng không kiêng nể ai. Do nhân ác đã gieo, nên khi chết, phải sa vào A tì địa ngục, bị lửa thiêu đốt thật lâu đời; khi sót quả, tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Mười Chín: 19.- Ngạ quỉ này tên MANGULI, là ngạ quỉ có hình tướng dị kỳ, trông đáng ghê sợ, da thịt xù xì, lông lá xồm xoàm, cùi lác đầy mình, mùi thúi tanh hôi không ai chịu được, răng hô ra chổm chổm, trôi nổi trên hư không; những con kên kên, ó, diều, có bầy có lũ áp lại cắn mổ đau đớn, khóc la thảm thiết, mắt lộ ra như chim ụt, bụng lớn như trống cái, tay chơn cong queo. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người phụ nữ lên đồng cốt, giả dối cho là linh thiêng, lường gạt người để uống rượu và sát sanh để cúng quỉ thần, mưu sĩ đủ cách để bốc lột người. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sa vào cảnh địa ngục nước chua (như a xit); thứ nước nầy khi đụng vào mình thì làm cho đau rát và thành lở lói da thịt từ nhỏ ra to, đốt nóng chết đi sống lại, đau khổ thật lâu đời; khi còn sót nghiệp ác ấy, tái sanh lại làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mươi: 20.- Ngạ quỉ nầy tên CHÀTAKA, có cả mấy muôn, thân hình ốm gầy còn da bọc xương, đói khát phi thường; có lối 90 kiếp quả địa cầu không quần áo cơm nước chi cả, đói khát đến đỗi đứng lên té xuống, mệt xỉu ngất người, khóc than thảm thiết. Ngạ quỉ nầy kiếp trước kia (thuở Đức Phật Vipassì) là người giúp việc làm phước cho 3 vị thái tử để dâng cúng vật thực đến Đức Phật và 10 muôn chư Tăng, nhưng khi nấu chín xong, chưa đến giờ thọ trai, Đức Phật và chư Tăng chưa tới, con khóc đòi ăn, ban đầu múc bới cho vợ con ăn chút ít, sau cùng rồi họ cùng lấy ăn theo (vật thực để dâng cúng đến Đức Phật và chư Tăng nhưng họ lấy ăn trước). Do tội ăn trước vật thực dâng cho chư Tăng, nên khi chết, phải sa vào địa ngục, bị lửa thiêu đốt thật lâu đời; còn sót quả, phải tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mốt: 21.- Ngạ quỉ nầy tên KUKKUTA, nhiều vô số kể, đầu láng tròn không tóc, ốm gầy, bụng phình lớn ra như trống cái, chân cẳng xẹo xọ, ban ngày tay cầm búa to, kiếm đập đầu chảy máu, dầm dề bể nát cả sọ, sưng hết mình mẩy, ban đêm lại thì lửa cháy dữ dội đầy cả mình, phỏng lở đau khổ kêu cha mẹ khóc than, nghe thảm thiết. Khi sáng ra, lửa tắt hết lại cầm búa đi kiếm nhau đập nữa, thả không lo làm ăn, tối ngày chỉ lo đá gà, đá cá, chọi trâu để cá nhau ăn tiền, cờ bạc rượu chè, nuôi gà đầy nhà; nếu đá ăn thì vui mừng hớn hở, uống rượu lè nhè; nếu đá thua thì làm thịt uống rượu, chẳng chút từ tâm, ăn năn hối hận. Do nhân ác đã gieo, khi chết, phải sa vào địa ngục, bị lửa đốt thật lâu đời; khi còn sót quả, tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mươi Hai: 22.- Ngạ quỉ nầy tên ASÌSA, hình tướng lạ kỳ hơn các thứ ngạ quỉ khác, có mình nhưng không đầu, mắt mũi miệng mọc ngay giữa ngực, tay chơn cong queo, bụng lớn như trống cái, có những kên kên, ó, diều bay lại có bầy, cắn mổ luôn luôn, máu mủ chảy đỏ dầm dề đầy mình, trôi nổi trên hư không, đau đớn khóc than, tiếng nghe ghê tởm. Ngạ quỉ nầy kiếp trước kia là người tánh tình hung tợn, nóng nảy như lửa, chém giết người không gớm tay, là giám sát trong xứ Vương Xá (Ràjagaha), chém đầu người vô số kể, chẳng chút từ tâm. Do nhân dữ đã gieo, khi chết, phải sa vào cảnh A tỳ địa ngục thật lâu đời; còn sót quả, tái sanh làm thứ ngạ quỉ không đầu nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mươi Ba: 23.- Ngạ quỉ nầy tên SATTHIKUTÀ, thân hình cao lớn như núi, có lối 60 cái búa sắt cháy đỏ hừng, lớn bằng tảng đá, bay lên bay xuống, đập vào đầu ngạ quỉ nầy sưng lên, bể tan nát rồi huờn lại như cũ, bị hành luôn luôn như thế ấy, đau khổ rên la thảm khốc, thường ở nơi rừng sâu núi thẳm. Ngạ quỉ nầy kiếp trước là người tánh tình nghênh ngang phách lối, biết nghề bắn đạn thật tài, gặp Đức Phật Độc giác đi khất thực, làm phách bắn chơi, làm cho Ngài phải lủng lổ tai bên nầy thấu qua bên kia. Do nhân ác đã gieo, nên khi chết, phải sa vào cảnh địa ngục bị lửa đốt thật lâu đời; khi còn sót quả, phải tái sanh lại làm thứ ngạ quỉ nầy.Ngạ Quỉ Thứ Hai Mươi Bốn: 24.- Ngạ quỉ nầy tên PABBAJITA, mang sắc phục người tu, lửa cháy rần rộ đầy cả mình, trôi nổi tới lui trên hư không, nhiều không số kể, đau khổ khóc than, nghe buồn thảm còn hiện đến bây giờ. Ngạ quỉ nầy kiếp trước kia là bực xuất gia trong thời kỳ Đức Phật Ca Diếp (Kassapa), không thu thúc trong giới hạnh, ăn ngủ suốt ngày, phá giới đủ điều, nhưng không chịu ăn năn sám hối, tham muốn quá độ, nuôi mạng bằng cách tội lỗi và tà vạy, bợ đỡ người thế, muốn được nhiều danh lợi, không cần mẫn thực hành chân chánh giáo lý của Đức Phật. Do nhân dữ đã gieo, nên khi chết, phải sa vào địa ngục, bị lửa thiêu đốt thật lâu đời; còn sót quả, phải tái sanh làm thứ ngạ quỉ nầy.1 like -
Các bạn không post bài để được tư vấn trong phạm vi topic này!1 like