-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 30/01/2012 in Bài viết
-
CHUYỆN TÌNH TRƯƠNG CHI TÁC PHẨM VĂN HỌC VƯỢT THỜI GIAN CỦA NGƯỜI LẠC VIỆT Nếu bạn là người yêu thích âm nhạc, chắc chắn bạn sẽ biết một nhạc phẩm tiền chiến nổi tiếng của nhạc sĩ Văn Cao: đó là nhạc phẩm Trương Chi. Mở đầu cho bản nhạc là một giai điệu huyền ảo, đài các với lời hát giàu chất thơ; không thể không chép ra đây để bạn đọc thưởng thức những tứ thơ đầu tiên đầy mộng của nhạc phẩm này: Một chiều xưa, trăng nước chưa thành thơ Trầm trầm không gian, mới rung đường tơ Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ Ôi ! Tiếng cầm ca, thu đến bao giờ… Thơ và nhạc là những rung cảm vi diệu của tâm hồn. Nếu bạn được nghe những giai điệu mở đầu của nhạc phẩm “Trương Chi” với lời ca diễn cảm trong một trạng thái hoàn toàn thư giãn, bạn sẽ thấy sự huyền ảo của thơ nhạc như hòa quyện vào nhau, nâng hồn người ra khỏi mọi sự vướng bận của trần gian. Thật tài tình khi ngay câu mở đầu: "Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ" rất giàu hình tượng, đầy chất lãng mạn và bay bổng của tâm hồn với sự khoáng đạt của không gian vời vợi ngập màu trăng nước ấy, lại là hình ảnh cho tâm hồn trinh trắng như cả một trời thơ của Mỵ Nương. Trong cái không gian thơ trinh tưởng chừng như tĩnh lặng vô tư ấy, một cảm xúc từ dư âm của đường tơ như đang dâng lên chầm chậm và lan tỏa trong nàng..."Trầm trầm không gian mới rung đường tơ". Khúc nhạc tình đã ngập một trời trinh trắng. Để cho "Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ". Và rồi một cảm giác bâng khuâng xa lạ đã đến với tâm hồn thơ trinh len lén, nhẹ nhàng, êm dịu như nâng niu, như ngần ngại. Nó chưa phải tình yêu, nó mới chỉ gợi lên sự trống vắng trong tâm hồn: " Ôi tiếng cầm ca thu đến bao giờ?". Mùa thu là mùa của biệt ly, của những chiếc lá vàng vĩnh biệt sự sống trở về cát bụi và để lại trên trần gian sự luyền tiếc của những cành thu đầy cảm xúc. Thật tuyệt vời với chất thơ ngập tràn trong những giai điệu đầu tiên của nhạc phẩm Trương Chi! Tôi quan niệm cho rằng một hình tượng văn chương có giá trị và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật là nó phải mô tả được trang thái trừu tượng. Mô tả được những cảm xúc tế vi của tâm hồn. Điển hình như hai câu thơ đầy mỹ cảm và tuyệt hảo của nữ sĩ Đặng Nguyệt Anh: Một đời gió có vì ai. Xô nghiêng chiều tím ra ngoài hoàng hôn. Tôi đã nghe đi, nghe lại những giai điệu trác tuyệt với lời ca đầy hình tượng trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao. Với tôi, ông là thiên tài của nền âm nhạc Việt Nam đương đại. Tiếng cầm ca như đem cả một mùa thu đến với giai nhân tuyệt sắc đã làm rung cảm bao nhiêu thơ nhạc trong nền văn hóa Việt - được nhắc đến trong nhạc phẩm nổi tiếng của Văn Cao - là của chàng Trương Chi, khi tiếng sáo tuyệt kỹ của chàng Trương vọng tới lầu son gác tía của Mỵ Nương. Câu chuyện tình Trương Chi đã gây bao cảm xúc nghệ thuật cho các bậc tài hoa anh kiệt của nền văn hiến Việt và nhạc phẩm Trương Chi của thiên tài âm nhạc Văn Cao cũng bắt đầu nguồn cảm hứng từ câu chuyện này. Câu chuyện tình Trương Chi xuất hiện vào thời Hùng Vương và dấu ấn để lại xác định điều này chính là danh xưng Mỵ Nương, nhân vật chính với giọt lệ thiên thu làm tan tành chén ngọc, được kết tinh từ chính trái tim Trương Chi, như thách thức với thời gian, khắc khoải đợi chờ. Thời đại Hùng Vương có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhận thức được trong các quốc gia của nhân loại. Những giá trị của nền văn minh lâu đời đó dù tan nát theo những diễn biến lịch sử. Nhưng những mảnh vụn còn lại, mặc dù chưa được phục chế hoàn hảo cũng đủ làm cho trí tuệ hiện đại của nhân loại phải kinh ngạc. Trong lịch sử văn minh nhân loại, có lẽ ít thấy một quốc gia nào sử dụng khái niệm văn hiến để nói về đất nước có lịch sử trải gần 5000 năm, kể từ thời Hùng Vương thứ I (2879 trước CN - theo chính sử). Bởi vì, bắt đầu từ thời Hùng Vương, nền văn hóa của đất nước này đã hướng con người tới sự hòa nhập trong tình yêu của con người đầy nhân bản. Những truyền thuyết, huyền thoại của nền văn học nghệ thuật thời Hùng dù còn lại rất ít, đều chứng tỏ điều đó. Đó là: Mỵ Châu - Trọng Thủy, Thạch Sanh, chuyện tình Trương Chi và rải rác trong những truyền thuyết lịch sử khác. Có thể xác định ngay rằng: Chuyện tình Trương Chi Mỵ Nương là câu chuyện tình hay nhất trong thể loại chuyện tình lãng mạn của thế giới. Bây giờ và mãi mãi về sau, hay trở ngược lại hàng thiên niên kỷ xuyên suốt qua quá khứ của các nền văn minh nhân loại, cũng sẽ không bao giờ có được một câu chuyện tình lãng mạn hay hơn thế nữa. Sự thăng trầm của Việt sử với hàng ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và những cuộc chinh chiến liên miên, chủ yếu với Bắc phương trong một ngàn năm hưng quốc sau đó của Việt sử, đã khiến những di sản văn hiến Việt - trong đó có câu chuyện Trương Chi truyền miệng này - đã phải cô đọng lại và tóm tắt nội dung của nó. Nhưng với nội dung còn lại vượt thời gian tính bằng thiên niên kỷ với bao thăng trầm của Việt sử cũng đủ nhận thấy sự trác tuyệt đến huyền vĩ của tác phẩm văn học thuộc nền văn hiến Việt.Vì là một tác phẩm văn học, nên chuyện tình Trương Chi khác với truyền thuyết lịch sử là không có sự hiện diện của vua Hùng. (Tất cả những truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử ẩn tàng của thời Hùng Vương bao giờ cũng bắt đầu bằng câu: "Vào thời Hùng Vương thứ....").Nhưng người Việt gốc Văn Lang vẫn nhận ra dấu ấn của tổ tiên qua người con gái diễm hằng với thiên thu: đó là Mỵ Nương con quan tể tướng. May thay! Nếu không phải là Mỵ Nương, mà là một thiên thần thì câu chuyện đã nhạt nhòa với thời gian, còn đâu chất lãng mạn của tình yêu con người trong áng văn chương trác tuyệt, vượt thời gian đến tận bây giờ và mãi mãi về sau... Câu chuyện kể rằng: Ngày xưa, có một chàng trai đánh cá nghèo, mồ côi cha mẹ tên là Trương Chi. Anh rất xấu xí, nhưng thổi sáo rất hay. Đêm đêm anh thường đem sáo ra thổi. Bến sông anh đậu thuyền ngay gần dinh quan tể tướng, nên tiếng sáo của anh vang vọng đến dinh của ngài. Quan tể tướng có một người con gái tên là Mỵ Nương đã đến tuổi lấy chồng rất xinh đẹp. Mỗi khi Trương Chi thổi sáo, nàng lại ra cửa sổ phòng mình hướng về phía sông để được nghe tiếng sáo tài hoa của chàng và nàng đã say mê tiếng sáo ấy. Rồi có một thời gian, Trương Chi ốm bệnh, Mỵ Nương không còn được nghe tiếng sáo của chàng. Nàng buồn bã tưởng nhớ tiếng sáo đến tương tư, rồi phát bệnh. Quan tể tướng hỏi nguyên nhân, biết chuyện, ông cho mời Trương Chi đến để thổi sáo cho nàng nghe. Được nghe lại tiếng sáo, Mỵ Nương khỏi bệnh. Nhưng vừa nhìn thấy Trương Chi, nàng đã quay mặt đi vì chàng quá xấu. Còn Trương Chi lại đem lòng yêu Mỵ Nương, sau khi được gặp nàng. Biết không thể gần nhau, Trương Chi buồn bã bệnh chết (Có bản chép chàng tự tử chết). Trải bao năm tháng chôn vùi dưới đất, thân xác đã tiêu tan. Nhưng trái tim Trương Chi kết thành một khối ngọc đỏ thắm như thách thức với thiên thu, thủy chung chờ đợi. Về sau có người tình cờ tìm được khối ngọc này, tiện thành một bộ đồ trà và đem dâng quan tể tướng. Trong một tiệc yến có Mỵ Nương cùng dự, quan tể tướng sai lấy bình trà quí ra dùng. Nhưng khi rót nước vào, Mỵ Nương chợt thấy trong chén trà của mình hình bóng con thuyền của Trương Chi và tiếng sáo ngày xưa vọng về. Công chúa khóc, nước mắt nhỏ vào trong chén và chén trà tan đi trong tay nàng. Giọt lệ của Mỵ Nương không phải chỉ nhỏ vào chén trà khiến mối tình u uẩn của Trương Chi tan đi trong tình yêu của thiên thần. Cùng với trái tim ngọc đá của Trương Chi, giọt lệ từ cảm xúc trong tâm hồn Mỵ Nương đã rơi vào tận cõi thiên thu, đưa tình yêu đôi lứa đến đỉnh cao nhất của sự hòa nhập tâm hồn. Mỵ Nương - nàng công chúa diễm hằng - bước vào không gian của tuổi buồn trinh nữ. Tâm hồn trong trắng của nàng chưa một lần rung lên với nhạc khúc tình yêu. Nhưng nàng lại tìm được sự đồng cảm trong tiếng sáo chơi vơi, đong đầy chất u buồn nhân thế của Trương Chi... đã đến trong nàng không biết tự bao giờ... Tiếng sáo Trương Chi trầm buồn theo sóng nước, chơi vơi như cuộc đời bất hạnh của chàng. Chàng mồ côi cả cha lẫn mẹ, lại có một ngoại hình xấu xí bọc một kiếp nghèo. Nhưng thiên nhiên lại ban cho chàng cây sáo với tài năng tuyệt kỹ. Tiếng sáo của chàng an ủi cho chính lòng chàng. Trương Chi biết đâu trong lầu son gác tía bên sông lại có một tuyệt thế giai nhân, đang say đắm thả hồn theo tiếng sáo của chàng. Ngay từ những đoạn mở đầu của câu chuyện tình, chất lãng mạn đã ngập tràn trong âm thanh vi diệu của tiếng sáo Trương Chi. Tiếng sáo ấy chơi vơi, xao xuyến rồi lắng chìm trong tâm hồn trinh nữ của Mỵ Nương. Giá trị nghệ thuật là dung môi để hai tâm hồn đồng cảm tìm đến nhau, rồi tan trong đó. Từ chân trời góc biển bên kia lục địa Á - Âu sau đó hơn 2000 năm, đại văn hào Victor Hugo cũng không nỡ gán ghép khiên cưỡng mà cho cô gái Bôhêmiêng xinh đẹp lấy chàng Cadimodo gù, đã viết nên tác phẩm lãng mạn nổi tiếng thế giới và là niềm tự hào của nền văn học Pháp; đó là tác phẩm “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”. Từ chối hợp hôn với một người đàn ông xấu xí tật nguyền, đó là quyền thiêng liêng của người phụ nữ; quyền của thiên chức làm mẹ mà Thượng Đế ban cho mỗi người nữ ở trần gian; để đảm bảo sự di truyền của giống nòi. Dù cho Mỵ Nương tìm thấy ở Trương Chi một sự hòa nhập tâm hồn, nhưng chàng quá xấu... không ai có thể trách nàng! Tình yêu nam nữ không có sự hòa nhập xác thân nơi trần thế thì không có chất lứa đôi. Nhưng thiên tài của tác gia thời Hùng cũng như đại văn hào Victor Hugo đã tài tình tạo ra một hình tượng xấu xí của chàng trai, để khéo léo từ chối một sự hòa nhập thân xác đầy nhân tính; tình yêu đôi lứa trong tác phẩm chỉ còn lại phần tâm hồn. Đó là điều kiện để những thiên tài đưa chất lãng mạn đến sự rung cảm tế vi nhất trong tình yêu của con người. Với cõi tâm linh, ước mơ và sáng tạo là không giới hạn. Trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”, trái tim cô gái Bohemieng chưa hề rung cảm trước mối tình của Cadimodo – đã đến với nàng bằng tình yêu tự nhiên đẹp nhất ở con người. Kết thúc câu chuyện, Cadimodo ôm xác người yêu cùng chết trong hầm mộ. Nhưng trong câu chuyện tình Trương Chi, sự lãng mạn đã thăng hoa đến mức tận cùng của tình yêu đôi lứa. Tác giả truyện tình Trương Chi đã tạo ra những khoảng cách từ chất liệu đời thực của thế nhân giữa đôi trai tài gái sắc Trương Chi Mỵ Nương. Đó là khoảng cách giàu sang tột đỉnh với sự nghèo khó tận cùng; khoảng cách của quyền uy tối cao trong xã hội và thân phận mồ côi, cô đơn và cuối cùng là khoảng cách mà chính Tạo hóa đem lại cho con người. Đó là khoảng cách giữa vẻ đẹp tuyệt mỹ của người con gái tuổi trăng tròn với sự xấu xí của người đánh cá nghèo Trương Chi. Có thể nói rằng tác giả truyện tình Trương Chi đã thể hiện thiên tài của mình khi không chỉ dừng lại ở khoảng cách đẹp xấu bởi quyền năng của tạo hóa cho hình thức nhân vật, như trong "Nhà thờ Đức Bà ở Paris" - mặc dù chỉ với một khoảng cách này cũng để hạn chế tình yêu của thế nhân (Tất nhiên ngoại trừ sự thương hại). Mà cùng lúc tác giả câu chuyện tình Trương Chi đưa ra những khoảng cách tận cùng ở hai cực của những mâu thuẫn xã hội trong con mắt tha nhân vào hoàn cảnh nhân vật của mình. Đó chính là những khoảng cách làm ngăn ngại và ngăn cản tình người đến với nhau mà thế giới hiện đại gọi là "giai cấp".Nhưng chính từ khoảng cách tận cùng của những mâu thuẫn trong quan hệ xã hội ở con người đã đưa câu chuyện đến đỉnh của những câu chuyện tình lãng mạn. Khi tâm hồn của Mỵ Nương ở tuyệt đỉnh cao sang, quyền quý với sắc đẹp tuyệt trần vẫn hòa nhập và đồng cảm trong tiếng sáo tài hoa tuyệt kỹ của Trương Chi. Nghệ thuật âm nhạc chính là chất xúc tác tuyệt vời đã đẩy sự lãng mạn lên đến đỉnh cao nhất của câu chuyện , khi nó đã đưa tâm hồn con người đồng cảm và chia sẻ với nhau vượt qua tất cả mọi mâu thuẫn giữa con người với con người trong nhận thức của tha nhân. Đến đây thì cũng đủ để mối tình trong câu chuyện mang tính vượt thời gian và chất chứa đầy chất nhân bản của tình yêu con người, khác hẳn những chuyện tình lãng mạn khác ở trần gian. Trong "Nhà thờ Đức Bà", Victor Hugo chỉ khai thác được một tình tiết đơn giản nhất để tạo khoảng cách giữa cái cực xấu Cadimodo và sự xinh đẹp của cô gái Bomehieng và tính lãng mạn của câu chuyên xuất hiện ở khoảng cách này với tình yêu vô vọng của Cadimodo. Còn trong truyện tình Trương Chi của nền văn hiến Việt thì đấy cũng mới chỉ là giai đoạn mở đầu cho cả một thiên bi diễm tình lãng mạn vào bậc nhất trong nền văn hóa của nhân loại. Cốt lõi của câu chuyện và chất lãng mạn đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật văn chương chính là sự thượng tôn nghệ thuật trong văn hóa tri thức vào thời Vương đạo thanh bình của đất nước Văn Lang, cội nguồn văn hiến Việt. Những khoảng cách của tha nhân với sự giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu đều chỉ còn là hình thức bên ngoài trang sức cho cuộc đời. Còn giá trị đích thực chính là cái tâm thánh thiện và trong sáng trong mỗi con người rung cảm với thiên nhiên, cuộc sống qua những gía trị nghệ thuật để tâm hồn con người đồng cảm với nhau và hòa nhập trong sự rung cảm nghệ thuật. Ở đây là hình tượng bằng tiếng sáo trác tuyệt của Trương Chi. Sự hòa nhập và rung cảm đồng điệu của con người trong dung môi nghệ thuật, xóa nhòa mọi khoảng cách quyền uy, sự giàu sang và vẻ đẹp thân xác chính là chất lãng mạn tuyệt vời, mang giá trị nhân bản cao cả và đầy tính minh triết của chuyện tình Trương Chi. Đây cũng là điều mà "Nhà thờ Đức Bà ở Paris" - vốn được coi là thể loại chuyện tình lãng mạn nổi tiếng của văn chương hiện đại - không thể so sánh. Có thể nói rằng chỉ cần đến đoạn giữa của thiên diễm tình Lạc Việt cũng đủ để câu chuyện tình Trương Chi xứng đáng đặt vào hàng những câu chuyện tình lãng mạn hay nhất trong lịch sử văn minh nhân loại. Nhưng tính vượt thời gian và đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật trong chuyện tình Trương Chi của nền văn hiến huyền vĩ Việt - khiến cho trong quá khứ, hiện tại và tương lai của tất cả nền văn minh nhân loại không thể có một câu chuyện hay hơn thế nữa. Đó chính là đoạn kết đầy huyền thoại đã đưa câu chuyện tình Trương Chi vào cõi bất tử của văn minh nhân loại, qua hình tượng nghệ thuật trác tuyệt với trái tim hóa đá của Trương Chi và giọt lệ thiên thu của Mỵ Nương. Thế nhân kể rằng: "Trương Chi khi gặp Mỵ Nương qúa xinh đẹp và đem lòng yêu nàng"!?. Có thật thế không? Tầm thường quá! Nó không phải bản chất của câu truyện tình trác tuyệt của nền văn hiến Việt. Cái đó chỉ là nhận thức trực quan về ngôn từ văn chương khi ghi nhận Trương Chi thấy Mỵ Nương xinh đẹp nên đem lòng yêu trong tuyệt vọng và tự tử chết (Hoặc bệnh chết). Một cái nhìn như vậy không mang tính hợp lý với toàn bộ kết cầu nội dung câu chuyện truyền miệng vượt qua bao thăng trầm của lịch sử với thời gian tính bằng thiên niên kỷ. Dù là chuyện thần thoại cũng phải có tính hợp lý của nó. Kết cấu và diễn biến toàn bộ nội dung câu chuyện cho thấy tiếng sáo Trương Chi chỉ có Mỵ Nương cảm nhận được và rung cảm với tiếng sáo ấy. Ở đây, nó có nét tương tự như câu chuyện Tử Kỳ với Bá Nha vậy. Điều này có thể minh họa bằng hai câu thơ đầy minh triết của nữ sĩ Ngân Giang: Chuyện không hợp ý cười thêm gượng. Đời thiếu tri âm sống cũng thừa. Bởi vậy, khi biết rằng người có thể chia sẻ nỗi cô đơn tận cùng với tâm hồn chàng chính là nàng công chúa quyền quý cao sang và không thể gần gũi, chàng đã tự sát (Hoặc buồn bã sinh bệnh mà chết). Tương tự như Bá Nha đập đàn vì không còn ai chia sẻ. Tình yêu của Trương Chi nếu chỉ vì muốn lấy Mỵ Nương làm vợ, nhưng không được mà chết thì tầm thường quá. Nó không hợp lý với diễn biến nội dung câu chuyện. Bởi vì nếu chỉ có tham vọng hòa nhập thân xác thì câu chuyện sẽ kết thúc ở cái chết của Trương Chi. Chính đoạn kết của câu chuyện mang tình huyễn ảo và màu sắc thần thoại đã xác định rằng Trương Chi không hề có tham vọng lấy Mỵ Nương, mà chàng chỉ cần chờ đợi một câu trả lời của một tâm hồn đồng cảm. Hình tượng trái tim hóa đá như thách thức với thiên thu, khắc khoải đợi chờ câu trả lời của Mỵ Nương đã xác định rằng: Chàng muốn tìm một sự hòa nhập tâm hồn vốn cô liêu tận cùng trong chàng và chàng chỉ còn tiếng sáo để gửi gấm nỗi buồn nhân thế. Sự miêu tả tính tuyệt kỹ tài hoa trong tiếng sáo của Trương Chi còn là sự gửi gấm cả linh hồn chàng hòa trong tiếng sáo. Nếu bạn đã từng nghe những nghệ nhân hạng hai chơi nhạc vì đến giờ biểu diễn; đã từng nghe những ca sĩ hát nhép mà cố diễn cảm thì bạn sẽ thấy tính hòa nhập cả tâm hồn trong biểu diễn nghệ thuật sẽ mang lại những cảm xúc chân thành nhất của con người đến với nhau cần thiết như thế nào. Tác giả chuyện tình Trương Chi đặt nhân vật của mình trong một hoàn cảnh cô đơn tận cùng vì mồ côi cả cha lẫn mẹ với một kiếp nghèo và thân hình xấu xí. Đã vậy chàng Trương lại không phải sống ở nới đô thị phồn hoa, mà sống trên một con thuyền lênh đênh sông nước, vốn là một hình ảnh đầy cảm xúc của nội tâm khi con người trở về với chính mình. Trong hoàn cảnh cô đơn tận cùng trong tình nhân thế thì tiếng sáo tuyệt kỹ tài hoa của Trương Chi chính là hình tượng miêu tả cả tâm hồn Trương Chi gửi gấm một nỗi niềm sẻ chia và hòa nhập nỗi cô liêu trong tiếng sáo của chàng. Tất nhiên tiếng sáo chất chứa đầy sự u uẩn của Trương Chi cũng chứa đựng bao nỗi khát khao một tình yêu con người đích thực đến với chàng. Tiếng sáo của Trương Chi đâu phải chỉ có mình Mỵ Nương nghe được. Nhưng ai rung cảm được tiếng nhạc lòng của Trương Chi bằng Mỵ Nương? Phải chi Trương Chi là Bá Nha, Mỵ Nương là Tử Kỳ thì chỉ đập cây đàn là xong. Nhưng Trương Chi không thể đập cây sáo rồi ra đi như Bá Nha. Vì ở Bá Nha chỉ là sự đồng điệu về nghệ thuật, không có người thưởng thức thì đàn ai nghe. Còn Trương Chi, ngoài sự đồng điệu về nghệ thuật; thanh âm tiếng sáo chính là thanh âm của tâm hồn chàng; khi ngoại hình xấu xí trong con mắt thế nhân, không phải là con người đích thực trong chàng. Rung động với tiếng sáo của Trương Chi, chính là sự hòa nhập với tâm hồn Trương Chi. Nhưng oái oăm thay, người hiểu được lòng chàng và hòa nhập với tâm hồn chàng qua tiếng sáo lại là một giai nhân tuyệt thế và quyền quý cao sang. Cho dù cha nàng với quyền uy tể tướng, có thừa khả năng để đưa chàng đánh cá nghèo thành một người có đầy thế lực. Nhưng quyền uy tể tướng, làm sao vượt được quyền năng của tạo hóa đã ghi dấu ấn trên thân hình xấu xí của chàng? Trong "Nhà Thờ Đức Bà ở Paris", Victor Hugo chưa một lần để Cadimono tỏ tình với người minh yêu vì khoảng cách đẹp xấu. Đấy là tính nhân bản của câu chuyện này - Mặc dù hoàn cảnh nhân vật này có thể nói là cùng "giai cấp". Tất nhiên tác giả thiên tài của nền văn hiến Việt trong câu chuyện tình Trương Chi đầy chất nhân bản cũng không thể đưa một người con gái xinh đẹp lấy một chàng trai thậm xấu xí cả. Nếu như tác giả của chuyện tình Trương Chi và "Nhà thờ Đức Bà ở Paris" cho nhân vật của mình lấy nhau thì sự ích kỷ lại chính từ chàng trai xấu xí. Đâu còn tính nhân văn và cao thượng của câu chuyện tình lãng mạn dù cách nhau hàng thiên niên kỷ. Cái chết của nhân vật trong cả hai câu chuyện chính là một trong những tình tiết giàu chất nhân tính và cao thượng của chuyện tình Trương Chi, có nét tương đồng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” của Victor Huygo. Nhưng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” thì cô gái xinh đẹp người Bôhêmiêng đã chết, để hai người cùng chết bên nhau với tình yêu say đắm của Cadimodo. Còn ở chuyện tình Trương Chi thì chàng nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh đã chết. Chàng chết, vì đã mất đi một nửa linh hồn khi chợt thấy ở trong sự rung cảm của Mỵ Nương với cõi lòng chàng. Chàng chết, vì không thể đem lại hạnh phúc cho nàng với một ngoại hình xấu xí. Câu chuyện tình đến đây cũng đủ chất lãng mạn và cao thượng, hơn hẳn so với nhiều câu chuyện tình nổi tiếng cổ kim. Chính sự khao khát một tình người đồng cảm sưởi ấm cho tâm hồn cô liêu đến tận cùng của Trương Chi, khi đã tìm được sự hòa nhập của tâm hồn mà không thể gần gũi để sẻ chia, đã làm trái tim chàng hóa đá để thách thức với thiên thu, khắc khoải chờ câu trả lời của Mỵ Nương. Giọt lệ của Mỵ Nương khi được nghe lại tiếng sáo Trương Chi rơi vào chén ngọc - được khắc họa bằng cả khối đá nội tâm (Biểu tượng bằng trái tim) tưởng như sánh với sự vĩnh hằng cùng tạo hóa - Hai tâm hồn hòa nhập, trái tim Trương Chi tan chảy bởi giọt lệ như nhỏ vào cõi thiên thu của Mỵ Nương. Giọt lệ thiên thu ấy mang cả một tâm hồn đồng cảm trong tiếng sáo năm xưa của Trương Chi, đưa câu chuyện tình vào cõi bất tử của văn minh nhân loại. Đoạn kết của câu chuyện tình Trương Chi đầy huyền ảo trong sự hư cấu nghệ thuật, đạt đến đỉnh cao nhất của thiên bi diễm tình trác tuyệt và rất giàu chất nhân bản. Ở đây, chất lãng mạn đã được thăng hoa đến tận cùng và chứa đựng tính minh triết cao cấp nhất của mọi thứ triết lý của tha nhân trong lịch sử văn minh nhân loại, để ngàn đời sau – cho đến ngày tận thế – nhân loại sẽ không còn tạo dựng được một hình tượng hay hơn thế nữa. Hình tượng trái tim hóa đá và giọt lệ thiên thu đã nhắc nhở con người trở về với bản thể đích thực có trong mỗi con người - đó là cuộc sống nội tâm và sự hòa nhập trong cõi vĩnh hằng - Nó đã xóa nhòa và vượt qua những khoảng cách mâu thuẫn xã hội và tham vọng của con người – dù biến thiên theo lịch sử – đã tạo ra cho chính mình và chấp vào đó ở nơi trần thế. Cũng như tượng thần vệ nữ ở Milo, những điêu khắc gia đầy tài năng của nhân loại hiện nay, chưa ai lắp nổi cánh tay cho nàng. Đôi cánh tay trần thế, không thuộc về vẻ đẹp của thiên thần. Đây cũng là điều mà trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” một điển hình được ca ngợi về thể loại chuyện tình lãng mạn, đã không giải quyết được. Trong “Nhà Thờ Đức Bà ở Paris” Cadimodo đã chết theo người yêu, tuy giàu chất lãng mạn, nhưng không thể là một mẫu tình yêu của đời thường. Ngược lại, chính sự huyền ảo phi thực trong chuyện tình Trương Chi – thể hiện ở trái tim ngọc đá và giọt lệ thiên thu – đã đưa con người hướng tới một giá trị đích thực của tình yêu là sự hy sinh và hòa nhập tâm hồn, vượt qua mọi khoảng cách ngăn trở tình người trong cuộc sống tha nhân, nhưng lại không thể chứng tỏ được bằng cái chết. Ở đây - trong đoạn cuối của chuyện tình Trương Chi - ngay cái chết là khoảng cách tuyệt vọng nhất của tha nhân trong tình yêu đôi lứa, họ vẫn đến được với nhau bởi sự hòa nhập vi diệu của tâm hồn qua tiếng sáo liêu trai mang trong thanh âm chất ngất nỗi buồn nhân thế. Bằng những hình tượng nghệ thuật, tác gia Lạc Việt đã chứng tỏ được chất lãng mạn tuyệt đỉnh và mơ ước trong tình yêu đôi lứa: sự hoà nhập của tâm hồn, khiến câu chuyện tình Trương Chi trở nên bất tử với thời gian. Đây chính là cõi huyền diệu trong “Mùa xuân vĩnh viễn“ của nhân loại. Chuyện tình Trương Chi, một chuyện tình lãng mạn cổ kim chưa từng có, vĩnh viễn đứng ở đỉnh cao của Kim Tự Tháp những chuyện tình lãng mạn của tha nhân, đã chứng tỏ trí tuệ bậc thầy của các tác gia đời Hùng để lại cho thế nhân qua hàng thiên niên kỷ… Văn Cao, một nghệ sĩ tài năng tuyệt thế mà nhạc khúc Thiên Thai đã đưa linh hồn ông vào chốn vĩnh hằng ở cõi Bồng Lai. Ông không hề trách Mỵ Nương như không ít người lầm tưởng. Ông trách thế nhân còn có mảnh đời phụ bạc, trong những cuộc tình đã đến rồi đi trong cuộc đời ông, khi ông tìm thấy cảm hứng tuyệt vời ở “Chuyện tình Trương Chi” của nền văn hiến Việt, thách thức với thiên thu cho đến tận bây giờ. Đêm nay, Dòng sông Thương dâng cao, Mà ai hát dưới trăng ngà Ngồi đây ta gõ ván thuyền, Ta ca trái đất còn riêng ta, Đàn đêm thâu. Trách ai khinh nghèo quên nhau Đôi lứa bên giang đầu Người ra đi với cuộc phân ly Đâu bóng thuyền Trương Chi?(*) Đầu xuân xem lại câu chuyện tình Trương Chi, áng văn chương bất tử của nền văn hiến Việt, tôi không khỏi ngậm ngùi tình nhân thế với những gía trị huyền vĩ của Việt sử 5000 năm văn hiến.Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?3 likes
-
SINH CON THẾ NÀY THÌ CÓ TỐT KHÔNG !? (Hay chuyện những đứa trẻ Hữu Hạnh ) Đây là hình ảnh 3 em bé bỏ rơi tại cổng một ngôi chùa quê, những ngày giáp Tết Nhâm Thìn 2012. Bé lớn nằm ngoài được đặt trong một thùng xốp, nên tên tạm gọi là bé Xốp. Hai bé nằm trong sinh đôi với tổng trọng lượng được hơn 2kg, bác sĩ chẩn đoán là thiếu tháng được đặt trong một vỏ thùng mì ăn liền trước cổng chùa – tên tạm gọi là bé Mì. Chúng trông rất xinh xắn, có lẽ cha mẹ chúng là những người “ đẹp” vì mải chơi hay ham vui hay chót dại hay gì gì nữa bằng cái gọi của người đời để “có những con người do vô ý sinh ra” như thế này đây. Sư cô Thích Nữ Minh Hải, trụ trì tịnh thất Từ Ân cho chúng tôi biết, khi đón những bé vào chùa thì chúng đã tím tái, phải đưa đi bệnh viện ngay – may mà chưa có kiến, chuột bò vào. Bác sĩ chần đóan chúng bị sinh non, thiếu tháng, sức rất yếu, phải thật giữ gìn. Bữa nay cuối năm, thấy chúng cũng ồn ồn, Sư Cô cho đón chúng về để ăn Tết với các anh chị trong nhà. - Sinh con ra thế này thì có tốt không !? Người huynh trưởng đi cùng tôi thở dài và buông một dấu lặng, như một câu hỏi và như một câu trả lời cho những tâm sự của anh ấy vào những ngày cuối năm con Mèo Vàng . ***** Trước đó mấy bữa, anh tâm sự : Hồi này anh nhận được nhiều lời “nhờ vả” hỏi về chuyện sinh con đẻ cái của bạn hữu, em út gần xa. Đứa thì đã có 2 gái muốn kiếm thêm một một mũ gậy (1), đứa thì 1 gái muốm kiếm thằng con trai vào năm Nhâm Thìn cho có nếp có tẻ ; có đứa, vợ chồng cưới nhau gần chục năm mà chưa có gì. Lại có cặp vợ cứ cấn bầu vài tháng là lại xa xảy …. Thời buổi hiếm muộn tràn lan, vợ chồng trẻ có được đứa con là như có cục vàng, nên năm nào người ta cũng qui ra vàng hết, nào năm Tí thì gọi chuột vàng , năm sửu cho là trâu vàng, rồi mèo vàng, hổ vàng năm Thìn là rồng vàng, mai mốt là rắn vàng , chó vàng , gà vàng tuốt luốt. Cũng thông cảm, nhiều đứa có vàng rồi muốn thêm hột xoàn, kim cương như những trường hợp có 2 gái rồi muốn thêm 1 con trai để nối dõi tông đường hay có 1 con rồi thì muốn thêm đứa nữa nhưng muốn chọn sinh vào năm tốt , hợp tuổi bố mẹ. Nhưng có trường hợp, có vàng đem bỏ xó đường. Vừa rồi báo tuổi trẻ có loạt phóng sự về mấy đứa trẻ khuyết tật, trong đó có trường hợp bé Thiện Nhân bị người sinh ra bỏ rơi góc vườn, bị kiến ăn mất cả “chân chính ”, chú mày thấy có tội không. Tết nhất đến rồi, chú đi với anh, đến một nơi để mà chiêm nghiệm. Và vào ngày cuối năm, chúng tôi đã đến thăm tịnh thất Từ Ân, để tặng các cháu chút quà mọn đón xuân, sau là để “tự nhiên cảm xúc” cho lời giải bài toán hiếm muộn. ***** (còn tiếp)2 likes
-
Quán vắng!
Thích Đủ Thứ and one other liked a post in a topic by Nguyên Anh
Sư phụ, chắc năm mới nên có thể sư phọ không cần bi wan nữa đâu ạ. Hồi Tết ở đường sách Sài Gòn, chỗ đông người nhất cả tây và ta đi lại tấp nập, con thấy người ta thấy trưng lên mấy cái bảng rất "toa" nói về lịch sử các triều đại VN và Sài Gòn. SP coi thử, nói chung có vẻ ok hơn không sư phụ ? Con thấy thì bước đầu công khai về niên đại vậy là có tín hiệu tốt đấy SP. Chúc SP năm mới nhiều vui vẻ, và sức khỏe2 likes -
Thế Nào Là Trí Thức?
manhhungjpvn and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Cảm ơn Haithienha có lời nhận xét. Theo tôi định nghĩa của Haithienha phản ánh một yếu tố cần của "người tri thức". Tôi nghĩ chúng ta hãy xét đến khái niệm "tri thức" trước đã, khi đã xác định được khái niệm tri thức thì chúng ta sẽ dễ nhận thức được khái niệm người trí thức như thế nào. Tôi tin chắc và rất khiêm tốn rằng - khi chúng ta đang tìm một định nghĩa về khái niệm "tri thức" và "người tri thức" ở trang web của chúng ta thì chúng ta sẽ thấy các bài viết của các vị "học vị" ồn ào ngoài kia nó rất buồn cười. Bởi vì khi chưa có một khái niệm mang tính chính danh - được thừa nhận tính chân lý và phủ hợp với các tiêu chí liên quan đến một khái niệm đúng - mà cứ cãi nhau ỏm tỏi về hành vi của một trí thức cần phải có thì thật khôi hài. Nó giống như bàn về vấn đề "Thượng Đế khi buồn, Ngài có hát KaraOke không?". Trong khi khái niệm về Thượng Đế và môi trường sống của Ngài - Thiên Đường - là sản phẩm của một trí tường tượng chưa hoàn chỉnh. Theo cá nhân tôi cần phân biệt giữa "Tri" và "Trí" và khi chưa có chữ latin để phiên âm tiếng Việt thì người Việt còn sử dụng khái niêm "chi" và "chí" vì phát âm gần giống và chúng có mối liên hệ khá chặt chẽ trong việc mô tả sự hiểu biết, sự vận dung khả năng hiểu biết và nhu cầu cần hiểu biết. "Chi" là một trợ từ cổ dùng để thể hiện ham muốn hiểu biết, để hỏi: "Cái chi?" tương tư như "Cái gì?". "Chí" là từ thể hiện một mục đích cần đạt tới: Ý chí, tiêu chí, chí hướng...vv.....Phạm vi của chúng ta không bàn đến hai từ này mà chỉ bàn đến "tri" và "trí". Tôi luôn cho rằng: Tiếng Việt là một ngôn ngữ cao cấp nhất trong nền văn minh nhân loại. Không phải ngẫu nhiên mà triết gia nổi tiếng Phạm Công Thiện từ bỏ tất cả mọi hệ thống triết lý kim cổ Đông Tây và xác định chính tiếng Việt mang trong nội hàm của nó tính minh triết cao cấp nhất. Phải như vậy nó mới đủ khả năng để miêu tả một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Nếu như ông Phạm Công Thiên chưa đủ uy tín để bảo chứng cho tính minh triết của ngôn ngữ cao cấp thuộc về Việt tộc thì tôi có thể đưa ra một bằng chứng rằng: Tiếng Việt có thể dịch tất cả các ngôn ngữ trên thế giới ra tiếng Việt, nhưng tất cả các ngôn ngữ trên thế giới khó có thể dịch hoàn chỉnh một bản văn từ tiếng Việt ra ngôn ngữ của bất cứ một dân tộc nào. Một trong những yếu tố để tiếng Việt là một ngôn ngữ cao cấp là tính phân loại. Từ "tri"; "Trí" là hai trong một tập hợp các từ cùng loại nhưng khác về thanh: Tri, trí, trĩ, trì, trỉ, trị. Khái niệm Tri có nghĩa là biết có xu hướng tĩnh. Trí là hiểu có xu hướng động. Thức có nghĩa là tỉnh táo, đối lập với mê muội. Từ kép trong trường hợp này là "thức tỉnh". Đã có giai đoạn ngôn ngữ Việt dùng từ kép "Trí tri" trong "Trí tri cách vật". Ngày xưa ở Hanoi đã có một trường tư thục ở phố hàng Quạt lấy tên là trường "Trí tri". Tức là "hiểu biết". Vậy nghĩa đen của khái niệm tri thức và trí thức là: Khái niêm Tri thức: * Nghĩa đen:Tình táo để nhận biết. * Nghĩa bóng là những kiến thức trực quan hay trừu tượng thu nhập sau khi đã tỉnh táo (sàng lọc) và ghi nhận làm nên sự hiểu biết. Khái niệm Trí thức: * Nghĩa đen: Ứng dụng sự hiểu biết (Nhận biết) một cách tỉnh táo. * Nghĩa bóng: Những người có sự hiểu biết và đem ứng dụng sự hiểu biết đó một cách tỉnh táo trong cuộc đời để mưu lợi cho cá nhân hoặc cộng đồng. Như vậy - với cách hiểu của tôi - thì bất cứ ai có hiểu biết về một vấn đề gì đó đều là tri thức và bất cứ ai đem ứng dụng hiểu biết của mình cho cá nhân hoặc cộng đồng đều là "trí thức". Và như vậy, bất cứ ai nằm trong phạm trù trên đều có thể là người trí thức. Từ định nghĩa này tôi suy ra: Do sự phát triển của cuộc sống, xã hội nên có sự phân công lao động xã hội, từ đó phân biệt những người hiểu biết mang tính phổ thông (tri thức phổ thông) và mang tình chuyên sâu, chuyên ngành, nên phân biệt những người có học vị cao đều là những người có tri thức rộng (Biết rộng) về chuyên ngành của họ. Và có thể gọi họ là người tri thức. Nhưng vấn đề còn lại là họ đã ứng dụng những hiểu biết của họ như thế nào để xác định tính "trí" (Có dấu sắc) thức. Bởi vậy, có người dù nhiều chữ - tri thức cao - nhưng không ứng dụng vì: Hoàn cảnh không thể phát huy được tài năng; vì không muốn phát huy tài năng (Ẩn dật), hoặc phát huy tài năng đó không đúng với hiểu biết của họ, mà chỉ lợi dụng bằng cấp để mưu cầu một việc khác thì không thể gọi là "trí (Có dấu sắc ) thức" được. Thiếu tính táo trong ứng dụng cái hiểu biết của mình. Cũng từ sự phân biệt giữa trình độ phổ thông (tri thức phổ thông) và tri thức chuyên ngành, chuyên sâu được thể hiện với bằng cấp cao, nên tạo ra một khái niệm mới là "tầng lớp tri thức" và những "nhà tri thức". Nhưng đại đa số những tầng lớp tri thức này sống bằng hiểu biết của họ, nên có sự nhầm lẫn giữa "tri thức" và "trí thức". Bởi vậy dù tri thức cao, bằng cấp đầy mình, nhưng không đóng góp được gì thì - nói theo haithienha - chỉ có thể gọi là "trí ngủ". Hoặc tệ hơn, không đủ khả năng thể hiện những tri thức của mình vì tầm tư duy thuộc loại "Ở trần đóng khố" thì quả là tai hại. Tức là ứng dụng sử hiểu biết của mình không tình táo. Cũng vì lẽ đó - với định nghĩa theo chủ quan của tôi - không thể gọi tri thức và tri thức là một giai cấp trong xã hội được. Bới vì nó có thể có ở bất cứ giai cấp nào. Những người tri thức có thể sống ở giai cấp cần lao hoặc ở giai cấp thượng tầng. Vài lời góp ý. Không tự cho là đúng. Xin để tham khảo. ===================== PS:Bây giờ cá nhân tôi với định nghĩa trên về "tri thức" và "trí thức" để xem các vị "tri, trí thức" tranh luận vấn đề: Tri trí thức trong việc phản biện xã hội và đem tri thức vào hoạt động kinh tế cụ thể nó là cái gì.2 likes -
Chú Đại Bi.
kieutrinh liked a post in a topic by Thiên Sứ
Quí vị và anh chị em thân mến. Thần chú Đại Bi là một trong những thần chú nổi tiếng của Phật Pháp và cùng với câu thần chú "Um ma ni pat mê hum" có những tác dụng vô biên với bản ngã. Tôi xin được chép vào đây trên nguồn Youtube để quí vị và anh chị em khi rảnh, hay trong những giây phút căng thẳng vì muôn nẻo chuyện đời có thể mở ra nghe và tịnh tâm thư giãn. Hy vọng sẽ giúp quí vị và anh chị em thân tâm an lạc, hướng tới một sự bình yên và hạnh phúc trong cuộc đời. "Vạn pháp duy tâm biến hiện" THẦN CHÚ ĐẠI BI THẦN CHÚ UM MA NI PAT ME HUM1 like -
Năm Rồng với luận tuổi Lạc Việt Từ xa xưa, con người đã coi Rồng là một biểu tượng tốt lành, một biểu tượng mang lại mưa thuận gió hòa nên vua chúa lấy biểu tượng Rồng để biểu tượng cho quyền lực của mình. Năm Nhâm Thìn có thiên can Nhâm thủy và Thìn thổ có mạng nạp âm theo sách cổ thư là Trường lưu thủy và được nhà nghiên cứu học thuật cổ phương Đông Nguyễn Vũ Tuấn Anh với lập luận chặt chẽ của mình đổi hai hành thủy và hỏa của mạng nạp âm (Tức vận khí của năm trong chu kỳ 60 năm, gọi là Lạc Thư Hoa giáp), do vậy năm Nhâm Thìn theo Luận tuổi Lạc Việt của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh có mạng nạp âm là Tích lịch hỏa. Năm Nhâm Thìn là một năm có địa chi Thìn Thổ khắc thiên can Nhâm thủy. Vận khí Hỏa bị Thiên Can Nhâm thủy khắc, nên coi là Thiên Khắc Đại xung, điều này cho thấy thiên nhiên năm Nhâm Thìn có nhiều bất thường và con người trong năm nay sẽ phải bỏ nhiều sức lực để chiến thắng thiên nhiên. Năm Nhâm Thìn cũng chính là biểu tượng cho truyện Sơn Tinh Thủy tinh của ông cha ta về con người chống lại thiên nhiên khắc nghiệt. Tuy nhiên năm Nhâm Thìn lại là năm rồng vờn mây nên cũng là một năm bội thu về ngũ cốc và trồng trọt. Những người sinh năm Nhâm Thìn là người năng động, hoạt bát nhiệt tình, về tình cảm là người khá nóng tính. Người tuổi rồng có năng lực lãnh đạo nhưng rất giàu lòng vị tha, thông minh, chính trực, biết mình cần thực hiện những gì để đạt được hoài bão của mình. Những người sinh năm Nhâm Thìn thường là người có hoài bão lớn, nhiều dự định lớn lao nhưng thường hay gặp trục trặc khi đi vào công việc, tuy nhiên với ý chí kiên cường của mình nên người tuổi Rồng luôn thành công. Người nữ sinh năm Nhâm Thìn là người ưa nói nhiều, tình cảm nồng nhiệt Năm Thìn là năm tuổi của tuổi con Rồng, đây cũng là hạn tam tai cuối của các tuổi Thân, Tý, Thìn. Những người này nên thận trọng trong những việc làm hàng ngày của mình. Những người đàn ông sinh năm Thân, Tý, Thìn cũng không được cưới hỏi hay xây dựng nhà cửa trong những năm tam tai của mình. Về công danh và tài lộc của người tuổi Thìn trong năm Nhâm Thìn: Những người sinh năm Giáp Thìn gặp được nhiều thuận lợi nhất, công việc trôi chảy, gặp được nhiều may mắn và thành công mỹ mãn trong những dự định và công việc mình thực hiện. Nhưng họ cũng phải phấn đầu mệt mỏi và đến cuối năm mới gặt hái được kết quả. Nên cân nhắc trong việc đầu tư và cho vay mượn. Đề phòng hao tài tốn của. Những người sinh năm Nhâm Thìn có nhiều thuận lợi trong năm nay, mọi việc đều đạt kết quả tương xứng. Những người sinh năm Bính Thìn thì đây là một năm không có nhiều may mắn trong công việc nhưng lại thuận lợi về tình cảm. Những người sinh năm Canh Thìn trong năm nay cần thận trọng trong vấn đề tình cảm và công việc của mình, phần nhiều phải chiều lòng người khác để được việc, về tình cảm thì hay bị ức chế trong lòng mà không nói ra được. Với những người lớn tuổi còn cần cẩn trọng trong sức khỏe. Những người sinh năm Mậu Thìn thì đây là một năm đầy vất vả, thường phải tự thân vận động mà không có sự trợ giúp của người khác, nhưng về tình cảm thì thuận lợi và tốt đẹp. Về sinh con trong năm Nhâm Thìn, tuy đây là một năm Rồng gặp mưa nhưng cũng không phải là năm mà người phụ nữ nào cũng có thể sinh con được. Trong năm Nhâm Thìn, những người phụ nữ mạng mộc sinh con là tốt nhất, thứ đến là những người phụ nữ có mạng hỏa (tức những người có mạng nạp âm thủy theo sách cổ thư) và thổ. Những người phụ nữ có mạng thủy (tức những người có mạng nạp âm hỏa theo sách cổ thư) sinh con trong năm Nhâm Thìn thì thường sẽ gặp trắc trở trong công việc và tình cảm. Đặc biệt, những người phụ nữ mạng kim không nên sinh con trong năm Nhâm Thìn vì nếu những người phụ nữ mạng kim mà sinh con trong năm nay thì sẽ gặp trục trặc có thể dẫn đến sứt mẻ tình cảm và công việc cũng gặp nhiều trắc trở. Về thiên can, vì năm Nhâm Thìn có thiên can Nhâm thủy nên những cặp vợ chồng có thiên can Canh, Tân trong tuổi của mình sinh con thì sẽ gặp nhiều thuận lợi trong công việc, trong những dự định của mình. Những cặp vợ chồng có thiên can Nhâm, Quý, Giáp Ất sinh con trong năm Nhâm Thìn cũng gặp nhiều may mắn, thuận lợi trong công việc. Những cặp vợ chồng có thiên can Mậu Kỷ, Bính Đinh sinh con trong năm nay thì trong công việc sẽ gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Đối với Địa chi, thường biểu thị mối liên kết bền vững trong gia đình nên những cặp vợ chồng có địa chi năm trong tam hợp Thân, Tý, Thìn hoặc nhị hợp Thìn – Dậu sinh con trong năm nay rất tốt. Những cặp vợ chồng đang dự định sinh con trong năm Nhâm Thìn cần chú ý ưu tiên trước hết là mạng nạp âm, thứ đến là địa chi do tính biểu thị sự bền vững trong gia đình của nó và sau mới đến thiên can. Và đặc biệt tránh sinh con xung tuổi Địa chi và mạng theo Lạc Thư Hoa Giáp (Đổi chỗ Thủy Hỏa so với cổ thư) với tuổi vợ. TỨ HÀNH XUNG TRONG HÔN NHÂN Thường trong các gia đình, khi con cái cưới hỏi mà rơi vào các trường hợp hai tuổi rơi vào tứ hành xung như Thìn – Tuất – Sửu – Mùi, Dần – Thân – Tỵ – Hợi, Tý – Ngọ – Mão – Dậu thường hay ngăn cấm và chia ly đôi trẻ. Vậy thực hư của tứ hành xung là gì? Người viết cho rằng, các cụ đặt ra tứ hành xung như một công thức của vòng trường sinh, trong đó, Dần Thân Tỵ Hợi được gọi là tứ sinh; Tý Ngọ Mão Dậu được gọi là tứ vượng và Thìn Tuất Sửu Mùi được gọi là tứ mộ. Trong bốn địa chi thuộc tứ hành xung chỉ có hai chi đối xung nhau mới thực sự xung khắc nhau như: Dần Thân xung, Tỵ Hợi xung chứ Dần Hợi không xung nhau lại còn hợp với nhau. Tỵ Thân không xung nhau lại hợp với nhau. Hai vòng tứ hành xung còn lại cũng tương tự như vậy. Ngoài ra, việc địa chi xung nhau thì trong gia đình thường chỉ xảy ra xung khắc nhau, hay cãi nhau do địa chi biểu thị tính bền vững trong mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình chứ không có vấn đề gì về tuổi thọ vì tuổi xung của địa chi chỉ là yếu tố rất nhỏ trong nhiều yếu tố tương tác khác liên quan, như: Thiên Can và vận khí , tức là mạng của đôi nam nữ. Còn điều quan trọng nữa là sinh con phải hợp tuổi mẹ như đã nói ở trên.Ngoài ra còn yếu tố Phong thủy và tùy thuộc vào sự vận động cụ thể của từng con người. Do đó, việc cấm đôi trẻ có tuổi nằm trong tứ hành xung lấy nhau thực sự là khiên cưỡng và có những trường hợp đã khiến đôi trẻ đi đến quyên sinh. Đây là một điều rất đáng tiếc mà những người làm cha, làm mẹ cần phải hiểu. ĐỊA CHI TUYỆT Có bốn vòng trường sinh theo ngũ hành là các vòng trường sinh thuộc kim, mộc, thủy, hỏa. Ngũ hành thổ không có vòng trường sinh vì thổ là nơi quy tàng và sinh trưởng của bốn vòng trường sinh khác nên vòng trường sinh của thổ ký gửi ở vòng trường sinh hỏa. Trong mỗi vòng trường sinh có một cặp địa chi tuyệt, như vòng trường sinh thuộc mộc sinh tại Hợi, vượng tại Mão và mộ tại Mùi có cặp Mão Thân tuyệt tức Mão tuyệt tại Thân và Thân tuyệt tại Mão trong vòng trường sinh âm kim. Các cặp địa chi tuyệt khác là Tý - Tỵ, Dần - Dậu, Ngọ - Hợi. Nếu trong gia đình có những tuổi rơi vào cặp địa chi tuyệt như trên thì những người thuộc địa chi tuyệt này thường không sống cùng với nhau hoặc nếu sống cùng với nhau thì dễ khắc khẩu, hoặc không thuận lợi trong công việc. Do vậy, trong việc sinh con cái, cần xem xét và cân nhắc kỹ tuổi của những thành viên trong gia đình để tránh rơi vào trường hợp địa chi tuyệt như trên. Nguyễn Đức Thông - Hạt gạo làng Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương nguồn: http://www.ktcatbd.c...-lun-tui-lc-vit1 like
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Từ lâu chúng tôi đã xác định rằng: Kim Tự tháp không phải là một sản phẩm của riêng một nền văn minh cổ đại nào - thí dụ không phải của riêng Ai Cập. Mà nó thuộc về một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ đã từng tồn tại trên trái Đất này, chúng tôi gọi là nền văn minh Atlantic. Những Kim Tự tháp tìm thấy ở khắp nơi trên trái Đất đã chứng tỏ điều đó. Tất nhiên Kim Tự tháp xây dựng nên cũng không phải mục đích làm mộ chôn vĩnh cửu cho một vi Pharaon. Điều đơn giản để xác thực điều này là các vị pharaon không có mặt trên khắp thế giới. Cũng từ lâu, chúng tôi xác định rằng: Người Atlantic xây dựng Kim Tự tháp nhằm mục đích trần yểm phong thủy với hy vọng tránh một thiên tai toàn cầu khủng khiếp mà họ đã biết trước khi nó xảy ra: Đó chính là cơn Đại Hồng Thủy còn lưu lại trong hầu hết ký ức của các dân tộc cổ xưa trong lịch sử văn minh hiện đại. Quá trình hồi nền văn hiến hiến huyền vĩ của Việt sử - cội nguồn tất cả những gía trị của nền văn hóa Đông phương huyền bí - trong đó có môn Phiong Thủy Lạc Việt đã cho thấy giả thiết của chúng tôi ngày càng có cơ sở với những mối liên hệ liên quan đến tri thức phong thủy. Do sự phục hồi môn Huyền Không Lạc Việt với phương pháp định tâm Lạc Việt trong phong thủy, chúng tôi đã xác định được rằng: Chính Ai Cập và các vùng liên quan là tâm của các Đại lục địa trên trái Đất. Và đây cũng nơi ngự trị của Kim Tự Tháp số 1. Bài viết dưới đây trên báo Thanh Niên Online cho thấy một cái nhìn của các nhà khoa học gần giống với giả thiết của chúng tôi. Tất nhiên những nhà nghiên cứu có mặt trong bài viết này chưa hề tiếp xúc với bộ môn phong thủy của nền Lý học Đông phương. Nhưng qua bài viết này các vị có thể thấy một sự liên hệ gần gũi. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. ========================= Những chuyện kỳ thú - Kỳ 4: Kim tự tháp là trạm quan trắc toàn cầu? 29/01/2012 0:45 Kỳ 3: Khám phá mới về kim tự tháp Điều thú vị nhất với các kim tự tháp là khi các nhà khoa học toan tính tìm kiếm xem trên trái đất số lượng của chúng là bao nhiêu. Với sự trợ giúp của chụp ảnh từ trên không, hiện các nhà khoa học đếm được 409 kim tự tháp, còn lại 1.300 điểm khác có thể là kim tự tháp, có thể là những mỏm đồi hoang dại. Đưa tất cả các kim tự tháp lên bản đồ, Trưởng nhóm khảo cổ “Stalker” Aleksandr Petykhov (Nga) nhận thấy chúng được xây dựng trên một mặt cắt khá rõ ràng. Phần lớn các kim tự tháp phân bố bên trong vĩ tuyến 40 độ ở bán cầu nam và bắc. Chúng được phân bố khá tập trung theo cụm ở từng địa danh. Nhóm nhiều kim tự tháp nhất nằm dọc theo dòng sông Nile, chảy qua Ai Cập và Sudan. Nhóm thứ hai ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Nhóm thứ ba ở trung và nam Mexico, ở biên giới Peru - Brazil và ở phía nam châu Úc. Tại châu Âu kim tự tháp có ở Slovenia, Ý, Hy Lạp và ở bờ biển châu Phi (quần đảo Canaria)... Quả là thú vị khi có vài kim tự tháp lại phân bố trên một số đảo ở Thái Bình Dương. Đây là các đảo nhỏ - không phải chỗ thích hợp để xây kim tự tháp. Các nhà địa - khảo cổ học cho các đảo này (Samoa, Tonga và French Polynesia), trước đây là một phần của đất liền, bị tách ra, rồi trôi dạt cách nay không lâu. Nhờ chụp ảnh từ trên không, các nhà khoa học đếm được 409 kim tự tháp - Ảnh: Wikipedia “Kim tự tháp chủ yếu được xây dựng bằng đá tảng - Aleksandr Petykhov nói - Chúng đảm bảo tính bền vững, ổn định khi trải qua một thời gian dài của các biến động về địa chất. Có lẽ chính vì thế mà tại một số đảo ở Thái Bình Dương vẫn tồn tại kim tự tháp, trong khi số khác đã chìm vào lòng biển”. Phân tích các thông tin thu thập được, Petykhov đưa ra giả thiết sau: Tất cả các kim tự tháp còn sót lại cho đến ngày nay, cần phải được xem xét như một phần của hệ thống toàn cầu, được xây dựng không chỉ phục vụ cho chính quyền nào đó, mà cho tất cả loài người thời cổ đại để tránh các thảm họa thiên tai. Không loại trừ các công trình này với sự trợ giúp các thiết bị kỹ thuật lắp đặt bên trong, chạy bằng năng lượng hạt nhân, có chức năng của một đài (trạm) quan trắc khí tượng, kiểm soát theo dõi toàn bộ tình hình địa chấn trên toàn cầu. “Trong khi chúng ta chưa đánh giá và nhận biết hết các công năng của kim tự tháp, nhưng thông qua các đài quan trắc này mà nhân loại tránh được các trận động đất hoặc sóng thần - Petykhov nói - Giả thiết này đã được kiểm chứng trên bản đồ có phân bố kim tự tháp và bản đồ ranh giới các mảng kiến tạo trái đất (*). Phần lớn các kim tự tháp được xây dựng gần ranh giới của các mảng kiến tạo. Chính các va đập giữa các mảng kiến tạo này tạo nên những trận động đất”. Và đây là cách để người xưa kiểm soát quá trình thay đổi kiến tạo địa chất trong khu vực nói riêng cũng như trên toàn cầu nói chung”. Nhà sử học Nga - Mikhail Kostinsky ủng hộ giả thiết này: “Nhóm các kim tự tháp Giza, Ai Cập, dường như là quần thể thống nhất, được xây dựng để thực hiện một mục đích chung. Tôi đã tham gia vào một cuộc thí nghiệm và nhận thấy: Các xung động do các lớp địa chất tạo ra từ kim tự tháp của pharaoh Cheops lại được các kim tự tháp của Khafre và Menkaura gần đó tiếp nhận. Đây là sự tương tác, phối hợp đồng bộ của tất cả kim tự tháp trong hệ thống thống nhất này. Trong trường hợp này, hệ thống bao gồm 3 kim tự tháp lớn nhất Ai Cập hoạt động giống như radar quan sát địa chấn hay đài giao thoa ghi nhận các biến động xấu của mảng kiến tạo trái đất”. Một câu hỏi đặt ra là: Nếu như kim tự tháp có chức năng như thế thì ngày nay tại sao chúng ta không ghi nhận các thay đổi trong nó khi có địa chấn? Tại sao các đài quan sát giờ đây không hoạt động nữa? Ngay cả khi trong vòng vài chục năm qua đã có những trận động đất tới 9 độ Richter? “Ngày nay các kim tự tháp không còn là một hệ xây dựng hoàn chỉnh và không còn là hệ thống có thể hoạt động - Petykhov khẳng định - Chúng đã bị phá hoại toàn bộ. Điều này diễn ra không phải là do đạo chích hay du khách mà là do chính các pharaoh. Theo lệnh của các pharaoh, có thể các thiết bị trong kim tự tháp bị tháo dỡ, vứt ra ngoài”. Theo các nhà khoa học, chính điều này khiến mối liên hệ giữa các kim tự tháp bị phá bỏ. Nói một cách ví von, bên ngoài chúng giống như chiếc máy bay, nhưng máy móc bên trong bị tháo dỡ và không thể cất cánh. Các nhà khảo cổ học khẳng định: Nếu quan sát bên trong kim tự tháp thường xuyên hơn thì nó không giống nơi chôn cất pharaoh mà giống một tổ hợp kỹ thuật. Ở nơi mà người ta gọi là hầm mộ có thể là chỗ đặt các dụng cụ đo lường, hệ thống máy tính hay các máy phát năng lượng. Tất cả các đường đi, đường dẫn bên trong đều nhỏ, hẹp nên không dành cho tang lễ. Đây có thể là lối dẫn đến các hầm chứa máy móc kỹ thuật. Giải mã các bí ẩn của kim tự tháp nhiều khi phải mang tính phỏng đoán. Ngay cả các nhà khảo cổ, các nhà lịch sử chuyên về Ai Cập cũng không nghĩ đến công năng khác của các kim tự tháp. Bởi khi tiếp cận chúng, họ chỉ sử dụng các kiến thức xã hội mà không hề được trang bị kiến thức tự nhiên để đưa ra các phân tích như các kỹ sư. Tạm thời cho giả thiết của các nhà khoa học Nga nêu trên là đúng thì ai là người thiết kế các kim tự tháp? Ai là người xây dựng chúng? Có phải đó là tổ tiên của chúng ta - những người da đen? Hay đó là ai khác? Các nhà khoa học giờ mới bắt đầu tìm tòi dữ liệu để trả lời cho các câu hỏi này. Hoàng Hoài Sơn (*) Mảng kiến tạo (địa tầng kiến tạo) là một phần của lớp vỏ trái đất (thạch quyển). Bề mặt trái đất chia ra thành bảy mảng kiến tạo chính và nhiều mảng kiến tạo nhỏ. Các mảng kiến tạo có độ dày khoảng 100 km, bao gồm hai loại vật liệu cơ bản: lớp vỏ đại dương và lớp vỏ lục địa. Nằm dưới cùng là một lớp tương đối dẻo của lớp phủ được gọi là quyển mềm, nó chuyển động liên tục…1 like
-
@ DarkKnightmon và VanAnh9391, sẽ gởi vào ngày mai. Cô không sót 1 ai cả trừ trường hợp lỗi do nơi phát chuyển, đây là tâm nguyện của Cô mà!1 like
-
CON CÓC LÀ CẬU ÔNG TRỜI Nguyễn Xuân Quang Bài viết này trả lời hai câu câu hỏi chúng ta thường đặt ra là tại sao con cóc là cậu ông trời? Và các tượng lưỡng cư ngồi ở mé trống đồng âm dương Đông Nam Á là những tượng cóc hay ếch? Mặt khác cũng cho thấy Tiếng Việt (thật là) Huyền Diệu có thể giúp người đọc Học Anh ngữ Bằng Tiếng Việt và ngược lại người ngoại quốc có thể học Tiếng Việt bằng Anh ngữ. Chúng ta có bài đồng dao Con cóc là cậu ông trời, Ai mà đánh nó thì trời đánh cho. Câu hỏi được đặt ra là tại sao con cóc lại là cậu ông trời? Trước hết ta hãy đi tìm bản thể của cóc qua Việt ngữ. Có người cho rằng con cóc có tên là cóc vì nó ở trong hang, trong hóc tối tăm, bẩn thỉu. Có bài hát: Trông kìa con cóc, nó ngồi trong hóc, nó đưa cái lưng ra ngoài, ấy là cóc con. Theo biến âm c=h như cùi = hủi, cóc = hóc. Con cóc là con sống trong hóc, trong góc. Theo tôi, giải thích con cóc là con hóc, con góc này mới chỉ là một diện, một phiến diện. Vì tên loài vật thường được gọi theo một đặc tính thể xác, sinh lý học của con vật hay một đặc tính biểu tượng theo vật tổ trong tín ngưỡng của loài người. Qua từ đôi điệp nghĩa gai góc, ta có góc = gai. Gai là những mấu nhọn, vật nhọn. Những cục, những hột nổi cộm lên ở da cũng được gọi là gai như nổi gai ốc ở da (gai da cộm lên như những con ốc, ốc đây là những con ốc nhỏ, ốc gạo). Ở đây cho thấy hột, hạt, cục cùng nghĩa với gai là vật nhọn, nọc nhọn và cùng mang dương tính như gai nhọn là những dạng nguyên tạo của nọc nhọn của gai. Nhìn dưới diện chữ nòng nọc (vòng tròn-que), âm dương thì hột, hạt, nhân, cục và gai đều thuộc về nọc. Hột hạt, là nọc ở dạng nguyên thể của nọc nhọn gai và gai mũi nhọn là nọc sinh động. Nọc hột, hạt là mầm dương diễn tả trong chữ nòng nọc là một dấu chấm (.), tôi gọi là nọc chấm hay chấm nọc nguyên tạo. Chấm nọc tách ra hai chấm, nối hai chấm lại thành nọc que (I). Hai nọc que hợp lại thành nọc mũi nhọn, mũi mác, răng sói, răng cưa (>) ở dạng sinh động (xem chương Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Như thế con cóc là con góc, con gai, con vật có da sần sùi có những gai, những cục, những hột nổi lên. Con cóc là con cục, con hột. Chứng mụn nổi lên ở da to bằng hột cơm gọi là mụn cơm trông giống như những cục mụn ở da cóc nên cũng gọi là mụn cóc. Anh ngữ wart, mụn cóc. Theo biến âm w=h (như Mường ngữ wa = hoa), ta có wart = hạt. Wart là mụn hạt, mụn hột, mụn cơm, mụn cóc như ở da cóc. Mường ngữ cục là côc. Con cóc con cục là con cốc. Ta thấy rất rõ cóc biến âm với cọc [nọc, vật nhọn, gai, sừng (con cọc là con sừng, con hươu đực có sừng, xem Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc)], với cục, cốc (trái cốc = trái cóc, thứ quả có hột sần sùi như da cóc), liên hệ với Tầy ngữ coộc, sừng (vật nhọn, vật nhọn như gai), Quảng Đông ngữ coọc, sừng, với Hán Việt cốc là hột, hạt như các nông phẩm có hạt, hột gọi là cốc (mễ cốc, ngũ cốc). Rõ như ban ngày con cóc là con cọc, con cốc là loài có da sần sùi nổi gai, nổi cục, nổi côc, nổi hột (có chất) sừng mang dương tính. Điểm lý thú là da cóc mọc những hạt như lúa gạo mà lúa gạo cần có nước có mưa nên hiển nhiên con cóc liên hệ với nước, mưa, sấm. Chắc có nhiều người đọc còn nghi ngờ chưa tin. Tôi xin chứng minh thêm. Ta thấy Hán Việt giác là góc như tam giác và giác cũng có nghĩa là sừng (vật nhọn như gai) như tê giác. Giác là gai góc nên dùng vật sắc nhọn như gai để lể, để giác. Anh ngữ corner có nghĩa là góc và corn có nghĩa là sừng như Latin cornu, corna, sừng, Anh ngữ corneous, bằng sừng, giống sừng, cornea, màng sừng ở mắt và corn cũng có nghĩa là cục, hột chai cứng do lớp sừng ở da dầy lên vì cọ xát. Ta cũng thấy rõ Anh ngữ corn có nghĩa là hột, hạt, qua từ corn chỉ những hạt nông phẩm như lúa, ngô (bắp). Corn có một nghĩa là bắp, ngô. Acorn là hột, hạt cây sồi. Hiển nhiên, corn ở đây ruột thịt với Hán Việt cốc (mễ cốc, ngũ cốc). Điểm này giải thích tại sao người Bắc gọi xôi bắp là xôi lúa. Lúa ở đây hiểu theo nghĩa tổng quát có nghĩa là một thứ hột, hạt, một thứ mễ cốc cùng nghĩa với corn, ngô, bắp (cũng có một nghĩa là hột, hạt, hột ngô, bắp gọi là kernel). Ta cũng thấy có sự biến âm giữa Việt ngữ góc, hóc và Anh ngữ corner, góc. Corner có cor- = (coóc) = hóc = góc. Corner ruột thịt với Việt ngữ góc, hóc. Tiến xa hơn, cóc, corn liên hệ với gốc Aryan-Phạn ngữ gar-. Ta thấy gar liên hệ với Việt ngữ gã (con trai, đàn ông, người có nọc, cọc, c…c), Pháp ngữ garçon (con trai), với gharial loài cá sấu mõm dài như dao có cục u ghar trên mũi (cũng vì thế mà từ crocodile thường nói tắt là croc chính là từ cọc của Việt ngữ, croc là cá cọc mang dương tính biểu tượng cho ngành dương của loài cá, tộc nước. Cá sấu là cá sậu (sậu có nghĩa là cứng như ngô sậu là ngô cứng), cá sẩu (sẩu là sừng biến âm với sậu, cứng như xin khúc đầu những xương cùng sẩu), cá sào (cọc), cá gar, cá gạc (cá sừng), cá cọc, cá cóc (vì có vẩy sần sùi da cóc, có vi sừng), cá ngạc (Hán Việt ngạc ngư là cá sấu, theo g=ng như gấm ghé = ngấm nghé, gạc = ngạc) và theo g=h, gar = hạt (grain có gốc gar-), gar- = hart (hươu gạc, hươu sừng, hươu nọc), gar- liên hệ với gác, với góc… Tiến xa thêm tới tận nguồn cội của ngôn ngữ của con người được ghi lại bằng chữ nòng nọc thì con cóc là con cục, con cốc (có một nghĩa là cóc và một nghĩa là hột, hạt) diễn tả bằng chữ dấu chấm nọc (.) nguyên tạo có hình hột, hạt và con cóc là con cọc được diễn tả bằng chữ nọc mũi mác, răng cưa, răng sói (>) có nghĩa là nọc, đực, bộ phận sinh dục nam (xem bài viết Da Vinci Code và Chữ Viết Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Ta thấy rõ như ban ngày chữ nọc mũi mác (>) có hình mũi nhọn (>), hình gai nhọn (>) và hình góc nhọn (>). Góc nhọn (>) có hình chiếc gai nhọn (>) đúng như thấy qua từ đôi điệp nghĩa gai góc, gai (>) = góc (>). Qua chữ nọc mũi mác, răng sói, răng cưa (>) trong chữ nòng nọc, ta giải thích được tại sao gai cùng nghĩa với góc, tại sao ta có từ đôi điệp nghĩa gai góc, tại sao Hán Việt giác là sừng (cùng nghĩa với nọc nhọn, gai nhọn) cũng là góc, tại sao corn- là sừng cũng là góc, tại sao gar- là gạc và cũng là góc. Gai góc, giác (sừng, góc), corn- (sừng, góc) gar- (gạc, góc) đều có gốc cội là nọc mũi nhọn (>). Chữ nọc trong chữ nòng nọc viết dưới ba dạng: dạng nọc chấm (.) nguyên tạo, dạng nọc que (I) và dạng nọc mũi nhọn mũi mác, răng sói, răng cưa. Những hạt, hột nổi cộm, nổi gai trên da cóc là dạng nọc chấm nguyên tạo. Con cóc có một khuôn mặt chính là con cọc mang dương tính có da nổi hột nọc gai sừng. Điểm này cũng cho thấy rõ dưới diện nòng nọc, âm dương, những hình thể có dạng que nọc, có góc cạnh, gai góc, hột hạt mang dương tính trong khi những hình thể có nét cong tròn mang âm tính (Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Trên trống đồng âm dương những con vật lưỡng cư ngồi ở mé trống có mõm hình nọc mũi mác (>) và trên người có chấm nọc (.) cho biết rõ những con vật này là những con cóc (chứ không phải là con ếch). Tóm lại con cóc có một khuôn mặt chính là con cọc mang dương tính thuộc ngành dương của loài lưỡng cư, có da nổi hột nọc chấm gai sừng sần sùi và ở trong hóc, trong hang (ta cũng thấy Hán Việt cốc ngoài nghĩa là hột, hạt còn có nghĩa là hang, động như tịch cốc). Ta cũng thấy rõ ràng nghĩa hóc, hang là nghĩa phụ không phải là một đặc tính thể xác của con cóc, có nhiều loài vật sống trong hang trong hóc nhưng không gọi là con cóc. Một đặc tính nữa của con cóc là nhẩy. Cóc thuộc loài ếch nhái. Từ nhái biến âm với nhẩy. Cóc, ếch thuộc cùng loài con nhái là những con nhẩy. Con cóc là con nhẩy thấy rõ qua bài thơ con cóc: Con cóc trong hang, Con cóc nhẩy ra, Con cóc nhẩy ra, Con cóc ngồi đó, Con cóc ngồi đó, Con cóc nhẩy đi. Theo biến âm c=p (ở cuối chữ) như chóc, chốc (đầu) = chóp (đầu), bắn trúng ngay chóc (ngay chốc) = bắn trúng ngay chóp, ta có cóc = cóp. Theo c=h, cóc = hóc = cóp = Anh ngữ hop (nhẩy). Con cóc là con hop. Anh, Mỹ cũng gọi cóc, ếch là con nhẩy. Ta có thể dùng Việt ngữ để truy tầm nguồn gốc nghĩa ngữ của hai từ frog (ếch) và toad (cóc) của Anh ngữ (1). Theo biến âm f=b=ph như fỏng = bỏng = phỏng, ta có frog = f®og = phốc, phóc (nhẩy). Ta có từ đôi điệp nghĩa nhẩy phốc, nhẩy phóc với phốc, phóc = nhẩy. Vậy frog là con phốc, con phóc, con nhẩy, cùng loài con nhái. Ngoài ra cũng có một loài ếch nhái nhưng có mầu nâu vàng gọi là con chão chuộc, chẫu chuộc, cũng có nghĩa là nhẩy, ruột thịt với Phạn ngữ ças, nhẩy. Theo ç = ch, ças = chạc, choạc, chuộc, chẫu. Hán Việt tẩu (chậy) phát âm theo giọng Quảng Đông là “chẩu” liên hệ với chẩu, chẫu là nhẩy như thấy qua từ đôi chậy nhẩy. Con châu chấu cũng liên hệ với từ Phạn ngữ này, có nghĩa là con “ças ças“, con chẩu chẩu, con nhẩy nhẩy đúng với nghĩa của từ grasshopper. Từ cào cào cũng có thể là một dạng biến âm của “ças ças“ và con sạch sành (sạch sành là anh kẻ trộm), con chanh chách (thuộc loài châu chấu) có sạch, chách biến âm với ças. Còn toad phát âm là /tót/, Trung cổ Anh ngữ tode, con toad, con tode là con “tót”. Tót chính là Việt ngữ tót, thót có nghĩa là nhẩy. Ta có từ đôi điệp nghĩa nhẩy tót với nhẩy = tót. Đầu trọc lóc bình vôi, Nhẩy tót lên chùa ngồi. Ê a kinh một bộ, Lóc cóc mõ ba hồi. (không nhớ chắc chắn tên tác giả). Tót, thót là nhẩy cũng thấy qua câu nói “mới đó mà nó đã tót đi đâu rồi! “ hay “tót (thót) một cái, nó đã biến mất”. Con bò tót là con bò nhẩy tức bò đực dùng nhẩy cái, là con bò đực. Con toad là con tót, con thót, con nhẩy thuộc cùng loài con nhái. Theo t=d, tót = dọt, nhẩy, chạy nhanh như nó dọt đi mất rồi, chiếc xe rất dọt. Theo d=v, dọt = vọt, có cùng nghĩa. Theo d=nh, dọt = nhót có nghĩa nhẩy như nhẩy nhót. Do đó ta có từ nhẩy = nhót. Theo d=nh, dọt = nhót. Một lần du lịch đến Nga, một tối người hướng dẫn du lịch mời chúng tôi “lets go for a zhok”, Thổ ngữ Moldavian ở Nga zhok, dance. Zhok chính là Việt ngữ dọt, nhót. Chúng tôi đã được xem trình diễn vũ khúc Zhok của vũ sư I. Moisegev, giám đốc đoàn vũ Moisegev Dance Company of Moscow sáng tác theo âm nhạc của G. Fedov. Ta cũng thấy cóc, ếch ngồi ở tư thế sẵn sàng nhẩy tới trước, chồm tới trước nên thường nói con cóc, con ếch ngồi chồm chỗm. Từ đôi chồm chỗm ruột thịt với chồm có nghĩa là nhẩy tới như con chó chồm tới = con chó nhẩy tới. Theo ch=j như chà và = java, ta có chồm, chồm chỗm = Anh ngữ jump, chồm, nhẩy chồm lên, nhẩy chồm chồm, nhẩy. Anh ngữ tadpole là con nòng nọc có tad- là toad và -pole là poll, đầu người, người, đầu phiếu, biểu quyết, đếm theo đầu người, thăm dò dư luận. Theo p=b=m, poll = môn, mông, mống, mường. Mông, Mán, Mường có nghĩa là người. Mống là người như không có một mống = không có một người. Mông, mống, Mán, Mường liên hệ với Pháp ngữ monde, người. Tadpole là con (cá) có đầu (pole, poll) cóc (tad). Vì cóc liên hệ với cọc, nọc với chữ nòng nọc, âm dương, bây giờ ta đi tìm ý nghĩa biểu tượng của hai từ ếch và cóc trong Vũ Trụ giáo, trong Dịch lý dựa trên căn bản nòng nọc, âm dương. Việt ngữ ếch biến âm với ách, át, ạch đều liên hệ với nước. Ách là nước như óc ách là tiếng nước, át là nước như thấy qua từ đôi điệp nghĩa ướt át, ạch là ngã (ngã ạch một cái), ngã thường do trơn trượt vì mưa, nước. Ạch là ngã vì trơn trượt lúc có mưa biến âm với ếch nên khi ngã mới nói là vồ ếch. Ách, át, ạch, ếch liên hệ với Phạn ngữ ak-, aka nước. Ta thấy rất rõ Tây Ban Nha ngữ aqua- nước, ruột thịt với Phạn ngữ aka. Con ếch là con ách, con át có nghĩa là con nước. Hán Việt ếch gọi là oa. Từ oa vẫn cho là từ cóc gốc Hán ngữ, thật ra chưa hẳn là vậy vì ta thấy Maya ngữ ou là con ếch (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Oa có nhiều nghĩa trong đó có nghĩa là nước, là con ếch. Oa là ếch là nước, rõ ràng ếch liên hệ với nước. Ếch là con ách, con nước, loài nhái sống dưới nước, biểu tượng cho nước, cho mưa: Ếch kêu uôm uôm, Ao chuôm đầy nước. (ca dao) Như thế con ếch có một khuôn mặt thái âm, nước âm, Khôn âm nghiêng về dòng nữ. Còn cóc có nghĩa là gì trong vũ trụ tạo sinh? Trong ngôn ngữ Việt cóc có một nghĩa là không như cóc cần là không cần, cóc biết là không biết, cóc có ai là không có ai… Ta có thể kiểm chứng lại bằng cách giải phẫn từ KHÔNG. Mổ xẻ từ KHÔNG cũng cho thấy rõ cóc = không: -Cắt bỏ chữ C đầu của KHÔNG còn lại HÔNG. Hông, hổng, hỏng cũng có nghĩa là không như đi mau mà về nghe hông?, hông biết, hỏng biết, hổng thèm, hổng có. . . Hỏng, hổng là rỗng, trống không như lỗ hổng ruột thịt với Hán Việt khổng là lỗ. Ta có hỏng, hổng, hông = khổng, không. -Cắt bỏ chữ H còn lại KÔNG. Kông, cong, còng có một nghĩa là tròn, vòng tròn O, ruột thịt với không có nghĩa là số không 0 như thấy qua từ cong vòng tức cong = vòng, cái cong, cái cóng (gạo) hình tròn vo, cái còng = cái vòng (đeo tay) có hình vòng tròn O. -Cắt bỏ chữ N còn lại KHÔG. Khog = cóc, cũng có nghĩa là không như đã nói ở trên. -Cắt bỏ chữ G cuối cùng còn lại KHÔN có một nghĩa là không như khôn lường, khôn dò, khôn nguôi. Từ Khôn này chính ta từ Khôn dùng trong Dịch nòng nọc. Quẻ Khôn viết bằng ba hào âm, viết theo chữ nòng nọc là ba vòng tròn nòng O tức OOO. Khôn là không, hư không. Khôn cũng có âm dương, Khôn O thái dương II là gió là Tốn OII. Khôn O thái âm OO là Khôn nước không gian, vũ tru âm OOO. Các tác giả Việt Nam khi viết về Dịch thường dựa theo Dịch Trung Hoa cho rằng Khôn là Đất. Càn Khôn là Trời Đất. Khởi đầu vũ trụ tạo sinh bắt nguồn từ âm dương càn khôn (lửa nước nguyên thể) chưa có đất. Dựa vào giải phẫu tiếng Việt ta thấy rõ gốc nghĩa của Khôn không có dính dáng gì tới đất cả. Hiểu Khôn là đất là hiểu theo Dịch Trung Hoa là thứ Dịch rất muộn màng, là thứ Dịch duy tục, vị nhân sinh dùng nhiều trong bói toán phong thủy, một thứ Dịch do những kẻ thống trị dùng như một thứ đòn phép để cai trị đám dân bị trị. Ta thấy rất rõ giải phẫu cắt bỏ bớt từ KHÔNG còn lại những từ đều có nghĩa là không và từ khog, cóc nằm trong từ không hiển nhiên cũng có nghĩa là không. CÓC là không, là cong, còng (O, số 0) là khôn. Không có một khuôn mặt là hư không, không gian, không khí. Khôn có hai mặt âm dương. Không dương là khí gió, Khôn âm là nước vũ trụ. Con cóc, con cọc mang dương tính vì thế cũng có hai khuôn mặt. Khuôn mặt dương tức Khôn dương biểu tượng cho khí gió, sấm dông. Khuôn mặt dương của âm tức dương của Khôn âm biểu tượng cho nước dương, sấm mưa. Cả hai khuôn mặt đều liên hệ với sấm. Mường Việt ngữ rạc: con cóc. Rạc là lạc (l=r) là lác là (nước dương), L là dạng dương hóa của N (Tiếng Việt Huyền Diệu), là nác, là nước dương. Con rạc là con nước-lửa, con nước dương. Cổ ngữ Việt rạc, rặc (dùng nhiều ở vùng đất tổ Phú Thọ) là nước như ‘ruộng rặc’ là ruộng nước. Ruộng “rộc” cũng là ruộng nước. Con rạc (con cóc) là con nước mang dương tính. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, cóc rạc, cóc Lạc là con cóc biểu của Mặt Trời Nước Lạc Long Quân. Cóc mang dương tính như đã thấy và vì sống nhiều trên cạn nên cũng mang nhiều dương tính hơn ếch vì thế cóc biểu tượng cho nước dương, nước lửa. Trong khi đó ếch sống nhiều dưới nước nên biểu tượng cho nước âm. Điều này đã thấy rõ qua tên ếch. Nhìn chung cóc với nghĩa là không, Khôn là thuộc ngành nòng, âm, Khôn. Theo duy dương, con cóc mang dương tính là thú biểu cho Khôn dương khí gió liên hệ với sấm dông và theo duy âm, cóc biểu tượng cho Nước Lửa, liên hệ với sấm mưa, Chấn. Trong khi đó ếch mang âm tính nhiều có biểu tượng chính cho nước thái âm, dòng nữ. Khuôn mặt dương của ếch (ếch-lửa, ếch đực) biểu tượng cho khuôn mặt dương của nước thái âm, dòng nữ. Hiểu rõ bản thể của cóc ếch rồi bây giờ ta thử đi tìm hiểu tại sao Con cóc là cậu ông trời, Ai mà đánh nó thì trời đánh cho? Trước hết tại sao tổ tiên chúng ta gọi con cóc là cậu ông trời, mà không nói con cóc là chú ông trời, là cô, là dì ông trời? Dĩ nhiên phải có nguyên cớ. Cậu là gì? Cậu là em trai của mẹ. Mẹ là phía ngoại, âm, Khôn. Cậu là em trai mang dương tính. Rõ ràng con cóc là Cậu nên mang dương tính, là khuôn mặt dương của Khôn. Khôn dương là khí gió. Qua từ Cậu cho thấy con cóc có khuôn mặt Khôn dương khí gió mang tính trội. Trong Việt ngữ từ Trời có nhiều nghĩa. Ông Trời ở đây đánh người tức ông Trời có búa thiên lôi, có lưỡi tầm sét. Bị trời đánh là bị sét đánh. Ông Trời đánh người là ông Trời có một khuôn mặt là Thần Sấm Sét. Vậy con cóc là cậu ông thần sấm sét ruột thịt với ông sấm sét. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, Lạc Long Quân là Mặt Trời Nước, Nước-lửa, mưa-chớp, có một khuôn mặt là Thần Sấm Mưa, ứng với Chấn trong Dịch, có hậu thân là ông Thần Sấm Dông Phù Đổng Thiên Vương (xem bài viết Ý Nghĩa Ngày Vía Phù Đổng Thiên Vương Mồng Chín Tháng Tư Âm Lịch). Con cóc là cậu Lạc Long Quân tức là em mẹ của Lạc Long Quân tức là em bà Thần Long, vợ của Vua Mặt Trời Đất-Lửa Kì Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân. Bà Thần Long là Rồng Nước có mạng Khảm là nước, mây viết theo chữ nòng nọc là quẻ Khảm OIO (giải tự OIO là nòng O thiếu âm IO, Nàng Gió, trong khi Vụ Tiên OOO là Nàng Nước, Âu Cơ OII là Nàng Lửa, vợ Hùng Vương OOI là Nàng Đất). Tại sao Thần Long Khảm, nước, mây lại là Nàng Gió. Thần Long mang dòng máu (gene) Nước vũ trụ của mẹ Vụ Tiên Khôn. Nước vũ trụ cộng với dòng máu Lửa vũ trụ của cha Đế Minh Càn. Di thể gene Nước được gene Lửa đốt bốc thành hơi, khí, gió, do đó mà Thần Long là Nàng Gió. Ta thấy rất rõ con cóc là em Thần Long, Nàng Gió nên Cậu cóc có cùng bản thể Không, khí, Gió với chị. Rõ như ban ngày con cóc có một nghĩa là không là con Không, Khôn với khuôn mặt Khôn dương mang tính trội như đã thấy. Ta có thể kiểm chứng lại qua một vài khuôn mặt cóc của Lạc Long Quân trong văn hóa Việt Nam. Thần Sấm mưa Lạc Long Quân là cháu Cậu Cóc nên cũng có dòng máu cóc trong người vì thế Lạc Long Quân có nhiều khuôn mặt cóc. Trước hết ta có từ cóc cụ. Cóc cụ là hình bóng Lạc Long Quân. Ta đã biết Lạc Long Quân là mặt Trời Nước, Mặt Trời Lặn (Lạc Dương), Mặt Trời Hoàng Hôn là một cụ già, có râu dài, thường mặc quần áo thụng trắng (trong khi Hùng Vương là Mặt Trời Mọc là chàng trai Lang, Đế Minh là Đế Ánh Sáng có một khuôn mặt thế gian là Mặt Trời Buổi Sáng, là một người trưởng thành và Kì Dương Vương là Vua Mặt Trời Giữa Trưa là một người đứng tuổi (xem Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Cùng hình bóng với Lạc Long Quân là Thần Osiris của Ai Cập cổ, vị thần này có một khuôn mặt là Mặt Trời Nước cũng là một người già có râu dài và Aztec cũng có một vị thần tổ râu dài mang hình bóng của Lạc Long Quân. Vì sao? Aztec có nghĩa là “Heron people” (Người Cò, Tộc Cò) liên hệ với cò Lang của Lang Việt Hán Việt (nên nhớ thổ dân Mỹ châu là những tộc có gốc gác từ vùng duyên hải Nam Á qua Mỹ châu). Khi chia tay Lạc Long Quân dặn dò các con khi hữu sự cứ gọi bố là Lạc Long Quân sẽ trở về cứu giúp. Mỗi lần gặp nguy khốn các con thường gọi “bố ở đâu, xin về cứu giúp chúng con”. Người Aztec cũng có một vị thần tổ da trắng râu dài, họ cũng tin vào lời dặn là vị thần tổ râu dài của họ sẽ về cứu giúp khi họ gặp nguy khốn. Cả một đế quốc Aztec đã sụp đổ vào tay một người da trắng Hernandez Cortez có râu dài với một nhóm lính viễn chinh Tây Ban Nha cũng chỉ vì họ cho rằng Cortez là vị thần da trắng râu dài của họ trở về cứu giúp họ (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Tóm lại Lạc Long Quân là ông trời già và cóc cụ là vật biểu của trời già Lạc Long Quân. Theo duy dương ngành dương, Lạc Long Quân là Mặt Trời Hoàng Hôn, theo duy âm, ngành âm, Lạc Long Quân là Mặt Trời Đêm tức Ông Trăng. Vì thế mà ta có câu ca dao: Ông giăng mà lấy bà giời, Mồng năm dẫn cưới, mồng mười rước dâu. Ông trăng ở đây là Cha Tổ Lạc Long Quân và bà trời là Mẹ Tổ Âu Cơ. Tại sao lại chọn ngày năm và ngày mười? Số năm theo Dịch là số Li (Lửa đất, núi lửa, núi dương) tức là chọn theo bản thể Lửa, Núi của Mẹ Tổ Âu Cơ trong khi đó chọn số 10 là số Khảm, nước là chọn theo bản thể Nước, Biển của Cha Tổ Lạc Long Quân. Nước đi đôi với trăng, trăng nước. Chọn ngày 5 Li hôn phối với 10 Khảm là ngày hôn phối âm dương, nước lửa làm ngày dẫn hỏi và ngày cưới của ông trăng Lạc Long Quân với nàng non Âu Cơ hợp với bản thể hai người thật là chí lý. Người Việt chúng ta cũng thường gọi ông trăng là trăng già: Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non. (cadao). Non là núi âm, nổng(gò nổng) là núi nống (trụ chống) tức núi dương. Từ núi chỉ chung cả núi âm non và núi dương nổng. Ngày nay núi thay thế cho nổng (Tiếng Việt Huyền Diệu). Rõ ràng trăng Lạc Long Quân có một khuôn mặt già, là một người già. Ta cũng thấy trăng già Lạc Long Quân đi đôi với núi âm non Âu Cơ. Trăng nước liên hệ với cóc như theo truyền thuyết Trung Hoa trên mặt trăng có con cóc ba chân. Con cóc có ba chân là khuôn mặt đối nghịch với con quạ ba chân thấy trên mặt trời. Ba chân là ba cọc, ba hào dương là siêu dương, càn, lửa, ngành dương. Trăng già Lạc Long Quân có vật biểu là con cóc già. Con cóc ba chân cũng cho thấy rõ con cóc là con cọc mang siêu dương tính. Ba chân là ba nọc tức Càn. Điểm này cho thấy người Trung Hoa theo phụ hệ cực đoan, họ có con cóc ba chân Lửa thái dương Càn đối nghịch với con ếch là con Nước thái âm Khôn. Chúng ta, nghiêng về dòng âm, nên khuôn mặt dương của ngành âm Khôn là khí gió Đoài vì thế con cóc có một nghĩa là không và được gọi là Cậu (em trai của mẹ, dương của Khôn). Tóm lại, Lạc Long Quân Mặt Trời Lặn là một cụ già, là trời già, trăng già nên cóc cụ chính là cóc Lạc Long Quân. Cũng nên biết thêm trong Việt ngữ cóc thì gọi là cóc cụ (có thể là cụ ông hay cụ bà) còn ếch thì chỉ gọi là ếch bà, không bao giờ gọi là ếch ông hay ếch cụ, điều này cho thấy rõ ếch nghiêng về dòng nữ, thái âm. Ta cũng có từ cóc tía, gan cóc tía, gan như gan cóc tía. Trước hết, tía hiểu là mầu tím. Tím là mầu hoàng hôn, mầu chiều tím, mầu mặt trời lặn, mầu của Vua Mặt Trời Lặn Lạc Long Quân. Cũng vì là Mặt Trời lặn, Mặt Trời Hoàng hôm chiều tím nên có vương hiệu là Lạc Long Quân, được gọi là Quân chứ không gọi là Vương. Quân là màu huân, màu hôn, màu hoàng hôn. Theo q= h (quả phụ = hóa phụ), huân = quân. Hán ngữ huân là ‘khói lửa bốc lên’ như thế huân là màu lửa pha màu khói đen. Huân ruột thịt với Việt ngữ hun (xông khói, đốt lửa), hùn. Màu hùn hùn là màu thâm thâm (Lê Ngọc Trụ, Giải Nghĩa Một Hai Tiếng Nói Trại, in lại trong Dòng Việt số 3 tr.103). Rõ hơn nữa ta thấy màu ‘quân’ trong tên quả hồng quân hay mồng quân (Flacourtia cataphracta, Roxb.), Huỳnh Tịnh Paulus Của, trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị ghi: “mồng quân, thứ cây có nhiều gai, có trái tròn mà nhỏ, người ta hay ăn, trái nó chín đỏ đen như màu huân cho nên cũng kêu là hồng huân…”, ở nơi từ huân ghi: ”huyền huân, màu đen tím”, ở đây huân là màu tím và “trái hồng huân, tiếng tục gọi là trái mùng quân”. Trái hồng quân, mùng quân, mồng quân được gọi theo màu da của quả màu tím đen, đỏ tím đen. Vậy quân là màu tím đen, màu mặt trời đêm, mặt trời hoàng hôn. Lạc Long được gọi là quân vì là vua Mặt Trời màu ‘quân’, màu tím đỏ Như thế qua từ Quân ta cũng thấy rõ Lạc Long Quân có khuôn mặt Mặt Trời Lặn, Mặt Trời Hoàng Hôn. Tóm tắt lại về mầu sắc có hai màu biểu của Mặt Trời Hoàng Hôn Lạc Long Quân là mầu vàng, mầu hoàng (chiều vàng) và màu tím đen ‘quân’ , mầu huân, mầu hôn (chiều tím) tức hai mầu hoàng hôn. Điểm này giải thích tại sao trước đây ở thành Thăng Long, nhà thường dân bị cấm không được sơn hay quét vôi mầu tím và mầu vàng vì được coi đó là hai mầu của vua và của rồng. Đây chính là hai mầu hoàng hôn của Vua Rồng Lạc Long Quân, Vua Mặt Trời Lặn Hoàng Hôn. Nếu hiểu tía là bố, là cha (Tía em hừng đông đi cầy bừa, má em hừng đông đi cầy bừa…) thì như đã biết dân Việt coi Lạc Long Quân là tổ phụ thường gọi là ‘bô’, là bố. Cóc tía là cóc bố! cóc Lạc Long Quân! Tuy nhiên từ tía gốc từ Quảng Đông ngữ thường được dùng nhiều trong Nam, người Bắc không dùng, nên giải thích theo tía là bố không được phổ quát như tía là mầu tím. Tóm lại dù hiểu cóc tía là cóc tím hay cóc bố thì cóc tía cũng là cóc Lạc Long Quân. Ca dao tục ngữ có câu “con cóc nghiến răng chuyển động bốn phương trời” cho thấy rất rõ cóc là cậu của Thần Sấm nên mỗi lần nghiến răng là nhắc nhở Thần Sấm làm ra sấm chuyển động bốn phương trời. Mỗi lần cậu cóc nghiến răng là nhắc cóc cháu Lạc Long Quân làm sấm, làm mưa. Cóc và Vũ Trụ Tạo Sinh. Nhìn dưới lăng kính Vũ Trụ giáo, Dịch lý, cóc mang trọn vẹn ý nghĩa của Vũ Trụ luận. .Vô Cực: qua nghĩa cóc là Không, cóc có một khuôn mặt biểu tượng cho hư không, không gian. .Thái Cực: Cóc mang nghĩa thái cực nghĩa là âm dương còn ở dưới dạng nhất thể thấy qua bản thể lưỡng cư, vừa sống trên cạn mang tính dương vừa sống dưới nước (lúc còn là nòng nọc) mang tính âm. Trứng cóc có nhân đen hình “vòng tròn nòng có chấm nọc” mang nghĩa nòng nọc, âm dương, thái cực, hình ảnh của Trứng Vũ Trụ. Con nòng nọc hiển nhiên có thân hình nòng và đuôi hình nọc mang tính âm dương thái cực. .Lưỡng Nghi: -Cực dương: cóc có một khuôn mặt là cọc (dương, lửa vũ trụ, mặt trời, bộ phận sinh dục nam, cực dương) thấy rõ qua từ cóc biến âm với cọc, qua các hột mọc ở da mang hình ảnh những chấm nọc, qua vai vế cậu ông trời. Khuôn mặt cực âm thấy rõ qua từ cóc biến âm với hóc, hốc. Hang hóc có một khuôn mặt âm, bộ phận sinh dục nữ. .Tứ Tượng -Tượng Lửa vũ trụ Càn: như trên đã thấy cóc biến âm với cọc. Cọc biểu tượng cho cực dương dĩ nhiên có một khuôn mặt biểu tượng cho tượng Lửa. Ta đã thấy rất rõ con cóc ba chân của Trung Hoa biểu tượng cho lửa Càn. -Tượng Đất dương tức Lửa thế gian Li. Cọc có một khuôn mặt biểu tượng cho núi nổng (núi dương), núi trụ, núi lửa biểu tượng cho tượng đất, đất dương thế gian. Con cóc có sừng (horned toad) có thể dùng làm biểu tượng cho tượng Đất dương. -Tượng Nước dương Chấn. Con cóc nghiến răng chuyển động bốn phương trời, là cậu ông trời sấm sét, liên hệ với với mặt trăng nên có một khuôn mặt biểu tượng cho mưa, sấm (lửa trong nước, chớp-mưa), Chấn (Chấn vi lôi, Chấn là sấm). Trong các tranh dân gian thường vẽ cóc ếch đôi lá che mưa, cóc đánh trống. Trống có một khuôn mặt biểu tượng cho Sấm. -Tượng Gió dương. Cóc có một nghĩa là không, theo duy dương, có một khuôn mặt biểu tượng cho gió. Trong các tranh dân gian thường thấy vẽ cóc đội dù, ô. Nếu dù ô, lọng có những chi tiết mang dương tính thì là những biểu tượng cho gió. . . . . . Tiến xa đến chữ viết cổ nhất của loài người, ta có thể kiểm chứng với chữ nòng nọc. Như trên đã biết Cóc biến âm với cọc nên có gốc nọc mũi mác, răng sói, răng cưa (>) trong chữ nòng nọc. Chữ nọc mũi mác (>) này mang trọn nghĩa vũ trụ luận của ngành dương (Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Kết luận Tóm lại con cóc là con có da sần sùi nổi cục, nổi hột, nổi gai trông như những hạt mễ cốc thường ở trong hóc, trong hang, trong cốc, là con không, thuộc ngành Khôn, là con cọc mang dương tính, là loài con nhái, con nhẩy. Con cóc là cậu ông Trời sấm sét có búa thiên lôi. Con cóc liên hệ với nước, mưa, sấm. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, cậu cóc em bà Thần Long Nàng Gió thuộc ngành Không, Khôn, có mạng Khôn dương, khí gió là cậu của con cóc cụ, cóc tía, thú biểu của Lạc Long Quân, Vua Mặt Trời Nước có một khuôn mặt Thần Sấm mưa Chấn. Cóc Và Trống Đồng .Qua Việt ngữ, với nghĩa biểu tượng, cóc có nghĩa là không. Không có một nghĩa là trống (trống không). Trống có một nghĩa là trống (drum). Vậy cóc ruột thịt với với trống (drum). Trống (drum) là tiếng nói của hư không (tiếng trống thu không). Như thế con cóc là con không con trống, con cóc liên hệ với với hư không và với trống (drum). .Con cóc là con cọc, con nọc, con đực, con trống. Trống là đực và trống cũng là nhạc cụ bộ gõ nên cóc cũng ruột thịt với trống (drum). Trống là biểu tượng của ông thần sấm. Ông Thần Sấm thường cầm chiếc trống trong tay là vậy. .Trong khi đó ếch không biến âm với trống nên không ruột thịt với trống. .Cóc là cậu ông Thần Sấm nên cũng ruột thịt với trống. Như thế các tượng lưỡng cư trên trống đồng âm dương Đông Sơn là những tượng cóc. Trong khi đó, các trống đồng muộn của các tộc khác ở Đông Nam Á làm vào thời nông nghiệp mang biểu tượng cho mưa hay thuộc các tộc thái âm, mẹ có thể có những tượng ếch (xem Thế Giới Loài Vật Trên Trống Đồng Âm Dương trong Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). ————————————– Ghi Chú (1) Ta có thể dùng Việt ngữ để truy tầm nghĩa ngữ của Anh ngữ nói riêng và của Ấn Âu ngữ nói chung. Tôi dùng Việt ngữ để học và nghiến cứu Ấn Âu ngữ nói riêng và ngôn ngữ loài người nói chung và ngược lại. Dựa vào Việt ngữ đi tầm nguyên nghĩa ngữ của ngôn ngữ loài người có thể khác với tầm nguyên nghĩa ngữ của các nhà tầm nguyên nghĩa ngữ thế giới. Bởi vì tầm nguyên nghĩa ngữ, ở mỗi ngôn ngữ, tùy theo mỗi nhà tầm nguyên nghĩa ngữ nhìn theo một góc cạnh khác nhau, có thể khác nhau. Ở đây ta thấy tầm nguyên của cóc ếch khác nhau. Con nhái, chẫu chuộc cùng nghĩa là con nhẩy với frog và toad là nhìn theo con mắt của dòng Ấn Âu ngữ. Trong khi tầm nguyên nghĩa ngữ của cóc và ếch của Việt ngữ nhìn theo chữ nòng nọc, theo Dịch lý lại khác. Ta thấy rõ nhất là con tadpole theo Anh ngữ là con (cá) đầu cóc nhưng trong Việt ngữ tadpole rõ ràng là con nòng nọc, con có thân hình vòng tròn nòng và đuôi hình nọc, gọi theo âm dương, Dịch lý. Theo tôi dựa vào chữ nòng nọc là thứ chữ cổ nhất của loài người ghi lại âm, tiếng nói cổ của loài người là đáng tin cậy nhất. Tôi giải tự linh tự Ai Cập cổ, chữ khoa đẩu thánh hiền của người Trung Hoa, hình ngữ Aztec, Maya… bằng chữ nòng nọc còn viết trên trống đồng âm dương Đông Sơn dĩ nhiên sẽ khác với lối giải tự hiện nay. Sự khác biệt này là chuyện dễ hiểu. Xin đừng quá tin vào các nhà ngôn ngữ học khoa bảng thế giới hiện nay mà đã vội vã cho rằng tôi sai.1 like
-
Năm nay là một năm có nhiều thăng tiến trong công việc, tiền bạc kiếm được cũng khá nhưng hao hụt, nhiều việc phải chi tiêu. Trong họ hàng có thể có tang vào các tháng 3, hoặc 9 âm lịch. Riêng bản thân phải đề phòng lời nói tránh lời qua tiếng lại với người khác dễ xảy ra ẩu đả mất mấy cái răng, tay chân đầu mặt có thương tích do đánh nhau hay tai nạn. Năm nay cũng là một năm có nhiều thay đổi cho bản thân, có thể là công việc hay chỗ ở vào khoảng tháng 5,6 âm lịch. Các tháng đầu năm cũng nên cẩn thận giữ mình. Chờ bác haithienha tư vấn thêm cho nhé!1 like
-
Quán vắng!
ALPHAA liked a post in a topic by Thiên Sứ
Hà Nội dạy lịch sử qua tên đường phố VnExpress Thứ hai, 30/1/2012, 14:29 GMT+7 Các tấm biển trên 10 tuyến phố ở thủ đô như Lê Thái Tổ, Lê Thạch, Lê Lai, Phan Bội Châu... đã được ghi tóm tắt tiểu sử, công lao của các danh nhân, anh hùng dân tộc nhằm giáo dục lịch sử cho lớp trẻ. Những ngày đầu xuân Nhâm Thìn, trên nhiều tuyến phố của Hà Nội xuất hiện các tấm biển tên đường khá lạ, ghi tóm tắt tiểu sử, công lao của các danh nhân, anh hùng dân tộc. Trên phố Lê Thái Tổ, tấm biển không đơn thuần chỉ ghi tên vị vua đầu tiên của nhà Hậu Lê, mà nay đã có thêm vài dòng chú thích để người dân hiểu hơn về ông. Việc làm này nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của người dân. Ông Nguyễn Văn Trung (phường Phúc Tân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) cho rằng, việc làm này là cần thiết bởi tấm biển không chỉ gợi về quá khứ hào hùng, mà còn giáo dục con cháu noi gương và nối dõi truyền thống anh hùng của cha ông. Từ khi những tấm biển này được lắp đặt, tôi thấy nhiều bạn trẻ đứng lại và đọc. Tôi nghĩ đây là biện pháp tốt để giáo dục lớp trẻ về lịch sử Việt Nam, lịch sử cha ông", anh Trung, một nhân viên bảo vệ bên bờ hồ Hoàn Kiếm nói. Anh Đặng Tiến Đông (huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang) cho biết: "Năm nào tôi cũng lên Hà Nội đi chơi xuân nhưng năm nay thực sự bất ngờ bởi cách làm này. Đây là cách giáo dục và tiếp lửa hào hùng rất hay. Tôi mong rằng cách làm này sẽ được áp dụng ở nhiều tỉnh thành khác". Nhiều thành phố trên thế giới đã áp dụng hình thức gắn biển chú giải cho các đường phố mang tên danh nhân, địa danh lịch sử. Những tấm biển này giúp bổ sung kiến thức cần thiết cho người dân và khách du lịch tới thăm thủ đô. Nhiều người dân mong mỏi Hà Nội sẽ lắp đặt đại trà các biển tên phố này. Lê Hiếu - Đoàn Loan ======================= Đúng là một sáng kiến hay! Vấn đề còn lại là phố Hùng Vương - nơi có lễ đài và quảng trường Ba Đình - được ghi chú như thế nào? Thời liên minh 15 Bộ lạc khoảng 700 năm trước CN hay là nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt 2879 đến 258 trước CN? Lời khuyên của tôi là các vị nên theo chính sử!1 like -
Ok CCB ! Từ Thiện mà ! ai làm cũng được giờ nào cũng được ngay cả khi tâm khởi lên thành ý là đã công đức rồi!1 like
-
Nam tuổi Thìn có 3 năm tam tai (Dần- Mão- Thìn) kiêng kỵ làm việc lớn như làm nhà, cưới vợ, ... Vậy tuổi Mậu Thìn (1988) không nên cưới năm nay. Nếu vì lý do nào đó phải cưới thì chọn tháng 11 âl nhưng ngày giờ phải chọn thật cẩn thận để hóa giải tam tai1 like
-
Một nhà văn khi viết truyện trải cảm nghĩ và hồn mình trong đó, ai cũng muốn được chia sẻ . Nếu sự chia sẻ cúa một thế hệ thì cũng đã là vinh dự lắm rồi. Nếu là sự chia sẻ của cả một thời đại thì cũng là một thiên tài. Nhưng từ khi có lịch sử văn minh nhân loại thì truyện tình Trương Chi - vốn không phải là một truyền thuyết, hay một sự kiện lịch sử - nhưng sự tồn tại gần như vĩnh cửu. Điều này chỉ có ở một nền tảng xã hội rất phát triển mới có thể tạo ra những tác phẩm vượt thời gian như vậy. So với chuyện tình Trương Chi, tôi chưa thấy một tác phẩm nào xứng đáng để so sánh. Phạm Duy Khiêm - một tài năng được ghi nhận mà viết lại chuyện tình Trương Chi thấy mộc mạc quá! Sợ không bằng một bà mẹ quê ở Việt Nam kể cho con cháu ở tuổi thơ ngây câu truyện này. Hay là tại dịch ngược từ tiếng Pháp qua, nên nó giảm gía trị đi chăng? Đấy là cái nhìn của cá nhân tôi thôi.1 like
-
EU tìm lối ra cho khủng hoảng 30/01/2012 2:42 Theo dự kiến, lãnh đạo các nước EU sẽ họp tại Brussels (Bỉ) vào ngày 30.1 nhằm duy trì các diễn biến lạc quan về kinh tế vừa nhen nhóm vào đầu năm 2012, theo tờ Le Monde. Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Mario Draghi phát biểu: “Nếu so sánh hiện tại với 5 tháng trước sẽ thấy tình hình đã có thay đổi lớn”. Tuy nhiên, EU vẫn còn nhiều vấn đề phải thảo luận trong cuộc họp ngày 30.1. Nổi bật nhất là những bất đồng trong việc hỗ trợ Hy Lạp. Cụ thể, các ngân hàng tư nhân hối thúc ECB và chính quyền Hy Lạp góp phần nhiều hơn vào quá trình tái cấu trúc nợ. Các bên cũng chưa thống nhất mức bổ sung vào gói giải cứu Hy Lạp. Đức tuyên bố chỉ chấp nhận thêm tiền với điều kiện lập một ủy ban có quyền phủ quyết nhằm giám sát chính sách kinh tế, tài chính của Athens. Ngoài ra, còn có các vấn đề như thỏa thuận mới về ngân sách các nước, quy định trừng phạt những quốc gia để thâm hụt ngân sách vượt mức 0,5% GDP... Lan Chi ====================== Thực chất cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay chính là do sự phát triển với xu hướng hội nhập toàn cầu. Bởi vậy nó đòi hỏi một sự phân công lại lao động trên quy mô toàn cầu. Nhưng chính quyền lợi riêng của từng quốc gia ngăn cản nhu cầu phân công lao động này. Bởi vậy, muốn tránh được sự suy thoái tiếp tục thì phải là một cuộc hội thảo quốc tế. Nhưng ngay cả việc này được thực hiện thì đấy cũng chỉ là một ý tưởng đúng có tính tổng quát. Đi sâu vào chi tiết sẽ vấp phải sự kháng cự của quyền lợi từng quốc gia. Cho nên cần có một tư duy rất hoàn chỉnh và cân đối được mọi quyền lợi của các vùng kinh tế thế giới. Nhu cầu này sẽ dẫn đến một lý thuyết tổng hợp có thể dung hòa mọi quyền lợi. Đó chính là một phần của lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nội dung của nó nằm trong nền văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử. Không thừa nhận điều này thì hãy đợi đấy! Vài lời bàn cho vui.1 like
-
Năm nay Lộc -Mã giao trìNằm lì ở nhà cũng có tiền vô Đất đai nhà cửa nơi mô Mua thêm vài cái phơi khô cũng lời May mà mua đặng của hời Để lâu không bán thì lời càng to Bát tọa phượng cát giải thần Có người cần bán chị ơi mua giùm Nhưng mà cũng có sự lo Không chồng thì vợ cứ ho tối ngày Có ông hàng xóm mặt dầy Không phải nơi nầy thì cũng cơ quan Mắt cú vọ mặt láo liên Thấy ai có tiền xin xỏ vài xu Cắn răng bấm bụng chữ nhu Thà bỏ con gà mà được con trâu.1 like
-
Thi Nói Khoác
TrungNhan liked a post in a topic by Thiên Sứ
CẦN TIỀN BÁN GẤP SIÊU TÀI LIỆU MẬT CỦA NỀN VĂN MINH ATLANTIC Qui ví không tin điều này hả? Nhưng rồi quí vị sẽ thấy điều tôi nói có thật hơn nhiều và pha học hơn nhiều với thông tin dưới đây:.. Như vậy quí vị thấy rằng chính phủ Hoa Kỳ đã tiếp xúc với nền văn minh ngoài trái Đất và chính nền văn minh này trợ giúp Hoa Kỳ trong việc phát triển công nghệ. Thế đấy! Còn tôi, tôi được Khomeitep - Tổng công trình sư xây dựng nên Kim Tự Tháp Cheof trao cho một tài liệu về những bí ẩn của tri thức đã tạo nên nền văn minh Atlantic và dặn rằng: "Sau này, những người ngoài hành tình sẽ xuống trái Đất để tìm hiểu những bí ẩn này. Anh chỉ được phép trao đổi nếu có một sự bảo đảm". Khomeitep nói đúng. Người ngoài hành tinh quả là đã xuống trái Đất, nhưng họ không thể ngờ rằng những bí ẩn đó nằm trong tay tôi, chứ không phải từ chính phủ Hoa Kỳ và Liên Xô. Đáng nhẽ ra tôi không nên nói ra điều này. Nhưng thú thật, cuối năm "chẩu bẩu", nên bây giờ tôi đang "kện rệp" cần bán rẻ với gía một tỷ Dollar. Mua nhanh không Thiên Sứ đổi ý. Địa chỉ liên hệ: Lò gạch làng Vũ Đại.1 like -
Sức mạnh của nội tâm HH Gyalwang Drukpa Cách chúng ta ứng xử trước một hoàn cảnh nhất định có thể chuyển hóa cái nhìn của chúng ta đối với hoàn cảnh ấy cũng như đối với cả thế giới 'Biết trân trọng và tri ân' là chìa khóa duy trì sự cân bằng trong cuộc sống. Khi con người ta may mắn có được thành công, ta không nên để cho sự thành công hay sự kiêu mạn xâm chiếm tri giác của mình, mà ngược lại hãy biết trân trọng và tận hưởng những điều ích lợi từ sự thành công ấy. Tương tự như vậy, khi gặp thất bại, hãy đừng để cảm giác buồn đau chi phối tri giác của mình, mà cũng lại phải biết trân quý những trải nghiệm và bài học rút ra được từ những thử thách ấy. Hãy nên tự nhủ rằng vì vạn sự vô thường nên những điều tồi tệ rồi cũng sẽ chuyển hóa trở thành tốt đẹp nếu chúng ta ứng xử tích cực trước mỗi khó khăn. Lý do chính khiến mọi người bị những thăng trầm chi phối là bởi vì chúng ta thiếu trí tuệ biết trân trọng và tri ân cuộc sống. Không có trí tuệ hiểu biết, chúng ta không thể biết trân quý và tri ân. Tôi không cho rằng thế giới này là một nơi xấu xa tồi tệ mặc dù vào những thời điểm khó khăn nhất định nhiều người có thể không đồng tình với ý kiến này. Sở dĩ tại sao tôi lại tin như vậy vì cách thức chúng ta ứng xử trước một hoàn cảnh có thể chuyển hóa cái nhìn của ta đối với hoàn cảnh ấy cũng như đối với cả thế giới này. Chẳng hạn như khi nền kinh tế ở trong giai đoạn phát triển thịnh vượng, chúng ta nên biết trân trọng niềm hạnh phúc mà mình đang được tận hưởng nhờ thặng dư tài chính. Điều căn bản mà chúng ta cần phải hiểu rằng niềm hạnh phúc đích thực đến từ việc chúng ta biết sẻ chia niềm vui, và nếu có thể là biết sẻ chia những gì mình có, và mang hạnh phúc đến với mọi người. Như thế, bằng cách khai triển nguyên nhân của hạnh phúc và trân trọng niềm hạnh phúc ấy, chính là chúng ta đang đầu tư vào hạnh phúc để càng them nhiều niềm vui và hạnh phúc nảy nở hơn. Ngược lại, nếu chúng ta không biết học cách tri ân thì điều đó lại trở thành cần phần nghèo nàn nhất trong cuộc đời và hạnh phúc mà con người ta có được từ sự thành đạt thế gian sẽ hoàn toàn bị uổng phí. Tôi tin tưởng rằng sự đầu tư cho một tương lai tốt đẹp hơn có thể được thực hiện một cách giản đơn thông qua trí tuệ biết trân trọng và tri ân. Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọng và tri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lực và căng thẳng cho chính bản thân mình. Stress hay sự căng thẳng là hệ quả của sự thiếu linh hoạt và không biết chấp nhận thực tại. Nói cách khác, stress gây ra bởi bám chấp và tham cầu mạnh mẽ. Khi hy vọng và mong cầu có mặt, thì đồng thời sẽ xuất hiện sự sợ hãi cái điều mình mong cầu ấy sẽ không trở thành hiện thực hoặc sẽ hiện khởi cảm giác bất an khiến cho con người ta lo sợ sẽ đánh mất những gì họ đang có, nghĩa là bất kỳ những gì họ mong đợi có thể sẽ không xảy ra như mong muốn. Vì thế stress không chỉ là tác nhân khởi đầu mà còn có sức ảnh hưởng rất lớn. Cũng có thể nói rằng do không biết trân trọng và tri ân, chúng ta không vững vàng trong cuộc sống và do đó chỉ toàn đánh cược với hạnh phúc của mình và cố gắng với trò chơi may rủi. Biết trân trọng và tri ân sẽ mang lại sự hài lòng biết đủ và nhờ vậy là niềm hạnh phúc. Rốt cuộc thì tất cả chúng ta đang sống trên thế giới này đều mưu cầu hạnh phúc, chẳng phải vậy sao? Mọi việc chúng ta làm đều tạo quả, và tôi tin rằng con người ta không nên hành động tùy tiện hay thiển cận chỉ nhắm tới những kết quả tạm thời chóng vánh mà thiếu đi trí tuệ hiểu biết nền tảng căn bản là biết trân trọng và tri ân; điều đó sẽ dẫn tới rất nhiều vấn đề rắc rối trong cuộc sống. Chẳng hạn như nếu chúng ta biết tri ân mẹ trái đất của mình, biết trân trọng chính chúng ta, tất cả mọi người và vạn vật, chúng ta sẽ không khi nào muốn hủy diệt phá hoại trái đất, làm hại bản thân mình, mọi người và vạn vật, mà ngược lại chúng ta sẽ trân quý bản thân, thế giới và mọi sinh linh trên trái đất này. Không có gì là không thể, vậy tại sao chúng ta không dồn tâm sức vào việc chuyển hóa những tiêu cực thành tích cực? Khi chúng ta có thể học được cách trân trọng và sống với yêu thương, thì món quà tặng sẽ che chở bảo vệ ta khỏi những thất bại và chắc chắn thành công và hạnh phúc sẽ đến với ta ở bất cứ nơi đâu và với bất cứ điều gì mình làm. Cho dù thế giới này có sụp đổ hay không cũng không phải là vấn đề vì sức mạnh nội tâm được tích lũy dồi dào nhờ trí tuệ hiểu biết cảm thông và trân trọng tri ân sẽ nâng đỡ chúng ta bình an vô sự, không mảy may thương tổn trước những thăng trầm thịnh suy trong cuộc đời. http://www.drukpavietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=624%3Asc-mnh-ca-ni-tam&catid=89%3Akinh-sach-tu-tp&Itemid=89〈=en1 like
-
Sống thiện chết lành.. (Good life, Good death) Rinpoche Nawang Gehlek Chúng ta là ai ? Lần đầu tiên tới Hoa kỳ tôi do dự khi nói về sự tái sinh bởi vì tôi nghĩ mọi người không thích thú gì về điều ấy hoặc có thể chưa thể hiểu đựơc điều ấy. Tôi e ngại họ nghĩ rằng đó là các câu chuyện thần tiên hoặc là một loại tẩy não tôn giáo. Nhưng khi tôi nói điều này, tôi ngạc nhiên thấy nhiều người gật đầu tán đồng, như thể họ chấp nhận và thích thú với điều ấy. Tại sao họ chấp nhận nó một cách dễ dàng như thế trong khi một người như tôi, một lạtma tái sinh đã từng bỏ cả một đời cố gắng tìm hiểu điều ấy, mà có lúc rất khó khăn để chấp nhận nó? Tại sao một số người Hoa kỳ ngồi xuống để lắng nghe một người lạ từ Tây tạng thuyết giảng về sự tái sinh lại tìm thấy điều ấy đơn giản và dễ dàng chấp nhận? Đó là một câu hỏi lớn đối với tôi. Tôi suy ngẫm về điều này và trao đổi với một số người. Tôi được biết họ thích thú điều này bởi vì đó là một cái gì “bí hiểm“. Có thể họ nghĩ rằng qua sự tái sinh họ có thể trở lại nhân thế trong cùng con người cũ với đầy đủ sự hiểu biết cuả kiếp trứơc. Tôi ngờ rằng đó là lý do nhiều người chấp nhận nó mà chẳng hề biết nó là cái gì. Một hệ lụy cuả ý tưởng ấy là sự tiếp tục tồn tại cuả kiếp người làm cho người ta dễ dàng chấp nhận nó, ít nhất là trên ngôn từ, nếu chưa có sự thông hiểu. Vậy mấu chốt là gì? Như tôi am hiểu, có một bất ngờ lớn. Bất ngờ là sự tồn tục cuả một cá nhân rất tinh tế. Ký ức thì không. Đời sống con người không tồn tục như thế. Sự tái sinh cuả chúng ta có thể là một cơn lốc xoáy cuồng điên không thể kiểm soát đựơc mà trong đó chúng ta bị thổi tung lên giống như những chiếc lá vàng mùa thu không biết sẽ rơi vào nơi đâu. Một trong những đại đệ tử cuả Đức Phật là ngài Mahakatyayana, khi đi ngang qua một khu rừng với một đám đệ tử. Khi ho tới một cái hồ, một người đàn ông, một ngừơi đàn bà, và đứa con nhỏ cuả họ đang ăn một con cá vừa bắt đựơc. Trong lúc con chó cuả họ cũng đang sủa đòi ăn. Khi thấy cảnh này, Mahakatyayana dừng lại và bật cười. Mọi người muốn biết lý do. Ngài giải thích: “ Kiếp trứơc, đứa trẻ nhỏ mà bà mẹ đang ẵm cho bú là người đàn ông bị chồng cuả bà ta giết hại vì đã tấn công bà ta. Con cá họ đang ăn chính là ông cuả đứa bé và con chó đòi ăn chính là bà cuả vợ ông ta “. Sự tương tục Chúng thắc mắc chúng ta là ai, từ đâu đến, sẽ đi vè đâu, và đến đó bằng cách nào. Đây không phải là những câu hỏi mới. Hai ngàn năm trăm năm trước đây, Phật đã đựơc hỏi chúng ta ở đâu và khi nào bắt đầu cuộc sống và có hay không sự chấm dứt tái sinh. Câu trả lời cuả Phật là sự im lặng, bởi vì sự khởi đầu là không thể xác định đựơc. Không có một thần thức mới đựơc sinh ra, và cũng không từng có thần thức nào bị đoạn diệt. Mọi thần thức đều nổi lên trên mặt theo cách nào đấy. Đó là lý do chúng ta tiếp tục đi từ kiếp này sang kiếp khác. Tất cả chúng ta vẫn là cùng một con người, trong vô lượng thời gian. Đó chính là điều cơ bản giáo lý cuả Phật cho rằng mọi giống hữu tình từng là mẹ cuả ta. Đây có thể là một câu nói mâu thuẫn, và tôi chẳng thể chứng minh đựơc một cách khoa học. Thực ra, rất khó để minh chứng sự tái sinh. Nhưng đó là tiền đề cuả sự tái sinh : không có thức mới sinh ra; mọi người trôi lăn trong vòng luân hồi miên viễn từ sinh tới tử, rồi từ sinh tới tử. Mọi thần thức hiện có sẽ luôn tồn tại. Và mọi thần thức có tiềm năng trở thành trí huệ, có đầy đủ tự do để từ những cảm tính tiêu cực cùng dấu ấn cuả nó-- để trở nên có phẩm chất vô cấu nhiễm và trí huệ. Thần thức thay đổi hình dạng liên tục. Vì thế để xác định ai là ai là điều rất khó bởi vì sự thay đổi từ kiếp này sang kiếp khác rất đột biến. Nhận thức mọi người là sự tái sinh là nhận thức cuả Phật. Trong nền văn hóa Tây tạng cuả chúng tôi, thời tiền Cộng Sản, chúng tôi có phát triển một hệ thống để nhận dạng những sự sống như thế, một Lạt Ma hiện thân là người tiếp tục trở lại cho một mục tiêu đặc thù nào đó. Họ đựơc gọi là Tulkus--”Tul” có nghiã là thể hiện và “ku” là hình thức, hình dáng. Tulkus là những người đã giải thoát khỏi những xúc động tiêu cực (u minh) và có thể giúp đỡ người khác giải thoát. Hệ thống Tulkul --hay những người tái sinh được nhận diện-- bắt đầu là Karmapa, khoảng năm thế kỷ sau khi Phật giáo vào Tây tạng. Đến lần tái sinh thứ 16, người đã nhập diệt năm khoảng đầu thập niên 1980, mỗi lần tái sinh như thế Karmapa để lại 1 bức thư cho biết người tái sinh kế tiếp là ai. Không lâu sau đó là Đạt Lai Lạt Ma Panchen Lama, và hàng ngàn những vị khác đựoc xác nhận. Và trong một vài trường hợp sự tái sinh gấp bội cuả cùng một Tulku cũng đựơc xác nhận. Ở mức độ giác ngộ, khả năng thể hiện là không giới hạn. Đối với các vị Lạt Ma phát triển cao, đời sống cuả dĩ vãng và tương lai cũng bình thường như hôm qua và ngày mai vậy. Đôi khi họ nói chuyện với nhau về đời sống sắp tới như thể họ đã sắp đặt sẵn cả rồi. Tôi đã đựơc nghe kể về một Lạt Ma nổi tiếng bị bịnh liệt rung (Parkinson). Một ngày nọ, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 thấy một người co giật rất mạnh, ngài bảo người đó, “Tôi sẽ không nói cho ông nghe những chuyện thông thường, như được sống lâu, như tiếp tục giúp đỡ chúng sinh, nhưng tôi nói rằng khi tôi thấy một em bé bảo tôi rằng “tôi là người có chiếc mũi lớn“ tôi sẽ hân hoan vì đã gặp lại ông tái sinh“. Vị Lạt Ma trở về nhà trong lòng thảnh thơi với cuộc đối thoại ấy, và chỉ ít lâu sau, ông ta chết. Có nhiều cách để nhận ra các Tulkus. Một trong các cách đó là Tulku tự xác định được hình tích cuả mình, một Tulku có thể khám phá ra mình ngay từ giai đoạn sơ sinh. Ngay sau khi vị Đạt Lai Lạt Ma đựơc sinh ra trong thế kỷ 16, ông mở to mắt, quay nhìn về hướng Tashi Lunpo, tu viện cuả Đạt Lai thứ nhất và bắt đầu cầu nguyện. Ông đọc thuộc lòng các câu mật chú ngay khi mới biết nói, được 3 tuổi, khi bị bà mẹ la rầy, ông hát bài hát nói với bà rằng “Con sẽ không ở lại nơi đây; con có một căn nhà đẹp hơn với nhiều phòng ốc ở Tashi Lunpo“. Mẹ ông tò mò hỏi “Con từ đâu lại đây ?“ ngài trả lời “Khi con chết, trong lúc người ta bó xác con bằng dây thừng mang con tới chỗ thiên táng, con thấy có vị hộ pháp Mahacala mặc áo giáp đi giầy sắt, mang mặt nạ dữ tợn đưa con tới đây”. Ông kể tên người đã buộc nhục thể ông. Khi lên 7 ông nhận ra vị hộ giáo già giúp việc cho ông khi còn ở tu viện và ông cầu chúc sức khoẻ cho vị này. Vị này bật khóc. Một hệ thống chung để nhận biết các vị Phật tái sinh, mà ngay cả Đức Đạt lai lạt ma thứ 14 đã đựơc nhận diện là nhận xét xem vị tái sinh đó có nhận biết được một số những trang dụng cá nhân trước đây cuả mình hay không, chẳng hạn như sâu chuỗi, kiếng đeo mắt, Rồi thời gian đựơc sinh ra cũng là một yếu tố. Vì còn có thể có những điềm triệu siêu nhiên đặc biệt mà nhiều người chúng kiến khi xẩy ra sự tái sinh đó nữa, chẳng hạnh như cầu vòng xuất hiện trên mái nhà cuả đứa trẻ vừa được sinh ra hoặc một bông hoa nở giữa mùa đông, có trường hợp một con quạ đậu trên ngọn phướn để canh gác ngày đêm cho đứa trẻ suốt 2 năm. Những giấc mơ tiên tri và linh thị là những điều thường thấy, đặc biệt nếu có nhiều em bé cùng được xác nhận bởi một điềm triệu thì sự chọn lựa sau đó đựơc xác định bởi một Lạt Ma tôn kính có khả năng linh thị. Tôi biết điều này nói ra nghe có vẻ kỳ quái nhưng ở Tây tạng đó là những điều bình thường như ở đây quí vị nghe tiên đoán thời tiết hàng ngày vậy. Sự tái sinh cuả một vài đại sư trước đây không đựơc công nhận một cách chính thức mặc dầu một số người biết rõ họ là ai. Đại sư Tashi Namgyal tái sinh là tôi là một ví dụ. Trước khi điều ấy xẩy ra, tôi đã lấn cấn nghĩ là mình có thể là Panchen Lạt Ma tái sinh hoặc một ai khác. Nhiều toán tìm kiếm tới nhà tôi để xem tôi có phải là đứa trẻ họ muốn tìm kiếm hay không. Để xác định xem tôi có phải là Panchen Lạt Ma, một phái đòan lớn đi bằng hai ba chục con ngựa đến gặp tôi. Khi đó tôi mới lên 3, và tôi nhớ lại đám đông đó nhiều người quá. Tôi mong muốn đựơc xác minh là Panchen Lạt Ma , vì nếu đựơc như vậy tôi sẽ có một địa vị trọng vọng như cha tôi, là người không những chỉ là Lạt Ma tái sinh mà còn đựơc sinh vào gia đình cuả Lạt Ma thứ 13. Sự kiện ông là một Lạt Ma được trọng vọng đã đưa tôi vào nhiều danh sách điều tra tái sinh khác nhau. Khi Tashi Namgyal chết, những người trong viện cuả ông và các vị hộ pháp đã đem phát tán hầu hết cuả cải và vật dụng cuả ông vì họ không mong đợi ông tái sinh. Họ chỉ còn giữ lại một tấm thảm và một chiếc hộp nhỏ lúc họ đi kiếm tìm sự tái sinh cuả ông. Họ mệt mỏi kiếm tìm và hi vọng sự việc sẽ qua đi. Cha tôi cũng không ít cơ hội nói rằng ông chẳng tin tôi là một Lạt Ma tái sinh, tuy ông cũng tin rằng bằng phương cách nào đó tôi có thể giác ngộ theo Phật. Ông nghi ngờ về toàn bộ hệ thống Tulku; ông cho rằng hệ thống có quá nhiều điểm xung yếu cho các hoạt động chính trị lợi dụng. Một vị Rimpoche đựơc tôn kính nói rằng sự tái sinh cuả Tashi Namgyal chắc hẳn là con trai cuả một vị lạt ma tiếng tăm ở tại Lhasa, điều ấy có vẻ ám chỉ đến tôi. Cha tôi đã tìm mọi cách để ngăn cản quá trình xác nhận này, tới mức độ ông chỉ đồng ý nếu tôi được nâng lên một cấp độ cao hơn, ông hi vọng đoàn khảo tra sẽ từ chối yêu cầu ấy mà cho tôi yên. Nhưng vị được trao phó cho việc xác nhận tái sinh cuả vị tiền thân cuả tôi lại trở thành quan nhiếp chính Tây tạng và ông đã nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ cuả mình. Một sự thực bất ngờ đối với cha tôi là tôi được phong tước và được xác nhận lúc tôi lên 4. Tôi được gởi tới nơi tu tập gần nhà với vị thầy đầu tiên, rồi sau đó vào tu viện Drepung khi lên 5. Trong buổi lễ tiếp nhận tôi ở tu viện, thầy tôi bảo “ Ta hi vọng con sẽ hoàn tất những bài học ở tu viện này càng nhanh càng tốt và ở lại Lhasa đễ giảng dạy cho hàng trăm ngàn người khác. “ Rằng tôi thực sự là hiện thân tái sinh cuả vị cao tăng có tên là Tashi Namgyal. Nếu không phải vậy, chắc hẳn họ đã không nói tôi là đứa trẻ ngoan và mong ước một đứa trẻ như tôi sau này hướng dẫn hàng trăm ngàn người. Yêu cầu này cho tôi thấy rõ ràng trách nhiệm cuả tôi với tha nhân, cũng như những mong đợi cuả người khác vào tôi vậy. Nó tạo nên trong tôi một định hướng chắc chắn, một chương trình cho cuộc đời tôi. Tôi ở lại Drepong tới năm tôi 19, khi tôi trốn thoát qua Ấn độ, nơi tôi còn tiếp tục tu hành thêm một ít năm nữa. Khi tôi 20, có một cuộc nổi loạn tuổi trẻ trong tôi, nghi ngờ rằng có lẽ tôi đã là trò giải trí trong tuổi trưởng thành qua vụ việc tái sinh, nỗi hoài nghi ấy nổi lên mạnh mẽ hơn bao giờ. Tôi đã đọc tự truyện cuả các vị lạtma tái sinh khác nhau. Rất nhiều người trong truyện hồi tưởng lại tiền kiếp cuả họ. Nhưng khi tôi cố gắng nhớ lại bất kỳ điều gì có kiên quan đến tiền kiếp cuả mình như bạn bè, những sự kiện đáng nhớ thì hoàn toàn là số không. Tôi hoang mang, Tôi là ai đây? Một kẻ khật khùng? Thời gian sinh sống tại Delhi trong thời gian 60-70, tôi đau khổ vô vàn. Khi một người bạn cuả gia đình tôi, cô ta lập gia đình với 1 gia đình dòng dõi hoàng gia ở Ladakh, bị chết ở Delhi. Cha cô nhờ tôi làm phép siêu chuyển thần thức cho cô, một phép tôi đã từ lâu không làm và tôi cũng chẳng có đủ công cụ để thực hiện phép này, chẳng hạn như hợp chất phải đặt vào chiếc miện đội vào đầu người chết. Thêm vào đó là nỗi nghi ngờ cuả tôi không biết phép này có kết quả hay không. Tôi đến gia đình người chết lúc 6 giờ chiều. Tôi ngồi một mình với thi hài người đàn bà đã chết và đọc một bài kinh rất chậm rãi với tất cả sự chú tâm cuả tôi. Khi tôi niệm chú chuyển thần thức, tôi tập trung toàn bộ trí lực vào công việc đang làm. Một trong những vị thầy cuả người chết là Bakula Rimpoche, là một thành viên trong quốc hội Ấn lúc bấy giờ. Ngay ngày hôm sau, ông ta bảo với tôi rằng người quá cố đã đến viếng ông vào khoảng 7 giờ chiều, đúng là khoảng thời gian tôi làm phép chuyển thần thức cho cô hợp nhất với trí huệ giác ngộ. Điều ấy càng làm cho tôi bối rối phân vân, nhưng đồng thời nó cũng đánh động sự hồ nghi cuả tôi. Nó chỉ ra rằng một điều gì đó đã xẩy ra, dù rằng tôi không thể khẳng định một cách trọn vẹn. Dĩ nhiên, tôi không phải là người duy nhất ở đó-- cũng có những Lạt Ma khác hiện diện--nhưng duy nhất có tôi với người chết trong lúc làm phép, và thời gian xẩy ra sự việc chứng tỏ có một việc làm nào đó có kết qúa. Tôi nhớ lại buổi thảo luận về sự hồ nghi cuả tôi với các thầy Ling và Trijang Rimpoche. Các vị đã chăm chú lắng nghe tôi . Những hiểu biết về sự tái sinh đến với tôi một cách tiệm tiến qua một qúa trình tu học những lời dậy cuả Phật tổ. Qua Kinh sách. Qua các cuộc thảo luận, qua các cuộc thực hành thiền định. Đến nay tôi có thể nói một cách khẳng định rằng tôi tin vào sự tái sinh. Điều ấy đến từ trong cõi tâm thức thẳm sâu, một loại toàn tri. Không có lời nói, một sự hiểu biết đến từ bên trong. Đó là lý do tôi tin vào sự tái sinh-- không những chỉ bởi Phật tổ đã nói như thế. Một số bạn bè bảo tôi rằng điều này chỉ xẩy ra với điều kiện ở Tây tạng, nhưng cũng có thể nói rằng vì phương Tây thiếu lòng tin vào điều ấy. Ở Tây tạng, chúng ta có thể nghe hoặc biết về những đứa trẻ tiếp nối câu chuyện dang dở với người lớn tuổi ngay ỡ nơi họ đã ra đi trong kiếp trước, thực hành các lễ nghi tôn giáo mà họ không thể biết đựơc, hoặc nhất định cho rằng họ đã sinh sống tại những căn nhà thuộc các thành phố mà họ chưa từng tới đó bao giờ, quen biết những người họ chưa hề gặp trong đời. Nếu tôi không tin vào sự tái sinh, dĩ nhiên những điều này là phi lý. Nhân và duyên (causes and condition) Điều tin tưởng của tôi đến từ sự chiêm nghiệm nhân và duyên, nhân và qủa. Khi nhìn vào thực tại, chúng ta có thể thấy rằng mọi việc không xẩy ra một cách tình cờ. Luôn có một nguyên nhân, và luôn có một cơ duyên. Có những nhân và duyên cho sự sinh, cho sự chết, cho đau ốm, cho mạnh khỏe, cho hạnh phúc, vui thú. Có những nhân và duyên cho tôi được nuôi day và tái sinh ỡ Tây tạng, cho tôi bị bắt buộc rời xa quê hương và cuối cùng đến Hoa kỳ. Phật tổ đã nhìn sâu vào nhân và duyên cuả mọi nguồn cội khó khăn và đã tìm ra lý do. Nhưng ngài đã phân biệt rạch ròi giữa nhân và duyên. Khi một người bị chết bất đắc kỳ tử, chẳng hạn như vì sự xụp đổ cuả một cây cầu, Đức Phật đã hỏi tại sao ngưiời đó lại bị chết, ngài đưa ra 2 câu trả lời khác nhau. Có một nhân cơ bản và có nhiều duyên tác hợp. Nhân căn bản là người chết đó đã gây tổn thương cho những người khác trong khoảng thời gian nào đó, bất kể vô tình hay cố ý. Câu trả lời thứ hai là trong một điều kiện nào đó đã làm cho cây cầu bị xập-- chẳng hạn một dòng nước chẩy xiết, một đà cầu bị gẫy, một chân cầu bị cuốn trôi. Phật gọi những điều kiện này là duyên.Từ nhãn quan tinh thần, khi bạn thắc mắc tại sao con người đau khổ, bạn sẽ thấy hai lý do khác nhau, một nhân cơ bản và những duyên tác động. Trong đời sống hàng ngày cuả chúng ta, chúng ta luôn gặp những hoàn cảnh khó khăn không mong đợi, ngay cả khi chúng ta chẳng công kích gây hấn với ai. Chúng ta bị tai nạn. Hoặc về tinh thần hoặc vật chất, chúng ta vật lộn với nó và cố gắng tìm ra lý do tại sao những điều ấy lại xẩy ra. Chúng ta cố tìm ra một câu trả lời bằng mọi cách. Chúng ta làm công việc khám nghiệm tử thi để tìm ra nguyên do cuả một cái chết. Hoặc khi 1 chiếc phi cơ ngộ nạn, chúng ta cố tìm ra điều gì sai sót đã xẩy ra, bằng cách tiêu những món tiền lớn và một khối lượng thời gian để tìm kiếm chiếc hộp đen. Chúng ta bị cuốn hút bởi các duyên. Nguyên nhân cơ bản thì chẳng bao giờ được lưu tâm có thể vì do khoa học chưa chấp nhận nó hoặc cho nó nói lên một lời giải thích. Ở Tây tạng, chúng tôi có lẽ thích tìm hiểu sâu vào nguyên nhân cơ bản-- đắm chìm như thể chúng tôi đang ở trong các viễn cảnh tâm linh--và không tìm đủ những duyên tác hợp. Nhân dân Tây tạng có thể đã quá bận tâm về đời sống tương lai cuả họ trong giai đoạn Trung cộng xâm chiếm. Còn những người cộng sản thì họ chắc chẳng bao giờ suy nghĩ đến nguyên nhân cơ bản khi họ đến xâm lăng đất nước chúng tôi. Là một người Mỹ gốc Tây tạng, tôi đã có cơ hội duy nhất để nhìn vào cả hai nền văn hóa. Sự bất lợi trong việc tiêu phí quá nhiều thời gian và tiền bạc trong việc tìm kiếm những cơ duyên kết hợp mà chẳng lưu ý tới nguyên nhân cơ bản, nguồn gốc cuả vấn đề. Bạn có thể có câu trả lời tạm bợ cho một tại họa đã xẩy ra, nhưng chừng nào nguyên nhân cơ bản chưa đựơc phát hiện thì bạn cũng chẳng thể nào ngăn chặn điều ấy không tái diễn. Không tìm ra nhân, ngay cả các duyên là đúng, sự việc vẫn chưa hiện thực. Như đất ẩm và mầu mỡ cũng chẳng thể nở hoa nếu không có hạt giống, tương tự như có hạt mà không có những điều kiện cây trồng thích ứng vậy. Vì là những người thực dụng, chúng ta thiết lập những nguyên tắc và những điều kiện an toàn--Rất nhiều điều che chở chúng ta khỏi những bất hạnh. Tất cả những điều này đựơc thực hiện để mong tránh cho chúng ta những khổ đau, và chẳng có vấn đề chúng ta có nên tiếp tục phòng ngừa những khổ đau trong những phương tiện chúng ta đang có. Tuy nhiên nên có những cuộc tìm kiếm sâu xa nguyên nhân cuả sự đau khổ, cuả sự sinh, lão, bịnh, tử trong đời sống mà chúng ta phải chấp nhận không có chọn lựa. Những nhà tâm lý điều tra nguyên nhân cuả sự đau khổ nhưng chỉ đạt được từ những nguyên nhân vật chất-- nhửng cơ duyên tác hợp. Những cố gắng đi đến phần thâm sâu cuả vấn đề, chúng ta khảo sát về thời thơ ấu, có đôi khi còn đi ngược tới giai đọan còn nằm trong bào thai cuả bà mẹ. Điều này có vẻ hữu ích, tái lập sự bình an tinh thần, một ý nghiã cuả sự an toàn, và lòng tự tin, vì nó có thể dẫn đến lớp sâu nhất trong nguyên nhân, và đôi khi nó còn tạo nên những vấn nạn sâu xa hơn. Nhìn lại cách đây hai ba chục năm, ngay cho cả quãng thời gian gần hơn mươi mười năm lại đây, thật là khó hồi tưởng lại chính xác những điều chúng ta đã trải qua. Thật khó mà hình dung lại điều gì đã xẩy ra mới hôm qua, thậm chí mới giờ trước đây thôi. Cố gắng hồi tưởng thường đưa tới những ước đoán. Một hồi niệm mơ hồ về sợ hãi có thể trở nên một đề tài để truy tìm. Do vậy, một người cha có bộ râu quai nón hoặc một ông chú có thể trở thành một tiêu điểm để điều tra về nguyên nhân cuả nỗi sợ hãi. Người ta bắt đầu tự hỏi “Ông ấy đã làm gì mình ? Tại sao tôi sợ? Có phải ông ấy đã từng đánh đập tôi? Có phải ông ấy từng sách nhiễu tình dục tôi? “Một vài mảnh vụn hồi ức nổi lên và chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta đã tìm ra kết qủa. Nhưng chẳng có cách nào xác định đựơc một điều gì đó có xẩy ra hay không. Một số người bị lạm dụng, hành hạ, một số người khác không. Điều ấy tạo thêm những nỗi khổ đau cho gia đình nói chung và đặc biệt giữa “ người có bộ râu quai nón” và người bị đau khổ. Như vậy chúng ta không nên điều tra các vấn đề cuả chúng ta hay sao? Đó không phải là câu trà lời. Nhưng nhất định đó không thể là cuộc điều tra tốt. Chỉ có một cuộc khảo sát thông suốt toàn bộ hơn. Đi tới tận cùng sự việc có nghiã là đi xa hơn điều gì đã xẩy ra từ thời thơ ấu. Nghiã là cần thiết phải tìm ra nguyên nhân cơ bản. Chúng ta đưa rất nhiều nỗ lực vào việc hoàn thành mục tiêu cuả chúng ta, nhưng chúng ta mới chỉ thực hiện được một nửa. Nếu chúng ta hoàn thành được hơn thế, chúng ta tự coi là đã may mắn lắm rồi. Trong thực tế, ngay cả khi chúng ta không thể làm được một nửa điều chúng ta muốn làm chính là dấu hiệu cuả sự thiếu tự do. Không những chúng ta thiếu tự do để hoàn thành mục tiêu do mình đặt ra, mà chúng ta thiếu cả tự do trong đau ốm, tuổi già và sự chết. Đó là chân lý cuả đau khổ, là điều Đức Phật đã nhìn thấy. Cái gì gây ra sự khổ đau ? Những thói quen cảm tính tiêu cực cuả chúng ta tạo ra sự khổ đau và ngăn chặn sự tự do cuả chúng ta. Tự do có thể là cuả chúng ta nhưng chúng ta đã không tạo ra những cơ duyên cần thiết để có thể đạt đựơc lợi ích cuả nó. Khi Đức Phật nói rằng ngài đã tìm ra con đường giải thoát khỏi khổ đau, chúng ta coi như ngài đã khám phá ra con đường đi tới tự do. Loại tự do nào? Tự do trong việc hình thành đời sống và cách sống cuả chúng ta. Những đạo sư truyền thống chỉ ta rằng mỗi người trong chúng ta đều thực hiện những hành động xấu và tốt trong kiếp này hay kiếp khác. Những hành động xấu đưa tới thêm những khổ đau và sự mất tự do, và đó là lý do tại sao chúng ta phải sửa chữa những thói quen cảm tính tiêu cực là điều quan trọng. Hành động tốt dẫn tới tự do và đời sống tốt đẹp. Đó là lý do tại sao chúng ta phải cấp thiết phát huy đạo đức, bởi vì chúng ta là các chuyên gia về sự tinh ranh, bịp bợm. Họ cũng chỉ cho chúng ta biết rằng sở dĩ chúng ta có cuộc sống phúc lạc hiện tại cũng là do những việc làm tốt chúng ta đã làm, và vì chúng ta nhẫn nhục, khoan dung, đạo đức trong kiếp trước. Đó là lý do tốt nhất cho chúng ta phát triển những đức tính ấy. Tôi đến đây không phải để thuyết phục các bạn về sự tái sinh. Đó là nền văn hóa cuả chúng tôi, hệ thống tín ngưỡng cuả chúng tôi-- không phải cuả các bạn. Tôi thực sự đơn giản là yêu cầu các bạn hãy tìm sự thích thú trong ý tưởng này trong đôi chút thời gian--cho ý tưởng ấy đôi chút hồ nghi rằng điều ấy có thể có hoặc không có và tìm xem nó sẽ thay đổi viễn quan cuả bạn về đời sống và cái chết ra sao. Các bạn có thể chẳng tìm ra một sự khẳng định nào trọn vẹn về sự tái sinh, nhưng chắc các bạn cũng chẳng thể nào loại trừ nó đựơc. Chưa có ai từng chứng minh rằng nó chưa hề xẩy ra. Nếu bạn cho phép một chút ít hồ nghi về sự tái sinh, câu hỏi ta là ai và ta từ đâu tới sẽ trở thành câu hỏi “Điều gì đã xẩy ra giữa kiếp trước và kiếp này?” Hoặc trong những tiền kiếp cuả chúng ta, khoảnh khắc chúng ta suy tư về điều ấy, viễn quan cuả chúng ta đã thay đổi. Các vị thầy giác ngộ đã tìm ra nguyên nhân chân thực cuả sự khổ đau, cuả những rắc rối, những ngăn trở tự do cuả chúng ta. Họ nhấn mạnh tới những cảm tính tiêu cực-- sự giận dữ, ràng buộc, ghét bỏ, và ganh tị-- “Đó là nguyên nhân cơ bản trói buộc chúng ta trong vòng luân hồi sống và chết. Từ những cảm tính tiêu cực đưa tới những hành động tiêu cực, từ hành động tiêu cực dẫn tới nghiệp xấu, và từ nghiệp xấu đưa tới luân hồi”. Khởi đầu cuả tự do trong chu kỳ cuả sự khổ đau là cách thừa nhận rằng, chúng ta đang có sự giận dữ, ràng buộc, ghét bỏ, và ganh tị. Chúng ta có trách nhiệm về hành động cuả mình. Đó là điều đúng đắn phải làm. Vì có nhìn thẳng vào các cảm tích tiêu cực, chúng ta mới gạt bỏ được chúng. Khi chúng ta nhìn thấy có rắc rối chúng ta có thể sửa chữa. Nếu không chúng ta sẽ phải trả giá các hành động tiêu cực cuả mình bằng thân thể và tâm linh cuả mình trong hiện tại hay trong hậu kiếp. Điều này chẳng có gì mới-- hậu qủa xấu cho những hành động xấu. Rất nhiều nền văn hóa đã dùng sự sợ hãi đễ kiểm soát con người. Tôn giáo thường dùng địa ngục để răn đe như là một phương cách kỷ luật.Trong thế giới Tây tạng cổ xưa, ngay cả trộm cướp cũng do dự khi giết người bởi vì họ tin rằng sẽ phải trả giá bằng sự đau đớn với chính da thịt thể xác cuả họ. Nhưng các bạn cũng đừng cho rằng tôn giáo chỉ dùng đe dọa để khuất phục con người. Các bạn hãy dùng chút ít thời gian để phân tích xem các cảm tính tiêu cực có thể làm cho chúng ta khổ đau và duy trì sự khổ đau từ kiếp này tới kiếp khác như thế nào. Hãy suy ngẫm về khả năng cuả các bạn. Nếu không suy ngẫm về các điều ấy, sẽ là một sự lãng phí qúa lớn, bởi vì là một con người chúng ta có một bộ não rất kỳ diệu. Điều chúng ta có thể làm là vô biên. Chúng ta có cùng khả năng như tất cả các vĩ nhân khác đã từng sống. Chỉ có sự khác biệt là họ biết tận dụng những cơ hội. Vậy hãy suy nghiệm về điều ấy và hãy để cho tâm trí ta thay đổi. Hãy sử dụng tốt nhất những khả năng cuả mình, đặc biệt là tâm trí. Chúng ta có thể đổi thay cách sống một lần cho mãi mãi. Vị thầy đầu tiên cuả tôi bảo rằng đời này giống như nơi ngã tư đường. Nó có thể đi theo nhiều hướng khác nhau, một trong những hướng đó đưa ta tới sự giác ngộ kỳ diệu. Tại sao chúng ta không sử dụng ? Không có thời điểm nào thuận lợi hơn lúc này. Huyền thọai Phật giáo Ấn độ có nói về một loại hoa có tên là Utamuwara, là loại hoa chỉ xuất hiện khi có một vị Phật sắp ra đời, và chỉ nở khi vị Phật này giác ngộ, rồi sau đó kéo dài theo thời gian cuả các bài giảng cuả Phật. Các Phật tử nói rằng chúng ta vẫn còn trong khoảng thời gian hoa nở. Khả năng cho mỗi chúng ta đạt tới toàn năng và giác ngộ vẫn còn. Ngay cả khi chúng ta không thể hoàn thành trong kiếp này thì chúng ta vẫn còn có thể tiếp tục trong kiếp kế tiếp. Ngô văn xuân - chuyển ngữ1 like
-
Thiên hạ bàn về "Ngày Tận Thế " nhiều quá - hay là muốn câu khách nhỉ? Con người ta ai mà chẳng chết. Hãy làm việc đúng với lương tâm mình cho đến lúc chết. Còn chết vào lúc nào tính sau đi. Chẳng ai đưa những người chết vào ngày Tận Thế lên Thiên Đường được - kể cả Thượng Đế - nếu chỉ vì đến lúc đó họ mới hồi tâm kinh Chúa. Đưc Ala, hoặc Đức Phật vì....chết đến nơi thì chắc các Ngài độ không nổi. Đưc Giesu nói: "Ta sẽ tạo ra một thiên Đường ngay ở cõi trần gian này". Ngài chưa làm xong điều này mà đã có ngày Tận Thế thì oan quá! Đức Phật tuy không nói về ngày Tận Thế nhưng có nói Đức Di Lặc sẽ giáng thế - Chưa mà. Vậy Tận Thế sao được. Phải chờ Đức Di Lặc xuất hiện đã chứ nhỉ? Chắc phải sau 2012 rùi. . Bùn mất 3 phút. Phút thứ 4 bận rùi.1 like
-
Luận tuổi Lạc việt không quan tâm đến "mèo vồ chuột" đâu nhé ! Tôi có người bạn tuổi Tý lấy vợ tuổi Mão mà xây nhà cao 7 tầng, chồng đi con Mec , vợ đi con Yaris (!), con cái đầy đủ có thấy "vồ" đâu nào.Nếu bạn tin vào Luận tuổi LV thì như tôi đã nói ở trên, còn nếu tin theo "nhiều người lớn" thì tùy vợ chồng bạn quyết định.1 like
-
- Cưới tháng 6 Âl : OK !- Cần chú ý quan hệ Mẹ chồng - Nàng dâu nhé (Canh phá Giáp, Kim khắc Mộc) - Sinh năm 2011 : Kim mẹ khắc Mộc con, Thủy bố tương sinh cho Mộc con -> không phát được. - Sinh năm 2012 : Hỏa con khắc Kim mẹ, Thủy bố khắc Hỏa con -> chưa được tốt lắm nhưng đỡ xấu hơn năm 2011. Cưới năm nào cũng được trừ 3 năm : Hợi-Tý-SửuSinh con năm : 2011 Có thể cưới năm 2011 hoặc 2012, không nên cưới năm 2013.Vợ chồng cùng tuổi "năm kỵ đẻ con gái, năm hợp đẻ con trai", năm kỵ : 2012,2013 - năm hợp : 2014,20151 like