-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 25/01/2012 in Bài viết
-
Văn học thời Hùng Vương
Đại Phúc and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Bổ xung cho chuyện tình Trương Chi trên, tôi kể Thiên Đồng nghe một giai thoại liên quan đến pho tượng nổi tiếng "Vệ Nữ ở Milo". Thiên hạ đồn rằng: Nhà điêu khắc tài ba sau khi tạc xong bức tượng này vì vẻ đẹp thiên thần đó không thể lặp lại trong cuộc đời ông và ông ta biết rằng: Nếu còn sống thì ông ta còn phải tạc tượng. Nhưng không thể có tác phẩm đẹp như vậy vì chính ông đã tạc ra một sản phẩm đình cao của nghệ thuật. Vĩnh viễn thế nhân mãi mãi về sau không thể có một bức tượng có vẻ đẹp hoàn mỹ hơn thế nữa (*). Nên ông ta đã nhảy xuống biển tự sát để bảo toàn danh dự.Bởi vậy, khi đặt tác phẩm Trương Chi vào thời cổ đại, nơi nghệ thuật, trí tuệ và những gía trị tâm hồn được tôn vinh, mới thấy được sự huyền vĩ của nền văn hiến Việt qua câu chuyện tình Trương Chi. Khi nghệ thuật đã đạt đến tuyệt đỉnh là tiếng sáo Trương Chi mà không thể chia sẻ với người đồng cảm với minh thì Trương Chi tự sát. Như nhà điêu khắc tượng vệ nữ ở Milo, hoặc như Bá Nha đập đàn khi thế nhân không còn người chia sẻ. Bởi vậy, Chuyện này không thể chuyển thể mà mang lại cảm xúc như nguyên thể văn học của nó. Nội diễn tả trên thực tế tiếng sáo đạt đến tuyệt đỉnh nghệ thuật thì thế gian hiện nay không có. Còn tìm trong đám đào cinema để có một người có thể diễn tả được cảm xúc của Mỵ Nương thì chắc cũng vô vọng. Bởi vậy khi một khả đặt đến đình cao quá thế nhân ko hiểu nổi. Dịch viết: Tiếng hạc bay trên chín từng mây không nghe thấy dưới đất - Đại ý vậy. =============================== * Chú thích: Tượng Vệ Nữ ở Milo thiếu hai cánh tay. Cách đây khoảng hơn 50 năm, người ta tổ chức một cuộc thi tạc hai cánh tay cho pho tượng này. Hàng trăm nhà điều khắc tài ba trên thế giới dự thi. Nhưng tất cả những cánh tay của các nhà điêu khắc tài ba trên thế giới đều chỉ làm mất đi vẻ đẹp của pho tương và không có một đôi cánh tay nào hài hóa với nó. Bởi vậy, đến bây giờ pho tượng này vẫn phải chấp nhận thiếu hai cánh tay. Cho nên đem cái thứ tư duy ở trần đóng khố, ngu lâu ra để phân tích chê bai chuyện tình Trương Chi thì thật lố bịch.2 likes -
Chúc Mừng Năm Mới
Ks.TranNgocHai and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Cảm ơn Hải và ntpt nhiều.Người xưa nói: "Quân tử vấn dịch để biết lẽ tiến thoái, nhưng không thay đổi ý chí của mình". Năm nay sẽ quyết định Việt sử 5000 năm văn hiến được vinh danh, hay anh nằm một chỗ.....Anh đang chờ hết ngày hôm nay thiên tai lớn trên toàn thế giới có xảy ra không? Thực ra việc cất nhà chuẩn bị từ năm Tân Mão, Nhâm Thìn mới động thổ. Năm nay chắc ki bo thật vì bao nhiêu cho vào cất nhà hết. Nhưng tính Thiên Sứ tôi không quan trọng tiến bạc bằng cảm hứng. Cất nhà xong mới Hải và ntpt về chơi. Nhà thì không sang lắm, nhưng "Có lầu vọng nguyệt, có vườn hoa. Có hồ cá cảnh bên tòa Bồng Lai".2 likes -
Thông tin tham khảo 40 MƯƠI NGƯỜI CHẾT VÌ SẠT LỞ ĐẤT Ở PAPUA NEW GUINEA http://nld.com.vn/20...-new-guinea.htm Ứng ngày Giáp Thân (mồng 2 Tết) NƯỚC HỒ LỚN NHẤT TRUNG QUỐC CHỈ CÒN 1/10 Hồ Bà Dương (Giang Tây), 04/05/2011.REUTERS/China Daily http://www.tindachie...i-con-1-10.html BÃO MẶT TRỜI CỰC MẠNH DỘI VỀ TRÁI ĐẤT Một trận bão mặt trời lớn nhất kể từ năm 2005 đang dội về trái đất với lượng bức xạ ngày càng tăng. Trận bão mặt trời lần này bắt đầu lúc 11 giờ đêm hôm 22/1 và sẽ chạm tới trái đất với ba tác động vào ba thời điểm khác nhau. Tác động lớn nhất là bức xạ, Cơ quan khí quyển và đại dương quốc gia (NOAA) thuộc Trung tâm dự đoán khí hậu vũ trụ (Mỹ), cho biết. Bức xạ ảnh hưởng lớn nhất đến vệ tinh và các phi hành gia ngoài vũ trụ. Nó có thể gây ra các sự cố thông tin liên lạc cho cho các chuyến bay, nhà vật lý học Doug Biesecker ở Trung tâm nói. Phóng xạ chạm tới trái đất chỉ một giờ sau khi bão mặt trời bùng phát và sẽ tiếp tục đến hôm 24/1. Lượng bức xạ được cho là rất mạnh nhưng các trận bão mặt trời khác còn dữ dội hơn. Thang bão của NOAA gồm hai mức phóng xạ: dữ dội và và cực độ. Trận bão lần này toả ra lượng bức xạ mạnh nhất kể từ tháng 5/2005. Bức xạ từ mặt trời toả ra với tốc độ 93 triệu dặm mỗi giờ. Các chuyên gia của Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) đã khảo sát tác động của trận bão mặt trời lần này và cho biết 6 phi hành tra trên Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) tuy bị ảnh hưởng nhưng cũng không cần làm gì để bảo vệ mình khỏi phóng xạ. Một trận bão mặt trời thường kéo theo một đợt bức xạ gồm ba dạng: đầu tiên là phóng xạ điện tử, sau đó đến phóng xạ dưới dạng các hạt proton, và cuối cùng là luồng plasma. Thông thường những đợt sóng này di chuyển với tốc độ 1 – 2 triệu dặm mỗi giờ, nhưng trận bão lần này di chuyển cực kỳ nhanh và có thể đạt tới tốc độ 4 triệu dặm/giờ. Các luồng plasma gây ra nhiều vấn đề đối với trái đất, nhưng điện lưới dừng hoạt động. Năm 1989, một trận bão mặt trời gây ra sự cố mất điện trên diện rộng ở Quebec. Nó cũng đẩy các tia sáng ở phía bắc gần hơn xuống phía nam. Trong vài năm qua, mặt trời khá tĩnh lặng, một phần vì đang ở trong giai đoạn yên lặng của chu kỳ hoạt động 11 năm. Năm ngoái, các nhà khoa học dự đoán rằng mặt trời sắp bước vào chu kỳ tĩnh lặng không bình thường – hiện tượng thường chỉ có một lần trong một thế kỷ. Nhưng với trận bão lần này thì chu kỳ mới khó có thể là chu kỳ siêu tĩnh lặng. http://baodatviet.vn.../188830.datviet1 like
-
Chúc Mừng Năm Mới
Zhuan liked a post in a topic by Thiên Sứ
Cảm ơn Zhuan vì lời chúc lành với Trung Tâm.Đến Lý tưởng cũng cần phải "khôn" thì ngẫm cũng thấy buồn! Tôi lại cứ tưởng khi xác định lý tưởng thì hiểu đó là chân lý để theo đuổi!1 like -
nhầm giới tính rồi. chị nên miêu tả thêm về tính tình vóc dáng để kiểm chứng nếu có ảnh up lên càng tốt1 like
-
năm vừa rồi tình duyên có người thứ 3 chen vào năm nay dễ đường ai nấy bước1 like
-
Thiên Đồng thân mến. Chuyện tình Trương Chi Mỵ Nương là câu chuyện tình hay nhất trong thể loại chuyện tình lãng mạn của thế giới. Bây giờ và mãi mãi về sau, hay trở ngược lại hàng thiên niên kỷ xuyên suốt qua các nền văn minh nhân loại, cả nhân loại cũng sẽ không bao giờ có được một câu chuyện tình lãng mạn hay hơn thế nữa. Sự thăng trầm của Việt sử với hàng ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và những cuộc chinh chiến liên miên, chủ yếu với Bắc phương trong một ngàn năm dựng nước sau đó của Việt sử, đã khiến những di sản văn hiến Việt - trong đó có câu chuyện Trương Chi truyền miệng này - đã phải cô đọng lại và tóm tắt nội dung của nó, Bởi vậy, những thứ tư duy loại ở trần đóng khố không đủ khả năng thẩm thấu những gía trị trác tuyệt của câu truyện tình này. Giá trị của một viên ngọc sáng giá nhất trong lịch sử văn hóa nhân loại về chuyện tình lãng mạn bị rêu bụi thời gian phủ mờ, nên những kẻ tầm thường không đủ trình để thẩm thấu (Nhưng cũng vác cái mặt bình luận với bằng này cấp nọ). Bây giờ chúng ta cùng tìm hiểu những tình tiết trong nội dung câu chuyện này. Bắt đầu từ danh xưng Mỵ Nương cho thấy nàng chính là con gái của Lạc Hầu hoặc chính là con vua Hùng. Và chỉ có những bậc quân vương của quốc gia Văn Lang, con gái mới được phép gọi là Mỵ Nương. Sự cách biệt ở đẳng cấp cao nhất giữa một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, tài năng cầm kỳ thi họa được trau dồi và công dung ngôn hạnh được bổ túc với một bên là chàng trai xấu xí nhưng có tài thồi sáo tuyệt vời đã tạo ra một cách biệt lớn giữa cái chót vót và cái tận cùng của hai hoàn cảnh khiến nẩy sinh tình yêu lãng mạn giữa hai con người. Ngay từ đầu câu chuyện, đã xác định điều này, chứ không cần đến đám tư duy ở trần đóng khố, bảy đời ăn củ chuối ngu lâu phát hiện và phân tích tính giai cấp của câu chuyện. Nhưng chính hoàn cảnh cực Âm và cực Dương đó làm nảy sinh mối tình lãng mạn bởi nghệ thuật mới là chất xúc tác tuyệt vời đẩy sự lãng mạn lên đến đình cao nhất của câu chuyện. Còn nếu chỉ là chàng trai phố chợ yêu cô thôn nữ đa tình vượt qua gian khổ để lấy nhau, chấp nhận sống trong mái nhà tranh với hai trái tím vàng và một đàn con xinh thì phình phường quá! Tuy cũng có chất lãng mạn nhưng chỉ là chuyện phổ biến của thế nhân. Tuy nhiên đấy cũng chỉ là đầu câu chuyện. Chất lãng mạn nữa chính là chuyện tình Trương Chi và Mỵ Nương đến với nhau không phải là sự hòa nhập xác thân. Mà chính là sự đồng cảm giữa hai tâm hồn qua những giá trị nghệ thuật - đỉnh cao của tinh thần văn minh nhân loại. Đến đây thì cũng đủ để mối tình vượt thời gian và khác hẳn những chuyện tình ngớ ngẩn hàng chợ của thế nhân. Chuyện "Thằng Gù trong nhà thờ Đức Bà" không có tình tiết này, mà chỉ thể hiện giữa cái cực xấu của thằng Gù và cái cực đẹp của nàng Bomehieng. Nhưng trong chuyện tình Trương Chi so với Nhà thờ Đức Bà cũng có tình tiết này: Trương Chi cực xấu và Mỵ Nương cực đẹp. Nhưng với chuyện Nhà thờ Đức Bà, Victor Hugo chỉ khai thác được một tình tiết đơn giàn nhất để tạo khoảng cách và tính lãng mạn xuất hiện ở khoảng cách này. Còn câu chuyện Trương Chi có đến hai 3 khoảng cách: Giầu sang/ Nghèo hèn. Quyền quý/ hạ dân, Đẹp/ xấu. Victor Hugo chỉ khai thác một khoảng cách mà cũng thấy vô cùng chật vật. Nhưng vì đồ Tây - đồng hồ Tây thì không bao giờ sai - nên đám tư duy ở trần đóng khố ca ngơi tung hô không thiếu. Híc! Còn những giá trị tuyệt vời của văn hóa dân tộc thì chúng không tiếc lời khai thác xuyên tạc và chà đạp một cách vô liêm sỉ. Với Nhà thờ Đức Bà thì khoảng cách đẹp / xấu là tình tiết chủ đạo làm nên nội dung câu chuyện. Nhưng với chuyện tình Trương Chi thì đây mới chỉ là đoạn mở đầu. Cốt lõi của câu chuyện chính là sự thượng tôn nghệ thuật trong văn hóa tri thức vào thời Vương Đạo thanh bình của đất nước Văn Lang cội nguồn văn hiến Việt. Những khoảng cách: Giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu ấy đều chỉ còn là hình thức bên ngoài trang sức cho cuộc đời. Còn trái tim đích thực của con người, cái tâm thánh thiện và trong sáng trong mỗi con người rung cảm với thiên nhiên, cuộc sống qua những gía trị nghệ thuật vẫn tìm đến với nhau và hòa nhập trong tiếng sáo trác tuyệt của truyện tình Trương Chi. Đây mới chính là tính lãng mạn tuyệt vời của chuyện tình Trương Chi mà Victor Hugo không có cửa để so sánh. Xét về mặt Lý học, tác giả thiên tài của nền văn hiến Việt - Tác giả chính tên là Trương Chi (Tôi sẽ phân tích điều này sau) - đạ sử dụng nguyên lý của Thuyết Âm Dương Ngũ hành cực kỳ nhuần nhuyễn - một lý thuyết thống nhất ứng dụng trong văn hoạc nghệ thuật. Đó là thân xác cực xấu của chàng trai (Đàn ông thân xác thuộc Âm, cực xấu tức cực Âm); nghèo cùng cực lại mồ côi, địa vị cũng thấp nhất, cực Âm về hoàn cảnh. Nhưng tinh thần lại cực Dương - Đỉnh cao của nghệ thuật với tiếng sáo tuyệt vời. Còn Mỵ Nương lại ngược lại, nhưng lại yêu tiếng sáo này (Âm thuận tùng Dương). Chất lãng mạn đến đây cũng đủ vượt xa tất cả các câu chuyện gọi là loõng mọn ở trần gian. Nhưng tính vượt thời gian và đạt đến tuyệt định của nghệ thuật trong loại hình truyện Lãng mạn chính là đoạn kết của câu chuyện. Nếu không có chất huyền thoại được tác giả Trương Chi đưa vào đoạn cuối thì câu chuyện cũng đã thừa chất lãng mạn có thể ban phát cho nhưng nhà văn nổi tiếng trong lịch sử văn minh nhân loại mà Victor Hugo có được một chút đã nói ở trên. Nhưng chất lãng mạn lên đến tuyệt đỉnh khiến không thể có một cầu chuyện nào có thể hay hơn được nữa chính là trái tim hóa đá của Trương Chi và giọt lệ thiên thu của Mỵ Nương. Thế nhân cho rằng: "Trương Chi khi gặp Mỵ Nương qúa xinh đẹp và đem lòng yêu nàng"!?. Có thật thế không? Tầm thường quá! Cái đó giành cho các giáo sư văn chương, nhưng tư duy tầm ở trần đóng khố phân tích. Nó không phải bản chất của câu truyện tình trác tuyệt của nền văn hiến Việt. Người ta không nhận thức được tính hợp lý trong kết cấu nội dung cấu chuyện vốn đã bị rêu bụi thời gian phủ mờ. Mà chỉ nhận thức trực quan về ngôn từ văn chương khi ghi nhận Trương Chi thấy Mỵ Nương xinh đẹp nên đem lòng yêu trong tuyệt vọng và tự tử chết. Một câu chuyện như thế quá tầm thường, nó giống như sự miêu tả một chú bán ngô nướng vỉa hè chợt nhìn thấy hoa hậu đi ngang và đem lòng yêu đến chết vậy. Phi lý! Dù là chuyện thần thoại cũng phải có tính hợp lý của nó. Kết cấu và diễn biến toàn bộ nội dung cấu chuyện cho thấy tiếng sáo Trương Chi chỉ có Mỵ Nương cảm nhận được và rung cảm với tiếng sáo ấy. Nó tương tự như Tử Kỳ với Bá Nha vậy. Bởi vậy, khi biết rằng người có thể chia sẻ nỗi cô đơn tận cùng với tâm hồn chàng chính là nàng công chúa quyền quý cao sang và không thể gần gũi, chàng đã tự sát. Tương tự như Bá Nha đập đàn vì không còn ai chia sẻ. Tình yêu của Trương Chi nếu chỉ vì muốn lấy Mỵ Nương làm vợ mà không được thì tầm thường quá, không hợp lý với diễn biến nội dung câu chuyện. Nhưng đám tư duy ở trần đóng khố ra sức khai thác yếu tố này. Bởi vậy nền kẻ nào đó mới thêm chi tiết Trương Chi gặp Mỵ Nương tỏ tình và bị từ chối để nhấn mạnh chi tiết này theo chiều hướng phủ nhận gía trị văn hiến Việt. Đấy là thủ đoạn của đám liên minh bộ lạc thường làm. Nhưng cái đám bẩy đời ăn củ chuối nên ngu lâu, cứ tưởng với quyền lực học thuật với bằng cấp đầy mình đó làm sao đủ tầm xóa sổ văn hiến Việt, chỉ ngay trong câu chuyện này. Chính đoạn kết của câu chuyện mang tình huyễn ảo và màu sắc thần thoại đã xác định rằng Trương Chi không hề có tham vọng lấy Mỵ Nương, mà chàng chỉ cần chờ đợi một câu trả lời của một tâm hồn đồng cảm. Bởi vì nếu chỉ có tham vọng hòa nhập thân xác thì câu chuyện sẽ kết thúc ở sự tự vẫn của Trương Chi. Nhưng chính trái tim hóa đá như thách thức với thiên thu để đợi chờ câu trả lời của Mỵ Nương đã xác định rằng: Chàng muốn tìm một sự hóa nhập tâm hồn vốn cô liêu tận cùng của chàng và chàng chỉ còn tiếng sáo để chia sẻ. Giọt lệ của Mỵ Nương khi được nghe lại tiếng sáo Trương Chi rơi vào chén ngọc - được khắc họa bằng cả khối đá nội tâm (Biểu tượng bằng trái tim) tưởng như sánh với sự vĩnh hằng cùng tạo hóa - đã khiến nó tan chảy bởi giọt lệ như nhỏ vào cõi thiên thu của Mỵ Nương. Giọt lệ thiên thu ấy mang cả một tâm hồn đồng cảm trong tiếng sáo năm xưa của Trương Chi. Hai tâm hồn hòa nhập, trái tim Trương Chi như tan cả trong nền văn minh nhân loại và câu chuyện vượt thời gian qua bao thăng trầm của Việt sử đến tận bây giờ. Chúng ta thử tưởng tượng xem: Bao tác phẩm văn chương nhốn nháo, nobel, nobeo tất cả đều chết lặng bởi thời gian. Có đâu như câu truyện tình trác tuyệt của Việt sử. Với những áng văn chương của nền văn hiến Việt, tầm cỡ như Victo Hugo chẳng là cái đinh gì, vì tính vượt thời gian tính bằng thiên niên kỷ của chuyện tình Trương Chi. Nếu như câu chuyện này dựng lại thành phim thì không phải là một đạo diễn có tầm nhìn sâu sắc với hàng diễn viên cực kỳ tài ba với khả năng diễn cảm nội tâm sâu sắc thì không đủ trình để thể hiện. Chưa nói đến cần một biên kịch siêu đẳng để chuyển thể. Nếu ai làm được bộ phim này thì các phim chuyển thể của Nhà thờ Đức Bà và Romeo& Juliette không đủ tầm qua vòng sơ kết. Về nhạc phẩm cảm xúc với chuyện tình Trương Chi, tôi tâm đắc nhất với nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao. Ông miêu tả bằng những hình tượng tuyệt vời để thể hiện tâm hồn trinh trắng của Mỵ Nương chưa hề một lần yêu đương. Nàng chỉ rung động khi tiếng sáo Trương Chi làm xao xuyến tâm hồn. Chứ đâu có tầm thường hạ đẳng như cái tay nào đó cho rằng Mỵ Nương buồn vì bị nhốt như con chim trong lồng (Cũng bầy đặt hình tượng với hình voi). Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ. Trầm trầm không gian lắng rung đường tơ Vương vấn heo may hoa yến mong chờ. Ôi tiếng cầm ca thu đến bao giờ? Thiên tài của Văn Cao mới có thể thể hiện được điều này khi miêu tả trạng thái trừu tượng của tâm hồn trong câu chuyện trình trác tuyệt đến huyền vĩ của nền văn hiến Việt. Và cũng chỉ có câu này là hay nhất. Nếu phân tích theo tình thần Lý học Đông phương thì có thể nói nếu không có một tri thức uyên bác về Lý học, tác giả Trương Chi không thể viết được cấu chuyện hay như vậy. Chính vì những thứ tư duy "ở trần đóng khố " đó. Nên văn chương, tác phẩm và sách Việt có thể tìm thấy ở các tấm nilon rải bán sách son vỉa hè. Ngày xưa có lần tôi được gợi ý tham gia một Hội Nhà văn địa phương. Gía đừng mời tôi uống rượu thì chắc tôi cũng là hội viên hội nhà văn địa phương rùi! Rất tiếc cho tôi đã bỏ lỡ cơ hội. Vì khi xỉn lên! Tôi bộc lộ sự đau khổ khi phải đồng hạng với những kẻ không đủ khả năng thẩm thấu cái hay, cái đẹp của chuyện tình Trương Chi. Thế là sang phim. mèo lại hoàn mèo. Thiên Sứ trở về cái lò gạch làng Vũ Đại.1 like
-
Thiên Đồng thân mến.Tôi đã từng có tài khoản trên thư viện Wiki gì đó cách đây khoảng 8/9 năm và chỉ viết bài một lần duy nhất nói về thời Hùng Vương - hình như là y phục thời Hùng Vương thì phải - nhưng ngay sau đó một tên "Ở trần đóng khố" đã sửa lại và đòi hỏi tôi phải chứng minh những điều mà tôi đã nói rất rõ. Bởi vậy tôi biết ngay rằng trên thư viện mở đó là cả một bầy "ở trần đóng khố" chực chờ phủ nhận nền văn hiến Việt. Câu chuyện Trương Chi nói trên có những dấu ấn cho thấy nó có nguồn gốc từ thư viện mở toàn cầu này. Và tất nhiên nó mang tính xuyên tạc tương đối không dấu diếm nhằm biến câu chuyện này thành một câu chuyện có nguồn gốc Tàu , như bộ phim khốn nạn nào đó đóng ở bên Tàu đã mô hình hóa nền văn hóa Việt theo Tàu vậy. Bộ phim này đã bị dư luận phản đối kịch liệt trong đó có tôi vào thời gian từ Lễ Hội 1000 năm Thăng Long đến nay. Bây giờ chúng ta xem xét những danh từ, câu cú sau đây trong câu chuyện này: A - Danh xưng Đại Thần là một danh xưng vào thời nền văn hóa Hán lên ngôi và nhiều người ngộ nhận chính nền văn hóa Hán ảnh hưởng và là nguồn gốc văn hóa Việt. Chúng ta đều biết rằng: Mỵ Nương là danh xưng của con cái đẳng cấp tối cao trong xã hội văn Lang xưa: Con trai gọi là Quan Lang, con gái gọi là Mỵ Nương. Bởi vậy, Mỵ Nương không thể là con một vị "đại thần" như cái thứ tư duy "ở trần đóng khố" xuyên tạc, nhằm tầm thường hóa câu chuyện với ngôn ngữ có vẻ như gần gũi với văn hóa Hán. Trong câu chuyện này thì địa vị của Mỵ Nương càng cao thì càng hấp dẫn. Bởi vậy, với danh xưng Mỵ Nương và kết cấu câu chuyện, Mỵ Nương không thể là con "quan đại thần". B - Thứ tư duy "ở trần đóng khố' này một lần nữa xuyên tạc hoàn cảnh tạo ra nội tâm của Mỵ Nương khi cho rằng nàng bị gò bó. Hay nói rõ hơn, người ta đã đem cái tậm trạng hiện đại gán cho tâm hồn Mỵ Nương làm hạ giá trị của nàng qua sự trinh trắng tuyệt vời của một tiểu thư khuê các trong xã hội phong kiến từ hàng ngàn năm trước. Nếu nàng đã buồn vì sống trong nhà như chim bị nhốt trong lồng thì nỗi buồn của nàng khi không còn được nghe tiếng sáo Trương Chi cũng sẽ đồng đẳng và xóa đi chất thơ của câu chuyện. Tính tầm thường hóa câu chuyện chính là sự miêu tả nỗi buồn bị nhốt trong nhà với nỗi buồn sau đó vì không được nghe tiếng sao Trương Chi khiến nàng sinh bệnh. Đây là đoạn được thứ tư duy "ở trần đóng khố" thêm vào nhằm hạ gia trị của câu truyện nổi tiếng trong văn hiến Việt.C - Trong xã hội Việt Nam từ ngàn xưa gọi các thày thuốc chữa bệnh là thày Lang, hoặc Ông Lang chứ không bao giờ gọi là "Đại Phu" cả. Chỉ có trong phim Tàu vài chục năm gần đây dịch ra tiếng Việt mới gọi thày lang là Đại Phu. Ngày xưa, danh xưng Đại Phu còn chỉ các quan lớn trong triều đình là quan Đại Phu. Bởi vậy, việc sửa các thày thuốc - ông lang trong xã hội Việt thành "Đại phu" là một âm mưu nhằm đồng hóa câu chuyện nổi tiếng của vắn hiến Việt thành chuyện mạng nội dung Tàu. Vài chục năm sau, một vài kẻ khốn nạn nào đó, nhiều đời ăn củ chuối nên ngu lâu, sẽ căn cứ vào câu chuyện này và phân tích những dấu ấn Tàu qua những danh từ này để kết luận: Có nguồn gôc Hán. Khốn khiếp! Câu chuyện đang xảy ra bởi một bọn vô liêm sỉ phủ nhận gía trị văn hiến Việt từ trải gần 5000 năm thành hơn 2000 năm với thời Hùng Vương chỉ là một "liên minh bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố". D - Từ lâu, hầu hết những cầu chuyện nổi tiếng lưu truyền hàng ngàn năm trong nền văn hiến Việt, đã bị một bọn người cố tình xuyên tạc một cách vô liêm sỉ và trơ tráo. Họ công khai cho rằng:Thạch Sanh có nguồn gôc Khơ Me; Tấm Cám thì phi nhân, Trương Chi là chuyện tình giai cấp...Bởi vậy, việc đưa thêm hình ảnh "toát lên vẻ nghèo hèn, đói khổ" chính là sự tạo thêm ấn tương cho luận điểm mang tính giai cấp của mối tình Trương Chi Mỵ Nương. E - Đây là đoạn thêm vào một cách bỉ ổi nhất, tận cùng của sự đê tiện trong việc phủ nhận gía trị văn hiến Việt. Nguyên gốc không hề có đoạn này. Tôi đã xem nhiều câu chuyện khác nhau về chuyện tình Trương Chi, kể cả những cuốn được in trước năm 1954, trên giấy xấu với nét vẽ minh họa thô sơ, cũng không hề có đoạn này. Thêm đoạn này vào chỉ là sự cố tình hạ thấp gía trị câu chuyện một cách thô thiển. Xin lỗi! Đẳng cấp như Mỵ Nương Trương Chi muốn gặp mặt để nhìn thấy lần chót cũng không có đừng nói là gặp mặt tỏ tình và hân hạnh được nàng từ chối. Mỵ Nương đâu phải con mẹ hàng xén hàng ngày phơi mặt ngoài chợ. Đấy là tính hợp lý tối thiểu của câu chuyện vào thời đại từ hàng ngàn năm trước. Bởi vậy, thứ tư duy ở trần đóng khố - bảy đời ăn củ chuối ngu lâu - nó vẫn cứ lòi cái đuôi dốt nát ra là vậy. Tình tiết cố ý thêm vào muốn nhằm mục đích tầm thường hóa Mỵ Nương và hỗ trợ thêm cho cách lý giải tính giai cấp để xuyên tạc nội dung câu chuyện.Dở hơi như câu chuyện " Thằng Gù trong nhà thờ Đức Bà", Victor Hugo cũng chưa đến nỗi một lần để thằng gù tỏ tình với cô gái Bomehieng. Mặc dù tác giả miêu tả một tình yêu say đắm của thằng Gù và tình yêu này chỉ thể hiện bằng hành vi quan tâm săn sóc cho nàng. Thiên Đồng cũng biết tôi say rồi. Nên văn chương không nhã nhặn lắm. Khi nào tỉnh rượu hẳn sẽ sửa lại. Nhưng đấy là nội dung phân tích của tôi với câu chuyện đầy tính thâm độc của tay nào đó đưa lên mạng, mà tôi cho rằng với mục đích xuyên tạc chuyện tình Trương Chi.1 like
-
Ly kỳ “cụ” rùa khổng lồ chết hàng chục năm bỗng “tỉnh giấc” bỏ trốn Thứ sáu 20/01/2012 07:28 Vào một đêm mưa gió xác “cụ” rùa khô vốn được trưng bày từ hàng chục năm nay bỗng dưng bò đi "bỏ trốn"... Vào một đêm mưa gió trung tuần tháng 7/2011, xác “cụ” rùa khô vốn được trưng bày từ hàng chục năm nay trong nhà bà Nguyễn Thị Sâm (ngụ xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, Hà Nội) bỗng dưng bò đi “bỏ trốn” khiến cả nhà xanh mắt tìm kiếm. Sự việc khó lý giải này không chỉ khiến gia chủ lo sợ mời thầy cúng mà còn phải làm tủ kính giữ chân “thần kim quy”. Người quản lý bên tủ kính để “cụ” rùa Xác rùa… “tỉnh giấc” Bà Sâm chia sẻ, hơn 20 năm trước một người bạn của chồng bà đã tặng gia đình xác một “cụ” rùa khô, ước tính hàng trăm năm tuổi làm kỷ niệm và gia đình đặt xác rùa ở vị trí trang trọng trong phòng khách. Một năm trước đây, bà Sâm nảy ra ý định đưa chú rùa lên khu vực nhà vườn trưng bày bởi cả nhà bà thường tập trung ở đây, hiếm khi có mặt đầy đủ ở nhà. Chủ nhà tâm sự: ““Cụ” rùa vừa là vật làm cảnh, vừa là vật tâm linh nên gia đình đã cẩn thận đặt ngay ngắn trên một tấm phản, sát ban thờ chính ở căn nhà chính rộng rãi, ngay giữa khu vườn sinh thái”. Ai ngờ việc “không cho “cụ” yên chỗ” lại dẫn đến nhiều chuyện lạ khiến cả gia đình phải một phen thất kinh hoàng vía. Từ khi di chuyển xác rùa đến nhà vườn, du khách ghé thăm ngày càng đông hơn. Ai đến cũng phải trầm trồ, thích thú trước hình ảnh một xác rùa khô to lớn chiều dài tới gần 1m, chiếc mai còn rõ màu nâu bóng nằm oai nghiêm bệ vệ giữa vườn. Hơn nữa không hiểu đặt “cụ” rùa ở đây có đem lại may mắn hay không mà việc kinh doanh của gia đình bà từ đó cũng rất “thuận buồm xuôi gió”, nhân viên của công ty đều “trên dưới một lòng”, không xảy ra cãi cọ hay điều tiếng gì. Xác con rùa không chỉ được gia đình bà Sâm, mà gần 30 nhân viên ở đây cũng xem đó là vật “gia bảo”, không ai dám đụng chạm gì. “Lúc nào tôi cũng cắt cửa một nhân viên trông chừng “cụ”, nếu đám trẻ đến tham quan nghịch ngợm mó chân mó tay vào đầu “cụ” rùa là nhân viên này phải kịp thời ra can thiệp, nhắc nhở ngay”, bà Sâm kể lại. Đột nhiên, chuyện kỳ lạ xảy ra vào một ngày giữa tháng 7/2011. Sau một đêm mưa tầm tã, sấm chớp đùng đùng, anh trai bà Sâm cũng là người quản lý khu vui chơi này thức dậy từ sáng sớm và thảng thốt nhận ra xác rùa đã mất tích. Ngó quanh khu vực bàn thờ rồi tìm khắp cả gian nhà chính cũng không thấy, sợ vật “gia bảo” bị đánh cắp, ông chạy một mạch ra cổng chính thì thấy cửa vẫn khóa im ỉm. Hỏi chuyện bảo vệ thì được biết người này không nghe thấy tiếng động bất thường hay hiện tượng khả nghi nào. Người quản lý kể lại: “Lúc ấy biết là con rùa khó có thể ra khỏi khu vực nên tôi gọi bảo vệ cùng toàn bộ nhân viên tỏa đi tìm. Khu vực ao câu rộng 3 ha nên mỗi người được chia ra tìm ở một góc, từ nhà bếp tới nhà ăn, khu vui chơi trẻ em, vườn sinh thái.... Tìm tới gần trưa mướt mồ hôi cũng chưa thấy đâu. Khi nghỉ giải lao chuẩn bị tìm kiếm lần thứ hai, chúng tôi tới bàn trà ở gần cổng chính thì bỗng nhiên phát hiện con rùa nằm cách đó vài mét”. Con rùa được tìm thấy và trả về vị trí thường ngày. Thế nhưng nguyên nhân về sự biến mất lạ lùng này khiến mọi người nơi đây đều phải thắc mắc. Người bảo vệ nhà hàng cho biết khó có thể có trộm đột nhập vì chẳng tên trộm nào lại muốn lấy cái xác rùa khô. “Với nhà hàng con rùa có thể quý bởi giá trị tinh thần chứ với người ngoài lại chẳng có ý nghĩa gì”, người bảo vệ phân tích. Còn người quản lý nhà hàng thì hậm hực trong lòng: “Chắc đứa nào đùa dai nên giấu rùa đi trêu mọi người”. Cận cảnh xác rùa biết… “bỏ trốn” Mời thầy cúng “giữ chân” “cụ” rùa Câu chuyện ấy cũng sẽ trôi vào quên lãng nếu như “điệp khúc” này không lặp lại đúng một tháng sau đó. Cũng một buổi sớm tinh mơ, người quản lý tỉnh dậy đi kiểm tra khắp nhà hàng thì một lần nữa thấy chú rùa “không cánh mà bay”. Sực nhớ tới câu chuyện cũ, ông chạy một mạch ra khu bàn trà nơi trước đây đã tìm thấy con rùa nhưng lần này không thấy gì. Bảo vệ, nhân viên lại được một phen huy động lùng sục vật “gia bảo”. Một nhân viên của cửa hàng may mắn tìm thấy “cụ” đang nằm giữa lối đi từ gian nhà chính ra khu vườn, cách vị trí thường “ngự” khoảng hơn 50m. Một lần nữa, dù kiểm tra và phân tích kỹ, người quan lý cũng không thể tìm thấy dấu hiệu có người di chuyển món vật này. Bà Sâm cũng đã cho họp tất cả nhân viên của nhà hàng lại nhưng ai nấy cũng đều “lắc đầu” bởi chẳng ai muốn mất công với trò đùa vô bổ như thế. “Không ai dám tin con rùa đã chết khô có thể tự di chuyển nhưng chẳng còn cách lý giải nào thỏa đáng. Có một điều kỳ lạ là cả hai lần rùa mất tích thì trời đều mưa gió, nổi bão giông. Chính vì dính mưa mà tới giờ hai chân sau của nó đã bị mục và gãy rời khỏi thân”, người quản lý không giấu được sự tò mò, hoài nghi khi nhắc lại câu chuyện. Bà Sâm bảo, rùa vốn là loài vật linh thiêng nên dù không mê tín nhưng khi nhiều người đồn thổi, cho là có “điềm” thì bà cũng “lo ngay ngáy”. Thế là sau lần thứ hai rùa “bỏ ra vườn chơi”, bà vội đi tìm thầy cúng và theo “lệnh” của người này "phải làm tủ kính nhốt “rùa thần” lại”, gia đình bà Sâm tất tưởi chạy ngược xuôi để lo chỗ “nghỉ ngơi” của “cụ rùa thần”. Người quản lý mau chóng đóng một chiếc tủ kính chắc chắn, dày dặn và đặt rùa vào bên trong. Chiếc tủ này không bày ở gian nhà chính như mọi khi mà được chuyển ra đảo nổi nhân tạo của khu du lịch. Kỳ công hơn nữa, chiếc đảo nằm ở giữa hồ còn được bắc một cây cầu nhỏ thiết kế như một thân cây cổ thụ. Dù là khu vực “linh thiêng” nhất của nhà vườn bởi nơi đây thờ Phật Quân âm nhưng theo lời “tư vấn” của “thầy” cúng, con rùa cũng được nhà này “trân trọng” không kém khi tủ đặt “rùa thần” được đặt ngay bên cạnh bức tượng Phật bà. Kể từ ấy, ngày nào cũng vậy, người quản lý nhà hàng đều phải dậy từ sáng sớm và ra đảo nổi thắp hương “cúng” “thần rùa”. Chẳng rõ có “thần” hay không nhưng suốt hơn nửa năm nay, câu hỏi “Tại sao con rùa khô bỗng dưng tự dịch chuyển và dịch chuyển như thế nào” khiến gia đình bà Sâm và những nhân viên của vườn vẫn luôn âm thầm tò mò, suy nghĩ tìm lời giải đáp. Chủ nhà cho biết suốt thời gian qua đã nhiều lần gặng hỏi tra vấn xem có nhân viên nào đùa nghịch mang cụ rùa đi giấu nhưng ai cũng lắc đầu quầy quậy. Dẫn chúng tôi tới tham quan nơi đặt xác rùa, người quản lý chỉ vào hai chân sau của “cụ rùa” đã bị gãy sau hai lần “vận động”: “Lần ấy cứ mải lo chuyện cái tủ kính nên tôi cuống cuồng lấy bắng dính trắng dán lại hai chân cho “cụ”. Giờ nhìn lại cũng thấy tính thẩm mỹ… không cao. Mong “cụ” bỏ qua mà không trách phạt tôi”, người đàn ông này cười phân bua. Tuấn Minh/Pháp luật Việt Nam ================================ Câu chuyện này thì ngay trên diễn đàn của chúng ta đã đưa lên và chi tiết ly kỳ hơn nhiều. Vì đó là câu chuyện trong nhà của ngay thành viên trên diễn đàn. Nhưng "Bụt chùa nhà không thiêng", nên cóp lại từ báo mạng giaoduc.net.vn cho nó "uy tín".1 like
-
Vậy giải thích thế nào cho việc Lăng của vị vua cuối cùng thời Hùng Vương thứ VI nằm ngoài đền thờ ? Việc ngài nói:"Chôn ta...." chỉ là sự ân hận muôn màng , không phải là lý do để đặt bên ngoài điện thờ cả. Vua sai lầm cũng bị lịch sử lên án và đó là điều tất nhiên. Đây là đền thờ các Tổ 18 đời vua Hùng và các vì vua đã trị vì đất nước Văn Lang - cội nguồn Việt tộc xưa, chứ không phải các vua Hùng chôn ở đấy. Nếu coi lăng hùng Vương thứ VI là mộ của ngài (Chữ "ngài" tôi không viết hoa) thì các đời vua Hùng khác chôn ở đâu? Bởi vậy, Hoangnt cần suy xet cho kỹ, không nói thiếu cân nhắc thế được. Tôi không thấy mối liên hệ nào giữa lăng vị vua cuối cùng thời Hùng Vương thứ VI với Cột đá thề vào cuối đời Hùng Vương thứ XVIII cả. Hoangnt nói rõ hơn mối liên hệ này. Lịch sử không nói phong long thế được.1 like
-
Kính bác Hà Uyên Liệu người "quân tử tùy thời biến dịch" có thể biến nguy thành an không? Hay vô vọng? Năm này thiên tai lồng lộng, trời đất mịt mù, không biết rồi nhân tình thế thái sẽ đi về đâu? Kẻ hậu bối không biết nên hỏi. Nếu bác không vừa ý sẽ xin tự xóa bài.1 like
-
Gặp mặt cuối năm....măm măm măm. KaraOke như ....Lính Chê (Chế Linh) KaraOke...tình tái tê. KaraOke...thấy mà ghê. Trúng tủ "sát thủ đầu mưng mủ"1 like
-
Bổ sung hình ảnh cho thêm phần náo nhiệt..... Lính dù Bá Kiến kiêm phó nháy....."trông như cáy" Hạt gạo làng ...rất mơ màng. Hoangnt ...như lê thê. Ăn nhậu cần....củ đậu Nhìn xem còn gì chưa hoàn chỉnh ...thêm lỉnh kỉnh. Thiên Sứ phải có.... căn cứ Zdô! Zdô! như.... lô tô Thích nói chuyện là ....quan huyện. Công Minh như..... minh tinh, miệng rất gợi tình, trông cũng xinh xinh. Thầy trò không ...đoán mò. Còn tiếp1 like
-
1 like
-
Votruoc thân mến.Trong Lý học ứng dụng ở cõi "trần gian" này bao giờ cũng có hai mặt. Khi đã xác định không có cuộc chiến lớn để phân thắng bai và đám tư duy "Ở trần đóng khố" tự động giải giáp đầu hàng thì mặt kia thắng lợi của những người tôn trọng chân lý lịch sử thể hiện ở đâu? Tôi quy ước rằng: Đó là lúc sách giáo khoa tiếng Việt dậy trẻ em Việt rằng: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến với việc thành lập quốc gia Văn Lang: Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn và Đông giáp Đông Hải. Còn đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài tôi không quan tâm. Tuy nhiên tôi cảnh báo họ rằng: Nếu xuất phát từ những âm mưu chính trị nhằm phủ nhận những gía trị văn hiến Việt thì: Muốn "ở trần" được "ở trần". Thích "liên minh" thì sẽ được phần "liên minh". Quí vị quan tâm thân mến. Tuy nhiên, với những di vật khảo cổ tìm được trong bài viết trên web Việt học thì cá nhân tôi chỉ coi là sự minh họa cho những luận điểm về Việt sử 5000 năm văn hiến của tôi. Nếu như ngay ngày hôm nay, những nhà khảo cổ trong bài viết trên được chứng minh rằng: Những di vật khảo cổ đó không có giá trị lịch sử thì hệ thống lý luận nhằm chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến không vì thể mà thay đổi. Trong sách đã xuất bản và trong một số bài viết của mình, tôi đã nhiều lần xác định: Những di chỉ đào được ở Ân Khư - Kinh đô cổ của nhà Ân Thương - đó chính là chiến lợi phẩm thu được trong cuộc chiến với Việt tộc vào thế kỷ XV AC. Hiện tượng Lăng một vị vua Hùng thứ VI nằm ngoài hệ thống Đền thờ XVIII thời Hùng Vương là một sự trừng phạt của Hoàng tộc và lịch sử văn hiến Việt, khi vị vua này đã để xảy ra một sự xâm lăng của nhà Ân Thương tàn phá non sông đất Việt ở nam Dương tử. Thời Hùng Vương thứ VI chấm dứt và thay thế bằng thời Hùng Vương thứ VII - được Hội Đồng các Lạc Hầu cử lên. Tôi cũng luôn luôn xác định rằng: Trên đất nước Văn Lang rộng lớn với nền văn minh huyền vĩ vào bậc nhất thời đại bấy giờ thì có nhiều dân tộc cùng chung sống với dân tộc Việt. Bởi vậy, sẽ tồn tại nhiều loại chữ viết khác nhau trong thời đại các vua Hùng.1 like
-
"Bất chiến tự nhiên thành" - các cụ nhà ta bảo thế và ứng vào trường hợp này.Tôi nghĩ đám "hầu hết" và "cộng đồng" sẽ tự động giải giáp và đầu hàng trong im lặng. Và đây chính là sự khôn ngoan cuối cùng còn sót lại trong hệ tư duy "Ở trần đóng khố". Họ sẽ không dám ra mặt chiến đấu lớn đâu - đấy là gọi chút tự ái tối thiểu của họ.1 like
-
Kính thưa quí vị quan tâm. Việt sử 5000 năm văn hiến là một chân lý không thể phủ nhận. Điều đó đã quá rõ ràng - xét về nhiều góc độ - trừ góc nhìn chính trị tôi không bàn ở đây - Nhưng điều đó không có nghĩa rằng riêng về góc nhìn chính trị - theo bất cứ xu hướng nào thì Việt sử 5000 năm văn hiến là không có ở trần gian. Không ít những kẻ tư duy thuộc loại "Ở trần đóng khố" và vô liêm sỉ vẫn cố tình phủ nhận truyền thống văn hiến Việt và sẵn sàng bác bỏ ngay cả những chứng cứ hiển nhiên. Trong trường hợp này tôi ko có gì để tranh luận với họ. Tôi tin rằng chân lý tự nó sẽ sáng tỏ và cuối cùng Việt sử 5000 văn hiến sẽ được tôn vinh ở vị trí xứng đáng của nó trong văn minh nhân loại.1 like
-
Nếu như không thừa nhận quy tắc: “Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa cục không có khả năng tác động với các can chi bên ngoài và ngược lại“ thì với sơ đồ tính điểm hạn trên sẽ xuất hiện thêm rất nhiều điểm hạn nữa như: 1 – Bính đại vận khắcTân lưu niên (mặc dù Bính đã hợp với Tân hóa Thủy). 2 – Đinh trụ giờ là Thương quan gặp (khắc) Tân lưu niên là Quan (cho dù Tân đã hóa Thủy). 3 – Tân lưu niên khắc Giáp hay Ất tiểu vận, khắc 2 Giáp và Ất trong Tứ Trụ (cho dù Tân đã hóa Thủy). 4 – Mão trụ giờ và Mão thái tuế cùng Tý đại vận hình nhau (cho dù Tý và Mão thái tuế đã hợp hóa cục). 5 – Mão thái tuế và Mão trụ giờ cùng Thìn trụ ngày hại nhau (mặc dù Mão thái tuế và Thìn đã hóa cục). 6 - Tuất trụ năm hợp với Tuất thái tuế hóa Hỏa. 7 – Tuất trụ năm xung Thìn trụ ngày (mặc dù Thìn đã hóa cục). 8 - Ở đây chưa đả động gì tới các nạp âm khắc nhau (vì hình như tất cả các sách từ cổ tới kim không nói gì tới các nạp âm khắc nhau có thể gây ra các điểm hạn thì phải (?)). Tất cả các thông tin ở trên đều có thể gây ra các điểm hạn và hầu như tất cả các cao thủ Tử Bình từ Cổ tới Kim đều thích bơi, ngụp lặn trong cái mớ Hổ Đốn này thì phải (?). Có cao thủ cho rằng vì Tuất trụ năm (đại diện cho cha mẹ) xung với Thìn trụ ngày (đại diện cho bản thân người có Tứ Trụ) đã gây ra hạn nên muốn giải cứu hạn này thì cha con phải sống xa nhau. Có cao thủ cho rằng tai họa này do Đinh trụ giờ là Thương quan gặp Tân lưu niên là Quan gây ra. Có cao thủ cho rằng vì 2 Mão và Thìn hại nhau hay Tý và 2 Mão hình nhau mà gây ra tai họa. Còn có cao thủ cho rằng Đinh trụ giờ khắc Tân lưu niên là thái tuế và họ cho rằng phạm thái tuế chỉ có toi mạng mà thôi... Khi không thừa nhận quy tắc: “Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa cục không có khả năng tác động với các can chi bên ngoài và ngược lại“ thì nó sẽ xẩy ra trăm nghìn cách gây ra tai họa như nêu trên và dĩ nhiên chúng đều sai bởi một điều vô cùng đơn giản là chính các cao thủ Tử Bình đều phải thừa nhận và áp dụng một câu kinh điển: “Hợp Quan lưu Sát“ hay “Hợp Sát lưu Quan“. Chính câu Kinh Điển này đã khẳng định là phải thừa nhận quy tắc đã nói ở trên. Bởi vì nếu không thừa nhận quy tắc này thì Quan và Sát vẫn gặp nhau cho dù chúng đã bị hợp. Còn nếu ai cho rằng câu này chỉ áp dụng cho Quan và Sát thôi mà không được áp dụng cho các thần sát hay các can chi khác thì xin hãy trích dẫn các câu trong các sách cổ điển để chứng minh. Bây giờ chúng ta quay lại với ví dụ trên. Như tôi đã chứng minh trong 6 tháng đầu năm, nếu các tháng Thủy sinh được cho Mộc cục thì may mắn các tháng đó Mộc cục lại không có khả năng nhận được sự sinh đó, còn các tháng khác thì ngược lại. Do vậy trong 6 tháng đầu năm không có 1,2đh của Thủy cục sinh cho Mộc cục nên tai họa đã không thể xẩy ra. Nếu điều suy luận này đúng thì chúng ta biết các mùa của Bắc bán cầu và Nam bán cầu luôn luôn ngược nhau (ví dụ nếu Bắc bán cầu đang là mùa Xuân và Hạ thì Nam bán cầu đang là mùa Thu và Đông và ngược lại). Do vậy 6 tháng ở bắc bán cầu là mùa Xuân và Hạ người này không bị tai họa thì sang 6 tháng cuối năm là mùa Thu và mùa Đông của bắc bán cầu mà muốn không gặp tai họa thì người này phải sống ở Nam bán cầu, bởi vì khi đó Nam bán cầu đang là mùa Xuân và Hạ. Về lý thuyết thì rất đơn giản như vậy nhưng trong thực hiện lại không hề đơn giản tý nào. Bởi vì có mấy ai đủ tiền để đi du lịch xa tới 6 tháng như vậy, đấy là chưa kể tới khó khăn khi xin VISA nhập cảnh... Nhưng trong thực tế thì chắc rằng đa số những người nam có cùng Tứ Trụ này vẫn sống tại chỗ mà vẫn bình yên, không hề gặp tai họa nào cả. Đây mới chính là điều mà chúng ta phải nghiên cứu để tìm cho ra lời giải đáp. Hy vọng mọi người tham gia.1 like
-
Tôi nghĩ rằng không phải "Trong khi các nhà khoa học, kể cả những người có kiến thức uyên bác nhất đều tìm cách bác bỏ nền văn minh Lạc Việt đã tồn tại 4.000 năm" . Mà là một đám tư duy thuộc loại "ở trần đóng khố" với nền tảng tri thức tương đương thời kỳ "liên minh bộ lạc". Tất nhiên là sự nhận xét của tôi nhìn dưới mọi góc độ: Khoa học, xã hội, văn hóa, nghệ thuật, triết học....kể cả luật Xuất bản (Cấm chỉ trích phủ nhận văn hóa truyền thống của dân tộc - Không biết Thiên Sứ nhớ có chính xác không, hay già rùi trở nên lẩm cẩm), thậm chí cả tâm linh. Tất nhiên ở đây tôi không bàn đến cái nhìn từ góc độ chính trị. Vì đây là diễn đàn phi chính trị.Tác giả bài viết này cũng xác định quan điểm của tôi về truyền thống văn hóa sử - Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử: Nước Văn Lang, Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục và Đông giáp Đông Hải. Tuy nhiên chắc tác giả không xem kỹ những chi tiết trong tác phẩm của tôi. Việc xác định gần 5000 năm văn hiến sử Việt và "hơn 4000 năm" theo cách nói truyền thống thực ra chỉ cùng một điểm mốc lịch sử. Nước Văn Lang dưới sự trị vì của các vua Hùng bắt đầu từ 2879 trước CN. Tất nhiên cái đám tư duy tầm "Ở trần đóng khố" đó có nhãn mác cả. Với nhãn mác đó, nghiễm nhiên được coi là "uyên bác" so với loại "ve chai lông vịt". Thiên Sứ tui không và chưa chỉ trích cá nhân ai cả. Vị nào cảm thấy mình thông minh so với người khác trong cái đám tư duy "ở trần đóng khố " đó thì cứ âm thầm trừ mình ra. Cần xác định rằng: Việt sử 5000 năm văn hiến là một chân lý khách quan không thể phủ nhận. Chân lý này phù hợp với mọi giá trị nhận thức dưới bất cứ góc độ nào trong lịch sử văn minh nhân loại. Không hề có một chút nào gọi là cơ sở khoa học cho quan điểm phủ nhận cội nguồn truyền thống văn hóa sử 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt. Đám tư duy "Ở trần đóng khổ" ra sức phủ nhận gía trị văn hóa sử truyền thống Việt đó - ra sức rêu rao là nhân danh khoa học. Nào là được "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "Cộng đồng khoa học quốc tế" ủng hộ quan điểm của họ.Nhưng tôi thách tất cả đám dây mơ rễ má lùng bùng của hạng tư duy "ở trần đóng khố" - đồng hạng (*)cả trong và ngoài nước - đó hãy định nghĩa thế nào là "khoa học" đã, rồi hãy đem chính cái định nghĩa đó rà soát lại khả năng của mình xem có đúng như Thiên Sứ tôi nhận xét thuộc tầm tư duy "Ở trần đóng khố" không? ========================* Chú thích: Ngày xưa cinéma, rạp hát tuồng, chéo, cải lương ở Hanoi có nhiều hạng. Oai nhất trên lầu - nếu có lầu như nhà hát Lớn chẳng hạn - giá 7 hào, hạng nhất giá 5 hào, hạng nhì giá 3 hào. Hạng cuối cùng gọi là "giá vé đồng hạng" 2 hào - ngồi khoảng nửa rạp gần sân khấu.1 like
-
Người giải mã bí ẩn bãi đá cổ Sapa 10/12/2011 06:30 (VTC News) - Trong lúc nhậu cùng một số nhà sử học, khi ngà ngà, ông cao hứng và đã hùng hồn tuyên bố: "Nếu cho tôi một tỷ, tôi sẽ giải mã toàn bộ bãi đá cổ Sapa". Nhiều người biết đến ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương) bởi tuyên bố có phần ngông cuồng, rằng ông thể đuổi được mưa trong dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Chẳng mấy ai tin những tuyên bố của ông ngoài những đệ tử, học trò của ông. Bản thân tôi, là người quen biết ông từ lâu, cũng không tin ông làm được điều đó, bởi tuyên bố đó mang màu sắc… hoang tưởng. Nhưng là người tiếp xúc với ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh khá nhiều và luôn dõi theo các đề tài nghiên cứu của ông nên tôi tin rằng, ông thực sự là người đam mê nghiên cứu khoa học. Ông yêu đất nước Việt Nam, yêu lịch sử Việt Nam đến phát rồ và ông dành hết tâm huyết đời mình cho những nghiên cứu về lịch sử. Ông đã thách thức các nhà khoa học Việt Nam bác bỏ được đề tài nghiên cứu khẳng định lịch sử Việt Nam có tới 5.000 năm tuổi! Quả thực, tôi chưa đủ trình độ để thẩm định giá trị khoa học ở trong hàng trăm tài liệu, cả chục cuốn sách nghiên cứu lịch sử đó, nhưng tôi tin rằng, nó đã thể hiện tình yêu trọn vẹn của ông với tổ tiên đất Việt. Trong số những đề tài nghiên cứu của ông mà tôi theo dõi nhiều năm nay, tôi thực sự ấn tượng với giải mã của ông về những bí ẩn trên bãi đá cổ Sapa. Sơ đồ bãi đá cổ Sapa. Các nhà khoa học nước nhà mới chỉ dừng lại ở việc mô tả các hình khắc, chứ chưa giải mã được các thông điệp mà cha ông ta để lại trên những hình vẽ đó. Một số nhà khoa học cũng đã giải mã một số hình vẽ, nhưng chưa dũng cảm công bố. Riêng ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã khảng khái công bố những giải mã của mình. Có những giải mã của ông tôi còn đặt nghi vấn, song có những thông tin khiến tôi giật mình. Ranh giới giữa một nhà khoa học tài năng và một người hoang tưởng đôi khi rất mong manh. Điều tôi nhìn ở Nguyễn Vũ Tuấn Anh trong nghiên cứu này, là ở góc độ một nhà khoa học thực sự. Đúng – sai – hay – dở thế nào, còn tùy thuộc vào nhận định của các nhà khoa học và độc giả. Trong loạt bài này, xin được công bố những giải mã về bãi đá cổ Sapa của ông Tuấn Anh, khi mà bãi đá cổ đã gần như biến mất hoàn toàn bởi sự phá hoại của con người. Hòn đá cổ khổng lồ bị biến thành... cầu trượt. Suốt mấy năm nay, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đi về Sài Gòn – Hà Nội – Sapa như con thoi. Chỉ cần có một phát hiện mới, một tài liệu mới, hoặc một ý kiến mới của nhà nghiên cứu nào đó về bãi đá Sapa, là ông sẵn sàng diện kiến để trao đổi, tranh luận, nhằm làm sáng tỏ những nghi vấn. Mỗi lần ra Hà Nội, ông thường ngồi ở một vài quán café bên hồ Trúc Bạch, rồi hẹn hò các nhà nghiên cứu, các học trò ưu tú của ông để trao đổi học thuật. Họ có thể bàn luận về mọi thứ và tôi nhận thấy rằng, mọi câu chuyện họ trao đổi đều có bóng dáng, luận thuyết của triết học và Kinh Dịch. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã biết đến bãi đá cổ Sapa từ lâu rồi, nhưng ông thực sự bắt tay vào nghiên cứu và giải mã từ khoảng 10 năm nay, sau khi một nhà khoa học Pháp công bố tài liệu nghiên cứu về bãi đá này. Khách du lịch thi nhau vẽ bậy, khắc bậy lên đá cổ. Khi đó, một tờ tạp chí khoa học nước ngoài viết rằng, nhà khoa học người Pháp Phillipe Le Failler - chuyên gia hàng đầu của Viện Viễn Đông Bác Cổ và các cộng sự Việt Nam thực hiện công việc dập bản khắc hình vẽ trên bãi đá trước tình trạng bãi đá cổ Sapa có thể bị biến dạng bởi tác động của thiên nhiên và con người. Bài viết cũng nói rằng, những bí ẩn về bãi đá cổ nổi tiếng ở Sapa đang có cơ hội hé mở khi lần đầu tiên toàn bộ hoa văn của hơn 200 viên đá đã được in dập lại và được nghiên cứu theo công nghệ hiện đại. Sau 7 tháng làm việc, nhóm nghiên cứu của Phillipe đã dập được toàn bộ 200 viên đá, với tổng cộng 3.000 bản dập. Tất cả những bản dập này cũng như những dữ liệu định vị của các viên đá sẽ được nhập vào máy tính, sắp xếp, tính toán số lượng, sự lặp lại của các mẫu hoa văn... làm cơ sở để giải mã các hoa văn, hình vẽ bí ẩn. Vô tư ngồi chơi trên đá cổ. Theo Phillipe Le Failler: "Công việc nghiên cứu cho những kết luận ban đầu, có thể là một bản đồ, một bài cúng..." Bí ẩn của những hoa văn này đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất lâu. Ngay từ năm 1925, giáo sư Pháp Victor Goloubev đã đưa ra những giả thuyết giải thích về các hoa văn này. Những hoa văn lạ, đẹp và nhiều hình dạng: bậc thang, hình người, con đường, chữ viết... và nhiều hình khắc bí ẩn khác. Đặc biệt và khó lý giải nhất là có một hình người tỏa ra các vầng hào quang xung quanh. Bãi đá quý như vậy, nhưng nó đang có nguy cơ bị biến dạng. Một số họa tiết bị mờ vì mưa nắng bào mòn. Mới đây người ta lại phát hiện thêm những bãi đá cổ tương tự ở xã Tả Phìn (Lào Cai) Vị Xuyên (Hà Giang), Pá Màng (Sơn La) cùng với những hoa văn và cách bài trí bí ẩn. Phillipe Le Failler dự định sẽ tiến hành dập lấy mẫu tiếp những bãi đá này. Và khi công việc hoàn thành, ông sẽ có trong tay hệ thống toàn bộ các mẫu hoa văn của các bãi đá cổ được phát hiện tại Việt Nam. Cùng với việc cập nhật dữ liệu thông tin và nghiên cứu trên máy tính, Phillipe tuyên bố rằng bí ẩn mà người xưa gửi gắm trên những viên đá này chắc chắn sẽ được giải mã trong tương lai không xa. Bản dập một hình khắc trên bãi đá cổ Sapa. Sau khi nghe tin này, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh khá... bất bình. Ông nói: "Thật là khôi hài. Nếu là một bài cúng thì chẳng cần phải ghi vào bãi đá cổ làm gì để giải mã cho mất công thế...". “Phương tiện khoa học hiện đại có thể cho con người thấy tất cả những thực tại đang hiện hữu: Từ hạt vật chất nhỏ nhất đến thiên hà khổng lồ. Nhưng sự bí ẩn lại nằm trong tính tương tác giữa những thực tại đó. Người Pháp có thể dùng máy móc và phương tiện hiện đại để xem xét những ký hiệu trên bãi đá cổ Sapa, nhưng họ sẽ không thể hiểu được những ký hiệu ấy nói lên điều gì? May lắm thì họ hiểu phần nào mà thôi” – ông Tuấn Anh khẳng định. Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đang in dập hình khắc trên bãi đá Sapa. Theo ông Tuấn Anh, chưa có một tiêu chí nào cho sự giải mã một di sản văn hóa cả. Bởi vì, một vòng tròn trên bãi đá cổ, người thì bảo đó là ký hiệu mặt trời, người bảo mặt trăng, người bảo thái cực, người kêu đích thị hòn bi, kẻ cãi lại thì bảo cái bánh dầy mới đúng... Như vậy rất khó biết ai đúng. Tuy nhiên, ông khẳng định rằng, tiền nhân làm ra bãi đá cổ kỳ công này thì phải có mục đích rõ ràng. Có lần, trong lúc nhậu cùng một số nhà sử học, khi ngà ngà, ông cao hứng và đã hùng hồn tuyên bố: "Nếu cho tôi một tỷ, tôi sẽ giải mã toàn bộ bãi đá cổ Sapa". Tháng sau, một vị quan chức trong Viện Sử học gọi điện cho ông "OK" kế hoạch này. Nhưng lúc ấy ông lại tỉnh táo, sợ rằng mình bảo cái bánh dầy, người khác bảo hòn bi ve thì cãi nhau mệt. Thế là ông từ chối. Ông xin được giải mã miễn phí. Người bảo đây là nền văn minh nông nghiệp, người bảo hình vẽ miêu tả sự tương tác vũ trụ, người bảo vẽ cái... cối đá. Việc giải mã một thông điệp người xưa để lại là một việc rất khó khăn. Bởi vì khái niệm của người xưa khác người thời nay, hoàn cảnh xã hội, thói quen tư duy, nhận thức đều khác. Vì vậy muốn hiểu người xưa nói gì qua những mật ngữ để lại thật không dễ dàng. Hơn nữa, chúng ta lại chưa có một tiêu chí khoa học về phương pháp giải mã những di sản văn hóa nói chung, hoặc chí ít chúng ta chưa biết đến điều này. Nhưng điều đó không có nghĩa không thể hiểu được nếu có sự hiểu biết về văn hóa, toán học cổ xưa. Hai lĩnh vực này ông đã nghiên cứu nhiều năm, nên ông hy vọng có thể áp dụng trong việc giải mã bí ẩn của bãi đá. Với những sự kiện trên, ông lặng lẽ gom góp tiền bạc và nhiều lần từ Sài Gòn ra Hà Nội, lên tận bãi đá cổ Sapa để đi tìm lời giải mã. Còn tiếp… Trần Bình Thủy =========================== Không tin thì thôi. Nhưng ít nhất tất cả các cơ quan khí tượng thủy văn trong vùng Châu Á - Thái Bình Dương - kể cả Hoa Kỳ - đều dự đoán sai về thời tiết Hà Nội trong 10 ngày Đại Lễ. Duy nhất có Nguyễn Vũ Tuấn Anh xác định trước hẳn hai tháng về thời tiết trong thời gian này tại Hà Nội và duy nhất đúng. Cụ thể: Tất cả chương trình trong Đại Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hanoi chưa thực hiện phương án II - Tức là cử hành Đại Lễ trong nhà. Tất cả những ai có mặt tại Hanoi vào thời gian đó đều dự Đại Lễ ngoài trời đấy chứ nhỉ. Duy nhất có cơn mưa hai tiếng đồng hồ ở một vài khu vực tại Hanoi vào tối mùng 4. 10. 2010 - từ 18g 30 đến 20g 30 .Lúc ấy tôi mệt mỏi và đang massage tại 49 Thái Thịnh. Sang ngày 11. 10. 2010 mưa ngập Hanoi. Tôi gặp may. Nếu cơn mưa này chỉ đến sớm 16 tiếng chắc tôi bị quay chảo quá! Bảy tỷ một trăm năm mươi triệu còn không lấy. Lấy một tỷ làm gì nữa. Lấy một tỷ này xương xẩu lắm, giải mã để thuyết phục mọi người tin vào sự giải mã đó là duy nhất đúng khi chưa có một tiêu chỉ cho sự giải mã thì tụi nó bắt chia để công nhận đúng thì chết. Lỗ nặng! Thôi chịu. May mà lúc ấy xỉn. Rượu Vodka Men nói chứ không phải tôi. Ba mươi tỷ cho giải pháp chống kẹt xe ở Hanoi chắc ăn hơn 1tỷ giải mã bãi đá cổ. Chính xác là như vậy! Khi anh đưa ra một ý tưởng mới. Nếu được công nhận đúng thì anh là thiên tài. Còn nếu sai thì anh là thằng khùng. Khi Galileo phát hiện ra trái Đất quay, chắc hầu hết mọi người lúc ấy cũng nghĩ ông ta là thằng khùng. Còn khi anh đã được công nhận là thiên tài rồi thì thằng ngu nhất mà không bị khùng cũng vỗ tay khen ngợi anh. Cho dù nó không hiểu gì cả.1 like
-
DƯA LEO Tài liệu về quả dưa leo này đã được đăng tải trên tờ The New York Times vài tuần trước đây, một tờ báo thường giới thiệu những phương pháp khá sáng tạo và lạ lùng, để giải quyết những vấn đề thông thường. Sau đây là những khám phá thú vị về quả Dưa leo : 1/ Dưa leo chứa rất nhiều loại sinh tố mà chúng ta cần mỗi ngày như Vit. B1, B2, B3, B5, B6, Calcium, Iron, Magnesium, Phosphorus, Potassium, and Zinc. 2/ Khi cảm thấy mệt mỏi vào buổi trưa, quí vị hãy để qua một bên các loại thức uống có cà phê, và hãy chọn lấy một quả dưa leo. Dưa leo có các loại Vitamin B, và Carbohydrates, có khả năng làm quí vị hưng phấn trở lại được vài giờ đồng hồ. 3/ Khi chiếc gương trong phòng tắm bị mờ đi vì hơi nước, quí vị hãy dùng một lát dưa leo, thoa dọc theo gương, chỉ trong chốc lát,gương sẽ trong lại và tỏa ra một mùi thơm tựa như quí vị đang ở trong phòng tắm hơi. 4/ Khi loài ấu trùng và ốc sên đang hủy hoại những luống cây ngoài vườn nhà, quí vị hãy đặt vài lát dưa leo vào trong một lon đồ hộp nhỏ, vư Lý do là vì những hóa chất trong dưa leo phản ứng với chất nhôm của lon đồ hộp, sẽ tỏa ra một mùi hương mà con người không thể cảm nhận được, nhưng lại khiến cho các loài côn trùng khiếp sợ và bỏ chạy khỏi vườn. 5/ Quí vị đang muốn tìm một cách nhanh chóng và dễ dàng nhất để loại trừ những tế bào mỡ trên da (cellulite) trước khi vào hay bước ra khỏi hồ tắm ? Hãy thoa một hay hai lát dưa leo trên những vùng da quí vị muốn. Các hóa chất thực vật sẽ khiến cho lớp collagen trên da trở nên săn chắc và do đó, khiến cho cellulite trên da khó nhìn thấy. Cách này cũng tác dụng rất tốt trên các nếp nhăn nữa. 6/ Quí vị muốn tránh cảm giác choáng váng hay nhức đầu dữ dội sau khi uống rượu chăng ? Hãy ăn vài lát dưa leo trước khi đi ngủ. Khi thức dậy, quí vị sẽ thấy tỉnh táo và hết nhức đầu. Dưa leo chứa một lượng đường vừa đủ, các loại vitamin B, và các chất điện giải để tái bổ sung những tinh chất sinh tố cần thiết mà cơ thể đã bị mất đi, hầu tái lập sự cân bằng, xua tan cảm giác choáng váng hay nhức đầu. 7/ Quí vị muốn tránh một bữa ăn trưa, hay ăn tối thịnh soạn chăng ? Dưa leo đã được dùng hàng thế kỷ nay, ngay cả bởi những người giăng bẫy thú rừng, các nhà buôn, các nhà khai phá Âu châu khi muốn có một bữa ăn nhanh, họ đã ăn dưa leo để không còn cảm giác đói bụng nữa. 8/ Quí vị sắp có một cuộc họp quan trọng, hay một cuộc phỏng vấn tìm việc làm, nhưng lại không đủ thời gian để đánh bóng đôi giầy của mình. Hãy thoa một lát dưa leo tươi lên giầy, hóa chất của dưa leo sẽ khiến giầy bóng lên, tuy không thật hoàn hảo nhưng cũng có tác dụng chống thấm nước. 9/ Trong nhà quí vị không có loại dầu chống rỉ sét WD 40, nhưng lại đang cần loại trừ tiếng kẽo kẹt từ bản lề của cửa ra vào. Hãy dùng một lát dưa leo chùi chung quanh bản lề đó, cửa sẽ không còn tiếng kẽo kẹt nữa. 10/ Quá căng thẳng nhưng lại không có thời gian để massage hay ghé vào spa, quí vị hãy cắt hết một quả dưa leo, cho vào một bình nước sôi, rồi hé mở nắp đậy, để cho hơi nóng thoát ra ngoài. Các hóa chất và dưỡng chất từ dưa leo sẽ tác dụng với nước sôi và tỏa ra một làn hương làm dịu đi sự căng thẳng, và tạo ra một cảm giác rất thoải mái 11/ Quí vị vừa xong một bữa ăn trưa với các đồng nghiệp, và chợt nhớ mình không có chewing gum hay kẹo the. Hãy cắt một lát dưa leo, rồi đặt sát vòm miệng trên chỉ độ 30 giây thôi, hơi thở sẽ thơm tho như ý muốn, vì các hóa chất thực vật của dưa leo sẽ tiêu diệt các loại vi trùng, vốn là nguyên nhân gây nên bệnh hôi miệng. 12/ Quí vị muốn lau chùi muỗng nỉa, sinks, hay các đồ dùng kim loại không rỉ sét ? Hãy dùng một lát dưa leo lau chùi các vật dụng trên, không chỉ làm mất đi những vết lu mờ lâu năm và làm sáng bóng trở lại, mà còn không để lại các vết sọc, và cũng không làm hư hại ngón tay cũng như móng tay của quí vị vì việc lau chùi nữa. 13/ Quí vị đang viết bút mực và bị lỗi khi viết. Hãy lấy lớp vỏ dưa leo, và nhẹ nhàng tẩy vết mực muốn tẩy. Cũng rất công hiệu khi tẩy vết bút chì, và những vết mực mầu trang trí mà các trẻ em vẽ lung tung trên tường. Đây là những phương cách hiệu quả và an toàn, giải quyết được những vấn đề hàng ngày. Qúi vị hãy áp dụng và giới thiệu cho những người quen biết của mình nhé. Thụy Trinh sưu tầm.1 like
-
Tư liệu tham khảo: Giải Mã Bí Ẩn Phong Thủy Kinh Đô Ánh sáng Paris Thứ ba, 03 Tháng 5 2011 00:08Hình thành từ rất sớm, nhanh chóng trở thành kinh đô của nước Pháp rồi sau đó là trung tâm văn hóa, nghệ thuật của cả châu Âu trong suốt nhiều thế kỷ, cũng chẳng phải ngẫu nhiên người ta gọi Paris bằng mỹ từ "Kinh đô ánh sáng". Thế nhưng có lẽ ít người biết rằng, sự hưng thịnh ấy có một mối liên hệ sâu xa với sự lựa chọn vị trí và cách thức quy hoạch của kinh đô nước Pháp... 1. Có thể nói, trên thế giới khó có thành phố nào có thể sánh kịp với Paris. Dù cho trí tưởng tượng của bạn phong phú tới mức nào thì một khi bạn đã bước chân vào thành phố này, bạn sẽ bị sức quyến rũ của nó hớp hồn. Còn những người nào từng đến Paris, hẳn sẽ không còn cảm thấy kỳ lạ với cảnh thiên đường nữa, vì rằng những gì thiên đường có thì Paris cũng có. Từ trước khi quốc gia Pháp được thành lập, đã có Paris cổ đại, đó chẳng phải là điều ngẫu nhiên. Paris vốn là vùng đất đế vương, với dãy núi Apls uốn lượn bao quanh và dòng sông Seine chảy xuyên qua nước Pháp, cũng là xuyên qua Paris, biến nơi đây trở thành trung tâm của các hành trình thương mại đường thủy lẫn đường bộ. Khi Henry IV thiết lập quan hệ hôn nhân với dòng họ Medici thì sức mạnh của Florence đến Paris. Rồi sự hùng mạnh của vua Louis XIV sau đó đã đem đến một sức sống mới cho Paris. Điện Versailles trở thành tượng trưng của đế chế quân chủ Pháp đồng thời cũng trở thành trung tâm văn hóa nghệ thuật của châu Âu. Cuối cùng là vị Hoàng đế vĩ đại Napoleon, người đã làm chủ cả châu Âu, đồng thời đem về Paris vô số những tác phẩm nghệ thuật tinh túy nhất của châu lục này, biến Paris trở thành thành phố mỹ lệ bậc nhất thế giới. Trong vòng 300 năm qua, dù thế giới có biến đổi thế nào thì người ta vẫn không thể không nhắc tới Paris như một phần trung tâm của thế giới. Paris không chỉ là một thành phố mà với người Pháp nó còn là một biểu tượng. Một thành phố muốn phát triển có thể không dựa vào núi nhưng nhất định phải gần nguồn nước. Nước là máu của mạch đất, huyết mạch phải ngày đêm tuôn chảy thì mới đem lại nguồn năng lượng nuôi dưỡng sự phát triển của thành phố. Không có nước, một thành phố khó có thể tồn tại được. Nếu như thành phố có một con sông chảy xuyên qua trung tâm của nó thì thành phố ấy càng là nơi hội tụ linh khí. Đặc biệt là khi con sông này lại bắt nguồn từ một ngọn núi thiêng, nơi bắt nguồn của dòng nước thánh thì thành phố đó càng may mắn hơn. Dòng sông Seine chảy xuyên qua lòng Paris chính là một dòng sông như vậy. Và đương nhiên, thành phố may mắn đó chính là Paris. Hay nói cách khác, sông Seine không chỉ là biểu tượng của Paris mà còn là nguồn gốc của vận đại cát của thành phố hoa lệ này. Từ thời xưa, Paris hình thành và phát triển cũng bắt đầu từ hai bên bờ dòng sông Seine nổi tiếng này. Khi chảy qua Paris và chảy vào vùng Normandie, các thung lũng sông bắt đầu được mở rộng ra, đó cũng là khi dòng sông Seine gặp sông Marne chảy từ phía đông Paris. Từ xưa, sông Seine đã trở thành con đường giao thông huyết mạch, thuyền bè qua lại suốt năm. Đường giao thông trên sông Seine có thể thông với sông Rhine, sông Rhone,... biến Paris trở thành trung tâm của giao thông đường thủy ở châu Âu. Lượng hàng hóa vận chuyển trên sông Seine luôn đứng đầu cả nước Pháp. Người ta thường nói nước là biểu tượng của tiền tài, nguồn nước vượng thì tài lộc thịnh. Có lẽ chính vì thế Paris mới trở thành trung tâm về kinh tế của cả nước Pháp. 2. Từ phía đông nam của bồn địa, sông Seine chảy theo hướng tây bắc, đến vùng bằng phẳng ở giữa bồn địa Paris, dòng sông chảy chậm lại, uốn lượn thành hình cung lớn xuyên qua trung tâm của Paris. Thành ra, sông Seine vào Paris theo hướng đông nam, sau đó chảy theo hướng tây bắc, rồi chuyển dần theo hướng tây nam và ra khỏi Paris theo hướng này. Chính vì thế, người Paris có một thói quen bất biến từ trước tới nay là gọi bờ phía bắc của sông Seine là hữu ngạn còn bờ nam sông Seine là tả ngạn. Cách gọi này trùng khít với cách định hướng trong phong thủy truyền thống: Đứng tại bờ sông, mặt hướng theo dòng chảy con sông, tay phải gọi là hữu ngạn, tay trái thì gọi là tả ngạn. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét kết cấu phong thủy của Paris thông qua hai khu vực theo cách phân chia này. Tả ngạn sông Seine là một khu vực hình cánh quạt nằm bên bờ trái con sông. Nó bao gồm khu vực 6 của Paris, nơi tập trung những di tích cổ kính nhất của Paris từ thời sơ khởi. Đó là nơi tập trung những phần tinh hóa văn hóa của Paris hoa lệ, nơi sản sinh và nuôi dưỡng văn học, triết học, nghệ thuật và cả cách mạng. Cho tới nay, lịch sử huy hoàng của khu vực tả ngạn vẫn khiến nó giữ một địa vị cực kỳ quan trọng về văn hóa và nghệ thuật. Hữu ngạn sông Seine là nơi tập trung những cửa hàng cao cấp, các ngân hàng, tập đoàn tài chính, các công ty bảo hiểm, các sàn giao dịch chứng khoán,... Nếu như bờ trái là trung tâm của văn hóa và nghệ thuật thì bờ phải con sông chính là trung tâm thương mại không chỉ của người Paris, không chỉ của người Pháp mà còn là của cả châu Âu. Đây là thiên đường mua sắm của các ngôi sao nổi tiếng thế giới. Vẻ phồn hoa, đô hội và ưu nhã của khu hữu ngạn sông Seine có thể nói là khó có nơi nào trên thế giới bì kịp. Với Paris, sự phân chia tả ngạn hữu ngạn không đơn thuần là sự phân chia về mặt địa lý, nó còn mang ý nghĩa tượng trưng. Tả ngạn và hữu ngạn, hai khu vực mang hai đặc điểm hoàn toàn khác nhau, một giàu truyền thống, cổ kính tới mức kinh điển, một lại xa hoa, hiện đại khó có nơi nào bị kịp, một âm, một dương, cả hai đều vị sự tồn tại của khu vực còn lại mà tự nỗ lực phát triển. Thiếu một trong hai, Paris sẽ không còn là một Paris theo đúng nghĩa nữa. Trong quan niệm phong thủy của người Trung Quốc xưa có nói đến một quy luật, đó là "hữu giang vi cát", nghĩa là nằm ở bờ phải của con sông thì là điều lành. Trên thực tế, cây cỏ ở bờ phải con sông thường phát triển rất tươi tốt, đó là nơi thích hợp để chăn nuôi. Còn bờ trái con sông thường cây cỏ không phát triển tốt như bờ phải, thành ra những gia súc sinh trưởng ở khu vực này thường gầy gò, ốm yếu. Nghĩa là, cùng trên một con sông, nhưng bờ phải là nơi thích hợp hơn cho sự định cư sinh sống của con người. Điều này cũng có nghĩa là so với bờ trái thì bờ phải sẽ mang lại cho con người sự giàu có, cuộc sống sẽ thoải mái hơn. Nhưng cuộc sống cũng không đơn thuần chỉ có vật chất mà còn có tinh thần. Chính vì vậy, nếu như bờ phải mang lại cho con người cuộc sống vật chất giàu có thì bờ trái mang lại cho con người sự giàu có về tinh thần. Đó có lẽ là lý do mà khu vực bờ trái sông Seine lại là nơi văn hóa rất phát triển. 3. Nếu đi bộ trong thành phố Paris, sẽ có một cảm giác rất rõ ràng, rằng tất cả những con phố đều thông với đường lớn, tuy nhiên, đường thẳng lại rất ít. Kỳ thực, đây chính là điểm độc đáo và lãng mạn của Paris. Cho đến nay, Paris vẫn phát triển theo kết cấu hình bầu dục hình thành từ thời ban đầu. Biên giới của Paris không ngừng mở rộng, khiến chu vi của hình bầu dục này không ngừng lớn dần. Ban đầu chỉ phát triển về hướng đông nhưng sau đó tiếp tục phát triển về hướng tây. Toàn bộ Paris chia làm 20 khu với khu trung tâm là Châtelet. Nếu như nhìn từ trên xuống thì Paris trông giống như một con cá lớn. Bố cục của từng khu phố, từng con đường của Paris giống như những hoa văn trên mình con cá khổng lồ ấy. Mặc dù Paris cũng là do các nhà thiết kế quy hoạch nên, tuy nhiên, rõ ràng là các nhà thiết kế về sau không cố ý làm như vậy. Những con đường của Paris rất cổ kính, gần như giữ nguyên vẹn từ thời ban đầu thành phố được xây dựng. Dòng sông Seine uốn lượn trong trung tâm thành phố, công thêm một bố cục rất tự nhiên và nguyên sơ đã trở thành ưu điểm trong thế cục phong thủy của Paris. Tuy nhiên, nếu như các con đường giao nhau theo các góc nhọn, trong phong thủy là điều kiêng kỵ thì ở Paris lại xuất hiện vô số. Ở đây các ngã tư không nhiều, nhưng ngã năm thì vô số và nhiều nhất là những ngã tám, ngã chín. Trong phong thủy người ta gọi đây là "lộ xung sát", biểu hiện cho điềm dữ. Vậy vì sao Paris lại có bố cục như vậy? Trên thực tế, bố cục này chỉ có thể hình thành ở Paris mới đem lại năng lượng và sức sống, bởi vì chỉ có Paris mới có dòng sông Seine uốn lượn nhiều lần trong trung tâm của thành phố. Đó cũng chính là lý do vì sao, cho đến tận ngày nay, Paris vẫn và sẽ là kinh đô ánh sáng của châu Âu và thế giới. Hải Phong (Theo báo Trung Quốc)1 like
-
Người chết đầu thai' náo loạn đất Hòa Bình Những trường hợp “đầu thai” tại bản Chiềng Châu (Mai Châu, Hòa Bình) diễn ra từ hàng chục năm nay. Những đứa trẻ khi sinh ra hoàn toàn bình thường, đến khi 3-4 tuổi lại nhận mình là… con của những gia đình khác xa đến cả chục cây số. Trưởng phòng Tôn giáo (Sở Nội vụ tỉnh Hoà Bình), ông Nguyễn Trường Sơn xác nhận: “Những trường hợp người dân gọi là đầu thai ở huyện Mai Châu là có thật...". “Kiếp trước cháu là con trai” Hà Thị Mai Anh (SN 1995, hiện đang học lớp 9, trường phổ thông cơ sở thị trấn Mai Châu), con gái duy nhất của anh Hà Văn Bái và chị Hà Thị Tý là một trường hợp như thế. Anh Bái cho biết, vợ chồng anh lấy nhau từ năm 1990 nhưng hiếm muộn, mãi 5 năm sau mới sinh được Mai Anh. Từ lúc mới sinh cho tới khi cháu 4 tuổi, mọi biểu hiện cũng bình thường như những đứa trẻ khác và vì chỉ có một mình con nên đi đâu vợ chồng cũng cho con đi cùng. Trong một lần đi dự đám cưới một người quen tại bản Nhót (xã Nà Mèo là xã kế bên), vợ chồng anh bận giúp chủ nhà làm cỗ nên gửi cháu cho mọi người trông giúp. Khi công việc đã xong, anh quay ra tìm thì thấy cô con gái của anh đang lẵng nhẵng theo một phụ nữ tầm tuổi vợ anh khóc mếu “Mẹ ơi”. Lạ lùng ở điểm nhìn thấy cha mẹ đẻ thì cô bé cứ “bơ” đi mà bám chặt lấy người phụ nữ lạ mặt liên tục gọi “mẹ”. “Lúc đầu vợ chồng tôi nghĩ chắc con mình tưởng nhầm. Thấy lạ, mọi người trong đám cưới xúm vào hỏi thử: “Vậy bố mẹ cháu tên là gì, nhà ở đâu?”. Chúng tôi chết điếng người khi rõ ràng mình đẻ ra nó mà nó không nhắc đến, lại nhận là con của ông bà Lường Văn Tuấn - Hà Thị Ân lạ hoắc nào đó. Nó còn nói “Cháu có anh trai tên Lường Văn Tú còn cháu tên là Lường Văn Hải nhà ở bản Nhót, trước nhà có cây muỗng to, nhà được làm bằng đất 2 tầng (ý nói nhà sàn)”. Đến lúc này mọi người trong đám cưới mới ồ lên kinh ngạc”, anh Bái thuật lại. Anh Khà Văn Ôn trước di ảnh con "đầu thai". Nghĩ con mình bị… dở hơi nhưng anh vẫn phải chiều theo ý con, đưa cháu theo người phụ nữ lạ về nhà thì càng ngạc nghiên hơn khi mọi điều cháu nói đều chính xác. Ông bà, cô bác tới chơi cháu đều gọi tên chính xác từng người, cháu còn nhận ra quần áo, nơi “con là Lường Văn Hải thường ngủ”. Cả làng xôn xao: “Đúng là nhà này trước đây 4 năm có đứa con trai tên Lường Văn Hải đã mất, đúng vào dịp sinh con bé này”. Lòng dạ của anh Bái rối bời, đợi đến gần tối thì con gái anh mới chịu theo về nhà. Trên đường đạp xe trở về, vừa sợ chuyện lạ kỳ vừa sợ mất con, anh ngã dúi dụi mấy lần. Người mẹ đẻ của cháu gái lúc về đến nhà ngồi trấn tĩnh lại mới nhớ lại đúng là có lần chị đi qua bản Nhót mua hàng và đó cũng chính là thời điểm chị có mang cháu. Mấy hôm sau, bé gái liên tục bị ốm sốt cao, chẳng chịu ăn uống, miệng luôn đòi về “nhà ở kiếp trước”. Cuối cùng anh chị cũng phải chở cháu về nơi cháu đòi và vừa đến “nhà kiếp trước”, dù vừa ốm lăn lóc nhưng nay đã không còn biểu hiện gì của ốm sốt nữa, sắc mặt tươi tỉnh hẳn lên. Anh Bái trầm ngâm: “Tôi phải mổ lợn làm 10 mâm cỗ để xin vía cháu về dưới này, tôi cũng chỉ có duy nhất mình cháu là con. Từ đó hai gia đình từ chỗ không quen biết nay trở thành thân thiết như hai anh em. Con bé khi nào thấy nhớ bố mẹ trên ấy là lại lên với bố mẹ, với anh, chán thì lại về đây. Những dịp lễ Tết, nghỉ hè có khi nó lên ở cả tuần, nếu lâu không lên là lại lăn ra ốm”. Khách lạ len lén nhìn mặt cô bé “người Trời đầu thai” Mai Anh thì cô bé chợt khanh khách khiến giật thót mình: “Kiếp trước cháu là con trai đấy. Cháu có tới hai bố, hai mẹ và một anh trai, mọi người đều yêu thương cháu”. Bỗng dưng con mình thành… con người khác Trường hợp “người Trời đầu thai” trong nhà anh Hà Văn Tuốt và chị Hà Thị Tuỗn thì xảy ra cách đây đã hơn 20 năm. Anh chị năm nay đã ngoài 40 tuổi, có cậu con duy nhất là Hà Văn Dược (21 tuổi) hiện đang theo bố làm nghề dựng nhà sàn. Mọi người cho biết chàng trai này cũng là “con truyền kiếp”. Mẹ đẻ của Dược cho biết vợ chồng chị lấy nhau từ năm 1990, một năm sau đó thì sinh con trai. Năm lên 3 tuổi, đang chơi với các bạn ngoài sân, thấy một người thu mua sắn là anh trai của một người trong làng đi qua, Dược nói với các mọi người: “Đấy là bác của em đấy”. “Nghe bọn bạn nó nói lại nhưng vợ chồng tôi nghĩ là trẻ con nói nhảm nên cũng không để ý đến. Chuyện lạ xảy ra tới khi đi học mẫu giáo, mỗi lần bố mẹ đưa Dược đi học qua nhà một người tên Vì Văn Xiêm thì cậu bé đều nhắc đi nhắc lại: Nhà của con đây này”. Thấy con nói liên thiên, cha mẹ đẻ thậm chí còn khi phát con đến đỏ mông nhưng sau đó, cậu bé bỗng lăn ra ốm và ngày ngày đều đòi bố mẹ đưa ra “nhà bố Xiêm”. Anh chị cũng đánh liều bế con đến nhà lạ và kỳ lạ thay, mọi bệnh tình của cậu bé đều biến mất. Cậu bé không chỉ biết hết mọi người trong gia đình lạ mà còn nói rõ mình chết từ lúc mới được 5 tháng tuổi và bố mẹ chưa kịp đặt tên con. Vợ chồng ông hàng xóm tên Xiêm cũng ngã ngửa người ngạc nhiên bởi những điều bí mật sâu kín đó chỉ có ông bà mới biết. Vậy là ông hàng xóm cũng làm lễ xin được nhận bé Dược làm con nuôi. Cậu bé Dược nay đã trưởng thành và vẫn nhận mình là người “đầu thai”. Khi được hỏi: “Em có cảm giác gì khi nhận gia đình nhà lạ hươ lạ hoắc làm bố mẹ, các em”, cậu trả lời: “Em cũng chẳng biết vì sao nữa, nhưng khi gặp bố mẹ em ở kiếp trước thì em nhận ra một cảm giác gần gũi, thân thiết và sau đó em cứ nhớ dần đấy từng là bố mẹ và các em mình… Những lần bố mẹ bên ấy đau ốm em cũng đều có linh cảm báo trước”. Bà mẹ “kiếp trước” của Dược cũng khăng khăng: “Nó chính là đứa con đầu của tôi đã chết. Vợ chồng tôi sinh cháu đầu năm 1982 được 5 tháng thì cháu bị bệnh vàng da, dù đã đi bệnh viện, nhờ nhiều thầy lang nhưng cháu không qua khỏi. Thật bất ngờ là cháu lại lộn vào làm con gia đình nhà hàng xóm. Với linh cảm của người mẹ, tôi nhận thấy Dược cũng giống như hai đứa con đẻ của tôi. Hoàn cảnh của gia đình bên ấy neo người nên gia đình tôi cũng chỉ nhận cháu làm con nuôi, khi nào nhà có công việc thì cháu mới tới”. Con nhiều tuổi hơn… bố mẹ Thế nhưng hàng chục năm qua, trường hợp “đầu thai” rùng rợn nhất mà mọi người thường nhắc đến là trường hợp xảy ra tại gia đình anh Khà Văn Ôn (bản Nà Sài). Biết chúng tôi muốn tìm hiểu về trường hợp bất thường trong gia đình, anh Ôn xúc động thắp nén nhang, thì thầm đến trước di ảnh cô con gái Khà Thị Dịu Hiền (SN 2007) khấn con bằng tiếng dân tộc Thái. Trong di ảnh trước bàn thờ là một bé gái kháu khỉnh, được anh giới thiệu là “con đầu thai” của mình. Anh Ôn nhẩm tính, nếu con mình còn sống thì đến nay đã được khoảng 5 tuổi 1 tháng. “Khi mới sinh ra cháu hoàn toàn bình thường như những đứa trẻ khác trong bản. Lạ là lúc lên 3 tuổi, ai hỏi “Cháu con nhà ai, ở đâu?” thì cháu lại chẳng nói tên vợ chồng tôi mà nói: “Tên bố là Lò Văn Chún, mẹ là Hà Thị Nguyên, anh chị là Lò Văn Ngọc, nhà ở xóm Vãng, trên thị trấn Mai Châu” (cách đó gần chục cây số). “Thực sự trước đó đến tôi cũng chẳng biết những người này là ai, chứ nói gì đến nhà người ta như thế nào”, vẫn lời anh Ôn buồn rầu thuật lại. Dù trước đó ở địa phương đã có những trường hợp “con đầu thai” nhưng anh chị vẫn không tin và chỉ nghĩ cháu còn nhỏ nên nói vu vơ. Thế nhưng thấy cháu nhắc nhiều quá thì buộc họ phải lần theo địa chỉ cháu “hướng dẫn” để tìm hiểu. Cặp vợ chồng vô cùng kinh ngạc vì cháu bé mới hơn 3 tuổi nhưng cháu kể chính xác tên những người trong gia đình này, còn còn nói rõ trước nhà có cây dừa, nhà rộng 3 gian và tả cụ thể đường vào nhà như thế nào, phải qua bao nhiêu khúc quẹo. Anh Ôn khi đó ướm hỏi con: “Vì sao con lại theo bố mẹ về đây?”. “Con đã ở nhà cũ nhiều năm thì bị đuổi đánh nên chạy ra khỏi nhà. Lúc ấy gặp mẹ đang nấu cơm bên đường nên con theo mẹ về”. Nghe con nói, anh chị giật mình, ngồi xâu chuỗi lại thời gian thì đúng là vào thời điểm đó anh chị đi công nhân làm đường trên địa bàn xóm đó và chị chuyên nấu cơm cho tổ công nhân. Đó cũng chính là thời điểm vợ anh mang thai. Anh kể tiếp, khi con gái mình được 4 tuổi thì cháu có những hành động rất lạ như lục tìm và cắt nát hết những tấm ảnh của mình. Thời gian sau cháu kên đau đầu gối, anh chị đưa cháu lên bệnh viện khám, qua chụp X quang, theo kết luận của bệnh viện cháu bị khuyết xương đầu gối và viêm khớp. Bệnh viện khuyên anh chị nên đưa cháu về Hà Nội chữa trị. Tại bệnh viện Nhi trung ương, các bác sĩ đã điều trị và bó bột rồi cho về, hẹn gia đình sau hai tuần cho cháu lên kiểm tra lại. Tuy nhiên, đến ngày 5/6/2010, thấy cháu bệnh tình không giảm lại kèm theo sốt cao, anh chị đưa cháu xuống khám ở bệnh viện K. Qua khám bệnh kết luận, các bác sĩ khuyên gia đình nên đưa cháu về nhà chăm sóc, vì cháu bị bệnh bạch cầu cấp (ung thư máu) hiện y học trên thế giới vẫn đang bó tay trước căn bệnh nan y này. “Có điều lạ là dù cháu đau thế nào nhưng cháu đều mím môi chịu đựng không để bố mẹ và mọi người trong gia đình biết. Ông ngoại đến làm vía (cúng vía theo phong tục địa phương) cho cháu thì cháu bảo: “Con không khỏi bệnh đâu, ông cho con đi chơi nhà các cô, các bác”. Đến hôm sau thì cháu mất”, anh Ôn thuật lại. Thế nhưng điều kinh hoàng nhất với vợ chồng anh Ôn xảy ra khi gia đình mời ông thầy mo trong bản đến làm lễ cúng ma cho con theo phong tục địa phương. “Ông thầy mo ban đầu gọi hồn là cháu thì kiểu gì cũng cúng không thành, phải đến khi gọi cháu là… chị thì mới ngồi làm lễ được. Thầy mo bấm tuổi rồi bảo chúng tôi: Người trời này hơn 40 tuổi, là con chúng mày nhưng còn… nhiều tuổi hơn cả chúng mày”, anh Ôn sợ hãi kể. Anh Ôn hiện đang là cán bộ UBND xã Chiềng Châu, anh buồn rầu cho biết: “Vợ chồng mình làm cán bộ nên cũng không tin vào những chuyện ma quái. Nhưng thật sự chuyện con mình là như vậy. Nó là đứa con đầu thai, nó chê nhà mình nghèo, nó không ở thì mình cũng đành phải chịu”. Để kiểm chứng câu chuyện của anh Ôn, chúng tôi cũng đã vượt quãng đường hơn 10 cây số tìm đến nhà anh Lò Văn Ngọc tại xóm Vãng được cho là người có cô em gái đã “đầu thai” làm con anh Ôn. Đúng như lời anh Ôn kể, đó là một căn nhà sàn 3 gian, phía trước nhà có cây dừa. Anh Ngọc cho biết: “Bố mẹ tôi chỉ sinh được hai anh em. Tôi sinh năm 1964, còn cô em gái sinh năm 1966 nhưng nó bị bạo bệnh mất sớm. Đêm con anh Ôn mất, chẳng hiểu vì sao mà cả gia đình tôi không ai ngủ được, cứ lục sục xuốt đêm. Về sau mới biết tin em gái mình đã đầu thai vào nhà dưới ấy”. Cơ quan chức năng cũng chưa thế giải thích Những “nghi án đầu thai” không phải là chuyện mới, và cũng đã từng có ý kiến cho rằng người ta dựng chuyện “đầu thai” để lợi dụng việc cho nhận con nuôi hay mục đích vụ lợi gì khác. Đem ý kiến này đến những người cao tuổi trong bản Chiềng Châu để hỏi, chúng tôi được cụ Hà Văn Thẩm (80 tuổi) cho biết, chuyện con đầu thai ở đây không phải giờ mới có, mà trước đây cũng đã có nhiều trường hợp như vậy. Trước năm 1954, thời lang đạo và thực dân Pháp cai trị, có những người vì nhận nhà lang làm nhà mình nên cả gia đình bị nhà lang hãm hại vì sợ tranh giành quyền thế, nhiều gia đình phải bỏ đi biệt xứ hoặc bị đánh đến chết. Còn bây giờ muốn nhận con nuôi thì Nhà nước mình có cấm đoán gì đâu mà họ phải bịa chuyện để lách luật?”. Một thầy lang cao tuổi khác trong xã cho biết: “Tôi đi chữa bệnh nhiều, gặp trường hợp như vậy nếu các cháu muốn nhận bố mẹ mà lại hay đau ốm luôn thì tôi cũng khuyên gia đình nên cho các cháu nhận. Điều lạ là hầu như các trường hợp con đầu thai đều rơi vào trường hợp con một và những bệnh các cháu mắc phải đều khó tìm ra nguyên nhân, nhưng khi nhận bố mẹ, anh em “kiếp trước” thì bệnh tình đều qua khỏi”. Ông Hà Trọng Lưu, Chủ tịch UBND xã Chiềng Châu cho biết: “Con luân hồi, đầu thai ở địa phương không phải là trường hợp cá biệt. Trong xã đã có nhiều trường hợp xảy ra và hai bên gia đình đều nhận anh em hoặc con nuôi. Tôi cũng nghe có nơi người ta nhận như thế cho hợp lý hóa việc nhận con. Nhưng ở Chiềng Châu, tôi khẳng định không có một trường hợp nào mang tính vật chất hay đánh đổi. Gần như những gia đình có con truyền kiếp đều có kinh tế khá hơn những gia đình các cháu nhận là gia đình kiếp trước”. Cũng theo Chủ tịch xã Hà Trọng Lưu, việc nhận con nuôi như thế đã diễn ra nhiều năm nay ở địa phương, dù xôn xao dư luận nhưng không gây ảnh hưởng xấu đến đời sống, phong tục tập quán của người Thái ở đây. “Vì vậy chúng tôi coi đó cũng là những câu chuyện hết sức bình thường giống như chuyện cây lúa trên nương, con thú trên rừng vậy. Có chăng bà con trong bản cũng chỉ nói: Thì ra con nhà ấy lại là con ông bà ở bản này, bản kia lộn về. Các gia đình sau đó đều nhận bố mẹ, anh em, con cái và coi nhau như người một nhà, quây quần đù bộc nhau qua sợi dây luân hồi - tiền kiếp”, nguyên văn lời ông Lưu. Trưởng phòng Tôn giáo (Sở Nội vụ tỉnh Hoà Bình), ông Nguyễn Trường Sơn cũng xác nhận: “Những trường hợp người dân gọi là “đầu thai” ở huyện Mai Châu là có thật. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Hoà Bình còn một vài trường hợp ở huyện Lương Sơn và Lạc Sơn. Tôi cũng đã từng đến tận nơi tìm hiểu nhưng kết quả chỉ là ngạc nhiên và không giải thích nổi. Có những đứa trẻ khi sinh ra chẳng đi đâu mà biết rõ gia đình nhà người khác cách hàng chục cây số như trong lòng bàn tay, như việc mình đã trải qua”. Theo ông Sơn, trong những trường hợp này dân gian sẽ dựa vào quan điểm Phật giáo để giải nghĩa. “Phật giáo không cho rằng con người chết là hết mà có linh hồn bất tử tiếp tục đầu thai vào kiếp khác. Cứ như thế con người vào vòng luân hồi không ngừng từ đời này qua đời khác, từ kiếp này sang kiếp khác. Con người của quá khứ là nhân của con người hiện tại, con người hiện tại là nhân của con người tương lai. Dù khoa học chưa chứng minh được quan niệm này là đúng hay sai, nhưng những người tin theo quan điểm Phật giáo thì vẫn cho rằng có kiếp trước – kiếp sau”, ông Sơn cho biết. (Theo PLVN)1 like
-
Mang lại ý nghĩa cho sự sống và cái chết Lời giới thiệu: Bài viết được trích từ một quyển sách của Đức Đạt-Lai Lạt Ma mang tựa đề "Tâm Thức Giác Ngộ, Những lời khuyên Trí tuệ cho con người ngày nay" (L'Esprit en Eveil, Conseils de Sagesse aux hommes d'aujourd'hui, nxb Presses du Chatelet, 2009. Phiên bản tiếng Anh: In My Own Words, nxb Hay House, 2008). Phần chuyển ngữ gồm toàn bộ một chương ngắn (chương 9, tr. 131-140) nêu lên những suy tư về sự sống và cái chết và những lởi khuyên của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giúp chúng ta phải sống và ra đi như thế nào. Tất cả chúng ta đều ít nhiều ray rứt về vấn đề : làm thế nào để tìm thấy sự thanh thản trong lúc sống cũng như khi cái chết xảy đến? Chết là một hình thức của khổ đau, một thứ kinh nghiệm mà tất cả chúng ta đều tìm cách tránh né, thế nhưng sớm hay muộn thì cái chết cũng sẽ đến với mỗi người trong chúng ta. Dầu sao thì đối diện với sự kiện đáng tiếc đó chúng ta vẫn có thể chọn cho mình một cách đối xử hầu giúp chúng ta đương đầu với sự sợ hãi. Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thản và điềm tĩnh trong giây phút lâm chung. Nếu biết cố gắng tạo cho cuộc sống của mình một ý nghĩa nào đó, thì đến giây phút hấp hối ta sẽ cảm thấy ít hối tiếc hơn. Xúc cảm phát sinh trong lúc hấp hối tùy thuộc vào cách sống của chính mình khi còn khoẻ mạnh. Sự tu tập hướng vào những khoảng thời gian vô tận xuyên qua vô lượng kiếp sẽ mở ra cho chúng ta những tầm nhìn xa hơn… Khi chúng ta chấp nhận sự hiện hữu của mình gồm có nhiều kiếp sống nối tiếp nhau, thì cái chết đối với chúng ta cũng chẳng khác gì như thay quần áo thế thôi. Khi quần áo cũ hư nát thì lại thay quần áo mới. Cách suy nghĩ ấy sẽ tác động và ảnh hưởng đến phản ứng của ta khi phải đối đầu với cái chết, nó giúp ta nhận thấy cái chết chỉ là một thành phần bất khả phân của sự sống. Các cấp bậc thô thiển nhất của tâm thức lệ thuộc vào não bộ, chúng tiếp tục vận hành cho đến khi nào não bộ vẫn còn duy trì được sự hoạt động. Khi não bộ ngưng hoạt động thì phần tâm thức thuộc các cấp bậc thô thiển trên đây cũng sẽ bị hủy diệt theo. Não bộ tạo ra các điều kiện cần thiết giúp tâm thức phát lộ những cảm nhận thô thiển. Đối với tâm thức thì các nguyên nhân chính yếu tạo ra nó phát sinh từ dòng tiếp nối liên tục của tâm thức tinh tế, và dòng tiếp nối đó không có khởi thủy. Người thân chung quanh nên nhắc nhở người hấp hối cố gắng phát lộ một thể dạng tâm thức tích cực và duy trì thể dạng đó cho đến khi nào các cấp bậc tri thức thô thiển tan biến hết (tri thức thô thiển gồm các giác cảm, tư duy kể cả sự nhận thức thông thường). Khi đã bắt đầu chuyển sang thể dạng tri thức tinh tế, thì khi ấy người hấp hối chỉ còn biết trông cậy vào tác động phát sinh từ các xu hướng tồn lưu từ trước (tức là nghiệp do mình tạo ra). Khi đã bước vào giai đoạn này thì thật vô cùng khó khăn cho người chung quanh nhắc nhở người hấp hối về các thể dạng đạo hạnh cần phải giữ. Vì thế thật hết sức quan trọng cần phải tập luyện thế nào để tạo ra tri thức trong sáng của cái chết (còn gọi là ánh sáng trong suốt của cái chết) ngay từ lúc còn trẻ để quen dần với nó, hầu sau này giúp ta đương đầu với sự tan biến của tâm thức. Điều đó có thể thực hiện được nhờ vào cách lập đi lập lại các thể dạng của quá trình cái chết nhờ vào phép quán tưởng (tức phép thiền định về quá trình diễn tiến của cái chết). Tóm lại thay vì chỉ biết sợ hãi thì ta nên hăng say suy tư về chuyện ấy. Sau nhiều năm luyện tập kiên trì nhất định ta sẽ cảm thấy mình có đầy đủ khả năng để đối đầu một cách hiệu quả với sự thách đố của cái chết (có nghĩa là khi đã nắm vững được quá trình của cái chết thì ta không còn sợ hãi gì nữa khi cái chết xảy đến thật sự, và hơn thế nữa ta còn có thể hướng quá trình ấy vào sự tu tập để tự giải thoát và không còn phải tái sinh). Vượt lên trên sự sợ hãi Khi đã nắm vững được các thể dạng thâm sâu và tinh tế của tâm thức nhờ vào thiền định (nhận biết và theo dõi được các thể dạng tâm thức thuộc quá trình của cái chết), thì nhất định ta sẽ chủ động được một cách hữu hiệu cái chết của chính mình. Tất nhiên điều ấy chỉ có thể thực hiện được sau khi đã đạt được một cấp bậc tu tập nào đó. Trong tan-tra thừa có nhiều phép tu tập rất cao, chẳng hạn như các phép hoán chuyển tri thức (còn gọi là chuyển di thần thức), tuy nhiên tôi vẫn tin rằng phép luyện tập hữu hiệu nhất trong lúc hấp hối là cách phát huy một tâm thức tỉnh giác. Đấy là phép luyện tập mạnh hơn hết so với tất cả các phép luyện tập khác. Dù rằng cách tu tập hằng ngày của tôi là thiền định từ sáu đến bảy lần về quá trình của cái chết và kèm theo cả các phép luyện tập tan-tra khác, thế nhưng tôi vẫn tin rằng đến khi hấp hối thì thể dạng tâm thức tỉnh giác là thể dạng dễ nhớ hơn hết cho tôi. Đấy cũng là phép tập luyện tâm linh mà tôi quan tâm nhất. Cũng xin ghi nhận là thiền định về cái chết cũng là một cách chuẩn bị cho mình trước khi cái chết thật sự xảy đến, sự chuẩn bị đó sẽ giúp cho ta bớt sợ hãi hơn. Dù chưa thật sự chuẩn bị sẳn sàng để đối đầu với cái chết cụ thể của tôi, thế nhưng đôi khi tôi vẫn tự hỏi rồi đây tôi phải đối đầu với nó như thế nào khi thật sự nó xảy đến. Thật vậy nếu cuộc sống của tôi còn kéo dài thêm thì nhất định tôi sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy là tôi sẽ còn thực hiện được nhiều việc. Thế nhưng ý chí muốn được tiếp tục sống đó của tôi cũng phải tương đương với sự hăng say tập luyện để đối đầu với cái chết. Suy tư thường xuyên về cái chết là một yếu tố không thể thiếu sót trong việc tu tập Phật giáo. Sự suy tư đó mang nhiều sắc thái khác nhau. Trước hết là phải thường xuyên thiền định về cái chết, đấy là cách giúp ta không quá bám víu vào sự sống và những quyến rũ của nó. Phương pháp tu tập thứ hai là nhẩm đi nhẩm lại quá trình của cái chết để quen dần với nó hầu giúp ta nhớ lại dễ dàng hơn các giai đoạn mà tâm thức sẽ phải gặp trong lúc hấp hối. Sau khi các cấp bậc thô thiển nhất tan biến, thì tâm thức tinh tế sẽ hiển lộ một cách rõ rệt hơn. Thật hết sức quan trọng phải thiền định về quá trình của cái chết hầu giúp ta quán nhận được thể dạng tâm thức tinh tế một cách minh bạch. Cái chết là một bằng chứng cho thấy thân xác chỉ hàm chứa một tiềm năng giới hạn. Khi nó không còn đủ sức để duy trì sự sống nữa thì ta sẽ chết, và sau đó ta mang một thân xác mới. Cá thể hay cái tôi căn bản, biểu trưng cho một sự kết hợp giữa thân xác và tâm thức sẽ tiếp tục tồn tại sau khi chết (xin chú ý đây là một cách giảng dễ hiểu bằng cách nêu lên "cá thể" hay "cái tôi" trong lãnh vực quy ước, biểu trưng cho cấu hợp thân-xác-tâm-thức, bởi vì khái niệm về "vô ngã tuyệt đối" khá khó để nắm bắt cho tất cả mọi người), và mặc dù phần thân xác mang tính cách cá thể có tan biến hết thì thân xác tinh tế vẫn tồn tại. Nhìn trên khía cạnh đó thì một cá thể không có khởi thủy cũng không có chấm dứt, nó hiện hữu cho đến khi nào đạt được Phật tính. Dầu sao đi nữa thì chúng ta cũng cứ vẫn sợ chết. Ngoại trừ trường hợp khi còn sống ta từng thực hiện được nhiều điều tích cực bảo đảm cho tương lai tốt đẹp của mình trong kiếp sống sau, tức có nghĩa là sẽ không tái sinh trong một thể dạng hiện hữu bất thuận lợi. Trong cuộc sống này dù cho ta chỉ là một người tị nạn bị cắt đứt mọi liên hệ với quê hương mình thì ta vẫn có thể tiếp tục sống còn trong lòng tập thể nhân loại, và vẫn có thể trông cậy vào sự giúp đỡ cũng như sự tương trợ giữa con người với nhau. Thế nhưng khi chết, ta sẽ rơi vào một cảnh huống hoàn toàn khác lạ. Các kinh nghiệm thường nhật thu đạt được trong cuộc sống hiện tại sẽ không còn giúp ích được gì nữa cho ta khi hấp hối. Nếu ta không chuẩn bị cẩn thận thì tất nhiên mọi sự xảy ra sẽ không được suôn sẻ. Luyện tập tâm thức là cách chuẩn bị cho cái chết. Trên một cấp bậc nào đó sự luyện tập ấy là cách phát huy lòng từ bi chân thật và nhiệt thành, hầu thực hiện những hành động tích cực hướng vào sự giúp đỡ các chúng sinh khác (tích lũy đạo hạnh và những điều xứng đáng). Ở một cấp bậc khác, thì đấy là cách luyện tập để chủ động tâm thức của mình (phát huy trí tuệ), và đấy cũng là cách chuẩn bị sâu xa hơn cho tương lai. Sự tập luyện kiên trì sẽ giúp ta chủ động được tâm thức của mình và đấy cũng là mục đích quan trọng nhất của thiền định. Những ai hoàn toàn không tin vào bất cứ thứ gì sau khi chết thì cũng nên xem cái chết là một thành phần đơn giản của sự sống. Sớm hay muộn thì ta cũng phải đối đầu với nó, cách suy nghĩ đó ít ra cũng có thể giúp ta xem cái chết như một sự kiện tự nhiên. Dù cho ta cố tình tránh né và nhất định không nghĩ đến nó đi nữa, thì nào ta có tránh được nó đâu. Để giải quyết vấn đề nan giải ấy, ta có hai giải pháp. Thứ nhất là không nghĩ đến cái chết, tống cổ nó ra khỏi tâm trí - ít ra thì giải pháp này cũng giúp cho tâm trí nhẹ nhõm được đôi chút. Thế nhưng giải pháp ấy lại quá ư phiêu lưu, lý do là vấn đề vẫn còn nguyên và sớm muộn gì thì ta cũng sẽ chạm trán với cái chết. Giải pháp thứ hai là nhìn thẳng vào vấn đề và suy tư thật mãnh liệt đến cái chết. Tôi quen biết một số quân nhân và họ nói với tôi rằng trước khi lâm trận thì họ cảm thấy có nhiều can đảm hơn. Nếu thường xuyên nghĩ đến cái chết thì tâm thức ta cũng quen dần với nó và bớt sợ nó hơn, đến khi cái chết thực sự xảy đến ta sẽ ít cảm thấy bất ngờ và chao đảo hơn. Theo tôi thì sự kiện nghĩ đến cái chết và luôn nhắc nhở đến nó là một điều lợi ích. Chúng ta nên sống một cuộc sống có ý nghĩa. Kinh sách cho rằng sự hiện hữu của chúng ta cũng tương tự như những đám mây trên bầu trời mùa thu. Ta cứ nhìn vào các diễn viên đang trình diễn một vở bi kịch trên sân khấu thì sẽ rõ, sự xuất hiện và biến mất của họ cũng chẳng khác gì với sự sinh và cái chết của con người. Các diễn viên thay hết y phục này sang y phục khác. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, thế mà hình tướng của họ biến dạng không biết bao nhiêu lần. Sự hiện hữu của ta cũng thế mà thôi. Sự suy sụp của một con người cũng chẳng khác gì một tiếng sét nổ trên không trung hay một khối đá lăn xuống từ một bờ vực thẳm. Trên triền dốc nước bao giờ cũng đổ xuống, không chảy ngược lên được. Sự sống âm thầm rảo bước, thế nhưng hình như ta cứ vẫn vô tình không hay biết. Nếu ta tin rằng việc tu tập tâm linh sẽ mang lại một sự ích lợi nào đó thì biết đâu ta cũng có thể nghĩ đến các kiếp sống tương lai đang chờ đợi mình, thế nhưng thói thường thì không phải thế, từ trong thâm tâm ta chỉ lo đến việc thực hiện các mục tiêu trước mắt trong cuộc sống hiện tại này. Chính vì thế mà mọi sự hoang mang (vô minh) xâm chiếm lấy ta và buộc chặt ta vào chu kỳ hiện hữu. Thật thế ta đang phung phí kiếp sống này của ta. Ngay lúc vừa mới sinh ra đời ta đã bắt đầu tiến dần đến cái chết. Thế nhưng trong khoảng thời gian tốt đẹp nhất của cuộc sống thì ta chỉ lo tích trữ đủ mọi thứ thực phẩm, mua sắm quần áo, tìm thêm bạn bè. Đến khi cái chết xảy đến, nào đâu ta có đem theo được những thứ ấy. Ta dấn thân trong một cuộc hành trình đơn độc đưa ta sang một thế giới khác, không một người đồng hành bên cạnh. Chỉ có một điều duy nhất có thể mang lại lợi ích cho ta: ấy là những gì tích cực mang lại từ sự tu tập trước đây của ta, dù sự tu tập ấy được thực hiện theo phương cách nào đi nữa thì cũng đều lưu lại những vết hằn ăn sâu vào tâm thức của mình (tức là nghiệp lực). Nếu không muốn phung phí một cách vô ích cuộc sống này thì ta nên hướng nó vào việc tu tập, tức có nghĩa là phải biết suy tư về vô thường và các cảnh huống có thể xảy ra cho cái chết của ta, và ý thức được khi vừa mới sinh ra đời thì thân xác của ta đã phải gánh chịu cái bản chất vô thường của chính nó, và chắc chắn là nó sẽ không thể nào tránh khỏi sự tan rã. Sử dụng cái chết để tu tập tâm linh Việc tu tập không nhất thiết chỉ mang mục đích tìm kiếm một số lợi ích trong kiếp sống hiện tại mà đúng hơn là nhắm vào các kiếp sống tương lai sau cái chết. Trở ngại lớn nhất ngăn chận sự tu tập chính là cảm tính cho rằng mình còn sống lâu. Thái độ đó có thể hình dung qua hình ảnh một người quyết tâm xây dựng vĩnh viễn sự sống của mình tại một nơi nào đó. Người ấy lăn xả vào những sinh hoạt thường tình của thế tục, chẳng hạn như vơ vét của cải, xây cất nhà cao cửa rộng, gieo trồng gặt hái, v.v... Trái lại đối với một người biết quan tâm đến các kiếp sống sẽ xảy ra sau này, thì họ sẽ có thái độ của một người đang chuẩn bị đi xa. Một người du hành thận trọng sẽ chuẩn bị trước để đối phó với các khó khăn có thể xảy ra, và nhất định họ sẽ đến đích. Càng suy tư về cái chết lại càng giúp ta ít bị ám ảnh hơn bởi những gì thuộc vào sự sống này, dù đấy là danh vọng hay ngợi khen, của cải hay địa vị. Một người tu tập suy tư về cái chết trong mục đích mang lại những gì thiết thực cho sự hiện hữu của chính mình, đương nhiên sẽ phát huy được một nghị lực khả dĩ mang lại an bình và hân hoan cho những kiếp sống tương lai. Tri thức của cái chết (tức tri thức xảy ra trong khi quá trình của cái chết đang diễn tiến) có thể tạo ra được bằng hai phương pháp thiền định: tức là phép thiền định thông thường và phép thiền định bằng sự phân tích. Dù sao thì trước hết cũng phải chấp nhận bằng lý trí là cái chết không thể tránh khỏi được. Đấy không phải là một thứ luận thuyết tối nghĩa mà đúng hơn là một sự kiện hiển nhiên có thể quan sát được. Người ta ước tính vũ trụ đã được sinh ra cách nay năm tỉ năm, và loài người hiện hữu từ một trăm nghìn năm. Vậy qua cái khoảng thời gian đằng đẳng ấy, đã có người nào thoát chết hay chưa? Cái chết nhất định không thể tránh khỏi, dù có trốn xuống đáy đại dương hay bay bổng lên trời thì cũng không thoát được. Bất kể ta là ai, nhất định ta phải chết. Staline và Mao có phải là hai nhân vật uy quyền nhất trong thế kỷ XX hay không, thế nhưng cả hai cũng chết, và hình như cả hai đều rất khiếp sợ và vô cùng khổ sở khi cái chết gần kề. Lúc còn sống họ là những người cai trị độc tài, chung quanh họ đám hầu cận và bề tôi xun xoe và sẵn sàng tuân lệnh, họ chỉ cần dùng một ngón tay hay một cái liếc mắt là cũng đủ để sai khiến đám người ấy. Họ sử dụng quyền hành một cách thật tàn ác, không tha thứ bất cứ ai tỏ ra không tùng phục họ. Thế nhưng trước cái chết, tất cả những người mà trước đây họ đặt hết tin tưởng và tất cả những gì mà họ hằng trông cậy - uy quyền, khí giới, quân đội - tất cả đều không còn ích lợi gì nữa. Trong hoàn cảnh ấy ai mà chẳng khiếp sợ. Tập luyện phát huy tâm thức của cái chết [bằng thiền định] thật lợi ích: nó [gián tiếp] mang lại ý nghĩa cho sự sống của chính mình, có nghĩa là đối với mình thì sự an bình và niềm hạnh phúc lâu bền sẽ trở nên quan trọng hơn những thú vui hời hợt khác. Luôn nhớ đến cái chết là một cách đập tan các xung năng tiêu cực và các xúc cảm bấn loạn bằng những nhát búa thật mạnh. Muốn khơi động ý thức về cái chết trong tâm thức thì trước hết phải ý thức được bản chất bất định của nó. Có một câu ngạn ngữ như sau: "Giữa ngày mai và một kiếp sống mới, không thể biết được cái nào sẽ xảy đến trước với ta ". Tất cả chúng ta đều hiểu rằng cái chết nhất định sẽ xảy ra một ngày nào đó, thế nhưng chúng ta lại cứ tin rằng cái chết vẫn còn xa, và đấy chính là trở ngại tạo ra mọi thứ khó khăn. Chúng ta thường xuyên bị bủa vây bởi các lo toan vật chất. Chính vì thế mà phải suy tư về cái chết. Kinh sách xưa cho biết rằng không thể đoán trước được kiếp sống của con người trong thế giới này sẽ kéo dài bao lâu, nhất là trong thời buổi nhiễu nhương này thì lại còn khó hơn nữa. Cái chết không tuân theo một quy luật hay một mệnh lệnh nào cả. Bất cứ ai cũng đều có thể chết vào bất cứ lúc nào, dù họ đã già hay còn trẻ, giàu sang hay nghèo khó, bệnh tật hay đang khoẻ mạnh. Không thể nào nắm vững hết các cảnh huống đưa đến cái chết. Nhiều người đang khỏe mạnh không ốm đau gì cả thế nhưng bỗng ngã lăn ra chết một cách thật bất ngờ, trong khi ấy các người đang đau ốm liệt giường thì lại vẫn chưa chết. Nếu đem so sánh giữa con số thật lớn các nguyên nhân đưa đến cái chết và con số thật nhỏ các nguyên nhân bảo toàn sự sống, thì chúng ta sẽ hiểu ngay tại sao cái chết lại hết sức bất định. Chúng ta trân quý cái thân xác con người của chúng ta và tin rằng nó vẫn còn cứng cáp và còn đủ sức chống chỏi được lâu. Thế nhưng thực tế thì lại thường không đi đôi với sự mong ước của chúng ta. Nếu đem so sánh thân xác của mình với đá hay sắt thép thì sẽ thấy ngay là nó mong manh hơn nhiều. Chúng ta ăn để duy trì sự sống và bảo vệ sức khoẻ, thế nhưng trong một số trường hợp thì chính thức ăn lại là nguyên nhân làm cho ta ốm đau và đưa đến cái chết. Tóm lại, không có gì bảo đảm là ta sẽ sống mãi mãi. Ta lo sợ cái chết và xem đấy là một sự chấm dứt cuối cùng của sự sống. Tệ hơn nữa là những gì mà ta gom góp với tất cả hơi sức của mình - nào tài sản, quyền lực, uy danh, bạn hữu hay gia đình - tất cả đều trở nên vô ích không mang lại một sự giúp đỡ thiết thực nào trong những giây phút hấp hối. Dù cho ta là một người đầy quyền lực, dưới tay có cả một quân đội hùng mạnh bảo vệ, thế nhưng khi cái chết xảy đến thì toàn thể đám quân đội ấy cũng chẳng làm gì được. Có thể ta là một người giàu có, sắm được những chiếc xe lộng lẫy, thế nhưng khi đã ngã bệnh và cái chết gần kề thì lúc ấy sẽ không còn cách nào tìm được ai đủ sức cứu ta khỏi chết để bỏ tiền ra mà thuê. Khi phải rời bỏ thế giới này, ta bỏ lại cả tài sản, một đồng xu cũng không mang theo được. Người bạn thân thiết nhất của mình cũng không đi theo mình được. Ta sẽ đơn độc đương đầu với cái thế giới bên kia. Tóm lại chỉ có những gì do sự tu tập mang lại mới có thể giúp đỡ cho mình mà thôi. Thân xác của ta thật quý giá. Ngay từ lúc thụ thai nó đã là người bạn đồng hành vững chắc và đáng tin cậy nhất của ta. Ta cố gắng tối đa để chăm sóc cho nó, cho nó ăn vì sợ nó đói, cho nó uống vì sợ nó khát. Ta tìm cách để nghỉ ngơi khi nó mệt mỏi. Ta sẵn sáng làm bất cứ gì để trau chuốt nó, mang lại mọi thứ tiện nghi cho nó, bảo vệ nó. Thế nhưng trên một khía cạnh khác cũng nên thành thật mà nói: thân xác chính là một kẻ hầu cận trung thành, luôn tìm cách chiều chuộng mình. Thí dụ như sự hoạt động của quả tim chẳng hạn, tuy đơn giản nhưng thật ra sự hoạt động ấy là cả một sự tuyệt vời. Trái tim làm việc không ngừng, có thể nói là không bao giờ ngưng nghỉ dù cho ta đang làm gì, đang thức hay đang ngủ. Thế nhưng khi cái chết xảy ra thì cái thân xác tuyệt vời ấy sẽ bỏ rơi ta. Tri thức (consciousness) của ta và thân xác tách rời nhau, và cái thân xác quý báu của ta trước đây trở thành một thây ma thật ghê tởm. Vì thế, đối diện với cái chết, sự giàu sang và của cải, bạn bè và người thân thuộc, kể cả thân xác của chính mình, tất cả đều không giúp ích cho mình được gì nữa. Chỉ có một thứ duy nhất có thể giúp ta đối đầu với sự xa lạ đang chờ đón ta, ấy là hạt giống đạo hành mà ta đem gieo vào dòng tri thức luôn chuyển động của mình. Hạt giống ấy chính là ý nghĩa của sự sống mà chỉ có sự tu tập mới có thể mang lại cho ta. Vào giây phút hấp hối nếu nhớ lại được thể dạng tỉnh giác của tâm thức sẽ tức khắc mang lại cho ta sự lắng dịu và an bình trong tâm thức (ý thức được ý nghĩa của cái chết, giữ được sự thanh thản, phát lộ được lòng tư bi...). Phát huy một thái độ đạo đức trong khi quá trình của cái chết đang diễn tiến sẽ tạo ra những ảnh hưởng tốt mang lại một sự tái sinh thuận lợi. Vì thế đối với một người tu tập Phật giáo, nếu muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa thì phải biết phát huy những thể dạng tâm thức đạo hạnh, vì đấy là những gì sau này có thể giúp ta đối đầu với cái chết. Những cảm nhận tích cực hay tiêu cực của ta trong giây phút lâm chung tùy thuộc vào cách cư xử trong cuộc sống hằng ngày của mình từ trước. Cuộc sống của ta phải hàm chứa một ý nghĩa nào đó, ta phải tạo ra cho mình một thái độ tích cực thoát ra từ hơi ấm tình người và niềm hạnh phúc trong ta. http://www.daobingan.com/news/?type=news&gid=19&nid=811 like
-
=========================================Vụ sát hại nhà báo Hoàng Hùng: Hung thủ ra đầu thú Chủ Nhật, 20/02/2011 - 23:41 22 giờ ngày 20/2, bà Trần Thúy Liễu, vợ nhà báo Hoàng Hùng đã đến cơ quan điều tra đầu thú chính mình đã sát hại nhà báo Hoàng Hùng. Tuy nhiên bà Liễu chưa khai lý do vì sao mình sát hại chồng. Bộ Công an tham gia điều tra vụ nhà báo Hoàng Hùng Nhà báo Hoàng Hùng không tự tử Đám tang nhà báo Hoàng Hùng: Nỗi đau xé lòng... Đến 23 giờ cơ quan điều tra vẫn đang tạm giữ bà Liễu để điều tra. Thông tin ban đầu, lúc chiều khi làm việc với cơ quan công an trở về, bà Liễu khóc và ôm các con. Thấy vậy, chị bà Liễu hỏi thì bà tự thú chính mình đã giết chồng và chị bà Liễu đưa bà đến cơ quan điều tra để đầu thú. Bà Trần Thị Thúy Liễu (giữa) trong lễ tang của chồng. Ảnh: NLĐO Theo Người Lao động ========================================= Dự báo chính xác. Đến ngày bị bắt là ngày thứ 8. Nhưng theo quẻ độn thì không phải chỉ một mình bà này làm. Không loại trừ khả năng người đàn bà này nhận tội thay, hoặc cũng có thể nợ nhiều quá! Vào tù trốn nợ?! Lời thú tội này còn che dấu nhiều uần khúc bên trong. Giờ Thìn ngày 19. Tháng Giêng Tân Mão: Quẻ Sinh Lưu Niên.1 like
-
Những vị Đạt lai Lạt Ma Tây Tạng sau khi chết thì - theo họ - đầu thai và các Lạt ma cấp dưới bắt đầu đi tìm hóa thân của Đạt Lai Lạ Ma để kế vị. Có khi họ tìm được hóa thân kiếp sau của xếp tận.....bên Tây. Họ phải cử phái đoàn sang tận bên Tây để thỉnh hậu thân Đạt Lai Lạt Ma về kế vị. Đại khái vậy. Điều này chứng tỏ họ phải có phương pháp để xác định hậu thân của Đạt Lai Lạt ma đã đầu thai. Muốn biết những bí ẩn này thì hỏi họ xem.1 like