• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 01/02/2012 in all areas

  1. Bị ngăn cản kết hôn vì không hợp tuổi Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. From: Xuân Thu Sent: Thursday, November 25, 2010 2:44 PM Kính gửi các anh chị Ban biên tập mục Tâm sự! Tôi viết câu chuyện của tôi với mong muốn duy nhất là có thể chia sẻ lòng mình cả với những người tôi không hề quen biết dù câu chuyện của tôi có lẽ đã thuộc vào đề tài quá cũ. Hơn 4 năm trước đây tôi đã gặp và nhận lời yêu người yêu tôi bây giờ. Tình cảm của chúng tôi đã trải qua rất nhiều sóng gió với hiểu lầm, không liên lạc và xa cách. Nhưng khi gặp lại nhau vào năm ngoái, cả hai chúng tôi đã quyết định quay lại. Chúng tôi là tình yêu đầu đời trong sáng và đã có rất nhiều kỷ niệm vui buồn, những lúc vượt qua khó khăn luôn ở bên nhau. Giờ đây khi cả hai có công việc ổn định và có thể tiến đến hôn nhân thì tình yêu của chúng tôi cũng đang đi đến lúc bế tắc vô cùng chỉ vì một lý do duy nhất: tôi và anh kỵ tuổi nhau. Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Đọc đến đây có thể rất nhiều người sẽ nói rằng thời buổi nào rồi mà còn coi trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nhưng có thể các anh chị nằm trong số ít không coi trọng chuyện này. Trong khi đó người Việt Nam rất xem trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nếu lấy nhau trong sự ngăn cản quyết liệt của gia đình 2 bên hẳn tôi và anh đều sẽ không thực sự hạnh phúc. Tôi có thể khẳng định chúng tôi yêu nhau rất nhiều và tình yêu đã đủ lớn, đã được thời gian chứng minh. Nhưng tôi cũng không hiểu sao giờ đây tôi đang quyết định không liên lạc với anh để chúng tôi suy nghĩ lại chuyện này. Tôi có cảm nhận rằng tình yêu của tôi sắp ra đi. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. Các anh chị ai đã có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này xin hãy chia sẻ cùng tôi. Hiện tại tôi cảm thấy hụt hẫng trong lòng. Rất mong Ban biên tập đăng bài viết này của tôi để tôi có thể tìm ra hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Chân thành cảm ơn anh chị! Thu http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/11/3BA237EF/ Hai mối tình của tôi đều tan vỡ vì không hợp tuổi Khi cô ấy nghe nói không hợp như vậy thì tinh thần yêu đương tan biến đi đâu mất và xoay 180 độ. Cô ấy nói thôi mình chỉ có duyên phận tới đó, dừng lại là đúng mức rồi. Tôi nghe mà không tin vào tai mình nữa. (Hung) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23EAB/ Đau khổ khôn nguôi sau mối tình kỵ tuổi Phải chia tay anh, tôi hụt hẫng, đau khổ, mất niềm tin. Hơn một năm đầu tiên tôi đã đi tìm anh, nấp ở một góc nào đó để đợi anh đi làm về, để thấy bóng dáng anh cho đỡ nhớ, cho đến ngày anh có người khác thì tôi không còn đến tìm anh nữa. (Hien) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23E2C/ -------------------------------------- Bài trả lời của TTNC Lý Học Đông Phương Kính gửi ban biên tập mục Tâm sự và quý bạn đọc, Mấy hôm nay chúng tôi theo dõi mục tâm sự và cảm thấy khá bức xúc vì các vấn đề về tuổi hợp hay không hợp trong hôn nhân. Là những người đã và đang nghiên cứu văn hóa truyền thống, nghiên cứu hệ thống lý học Phương Đông nên chúng tôi cũng muốn có đôi lời chia sẻ với quý bạn đọc.Chúng tôi viết bài này nhằm cung cấp cho quý vị quan tâm một cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tuổi và tương tác tuổi trong mối quan hệ nam nữ. Trong truyền thống văn hóa Á Đông, lúc cưới vợ gả chồng thì những người có tuổi trong gia đình đều quan tâm đến vấn đề luận tuổi. Nhưng qua thời gian cũng như thăng trầm của lịch sử, ngày nay, việc luận tuổi đã bi thất truyền dẫn tới những quan niệm chưa chính xác, lệch lạc và trở thành một nỗi lo sợ vô lý cho các cặp trai gái yêu nhau muốn tiến đến hôn nhân. Và cũng qua cả ngàn năm nay, sự thất truyền, tam sao thất bản đã dẫn đến những phương pháp luận tuổi không đầu không đuôi, gây ra những cảnh dở khóc dở cười, chia ly vô cớ và đầy nước mắt của những đôi yêu nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay đa số các “thầy” xem tuổi đều áp dụng phương pháp cung phy. Có 8 cung phi cho nam (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn) và 8 cung phi tương tự cho nữ, kết hợp lại sẽ cho ra 64 trường hợp, hay còn gọi là 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Khảm, Đoài – Ly, Cấn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ : Sinh Khí – Diên Niên – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy chỉ có 64 trường hợp tương tác tuổi. Chúng ta thử làm phép tính nhỏ, với nhân loại mấy tỷ người mà chỉ có 64 trường hợp để xem tốt xấu thì xác xuất giống nhau là rất lớn. Cứ 64 cặp thì có 1 cặp giống nhau. Có thể thấy rằng đây là điều thiếu logic. Ngoài ra, còn có phương pháp ít phổ biến hơn, đó là phương pháp Cao Ly Đồ Hình. Phương pháp này lấy 10 thiên can theo tuổi nam phối 12 địa chi theo tuổi nữ, sau đó sẽ có 1 bảng phân loại và định tuổi cát-hung. Nếu ta lấy 6 tỷ người trên thế giới và giả định có 1 tỷ cặp vợ chồng với trung bình có 4 con một cặp (ứng với 6 tỷ), đem chia cho 120 trường hợp thì ta sẽ có: 1000. 000. 000: 120 = Gần 8.300.000 triệu cặp vợ chồng có chung một hoàn cảnh. Chỉ cần 3/ 10 trong số 120 trường hợp phối cung đó chia ly hoặc chết thì ta sẽ có 8.300.000 x 36 = 298. 800. 000 cặp vợ chồng ly tan. Và hơn 1 tỷ trẻ em mồ côi trên thế gian này. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng trong dân gian vẫn lưu giữ và truyền miệng những câu như “Dần Thân Tỵ Hợi” “Tý Ngọ Mão Dậu” “Thìn Tuất Sửu Mùi” là Tứ hành xung, hoặc “Canh cô Mậu Quả”, “gái tuổi Dần”, nhưng người ta quên rằng đằng sau những câu trên là cả 1 hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh các mối quan hệ của Thiên can, Địa chi, mạng. Qua các phương pháp trên, các bạn cũng có thể nhận thấy thiếu sự hợp lý và khập khiễng trong phương pháp luận tuổi. Nhưng đáng tiếc là sự coi tuổi khập khiểng này đã tồn tại trên thực tế và ăn vào tiềm thức của các bậc ông bà cha mẹ, làm họ tin một cách mù quáng. Các phương pháp coi tuổi vợ chồng khập khiễng trên từ những vị thầy nửa mùa, chẳng hiểu thấu lý, nên vô tình đã để lứa đôi tan nát. Để thay đổi những quan niệm sai lầm trên, chúng tôi cần thấy phải có một phương pháp hoàn chỉnh, logic, nhằm giúp cho những đôi lứa yêu nhau đến được với nhau. Chính vì vậy chúng tôi, những người làm công việc nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã tổng hợp, nghiên cứu và kiểm nghiệm để có được một phương pháp luận tuổi đúng đắn, hợp lý và mang tính khái quát cao nhất. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Luận Tuổi Lạc Việt” với sự điều chỉnh mạng Thủy – Hỏa trong Lạc Thư Hoa Giáp so với Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc nhằm chứng mính cách so tuổi vợ chồng còn sót lại trong dân gian hiện nay chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hoàn chỉnh dẫn đến những sai lầm tai hại. “Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy” là quan điểm của chúng tôi. Ngoài ra, tương quan vợ chồng chỉ là những điều kiện ban đầu, khi gia đình có con thì tương quan này sẽ thay đổi tốt hoặc xấu phụ thuộc vào tuổi đứa con có hợp với cha mẹ hay không, đặc biệt là con út! Ông bà ta có câu “giàu con út, khó con út” Theo phương pháp này, tương tác giữa người với người xảy ra ở cả 3 yếu tố Thiên can, Địa chi và Mạng thông qua mối quan hệ về ngũ hành sinh khắc và nguyên lý âm dương. Như vậy, để dể hình dùng, ta có thể làm phép tính như sau : 60 tuổi nam phối 60 tuổi nữ, cùng với tuổi của 60 đứa con út có khả năng sinh ra theo tương quan tuổi vợ chồng, Tức là ta sẽ có: 60 x 60 x 60 = 216.000 trường hợp khác nhau. Xác xuất để tinh toán cao hơn nhiều lần so với các phương pháp trên. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến các cách cục tốt trong việc phối tuổi vợ chồng và con cái trong gia đình. Nhưng vấn đề không dừng lại ở những con số khô khan và phương pháp lạnh lùng. Phương pháp “Luận tuổi Lạc Việt” còn có tính nhân bản ở chỗ là nó khẳng định một cách hợp lý theo thuyết Âm Dương Ngũ hành về tình yêu nam nữ -"Yêu nhau cứ lấy" và sinh đứa con chính là nguồn hạnh phúc gia đình, dù tuổi cha mẹ có khắc nhau đi chăng nữa. Và một vấn đề chúng tôi cũng muốn chia sẻ với quý bạn đọc, đó là “tuổi tác” là một trong những điều kiện tương tác mang tính căn bản ảnh hưởng đến một hoặc nhiều mối quan hệ giữa người với người, chứ không có nghĩa tuổi tác sẽ quyết định mọi thứ diễn ra xung quanh bạn. Có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, mỗi gia đình như : hoàn cảnh gia đình, công việc, thu nhập, tính cách cá nhân… Chính vì vậy khi gặp các vấn đề nan giải trong cuộc sống, các bạn không nên quy hết vào lý do… không hợp tuổi, để rồi có những đáng tiếc xảy ra và xã hội lại tiếp tục duy trì những quan niệm không chính xác về việc xem xét tương quan tuổi giữa người với người! Xin chân thành cám ơn quý báo và quý bạn đọc. Thiên Luân Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.
    1 like
  2. Đạo mẫu ở Việt Nam (Ngô Đức Thịnh) Trong tín ngưỡng dân dã của người Việt và một số tộc người khác, tục thờ Nữ thần, thờ Mẫu và Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Đạo Mẫu) có vai trò và vị trí khá quan trọng, nó đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của đời sống thường nhật của con người, do vậy, nó phổ biến khá rộng khắp, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi tới miền núi. Từ Đạo Mẫu, ngoài những nghi lễ thờ cúng, nó còn sản sinh và tích hợp nhiều giá trị văn hóa – nghệ thuật, tạo nên một thứ “văn hóa Đạo Mẫu”, chứa đựng nhiều sắc thái văn hóa độc đáo của dân tộc. GS-TS Ngô Đức Thịnh Sau đây, chúng tôi trình bày những nét rất cơ bản của thứ tôn giáo tín ngưỡng này với tên gọi chung là Đạo Mẫu. I. Từ Thờ Nữ Thần Đền Thờ Mẫu và Tam Tòa Thánh Mẫu (Đạo mẫu) 1. Từ thờ Nữ thần đến thờ Mẫu Ở Việt Nam, chưa ai thống kê một cách hệ thống và đầy đủ các Nữ thần được nhân dân tôn vinh và thờ phụng, tuy nhiên, không ngần ngại khi cho rằng việc thờ phụng này đã có từ rất lâu đời và phổ biến ở nhiều dân tộc, ở đồng bang cũng như miền núi, hiện còn quan sát thấy ở cả nông thôn lẫn đô thị. Hãy lấy cuốn sách cổ “Hội chân biên”, in năm 1847 đời Thiệu Trị, do Thanh Hòa Tử tập hợp, thì trong 27 vị thần tiên có nguồn gốc thuần Việt, thì đã có 17 là Tiên nữ. Còn trong cuốn sách “Các Nữ thần Việt Nam” viết đời nay, thì đã tập hợp và giới thiệu bước đầu 75 vị Nữ thần tiêu biểu của nước ta. Trong sách: “Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam”, trong số 1000 di tích được giới thiệu thì đã có 250 di tích thờ cúng các nữ thần và danh nhân là nữ. Riêng xung quanh quần thể di tích Phủ Dầy thờ Mẫu Liễu, người ta cũng tìm thấy hơn 20 đền miếu thờ các nữ thần. Trong vốn huyền thoại và truyền thuyết của Việt Nam, các vị nữ thần gần với việc tạo lập bản thể của vũ trụ, như Nữ thần Mặt Trời – Nữ thần Mặt Trăng, Bà Nữ Oa cùng ông Tử Tượng đội đá vá trời, đắp núi, khơi sông. Các hiện tượng: Mây, mưa, sấm, chớp (Tứ Pháp) cũng được thần thánh hóa và mang tính nữ. Các yếu tố mang tính bản thể vũ trụ, như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ được gắn với các Bà: Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa… Đến biểu tượng đất nước – quê hương – dân tộc cũng gắn với các Mẹ (Mẫu): Mẹ Âu Cơ của Lạc Việt, Mẹ Quê hương – xứ sở Pô Inh Nưga của người Chăm. Các Mẹ sản sinh ra các giá trị văn hóa: Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa, các Mẹ là tổ sư các nghề: dệt, tằm tang, làm muối, nghề mộc, làm bánh, ca công… Rồi phụ nữ ra trận “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh’ đứng ra chấp chính quốc gia cũng trở thành các Nữ tướng – Nữ thần: Hai Bà Trưng, Triệu ẩu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân, vợ ba Đề Thám. . . Các vị nữ thần kể trên từ bao đời nay đã được nhân dân ta tôn làm Thần, Thánh, được Triều đình ban sắc phong là “Thượng đẳng thần”, là Thành hoàng của nhiều làng, trong đó Liễu Hạnh công chúa được dân gian tôn vinh là một trong “Tứ bất tử” của đất nước. Mẫu Liễu Hạnh Trong các huyền thoại và truyền thuyết kể trên, có những cái xuất phát từ những thực tế lịch sử, tuy nhiên, không ít trường hợp là kết quả của sự thêu dệt hoang đường, phi thực. Nhưng đó lại là thực tế hiển nhiên, đó là vai trò và vị trí hết sức to lớn của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Thực tế này hoàn toàn có thể lý giải được trên cơ sở xem xét môi trường tự nhiên. đời sống sản xuất, chiến đấu, xã hội cổ truyền của người Việt và các dân tộc khác sinh sống trên đất nước Việt Nam. Trong hàng các nữ thần, một số vị được tôn vinh là Mẫu – Thánh Mẫu - Vương Mẫu - Quốc Mẫu… Như vậy, Mẫu là Nữ thần, nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là Mẫu. Về mặt danh xưng “Mẫu’ là từ gốc Hán – Việt, còn thuần Việt là “Mẹ - Mà’. Mẹ, Mụ là danh xưng chỉ người phụ nữ đã sinh thành ra một người nào đó, là tiếng xưng hô thân thiết của con cái với người đã sinh hạ ra mình. Tuy nhiên, Mẹ, Mẫu còn bao hàm nghĩa rộng hơn mang tính tôn xưng, tôn vinh: Mẹ Âu Cơ Mẫu Liễu, “Mẫu nghi thiên hạ”. . . Tuy chưa thống kê đầy đủ, nhưng cách tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu thường trên quan hệ tới các trường hợp sau: - Các vị Thánh trong tín ngưỡng thờ Mẫu nhất là Mẫu Tam phủ - Tứ phủ: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng thiên (có lúc đồng nhất với Mẫu Liễu), Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu), Mẫu Thiên Ya Na… - Các Thái hậu (Mẹ vua), Hoàng hậu (vợ vua), Công chúa (con gái vua) có tài năng, công đức, khi mất hiển linh và được tôn xưng là Mẫu: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, như Tống Hậu, Thái Hậu họ Đỗ tương truyền là mẹ Lý Thần Tông, ỷ Lan, con gái Vua Hùng Nghị Vương thờ ở đền Cao Mại (Vinh Phú), Ỷ Lan – Mẫu nghi thiên hạ. - Các trường hợp khác cũng tôn xưng là Mẫu, Quốc Mẫu: Diệp Phu nhân – Quốc Mẫu – Thánh ân thờ ở đền Trần lên – Yên Bái. Thần núi Tam Đảo – Quốc Mẫu Sơn Thượng đẳng thần, Mẹ Thánh Gióng – Vương Mẫu. . . Cùng hệ thống này ở miền Trung và nhất là Nam Bộ, một số nữ thần cũng được tôn vinh là Mẫu: Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen), “chúa” Bà Chúa Xứ (Núi Sam), Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Sắt… Như vậy các Mẫu – Thánh Mẫu vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có nguồn gốc nhân thần, là hình thức tín ngưỡng. “nâng cao”, “lên khuôn” từ cái nền thờ Nữ thần vốn rất phổ biến và cổ xưa của dân tộc ta. 2. Từ thờ mẫu đến Mẫu Tam phủ ‘ Tứ phủ (Tam Tòa Thánh Mẫu) Không nên đồng nhất hoàn toàn giữa thờ Mẫu với Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Tam Tòa Thánh Mẫu) mà từ thờ Nữ thần, thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ – Tứ phủ là bước phát triển về nhiều mặt. Tác nhân của sự phát triển ấy vừa có nhân tố nội sinh vừa có nhân tố ngoại sinh. Mẫu Tam phủ – Tứ phủ so với tín ngưỡng thờ Mẫu thần nói riêng và thờ thần nói chung đã có bước phát triển đáng kể về tính hệ thống. Trước nhất, vốn là một tín ngưỡng dân gian mang tính tản mạn, rời rạc, nay bước đầu quy về một hệ thống tương đối nhất quán về điện thần với các phủ (Thiên Phủ, Địa Phủ, Thoải Phủ, Nhạc Phủ), các hàng thần (Ngọc Hoàng – Mẫu – Quan – Chầu – ông Hoàng, Cô, Cậu…) tương đối rõ rệt. Một điện thần với trên 50 vị thần lớn nhỏ đều quy về vị Thần chủ cao nhất là Thánh Mẫu, mặc dù trên Thánh Mẫu còn có Ngọc Hoàng, nhưng đó là lớp ảnh hưởng Đạo giáo sau này và nặng về hình thức. Mẫu Tam phủ – Tứ phủ bước đầu đã chứa đựng ‘những nhân tố về vũ trụ luận nguyên sơ, một vũ trụ thống nhất chia thành bốn miền do bốn vị Thánh Mẫu cai quản: Mẫu Thượng Thiên – Miền trời, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu) – Miền đất, Mẫu Thượng Ngàn – Miền đồi núi, Mẫu Thoải – Miền nước. Mẫu là một lực lượng sáng tạo và cai quản vũ trụ, đã hóa thân thành bốn, cai quản 4 miền của vũ trụ. Mẫu Tam phủ – Tứ phủ bước dầu đã thể hiện một ý thức nhân sinh, - ý thức về cội nguồn dân tộc, đất nước, chứa đựng lòng yêu nước - một thứ chủ nghĩa yêu nước đã được linh thiêng hóa mà Mẫu là biểu tượng cao nhất. Mẫu Tam phủ – Tứ phủ đã bước đầu hình thành một hệ thống thờ cúng trong các Đền, Phủ, những nghi lễ thờ cúng đã được chuẩn hóa, trong đó nghi lễ Hầu bóng (lên đồng) và lễ hội kháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ” là một điển hình. Trong quá trình biến đổi, phát triển từ thờ Mẫu đến Mẫu Tam phủ – Tứ phủ, chúng ta đặc biệt chú ý tới giai đoạn từ thế kỷ XVI trở đi – giai đoạn xuất hiện Mẫu Liễu – quan niệm dân gian thường coi Bà là hóa thân, thậm chí đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, trở thành một vị thần chủ của Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ. Tất nhiên, sự xuất hiện của vị Thánh Mẫu này ở vào khoảng thế kỷ XVI vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển nội tại của thứ tín ngưỡng thờ Mẫu đã có từ trước, vừa phản ảnh khát vọng của quần chúng nhân dân thời Lê mạt, một xã hội buôn bán, nhất là buôn bán chợ quê phát triển, gắn với vai trò của người phụ nữ; xã hội rối loạn, nhân tâm ly tán, mà một trong biểu hiện của nó là các cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên. Với vị Thần chủ này, Đạo Mẫu vốn là một tín ngưỡng gần với thiên nhiên, trời đất, nay được “đời thường hóa”, gắn liền và đáp ứng những khát vọng của con người, thân phận của con người nhất là người phụ nữ trong đời sống hàng ngày. tài lộc, chữa bệnh, ban phúc, giáng họa và chính từ đây, Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ có được bộ mặt mới, vừa rất dân tộc, rất truyền thống lại vừa rất cập thời, làm cho nó nhanh chóng phát triển, lan tỏa khắp mọi miền đất nước, theo gót người Việt tiền để “Mẫu hóa” các tín ngưỡng bản địa khác, vừa có cơ hội tập trung thành trung tâm thờ Mẫu lớn, như Phủ Dầy (Nam Định), Hòn Chén (Huê), Phủ Tây Hồ (Hà Nội). Và cùng với sự xuất hiện vị thần chủ này, thì hệ thống điện thần, quan niệm nhân sinh và vũ trụ, đặc biệt là các nghi lễ – lễ hội càng thể hiện tính hệ thống hơn. Tất nhiên, bên cạnh sự “lên khuôn”, hệ thống hóa nói trên, trong Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ vẫn còn ẩn chứa nhiều yếu tố tín ngưỡng, ma thuật, những sắc thái và biến dạng địa phương. . . khiến nhiều người mới bước vào tìm hiểu có cảm giác như lạc vào thế giới thần linh hỗn độn, phi hệ thống, tùy tiện. Để từ tục thờ Nữ thần, Mẫu thần phát triển lên thành Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ thì ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc có vai trò quan trọng. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo giáo Trung Quốc du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất là từ thời Bắc thuộc. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần thì Lão giáo là một trong “Tam giáo đồng nguyên”. Nhà vua đã từng đứng ra phong cho các đạo sĩ, trong các trường thi cũng có các đề nói về Đạo giáo, nhiều người trong Hoàng tộc cũng là Đạo sĩ. Lý thuyết Lão gia đã ăn sâu vào ý thức của nhiều trí thức đương thời, nhiều phương thuật, ma thuật của Đạo Lão lan truyền trong nhân dân. Đến đời Lê Nho giáo thịnh hành, Lão giáo không được coi trọng, nhưng triết lý cũng như pháp thuật của nó không phải không lưu hành rộng rãi. Điển hình là việc vua Lê Thần Tông cho phép Trần Lộc lập ra Nội Đạo Tràng. Đạo Mẫu và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc về nhiều phương diện. Đó là các quan niệm về tự nhiên, đồng nhất con người với tự nhiên, về quan niệm Tứ phủ – Tam phủ, một số vị Thánh của Đạo giáo thâm nhập vào điện thần Tứ phủ, như Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu Đó còn là các truyện thần tiên huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy để trừ ma tà… Ngay lễ Hầu bóng của Đạo Mẫu Việt Nam cũng không phải không chịu ảnh hưởng các hình thức lên đồng của đạo giáo Trung Quốc. Chính những ảnh hưởng này, một mặt giúp Đạo Mẫu “lên khuôn”, hệ thống hóa và bước đầu mang tính phổ quát nguyên lý Mẫu – Mẹ, nhưng mặt khác cũng làm tăng thêm tính ma thuật, phù thủy mà vốn trong dân gian đã từng tiềm ẩn. Như vậy trên cơ sở tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian, với những ảnh hưởng đạo giáo Trung Quốc đã hình thành và định hình Đạo Mẫu Tam phủ – Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu), một thứ Đạo giáo dân gian đặc thù của Việt Nam, và có thể gọi một cách ngắn gọn hơn và thực chất hơn – Đạo Mẫu. Từ đây, chúng ta có thể đưa ra sơ đồ về Đạo Mẫu
    1 like
  3. K9 - BÁC HỒ ! Bác ơi ơn Bác đời đời ....nay về thăm nơi Bác ở nơi họp bàn chỉ huy bao trận đánh thắng lợi của non sông thật kỳ lạ nuhoangaicap có cảm giác cảm ứng rất đặc biệt khi thấp nến nhang trên mỏm núi đá Trông. Cảm giác như gặp Bác hiển linh giữa đời đón cháu con tìm về tri ngộ vậy nơi mà các nhân viên thuyết trình là thờ thần linh sông núi..sao lạ thế. nuhoangaicap có đem thắc mắc này hỏi những bác hiểu biêt nói nơi đây mai táng 1phần cơ thể Bác ...tôi khẳng định có lẽ là chỗ này chăng...nếu thờ thần linh....thì tui ko tin lắm....lúc nay tới K9 tui toàn tâm toàn ý kính cẩn nhớ người...vị cha già kính yêu của dân tộc vị thánh trong lòng dân VN, tại vì sao giữa nơi thánh đường uy nghiêm khang trang thờ Bác tui ko có cảm giác đó nhỉ ...Tới mỏm đá Trông này thì tui xúc động tới mức nếu ko kìm sẽ bật khóc ngay, lạ thật....nếu đúng là tui đã cảm ứng được với Bác...đây quả là chuyến đi thành công hơn cả sự mong đợi ! ....vài dong xin chia sẻ cùng cô bác anh em....ai chưa, sẽ hoặc đã từng đi K9...mảnh đất rồng thiêng thiên thời địa lợi...phong thuỷ hữu tình ....Bác cũng là bậc thầy phong thuỷ đời sau mãi ngưỡng mộ ! cháu con xin khắc mãi ơn người ! Bác ơi tim Bác mênh mông thế...Ôm cả non sông mọi kiếp người !
    1 like
  4. CHUYỆN THỨ 2 : Một chiều tháng 5 năm 2002, tại bệnh viện phụ sản Từ Dũ : - Bốn mươi tư tuổi mẹ cháu mới sinh cháu đầu lòng đấy chú ạ. Người sản phụ trông già hơn cái tuổi 44, nằm cùng phòng với vợ anh bạn thân của tôi cũng mới sinh em bé, chị vừa âu yếm nựng con vừa hồ hởi kể chuyện cho tôi nghe về “kỳ tích” của vợ chồng mình.. - Ba mẹ chị là người bắc 54, ông bà vào đây nghèo khó phải ra vùng ven Sài Gòn khai đồng lập ấp với nghề trồng rau muống, rau má. Mẹ chị mất sớm, phải giúp bố thay mẹ chăm lo cho bầy em dại. Rồi thời gian trôi đi, khi các em đã trưởng thành, đứa nào cũng yên bề gia thất, nhìn lại mình thì cũng đã ngoài 30 tuổi. Cũng tính không lập gia đình nữa, nhưng các em nó khuyên nhủ, động viên quá lại cám cảnh cha già đau đáu nỗi thương con gái, nên cũng gượng lòng lập gia đình. Chú xem già và xấu như chị, hai bàn tay lúc nào cũng đen xì nhựa rau thì ai mà ham. May sao trời thương mà gặp được ống ấy, làm nghề chạy xe lam, muộn vợ mà được cái hiền lành. Nhưng rầu một cái là ở với nhau hơn chục năm mà chẳng sinh nở gì được. Mấy năm rồi thành phố phát triển rộng ra, những ao rau nhà chị tở thành những vị trí đắc địa ở khu vực, xẻ lô bán đi chia cho mỗi em một ít, còn lại hai vợ chồng thu gom cũng được một mớ khá khá. Buồn cảnh vợ chồng lớn tuổi mãi chẳng có con, vợ chồng bảo nhau thôi thì ăn chơi cho sướng. Nói là ăn chơi vậy chứ, có dám làm gì như người ta đi nhẩy đầm, ăn nhà hàng đâu. Chỉ là nghỉ làm ở nhà ăn tiền tiết kiệm. Năm rồi, thấy buồn quà hai vợ chồng rủ nhau ra bắc du lịch một chuyến, đi hết Hà nội , Lạng Sơn, SaPa rồi qua cả Trung Quốc rồi về thăm quê cha đất tổ. Ở quê hơn một tháng, chi đi thăm hết bà con nội ngoại, xóm làng giúp người này người kia mạnh lắm , tiền nhiều giữ làm gì em mình giúp bà con mình cho nó có nghĩa.- Cười . Chị bỏ tiền tu bổ nhà thờ họ, xây mồ mả ông bà hàng mấy đời ấy, sang sửa chùa miễu trong làng, đi lên đi xuống, mua vật tư coi công thợ phụ với mấy ông bác ông chú họ, vui dữ, cứ như đàn ông vậy. – Cười. Xong việc hai vợ chồng khi trở vô thì ghé vào Huế chơi mấy ngày – Cười Nói thật với chú, chả nghĩ chuyện có con gì nữa đâu, đến chừng tuồi này rồi ai mà dám nghĩ.... Thế mà về nhà mới biết dính bầu, mà chị có biết đâu, mấy đứa em dâu nó phát hiện ra đấy. Nghĩ lại thấy trước cũng dại, chậm con vợ chồng cứ ngồi nhà mà ngắm nhau, đâu có được cái gì, cứ vô tư đi đây đó cho nó thay đổi không khí, thế mà lại được. Mấy ông bác ngoải bắc biết chuyện điện dô mừng lắm, ổng bảo : “ các con ra làm nhiều việc âm đức thế thì bề trên thương là phải rồi” . Háo hức, ông xã chị còn bảo : Qua năm , con nhỏ này nó cứng cáp thì hai vợ chồng lại về miền tây quê ổng, lo cho dòng họ bên nội như vậy nữa, biết đâu ông bà thương cho xin thêm thằng cu nữa cho nó mười điểm. Giàu có số chú ơi, ngày xưa cắm mặt hái rau suốt ngày chị đâu có nghĩ là mai mốt mình có tiền đến như vậy, mà có của cứ khư khư để làm cái gì, vợ chông già không con mà giàu của thì cũnng rầu lòng lắm chú ơi. Có dư chút đỉnnh cứ giúp bà con mình, giúp người nghèo khó như mình khi xưa, rồi làm việc họ. Ông bà thương cho mấy cục vàng như thế này thì còn giàu gấp nhiều lần hơn nữa. (lược ghi lại theo lời kể của anh T )
    1 like
  5. 1 like
  6. Nga bàn giao đủ tên lửa cho Gepard Việt Nam Cập nhật lúc :12:18 PM, 01/02/2012 Giám đốc Tổng công ty Tên lửa chiến thuật (KTRV) cho biết, Nga đã bàn giao đủ các tên lửa chống tàu 3M24E (Kh-35E) cho Việt Nam. (ĐVO) Trong cuộc phỏng vấn của RIA Novosti vào hôm 31/1, Giám đốc Tổng công ty Tên lửa chiến thuật (KTRV), ông Boris Obonosov tiết lộ công ty này đã bàn giao đầy đủ số tên lửa chống tàu Kh-35E cho Việt Nam từ năm 2009-2010 trong hợp đồng được ký kết từ trước đó. Theo thông tin từ KTRV, hợp đồng năm 2009 gồm 17 tên lửa chống hạm 3M24E trị giá 767 triệu rup, và năm 2010 đã tiếp tục chuyển giao thêm 16 tên lửa loại này (656 triệu rup) cùng với 8 tên lửa huấn luyện 3M24EMB trị giá 72 triệu rup. Kh-35E hay còn gọi là Uran-E là tên lửa chống hạm chủ lực trên các chiến hạm mặt nước của Hải quân Việt Nam, điển hình là 2 chiến hạm Gepard 3.9 HQ- 011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ. Bệ phóng tên lửa chống hạm Kh-35E trên chiến hạm Gepard 3.9 của Việt Nam. 3M24 hay Kh-35 (với biến thể xuất khẩu tương ứng là 3M24E hay Kh-35E) là tên lửa chống tàu dưới âm, bay sát mặt biển do KTRV phát triển, sản xuất với các biến thể trang bị cho máy bay, trực thăng, tàu nổi (hệ thống Uran/Uran-E) và hệ thống tên, lửa bờ biển Bal/Bal-E... Tên lửa chống hạm dưới âm chiến thuật Kh-35E có tầm bắn 130 km dùng để tiêu diệt các tàu tên lửa, tàu phóng lôi, tàu pháo, tàu nổi có lượng giãn nước đến 5000 tấn và các tàu vận tải biển. Nga đã phát triển biến thể cải tiến Kh35-UE có tính năng cao gấp 2-2,5 lần so với Kh-35E và tầm bắn 260 km, gấp đôi Kh-35E. >> Hải quân Nga 'ganh tị' với Hải quân Việt Nam >> Việt Nam muốn có nhiều tàu Gepard hơn >> Việt Nam chiếm 5/10 hợp đồng vũ khí lớn của Nga Thanh Dung
    1 like
  7. Tàu chìm, 10 người mất tích tại bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ Thứ Tư, 01/02/2012, 09:45 (GMT+7) TTO - Ít nhất 10 người mất tích khi một tàu chở hàng bị chìm ngoài khơi bờ biển Đen của Thổ Nhĩ Kỳ hôm qua (31-1). Khu vực tàu Vera gặp bão lớn và bị đánh chìm - Ảnh: BBC Tàu Vera, đăng ký tại Campuchia, đi từ Nga tới cảng Aliaga (Thổ Nhĩ Kỳ) đã gặp một cơn bão lớn và bị đánh chìm ở khu vực Eregli của Thổ Nhĩ Kỳ. Mười nạn nhân mất tích được cho là các thành viên của thủy thủ đoàn người Ba Lan. Irfan Erdem, chủ tịch Phòng Thương mại Eregli, cho hay đội cứu hộ biển đã đến ngay khi nhận được cuộc gọi khẩn cấp từ tàu Vera nhưng lúc họ tới nơi thì tàu đã chìm. Bão lớn được cho là nguyên nhân chính khiến tàu chở hàng bị đánh dạt vào bờ và lật úp. Hiện tại đoàn cứu hộ đã cứu được hai người và đang tiếp tục tìm 10 người còn lại. Cũng giống như nhiều quốc gia tại Đông Âu và Trung Âu, thời tiết khắc nghiệt kèm theo mưa gió, bão tuyết đã bao trùm Thổ Nhĩ Kỳ hơn một tuần qua. Mười ngày trước khi tàu Vera gặp nạn, do ảnh hưởng thời tiết xấu một tàu chở hàng khác đã va vào hai tàu đang neo đậu tại bờ biển thành phố Istanbul và bị chìm dưới nước hàng giờ liền. NGUYÊN PHẠM (Theo BBC, AP)
    1 like
  8. Thiên tai tăng nặng..... ====================== Tuyết rơi dày đặc ở Nhật, 53 người chết 01/02/2012 12:01 (TNO) Ít nhất 53 người chết và hơn 570 người bị thương liên quan tới tình trạng tuyết đang rơi dày đặc ở các tỉnh phía tây và bắc của Nhật Bản, theo báo Mainichi Daily. Cơ quan Quản lý thảm họa và hỏa hoạn Nhật cho hay trong số những người chết, có 35 người ở độ tuổi 60 trở lên và 42 người chết trong lúc dọn tuyết, gồm những người bị rơi từ mái nhà trong lúc cào tuyết. Trong khi đó, nhiều thành phố bị tuyết bao phủ lại tuyên bố không còn quỹ để hỗ trợ công tác dọn tuyết và đang xin ngân sách từ trung ương, khiến cho người dân thêm khốn đốn. Một cây cầu ở Nagano sập bị cho là do tuyết - Ảnh: Yomiuri.co.jp Cơ quan Khí tượng thủy văn Nhật Bản cảnh báo tuyết vẫn tiếp tục rơi xuống các khu vực dọc biển Nhật Bản (Hàn Quốc gọi biển Đông) và chi phí dọn tuyết sẽ tăng cao. Giới chức Nhật cho rằng tuyết rơi dày đặc đã khiến một cây cầu dài 95m ở làng Sakae, thuộc tỉnh Nagano bị sập hôm 30.1. Khi sự cố xảy ra, tuyết trên cầu dày hơn 3m. Theo Manichi Daily, lượng tuyết rơi lần này gần bằng với đợt năm 2006, vốn khiến 152 người chết, khoảng ¾ trong số đó chết trong lúc dọn tuyết. Văn Khoa
    1 like
  9. Sẽ xảy ra chiến tranh cấp quốc gia..... ================================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Tình báo Israel đến Mỹ 'bàn chuyện tấn công Iran' VnExpress Thứ tư, 1/2/2012, 11:42 GMT+7 Truyền thông Israel đưa tin giám đốc cơ quan tình báo Mossad của Israel, ông Tamir Pardo, đang ở Washington để thảo luận về khả năng tiến hành một cuộc tấn công nhằm vào các cơ sở hạt nhân của Iran. Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ tại vùng Vịnh. Mỹ, Anh và các đồng minh đã triển khai thêm tàu chiến ở quanh eo biển Hormuz, điểm nóng hiện nay giữa Iran và phương Tây. Ảnh: US Navy. Đài truyền hình Channel Two của Israel hôm qua cho hay chuyến thăm của giám đốc Mossad, vốn được thực hiện bí mật, bị nữ Chủ tịch Ủy ban Tình báo Thượng viện Mỹ Dianne Feinstein vô tình tiết lộ tại một phiên điều trần của ủy ban được đài truyền hình Mỹ phát sóng trực tiếp. Feinstein nói rằng bà đã hội kiến với ông Pardo, người cũng gặp gỡ Giám đốc Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) David Petraeus. Ông Pardo đã đề cập đến khả năng Israel có hành động đơn phương đối với Iran. TTXVN ===================== Lâu lâu tin tình báo tuyệt mật cứ bị "lộ" ra ngoài một cách ngớ ngẩn. Thằng nào yếu bóng vía thì giải giáp, nhưng cứng đầu thì lần này "Bụp" thật đấy! Chứ không phải giỡn ạ! Thật đấy! Đây là sự thật bị lộ, Chứ không phải bị lộ nên giống thật 100%.
    1 like
  10. Người Việt chinh phục đại dương TT - Từ xa xưa, người Việt đã giỏi thủy chiến với nhiều chiến thắng hiển hách. Đến triều Nguyễn, hải quân được nâng tầm chiến lược. Nhiều hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải được thành lập, các dự án đóng tàu hơi nước, tàu bọc đồng, đặc biệt đưa người ra nước ngoài học hỏi kỹ thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu. Đó là hành trình dài đầy ý chí tiến ra đại dương của người Việt và minh chứng xác thực chủ quyền biển của quốc gia đã được thực thi từ lâu đời... Kỳ 1: Khát vọng tàu hơi nước “Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn khiến cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì”. Từ năm 1839, lời phán của vua Minh Mạng đã lưu truyền chính sử, khi ông thân chinh đến dự lễ hạ thủy tàu hơi nước đầu tiên do chính người Việt đóng. Loại thuyền đi biển quan trọng nhất của nhà Nguyễn trong thế kỷ 19 được khắc trên cửu đỉnh ở Huế - Ảnh: THÁI LỘC Ai đóng tàu hơi nước đầu tiên? Từ nội thành Huế, tôi tìm về quê hương Hoàng Văn Lịch đã lưu danh trong công trình đóng tàu hơi nước đầu tiên ở làng Hiền Lương, huyện Phong Điền. Đây là làng Việt cổ có tên là Hoa Lang, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Triều Minh Mạng đổi Thuận Hóa làm phủ Thừa Thiên và đặt lại tên làng Hoa Lang thành Hiền Lương. Trải bao biến động thời cuộc, làng luôn nổi tiếng với nghề rèn. Đặc biệt không chỉ rèn nông cụ, danh tiếng Hiền Lương còn gắn liền việc chế tạo vũ khí. Người làng đỗ đạt cao, làm quan triều đình. Khi vua Minh Mạng thực hiện cách mạng hàng hải, khởi đóng những chiếc tàu hơi nước của nước Việt thì chính Hoàng Văn Lịch, người Hiền Lương, được giao làm giám đốc công trình đặc biệt này. Bao vương triều hưng thịnh rồi suy vong, nhưng Hoàng Văn Lịch vẫn mãi lưu danh trong ký ức nhiều đời người Hiền Lương. Nhà nghiên cứu Huế Dương Phước Thu là người làng này hồi tưởng: “Dân làng tôi truyền đời kính trọng cụ Hoàng Văn Lịch. Đến giờ vẫn còn phần mộ, nhà thờ ghi công đức cụ cho hậu thế không quên...”. Theo nghiên cứu của ông Thu, Hoàng Văn Lịch sinh năm giáp ngọ 1771 ở làng Hiền Lương, hưởng thọ 77 tuổi. Công đức ông rõ nhất có lẽ chính là nội dung bản sắc phong của vua Thiệu Trị được khắc trên bia mộ: “Năm Thiệu Trị thứ sáu. Cáo thọ Minh Nghĩa đô úy Võ khố đốc công sở chánh giám đốc thủy tráng dực Lương Sơn Hầu Hoàng Văn Lịch... Nay ban tờ chiếu này trước là để cho tận lực của người được phấn chấn mà tỏ lòng cường lĩnh, trung kiên, sau là để thưởng cho người nhiều công lao đốc thúc, đảm đang phòng ngự, bảo vệ vương triều...”. Đặc biệt, mặt sau bia mộ còn được con cháu đời sau ông ghi cụ thể: “Hiển cao tổ khảo Hoàng Văn Lịch... trí tuệ thông minh, kỹ nghệ tinh xảo, học thông chữ tốt, võ vẫn kiêm văn. Triều Gia Long bổ vào Thạch Cơ Tượng. Triều Minh Mạng thăng thọ chánh giám đốc ở sở Võ khố kiêm quảng bá công cuộc... đốc suất chế tạo ra mấy chiếc hỏa thuyền...”. Đầu đông 2011, nắng hanh hao đường làng Hiền Lương. Tôi lần lại dấu vết người xưa. Phó giáo sư Hoàng Dũng, hậu duệ họ Hoàng làng Hiền Lương, kể rằng ông đã được nghe các bậc cao niên truyền kể cụ Hoàng Văn Lịch là người đặc biệt, mang lại tiếng thơm cho làng. Học hành đỗ đạt làm quan thì nhiều làng đều có, nhưng từ người làng rèn trở thành “công trình sư trưởng” đóng tàu hơi nước đầu tiên ở Việt Nam như cụ Hoàng Văn Lịch làng Hiền Lương này là rất hiếm để đời sau tôn vinh. Hỏa thuyền Đại Nam Những ngày ở Huế, tôi cố gắng tìm dấu vết còn lại của những chiếc tàu hơi nước đầu tiên. Quốc triều sử toát yếu của Cao Xuân Dục kể rằng triều Minh Mạng năm thứ 19 (1838) đã cho Võ khố đóng tàu hơi nước theo nghiên cứu kiểu cách tàu máy mua của Tây Dương. Năm sau, công trình đặc biệt này hoàn thành. “Tháng 4, ngài (vua Minh Mạng) ngự chơi Bến Ngự, xem thí nghiệm tàu chạy máy hơi. Khi trước khiến sở Võ khố chế tạo tàu ấy, đem xe chở ra sông, giữa đàng vỡ nồi nước, máy không chạy, người đốc công bị xiềng, quan bộ công là Nguyễn Trung Mậu, Ngô Kim Lân vì cớ tâu không thiệt đều bị bỏ ngục. Bấy giờ chế tạo lại, các máy vận động lanh, thả xuống nước chạy mau. Ngài ban thưởng giám đốc là Hoàng Văn Lịch, Võ Huy Trinh mỗi người một cái nhẫn pha lê độ vàng, một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn, đốc công và binh tượng được thưởng chung 1.000 quan tiền. Ngài truyền rằng: Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn khiến cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì”... Tác giả Huỳnh Hữu Hiến viết cuốn Hiền Lương chí lược, kể thêm sau cuộc thử nghiệm thất bại, giám đốc Hoàng Văn Lịch cùng cộng sự tại Võ khố nghiên cứu, sửa chữa được hỏng hóc và chạy thử thành công ở sông An Cựu. Sự kiện này đánh dấu mốc lịch sử trong nỗ lực của ngành đóng tàu nước Việt. Sử nhà Nguyễn ghi chép rõ ý chí nắm bắt kỹ thuật đóng tàu máy của nước Việt từ cách đây gần hai thế kỷ: “... Kiểu thuyền ấy nhờ hơi mà chuyển động, không cần gió nước thuận hay nghịch, không bắt sức người chèo chống mà thuyền tự phóng nhanh, máy móc thực là tinh xảo. Phải thu mua bằng giá đắt để phỏng theo cách thức đóng thuyền lớn khác để dùng mãi mãi”. Sau đó, ít nhất hai tàu hơi nước khác được tiếp tục đóng mới. Đặc biệt, Hoàng Văn Lịch còn chỉ huy thợ thuyền chế tạo thành công bộ máy tàu lớn. Ngoài thợ kinh thành và làng Hiền Lương, 90 thợ rèn, đúc ở Hà Tĩnh, Bắc Ninh cũng được trưng dụng. Kỹ thuật đóng tàu được nghiên cứu, cải tiến, kể cả cỡ tàu, mớm nước lẫn động cơ. Để nâng vận tốc và độ linh hoạt, những bộ phận quan trọng như thùng hơi nước, bánh xe quay đều được tăng kích cỡ trong khi ván thuyền sử dụng nhiều loại gỗ nhẹ hơn. Từ đây, ngành đóng tàu hơi nước triều Minh Mạng tiến dần đến quy thức công nghiệp. “Lần này, đóng thuyền cơ khí, vật kiện máy móc làm ra kích thước to nhỏ đã có đồ thức làm bằng cứ, không ví như một lần đầu làm thử... Hạn trong tháng 12 nay hiện đã hoàn chỉnh, quả có linh hoạt, tinh xảo nên công hiệu rõ ràng”. Theo Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, ít nhất triều Minh Mạng đã đóng thành công mấy chiếc tàu hơi nước. Chiếc Yên Phi lớn nhất, dài 8 trượng 5 thước 2 tấc, rộng 2 trượng 6 tấc và sâu 8 thước 6 tấc 1 phân (1 trượng = 10 thước mộc, một thước mộc = 0,425m). Hai chiếc khác là Vân Phi và Vụ Phi. Đặc biệt, tàu hơi nước người Việt đóng đã có cải tiến so với tàu mua. “Chiếc thuyền cơ khí mua của Tây Dương cũ, trước đã có chỉ giao Vệ long thuyền nhận giữ để chạy thử. Hiện nay thuyền cơ khí đã có những chiếc mới đóng, còn chiếc cũ ấy ngắn nhỏ, xét ra không dùng vào việc gì”. Thời vua Thiệu Trị tiếp tục cho đóng mới tàu hơi nước tên Hương Nhi và cải tiến các tàu đã đóng. Ngoài đóng mới, triều đình cũng mua thêm tàu hơi nước và tiếp tục học hỏi kỹ thuật đóng tàu hiện đại bấy giờ. QUỐC VIỆT
    1 like
  11. Thủy quân triều Nguyễn Thứ Tư, 01/02/2012, 06:14 (GMT+7) Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ 5: TT - “Chắc chắn rằng người An Nam phải là những kỹ thuật gia về thủy quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này ...”. Từ đầu thế kỷ 19, thuyền trưởng người Mỹ John White đã thốt lên khi thăm các xưởng đóng tàu hải quân nhà Nguyễn. Một chiến thuyền nhỏ của thủy quân nhà Nguyễn - Ảnh tư liệu Những xưởng đóng tàu chiến Từ biển Vũng Tàu, tôi vào Sài Gòn theo hải trình qua cửa biển Cần Giờ mà tàu Franklin xưa của John White đã đi. Hai trăm năm trôi qua, bến bờ hoang sơ mà viên thuyền trưởng người Mỹ từng mô tả đã đổi thay nhiều, nhưng cặp mắt hàng hải của ông vẫn nhìn đến thời nay khi nó vẫn là thủy lộ huyết mạch nối thế giới bên ngoài với cảng Sài Gòn. Trong hồi ký Chuyến đi đến “Nam Hà”, John White kể ông đến Sài Gòn vào tháng 10-1819 và rất thích thú các xưởng đóng tàu: “Về phía đông bắc, trên bờ sông sâu, người ta thấy một công trường xây dựng và một xưởng đóng tàu thủy quân. Tại xưởng này, thời loạn lạc, người ta đã đóng những chiếc thuyền chiến to lớn có nhiều buồm ... Chỗ đóng tàu này đã tạo danh dự cho người An Nam hơn bất cứ cái gì hiện có trong xứ sở họ. Nó có thể cạnh tranh với những xưởng đóng tàu tốt nhất của châu Âu ... Xưởng đầy ắp vật liệu có phẩm chất tuyệt vời để đóng nhiều hộ tống hạm. Các thứ gỗ để đóng tàu và những lớp vỏ lòng tàu đều là những thứ đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ được thấy ...”. Bị thu hút bởi xưởng đóng tàu thủy quân, John White liệt kê: “Có khoảng 150 chiếc thuyền chiến được đóng rất tốt nằm dưới các nhà chái... Có một vài chiếc được trang bị đến 16 khẩu đại bác bắn đạn nặng ba cân Anh. Nhiều chiếc khác được trang bị từ bốn đến sáu canông bắn đạn nặng từ 4-12 cân Anh. Tất cả đều bằng đồng và đúc rất đẹp. Ngoài ra còn có độ 40 thuyền chiến đang neo đậu trên sông, chuẩn bị tham gia một chuyến tuần thám bất ngờ mà quan tổng trấn sẽ thực hiện ở miền thượng lưu con sông, ngay lúc ông từ Huế trở về... Chắc chắn người An Nam phải là những kỹ thuật gia về hải quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này của nền kinh tế chính trị của họ, nên tôi đã đến thăm viếng xưởng đóng tàu rất nhiều lần ...”. Thời điểm năm 1819, những gì John White quan sát là kết quả chiến lược phát triển hải quân hùng mạnh của Nguyễn Ánh để bảo vệ bờ cõi, chủ quyền biển đất nước. Đến nước Việt sớm hơn John White, nam tước John Barrow, người Anh đi biển lừng danh đã sáng lập Hội Địa lý hoàng gia, tường thuật tỉ mỉ nỗ lực của Nguyễn Ánh xây dựng các hạm đội hùng mạnh. Trong du ký A voyage to Cochinchina in the years 1792 - 1793 (Một chuyến du hành tới Nam Hà trong các năm 1792 - 1793), John Barrow kể rằng: “Ông (Nguyễn Ánh - PV) đặc biệt lưu ý về những gì liên quan đến kỹ thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu... Để nắm vững kiến thức về thực hành cũng như lý thuyết của kỹ thuật đóng tàu châu Âu, ông đã mua một chiếc tàu Bồ Đào Nha với mục đích chỉ để tháo ra từng bộ phận, từng tấm ván một, rồi tự tay lắp vào một tấm ván mới có hình dáng và kích thước tương tự cái cũ mà ông đã tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu, xà ngang tàu, thanh gỗ khớp nối được thay thế bằng những cái mới, và như vậy con tàu hoàn toàn đổi mới... Nhà vua là người quản đốc các cảng biển và kho quân dụng, thợ cả trong các xưởng đóng tàu, kỹ sư trưởng trong mọi công trình, không có việc gì dự định thực hiện mà không có lời khuyên bảo và chỉ dẫn của ông. Trong việc đóng tàu, không có cái đinh nào được đóng mà không có sự tham vấn ban đầu của ông, không có một khẩu đại bác nào được đưa lên vị trí mà không có lệnh của ông”. Phải khẳng định John Barrow viết rất cẩn trọng, tham khảo, đối chiếu nhiều nguồn tư liệu khác như từ chính ghi chép của Barysi, cố vấn đắc lực cho Nguyễn Ánh. Nhờ đó, John Barrow chân thực kể về Nguyễn Ánh rằng: “Ông đi đến các xưởng quân dụng hải quân, xem xét những công việc được thực hiện khi ông vắng mặt, cho thuyền chèo quanh các hải cảng, kiểm tra những thuyền chiến. Ông đặc biệt chú ý đến các sở quân cụ, các lò đúc được dựng nên trong các sở binh khí, các cỡ súng đại bác đã được đúc ra theo đủ loại kích cỡ ... Ông dùng bữa ngay ở xưởng đóng tàu, gồm một ít cơm ăn với cá khô. Khi đó vua lại trở dậy, hội kiến với các sĩ quan quân đội và hải quân”. Hơn hai vạn thủy quân Chiến lược phát triển hải quân của Nguyễn Ánh đã được John Barrow kể lại kết quả từ chính những gì ông thấy và tư liệu xác thực từ viên thuyền trưởng Barysi, từng là trợ thủ hải quân của Nguyễn Ánh: trong năm 1800, lực lượng hải quân của Nguyễn Ánh đã đến 26.800 người. Trong đó chỉ riêng thợ xưởng hải quân đã có 8.000 người, 8.000 lính trên 100 chiến thuyền chèo tay, 1.200 lính trên chiến thuyền đóng kiểu châu Âu, 1.600 lính phục vụ trên các thuyền mành và 8.000 lính thường trực ở cảng. Thuyền trưởng Mỹ John White bổ sung số liệu hải quân nhà Nguyễn năm ông ta có mặt ở nước này: “Ở Huế, nhà vua cũng có một đội thuyền chiến và vào năm 1819, 200 chiến thuyền khác có trang bị 14 khẩu thần công đang được đóng. Trong số 200 chiến thuyền này, có khoảng 50 chiếc được trang bị buồm chão bằng buồm dọc và có một phần được đóng theo kiểu châu Âu”. Đến triều Minh Mạng, bộ sử Đại Nam hội điển sự lệ ghi rõ số lượng tàu thuyền lúc ấy đã phát triển thêm rất nhiều như năm 1828, chỉ riêng ở kinh sư đã có 379 chiếc thuyền định ngạch, còn các tỉnh thành lớn như Gia Định có 105 chiếc, Nam Định 85 chiếc, Nghệ An 40 chiếc, Quảng Nam 40 chiếc, Quảng Ngãi 25 chiếc ... Những nhà hàng hải nước ngoài cho rằng sự phát triển hải quân nhà Nguyễn đã có bước ngoặt lớn trong thời Nguyễn Ánh. Ngoài tầm nhìn xa trông rộng của vị vua này còn có sự trợ giúp của một số người Pháp. Nhưng họ cũng thừa nhận thời tổ tiên Nguyễn Ánh đã có hải quân hùng mạnh lập nhiều chiến thắng hiển hách. Trong đó lẫy lừng nhất là trận cửa Eo, Thuận An, năm 1644, chúa Nguyễn Phúc Lan với chiến thuyền nhỏ đánh bại đội tàu chiến Hà Lan. Dù dày dạn kinh nghiệm hải chiến với tàu lớn, pháo hạng nặng, nhưng tàu Hà Lan đã bị nhà Nguyễn vô hiệu hóa bằng chiến thuật áp sát thần tốc của chiến thuyền nhỏ. Một chiến hạm Hà Lan bị đắm tại chỗ, một chiếc cùng đường phải cho nổ kho thuốc súng hủy tàu và chiếc còn lại quay đầu chạy. Ngoài hải chiến cửa Eo, hải quân nhà Nguyễn cũng nhiều lần gây khiếp vía cho các tàu cướp phá đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan. QUỐC VIỆT
    1 like
  12. Tôi rất áy náy mỗi khi nhận được lời cám ơn như trên đây! gần như các phật tử hoặc chuẩn Phật tử đều chưa hiểu hoặc chí ít chưa xem kỹ nội dung của bản Thần Chú cao cấp này nên thường gọi là "bùa chú" điều tôi lo lắng cho tất cả là tinh thần cảm nhận thế nào các bạn đón sự chuyển hóa không chút lợi lạc!
    1 like
  13. Nếu đúng lá số này thì cuối năm nay chị có cơ hội kết hôn.
    1 like
  14. 1 like
  15. Nếu đã có em bé thì điều đầu tiên là hãy giữ gìn sức khoẻ cho cả mẹ và con + tinh thần luôn vui vẻ không được lo nghĩ nhiều sẽ ảnh hưởng đến bé sau này.Người xem cho NgocMai88 chỉ biết xem cho nữ mà không xem cho nam nên chọn tháng 4 âl (vì cưới tháng 4 là tháng đại lợi cho nữ tuổi Thìn), nhưng nếu chọn tháng 4 thì nam tuổi Thìn vẫn còn hạn tam tai nên tôi mới nói chọn tháng 11 âl (là cuối tam tai sẽ ít bị ảnh hưởng hơn). Vì tư vấn trên diễn đàn không có nhiều thời gian nên chỉ có thể ngắn gọn như vậy. Nam Canh Thân nếu cưới năm Nhâm Thìn - 2012 là phạm tam tai - kỵ
    1 like
  16. Xin cám ơn sự qua tâm của các anh chị, các bạn. Trước khi kể tiếp về những tâm tư xung quanh chuyện Con Cái của vị huynh trưởng kia, xin nói thêm vài thông tin về chùa Từ Ân để mọi người tiện liên hệ. ***** Nằm khuất trong một đường nhánh lồi lõm vết bành xe, tịnh thất Từ Ân tại tổ 1, ấp Mỹ Tân, Xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành tỉnh BRVT, đây là mái nhà của các cháu cơ nhỡ gần 15 năm. Không cây hoa, đèn giăng chuẩn bị đón xuân về Tết đến như nơi đô thị. Tết chùa quê nghèo có thế này thôi. Sư cô trụ trì cho biết, tại đây chùa đang cưu mang 75 em có hoàn cảnh đặc biệt, bị bỏ rơi, không nơi nương tựa hay gia cảnh quá ngặt nghèo. Trong đó có nhiều em tật nguyền như mù, dị tật chất độc Dioxin, câm điếc bầm sinh … Có vài em đang học cấp 3, hơn 30 em đang học cấp 1-2, lại là tuổi nhi đồng, mẫu giáo Một vài em trong số đó đã thọ giới xuất gia, hiện ngoài giờ đi học còn phụ Cô trông các em nhỏ. Bản thân mang bệnh trọng, là người bươn trải chính để lo lắng cho 75 đứa con thơ, từ ăn mặc, học hành, lúc đau ốm đến dạy dỗ các bé. Rồi tất cả các chuyện Phật sự lớn bé của chùa đều do một tay Sư cô lo toan gánh vác. Ngoài ra sư cô còn đảm đương chủ trì cho 1 bếp ăn từ thiện tại bệnh viện huyện Tân Thành, nơi có nhiều bệnh nhân nghèo. Thành viên tham gia bếp ăn này là một số các em lớn ở chùa và một vài phật tử thân cận. Tết ! Tết ! Tết sắp đến rồi. Cám cảnh nhà lụp xụp đã chật mà người càng thêm đông, vừa qua có một chọ phật tử ờ gần chùa, hiến cho chùa một miếng đất kề cận. Được sự phát tâm giúp đỡ của bá tánh, nhà chùa đã khời công xây dựng một số phòng làm nơi ăn ở sinh hoạt cho các cháu. Nhưng quãng đường mới di được 1/3 thì khả năng sẽ phải ngưng dỡ dang vì hết kinh phí. Sư cô kể giọng buồn buồn, khiến lòng chúng tôi chùng xuống. Địa chỉ liên hệ : Ni Sư Thích Nữ Minh Hải Tịnh thất Từ Ân Tổ 1, ấp Mỹ Tân, Xã Mỹ Xuân, huyện Tân Thành, tỉnh BR-VT ĐT : 0643.895090 – 0906.839241
    1 like
  17. Nhóm từ thiện dự kiến sẽ đến Chùa Từ Ân vào thứ bảy tuần ngày 6/2/2012 nhằm đúng vào ngày 13 tiết lập Xuân để thăm và tặng quà cho các cháu, Cô không nhớ chính xác nhưng trên đường đi Vũng Tàu.
    1 like
  18. Vậy là quẻ LVĐT lúc Longphi xem hình sư phụ chụp ở HN về năm 2012 bước đầu sáng sủa rồi. Thanks sư huynh. Cái này like mạnh.
    1 like
  19. Kỳ bí chuyện người đã chết vẫn... "đòi" được xây mộ Giaoduc.net.vn Thứ bảy 21/01/2012 06:18 Những chuyện lạ chưa lời lý giải quanh ngôi mộ của đôi trai gái chết trôi sông liên tiếp xảy ra, khiến người dân không khỏi thắc mắc: "Chuyện ma tà là có thật?". Bên bờ đê hữu sông Đào chạy qua địa phận Đội 8, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản (tỉnh Nam Định), ngôi mộ đôi của một cặp trai gái chết trôi sông 30 năm nay dù vô chủ nhưng không hiểu sao vẫn ngày càng to đẹp, “hoành tráng” hơn. Vì những chuyện lạ chưa lý giải quanh ngôi mộ đôi này, lại thêm thương cảm cho mối tình ngang trái nên người dân đã xây mộ để “người chết khỏi quấy rối người sống”. Chuyện lạ về đôi trai gái chết trôi sông không được chung mồ thì oán hận người sống "Thần chết" không chia lìa được lứa đôi Ông Nguyễn Văn Hoàn, nguyên là Xã đội trưởng của xã những năm 1980 cho biết, chuyện xảy ra cách đây 30 năm. Một ngày cuối tháng 8/1981, người dân khu vực lên báo chính quyền xã về việc bất ngờ phát hiện hai xác người nổi lên tại bãi sông địa phương, nay nhờ xã hỗ trợ trục vớt, chôn cất người xấu số. Khi chính quyền xã có mặt tại hiện trường thì hai cái xác đã được dân vạn chài cột vào cọc tre ngay sát mép sông Kinh nghiệm của người dân địa phương, cũng như xác định của cơ quan chức năng thì có thể hai cái xác đã trôi theo dòng nước dạt vào bãi sông này. Do xác đã lâu ngày ngâm trong nước nên gần như biến dạng, khi trục vớt kéo lên bờ thì mọi người nhận ra đó là một cặp trai gái. Hai thi thể không mặc quần áo, chỉ có một chiếc thắt lưng da thắt bụng hai người lại với nhau. Nhiều tiếng đồng hồ khám nghiệm tử thi, công an nhận thấy không có dấu hiệu của án mạng, có thể các nạn nhân đã tự tìm đến cái chết. Một trong những chứng cứ khác củng cố thêm nhận định này là bức thư tuyệt mệnh được cẩn thận gói vào bao ni-lon, gắn chặt vào chiếc thắt lưng nên không hề bị ướt dù đã nhiều ngày lênh đênh trôi sông. Ông Hoàn không nhớ chính xác từng câu chữ trong nội dung bức thư, nhưng đại ý là: “Chúng tôi từ một nơi rất xa đến, vì gia đình ngăn cản chuyện tình cảm mà không đến được với nhau. Hai chúng tôi đã không còn sự lựa chọn nào khác nên đã cùng nhau tự vẫn. Nếu ai thấy chúng tôi xin hãy chôn trong cùng một ngôi mộ để chúng tôi được mãi mãi bên nhau”. Công tác khám nghiệm hoàn tất cũng là lúc trời chiều. Chính quyền xã quyết định mai táng hai nạn nhân xấu số ngay tại bờ sông nơi xác họ trôi vào, và tất nhiên là chôn mỗi người mỗi mộ riêng. Dù đã lường trước được bất trắc nên chính quyền đã sắm sẵn hai cỗ áo quan quá khổ, nhưng người chết dường như không “vừa lòng” nên mọi nỗ lực đưa nạn nhân vào quan tài đều bất thành. Mọi người hò nhau xúm vào khiêng các nạn nhân mà vẫn không thể nhập quan được cho người xấu số. “Lúc thì nặng, lúc thì nhẹ, lại có lúc người chết như phình ra nên không đưa được vào hòm. Đến lần cố gắng thứ 5 thì mọi người hoảng thật sự, trời đã tối, mùi xú uế nồng nặc, lại thêm nỗi sợ “chẳng hiểu có ma tà gì hay không””, một nhân chứng trong làng nhớ lại. Những người khâm liệm thảo luận nhanh rồi quyết định lầm rầm: “Thôi thì các anh chị đã muốn vậy thì chúng tôi đành chiều lòng”. Hai bộ quan tài được phá ngay tại chỗ, lấy các mảnh gỗ quây thành chiếc áo quan hình vuông và lúc bấy giờ hai xác chết được đưa vào nhẹ nhàng mà những người làng không gặp khó khăn gì. Những nấm đất vội vàng được đắp lên thành một cái nấm nho nhỏ. Cũng có người băn khoăn “chẳng hiểu chôn chung như vậy có sai phong tục tập quán gì không” nhưng thắc mắc đó nhanh chóng được mọi người gạt đi “Vẫn chưa sợ hay sao mà còn đòi bàn lùi?. Đó cũng là di nguyện của họ trước lúc chết mà”. Chuyện người chết trôi cũng chỉ xôn xao trong làng ít ngày, rồi làng lại trở về nhịp sống bình thường. Sau khi vụ việc xảy ra, cơ quan chức năng có đăng thông báo tìm thân nhân của những người xấu số nhưng không thấy hồi âm. Một năm, hai năm rồi nhiều năm sau đó mọi việc dần đi vào quên lãng, ngôi mộ trở thành mả vô chủ không người thừa nhận. Người đã chết vẫn… đòi được xây mộ Chuyện lạ xảy ra vài năm sau, khi ông Nguyễn Hữu Nam, một người dân địa phương là bảo vệ cánh đồng bãi bị “ma trêu” khi dựng lều cạnh mộ hoang. Ngày ấy còn là thời kỳ bao cấp, dân vạn chài thường lợi dụng đêm tối để lên lấy trộm khoai và các loại hoa màu khác, và hợp tác xã phải cắt cử bảo vệ hàng đêm trông coi hoa màu. Một đêm cuối đông năm 1984, để tránh gió rét ông căng bạt dựng lều áp ngay bên cạnh ngôi mộ, cửa lều hướng ra dòng sông. Màn đêm buông xuống trong cơn mưa phùn giăng giăng, đang co ro trong chiếc lều bạt, khi nửa tỉnh nửa mơ ông bỗng thấy có những đợt đất đá ném ào ào trên đỉnh lều. Tưởng lũ trộm trêu đùa, ông xách đèn pin lao ra truy đuổi nhưng lia khắp cánh đồng chẳng thấy một bóng người. Cứ ngỡ tai nghe nhầm, ông lại chui vào lều nhưng cứ ít phút sự việc lại lặp đi lặp lại như thế. Chột dạ “à thì ra mình đang nằm cạnh ngôi mộ đôi chết trôi”, lấy hết can đảm ông vác con dao mác chặt mạnh một nhát vào giữa ngôi mộ rồi “lu loa”: “Tao cũng là người lao động, không làm tổn hại gì đến nơi đây, nếu chúng mày còn trêu tao nữa thì tao sẽ phá tan nhà chúng mày”. Đến giờ nhớ lại chuyện cũ ông lão vẫn còn thấy sợ và cười: “Lúc đó sợ quá nên mới bạo gan như vậy. Nhưng lạ thay từ lúc đó tới sáng không còn những đợt đất đá ném vào lều nữa. Thú thật từ đó khi giăng lều ngoài bãi, tôi cũng tránh xa cái khu đó ra, đỡ phiền phức”. Hai năm sau, vào cuối năm 1986 một chuyện lạ khác lại xảy ra liên quan đến ngôi mộ. Một chiếc thuyền chở đồ gốm khi xuôi sông Hồng, đến khu vực trạm bơm Cốc Thành thì gặp nạn, đang đêm chiếc thuyền bị đánh chìm. Toàn bộ gia đình chủ thuyền thoát nạn nhưng tài sản thì chìm cả xuống đáy sông, trong đó giá trị nhất là chiếc hòm gỗ sồi đựng toàn bộ tiền bạc của nả của cả gia đình. Cả nhà lặn tìm sục sạo dưới đáy sông nơi thuyền đắm mà chẳng thấy chiếc hòm đâu, người chủ thuyền thơ thẩn đi xuôi theo bờ sông kiếm tìm trong tuyệt vọng. Khi đến bãi sông này, ông bàng hoàng nhận ra chiếc hòm gia sản nhà mình lại…. mắc trên ngôi mộ hoang. Mừng rỡ mở ra xem, người mất của không tin vào mắt mình khi thấy tiền vàng còn nguyên vẹn. Chiếc hòm có thể chỉ tình cờ do sóng đánh trôi dạt nên trôi vào ngôi mộ, nhưng người mất của thì nhất quyết “đền ơn” cái mả vô chủ. Từ đó, cứ dịp tết âm lịch là vị chủ thuyền năm nào lại cho thuyền đến bãi sông tu sửa ngôi mộ, thắp nhang như một sự tri ân cho “đôi trai gái giữ của”. Những ngày gần đây, làng lại thêm một lần xôn xao vào cuối năm 2011, khi đội thủy lợi 302 của huyện trúng thầu thi công kè đê qua bãi sông đoạn có ngôi mộ đôi. Ở chỗ khác thì thuận lợi, nhưng khi thi công đến đoạn này, cứ thả sọt đá nào xuống sông để làm móng thì ngày mai những sọt đá đều “mất tích”. Tưởng có kẻ phá hoại, người ta còn cử bảo vệ gác suốt đêm nhưng suốt nhiều ngày “điệp khúc” cứ diễn ra và đội thi công “dậm chân tại chỗ”. Một đêm cuối tháng 12/2011, ông Vũ Văn Nam, người chỉ huy công trường ngủ lại nơi thi công thì mơ thấy hai người một nam một nữ trên người quấn vải trắng đứng trước cửa lán nói: “Nếu muốn xây được đoạn kè đê này thì phải xây ngôi mộ đôi vững chắc trước đã”. Sáng hôm sau đem chuyện giấc mơ hỏi những cụ cao niên ở địa phương, người này giật mình kinh hãi vì giấc chiêm bao của mình lại trùng hợp với những câu chuyện của ngôi mộ hoang như vậy. Vậy là nhóm thợ ngày hôm ấy không đi thả đá mà có việc mới là xây ngôi mộ thành vuông vức, vững chắc. Ngày hôm sau tiếp tục thi công kè đá, kỳ lạ là công việc lại trôi chảy như chưa từng có bất trắc nào. Những câu chuyện lạ xung quanh ngôi mộ đôi có thể chỉ là sự tình cờ trùng lặp, có thể chỉ do thương cảm mối tình ngang trái của người dưới mồ nên người ta “thần hồn nát thần tính” mà ngỡ là có thật. Thế nhưng nhiều chủ tàu thuyền khi xuôi ngược qua đoạn sông này đều không ai bảo ai mà dừng lại thắp nén nhang thương cảm cho ngôi mộ đã hàng chục năm vô chủ, thương cảm cho cuộc tình của đôi trai gái đến chết vẫn không rời nhau, và cầu mong cho những chuyến hàng của mình được “xuôi gió thuận buồm”. Doãn Kiên/Pháp luật & Thời đại
    1 like
  20. Quí vị và anh Lãn Miên thân mến. Hôm nay chị Winldlavender đưa bài này lên, nhắc lại cho tôi và có lẽ gần hết con người Việt Nam nhớ lại thời thơ ấu của mình. Những bài đồng dao của trẻ em Việt ấy hầu hết là những mật ngữ sâu sắc. Một trong những bài đồng dao bí ẩn ấy chính là trò chơi "Rồng Rắn lên mây". Trò chơi này phổ biến qua bao thế hệ trẻ em Việt và không chỉ truyền miệng mà còn ghi nhận trong một loại hình văn hóa truyền thống khác là tranh dân gian Việt. Trò chơi Rồng rắn lên mây. Tranh dân gian hàng Trống. Qua bao thăng trầm của Việt sử những bài đồng dao có phần bị sai lạc. Cá nhân tôi nhớ như thế này: Rồng rắn lên mây. Cỏ cây lúc lắc (Có thể là "núc nác" như anh Lãn Miên viết) Có ngày điểm binh. Thầy thuốc có nhà hay không? Theo dị bản thì câu thứ ba là "Có nhà hộ sinh". Nhưng tôi nghĩ rằng: "Nhà hộ sinh" là một từ mới sau này, xuất hiện ở nước Việt chỉ từ khi Tây sang cướp nước ta. Trước đó trong đời sống Việt không có khái niệm "nhà hộ sinh". Nhưng còn một dị bản nữa cho câu thứ ba là "Có ngày hiển vinh". Nhưng tôi nghĩ điểm cốt yếu của bài đồng dao này nằm ở hình tượng trò chơi là hình tượng Rồng. "Rồng rắn lên mây" là câu đầu tiên trùng hợp trong tất cả các dị bản, chắc chắn là hình tượng quan trọng nhất. Hình tượng này chính là sự mô tả dưới một hình thức khác một câu trong Hệ từ của Lạc thư chu dịch - Tức Chu Dich, theo cách gọi phổ biến: "Phi long tại thiên". Như vậy, hình tượng trò chơi và câu đầu tiên của bài đồng dao trong trò chơi đã xác định những bí ẩn của kinh Dịch từ trong trò chơi này. Phải số 10 thì thuốc mới ngon và trò chơi mới bắt đầu. Đây chính là số cao nhất chỉ có trong Hà Đồ và những bí ẩn của nền văn hóa Đông phương đầy huyền vĩ đang thách đố tri thức của toàn thể văn minh nhân loại. Bởi vậy, ngay cả khi xác định Hà Đồ là nguyên lý căn để của Lý học Đông phương thì cũng mới chỉ bắt đầu trò chơi ...."rồng rắn" này - Huống chi đến tận ngày nay, còn không ít người vẫn rất mơ hồ về tính chân lý của nguyên lý này, lên giọng chê bai....- . Bây giờ chúng ta xem xét đến ý nghĩa của ba khúc rồng trong trò chơi này? Xin khúc đầu? Những xương cùng xẩu! Xin khúc giữa? Những máu cùng me. Xin khúc đuôi? Tha hồ thày đuổi! Đoạn này trong toàn bộ bài đồng dao thể hiện trong trò chơi không có dị bản. Trong bài viết này tôi chỉ trình bày cái nhìn riêng tôi về những đoạn không có dị bản của trò chơi mà tôi biết đối chiếu với bài viết của chị Winldlavender và anh Lãn Miên. Những đoạn có dị bản tôi sẽ không đề cập đến. Và cũng như tất cả các sự giải mã của cá nhân tôi liên quan, không bao giờ tôi coi là bằng chứng khoa học cho việc xác định Việt sử 5000 năm văn hiến - nhắm tránh sự xuyên tạc của đám "hầu hết" và "cộng đồng". Tôi không tranh luận về nội dung giải mã khi mà cả thế giới chưa có tiêu chí cho một phương pháp và nội dung giải mã được coi là đúng. Trở lại với ba câu đồng dao cuối cùng mở đầu cho sự sôi động nhất của trò chơi rồng rắn. Tôi muốn cùng các bạn bắt đầu từ câu cuối : I - Xin khúc đuôi? Tha hồ thày đuổi! Khúc đuôi của con rồng - Lý thuyết thống nhất vũ trụ - chính là những phương pháp ứng dụng: Đông y, Tử Vi, Phong thủy, bốc Dịch....vv....Đó chính là hệ quả cuối cùng của hệ thống Lý thuyết này - khúc đuôi - và hàng ngàn năm đã trôi qua - kể từ khi nền văn hiến huyền vĩ Việt sụp đổ ở miến nam sông Dương tử - tất các thày đều không thể biết được bản chất thật của nó. II - Xin khúc giữa? Những máu cùng me. Máu me - mờ mịt - mông muội - chính là những khúc rời rạc của một hệ thống lý thuyết đã thất truyềntrở nên mơ hồ. Chỉ còn lại một kiểu lý luận: "Mồm bò chẳng phải mồm bò, nhưng lại là mồm bò". Đại để như Chu Đôn Di viết: Thái cực tức Vô Cực. Vô cực chia đôi là Âm Dương. Âm Dương biến hóa ra Ngũ hành....vv...đúng là vớ vẩn! III - Xin khúc đầu? Những xương cùng xẩu! Khúc đầu chính là những nguyên lý lý thuyết và bản chất của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tất nhiên chắc khỏi cần phải giải mã. Nó đúng là đã chết và không còn gì trong sự thăng trầm của Việt sử - khi nền văn minh này sụp đổ ở bờ nam sông Dương tử - "Những xương cùng xẩu". Làm sao mà mà có thể tìm thấy một chân lý từ con long mã hiện lên trên sông Hoàng Hà và từ con rùa trên sông Lạc Thủy được. Và với cái đồ hình ngớ ngẩn Hậu Thiên Văn Vương phối với Lạc Thư từ ...lưng con rùa. Cả một hệ thống lý thuyết phản ánh quy luật của toàn thể vũ trụ cao siêu và huyền vĩ như vậy, mà chỉ do một con người - vào thời "Ở trần đóng khố" với nền tảng tri thức thời "liên minh bộ lạc" bị tống cổ vào tù, ăn giây mìn (rau muống) chấm muối ớt nghĩ ra trong vòng hai năm - là Chu Văn Vương thì thật đúng là thứ tư duy tầm "ở trần đóng khố " mới tưởng tượng ra được. (Đám này đầy ra có nhãn mác hẳn hoi). Bởi vậy - chúng ta tiếp tục xem tiếp phần trên tính từ dưới lên - đó là độ số 10 chỉ có trong Hà Đồ và đấy chính là nguyên lý căn để của Thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chính từ đồ hình này - Pháp Đại Uy Nỗ của nền văn hiến Việt - mới có thể phục hồi toàn bộ hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ hành và những ký hiệu siêu công thức vũ trụ của nó là Bát Quái. Tất nhiên đấy chính là "ngày hiển vinh" và đưa cuộc sống, con người đến giai đoạn thăng hoa "Phi long tại thiên" - Rồng rắn lên mây. Bài viết này chia sẻ với quý vị cái nhìn của cá nhân tôi. Không tự cho là đúng. Cảm ơn quí vị và anh chị em đã bớt thời gian xem.
    1 like
  21. Lời tiên tri trong văn hóa dân gian. QUA HÌNH ẢNH CON RỒNG Lúc còn nhỏ, tôi cùng các bạn trong “khu chợ” (vì tôi sống khu chợ), thường hay tụ họp vào buổi tối chơi đàn, ca hát cùng chơi nhiều những trò chơi. Trong đó, có trò chơi: “Rồng rắn lên mây”. Có người gọi đó là trò chơi: “Rồng rắn cắn đuôi”. Thật tâm mà nói, tôi không biết trò chơi này từđâu ra? Nguồn gốc xuất xứ nó thế nào? Có từ bao giờ? Ai chỉ dạy cho? Chịu! Chỉ biết lúc còn nhỏ, tôi hay chơi trò chơi này. Trò chơi đó như sau: Một em làm thầy thuốc, số còn lại bám nhau sắp hàng một, tay người sau nắm vạt áo người trước hoặc đặt trên vai của người phía trước. Sau đó, tất cả đi lượm qua lượm lại. Em đi đầu dẫn cảđoàn, vừa đi vừa hát: "Rồng rắn lên mây, có cây lúc lác, có nhà hiển vinh. Thầy thuốc có nhà hay không?" Người đóng vai thầy thuốc trả lời: „Thầy thuốc đi chơi!“ (hay đi chợ, đi câu cá… tùy ý mà chế ra). Thường thầy thuốc không có nhà để rồng rắn đi lượn quanh sân hai ba lượt. Cuối cùng thầy thuốc có nhà. Thầy thuốc hỏi: "Rồng rắn đi đâu?". Em cầm đầu đáp: "Rồng rắn đi lấy thuốc cho con". Thầy thuốc hỏi: "Con lên mấy?" Rồng rắn đáp: "Con lên một". Thầy thuốc nói: "Thuốc chẳng ngon". (Cuộc đối đáp tiếp diễn cho đến khi rồng rắn trả lời "con lên mười"). Khi ấy thầy thuốc kết luận: "Thuốc ngon vậy!". Ðoạn thầy thuốc lên tiếng: "Xin khúc đầu". Rồng rắn cho biết: "Những xương cùng xẩu!" – Thầy thuốc nói: "Xin khúc giữa." Rồng rắn nói: "Những máu cùng me." Cuối cùng thầy thuốc: "Xin khúc đuôi"; thì con Rồng nói: "Tha hồ thầy (mà) đuổi!". Lúc đó thầy thuốc phải tìm cách nào mà bắt cho được người cuối cùng trong hàng. Ngược lại, thì em cầm đầu rồng rắn phải giang thẳng hai tay để chắn không cho thầy thuốc bắt được cái đuôì (người cuối cùng) của mình. Thầy thuốc cố gắng chạy qua để tóm được em đứng sau rốt. Ðoàn rồng rắn càng dài thì cuộc đuổi bắt càng náo nhiệt. Khi bắt được, em đó phải thay thầy thuốc và cuộc chơi lặp lại từ đầu. Ý nghĩa tiên tri trong trò chơi này Trò chơi này có thể xếp vào thể loại đồng giao. Tại sao trò chơi này có thể là một sấm ngữ? Trước hết, chúng ta chú ý đến chữ Rồng. Chữ Rắn thêm vào để chỉ con Rồng léo lắt uyển chuyển như con rắn. Ngoài ra, con rắn không có nghĩa gì trong trò chơi này. Dân tộc Việt Nam chúng ta tự hào là có nguồn guốc xuất phát từ Con Rồng Cháu Tiên. Như vậy, Rồng là biểu tượng đặc trưng cho người Việt Nam. Nếu chúng ta đọc kỹ cách đối thoại giữa thầy thuốc và con Rồng rắn, chúng ta sẽ thấy câu đối thoại không có liên quan (logic) gì với nhau. Nếu nói: „Xin thuốc“ thì nhìn bệnh mà chuẩn bệnh, không ai đòi tuổi cho thuốc. Sắp chết đến nơi, mà thầy thuốc còn nói, „thuốc chưa ngon“, thì có lẽ con bệnh sẽ chết mất! Do đó, câu hỏi và câu trả lời không ăn khớp với nhau. Sự không logic thứhai nữa, đó là khi nói: „Lên một tuổi“, thì „thuốc chẳng ngon“. Thì cùng lúc tăng tuổi lên tới mười, để có „thuốc ngon“. Như vậy, sự kiện tăng tuổi để thích ứng với thuốc, chứ không ngược lại. Chỉ có duy nhất „thuốc dùng cho trẻ em lên mười!“. Ta hiểu lời sấm truyền trong trò chơi này ở chỗ nào? Dân tộc Việt Nam là biểu tượng con Rồng, không thoát được mệnh trời. Đó là „có nhà Hiển Vinh“, một đấng Trời cao. Cứ mỗi lần tăng năm, là tăng vận mệnh của dân tộc càng gần tới thời vận. Con Rồng xin được chữa bệnh, thoát khỏi số mạng. Nhưng Thầy thuốc không ban. Mà thầy thuốc đợi tới hạn để „ra tay“. Khi „thuốc ngon vậy“ là lúc Thầy thuốc xin con Rồng, chứ không phải con Rồng xin thầy có thuốc chữa bệnh. Vậy, thầy thuốc xin cái gì? Thầy thuốc xin cái mạng sống của con Rồng. Như vậy, Rồng đi xin thuốc, không phải là để chữa bệnh cho con, song là để nộp mạng sống cho thầy thuốc. Và con Rồng trả lời rất ư đầy huyền bí. Nào là: „Những xương cùng xẩu“; và „Cùng máu cùng me!“,Cuối cùng: „Tha hồ mà đuổi!“. Lạ! Trả lời gì mà đau thương đến thế! Có ai hỏi tới đâu? Chẳng câu nào liên quan tới câu nào. Sao lại có những câu trả lời tan thương như thế, trong trò chơi của trẻ em chứ?
    1 like
  22. Gặp lại em bé bị bắt cóc khi mới sinh GiadinhNet - Dị nhân "đuổi mưa" Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã đích thân lấy lá số tử vi cho cậu bé đặc biệt này. Dù đã hơn 1 tháng, cậu bé Phạm Trường Hà (cháu bé bị bắt cóc ở bệnh viện Phụ sản TW vào ngày 3/11/2011) trở về nhà an toàn nhưng những người thân trong gia đình vẫn không dám rời cậu bé nửa bước vì vẫn còn ám ảnh. Dị nhân "đuổi mưa" Nguyễn Vũ Tuấn Anh cùng một số nhà nghiên cứu trong nhóm nghiên cứu tử vi "Haithienha" đã đích thân lấy lá số tử vi cho cậu bé đặc biệt này. Bé Hà trong vòng tay mẹ. Vẫn chưa dám rời con nửa bước Chúng tôi trở lại gia đình anh Phạm Xuân Chiều và chị Trần Thị Thơm ở thôn Kênh cầu, xã Đồng Than, Yên Mỹ, Hưng Yên trong một chiều hửng nắng. Căn nhà 2 tầng bề thế của anh Chiều nằm ngay sát mặt đường nên không phải mất nhiều thời gian hỏi thăm. Tuy nhiên, với nhiều người dân thôn Kênh Cầu thì chuyện cậu bé Phạm Trường Hà bị bắt cóc khi mới được một ngày tuổi vẫn là một nỗi ám ảnh đối với họ. Lúc chúng tôi đến, cậu bé Phạm Trường Hà đang ngủ rất say trong vòng tay mẹ. Trông bé thay đổi khá nhiều so với lúc còn ở bệnh viện Phụ sản TW. Bé Hà trông rất giống mẹ, nhất là khuôn mặt nhưng lại có làn da trắng giống bố. Chị Thơm cho biết, lúc bé được trao trả lại cho gia đình thì ngay chiều hôm sau bé bị sốt cao. Các bác sĩ khám và phát hiện bé bị sốt virus nên phải điều trị mất 8 ngày tại bệnh viện. Đó cũng là lý do mãi tận hơn một tuần sau bé mới được đưa về nhà. Đến nay bé đã được hơn 6kg, toàn ngủ ban ngày và thức chơi vào đêm. Bé có giấc ngủ rất sâu. "Nhà đang sửa lại công trình phụ và lắp đặt hệ thống cửa, tiếng đục, khoan, cưa... ồn ào như thế nhưng vẫn không ảnh hưởng gì đến giấc ngủ của bé. Cu cậu ăn tương đối khỏe, tôi đã cho bé kết hợp cả bú sữa mẹ với sữa ngoài. Sức khỏe của tôi nay đã hoàn toàn hồi phục nhưng vẫn chỉ quanh quẩn trong nhà chứ không dám rời con. Thi thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn bị giật mình khi nghĩ đến chuyện con bị bắt cóc" - chị Thơm chia sẻ. Anh Phạm Xuân Chiều - bố của bé Hà chia sẻ thêm, cho đến bây giờ, hàng ngày anh vẫn nhận được nhiều cuộc điện thoại từ khắp nơi gọi về hỏi thăm tình hình của cháu. Ảnh: PV Cũng theo chị Thơm thì thời điểm mới đưa cháu bé về, một phần do nhà cửa đang sửa sang chưa xong, một phần do tâm lí vẫn còn bị ám ảnh nên cả hai mẹ con được gia đình cho sang tá túc bên nhà ông anh ruột ở làng bên một thời gian rồi mới trở lại nhà. Cho đến nay, dù bé đã được gần hai tháng tuổi nhưng vẫn có rất nhiều người đến hỏi thăm. Không chỉ có chị Thơm, ngay cả bé Ngân (chị gái của bé Phạm Trường Hà) mới 6 tuổi nhưng từ ngày đưa em về nhà lúc nào cũng quấn quýt bên cậu em không rời. Tối nào Ngân cũng đòi ngủ chung với em và mẹ. Hễ có người lạ đến nhà chơi là cô bé lại theo dõi "nhất cử nhất động". Anh Phạm Xuân Chiều - bố của bé Hà chia sẻ thêm, cho đến bây giờ, hàng ngày anh vẫn nhận được nhiều cuộc điện thoại từ khắp nơi gọi về hỏi thăm tình hình của cháu Hà. Đây là động lực khiến gia đình anh luôn vui vẻ và sớm quên đi mọi chuyện đã qua. "Sau khi thông tin về cháu được đăng tải trên báo, tôi nhận được rất nhiều cuộc điện thoại đến hỏi thăm, chia sẻ. Không chỉ có người thân, bạn bè, người làng, đối tác... mà rất nhiều những độc giả bình thường không hề quen biết cũng gọi điện thoại về hỏi thăm và động viên, an ủi. Tôi rất lấy làm xúc động về tình cảm mà mọi người đã dành cho cháu và gia đình" - anh Chiều nói. Anh Phạm Xuân Chiều kết hôn với chị Trần Thị Thơm năm 2004. Đến 2005 thì chị Thơm sinh bé Phạm Thị Ngân. Khi bé Ngân được 2 tuổi chị Thơm tiếp tục mang thai nhưng thai bị lưu ở tuần thứ 8. Mãi một thời gian dài chị Thơm không có thai trở lại, gia đình hết sức lo lắng. Đích thân anh Chiều đưa vợ đi khắp các bệnh viện để chữa trị nhưng mãi đến đầu năm 2011 thì chị Thơm mới mang thai cháu Hà trở lại. Vì vậy, sự ra đời của bé Hà là sự mong đợi của cả đại gia đình. Hai bên nội ngoại đều xem cháu như báu vật. Rất đông người đang hồi hộp chờ đón giây phút bé Hà được trở về đoàn tụ với gia đình. Ảnh: Tư Liệu Từng định rút đơn xin giảm tội cho "mẹ mìn" Cũng theo anh Chiều thì sau khi đưa bé Hà về nhà được một thời gian, bố mẹ đẻ của "mẹ mìn" Nguyễn Thị Lệ có từ Bắc Giang tìm đến nhà anh đặt vấn đề xin anh rút đơn tố cáo để giảm án cho con gái họ. Trước những lời khẩn thiết của ông bà, anh cũng đã có ý định sẽ lên gặp cơ quan điều tra và tòa án xin rút đơn để Lệ có cơ hội làm lại cuộc đời. Tuy nhiên, khi chưa kịp thực hiện ý định thì anh Chiều biết được thông tin chính mẹ đẻ của Lệ biết việc con gái mình bắt cóc con người khác để về lừa nhà chồng nhưng vẫn đồng lõa với con mà không có hành động ngăn cản. Thêm nữa, Nguyễn Thị Lệ bắt cóc bé Hà không phải xuất phát từ nỗi đau bị mất con dẫn đến bấn loạn tư tưởng hoặc do áp lực nên buộc phải bắt cóc con người khác để qua mắt nhà chồng. Mà rõ ràng, ý đồ bắt cóc được cô ta lên kế hoạch từ trước. Chiếc xe đưa bé Hà trở về trong vòng vây y, bác sĩ, cán bộ bệnh viện và người dân. "Lúc đầu khi nghe nói cô ấy vừa sinh con nhưng không giữ được cháu bé nên trong lúc quẫn bách quá cô ấy đành phải bắt cóc một đứa trẻ để qua mắt nhà chồng, chúng tôi đã có đồng cảm với cô Lệ. Nhưng khi hay biết toàn bộ sự việc và cả quá khứ không lấy gì làm tốt đẹp của cô ta thì chúng tôi đã chuyển từ đồng cảm sang bức xúc. Tôi và gia đình quyết định để cơ quan điều tra xử lí đối tượng ấy. Cô ấy mang tội đến đâu thì họ sẽ xử đến đó. Cô ấy là người phụ nữ mà không đồng cảm với nỗi lòng người mẹ, người vợ của người khác chút nào" - anh Chiều bức xúc nói. Trước đó, sau khi cơ quan điều tra tìm lại được cháu Hà và trao lại cho gia đình, anh Chiều có lên cơ quan điều tra ở số 7 Thiền Quang- Hà Nội để có lời cảm ơn các chiến sĩ công an. Tại đây, anh Chiều đã gặp Nguyễn Thị Lệ nhưng ả không hề có thái độ ăn năn hay nói với lời xin lỗi nào với anh hết. "Lúc tôi đến cơ quan điều tra thì các chiến sĩ đang lấy lời khai của cô Lệ. Một chiến sĩ công an có giới thiệu tôi là cha cháu bé vừa bị cô ta bắt cóc nhưng cô ta chỉ nhìn tôi một cách hờ hững, lạnh lùng chứ không hề tỏ ra ăn năn hay nói một lời xin lỗi nào". Chị Thơm cũng cho biết thêm: "Khi tôi sinh xong, bác sĩ trao con cho tôi, tôi còn tỉnh táo hỏi mấy giờ thì được biết lúc đó đã 21h 20 phút". Sau này, trong thời gian cháu Hà bị bắt cóc chưa tìm thấy, có một bà giáo cùng quê Mỹ Hào (Hưng Yên) cũng có con dâu nằm cùng buồng với chị Thơm khi xem ngày giờ sinh của cháu cứ an ủi: "Cô yên tâm, cháu nó đi rồi cháu lại về thôi. Khoảng mấy ngày trở lại là khắc tìm thấy cháu thôi". Lúc đầu chị Thơm không tin nhưng đúng 4 ngày sau cháu Hà được tìm thấy. Đây là những chuyện mà bấy lâu chị Thơm giữ kín chưa dám thổ lộ với ai. Hà Tùng Long
    1 like
  23. Tài liệu tham khảo Kỵ binh. Tượng binh tác giả: N.I.Nikulin Dịch: Trần Thị Phương Phương Trong những bộ phim màu, các cảnh chiến đấu trông thật rực rỡ và ngoạn mục: những kỵ sĩ cưỡi trên lưng ngựa, gươm tuốt trần lao tới kẻ thù. Từ lâu ngựa đã phục vụ con người trong quân sự. Những con tuấn mã, những cỗ chiến xa thắng ngựa, cuộc đi săn sư tử bằng xe ngựa - tất cả những cái đó đã được mô tả trên những bức phù điêu cổ xưa trong cung điện của các vua xứ Babylon (nằm giữa hai sông Tigris và Euphrates) đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Tất nhiên, ngựa được sử dụng trong quân sự còn sớm hơn thế rất nhiều. Nhưng có một điều thú vị là: cũng trên những bức tranh cổ đại của vùng Cận Đông đó, sánh bước bên những con chiến mã là những chú lạc đà. Có cả những trung đoàn "lạc đà binh" bao gồm các chiến binh cưỡi trên lưng lạc đà vẫn còn tồn tại ở Saudia Arabia vào thế kỷ XX. Chúng được chuẩn bị tốt để thích ứng với những hoạt động chiến đấu trên sa mạc. Vào giữa thế kỷ XIX những người Mỹ tháo vát đã định lập đơn vị "lạc đà binh" trong quân đội của mình để chiến đấu với các bộ lạc người da đỏ vùng đồng cỏ miền Tây nước Mỹ nơi vốn là vùng đất bán sa mạc khô cằn, nhưng rồi ý đồ đó nhanh chóng bị bác bỏ bởi thời đại kỹ thuật đã bắt đầu. Một hiện tượng dường như rất đơn sơ giản dị, là độ dày và độ cao của những thảm cỏ trên các thảo nguyên Mông Cổ tăng lên, rút cục lại gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lịch sử thế giới. Thực vậy, bắt đầu từ thế kỷ XI trong những vùng bán sa mạc Trung Á khí hậu trở nên tốt hơn, dù chỉ trong một thời gian. Trên những thảo nguyên Mông Cổ mưa xuống nhiều hơn, cỏ trở nên cao và dày hơn. Ở những nơi đó thức ăn trở nên phong phú cho "năm loại gia súc" - ngựa, cừu, dê, lạc đà và bò. Đàn gia súc tăng trưởng rõ rệt. Và theo đó, dân cư thảo nguyên cũng tăng lên. Bởi vậy vào cuối thế kỷ XII nơi đó đã hình thành một đạo quân mà Thành Cát Tư Hãn đã dẫn vào các chiến dịch chinh phạt. Đạo quân đó gồm các đội kỵ binh với hàng chục ngàn kỵ sĩ. Ngựa Mông Cổ thấp bé, song rất khỏe, đặc biệt dai sức và dễ nuôi. Hơn thế nữa, trong những cuộc chinh phạt dài ngày, những chiến binh Mông Cổ mệt mỏi vì đói và khát có thể dùng dao khoét lỗ nhỏ trên cổ con ngựa và uống máu nóng của nó. Vào giữa thế kỷ XIII khi đạo quân kỵ binh Mông Cổ, cho đến khi đó vẫn luôn bách chiến bách thắng, xuất hiện ở Việt Nam, nó phải chạm trán với không chỉ nghệ thuật quân sự điêu luyện của các vị tướng lĩnh và lòng dũng cảm của các chiến binh Việt Nam, mà còn với những điều kiện khác lạ của xứ nhiệt đới khó thích hợp với ngựa Mông Cổ. Thêm nữa, quân Mông Cổ còn gặp phải một loại quân hết sức xa lạ đối với chúng là tượng binh. Các đơn vị tượng binh vẫn còn tồn tại trong quân đội Việt Nam đến nửa sau thế kỷ XIX. Những cứ liệu về những chú voi chiến được lưu giữ trong các sách sử biên niên, trong các truyền thuyết và các bài ca dao nói về Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng việc dùng voi trong quân sự chỉ thích hợp khi phải đối mặt với một lực lượng đông đảo quân địch ở vị trí thoáng rộng. Cưỡi voi chiến để đuổi những tên lính lẻ tẻ, lại chạy trong rừng rậm thì không có mấy hiệu quả. Bởi vậy việc dùng voi trong quân sự chỉ có được sự phổ biến nhất định sau khi đã xuất hiện nhà nước và các đạo quân đông người, trong khi việc sử dụng ngựa trong quân sự thì sớm hơn rất nhiều, bởi kỵ binh có thể chiến đấu có hiệu quả với những nhóm nhỏ quân địch hay khi đấu một chọi một. Từ thời cổ xưa ở Bắc Phi và Ấn Độ đã có tượng binh. Mọi người đều biết rằng vào thế kỷ III trước công nguyên, vị tướng kiệt xuất Hannibal chỉ huy quân đội Carthage (một quốc gia ở Bắc Phi) đã đập tan những đạo quân La Mã nhờ sự trợ giúp của những con voi chiến. Ngoài ra, theo như truyền thuyết kể lại, Hannibal không cần cử quân trinh sát địch, bởi những chú voi cách xa hàng chục cây số đã ngửi được mùi của quân lính La Mã. Ấy là do người La Mã thường bỏ vào thức ăn của mình rất nhiều hành. Voi bắt mùi hành rất nhạy. Thế nhưng khi ở trên núi cao có tuyết rơi và thời tiết giá lạnh, những chú voi chiến của Hannibal đã chết. Còn ở Việt Nam, đã được dựng cả bia đá cho voi chiến - Dương Võ bi ký. Có lẽ đó là tấm bia tưởng niệm duy nhất trên thế giới dành cho voi chiến. Hiện nay, Dương Võ bi ký nằm tại chùa Phổ Giác trên đường Ngô Sĩ Liên ở Hà Nội. Tấm bia được dựng từ năm 1770, người ta chuyển nó từ vùng giáp Hồ Hoàn Kiếm về chùa này khi vào năm 1886 thực dân Pháp có ý định xây dựng những tòa nhà trong trung tâm Hà Nội. Bài văn viết trên bia là những lời ngợi ca cổ vũ những chú voi đã chiến đấu bảo vệ đất nước: "Trời Nam ta, thế nước vững chắc, đất đai gồm cả Tượng Quận. Trong nước có nhiều loại vật, nhưng hùng mạnh nhất trong các thú, chỉ có voi đực là cực quý, thật là nanh vuốt để bảo vệ quốc gia. Song phép nuôi, dạy, tập luyện, điều khiển, phải có bậc tiền bối mở đầu". Vào năm 1770, trong những chuồng voi ở kinh đô Thăng Long có 200 con. Đó là một lực lượng hùng mạnh và ghê gớm, có khả năng phá vỡ trận địa quân địch trên phạm vi rộng, gây kinh hoảng trong hàng ngũ địch. Người ta nói có lý, rằng voi có thể tương đương với xe tăng về chức năng kỹ thuật chiến thuật: nó là lực lượng chọc thủng phòng tuyến đối phương. Trong quân đội của vị tướng vĩ đại Quang Trung, tượng binh đã thể hiện mình một cách đẹp đẽ nhất trong các trận chiến đấu chống quân xâm lược Đại Thanh. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật quân sự, cùng với sự xuất hiện của những phương tiện cháy nổ, những đạn đại bác, súng trường, mìn, lựu đạn đã được hoàn thiện - việc sử dụng voi chiến trở nên không có lợi. Như một loại quân, tượng binh biến mất sớm hơn kỵ binh, vào cuối thế kỷ XIX. Bởi vì trong những năm đầu của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945) trong Hồng quân Liên Xô vẫn còn có các kỵ binh tham chiến. Họ đặc biệt hoạt động thành công trong vùng địch hậu: sư đoàn kỵ binh lừng danh của thiếu tướng Dobator đã cắt đứt đường giao thông của quân phát xít, phá hủy các cơ quan đầu não, các ga xe lửa, các kho đạn dược lương thực. Tuy nhiên sau cuộc chiến tranh này, kỵ binh như một loại quân cũng biến mất. Hiện nay, ở Nga chẳng hạn, chỉ còn sử dụng ngựa trong lực lượng cảnh sát. Ở Moskva có tiểu đoàn cảnh sát kỵ binh với gần 150 kỵ sĩ. Họ giữ gìn trật tự xã hội trong thời gian có các trận đá bóng, các cuộc mít tinh, biểu tình tuần hành. Còn ở Việt Nam, các chú voi lại quay về với "nghề nghiệp" hòa bình của mình là làm công việc vận chuyển gỗ, chuyên chở những hàng hóa nặng nhọc trong điều kiện của những khu rừng rậm rạp khó đi. (2001) Trần Thị Phương Phương dịch từ bản thảo của tác giả nguồn: khoavanhoc-ngonngu.edu.vn ==================================== Quân tượng hiên diện trên bàn cờ tướng, nhưng trung quốc từ xưa không có tượng binh, cũng như sự thật là không có voi ở Trung Quốc, mà voi tốt có được là do vua Việt cống nạp , tuy vậy người ta lại cứ nghĩ cờ tướng là của trung quốc, trong khi đó tượng binh hiện diện trong quân đội người Việt, trong văn hóa dân gian Việt thân thiết như con Trâu, con chó, con gà...của văn minh nhà nông. Thiên Đồng
    1 like
  24. Địa bàn của người Lạc Việt Trích: “Thòi đại Ngũ Lĩnh: Đời Viêm Đế thứ ba vì sức bành trướng của Hoa tộc Đế Minh truyền ngôi cho con là Đế Nghi rồi đem một số bộ lạc Miêu và Thái đi xuống vùng năm hồ năm núi. đấy là cuộc Nam tiến thứ nhất lập ra nước Xích Quỷ gồm ba hệ: - Hệ Âu Việt (Thái) ở Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Miến Điện. - Hệ Miêu Việt ở giữa thuộc các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây. - Hệ Lạc Việt ở Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Việt, Trung Việt (1). Thời đại Phong Châu: lập ra Văn Lang… tiếp đến là Hán thuộc.” Thử nghe trong tiếng chửi của người Quảng Đông có thấy được gợi ý gì chăng? Người Lạc Việt quan niệm bào thai khi đang lớn dần lên để có đủ các bộ phận của cơ thể là do “bà mụ nặn”. Có “nặn” mới nên “nòi” mà hai vật để tạo nòi là cái “nõn” (âm vật) và cái “nường” (dương vật). Cặp Nõn/Nường=Lồn/Lường=Nồn/Lang, mà Nồn=Dôn=Yoni và Lang=Linga lại là cặp Yoni/Linga của người Chăm. Người Quảng Đông gọi cái “nường” (dương vật) ấy là “nán”, là một từ tục dùng trong câu chửi hoặc nhấn mạnh một cách thô lỗ, cách dùng cũng như trong tiếng Việt vẫn dùng, ví dụ: có “nán” cơm ăn tức là nhấn mạnh: chẳng có cơm ăn. Từ tục luôn là từ gốc của mỗi ngôn ngữ. Từ “nán” này là của riêng tiếng Quảng Đông chứ nó không có trong tiếng Hán, nhưng nó lại có gốc là từ tiếng Việt Nam là cái “nường”, bởi vì người Quảng Đông có gốc từ người Lạc Việt. Từ “nặn” mà Bà Mụ dùng để “nặn” ra người ấy đến cách nay hàng vạn năm người Việt dùng cho động tác làm gốm là “nặn”, chữ nho viết là 撚 hoặc 捏(Hán ngữ phát âm là “nián”). Chữ 撚 được mượn (giả tá) trong tiếng Quảng Đông để gọi cái “nán” (dương vật) trong câu nói tục. Còn cái âm vật trong câu chửi của tiếng Quảng Đông lại là cái “hai” mà nó lại là gốc từ cái “hi” (âm vật) của người Tày-Thái. Cái “hai” là một từ gốc ấy của người Quảng Đông cũng không có chữ viết nên phải mượn chữ Đoài là phía Tây, viết Đoài 西 mà đọc là “hai” để nói cái “hai”, còn để gọi hướng thì đọc là “Sài”. Chỉ nội hai từ trong tiếng chửi, đương nhiên là từ gốc nhất trong ngôn ngữ, là “Nán” (dương vật) và “ Hai” (âm vật) đủ cho thấy thủy tổ của tộc người Quảng Đông là bố Việt mẹ Tày, đó chính là giống Rồng với giống Tiên của người Lạc Việt. Tiếng Quảng Đông cũng dùng từ “câu”, nghĩa là dương vật, có gốc là từ “cặc” của tiếng Việt để chửi. Tiếng chửi “câu” ấy cũng không có chữ nên mượn chữ chim Câu 鳩 để thế. Từ Lẹo=Đéo=Cheo=Gieo (gieo giống)=Giao trong tiếng Việt dùng để nói động tác giao cấu, chọn riêng từ “Đéo” để chửi hoặc nói tục. Từ để chửi “Đéo” ấy sang tiếng Quảng Đông là “Tỉu”, cũng không có chữ nên tiếng Quảng Đông phải tự tác ra chữ để gọi “Tỉu” (giao cấu) bằng cách ghép chữ Thây 尸, bên dưới có chữ Treo 吊 để nói cái vật lủng lẳng ở dưới, là chữ 屌 đọc là “Tỉu”. (Tiếng chửi ví dụ “Tỉu Hai 屌 西” nghĩa là “Đéo Hi”). Cũng vậy, tiếng tục “Đếch” của tiếng Việt khi truyền đến Quảng Đông thì thành “Txách” và phải mượn chữ Thất 七 để mà làm “giả tá”.
    1 like
  25. Vâng, cám ơn anh Thiên Luân nhiều nhiều. Chúc Diễn đàn ngày càng phát triển. Tuần Triệt sẽ sang Tư vấn tử vi xem thêm.
    1 like
  26. Thiên Luân biên tập lại cho tôi toàn bộ luận đề "Luận tuổi Lạc Việt", Tôi sẽ in thành sách với người biên soan là Thiên Luân. Rất cần thiết đề giúp các đôi nam nữ yếu nhau sẽ đến được với nhau.
    1 like
  27. DƯƠNG TỬ GIANG Khói trầm bên giấc mơ tiên Bâng khuâng... trăng rải qua miền quạnh hiu Tô Châu lớp lớp phù kiều Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang Nam (NCTG) Ấy là những lời của cố thi sĩ Hồ Dzếnh trong thi phẩm "Khúc linh cầu" khi nhớ về quê nội của ông, mảnh đất Trung Hoa. Trong số những địa danh mà ông nêu ra trong nỗi nhung nhớ, có Dương Tử Giang, con sông "mẹ" của tất cả sông hồ trên xứ sở Trung Quốc, đồng thời, cũng là con sông dài nhất ở Châu Á. Đến mức, người ta đã dùng một tên chung là Trường Giang (con sông dài) để chỉ về nó. Dương Tử Giang, đoạn chảy qua tỉnh Vân Nam Dương Tử Giang dài chừng 6.300 cây số, là con sông dài thứ tư trên thế giới sau sông Nile (châu Phi), sông Amazon (Nam Mỹ) và sông Mississippi - Missouri ở (Bắc Mỹ), có cội nguồn ở tỉnh Thanh Hải phía Tây Trung Quốc và chảy về phía Đông đổ ra Đông Hải. Thực ra, thoạt đầu, Dương Tử là tên gọi của người dân sống tại hạ lưu sông này để chỉ khúc sông chảy qua đó; tuy nhiên, thông qua những nhà nhà truyền giáo châu Âu, tên "Dương Tử" đã được dùng trong tiếng Anh để chỉ toàn bộ con sông (Yangtze). Là con sông lớn nhất Trung Quốc xét cả về chiều dài, lượng nước chảy, diện tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế, Dương Tử Giang là đầu mối giao thông quan trọng của đất nước này, nối liền Trung Hoa lục địa với bờ biển. Càng ngày, các chuyến tàu thủy du ngoạn trên sông trong vài ngày - hay thậm chí vài tuần - đưa du khách qua các khu vực có phong cảnh đẹp, càng trở nên phổ thông hơn, khiến du lịch Trung Quốc thêm thu hút và ngày một phát triển. Đập Tam Hiệp, phía thượng lưu có mức nước cao (ảnh chụp ngày 26-7-2004) Tuy nhiên, trong lịch sử, con sông hùng vĩ Dương Tử Giang cũng gây nên nhiều trận ngập lụt hãi hùng cho cư dân sống hai bên bờ, khiến chính quyền Trung Quốc phải đau đầu ngẫm nghĩ về phương thức giải quyết. Để rồi, dự án thủy lợi Tam Hiệp - giúp người dân khỏi cảnh ngập lụt, đồng thời, cung cấp cho họ điện năng và vận tải đường thủy - đã được thông qua và khởi đầu từ mùa hạ 1994, sẽ khánh thành năm 2009 và trở thành hệ thống đê điều và thủy lợi kỳ vĩ nhất hành tinh. Được gọi bằng cái tên "Vạn Lý Trường Thành" trên Dương Tử Giang, công trình đập Tam Hiệp cũng là một điểm đến không thể thiếu đối với du khách thăm dòng sông này; cho dù, để được nó, Trung Quốc phải chấp nhận một giá rất đắt là hy sinh vĩnh viễn một số thành phố, một số vùng dân cư, nhiều kỳ quan thiên nhiên vô giá và không ít công trình khảo cổ quan trọng. Dương Tử Giang cũng phải chịu một sự thay đổi lớn trong hệ sinh thái, khiến một số động vật trong danh sách báo động nguy hiểm - như cá heo sông Trung Quốc hay cá kiếm Trung Quốc - nay đã coi như tuyệt diệt. * Du ngoạn dọc Dương Tử Giang, người lữ khách có dịp "mục sở thị" vô vàn những địa danh nổi tiếng dọc bờ sông, đã đi vào lịch sử, văn hóa và tâm thức người dân Trung Hoa từ ngàn đời nay. Đơn cử như: Nơi diễn ra trận Xích Bích giữa Ngụy và liên minh Ngô - Thục - Những sự tích thời Tam Quốc của Ngụy - Thục - Ngô thế chân vạc, của những điển tích hào hùng không mấy ai không biết như ba anh em Lưu - Quan - Trương kết nghĩa vườn đào, Ngô và Thục (Chu Du và Khổng Minh) hợp lực kháng Tào trong trận Xích Bích nổi danh trên dòng Dương Tử Giang, Lưu Bị sau khi thu trận trước quân Ngô, trước khi mất phó thác con trai là Lưu Hậu Chủ cho thừa tướng Khổng Minh Gia Cát Lượng tại Bạch Ðế Thành, v.v... - Thành Đô (Tứ Xuyên), vùng đồng bằng màu mỡ từng được gọi là "Thiên Phủ Chi Quốc" (đất nước thiên đường), cố đô của nhà Thục Hán Lưu Bị cách đây 18 thế kỷ. Thành Đô cũng còn là vùng đất của nhiều văn nhân mạc khách nổi tiếng, như "Thi Thánh" Đỗ Phủ, thi hào Tô Đông Pha, và là quê hương của Ba Kim, nhà văn kiệt xuất Trung Quốc thế kỷ XX. Hiện nay, đây là đô thị đông dân thứ 5, đồng thời, được xem như "thủ đô thuốc Bắc của Trung Hoa". Thành Đô có tới 172 di tích lịch sử văn hóa, trong đó nổi tiếng nhất là: Võ Hậu Từ, Thảo Đường Đỗ Phủ, Lăng Vua Thục Vương Kiến, Tam Hiệp... Khu bảo tồn gấu trúc Thành Đô với loại gấu Panda quý hiếm rất nổi tiếng, Di sản thế giới từ năm 2006, cũng là đích của nhiều tour du ngoạn của khách ngoại quốc. Nga Mi Sơn, đạo tràng của Phổ Hiền bồ tát - Nga Mi Sơn, một trong Tứ đại Phật giáo danh sơn (bốn núi Phật Giáo lớn nhất Trung Hoa), địa thế cao chót vót, phong cảnh hữu tình, được ví như "Nga Mi thiên hạ tú". Sách "Thủy Kinh chú" nói về Nga Mi Sơn như sau: "Cách Thành Đô trăm dặm, dưới bầu trời thu xanh trong, ở phía xa hai dãy núi đối nhau như mày ngài". Thời gian đầu, Nga Mi Sơn là vùng đất của Đạo giáo, nhưng về sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc thì cả Đạo giáo và Phật giáo đồng tồn tại ở đây. Cho đến thời Tùy - Đường, Nga Mi Sơn đã trở thành nơi tụ tập của Phật giáo. Lạc Sơn Đại Phật Được xem như là đạo tràng của Phổ Hiền bồ tát, Nga Mi Sơn cùng bức tượng Lạc Sơn Đại Phật cao 71 mét, là tượng Phật ngồi tạc trên vách đá lớn nhất thế giới ở núi Thê Loan, bên ngã ba của các dòng sông Mân Giang, Đại Độ Giang và Thanh Y Giang, được công nhận là Di sản thế giới năm 1996. Thăm Nga Mi Sơn, du khách sẽ có dịp thưởng ngoạn những ngôi chùa cổ kính, nổi bật là Vạn Niên Tự có kiến trúc mang đậm dấu ấn của Đạo giáo, nhưng lại có vẻ tương tự lăng mộ Thành Cát Tư Hãn. Trong Vạn Niên Tự, có tượng đồng Phổ Hiền bồ tát uy nghiêm cưỡi voi, cao 7,35 m, nặng 62 tấn. Thanh Thành Sơn, cái nôi của Đạo giáo Trung Quốc - Thanh Thành Sơn, một trong những cái nôi của Đạo giáo Trung Quốc, đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 2000 cùng công trình thủy lợi Đô Giang Yển. Thanh Thành Sơn và Nga Mi Sơn còn vang bóng trong các pho truyện kiếm hiệp và thư tịch cổ Trung Hoa, như những môn phái võ thuật lừng danh của xứ sở này một thuở. Tượng khắc đá Đại Túc trên núi Bảo Đỉnh - Quần thể tượng khắc đá Đại Túc tại Trùng Khánh, đa phần tập trung trên núi Bảo Đỉnh (một trong những vùng đất linh thiêng của Phật giáo với câu truyền tụng trong dân gian "Thượng triều Nga Mi, hạ triều Bảo Đỉnh") và vách núi Bắc Sơn, quy mô lớn và nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, hình thức vô cùng phong phú. Với hơn 5 vạn pho tượng được chạm khắc bằng đá, phân bố ở hơn 40 địa điểm, trong đó chủ yếu là các pho tượng của đạo Phật, sau đó là Đạo giáo và Nho giáo, và tượng một số ít nhân vật lịch sử, đây là quần thể tượng thể hiện rất điển hình nghệ thuật tạc tượng Phật của Trung Quốc. Tượng khắc đá Đại Túc đã được công nhận Di sản văn hóa Thế giới năm 1999. - Thành phố Kinh Châu, tọa lạc ở trung độ của Dương Tử Giang, một nơi có tầm quan trọng chiến lược về mặt quân sự, kinh tế và phân phối hàng hóa từ thời xa xưa. Là kinh đô của 20 vị vua trong 411 năm của nước Sở trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc (thuộc nhà Chu), của Tề Hòa Đế nhà Nam Tề, Lương Nguyên Đế, và Hậu Lương; của quốc gia Nam Bình thời kỳ Ngũ đại thập quốc, nhưng cái tên Kinh Châu được người Việt biết đến nhiều nhất trong lịch sử thời Tam Quốc, là nơi trấn thủ của danh tướng Quan Vân Trường, và cũng là nơi ông từ giã cõi trần. - Vũ Hán, thành phố đông dân nhất miền Trung Trung Quốc nằm ở ngã ba Dương Tử Giang và Hán Thủy, từ lâu được xem là trung tâm của thi họa và học thuật, nổi tiếng với tòa lầu Hoàng Hạc "hạc vàng mây trắng" được dựng trên một gò cao bên bờ Dương Tử Giang. Đứng trên lầu có thể bao quát cả một vùng sông Dương Tử - gồm bãi Hán Dương, Châu Anh Vũ, Quy Sơn, Hạc Sơn -, lầu Hoàng Hạc được nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường khắc họa "thần sầu" trong thi phẩm "Hoàng Hạc Lâu": "Nhật mộ hương quan hà xứ thị - Yên ba giang thượng sử nhân sầu", mà thi hào Tản Đà đã dịch một cách hết sức tài hoa, thể hiện cái buồn man mác mà có người cho là còn hơn cả nguyên bản: "Quê hương khuất bóng hoàng hôn - Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai". - Cổ Cầm Đài tại Hán Dương, với tích Bá Nha - Tử Kỳ, biểu tượng của sự hiểu biết, tâm đắc, chia sẻ nỗi niềm trong tình cảm, quan niệm, trong nhận thức thế sự cuộc đời. Đây là nơi mà, theo sách "Lã Thị Xuân Thu" của Lã Bất Vi, "Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm, khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy". Thi hào Nguyễn Du, trong "Truyện Kiều", đã có câu: Rằng nghe nỗi tiếng cầm đài Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ - Động Đình Hồ, hồ lớn thứ hai của Trung Quốc, có diện tịch xê dịch từ 2.820-20.000 km² phụ thuộc vào từng mùa. Có tới 9 dòng sông lịch sử đổ vào Động Đình Hồ, trong đó ngoài Dương Tử Giang, còn hai con sông Tiêu Giang, Tương Giang rất nổi tiếng trong văn thơ và hội họa sơn thủy Trung Quốc. "Ai có về bên bến sông Tương - Nhắn người duyên dáng tôi thương - Bao ngày ôm mối tơ vương…" của nhạc sĩ Thông Đạt, hay "Kiều" của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ - Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là nói về dòng sông Tương chảy vào Động Đình Hồ. Động Đình Hồ, nơi được coi là cội nguồn của các tộc Bách Việt Tuy nhiên, quan trọng nhất với dân Việt, Động Đình Hồ còn được coi như nguồn cội của tộc Việt (Bách Việt), như theo "Đại Việt sử ký toàn thư": Động Đình Hồ là ranh giới phía Bắc của nước Xích Quỷ, nơi Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình là Long Nữ đẻ ra thái tử Sùng Lãm, tức Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết hôn với công chúa Âu Cơ, sau lên thay Kinh Dương Vương đổi tên nước là Văn Lang... Nước Việt khởi nguồn từ đó! - Hai ngọn núi Vu Sơn, Vu Giáp, gắn liền với sự tích yêu đương cùng nữ thần núi "sớm đi làm mây - chiều đi làm mưa" của vua Sở Trang Vương thời Chiến Quốc, để rồi văn học Trung - Việt có những điển tích "mây mưa", "giấc Vu Sơn", "đỉnh Giáp non Thần" hay "Vu Giáp", "giấc mộng Dương Đài"... để chỉ cảnh yêu đương của nam nữ, chẳng hạn, trong bài "Thanh Bình điệu" nổi tiếng của thi hào Lý Bạch đời nhà Đường: Đầu cành sương đọng ngát hương đông. Mây mưa Vu Giáp nỗi đau lòng. Hay trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn tả cảnh Kim Trọng đang thiu thiu ngủ thì nàng Kiều lén song thân sang thăm chàng: Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng. - Thành phố Nhạc Dương, nằm ở phía Đông Bắc Hồ Nam, nơi một nửa Động Đình Hồ đổ vào Dương Tử Giang. Đó là một đô thành có lịch sử lâu đời, nổi tiếng thiên hạ với câu "Động Đình thiên hạ thủy - Nhạc Dương thiên hạ lâu". Trong hàng ngàn năm, Nhạc Dương là nơi tụ hội của các thi hào văn nhân, là đất tranh hùng của các nhà cầm quân lỗi lạc. Nhạc Dương còn có sông Mịch La, một nhánh của sông Tương, nơi đại thần nước Sở Khuất Nguyên trẫm mình. Nhạc Dương lâu Danh thắng lừng lẫy nhất của Nhạc Dương là Nhạc Dương lâu sừng sững ở phía Tây thành, quay mặt ra Động Đình Hồ. Là một trong "Giang Nam tam đại danh lâu" (Đằng Vương các, Hoàng Hạc lâu, Nhạc Dương lâu), lầu Nhạc Dương vốn là lầu duyệt binh do danh tướng Lỗ Túc của Đông Ngô thời Tạm Quốc xây dựng và đến thời nhà Đường mới có tên Nhạc Dương lâu. Tòa lầu xây toàn bằng gỗ, lầu chính có 3 tầng, đặc biệt là không dùng đinh ốc. Các thi hào như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ... đều đã đến đây ngâm vịnh, đề thơ. Thi sĩ, nhà chính trị nổi tiếng Phạm Trọng Yêm đời Bắc Tống có tác phẩm "Nhạc Dương lâu ký", để đời với tư tưởng người làm chính trị phải "tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Thi hào Nguyễn Du của Việt Nam cũng có bài "Đăng Nhạc Dương Lâu", tức "Lên lầu Nhạc Dương": Lầu cao sừng sững bờ cao Lên cao hùng tráng biết bao cảnh trời Mây tràn Tam Sở khắp nơi Chín sông thu đổ nước vời mênh mông Ba lần say Lã Đồng Tân Cố hương khuất áng mây Tần xa xa Hắt hiu gió thổi mình ta Chim hồng, chim nhạn bóng tà kêu thương * Như thế, có thể thấy rằng, du ngoạn Dương Tử Giang đồng thời cũng là một cuộc hành trình thú vị và văn hóa, ngược chiều thời gian và xuôi theo một không gian kỳ vĩ, để tìm hiểu và có thêm ý niệm về Trung Quốc, một quốc gia từng có lịch sử văn minh chói lọi và đến nay vẫn là một đại cường có ảnh hưởng không nhỏ đến cục diện thế giới! Trần Lê tổng hợp theo các tư liệu báo chí
    1 like
  28. Lì xì một Đồng Chữ Đồng 同có cái vòng hở ở ngoài là một bộ thủ gọi là bộ “cung”, “cung” là từ lướt của hai từ “quay” “chung”= “cung”, lướt là một trong các qui tắc tạo từ của tiếng Việt. Cái vòng quay chung ấy hở để hễ có người nữa vào thì lại “nối vòng tay lớn” cho vòng chung càng được rộng ra nên bộ thủ “cung” có ý nghĩa là xa, càng thêm người nối tay tiếp vào thì cái vòng quay chung càng rộng ra tức càng “xa”, càng có nhiều người vào “cùng” thì ta càng đi được xa, cũng tức là càng có nhiều người đồng thuận thì sự nghiệp của ta càng thăng tiến xa . Cái vòng “quay chung”= “cung” ấy là một Vuông = Văn 文, Văn ở đây lại là Văn minh Lạc Việt 洛 越 vì nó là Văn minh mở cửa để cho càng nhiều người vào “nối vòng tay lớn”, ta thấy rõ điều đó qua hình thức cái Vuông ở đây không phải là một vuông kín mà hở. Vì Văn minh Lạc Việt là văn minh mở nên người Lạc Việt gọi là Văn hiến, tức là “Văn minh người LạcViệt hiến cho nhân loại”. Tôi dám chắc đây là Văn hiến vì tôi đã nhìn thấy bên trong cái vòng quay chung đang mở ấy là cặp bánh Dầy ở trên bánh Chưng : một nét ngang ở trên là cái gạch Dương của Dịch học Lạc Việt tức là mặt Trời, được tượng trưng bằng cái bánh Dầy, một ô vuông ở dưới là cái bánh Chưng tượng trưng cho Đất. Văn minh Việt mở cửa là để cho toàn nhân loại vào hưởng cái minh triết tỏa ra từ cái tượng đài vĩ đại độc đáo mà Lang Liêu con trai Vua Hùng đã ý tưởng và thi công: một chiếc bánh Dầy đặt trên một chiếc bánh Chưng. Từ 5000 năm trước mà Tổ Tiên ta đã đưa ra tư tưởng mở cửa và hội nhập toàn cầu chỉ bằng một chữ ĐỒNG. Chữ đồng ấy nó đã diễn ra trong đời sống dân Việt trong suốt 5000 năm qua và còn hiện diện ngày nay thể hiện ở chỗ điệu múa nắm tay quay chung quanh đống lửa, chỗ nào cũng có trên mảnh đất Việt: Cái vòng “quay chung”của chữ Đồng 同 là đoàn người già trẻ trai gái nắm vòng tay chung nối vòng tay lớn chung quanh đống Lửa là cái lõi của chữ Đồng 同,chính là Quẻ Ly của Lạc Việt được viết cách điệu thành một Kẻ và một Vuông tượng trưng bánh Dầy bánh Chưng, nhưng chính một Kẻ và một Vuông ấy cũng là năm_________ ____ ___ nét của Quẻ Ly _________ khi đổi sang như bên Cả cái "Tượng đài bánh Dầy bánh chưng mở cửa" vốn gốc của người Kinh, cả điệu múa "Nắm tay chung nối vòng tay lớn quay chung quanh đống lửa" vốn gốc của người Tây Nguyên, người Thái lại biểu hiện thành một chữ Đồng là trống Đồng, mà trên trống đồng có biết bao nhiêu là vòng của biết bao nhiêu là người, vật quay chung quanh một mặt Trời là Ly, là Lửa, là Lói, là Chói Lọi, lại là cái từ Blời nguyên gốc của người Mường. Mừng Xuân Tân Mão xin lì xì một Đồng 同 đến tất cả mọi người.
    1 like
  29. Anh Lãn Miên Kính mến. Theo tôi hiểu thì trùng cửu là tháng và ngày cực Dương - tương ứng với mùng 5 - 5 là tháng và ngày cực Âm. Trong phương pháp luận của Lý học Đông phương, mối quan hệ Âm Dương rất phức tạp. Trong đó có mối quan hệ giữa các ký hiệu, khái niệm qui ước với thực tế. Trùng cửu là mối quan hệ có tính quy ước thuần túy lý thuyết về tính cực Dương, dựa trên cơ sở thực tại là chu kỳ ngày tháng trong vòng tuần hoàn năm. Đây là một biểu tượng của thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn minh Lạc Việt. Rất cảm ơn anh vì bài viết nói trên. Hoangnt và anh chị em nghiên cứu Phong Thủy Lạc Việt thân mến. Anh chị em nên rất, rất lưu ý rằng: Truyền thống của tổ tiên ta không bao giờ gọi tháng đầu năm là Tháng một, mà gọi là tháng Giêng; Không gọi tháng cuối năm là tháng Mười Hai mà gọi là tháng Chạp; không gọi tháng giáp cuối năm là tháng Mười một , mà gọi là tháng "Một". "Một, Chạp, Giêng... hai" từ lâu là câu nói cửa miệng của ông cha ta. Chúng ta đừng nghi đến một nền văn minh Lạc hậu với người nông dân chân đất , áo nâu thật thà chất phác hay nói câu này thí không có gì quan tâm. Đó chính là những di sản cực kỳ huyền vĩ của tổ tiên chúng ta. Âm lịch không bao giờ lấy ba tháng Một - Chạp - Giêng có tháng nhuận. Cho nên ông cha chúng ta mới đặt những cái tên rất riêng như vậy để lưu ý con cháu đời sau. Điều này liên quan đến một kiến thức thiên văn vô cùng đồ sộ của tổ tiên chúng ta. Tháng Một cũng là tháng Tý tháng đầu tiên của 12 con giáp. Anh chị em nên nhớ rằng: Trong di sản văn hóa Việt ghi lại những dấu ấn vô cùng đồ sộ về một lý thuyết cổ xưa rất cao cấp. Để mất đi, thế hệ sau sẽ khó lòng khôi phục được. Do đó, ông cha nói thế nào thì - nếu chúng ta chưa hiểu - cứ biết như thế và ghi nhận, không chế biến cho khác đi.
    1 like
  30. Vãng sanh quyết định chơn ngôn. Vãng sanh quyết định chơn ngôn hay Vãng sanh Tịnh độ thần chú là mật ngôn được trì niệm phổ biến trong các khóa lễ Tịnh độ, cầu siêu. Thần chú này có tên đầy đủ là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sanh Tịnh độ Đà la ni. Cứ vào tên của Đà la ni (Tổng trì, thâu nhiếp vạn pháp, tạm gọi là chơn ngôn hoặc thần chú) cho biết thần chú này có công năng phá trừ tất cả nghiệp chướng căn bản, để được vãng sanh về Cực lạc. Theo kinh Niệm Phật Ba la mật, phẩm thứ 7 (HT.Thích Thiền Tâm dịch), Bồ tát Phổ Hiền vì thương xót chúng sanh thời mạt pháp nên nói Đà la ni này để trợ duyên được mau vãng sanh về Tịnh độ: “Lúc bấy giờ, Ngài Phổ Hiền Đại Bồ tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay vì thương tưởng chúng sanh nơi thời mạt pháp, khi ấy kiếp giảm thọ mạng ngắn ngủi, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần chú Đà la ni này để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng, trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về Cực lạc, gọi là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sanh Tịnh độ Đà la ni. Liền nói chú rằng: Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha Đức Phật A Di Đà - Ảnh tư liệu Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh tịnh. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng 21 biến. Như vậy, diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và hủy báng Chánh pháp. Thường được Phật A Di Đà hiện trên đỉnh đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Khi trút hơi thở cuối cùng được tùy nguyện vãng sanh. Trì tụng đến ba chục ngàn biến liền thấy Phật ngay trước mặt”. Xưa nay, phần lớn những hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ thường trì niệm thần chú Vãng sanh theo phiên âm tiếng Hán. Chúng ta có thể trì niệm theo nguyên văn tiếng Phạn (đã phiên âm) và tìm hiểu đôi chút về “ý nghĩa” của thần chú này. - Namo Amitàbhàya (Na-mô A-mi-ta-pha-gia) Nam mô A di đa bà dạ Quy mạng Vô Lượng Quang (A Di Đà) - Tathàgatàya (Ta-tha-ga-ta-gia) Đa tha già đa dạ Như Lai - Tadyathà (Ta-di-gia-tha) Đa điệt dạ tha Nên nói thần chú - Amrto dbhave (A-mờ-rật-tô đờ-pha-vê) A di rị đô bà tỳ Cam lộ hiện lên - Amrta sambhave (A-mờ-rật-ta sam-pha-vê) A di rị đa tất đam bà tỳ Cam lộ phát sinh - Amrta vikrànte (A-mờ-rật-ta vi-kờ-răm-tê) A di rị đa tỳ ca lan đế Cam lộ dũng mãnh - Amrta vikrànta gamini (A-mờ-rật-ta vi-kờ-răm-ta ga-mi-ni) A di rị đa tỳ ca lan đa già di nị Đạt đến Cam lộ dũng mãnh - Gagana kìrtti kare (Ga-ga-na kít-ti ka-rê) Già già na, chỉ đa ca lệ Rải đầy hư không - Svàhà (Sờ-va-ha) Ta bà ha Thành tựu cát tường. Như vậy, Bồ tát Phổ Hiền trong pháp hội tại Linh Sơn đã vì chúng sanh đời mạt pháp về sau mà xin phép Thế Tôn tuyên thuyết thần chú Vãng sanh. Theo lời dạy của Bồ tát, nếu có người nào phát nguyện sanh về Cực lạc nhưng vì phước mỏng nghiệp dày, niệm Phật chưa đạt đến nhất tâm thì có thể nương nhờ công đức của thần chú Vãng sanh để được như nguyện. Hành giả thực hành trai giới, giữ ba nghiệp: thân, miệng, ý thanh tịnh; mỗi ngày trì niệm 6 thời, mỗi thời 21 biến thì chắc chắn tiêu trừ tất cả nghiệp chướng, cho dù là ngũ nghịch hay thập ác tội chướng. Thần chú Vãng sanh có tầm quan trọng như thế, nên người tu pháp môn Tịnh độ luôn trì niệm nhằm thú hướng Lạc bang. Nhiên Tự nguồn giacngo.vn
    1 like
  31. Người Triều Châu Triều Châu là một huyện của tỉnh Quảng Đông Trung Quốc, bắc giáp Phúc Kiến. Người Triều Châu cổ đại là một phân chi của dân tộc Bách Việt, gọi là người Mân Việt. Theo tương truyền trong gia phả của người Triều Châu ở Phúc Kiến thì tổ tiên họ xưa từ vùng Hoàng Hà (Trung Nguyên ) di cư xuống Phúc Kiến. Huyện lỵ Triều Châu đã hưng thịnh từ rất sớm, thời nhà Tùy là quản hạt của cả Việt Đông ( tỉnh Quảng Đông ngày nay). Người Triều Châu hiện nay có ở Triều Châu, Phúc Kiến, Sán Đầu, Hồng Kông, Áo Môn, Đài Loan và nhiều nơi trên thế giới như Việt Nam,Thái Lan, Sigapo, Malaixia (72-73 vạn người, đứng hàng thứ 4 các sắc dân quốc tịch Malaixia), Indonexia và các nước phương Tây, với tổng số khoảng 20 triệu người và vẫn nói tiếng Triều Châu. Những từ gốc trong tiếng Triều Châu có rất nhiều từ như tiếng Việt (Ví dụ vuông chữ = “vuông dìa”, tắm ướt= “chan ét”, khen= “khẹn”, thím= “thím” …). Người Triều Châu giỏi buôn bán, ở Trung Quốc người Triều Châu được mệnh danh là “Do Thái của Trung Quốc”. Cộng đồng người Triều Châu đề nghị thành lập ngân hàng thương mại cổ phần Triều Châu ở Trung Quốc nhưng chưa được phép vì ở Trung Quốc chỉ có hệ thống ngân hàng nhà nước. Ở Việt Nam thì cộng đồng người Triều Châu có đủ, ngân hàng thương mại, trường học, bệnh viện… và đang xúc tiến lập trường đại học quốc tế. Người Triều Châu di cư ra nước ngoài là từ thời nhà Minh, nhưng ồ ạt nhất là thời nhà Thanh. Sau thời Ung Chính, Càn Long, đời sống xã hội và sản xuất nông nghiệp ở Triều Châu cực kỳ khốn khó, người Triều Châu di cư xuống các nước ĐNÁ làm thuê cho các hầm mỏ đồn điền thực dân, nhiều đến nỗi dân số còn lại ở huyện Triều Châu giảm hẳn, còn 1.405.180 người ( theo thống kê thời Khang Hy 19 , năm 1680, thực tế thì còn khoảng gần 2 triệu người). Đến thời Quang Tự thì dân số ở Triều Châu tăng lên 4.300.000 người. Người Triều Châu có truyền thống trọng chữ Tín, trọng đạo học ( ở Malaixia người Triều Châu thành lập được 39 trường phổ thông, 60% các tác phẩm của người Hoa ở đó là của người Triều Châu), trọng đạo hiếu ( sùng Tổ kính Tiên), một năm có tám Tết lớn để tưởng nhớ tổ tiên: Tết Nguyên Đán có cúng Tổ, ăn tất niên sum họp gia đình, câu đối , đốt pháo, cúng thầy dạy học.Tết Nguyên Tiêu rằm tháng Giêng có treo đèn lồng, thả hoa đăng, dạm mặt, bói đèn.Tết Thanh Minh trong tháng ba.Tết Đoan Ngọ 5 tháng 5 có bánh trôi. Rằm tháng bảy gọi là Tết Phổ Độ ngoài cúng Tổ còn có cúng bố thí cô hồn.Tết Trung Thu gọi là cúng nàng trăng có bánh trung thu, tặng bánh cho thầy dạy học ( “ơn bằng giọt nước, cũng coi bằng suối tuôn mà đáp đền” 滴水之恩, 當涌泉相報 đích thủy chi ân, đương dũng tuyền tương báo) .Tết Đông Chí là một trong 34 lễ thời tiết. Sinh hoạt văn nghệ của người Triều Châu phổ biến nhất là ngâm hát “Triều Châu ca sách”, đã hình thành từ thời Minh, đến nay là 640 năm. Lời ca trong sách chỉ dùng câu 7 chữ (có phải dấu ấn của hệ đếm thất phân từ thời cổ đại?) khi ngâm thì kéo dài âm tiết cuối. Nội dung gồm diễn nghĩa lịch sử, truyền thuyết thần thoại, chuyện dân gian như:Tùy Đường diễn nghĩa,Tam Quốc diễn nghĩa,Thủy Hử truyện, Hàn Tương Tử tam độ Hàn Công Văn,Tô Lục Nương…bài ngắn nhất cũng vài trăm câu, ngâm hát cũng mất 10 phút, bài dài nhất như Song Bạch Yến có tới 29 quyển gồm 4 vạn dòng chứa 30 vạn chữ. Lãn Miên
    1 like
  32. CHÚ ĐẠI BI Namo Ratha Traya Namo Arya Jnana Sagara Vairochana Byuhara Jara Tathagataya Arahate Samyaksam Budhaya Namo Sarwa Tathagate Bhyay Arahate Bhyah Samvaksam Buddhe Bhvah Namo Arva Avalokite Soraya Bodhi Sattvaya Maha Sattvaya Maha Karunikaya Tadyata Om Dara Dara Diri Diri Duru Duru Itte We Itte Chale Chale Purachale Purachale Kusume Kusuma Wa re Ili Milli Chiti Jvalam Apanaye Shoha Nghe nhạc tụng: Nhạc tụng Chú Đại Bi
    1 like
  33. 60. Na ra cẩn trì 61. Ta bà ha Na ra cẩn trì. Hán dịch là “ái hộ” nghĩa là thường nỗ lực bảo bọc che chở tất cả chúng sanh. Câu chú này cũng mang ý nghĩa đại Từ Bi. Đây là Bảo bình thủ nhãn ấn pháp. 62. Ma ra na ra 63. Ta bà ha Ma ra. Hán dịch là “Như ý” Na ra. Hán dịch là “Tôn thượng”. Đây là Quyến sách thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ. Quyến sách thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều diệu dụng. Hành giả có thể kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy thoát được. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường. Trong đạo giáo gọi ấn pháp này là “Khổn tiên thằng”. 64. Tất ra tăng a mục khư da 65. Ta bà ha Tất ra tăng. Hán dịch là “thành tựu – ái hộ”. Nghĩa là thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở cho tất cả chúng sanh. A mục khư da. Hán dịch là “bất không, bất xả”. Bất không có nghĩa là hữu. Nhưng đây có nghĩa là diệu hữu. Bất xả có nghĩa là “Bất xả nhất pháp”. Không từ bỏ một việc gì, phải thông thạo tất cả các pháp. Nên có câu kệ: “Chân như lý thượng bất lập nhất trần. Phật sự môn trung bất xả nhất pháp”. Nghĩa là: “Trên phương diện bản thể, lý tánh tức chân như, thì không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ là hạt bụi. Nhưng về mặt sự tướng, có nghĩa là việc hành trì, tu đạo thì không được bỏ qua một pháp nào cả”. A mục khư da còn có nghĩa nữa là “ái chúng, hòa hợp”. Nghĩa là thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng sanh. Câu chú này còn có nghĩa khác là trong tự tánh của mỗi chúng sanh đều có đủ tánh tự tại và tánh công đức thường vẫn tròn đầy. Đây là Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì ấn pháp này thành tựu, hành giả có thể tránh được nạn tù tội, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều không bị vướng phải các chướng nạn về quan quyền nữa. Quý vị sẽ hỏi: “Nếu tôi tu tập ấn pháp này, liệu tôi có thể phạm pháp mà vẫn không bị bỏ tù hay sao?” Không! Là Phật tử, quý vị không được phạm pháp. Nếu quý vị đã thông hiểu Phật pháp và phát tâm tu học Phật pháp rồi, thì làm gì có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu quý vị làm chuyện phạm pháp, tất nhiên phải bị bắt và ở tù. Tuy nhiên, đôi khi có những người vô tội bị bắt ở tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu tập Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp này. 66. Ta bà ma ha a tất đà dạ 67. Ta bà ha Như quý vị đã biết, thế giới chúng ta đang sống là thế giới Ta bà. Ta bà có nghĩa là “kham nhẫn”. Còn được dịch là “nhẫn ái”. Còn dịch là “Thiện thuyết, thiện đáo”. Kham nhẫn có nghĩa là chúng sanh như chúng ta khó có thể chịu đựng nổi những sự thống khổ ở cõi giới Ta bà này. Nhẫn ái có nghĩa là chúng sanh thế giới Ta bà này không những có thể chịu đựng mọi khổ đau mà còn sanh khởi lòng thương yêu mọi loài nữa. Thiện thuyết, thiện đáo nghĩa là, luôn luôn nói lời tốt đẹp, lợi ích khi ở trong thế giới Ta bà. Cùng khuyến khích mọi người hiện thân đến ở cõi giới Ta bà này. Ma ha là lớn. Đây có nghĩa là pháp Đại thừa, tức là Bồ tát đạo. A tất đà dạ. Hán dịch là “vô lượng thành tựu”. Nghĩa là tu tập pháp Đại thừa của hàng Bồ tát có công năng đưa hành giả đến bờ bên kia một cách rốt ráo và thành tựu vô lượng công đức. Đây là Bồ đào thủ nhãn ấn pháp. Khi quý vị tu tập thành tựu ấn pháp này thì trong miệng hành giả thường có vị ngọt của nho, còn hơn vị ngọt của đường. Quý vị hãy chú ý điểm này, trong khi hành trì ấn pháp này mà thấy trong miệng có vị ngọt nghĩa là bắt đầu có sự cảm ứng. Khi thành tựu ấn pháp này rồi, khi quý vị có trồng trọt các loại nông sản, ngũ cốc, thì sâu bọ côn trùng không thể phá hoại mùa màng của quý vị. Còn các loại cây ăn quả như cam, đào, hạnh, lê, … sẽ sinh trưởng rất nhanh và có vị ngọt khác thường. Công năng của Bồ đào ấn pháp này rất lớn và sự thành tựu của pháp Đại thừa là vô lượng vô biên. Tất la tăng a mục khư da. Ở trong đồ hình mạn đà la là hình ảnh biểu tượng cho bổn thể của Dược Vương Bồ tát, người đã dùng vô số phương tiện, dược liệu để chữa bệnh cho chúng sanh. Ta bà ma ha a tất đã dạ ta bà ha là bổn thể của Bồ tát Dược Thượng, người cũng thường dùng vô số phương thuốc để chữa lành bệnh cho chúng sanh. 68. Giả kiết ra a tất đà dạ 69. Ta bà ha Giả kiết ra a tất đà dạ. Hán dịch là “Kim cang luân”. Còn gọi là Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này có hình tròn nhưng có khác so với Kim cang luân khác. Câu chú này còn có nghĩa là “Hàng phục oán ma”. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và bất bình thì gọi là ma. Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán này thường xôn g khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: :Ai cũng đều quá vô lễ với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la hán ta cũng hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật ghê rợn. Đây là Bạt chiết la thủ nhã ấn pháp. Với Kim cang luân, hành giả có thể đập tan các loài thiên ma ngoại đạo, quỷ thần thành từng mảnh vụn. Bất luận đó là loại ma nào, nó đều bị thu phục và vâng lời khi hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp này. Ma oán sẽ cung kính đảnh lễ hành giả và thưa: “Con nguyện quy phục ấn pháp. Nguyện theo mọi quy luật, không dám xâm hủy”. Kim cang luân ấn pháp không những chỉ có công năng hàng phục thiên ma ngoại đạo, mà còn có công năng phát ra âm thanh chấn động. Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh Đảnh”. Sấm sét vốn thường phát sinh từ trên Trời, nhưng các Đạo sĩ Lão giáo có thể phóng ra tiếng sấm từ lòng bàn tay khi họ kết một loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi. Tiếng sấm sét vang ra khiến cho thiên ma bị chấn động, thậm chí còn có thể khiến thịt da nó bị tan tành từng mảnh. Khi giảng Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôi có nói về một người bạn thân, có khả năng sử dụng được ấn pháp này. Khi quý vị hành trì thành tựu ấn pháp này rồi, thì sấm sét sẽ vang rền khi quý vị sử dụng ấn pháp và tiếng vang của nó sẽ hàng phục được tất cả các loài ma oán. A tất đà dạ. Hán dịch là “Vô tỷ thành tựu”. Hành giả trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất lớn; không có gì so sánh được, cho nên mới khiến cho các loài ma oán đều quy đầu phục thiện. 70. Ba đà ma yết tất đà dạ 71. Ta bà ha Ba đà ma. Hán dịch là “Hồng liên hoa”. Yết tất đà dạ. Hán dịch là “Thiện trắng”. Hồng liên hoa này là siêu việt tất cả mọi loài và thành tựu vô lượng công đức. Khi quý vị tu tập Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp này thành tựu rồi, nếu quý vị muốn sanh ở cõi Trời thì ước nguyện ấy rất dễ thành tựu như ý. 72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ 73. Ta bà ha Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền thủ”. Hiền là thánh hiền. Thủ là giữ gìn, canh giữ hộ trì. Bàn đà ra dạ dịch nghĩa là Quán Thế Âm, Quán Tự Tại. Đây là Thí vô úy thủ nhãn ấn pháp mà Bồ tát Quán Thế Âm thường dùng để cứu độ chúng sanh, giúp cho mọi loài không còn sợ hãi trong mọi lúc, mọi nơi. 74. Ma bà lợi thắng yết ra da 75. Ta bà ha Ma bà lợi thắng. Hán dịch là “Đại dõng”, cũng dịch là “anh hùng đức”, nghĩa là đức hạnh của bậc đại anh hùng. Bồ tát Quán Thế Âm cũng được gọi như thế. Yết ra da. Hán dịch là “sinh tánh” hoặc là “bổn tánh”. Nghĩa là tự tánh bản hữu của chúng sanh vốn sẵn có đức hạnh của bậc đại anh hùng. Đức hạnh của đại anh hùng chính là do hành trì Tổng nhiếp thiên tý thủ nhã ấn pháp, ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài ma oán không chỉ ở thế giới này mà khắp cả đại thiên thế giới. Hành giả tu tập ấn pháp này nên biết đây là ấn pháp quan trọng nhất trong tất cả bốn mươi hai ấn pháp. Vì khi hành trì ấn pháp này, thì tất cả bốn mươi hai ấn pháp kia đều có đủ trong ấn pháp này. Quý vị có thể thắc mắc: “Thế thì tôi chỉ cần hành trì một ấn pháp này thôi cũng đủ, chẳng cần hành trì bốn mươi mốt ấn pháp kia nữa”. Nếu quý vị lười biếng thì cứ làm. Nếu không phải là kẻ lười biếng, thì nên hành trì tất cả bốn mươi hai ấn pháp. Mặt khác, quý vị muốn làm kẻ lười biếng và thích tu tập để trở thành một vị Bồ tát lười thì cứ tu tập ấn pháp cuối cùng này trong bốn mươi hai ấn pháp kia. Sẽ phải mất khá nhiều thời gian mới thành tựu được. Tuy nhiên, vì quý vị là người lười biếng nên sẽ không được thành tựu sớm là điều hiển nhiên. Thế nên các pháp đều là bất định. Nếu quý vị không muốn trở thành một vị Bồ tát lười, quý vị sẽ chẳng bận tâm thời gian lâu hay mau để tu tập các ấn pháp này. 76. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da Câu này đã được giảng rõ ở phần đầu Kinh văn rồi. Nhưng có trường hợp quý vị bị quên, nên tôi sẽ giảng lại lần nữa. Những người tuy có nhớ, nhưng không được rõ ràng, nghe lại lần này sẽ được rõ thêm. Những người đã nhớ kỹ rồi, nghe được một lần này nữa lại càng hiểu sâu hơn. Nếu tôi giảng chưa rõ, quý vị cứ hỏi tôi ngay tức khắc, vì cách tôi giảng Kinh hoàn toàn khác với các Pháp sư. Tôi không dùng tài liệu hoặc các luận giải. Nam mô có nghĩa là “Quy y”. Quy y gì? Con xin uy y Tam bảo. Hắc ra đát na có nghĩa là “bảo”: quý báu. Đá ra dạ dịch là “Tam”: ba Toàn câu nghĩa là con nguyện quy y Tam bảo. Con nguyện đem cả thân tâm tánh mạng để quy y. Như những Phật tử tại gia đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đó là quy y Tam bảo. Quy y Tam bảo tức là quy y với toàn thể chư Phật trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Cũng chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy y với tất cả các bậc Hiền thánh tăng trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới. Hư không, chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả các cõi nước đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười pháp giới, trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu cõi giới của chúng sanh phàm phu. Bốn cõi giới của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác. Sáu cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Mười phương là: Bắc, Đông, Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam, đó là tám. Thêm phương trên và phương dưới tất cả là mười. Ba đời là quá khứ, hiện ại, vị lai. Chúng ta quy y với Phật bảo trong suốt khắp mười phương ba đời. Những lời đức Phật dạy được gọi là Pháp bảo. Tam tạng Kinh điển được diễn đạt qua mười hai phần Kinh văn (bộ Kinh). Tất cả Kinh điển do đức Phật nói ra được gọi là Pháp bảo. Pháp bảo không chỉ hiện hữu và lưu hành trong nhân gian mà còn lưu hành khắp cả hư không và pháp giới. Khi nào quý vị có được ngũ nhãn, lục thông rồi thì quý vị mới thâm nhập được vào chân Kinh. Có nghĩa là quý vị đọc được “vô tự chân Kinh”. Trong hư không, bất kỳ lúc nào thích, quý vị đều đọc được chân kinh mà không cần hở môi. Lục Tổ đã từng nói: “Khi mê Pháp Hoa chuyển Khi ngộ chuyển Pháp Hoa”. “Vô tự” không có nghĩa là Kinh không có chữ. Mà chính là hàng phàm phu không thấy được chữ. Tuy nhiên, khi quý vị nhìn sâu vào hư không, quý vị có thể thấy được chư Phật đang tụng Kinh. Một số vị đang tụng Kinh Pháp Hoa, một số vị đang tụng Kinh Thủ Lăng Nghiêm và một số vị khác đang tụng Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật đều đang tụng Kinh và trì chú như thần chú Thủ Lăng Nghiêm. Chư Phật luôn luôn hành trì các thời khóa tụng ấy. Nhờ thế nên Pháp bảo được hiện hữu và lưu truyền suốt khắp tận hư không pháp giới. Chúng ta cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng tận hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành Hiền Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo tăng. Đá ra dạ có nghĩa là “tam”: ba. Chúng ta quy y với Tam Bảo trong suốt mười phương, ba đời cùng tận hư không pháp giới. Da có nghĩa là “đảnh lễ”. Là quy y và cung kính đảnh lễ trước Tam Bảo. 77. Nam mô a lị da Nam mô. Hán dịch là “quy y”. A lị da. Hán dịch là “Thánh giả”, cũng có nghĩa là “Thánh Hiền”. Câu chú này thể hiện sự quy y với tất cả các Hiền Thánh Tăng. 78. Bà lô kiết đế Bà lô kiết đế. Hán dịch là “quán”. 79. Thước bàn ra da Thước bàn ra da. Hán dịch là “tự tại”. Toàn câu Bà lô kiết đế thước bàn ra da có nghĩa là Quán Tự Tại tức là Bồ Tát Quán Thế Âm. 80. Ta bà ha Bồ tát Quán Tự Tại đã thành tựu tất cả mọi công đức. Ta bà ha có nghĩa là thành tựu công đức vô lượng vô biên. 81. Án tất điện đô Nay phần kinh văn của thần chú đã được tụng rồi. Tiếp theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ Án luôn luôn dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án mang ý nghĩa “dẫn sinh nghĩa”. Tất nghĩa là “thành tựu”. Điện đô. Hán dịch là “ngã giới” là đạo tràng, lãnh thổ, cương vực của mình đã được kiết giới thành tựu. Phạm vi kiết đại giới là 800 do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do tuần. Trong phạm vi đã được kiết giới này, hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được như ý. Chẳng hạn như khi tôi đã kiết giới đạo tràng trong phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn) thì trong toàn bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc những thiên tai khác. Vì các vị hộ pháp, thiện thần đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng được thành tựu. Phạm vi và ý nghĩa kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi trần cũng rộng lớn bao la rồi. Vì một hạt vi trần của hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới, và vô lượng vi trần trong thế giới cũng chỉ hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy, nếu một vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều hoại diệt. Một hạt vi trần tồn tại thì vô lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi diệu của sự kiết giới. 82. Mạn đà ra Mạn đà ra. Hán dịch là “đạo tràng”, cũng dịch là “Pháp hội”. Nghĩa là đạo tràng của hành giả nhất định phải thành tựu. Pháp hội của hành giả nhất định phải thành tựu. 83. Bạt đà da Bạt đà da dịch là “Toại tâm viên mãn”. Chẳng hạn như khi tôi muốn một vi trần kh6ng hoại thì nó sẽ không hoại. Nếu tôi muốn tất cả các vi trần không bị tan hoại thì các vi trần ấy sẽ kết hợp lại với nhau. Khi tôi niệm Án, tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha với tâm nguyện sẽ không có nạn động đất xảy ra ở San Francisco (Cựu Kim Sơn), hoặc nếu có nạn động đất lớn thì nạn ấy biến thành nhỏ, nạn nhỏ thì biến thành không có. Nhờ vậy nên không có nạn động đất, không có ai sợ hãi. Thế nên gọi là sự thành tựu. Tùy theo tâm nguyện mà đều được như ý (toại tâm viên mãn). Nếu quý vị có niềm tin chí thành, thì thấy rất là màu nhiệm. Còn nếu quý vị không tin, là vì quý vị chẳng thích thú gì với những điều mầu nhiệm như trên. 84. Ta bà ha Ta bà ha dịch là “thành tựu”. Thành tựu điều gì? Thành tựu mọi thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát tâm nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha. Những vị khi làm lễ thế phát xuất gia cũng trì niệm câu chú này. Có nghĩa là ước nguyện việc xuất gia tu học Phật pháp sẽ được như ý thành tựu viên mãn. Đến đây thì Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni và chú Đại Bi đã được giảng giải xong. Nay tôi cũng đã giảng hết bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó là phần sau của Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni. Còn phần sau nữa là khoa nghi hành trì, là phương pháp tu hành, nay tôi không nhắc lại nữa. Năm trước, một số đệ tử có tâm nguyện được nghe giảng chú Đại Bi. Đến nay quý vị nghe giảng gần một năm. Pháp hội này được xem như thành tựu viên mãn. Tôi nguyện rằng quý vị có phát tâm hành trì điều gì cũng được như ý, tất cả đều được Bạt đà da ta bà ha, tức là thành tựu viên mãn tâm nguyện của mình. Mỗi người có sự phát nguyện khác nhau, nên sự thành tựu cũng không đồng, nhưng đều viên mãn cả. Nguyện cho tất cả Phật tử có duyên được nghe Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni này đều sớm thành tựu quả vị Phật, vì đây là ước nguyện của những người thâm tín chư Phật. Một khi quý vị đã chứng được quả vị Phật tức là mọi việc đều “toại tâm mãn nguyện” rồi. Tác giả: Hòa thượng Tuyên Hóa
    1 like
  34. Kính thưa các học giả và các anh chị, Phước Huệ có thắc mắc xin được chỉ dạy. Xin được hỏi trong Tử vi khi lấy lá số cho tháng âm, ví dụ rơi vào tháng 5 nhuận thì tháng đó được tính theo tháng 5 hay tháng 6. Bởi lẽ sinh vào tháng 5 nhuận Mậu Dần có sách nói lấy số tử vi là tháng 5 có sách nói lấy số tử vi vào tháng 6. Nhưng cũng có sách nói từ ngày 1 - 14 (al) được tính vào tháng trước và sau ngày 14 được tính là tháng sau. Vậy lấy thế nào cho đúng. Tương tự nếu một người mất vào tháng nhuận thì tính ngày giỗ xác định như thế nào. Về tính giờ âm lịch. Nhiều sách nói 23h01-01h00: Tý; 01h01-03h00: Sửu. Tuy nhiên còn tủy thuộc vào múi giờ, vị trí địa lý cũng như theo mùa. Vậy cách tính giờ âm lịch như thế nào cho thật chính xác cho đối với điều kiện cụ thể của Việt Nam. PH có đọc và tìm kiếm thì thấy giờ âm lịch ở Việt Nam được xác định như sau (tài liệu không có trích dẫn xuất xứ) Tháng 2 và tháng 8: từ 3giờ 40 đến 5 giờ 40 là giờ Dần. Tháng 3 và tháng 7: từ 3g50 đến5g50 là giờ Dần Tháng4 và tháng 6: từ 4g đến 6g là giờ Dần Tháng5 : từ 4g10 đến 6g10 là giờ Dần Tháng 10 và tháng chạp: Từ 3g20 đến 5g20 là giờ Dần Tháng 11: từ 3g10 đến 5g10 là giờ Dần Căn cứ vào giờ Dần để suy ra các giờ khác. Vậy cách xác định giờ âm lịch thế nào cho đúng, và đối với các tháng Nhuận giờ âm lịch được xác định ra sao. PH rất mong được chỉ dạy.
    1 like
  35. Tự kỷ ám thị - Chìa khóa của sự phi thường Giadinh.net - Trong rất nhiều trường hợp, tự kỷ ám thị đã đem lại thành công cho con người ngoài sức tưởng tượng, những việc mà bản thân họ nghĩ mình không có khả năng làm được.Người ta có thể sử dụng nó như một liệu pháp để ngăn chặn và vượt qua bệnh tật. Thậm chí nó có thể đưa một con người cận kề danh giới mong manh của sự sống và cái chết, từ sự suy sụp khi nghĩ không còn khả năng cứu chữa trở lại với cuộc sống vui tươi. Khám phá tiềm năng Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương, Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam Á cho biết, từ thời xa xưa, cho dù kiến thức của con người còn hạn hẹp thì người ta đã biết được giá trị tác động của tinh thần lên vật chất, cụ thể hơn là đối với cuộc sống và bản thân của con người. Người ta tự nhủ với chính mình về một điều nào đó để tự khuyến khích mình đạt được những khả năng mà bản thân trước đây không có - hoạt động đó, người ta gọi là tự kỷ ám thị. Từ cổ xưa người ta đã nói đến sự tương tác giữa ý thức và bản thể. Ví như sự tương tác của những người học thiền, tu luyện tự tạo cho mình sau khi viên tịch trở thành ngọc xá lỵ. Hoặc những người tự cho mình có khả năng nào đó như đi trên than lửa cháy rừng rực mà không bị bỏng hoặc đi trên các mũi giáo nhọn mà không việc gì. Ngoài sự rèn luyện (như người thiền) có thể ngồi dưới giá lạnh rất lâu mà không bị cảm giác “rét cắt da cắt thịt” chi phối thì họ còn có niềm tin mãnh liệt vào khả năng “siêu nhiên” của mình. “Tự kỷ ám thị có phương pháp, có ý thức nhằm phục vụ mục đích tốt sẽ đem lại những kết quả tốt”, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhấn mạnh, “Tuy nhiên, có những người hay liên tưởng xấu khi gặp một ai đó bị tai nạn hoặc xui xẻo sẽ bị ám ảnh và dễ dẫn đến trầm cảm, nặng hơn là hoang tưởng.Đặc biệt mẫn cảm với tác động này là những người có hệ thần kinh yếu, dễ bị kích động”. Người có thần kinh yếu nếu bị ai đó nói “hôm nay trông sắc mặt anh thế nào ấy, có chuyện gì không ổn phải không”, điều đầu tiên nếu người đó không có vấn đề gì về tinh thần và sức khoẻ sẽ là câu trả lời “không”. Nhưng nếu có người cố tình trêu ghẹo, nói đi nói lại nhiều lần và có nhiều người cùng tham gia nói vậy sẽ khiến họ không thể bình tâm, tinh thần sẽ hốt hoảng, dẫn đến những hành vi sai lạc. Trong các lễ hội của một số dân tộc trên thế giới, nhiều người dùng que sắt xiên qua má, hoặc dùng móc sắt móc vào da thịt mình để kéo xe mà không có cảm giác đau đớn. Hay trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của ta, một nữ dân quân đã vác những tải đạn hàng trăm kilôgram mà một người bình thường với trọng lượng nhỏ bé như vậy không thể làm nổi. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, đây là dạng tự kỷ ám thị vô thức. Lúc đó trong chiến tranh, giữa cái sống và cái chết đan xen, tinh thần chiến đấu bảo vệ tổ quốc đã khiến người con gái đó nghĩ mình phải vác thật nhiều, thật nhanh để cung cấp đạn cho đồng đội đã khiến cô vác được tải đạn gấp mấy trọng lượng của mình. Câu chuyện về một kẻ ăn trộm, khi bị đuổi bắt đã chui tọt vào chuồng gà có cửa chuồng bé tí, hoặc nhảy vút qua bức tường cao 4 - 5m để thoát thân cũng thể hiện khả năng ám thị vô thức trong hoàn cảnh bức bách, ngàn cân treo sợi tóc. Khả năng chữa bệnh kỳ diệu Khả năng phi thường của con người quả thật chưa thể khai thác, phát huy hết, chính tự kỷ ám thị giúp phát huy được tiềm năng con người. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho biết thêm, có những dạng tự kỷ ám thị có ý thức và phương pháp, người ta tập trung tư tưởng, ý nghĩ của mình bằng một câu nói, một vật cụ thể nào đó và lặp đi lặp lại ước muốn của mình trong đầu. Chính vì thế, tự kỷ ám thị có thể giúp con người chữa được bệnh hiểm nghèo. Thậm chí người ta có thể làm thay đổi cấu trúc vật lý và cơ địa của mình cho thích nghi với điều ý chí họ mong muốn. Thời chiến tranh, nhiều thương binh đã được bác sĩ khuyến khích sử dụng phương pháp tự kỷ ám thị để họ không có cảm giác đau đớn khi bị phẫu thuật mà không có thuốc gây tê. Tâm lý trị liệu là sự trị bệnh bằng tư tưởng, ý lực hay còn gọi là tự kỷ ám thị hoặc là “tự thôi miên”. Chúng ta biết rằng, tế bào hay hệ miễn dịch của con người hoạt động không tự ý, nghĩa là những hoạt động theo tín hiệu từ trung ương thần kinh. Vì thế khi phải chiến đấu với bệnh tật, tự thôi miên bằng câu “tôi lành bệnh, tôi mạnh khỏe” thần kinh trung ương sẽ đánh đi những tín hiệu tốt, rất nhiều lần như thế, hệ miễn dịch sẽ “buộc” phải hoạt động theo chiều hướng vãn hồi sức khỏe. Trong trường hợp này, nếu án thị chuyên nhất có thể cơ thể sẽ sản sinh chất endorphine một cách cục bộ nhằm xoa dịu khi cơn bệnh hành hạ. Chất endorphine là dạng “morphin nội sinh” ai cũng có. Nó có nhiệm vụ hóa giải mọi sự đau nhức, mỏi mệt như một liều giảm đau, an thần. Nhiều người yêu thích sân khấu đều biết rõ nghệ sĩ tài năng I. N. Pevxôp (Nga). Ở ngoài đời ông bị tật nói lắp, nhưng trên sân khấu ông đã khắc phục được nhược điểm này. Bằng cách nào vậy? Nghệ sĩ đã ám thị mình rằng trên sân khấu không phải ông, mà là một người khác nói và diễn, đó là nhân vật của vở diễn, con người không nói lắp. Và điều đó luôn luôn có tác dụng tốt. Dưới tác động của tự kỷ ám thị, người ta có thể chữa cho người bị liệt chân tay, có thể bị điếc và mù bất thình lình. Điều căn bản gây ra hiệu quả đó chính là do, chẳng hạn, ở người bị mù thì không phải các tế bào thần kinh bị hỏng, mà chỉ có hoạt động ở vùng não chỉ huy thị giác bị rối loạn thôi. Ở vùng não đó, dưới tác động của tự kỷ ám thị đã phát triển một ổ ức chế bền vững, tức là những tế bào thần kinh mà hoạt động bị gián đoạn một thời gian khá lâu. Các tế nào đó thôi không nhận các tín hiệu tới và trả lời chúng nữa. Vậy có thể chữa cho những bệnh nhân như thế bằng cách áp dụng thôi miên và ám thị, hơn nữa, sự khỏi bệnh đến ngay tức khắc và làm cho người không am hiểu phải sửng sốt. “Từ lâu, các nhà khoa học đã giải thích được những điều “huyền diệu” như thế. Con người có thể làm được những điều kỳ diệu để phát huy sức mạnh tiềm ẩn của mình phục vụ cho bản thân và cuộc sống. Và một điều quan trọng, là hãy ám thị một cách thật tích cực, bởi nếu làm ngược lại, con người sẽ nhận được những kết quả xấu không mong muốn”, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nói. “Tự kỷ ám thị cũng có thể đem lại những hậu quả xấu nếu họ tự kỷ sai – không phù hợp với tồn tại khách quan, kiểu như một người luôn tự tưởng tượng mình có khả năng... bay như chim, cho đến một ngày quyết định bay từ trên tầng cao và kết cục là phải trả giá đắt cho hành động đó. Có người tưởng mình là vĩ nhân, cho mình là siêu nhân hay thần nọ, thánh kia, đến mức độ hoang tưởng, mắc chứng tâm thần. Cũng có người lúc nào cũng nghĩ mình yếu và bệnh tật thì sẽ luôn mệt mỏi, không muốn làm gì và rất dễ mắc bệnh. Cũng là tự kỷ ám thị nhưng người luôn buồn rầu hay lo nghĩ sẽ dẫn đến trạng thái gầy mòn, tiều tụy và tóc bạc rất nhanh. Vì khi đó, trung ương thần kinh liên tục đánh đi tín hiệu xấu khiến các tế bào hoạt động theo chiều hướng xấu. Cho nên, một người bệnh mà lúc nào cũng rên rỉ, buồn rầu, tuyệt vọng… thì hệ miễn dịch cũng sẽ hoạt động theo chiều hướng bất lợi”. (Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh) Hà Thư
    1 like