• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 22/01/2012 in all areas

  1. Suy ngẫm tâm sự đầu năm Nhâm Thìn Năm nay theo sách Tàu thì vận khí thuộc Thủy, Nhâm cũng Thủy, Thìn Thổ mộ của Mộc. Riêng tôi - theo Lạc Thư Hoa giáp - xác định rằng: Năm nay vận khí thuộc Hỏa. Thiên can Nhâm thủy khắc vận khí Hỏa gọi là Thiên khắc Địa xung. Hóa giải điều này nên dùng màu xanh lá thuộc Mộc. Muốn phát tài dùng màu vàng theo Lạc Thư hoa giáp vì Hỏa sinh Thổ. Nhưng nếu ai tin sách Tàu thì chê màu này không dùng vì vàng Thổ khắc Thủy, cực vất vả. Nhưng tôi theo Lạc Thư hoa giáp nên năm nay dùng toàn màu vàng để trưng bông kiểng ngày Tết. Mai vàng đã đành, thược dược, hương dương, cúc vàng ....và tất cả hoa gì màu vàng bán rẻ là mua tất. Bà xã tôi đang đi mua. Mua hôm nay cho nó rẻ - 29 bắt làm 30 mà. Năm cùng tháng tận, ngày tàn, hoa rẻ như đem cho.. Nếu tôi đúng - Vận khí thuộc Hỏa - thì năm tới tôi sẽ có vài thành tựu nhất định. Nếu sai - Tức vận khí thuộc Thủy - thì tiêu luôn.
    3 likes
  2. Cảm ơn Hạ Quốc Huy. Nhân dịp năm mới, chúc Hạ Quôc Huy và gia đình một năm an khang thịnh vượng, vạn sư như ý, phát tài phát lộc muôn sự thành công. Nhân Đại Phúc mần thơ. Nên nổi hứng cũng mạn phép mần một bài. Sắp tết năm Rồng. Năm nay thiên hạ gọi năm rồng. Phố xá nhìn ra thấy cũng đông. Dáo dác chợ hoa bày hàng Tết. Lao xao hàng xóm tiễn ông Công. Giao thừa bận rộn lo hương khói. Năm hết tiền đâu có khổ không? Dăm chục lì xì vui lũ trẻ. Nhang tàn, nước lạnh thẹn tổ tông.
    2 likes
  3. Chuyện lạ ở xứ nuôi gà khổng lồ Cập nhật lúc16/06/2011 01:30:00 PM (GMT+7) Bịch, bịch… những bước chân nặng nề, lịch bịch nện thồm thộp trên nền đất ngỡ như con trẻ chạy nhẩy lò cò hay đánh bi đánh đáo khiến tôi giật mình ngoảnh lại. Lũ gà trống con nào con nấy to cỡ dăm cân rưỡi đến trên sáu cân, mào đỏ cục, thân mình trùng trục những thịt là thịt đang lật đật chạy về đón những hạt ngô, thóc vừa tãi ra từ tay ông chủ… Có lẽ chúng là những con gà khổng lồ của xứ Việt này. Khắp đất Việt Nam có lẽ gà Hồ xứng đáng với danh hiệu đệ nhất đô vật bởi trọng lượng đáng kinh ngạc của chúng. Giống gà này do dân làng Hồ (Lạc Thổ, thị trấn Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) nuôi gắn liền với tục lệ thi gà luộc vào ngày mồng bốn tháng giêng, trong lễ “khao trầu”. Lệ làng, dân Lạc Thổ được chia ra các giáp. Trong mỗi giáp sẽ họp bàn, quyết định chấm xem bao nhiêu người được nuôi gà trống thờ khao trầu. Người được chọn phải rất mát tay chăn nuôi, tính tình cẩn thận đến tỉ mỉ và quan trọng là đạo đức thuộc hàng sáng không một tì vết. Gà khổng lồ ở Đông Hồ. Thế nên ai được làng giáp “chấm” để nuôi gà lễ đều coi đó là một vinh dự cực lớn. Lễ khao trầu diễn ra tưng bừng, sáng mồng bốn người người nô nức vòng trong, vòng ngoài đen đặc xem cảnh những cụ ông phơ phơ râu bạc, cân gà đã luộc chín xem gà giáp nào nặng nhất để mà lĩnh thưởng. Phần thưởng nhỏ thôi nhưng ý nghĩa tinh thần của nó cực lớn khiến cho giáp nào giáp nấy đều háo hức, bộn rộn cả năm trời chăm sóc đàn gà cưng của mình theo những phương cách bí mật nhất. Tương truyền có những con gà Hồ khi còn sống nặng tới 7-8 kg, tức bằng hai con ngỗng lớn. Không chỉ nổi tiếng là giống vật to, đẹp một cách thanh nhã đã đi vào dòng tranh Đông Hồ mà gà Hồ thịt còn rất thơm, ngon, đậm, thường dùng làm quà biếu cho những nơi ân tình. Ông Nguyễn Đăng Chung - Hội trưởng Hội gà Hồ kể chuyện ngày xưa, các cụ nuôi gà Hồ bằng bí kíp cơm nóng nghiền cùng cám xay, nặn cỡ ngón tay rồi nhồi cho gà như các bà phe phẩy vẫn nhồi ngan, nhồi vịt ăn bánh đúc trước khi đến cổng chợ vậy. Loại hỗn hợp nóng sốt và giàu dinh dưỡng trên sẽ giúp cho gà tiêu hóa rất nhanh, cái mề chẳng mất mấy thời gian co bóp đồng hóa thức ăn, khiến cho trọng lượng gà chẳng mấy chốc hóa khổng lồ đến ngoại cỡ trong họ hàng nhà hai chân. Giờ đây, chẳng biết do giống gà đã thoái hóa hay không còn ai nhồi kiểu này nên con gà kỷ lục mà ông Nguyễn Đăng Chung nuôi được cũng chỉ cỡ 6,5kg. Để vỗ đạt đến trọng lượng lý tưởng ấy, ông phải mất cỡ 2-3 năm nuôi theo dạng thả vườn và nhất là chỉ cho ăn thóc, ngô chứ tuyệt nhiên không dùng cám công nghiệp thì thịt mới thơm, ngon, giòn sật đúng chất gà Hồ. Ông Chung kể” “Gà Hồ do có trọng lượng khác thường nên cách chế biến cũng cầu kỳ. Chúng được làm lông, mổ moi và giàng (tạo dáng bằng các thanh tre buộc lại) theo thế quỳ, bay, phục… luộc trong nồi trăm lít dễ đến hơn nửa giờ mới sôi. Khi nồi luộc sôi được một chốc phải tắt bếp ngâm đến khi gà tự chín để khỏi bị nứt da, xấu dáng, thịt giữ nguyên vị ngọt đậm đà. Con gà lúc ấy đem bày lên bàn thờ gia tiên nom bệ vệ, uy nghi như một con đại bàng đang xòe cánh. Ngoài món luộc, gà Hồ còn chế biến được rất nhiều món mà đặc sắc nhất phải kể đến món nem… da gà vô tiền khoáng hậu. Gà Hồ vốn có lớp da rất dày tựa bì lợn, một con gà cỡ trên 5kg lột cũng phải được 1kg da. Da ấy được đem luộc chín, thái con chì nhỏ rồi bóp với thính làm bằng đỗ tương rang, muối, gia vị, lá chanh… làm thành món nem ăn sậm sựt, thơm ngon, rất khoái khẩu và vô cùng tốn rượu. Thịt gà Hồ xào lăn, nấu đông hay đem nấu xáo đều ngon có tiếng. Ngay cả đến bộ xương cùng cổ cánh đem hầm đỗ đen, ngải cứu ăn cũng đặc vị Đông Hồ”. Gà Đông Hồ lớn hơn hẳn so với giống gà bình thường. Trong sân nhà ông Nguyễn Thế Trà - một người cả đời đắm đuối bên những con vật hai chân ngoại cỡ quê mình, tôi mê mải nhìn những con gà khổng lồ, đi đứng lộc ngộc, thỉnh thoảng lại cất cao chiếc cần cổ vĩ đại gáy giọng ồ ồ vang vọng từ đầu làng, cuối xóm. Tiếng gáy có thể làm co rúm những con gà mái hoa mơ đang tuổi ghẹ trống ở nhà hàng xóm. Ông Trà bảo, giống gà này 3,8-4kg còn chưa mọc đủ lông, chưa biết ghẹ mái, thịt chưa ngọt nên luộc hãy còn nát. Cứ phải đến cỡ 4,5-5kg mới đúng chất gà Hồ. Nói rồi ông vào chuồng bắt cho tôi xem con gà trống giống nặng trên 5,5kg. Đang bị nhốt chồn chân, mỏi cẳng, lại thấy người lạ đến gần lãnh địa nên nó cứ bươi bả trong tay ông lão chực chạy khiến ông mấy phen suýt ngã nhào phải gọi cả con trai xắn tay áo lại phụ giúp. Kỷ lục về gà của ông Trà từng nuôi là con đã cắt tiết, làm lông, mổ moi sạch sẽ lòng mề cân móc hàm lên cũng được 5kg tương đương khi cân hơi cỡ gần 7kg. Hiện nay, do thị trường của những người sành điệu, lắm tiền, nhiều của rất chuộng chất lượng gà Hồ nên ngay cả chính dân trong vùng cũng ít khi được thưởng thức đặc sản quê mình mà toàn bóp mồm, nhịn miệng để bán cho giới nhà giàu ở Hà Nội. Một con gà Hồ bóc trứng giá cỡ 50-60.000đ, một kg gà thịt khoảng năm rưỡi, hai năm tuổi giá từ 200-250.000đ/kg nên một con gà cũng xêm xêm 1,2-1,5 triệu đồng. Ấy vậy mà muốn ăn được thưởng thức một miếng thịt gà Hồ phải đặt từ lúc giêng, hai bởi không có nhiều, có sẵn mà bán. Mỗi con gà, đã có cả “chồng gạch” đặt sẵn từ khi chúng còn chưa nhổ giò, bốc dáng. Do thời gian nuôi lâu, cần không gian rộng để cho chúng vẫy vùng cứng gân, chắc thịt nên nuôi một lứa gà Hồ người ta nuôi được tới 3-4 lứa gà thường. Hiệu quả kinh tế thấp, chậm lớn, chỉ có ai máu mê lắm, hoài cổ lắm mới nuôi gà Hồ. Vậy nên, có câu thơ: “Mến yêu Lạc Thổ thì về/ Làng em làm mã có nghề chăn nuôi/ Đất vui nhiều lợi thảnh thơi/ Gà chăn, chim thả, chờ thời mỗi niên”… Giờ gà Hồ được liệt vào hàng quý hiếm đến mức Viện Chăn nuôi quốc gia phải cử cả chuyên gia bảo tồn về đánh số từng con gà quý để đưa vào dự án bảo tồn duy trì quỹ gen. Buồn thay, tình thế cho con gà gắn liền với dòng tranh dân gian một thời cực thịnh vẫn không sáng sủa lên là mấy. Hội gà Hồ năm nào đông vui vài chục người giờ bỏ cuộc chơi gần hết, chỉ còn rơi rớt mươi người quyết giữ nghề tổ. Mỗi hộ có chừng hai, ba chục con giống, dịp Tết cung ứng kịch trần khoảng 100-150 con ra thị trường nên ai không quen, không biết mối không thể có cơ hội tự khoản đãi hay được khoản đãi giống gà biếu cực kỳ quý này. Bớt cao cấp hơn gà Hồ là gà Đông Cảo (Đông Tảo, Khoái Châu, Hưng Yên). Giống gà này cũng nổi tiếng là to nhưng dáng thô hơn hẳn gà Hồ với đặc điểm cực kỳ dễ nhận dạng là chân chúng thấp hơn, vảy xù xì, góc cạnh, riêng cái cẳng chân đã to cỡ bắp tay người lớn. Tuy dáng xấu nhưng thịt gà Đông Cảo cũng thơm ngon, săn chắc không kém gà Hồ là mấy. Thịt gà Đông Cảo vang danh thiên hạ với hai món tủ là xào lăn với ớt và món thịt nấu đông với những miếng da dày mà giòn, sậm sựt chẳng kém bóng bì. Những chú gà Đông Hồ được những người sành ăn đặt từ khi còn nhỏ xíu. Một câu chuyện mà dân ở đây vẫn râm ran truyền tụng đầy tự hào về kích thước con gà của mình rằng vào thời điểm giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc ác liệt nhất, làng xóm đào hầm chữ A trú ẩn hết lượt, mọi hoạt động rút vào bí mật. Bỗng một sáng, có ông khách lạ công tác qua đêm ở Đông Cảo chợt nghe thấy tiếng những bước chân rầm rập như duyệt binh. “Quái lạ, sao đội dân quân xã nhà tập tành gì mà sớm thế?”. Ông tự hỏi và cố dụi đôi mắt cò cử, kèm nhèm đầy dử, ngóng ra hướng có tiếng động với một lòng ngưỡng mộ sâu sắc. Thốt nhiên, chỉ thấy một bầy gà Đông Cảo nhà nào quên cài then chuồng, lộc ngộc đang “hành quân” trên con ngõ nhỏ. Chuyện trở thành huyền thoại cho cả làng từ bấy… Những con gà như thế nhắc nhớ đến lời của Tả tướng quân Lê Văn Duyệt nói rằng gà có năm cái đức: Văn, Vũ, Dũng, Nghĩa, Tín. Cũng gần thật vậy, nhìn những con gà trống Đông Cảo sải bước trong các khu vườn hay lối xóm một cách bệ vệ , uy nghi đầy hào khí quan võ lại có nét kính lễ của quan văn, nét thư thái của bậc đồ nho tín nghĩa. Cùng là giống gà có kích thước ngoại hạng nhưng Đông Cảo khác gà Hồ ở chỗ chúng bớt “quý tộc” hơn, chịu cái tính của con nhà khó, mắn đẻ và có thể nuôi bỗ bã, tốc độ xuất chuồng cũng rút ngắn chỉ bằng phân nửa thậm chí phần ba gà Hồ. Nghề nuôi gà cổ truyền do đó trở nên rất thịnh. Ở Đông Tảo luôn có chừng dăm, bảy chục hộ nuôi với quy mô từ ba chục đến cả vài trăm gà trong chuồng, sẵn sàng tung ra một lượng gà đến cả tấn. Ông Tạ Đình Hiệu - một hộ nuôi gà gia truyền nghiệm rằng gà mái to quá, đẻ không nhiều, vào ổ dễ vỡ trứng, nuôi con không khéo, gà trống to quá đạp mái cũng yếu nên dân làng có xu hướng chọn tạo gà ngày một… nhỏ hơn. Đời ông của ông Hiệu cỡ gà 7kg không lạ, đời bố ông cỡ gà 6kg rất phổ biến còn bây giờ gà chỉ đạt trung bình loại 5kg. Anh Đào Đức Thuận - một hộ chuyên nuôi gà thịt dạng thả rông vừa xuất chuồng 100 con cho biết một năm gia đình mình cung ứng cỡ 500 gà thịt ra thị trường. Anh Thuận kể: “Gà nuôi khoảng 6 tháng là đạt cỡ 3,5 kg/con dù chỉ cho ăn toàn ngô, thóc. Mùa cưới hễ có bao nhiêu bị vét hết bấy nhiêu với giá 80.000đ/kg, còn ngày lễ tết mua biếu cỡ 90-100.000đ/kg. Tính ra mỗi con cũng lãi được dăm chục ngàn. Tết này tôi chỉ còn 50-60 con bán thôi”. Khác với cách nuôi truyền thống của anh Thuận, nhà anh Nguyễn Trọng Hoan lại nuôi gà Đông Cảo theo phương pháp bán công nghiệp: quây chuồng, cho ăn cám công nghiệp giai đoạn nhỏ rồi sau đó cho ăn ngô, thóc. Mỗi năm nhà anh Hoan xuất bán Tết cỡ 1 tấn gà thịt. Năm ngoái gà được giá, nông sản rẻ nên anh lãi được 30.000đ/kg, năm nay theo trù bị anh chỉ còn lãi cỡ 17.000đ/kg, vị chi một cái Tết anh cũng bỏ túi được ba bốn chục triệu nhờ giống gà độc đáo quê mình. Hầu như tất cả số gà Đông Cảo được lái đến cất tại chuồng rồi bán ra chợ huyện, chợ tỉnh hay bán cho những người làm quà biếu ở mạn Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội… (Theo VTC News)
    1 like
  4. Minh triết Việt trong sự tích Ông Táo Giờ Sửu - 22 tháng Chạp - Mậu Tý Nguyễn Vũ Tuấn Anh . Cứ mỗi khi năm hết Tết đến thì nhà nhà Việt Nam theo phong tục lại làm lễ cúng Ông Táo về trời. Đây là một phong tục thuần Việt có từ thời Hùng Vương dựng nước và còn giữ lại trong truyền thống văn hóa Việt đến ngày nay. Bẳng chứng cho điều này là từ thời Hùng vương thứ VI, vua Hùng đã chấm giải nhất cho hoảng tử Lang Liêu là người kế vị và bánh chưng bánh dày do hoàng tử Lang Liêu được đạc biệt dùng cúng trong ngày Tết. Từ đó, chúng ta dễ dàng suy ra rằng: Lễ Tết nguyên đán có từ thế kỷ XV BC - tương đương thời vua Bàn Canh của Ân Thương. Từ đó chúng ta dễ dàng đặt vấn đề với lễ cúng Ông Táo về trời liên hệ đến ngày giáp Tết phải là phong tục của người Việt từ thời xa xưa. Văn hóa Hán hiện nay cũng có tục cúng ông Táo, nhưng nó thuần túy là một nghi lễ và thiếu tính minh triết liên hệ đến phong tục này. Bởi vì nền văn minh Hoa Hạ khi tiếp quản được nền văn minh ở Nam Dương Tử đã Hán hóa những giá trị văn hóa Việt trong hơn 1000 năm và tiếp tục duy trì đến bây giờ, ở vùng đất cũ của Văn Lang xưa. Chúng ta hãy xem lại truyền thuyết có dấu ấn cổ xưa nhất về ông Táo còn lưu truyền trong văn hóa Việt, tóm lược như sau: Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng. Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo. Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ. Ngọc Hoàng cảm động trước mối chân tình của cả ba người, (2 ông, 1 bà), và cũng cảm thương cái chết trong lửa nóng của họ, ngài cho phép họ được ở bên nhau mãi mãi bèn cho ba người hóa thành “ba đầu rau” hay "chiếc kiềng 3 chân" ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa. Từ đó, ba người ấy được phong chức Táo Quân, trông coi và giữ lửa cho mọi gia đình, đồng thời có nhiệm vụ trông nom mọi việc lành dữ, phẩm hạnh của con người. Táo Quân, còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ cho cuộc sống gia đình, thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Theo tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng, hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo mọi việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc coi sóc bếp lửa của mình. Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp nên biết hết mọi chuyện hay dở tốt xấu của mọi người, cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng rất trọng thể. Người ta thường mua hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là “cò bay ngựa chạy”) để làm phương tiện cho “Vua Bếp” lên chầu trời. Ông Táo sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Lễ cúng thường diễn ra trước 12h trưa, sau khi cúng xong, người ta sẽ hóa vàng đồ lễ, nếu có cá sống thì sẽ đem thả xuống sông, hồ, biển hay giếng nước, tùy theo khu vực họ sinh sống. Càng tiến dần vào trong Nam thì tục cúng ông Táo về trời có một chút thay đổi. Nhưng lễ cúng Táo Quân ở miền Bắc với một nghi lễ không thể thiếu là Cá Chép là mang tính nguyên thủy hơn cả. Qua truyền thuyết của dân tộc Việt truyền lại, chúng ta thấy rằng hình ảnh hai ông một bà - tức một Âm hai Dương hoàn toàn trùng khớp với quẻ ly - - trong Kinh Dịch. Trong bức tranh dân gian Việt mà các bạn thấy ở trên táo bà ngồi giữa hai ông thì trong quẻ Ly hào Âm cũng đứng giữa. Quẻ Ly thuộc Hỏa nên biểu tượng cho bếp cũng thuộc Hỏa. Biểu tượng trong truyện dân gian "cả ba người cùng chui trong đống lửa" đấy chính là hình tượng của ba ông đầu rau trong bếp mỗi nhà. Nội dung tương tự như vậy tôi đã viết từ lâu trên tuvilyso.com (Bây giờ là tuvilyso.net). Nhưng hồi đó, tôi cũng mới chỉ dừng lại đây. Nhưng trong bài viết này, tôi xin được giải mã thêm một hình ảnh gắn liến với lễ Táo Quân chính là con cá chép. Tại sao về trời mà Táo quân lại cưỡi cá chép? Sao không phải là cưỡi chim? Ông cha ta có lầm lẫn gì không? Hoàn toàn không! Khi mà tổ tiên người Việt đã để lại cho hậu thế một nền văn hiến vĩ đại. Con cá chép thuộc hành thủy. Trong những di sản văn hóa phi vật thể là những bức tranh dân gian Việt chúng ta thấy trang đàn lợn với một lợn mẹ và năm lợn con. Đây chính là hình tượng của "Thiên Nhất sinh thủy - Địa lục thành chi". Chúng ta cũng thấy hình tượng này trong tranh cá chép làng Đông Hồ: Một con cá mẹ với năm con cá con. Và hình tượng Táo quân cưỡi cá chép, chính là biểu tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị tế (-) trong kinh Dịch. Đây là quẻ cuối cùng kết thúc một chu kỳ 64 tư quẻ Dịch. Biểu tượng cho chu kỳ tuần hoàn của tạo hoá trong một năm đã kết thúc và chuyển sang một chu kỳ mới và mọi việc vẫn còn tiếp tục để một năm mới tốt lành. Đó là tinh thần của quẻ Vị Tế. Còn một vài chi tiết nữa liên quan đến truyền thuyết Táo Quân lưu truyền trong dân gian, như: Táo Quân không mặc quần.....Hy vọng rằng trong những ngày đầu Xuân, trà dư, tửu hậu sẽ có dịp bàn với các bạn. Vài lời mạn đàm về một phong tục truyền thống liên quan đến lý học Đông phương. Thiên Sứ tôi không bao giờ coi giải mã truyền thuyết là cơ sở minh chứng cho truyền thống văn hóa sử của dân tộc Việt trải gần 5000 văn hiến. Ít nhất trong lúc này. Cảm ơn sự quan tâm của các bạn.
    1 like
  5. Xuân mới đã về ! Cóc Vàng xin kính chúc sư phụ cùng toàn thể gia đình mạnh khỏe ,hạnh phúc và thành đạt ! Chúc các sư huynh,sư tỷ ,sư đệ ,sư muội và toàn thể gia đình mạnh khỏe ,hạnh phúc và thành đạt ! Chúc cho sự nghiệp phục hồi 5.000 năm văn hiến Lạc Việt của các thành viên lý học Đông Phương vànhững người con dân tộc Việt tâm huyết với sự nghiệp này trong toàn xã hội mau trở thành hiện thực ! Kính chúc !
    1 like
  6. Năm Thìn cũng là năm tuổi của cháu ,; là 1 năm có nhiều việc hệ trọng xảy ra ,sức khỏe kém công việc không được may mắn hãy cẩn thận giữ việc làm ,có tang chế trong thân hay có người phát bệnh nặng . Về tình duyên cho thấy 1 năm đầy oan nghiệp đeo đuổi cháu , cẩn thận khi quan hệ với người khác phái ,cần tìm hiểu về người đó nhiều hơn trước khi có mối tình cảm sâu đậm , để tránh cảnh yêu nhầm ,nếu gặp phải người lớn tuổi hơn cháu người nầy có cơ nguy là đã có vợ và cháu sẽ bị tai tiếng thị phi . Về tiền bạc chi tiêu nên có ngân sách ,không cho ai vay mượn ,không đầu tư kinh doanh đễ tránh thua lỗ , coi chừng bóp ví ,bị trộm ,móc túi hay rơi rớt mất của v.v.
    1 like
  7. Lấy chồng tuổi Thân cũng tạm được. Nhưng ko bằng có đứa cháu - ngoại cũng được - tuổi Thân.Còn xem Tử Vi thì tôi ko giỏi lắm, chỉ biết qua về phương pháp để tìm hiểu nguyên lý lý thuyết và thực tại nào làm nên môn này thôi. Tóm lại phục vụ cho nghiên cứu chứ xem không hay.
    1 like
  8. Chúc mừng năm mới . Vạn sự như ý !
    1 like
  9. Si là Ngu si, là Vô minh, là Không sáng, là Không tỉnh, là Không nhớ, là Quên, là Nhầm, là Điên đảo, là Chìm đắm, là KHÔNG TRÍ TUỆ. Sân là KHÔNG TỪ BI. Không Từ bi thì cháy cả rừng Trí tuệ dẫn đến Tham. Phật là tỉnh giác vẹn toàn, cho nên Đạo Phật là Đường Giác Ngộ. Giác Ngộ thì sẽ giải thoát, chuyển thức tình Si Sân Tham thành Trí Tuệ Căn Bản. Tam độc Si Sân Tham thuộc sự Vô minh, Vô minh lại có nhiều lớp thô tế khác nhau. Thành đạt hay hạnh phúc thì cũng còn nhiều Vô minh phiền não, đó cũng là vì thấy kẹo mà bỏ ngọc, thấy đá bỏ vàng, ngược lại, Phật bỏ cái hạnh phúc tương đối nên chứng ngộ hạnh phúc tuyệt đối. Trẻ cầu Cha, Già cầu Con, đi Chuà cầu Giác ngộ. Sư là hữu tình thuyết pháp, Chùa Chiền là vô tình thuyết pháp, pháp là pháp phương tiện đánh thức kẻ mê, thoát biển khổ quay về bờ giác. Thành đạt, hạnh phúc là Thiện quả. Con người cũng nên phân biệt thiện ác, huống chi cái tương đối và tuyệt đối, rất nên phân biệt để mở sáng trí tuệ. Vô minh nên thấy Hư không, Hư không thì vô biên nên biển khổ không bờ, chỉ quay về sự tỉnh giác thì ngay đó là bờ giác, thân đồng với Hư không chứ đâu chỉ là cái thân mấy chục ký như hòn bọt giữa biển cả mênh mông này.
    1 like
  10. TƯỢNG RỒNG ĐỘC ĐÁO Ở VIỆT NAM Tượng con bò sát ở Bắc Ninh: thực tế ko ai rõ đây là con gì, người cho là con rồng, người gọi là con rắn, có thuyết lại nói đây chính là tượng trưng cho thái sư Lê Văn Thịnh (ông hóa hổ). Đầu thì thấy giống khủng long, thân giống rồng. Tượng miêu tả 1 con bò sát lớn, đang quằn quại cắn xé thân mình trong cơn giận dữ
    1 like
  11. Đi chùa nhiều cũng là tham. Làm công quả cho nhiều để mong cầu cũng là tham. Làm gì mà có ông Phật nào tối ngày ở đâu đó giải quyết đơn xin? Giả sử có ông Thượng Đế ở đâu đó, hai đội bóng Manchester va Barcelona, cầu thủ cả hai đội đều cầu cho mình được thắng, nhưng trớ trêu thay cuối cuàng cũng chỉ có một đội thắng mà thôi. Vậy thì sao? Ông phật hay thượng đế thích đội này và ghét đội kia sao? Hay quy luận thắng – thua là quy luật duy nhất tuyệt đối? nếu thế thì phật, thương đế không phải là toàn năng, vì vẫn phải bó tay với quy luật này, nói một cách rỏ hơn là không toàn năng. Làm gì có đấng nào ban phát xin
    1 like
  12. Vẻ đẹp Rồng trên những cổ vật 1.000 tuổi Cập nhật lúc :9:02 AM, 22/01/2012 (ĐVO) Xuyên suốt lịch sử của các triều đại phong kiến Đông Á, con rồng luôn là hình ảnh tượng trưng cho quyền lực của vua chúa… Choáng váng với 'kho báu rồng' vàng khối Tuy vậy, hình tượng con rồng thời Lý – thời đại lập quốc của Việt Nam có những đặc điểm cấu tạo khác hẳn với rồng thời trước hoặc cùng thời ở Trung Quốc. Nhìn chung, rồng thời Lý được thể hiện trong dáng dấp hiền hòa mềm mại, có mình dài như rắn, thường không có vẩy, thon nhỏ dần về phía đuôi, bụng phân thành nhiều đốt ngắn như bụng rắn. Dọc sống lưng rồng có một hàng vây thấp tỉa riêng ra từng cái, đầu vây trước tựa vào vây sau. Rồng có bốn chân, mỗi chân có ba ngón. Vị trí của chân bao giờ cũng đặt ở một nơi nhất định. Một chân trước mọc gần giữa khúc uốn thứ nhất, chân kia nằm gần cuối khúc uốn này. Hai chân sau bao giờ cũng ở gần khoảng giữa khúc uốn thứ ba. Cả bốn chân đều có dải lông dài mọc từ khuỷu hất ra phía sau và móng cong nhọn giống chân loài chim. Đầu rồng không có sừng, thường ngẩng cao, miệng há rộng với hai hàm răng nhỏ đang vờn đớp viên ngọc quý. Từ mũi rồng thoát ra mào có dạng ngọn lửa, được gọi là mào lửa. Trên trán rồng có một hoa văn giống hình chữ "S", cổ tự của chữ "lôi", tượng trưng cho sấm sét, mây mưa, yếu tố rất quan trọng trong nền nông nghiệp lúa nước... Dưới đây là một số hình ảnh của rồng qua những cổ vật có từ thời Lý, Đất Việt ghi nhận tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia: Rồng trang trí trên lá đề có niên đại từ năm 1057, được tìm thấy tại chùa Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh. Bệ kê chân cột trang trí rồng, sen, vũ công tại chùa Phật Tích thời Lý. Đầu rồng trang trí kiến trúc làm bằng đất nung, niên đại thế kỷ 11 - 13. Gạch khắc hình rồng trang trí trên kiến trúc triều Lý. Gạch lá đề trang trí hình rồng, niên đại khoảng thế kỷ 11 - 14. Gạch đất nung khắc hình rồng trang trí trên kiến trúc thời Lý. Rồng trang trí trên đố cửa của chùa Phật Tích, có từ năm 1057. Rồng trang trí trên gạch thời Lý. Gạch xây tháp trang trí rồng, vũ công làm bằng gốm men thời Lý. Rồng trang trí trên cột đá thời Lý, được tìm thấy ở Hoàng thành Thăng Long. Bệ kê chân cột trang trí "Lưỡng long tranh châu" (cặp rồng chầu ngọc), có niên đại từ thế kỷ 11 - 13, xuất xứ tại chùa Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh.
    1 like
  13. Trướng rủ màn che theo tôi là một yếu tố tốt trong điều kiện nhà có thục nữ. "Yểu điệu thục nữ. Quân tử hảo cầu" , các cụ xưa nói vậy. Tôi tin rằng con gái của chị sẽ tìm được nơi xứng đáng để gả.Nếu nhà này có người tuổi Thân nữa chắc khá giả. Nếu con gái tuổi Tỵ là út thì cũng thuộc hàng tương đối dư giả. Nhưng chị tương đối phải quán xuyến, lo toan nhiều.Nếu quả là hai cháu xinh đẹp như chị nói thì năm nay sẽ có ít nhất một đưa lên xe hoa bất ngờ. Chị cứ để nghiệm xem.
    1 like
  14. Tham, Sân, Si goị theo hán tự là Tam Độc, sát nghĩa của Tham là ham muốn, phụ nghĩa là mong cầu, rộng nghĩa là ước mơ! Có thể với kẻ phàm phu tục tử như chúng ta đây vẫn còn và có đủ 3 nghĩa trên nhưng quán xét cho kỹ thì điều chúng ta ham muốn mong cầu ước mơ có gần với chữ Tham trong tam độc không? Ví dụ: 1 đứa trẻ ham học sẽ khác với ham ăn, 1 người tham việc khác với người tham tiền vì vậy chúng ta có thể tạm bằng lòng "tri thức tri túc" thì sẽ không dẫn đến điều ham muốn hay sở hữu cái mà mình không làm ra nó sẽ gây ra cái "tham' trong thuyết giáo của nhà Phật. Có nghĩa là cái ham muốn "bất chính" là con đường đi đến nghiệp quả có ý thức.Còn nhiều người đi chùa hay cầu danh lợi? Họ cứ kiên nhẫn cầu xin nhưng có đạt được không còn tùy phước duyên tự tạo, có phải đấng tối cao nào cũng đáp ứng được tất cả những điều chúng sanh "cầu xin"? Cứ gầy phước, phước tự vươn cao! Cứ gieo nghiệp nghiệp chất chồng! Vài hàng chia sẽ kiến thức nhỏ nhoi, mong bạn suy nghiệm!
    1 like
  15. Theo Lạc Thư Hoa Giáp và Luận Tuổi Lạc Việt thì mạng mẹ 1978 Mậu Ngọ sẽ khắc con Nhâm Thìn 2012, như vậy ưu tiên 1 mạng mẹ hợp con là không được! Sinh Nhâm Thìn thì con hay bệnh, ốm yếu, công việc gia đình sẽ trì trệ. Tốt nhất chỉ nên sinh năm 2015 Ất Mùi là sớm nhất, hoặc là sinh muộn hơn. 2015 Ất Mùi, 2017 Đinh Dậu là năm tốt để sinh. Thân mến.
    1 like
  16. 1 like
  17. Trạch cát xuân Nhâm Thìn Tất niên, xuất hành, khai trương, động thổ. Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương Tiễn năm cũ đi đón xuân mới đến, người Việt ta, theo phong tục Đông phương cổ truyền, có tục ăn Tất Niên, xuất hành, xông đất, chọn ngày khai trương và chọn ngày xây sửa nhà để cầu may mắn, tài lộc, tránh hung tìm cát. Ban biên tập diễn đàn Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương sưu tầm, tìm hiểu so sánh, đối chiếu đề xuất về các ngày gọi là tốt để quý vị bạn đọc tham khảo. Tất Niên: Đây là ngày kết thúc một năm làm việc vất vả, ngày nhìn lại những thành quả lao động của năm cũ. Ngày tốt theo Việt lịch: 28 . 12 năm Tân Mão, nhằm ngày thứ bảy 21. 01. 2012 Tây lịch. Đây là ngày Tư Mệnh Hoàng Đạo sẽ là một kết thúc tốt đẹp cho trăm nghiệp trăm nghề để chuẩn bị cho một năm mới vạn sự an lành. Giờ tốt nhất trong ngày: Giờ Tỵ. Từ 9g20 đến 11g20 Xuất Hành: Ngày tốt theo Việt lịch: mồng 09 tháng Giêng năm Nhâm Thìn, nhằm ngày: thứ ba 31.01. 2012 Tây lịch Đây là ngày Bảo Quang Hoàng Đạo là ngày tốt cho cầu quan, cầu tài, cầu lộc, thăng tiến và phát triển trong mọi sự. Giờ tốt trong ngày: Giờ Thìn, từ 7g20 đến 9g20 Giờ Ngọ, từ 11g20 đến 13g20 Giờ Thân, từ 15g20 đến 17g20 Giờ Dậu, từ 17g20 đến 19g20 Hướng Xuất Hành: Hướng tốt xuất hành là hướng Tây chếch về Tây Nam Hướng được coi là tốt thì cũng kén người hùng chí và có bản lãnh. Hướng Tốt Để Động Thổ: Theo Huyền Không Lạc Việt, niên tinh 6 nhập trung, sao Ngũ Hoàng và Nhị Hắc giao lâm tại hai phương Nam Bắc, phương Đông Nam gặp Thái Tuế, phương Tây Tây Bắc xung Thái Tuế, tam sát ở Đông Nam, Nam và Nam Tây Nam, do vậy phương động thổ an toàn nhất là hướng Tây chếch Tây Nam. Cụ thể là phương Dậu Canh. Ngày Tốt Khai Trương: Ngày tốt theo Việt lịch: Mồng 09 tháng Giêng năm Nhâm Thìn, nhằm ngày: thư ba 31.01. 2012 Tây lịch Đây là ngày Bảo Quang Hoàng Đạo là ngày tốt cho cầu quan, cầu tài, cầu lộc, thăng tiến và phát triển trong mọi sự. Giờ tốt trong ngày: Giờ Thìn, từ 7g20 đến 9g20 Giờ Ngọ, từ 11g20 đến 13g20 Giờ Thân, từ 15g20 đến 17g20 Giờ Dậu, từ 17g20 đến 19g20 Hoặc ngày 16 tháng Giêng năm Nhâm thìn, nhằm ngày thứ ba 07.02.2012. Đây là ngày Tư Mệnh Hoàng Đạo là ngày phúc đức tôt cho những người bền chí, cầu tiến. Giờ tốt trong ngày: Giờ Tỵ, từ 9g20 đến 11g20 Giờ Mùi, từ 13g20 đến 15g20 Giờ Dậu, từ 17g20 đến 19g20 Tuổi Tốt Để Xông Đất và Mở Hàng Khai Trương: Chọn tuổi: Đinh Tỵ, Đinh Dậu, Mậu Dần. Tân Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Dần, Kỷ tỵ Các tuổi mang chữ Canh cũng tốt nhưng tốt hơn nếu gia chủ đã có gia đình, là: Canh Dần, Canh Ngọ, Những tuổi như trên được mời mua mở hàng khai trương đầu năm,động thổ xây sửa nhà, dự lễ về nhà mới, đi đón cô dâu về nhà chồng, tiễn đưa người thân đi làm ăn xa, đón em bé từ bảo sanh viện về nhà, dự lễ cúng đầy tháng, dự lễ cúng thôi nôi cho em bé, dự lễ cúng đáo tuế, cúng thất tuần cho gia chủ sẽ được cát tường đại lợi. Nhưng hãy chọn người tử tế đàng hoàng, nhân cách đầy đủ, trí tuệ thông minh, hiền hậu nhân từ. Phúc lộc đầy đủ. Lưu ý là họ phải không trong thời gian thọ tang. Nam nữ đều tốt. Người được mời xông đất, khai trương đâù năm kiêng mặc áo trắng hoặc đen. Áo mặc tông màu xanh lá cây là thuận nhất với năm tới. Năm nay có lẽ là năm mà lý học Đông phương và các nhà khoa học dễ nhất trí về một nền kinh tế toàn cầu còn khó khăn hơn.. Cầu chúc quý vị một năm mới LỘC LỢI THÔNG TỨ HẢI – TÀI NGUYÊN ĐẠT TAM GIANG
    1 like
  18. Bổ Sung Ngày giờ Xuất Hành Do có những yêu cầu tư vấn phát sinh, Sư Phụ Thiên Sứ đã bổ sung thêm cho ngày giờ xuất hành như sau: Xuất Hành: Ngày tốt theo Việt lịch: mồng 01 tháng Giêng năm Nhâm Thìn, nhằm ngày: thứ ba 23.01. 2012 Tây lịch Đây là ngày giao thừa Giờ tốt trong ngày: Giờ Tý, từ 11g20 đến 01g20 , giờ tốt nhất. theo Quẻ Lạc Việt Độn Toán là Đỗ tiểu cát. tốt nhì: Giờ Thìn, từ 7g20 đến 9g20 , theo Quẻ Lạc Việt Độn Toán là Khai tốc hỷ. Giờ Thân, từ 15g20 đến 17g20, theo Quẻ Lạc Việt Độn Toán là Đỗ đại an. Hướng Xuất Hành: Hướng tốt xuất hành là hướng Tây chếch về Tây Nam
    1 like
  19. Vẻ đẹp huyền ảo của Hạ Long đầu thế kỷ 20 12/11/2011 18:26:44 - Cuối thế kỷ 19, tên vịnh Hạ Long mới xuất hiện trên các bản đồ hàng hải của Pháp. Khi đó, tờ “Tin tức Hải Phòng” xuất bản bằng tiếng Pháp có đăng một bài báo nhan đề: “Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long”. Bài báo đề cập đến việc một sĩ quan trên tàu Avalanche tên là Lagresille đã bắt gặp một đôi rắn biển khổng lồ trên vịnh. Ngay từ thời kỳ này, người Pháp đã coi vịnh Hạ Long đã là một báu vật tự nhiên vô giá. Cảnh đẹp của Hạ Long đã xuất hiện trên khá nhiều bưu thiếp và ảnh chụp đầu thế kỷ 20, trong đó có cả một số bức ảnh màu được chụp từ những năm 1915-1920. Hãy cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Hạ Long trong những tác phẩm này: Thu Thủy (tổng hợp)
    1 like
  20. Ngôi chùa chứa nhiều hiện vật quý thời Lý Thứ bảy, 12/11/2011, 10:18 GMT+7 Nhiều hiện vật, dấu tích quan trọng phản ánh quần thể kiến trúc đồ sộ, mang đậm phong cách kiến trúc, nghệ thuật triều Lý được phát hiện ở chùa Dạm, xã Nam Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh). Chùa Dạm (hay còn gọi là chùa Rạm) là đại danh lam từ thời Lý, một di tích quan trọng của tỉnh Bắc Ninh với lịch sử gần 1.000 năm. Để tạo điều kiện cho quá trình nghiên cứu, thiết kế trùng tu, phục dựng chùa Dạm, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam và Hội Phật giáo tỉnh đã khởi công khai quật ngôi chùa trên tổng diện tích 300 m2. Sau một tháng khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện hàng trăm hiện vật quý thuộc 4 lớp kiến trúc, mỗi lớp có nhiều công trình. Lớp nền được kè đá 3 lớp vững chãi. Khu khai quật được cho là rộng nhất nằm trên diện tích khoảng 50 m2. Ở nền đất này có dựng một tấm bia trên lưng rùa. Nền đất xung quanh có nhiều viên gạch được trạm trổ tinh xảo. Các chân cột của chùa được phát lộ trong quá trình khai quật. Một cột đá lớn nguyên khối được chôn sâu chìm xuống nằm đối mặt với chùa Dạm có nhiều hoạ tiết độc đáo, biểu hiện sinh thực khí trời. Cột đá cao gần 5 m, được đặt trên khối vuông bằng đá, đường kính khoảng 1,3 m. Trên cột đá chạm nổi đôi rồng phong cách thời Lý đầu vươn cao chầu vào viên ngọc tỏa sáng, thân quấn quanh cột, đuôi ngoắc vào nhau. Trong quá trình khai quật, hàng trăm hiện vật quý như kiến trúc tháp đá, cột đá, các trụ sỏi hay gạch, đá, gốm, sứ, sành, đất nung, ngói mũi sen... được phát hiện và đều mang đậm kỹ thuật thời Lý. Các hiện vật được các nhà khảo cổ học phân loại. Gạch lát nền phát hiện được chôn sâu dưới lòng đất. Quá trình khai quật vẫn tiếp tục, các nhà khảo cổ hy vọng sẽ khám phá được nhiều điều thú vị và mới mẻ về một giai đoạn lịch sử. Lê Hiếu
    1 like
  21. Chiếc thống “độc” cứu gia đình "quý tộc" một thời Chiếc thống “độc” vừa mang bi kịch, vừa cứu gia đình “quý tộc" một thời, sống qua ngày bần hàn Gia đình giàu có đến mức cha mẹ từng bỏ ra số tiền ngang giá cả căn nhà mặt phố để mua lấy một chiếc thống cổ, thế nhưng trong dòng đời chẳng ai học được chữ ngờ, bảo vật của gia đình cuối cùng lại được đổi lấy đồ ăn thức uống hàng ngày khi gia đình lụn bại. Ông Lê Quang Bích (ngụ phố Cầu Gỗ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) nay đã gần tuổi thất thập vẫn đau đớn thực hiện ước nguyện của mẹ là tích cóp tiền tìm chuộc lại chiếc thống “độc địa” ngày xưa gia đình ông đã từng gắn bó – ước nguyện mà đời ông chẳng biết có còn có thể thực hiện? Đập nát… nửa căn nhà mặt phố Sinh năm 1943 tại một căn nhà cổ trên phố Cầu Gỗ, ông Bích còn nhớ như in khung cảnh của phố cổ, những nếp sinh hoạt của người Hà Nội xưa. Ấn tượng sâu đậm nhất trong ông chính là hình ảnh người cha, một công chức của sở Kiến trúc và Thủy lợi (sau này thành công chức lưu dung, phục vụ chính quyền cách mạng) có thú chơi đồ cổ. Câu chuyện được giới sành đồ cổ Hà Nội lưu truyền như một giai thoại, cũng là câu chuyện gắn bó với gia đình ông, đó là khoảng năm 1949, ông cụ nghe người mách có một gia đình ở Thanh Trì muốn bán một đôi thống (một loại chậu thấp, miệng rộng, dùng trồng hoa hoặc trang trí nhà cửa). Những năm loạn lạc, người Hà Nội thường ít người dám bỏ tiền ra để mua những món cổ vật có giá trị vì điều kiện chiến tranh, nay đi, mai ở… Nhưng ông đã bỏ ra tới 60 ngàn đồng tiền Đông Dương để mua đôi thống cổ, trong khi lúc đó cả ngôi nhà giữa phố Cầu Gỗ của ông cũng chỉ có giá khoảng 70 ngàn đồng. Ông Bích nghe kể lại, người bán đôi thống cũng là người vì không còn sự lựa chọn nào nên mới “dứt ruột” bán đi, bán rồi vẫn hi vọng sau này có điều kiện sẽ chuộc lại “cố nhân”. Nhưng, trước ánh mắt còn ngơ ngẩn vì tiếc nuối của người chủ cũ, cha ông đã thẳng tay giơ cao và “choang”, một trong hai chiếc thống quý giá vỡ tan. Người chủ cũ và những người chứng kiến tiếc đứt ruột, trợn tròn mắt, không hiểu sao ông cụ lại cư xử lạ lùng như thế. Lúc đó, ông cụ mới thong thả nói với chủ cũ: “Ông bỏ lỗi cho tôi. Ông đã dành cho tôi ưu ái được sở hữu vật quý này thì cũng cho tôi cái quyền được định đoạt số phận của nó. Mỗi người có một thú chơi. Ông giữ một đôi thì rất đáng quý, nhưng tôi muốn tôi là người độc nhất giữ một chiếc thống. Nếu để có đôi thì sợ khó giữ hơn có một. Chỉ mình tôi có được cổ vật này thôi, không có người khác có cơ hội nữa”. Như vậy, chỉ với một cái giơ tay, ông cụ đã đập nát nửa căn nhà mặt phố Hà thành. Ông cụ mất năm 1957, để lại một gia tài khổng lồ với những cổ vật như thống cổ, đĩa sứ, sập gụ, lộc bình, trong đó quý nhất là chiếc thống “lẻ đôi”… Người trụ cột trong gia đình qua đời, bà mẹ thì yếu đuối, trước đây chỉ quen việc nội trợ, giờ phải bươn chải buôn rau từ chợ Đồng Xuân về phố Cầu Gỗ để nuôi 8 người con. Những cổ vật trong gia đình cứ lần lượt “đội nón ra đi”… Mùa đông năm 1972, gia sản nhà ông Bích chỉ còn duy nhất chiếc thống cổ. Trong cái giá rét của những ngày cuối đông và nỗi túng quẫn của cảnh góa bụa nuôi con, bà cụ đã quyết định bán cái thống để có tiền trang trải nợ nần và lo một cái Tết đầm ấm cho các con. Số phận lận đận của chiếc thống cổ Ngày 23 tháng Chạp năm ấy, ông Bích – người con trai duy nhất trong nhà được mẹ gọi lên bàn chuyện bán chiếc thống cổ. Kỷ vật cuối cùng của người cha đã được một vị khách vào hỏi mua. Bà cụ Tạo vẫn ngần ngừ, không muốn chia tay với kỷ vật gắn liền với giai thoại về người chồng đã khuất… Người khách năn nỉ mãi, bà cụ đành chấp nhận để lại cho ông khách lạ với giá 10 cây vàng, đặt trước 5 cây. Người khách hẹn hai ngày sau quay lại sẽ trả nốt số vàng rồi mang chiếc thống về. Bà cụ cẩn thận gói kỹ số vàng trong một vuông lụa, cất đi rồi đợi người khách quay lại. Hai ngày sau không thấy ông khách quay lại. Qua Tết, sang Giêng cũng không thấy tăm hơi ông khách lạ. Một năm, hai năm… người khách vẫn bặt vô âm tín. Gia đình ông Bích vẫn trong cảnh chạy ăn từng bữa, nhưng số vàng kia mẹ ông tuyệt đối không tơ hào. “Mình đã bán cho người ta đâu mà dám tiêu?”, bà cụ cứ đinh ninh một điều như thế và chờ đợi. Đến Tết năm thứ ba, lại có một người khách sang trọng đến đặt vấn đề mua chiếc thống. Lần này, cảnh nhà đã túng thiếu lắm, ông Bích quyết định để lại chiếc thống cho khách với giá 15 cây vàng có thể đảm bảo đời sống sung túc cho cả đại gia đình. “Tiền trao, cháo múc”, cổ vật được khách mang đi. Cả gia đình ông mắt rưng rưng lệ như khi chia tay một “thành viên” hàng chục năm găn bó trong nhà. Mùng bốn Tết, chỉ vài ngày sau khi chiếc thống được bán đi, gia đình ông Bích đón một người khách quen. Chính là người năm xưa đã đặt 5 cây vàng chỉ để … ngắm chiếc thống một lần. Bà cụ mang đúng vuông khăn gói 5 cây vàng năm xưa ra trả lại, nhưng người khách nhất quyết … không nhận. “Số con bạc phận không có duyên để dùng cái thống. Con không gom đủ tiền, không quay lại trả tiền cụ đúng hẹn thì nay con không dám nhận lại số tiền này nữa. Con chỉ quay lại để xin ngắm chiếc thống một lần nhưng cụ đã bán rồi thì thôi”, ông Bích thuật lại lời vị khách. Bà mẹ ông dứt khoát không nghe, khăng khăng trả lại số tiền. Hai bên giằng co hơn nửa tiếng đồng hồ, ông khách mở gói lụa ra nói: “Cụ đã nói vậy thì con xin nhận”. Ông khách nhón lấy một chiếc nhẫn đeo vào tay, rồi lại bọc lại gói vàng: “Cụ đã cho thì con nhận vậy thôi. Còn tiền này không phải của con, vì con đã không giữ chữ tín nên đây là của cụ”. Người khách lạ ăn mặc xuềnh xoàng đứng lên, bước vội ra cửa, bỏ lại 49 chỉ vàng. Số tiền 19,9 cây vàng, trong đó có 4,9 cây vàng “trên trời rơi xuống” đã giúp cho cả gia đình ông sống qua được giai đoạn khó khăn, các anh chị em ông đều được học hành đến nơi đến chốn. Hàng chục năm sau khi chia tay chiếc thống, nay ông ngẫm lại mới thấy nhiều biến cố lớn xảy đến với gia đìnhông từ đó và chẳng biết chuyện bán chiếc thống có liên quan gì không. Chuyện con trai độc đinh của ông – cháu đích tôn của dòng họ qua đời là biến cố lớn nhất. “Con trai tôi khi đó vừa lên năm, con gái lên ba tuổi. Tôi là con trai duy nhất của một gia đình có 7 chị em gái, cháu lại là con trai đầu của tôi, nên cả nhà ai cũng cưng chiều nó”, ông Bích kể lại. Hè năm 1977, hai người con của ông Bích từ nhà lên chơi ở cơ quan với bố. Ông lên bệnh xá cơ quan xin thuốc tẩy giun cho hai con, nhưng người y sĩ ở đó đã sơ ý đưa cho ông thuốc Nivakin – một loại thuốc chống sốt rét ác tính. Thuốc này người lớn chỉ được dùng một viên một lần, nhưng hai con ông Bích đã uống tới ba viên, tương ứng với một liều thuốc cực độc. Đứa con trai độc nhất của ông đã ra đi ngay sau khi uống thuốc. Đứa con gái may mắn được bệnh viện cứu thoát chết. Ông Bích như người phát điên phát rồi, phải xin chuyển từ Vĩnh Phúc về Hà Nội làm việc. Nhưng những ngày tháng đi dạy, cùng những bảng đen phấn trắng, cảnh cũ đập vào mắt, ông như sống lại thời điểm ông đứng trên bục giảng mà nhận tin con trai mất, con gái nhập viện cấp cứu. Ông tâm sự đau đớn không chịu được nên xin chuyển ngành rồi vùi đầu vào học thêm, làm thêm đủ thứ việc để gượng dậy sau nỗi đau riêng. Hàng chục năm sau, khi cuộc sống đã khá hơn những ngày xưa lụn bại, ông Bích vẫn cố công tìm lại người đã mua chiếc thống có quá nhiều duyên nợ với gia đình. Chiếc thống quý giá và “độc địa” đã trở thành một ám ảnh với ông. Ông bảo: “Mẹ tôi mất năm 2004, bà dặn tôi cố gắng đi tìm lại xem cái thống đó còn hay mất. Gia đình tôi nhờ thứ bảo vật đó mà sống được qua giai đoạn khó khăn, cũng vì chia tay nó mà gặp biến cố nên tôi sẽ cố tìm. Nếu nó còn ở Hà Nội này, không chóng thì chày, tôi sẽ tìm được. Theo Pháp luật và Thời đại
    1 like
  22. Kỳ nhân uống thuốc độc để tìm cách giải độc 16/08/2011 15:58:56 - Đến xã Đồng Thắng, hỏi ai cũng biết gã Chu Văn Làu ở thôn Nà Xong, xã Đồng Thắng, Đình Lập, Lạng Sơn. Gã được mệnh danh là "kỳ nhân" giải độc với những chiêu thức rất kỳ quái, rùng rợn. Gã chưa chịu khuất phục trước loại kịch độc nào. Học nghề bằng cách uống thuốc độc Gặp gã, cảm giác rùng rợn lấn át, đôi mắt thẳm sâu đầy bí hiểm của người thầy thuốc Tày. Trông gã có vẻ già hơn so với năm sinh 1950. Biết chúng tôi tìm hiểu viết bài, gã cũng "dè chừng". Cũng may tôi đi cùng với một người dân bản địa có họ hàng với gã, gã mới cho viết. Gã lớn lên ở "vựa thuốc nam" xứ Lạng. Gia đình lão cũng dòng dõi thầy lang, gã thường cùng gia đình đi miệt rừng kiếm tìm thuốc thang và niềm đam mê với cây thuốc Nam đã ngấm sâu vào xương tủy lão. Hồi nhỏ, thấy nhiều người đi rừng bị rắn cắn chết, bị trúng thuốc độc không ai cứu nổi. "Thương họ quá! Tự nghĩ mình phải tìm cách cứu chữa cho dân bản". Thế rồi, gã khăn gói lên đường tìm thầy để học nghề giải độc. Gã nghe có ai nói ông Hà A Si ở ẩn dật nơi xó núi thôn Khe Luồng (xã Lâm Ca, Đình Lập, Lạng Sơn) thạo về món giải độc nên đã tìm đến học. "Lần đầu đến cầu học, ông Si không nhận. Lần thứ hai tôi đã quỳ 3 ngày 3 đêm, đến khi ngất tại cửa nhà ông Si, cũng bị từ chối, nhiều lần đến quỳ nữa cũng không thuyết phục được". Gã vẫn không chịu bỏ cuộc. Chân dung kỳ nhân giải độc Chu Văn Làu Gã dùng đến hạ sách "uống thuốc độc ăn vạ", biết lông con sâu róm có độc, gã cắt nhỏ và đem đến cửa nhà ông Si, rình lúc nào ông Si đi hái thuốc về mới nuốt vào mồm để thể hiện nhiệt tâm của mình. Hứng chịu cảm giác ngứa ngáy, rát khô cổ họng, đau đớn, khạc không ra đờm, đau vật vã, đau hơn người ăn bả chó tự tử, cuối cùng gã đã được thầy Si dạy giải độc. Gã mừng lắm! Gã kể một cách mạnh mẽ, như khoe chiến tích chứ không tỏ vẻ ghê sợ. Gã kể: Tôi tự nghiên cứu và phát triển các bài thuốc giải độc của thầy Si: "Nghiên cứu biểu hiện của độc dược ở mọi vị trí và giác quan, cơ quan, tìm loại thảo dược khắc chế từng chất độc một". Cách giải độc kỳ quái Cách giải độc của gã cũng không hẳn là dựa vào thần ma, quỷ quái như một số thầy thuốc khác. Gã vận dụng Tây y, Đông y, dựa trên những kinh nghiệm, thử nghiệm với các bài thuốc một cách bài bản, có khi còn biến mình thành vật thí nghiệm. Chỉ cần nhìn qua gã biết ai trúng độc. Nước da nhợt nhạt, người xanh tái, lưỡi bị thâm tím lại, khi bấm vào ngón tay thấy vết bấm trắng ra và máu không thể lưu thông được là bị trúng độc. Ngoài ra, còn những biểu hiện như bị ngứa cổ họng, khạc nhổ không ra đờm. Thuốc giải độc đã được sắc nhỏ, phơi khô chờ pha chế Với những loại độc dược nào lạ, gã thí nghiệm trên chuột, nghiên cứu đặc tính, tìm cách hóa giải. Đôi khi, gã tự mình uống thử thuốc độc rồi tự giải. "Gia đình thấy tôi nôn thốc, nôn tháo, nôn cả máu, nên hốt hoảng, nhưng tôi lại cười vì mình đã "vận công" ép được chất độc ra khỏi người". Dân bản có người gọi gã là "quái nhân giải độc" là vậy. Gã lý giải rằng, mấy loại chất độc như rắn cắn, ngộ độc thức ăn và loại độc do thả thuốc, yểm bùa... đều có cách hóa giải riêng: "Với nọc độc rắn, bọ cạp cắn... cần buộc ngăn chặn viết thương lây lan, rồi hút máu độc ra ngoài. Nếu đã bị lây lan toàn thân, cần dùng kim đã tẩm thuốc giải độc châm vào các huyết mạch, sau đó lại lấy cây thuốc giải độc để ngâm tắm, đồng thời uống thuốc để phân hủy chất độc. Còn khi đã bị ngộ độc thức ăn cần dùng các chất thật đắng, mùi thật khó chịu như lá mơ (lá mơ để nấu với thịt chó), cạo lớp sơn ở vỏ cây tre... cho bệnh nhân nôn hết chất độc trong người. Sau đó uống thuốc giải để phân tán những chất độc đã ngấm vào các cơ quan khác của cơ thể". Người ta lưu truyền rằng bài thuốc "phối tam kịch độc": Lấy con sâu róm bỏ vào gốc măng và niệm chú, một thời gian nó thối rữa ra tạo thành "đé" (phần chất thối rữa bị cứng lại) là khó giải nhất nhưng gã cũng không chịu bó tay. Khi bệnh nhân trúng loại kịch độc này, người sẽ yếu ớt, cổ họng khô cứng, khạc không ra. Không được chữa kịp thời sẽ chết. Đối với loại độc này, gã dùng một số cây thảo dược có chứa chất thật nóng ngâm với rượu thật nặng (khoảng 60o) để sao cho khi uống vào sẽ làm phân hủy độc, cộng thêm một số cây thảo dược làm tiêu độc. Gã bộc bạch: "Chữa độc dược cũng không khó lắm, quan trọng là mình biết đấy là loại độc nào, chất gây độc và cách thức phát bệnh để chọn cách chữa. Lúc giải độc cũng cần phải xem cơ thể người đang trúng độc có thể chịu được và không gây phản ứng". Anh Đàm Văn Hiện ở thôn Nà Quan, xã Đồng Thắng kể lại với lòng đầy biết ơn: "Có lần tôi bị trúng độc, đau đớn, người yếu ớt, chân tay rã rời, ngứa rát cổ họng, đau vật vã, lăn lộn, tưởng không qua khỏi. Gã lấy thuốc ngâm rượu thật nặng cho tôi uống, rượu vào đến đâu là nóng ran đến đó, tưởng như cháy ruột gan, lúc đó gã châm cứu các huyết mạch rồi lấy thuốc để tắm. Mấy ngày sau cổ họng đỡ rát, người đã khoẻ dần. Nếu không có gã, tôi đã chết lâu rồi". Gã tâm sự: "Giải độc cần đến sự kết hợp giữa Đông y và Tây y. Cho nên việc chữa bệnh cũng cần rất cẩn thận và tỉ mỉ, người chữa thuốc độc cũng cần rất tâm huyết, đôi khi phải hy sinh cả tính mạng cho nghề". Hoàng Tào
    1 like
  23. "Vua duối" Kinh Bắc kể chuyện "bắt rồng" 14/09/2011 07:09:00 - Kiệt tác "lưỡng long chầu nguyệt" trưng bày dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đã đưa "vua duối" Nguyễn Thế Vững thành người nổi tiếng. Nhưng sự nổi tiếng ấy phải đánh đổi bằng 30 năm và cả cuộc đời "bắt bóng luyện rồng". "Thằng hâm mới đi trồng duối" Ngôi nhà mới xây của "vua duối" Nguyễn Thế Vững nằm khuất sâu trong một con ngõ nhỏ thuộc thôn Thiểm Xuyên, xã Thụy Hòa (Yên Phong, Bắc Ninh) đầy ắp những chậu duối cảnh đủ thế dáng chen chúc nhau trong một mảnh đất nhỏ trước nhà. Người đàn ông đen nhẻm gầy như thanh củi khô trễ kính xuống mũi nhìn những chậu cảnh chưa được "an cư" và suy nghĩ một điều gì đó xa xôi lắm. Tôi hỏi, sao không trồng duối ra vườn cho an tâm? Ông buồn phiền: "Trồng ra vườn thì xa mình quá, duối là phải ở gần người mới xanh tốt có hồn được". Cây duối rất khó để tạo dáng. Và câu chuyện bắt đầu từ 30 năm trước khi Nguyễn Thế Vững tròn 30 tuổi là anh nông dân lực điền của Hợp tác xã Thụy Hòa. Một ngày đầu năm 1980, anh nông dân ấy từ bỏ ruộng đồng vác dao đi khắp nơi. Không ai biết anh đi đâu, làm gì nên chỉ có người phán đoán là "thằng này vác dao đi chém người". Lúc đó, Vững gần như trầm cảm, cả ngày không nói lời nào. Người nhà thấy vậy phát hoảng hò nhau, người kéo chân kẻ kéo áo khi thấy Vững vác dao ra đường vào lúc trời nhá nhem tối. "Vững ơi, tao xin mày Vững ơi. Mày chém ai ở cái làng này thì mày chém chết mẹ mày trước đi con ơi", ông Vững nhớ lại lời bà cụ thân sinh khi ra giằng co kéo đứa con "thần kinh" của mình về. Vào sáng hôm sau, cả nhà Vững lại hốt hoảng khi thấy trước sân nhà la liệt cây duối dại. Sau một hồi giải thích, cả nhà mới hiểu và bò lăn ra cười vì "nó vác dao đi đào cây duối". Cuộc đời của anh nông dân bắt đầu "kết duyên" với những cây duối vô giá trị mọc hoang hóa đầy những gò đất ở cánh đồng ngoài nghĩa địa. Ông "vua duối" Nguyễn Thế Vững Nhiều người thấy Vững bỗng dưng bỏ ruộng đi làm cái việc vô công rồi nghề thì toạc miệng: "Thằng hâm mới đi trồng duối". "Mà đúng là mình hâm thật. Cây duối chẳng khác nào củi khô, không thể làm cảnh, không thể lấy quả, không sinh ích lợi... mà mình đi trồng, thế mới dở", ông Vững tâm sự và chính bản thân ông cũng không giải thích được tại sao lúc ấy mình lại đi trồng duối. 30 năm luyện... rồng Cũng từ ngày dở chứng đi trồng duối, Vững bắt đầu lang thang tại các chùa chiền để ngắm cảnh lấy cảm hứng. Trong một lần lên chùa Hàm Long - một ngôi chùa cổ nổi tiếng của Bắc Ninh, Vững phát hiện đôi rồng đá tuyệt đẹp. Từ đó, trong đầu lúc nào Vững cũng nghĩ về rồng và ngày ngày đi lang thang, lân la đến các bãi đất hoang, những bụi cây rậm, thậm chí nửa đêm xách đèn ra bãi tha ma cách nhà ba cây số tìm cây duối có thể uốn hình rồng. Mỗi cây, từ to đến nhỏ đều có riêng một "nhật ký" ghi rõ ngày trồng, chiều cao... Vận may đến vào mùa thu năm 1980 khi Vững đuổi theo đôi rắn hổ mang ở gò đất hoang làng bên. Đôi rắn chui tọt vào hang nhưng phía bên trên lại xuất hiện một "con rồng" kỳ lạ. Đó là cây duối nhỏ có dáng uốn lượn như rồng tuyệt đẹp. Vui mừng, Vững đánh ngay cây duối về nhà trồng vào một cái ang lớn và chăm sóc rất cẩn thận. Như có duyên, vào năm sau khi đi dự đám cưới ở huyện Quế Võ, Vững lại thấy một cây duối hình rồng bên ngay vệ sông Cầu. Bỏ đám, Vững lọc cọc chở duối về nhà. Đủ một đôi rồng tí hon đã quá mừng nhưng công cuộc "luyện rồng" mới đầy gian khổ. Tròn chẵn 30 năm, đôi rồng ấy đã vắt kiệt sức lực của một thanh niên lực điền thành một ông già gầy yếu. "Nhưng đấy là niềm vui, 30 năm tôi ăn ở với duối. Dạy con từ thuở còn thơ, tôi từng ngày mầy mò uốn cho duối thành rồng", ông Vững thỏa nguyện. Có một điều tôi nhận ra ở ông "vua duối dở hơi" là luôn nhận duối là "con" của mình. Suốt 30 năm, những đứa con bằng xương bằng thịt của ông nheo nhóc đều do một tay vợ chăm sóc vì ông bù đầu vào những cuộc kiếm tìm, tạo dáng cho duối và ông cũng thành thật rằng: "Tôi chưa kiếm một xu nào từ duối", đó là lời tâm sự rất thật, vì toàn bộ tài sản duối của ông hiện đều có mặt ở trước nhà. Mỗi cây, từ to đến nhỏ đều có riêng một "nhật ký" ghi rõ ngày trồng, chiều cao... Ông Vững bên tác phẩm "lưỡng long chầu nguyệt". Nhìn đôi "lưỡng long chầu nguyệt" của ông Vững mà không ai không... thèm. Đã có nhiều đại gia đánh xe con về trả ông tiền tỷ để đổi lấy đôi rồng ấy nhưng ông không bán. "Chẳng người cha nào tham tiền đến độ phải bán đứa con mình đi cả", ông Vững cho hay. Khi Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội sắp đến, ông Vững lại mất ăn mất ngủ chăm sóc và hoàn thành những công đoạn cuối cho đôi rồng đi triển lãm. Ngày đưa "rồng" ra xe, cả thôn Thiểm Xuyên hò nhau ra khênh vui như hội. UBND tỉnh Bắc Ninh cũng chi 1.200.000đ giúp ông Vững vận chuyển "rồng"ra Hà Nội. "Tú vườn" và triết lý... bào thai "Thằng hâm mới đi trồng duối" ngày nào giờ đã được dân làng và giới sinh vật cảnh phong cho là "tú vườn" - một chức danh không chính chức nhưng có vẻ chính danh. Ông Vững vốn cũng đã từng tự nhận mình như vậy và ông còn có cả một mớ những triết lý khác lạ về nghệ thuật trồng cảnh mà tôi đồ rằng, từ trước tới nay chưa ai có. Từ cây duối, các thế cây được ông Vững đặt tên rất mỹ miều, ngoài "lưỡng long chầu nguyệt" còn có: Bạt phong hồi cố, huynh đệ đồng khoa, lão giả an chi, phu phụ nhất tử... Những cái tên ấy đều rất hợp với thế cây và tạo cho người thưởng lãm một thú vị về nghệ thuật và văn hóa gia đình người Việt. Ông Vững bảo, trồng duối phải "trong tĩnh ngoài động" tức là bề ngoài phải luôn sôi động, luôn hào hứng và dứt khoát nhưng bên trong tâm hồn phải sau lắng, tạo cho mình một cảm hứng và trí tưởng tượng thì mới có thể tạo thế cho duối như các loài cây khác. Đêm xuống là thời gian ông Vững "sáng tác" ra những thế cây mới cho duối. Ông có triết lý bào thai, muốn có tâm hồn trong trẻo thì phải "tĩnh như bào thai nuôi con nhỏ". Đó có lẽ là lý do mà các con ông không thể chịu được khi thấy bố cứ nửa đêm là lục tục dậy "nói chuyện với cây". "Đôi khi tôi cũng nghĩ, hay là mình "yêu duối quá hóa tâm thần" nhưng không phải. Cái "anh" duối này khó tính lắm. Đấy chú xem cả nước Việt Nam và thế giới có ai trồng và tạo được thế cho duối chưa. Tôi khẳng định là chưa có ai đâu. Duối không đơn giản như cây sanh mà ngược lại, nó có duyên với ai thì nó mới chịu cho tạo dáng, không thì chết ngay", ông Vững tiết lộ. Hiện nay, tổng tài sản của "vua duối" đã lên tới tròn chẵn 100 cây không hơn không kém. Trong đó có nhiều cây rất giá trị với thế dáng độc nhất vô nhị. Hằng ngày, vẫn có những đoàn khách tham quan và có cả những nghệ nhân đến học hỏi cách trồng duối.
    1 like
  24. 5 cây thị cổ được trả giá 7 tỷ đồng Thứ bảy, 9/7/2011, 09:49 GMT+7 Gốc cây lớn, nhiều người ôm không xuể, thân xù xì với những hốc rỗng vài người ngồi lọt, quả thị to nặng tới một kg. Có đại gia đã trả giá 7 tỷ đồng cho cả 5 cây, nhưng chủ nhân nhất quyết không bán. Rừng lộc vừng 500 tuổi ở Huế Ông Lê Minh Thưởng, hậu duệ đời thứ 16 của họ Lê ở xã Nghi Thịnh (Nghi Lộc, Nghệ An), chủ nhân của 5 cây thị cho biết, theo gia phả, cách đây hơn 600 năm, một trận đại hồng thủy cuốn phăng các làng mạc, biến vùng đất ven biển xứ Nghệ này thành một bãi cát trắng. Trên bãi cát bạc màu ấy, 5 cây thị vẫn tươi tốt. Vào thế kỷ 15, một lần dẫn quân đi đánh giặc ngoại xâm, đô đốc Lê Văn Hoan dừng chân ở vùng đất trên, buộc voi vào 5 cây thị vừa để tuyển quân, vừa nghỉ ngơi. Đô đốc Lê Văn Hoan ăn thử một quả thị thấy rất ngọt. Sau lần đó, đoàn quân của đô đốc thắng lớn, Lê Văn Hoan được phong chức Đại nguyên soái Lê Quý Công. Mỗi lần vào thăm 5 cây thị ở vùng đất này, đoàn quân đánh giặc đều giành chiến thắng. Thấy lạ, nguyên soái đã để một số con cháu ở lại để sinh cơ lập nghiệp rồi lập miếu thờ 5 cây thị. Từ đó, con cháu họ Lê sinh sôi, phát triển và trở thành một trong những dòng họ lớn trong vùng. Cây thị Nu nằm ở góc vườn nhà ông Thưởng. Ảnh: Nguyên Khoa. Cũng theo gia phả và nhiều bậc cao niên trong làng kể lại, 5 cây thị cổ này chính là nơi mà đoàn quân của vua Quang Trung đã cột voi trong lần hội quân trước khi ra Thăng Long đánh tan quân Thanh năm 1789. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, 5 cây thị cũng là chứng tích lịch sử. Cụ Nguyễn Văn Nam, 80 tuổi ở xã Nghi Thịnh cho biết, từ nhỏ cụ và các bạn đồng lứa đã ngồi chơi dưới những gốc thị khổng lồ. Đến mùa quả chín, khắp làng trên, xóm dưới đều đến hái quả ở cây thị này. “Nạn đói quay quắt năm 1945 đã khiến nhiều người chết, tuy nhiên nhiều người dân vùng biển đã sống nhờ vào quả của những cây thị già này”, cụ Nam khẳng định. Khi giặc Mỹ ném bom bắn phá, vùng biển Nghệ An là một trong những vùng trọng điểm. Khi đó, một đơn vị phòng không của quân khu 4 đã đóng trong vườn nhà ông Thưởng. Ở dưới mỗi gốc thị là một căn hầm lớn, có giao thông hào thông nhau. Một số cây thị lớn được người dân và bộ đội khoét rỗng để làm bếp nấu và trú bom. “Chỉ huy phòng không của quân khu 4 từng ngồi trong hầm cây thị này để chỉ huy bắn hạ nhiều máy bay địch. Hàng chục đoàn quân khi vào Nam chiến đấu đã đi qua những hầm hào của 5 cây thị già”, một cựu chiến binh ở xã Nghi Thịnh cho biết. Trong suốt những năm chiến tranh gian khổ và cả sau đổi mới, 5 cây thị già bị nhiều người quên lãng. Năm 2006, một đoàn khách du lịch khi đi nghỉ ở Cửa Lò đã vào thăm 5 cây thị cổ của dòng họ Lê. Sau một hồi xem xét những khối u sần sùi, những cái hốc đen ngòm của 5 cây thị, một đại gia đã trả giá cây nhỏ nhất 30.000 USD, cây to giá cao hơn. “Tính ra tiền Việt lúc đó hơn 3 tỷ đồng, nếu tôi bán thì họ sẽ mang tàu biển vào cập cảng Cửa Lò rồi chở cây đi. Đến lúc đó, con cháu họ Lê mới biết dòng họ mình đang giữ bảo vật”, ông Thưởng cho biết. Sau nhiều lần tìm đến mua cây thị, nhưng không có kết quả, vị đại gia nọ đã nâng giá lên 7 tỷ đồng cho 5 cây nhưng ông Lê Minh Thưởng kiên quyết không bán vì “đây là báu vật của tổ tiên, là nguồn mạch phát triển của cả dòng họ”. Ông Thưởng bên cạnh gốc của một cây thị cổ. Ảnh: Nguyên Khoa. Năm 2007, những cây thị già của ông Thưởng được đưa vào chương trình “Chuyện lạ Việt Nam”, từ đó nhiều đoàn khách đã tới thăm, nhiều đại gia ở Nam Định, Quảng Ninh, Hà Nội đã tìm vào đòi mua nhưng ông cũng không bán. Năm 2010, một đoàn nghiên cứu về cây của Hội Bảo vệ thiên nhiên Việt Nam đến phân tích, thu mẫu và kết luận những cây thị này có tuổi đời gần 600 năm. Trong số 5 cây thị ở 5 góc vườn nhà ông Thưởng, cây lớn nhất được gọi là thị Nu. Gốc thị lớn 9-10 người ôm mới xuể, rễ thị cắm sâu vào lòng đất, chạy khắp cả khu vườn. Cũng như những cây khác, thân của cây thị này chi chít những hốc, những khối u sần sùi, da mốc meo với nhiều loại cây tầm gửi trong đó có cả hoa phong lan sinh sống. Mặc dù đều là những cây thị cổ nhưng mỗi cây lại có đặc điểm riêng. Cây thị Nu có quả rất lớn đến gần một kg. Sở dĩ được gọi là thị Nu bởi khi hái xuống thì chưa thể ăn ngay mà phải dấm đến vài ngày mới ăn được. Cây thị lớn thứ hai trong vườn gọi là thị Hồng, có quả chín màu hồng. Một cây khác gọi là thị bần, quả nhỏ, không có hạt và ăn rất thơm. Cây khác được gọi là thị Chàm… Cả 5 cây thị đều bị khoét rỗng ở phía trong với những vết cháy đen ngòm do việc nấu bếp bí mật và những căn hầm dã chiến trong chiến tranh, nhưng ở ngoài vỏ, những cành non mơn mởn cứ tiếp tục đâm chồi mạnh mẽ. “Dù đã rất già cỗi nhưng 5 cây thị là bảo vật thiêng liêng vô giá, là mạch sống của tổ tiên. Một số năm, các cây thị khác trong vùng có thể mất mùa nhưng cả 5 cây thị này đều trĩu quả. Ở tuổi gần đất, xa trời, ước mong lớn nhất của tôi và của nhân dân trong vùng là những cây thị này sẽ sớm trở thành cây di sản Việt Nam, con cháu sau này sẽ tiếp nối truyền thống cha ông, tiếp tục gìn giữ”, ông Lê Minh Thường vừa ôm lấy hốc cây thị già vừa nói. Đại diện chương trình Cây di sản Việt Nam thuộc Hội Bảo vệ Thiên nhiên & Môi trường Việt Nam cho biết, mặc dù các chuyên gia của hội đã biết đến 5 cây thị hiếm có này, tuy nhiên hội vẫn chưa nhận được đơn đăng ký cây di sản của ông Thưởng. Sau khi nhận được đơn, Hội sẽ lập đoàn kiểm tra, thẩm định để công nhận 5 cây thị là cây di sản Việt Nam. Hà Nguyên Khoa 5 cây thị cổ Cả 5 cây đều có đường kính lớn, được xác định tuổi thọ 600 năm với nhiều thế đứng nằm ở 5 góc vườn. Gốc những cây thị sần sùi, vỏ mốc trắng. Trên mỗi cây thị có rất nhiều hốc rỗng. Phía dưới gốc các cây thị đều bị khoét rỗng từ thời chiến tranh để làm bếp nấu và hầm tránh bom. Có những hốc cây rất rộng, đến vài người chui lọt. Phía trong những hốc cây thị đều bị đốt cháy đen vì khói bếp. Mỗi cây có một tư thế khác nhau nhưng cây nào cũng có nhiều cành, nhiều u sần sùi. Nhiều rễ nổi trên mặt đất được những lớp rêu xanh bao bọc, chạy khắp các góc vườn. Trên thân cây thị có rất nhiều loài tầm gửi sinh sống trong đó có cả hoa phong lan. Những cành thị lớn mọc trên các gốc cây khổng lồ vươn lên che bóng khắp khu vườn. Trận bão năm 2010 khiến một số cành thị bị gãy… Nhưng ngay dưới cành bị gãy và hốc cây sần sùi là những chồi thị non đang mọc. Nguyên Khoa
    1 like
  25. Tắm tiên ở giếng thần Ngọc Lâu Cập nhật lúc 29/06/2011 08:00:00 PM (GMT+7) Bản Khộp (xã Ngọc Lâu, Lạc Sơn, Hòa Bình) có một cái "giếng thần". Tất cả già trẻ trai gái có tục tắm tiên ngay bên miệng giếng. 'Hòn ngọc xanh' ở lưng chừng núi Ngắm phụ nữ với thổ cẩm Dao đỏ Khám phá "du lịch bay" 10 nơi ở kỳ lạ nhất Kỳ nghỉ tuyệt vời tại hòn đảo tình yêu Giếng không bao giờ cạn Ông Bùi Văn Chấn - Chủ tịch UBND xã Ngọc Lâu - tự hào: "Xã chúng tôi có cái "giếng thần" thì dù trời hạn hán đồng ruộng cũng không sợ hết nước". Nói xong, ông dẫn chúng tôi đến bản Khộp cao chót vót trên đỉnh núi để mục sở thị "giếng thần" kỳ lạ này. Đó là một mó nước khá sạch sẽ. Bốn bên xây bằng bê tông vuông vức nhưng nước không lúc nào cạn. Một số thanh niên nghịch ngợm ở bản Khộp đã thử tát nước ra ngoài suốt đêm nhưng giếng không cạn một chút nào. Điều này được kiểm nghiệm qua anh Bùi Văn Hanh, nhà ngay cạnh "giếng thần". Anh Hanh cho hay: "Không biết mạch nước ở đâu nhưng dùng máy bơm cỡ lớn để tát cả đêm vẫn không thể hết nước trong giếng". Người dân bản Khộp giặt giũ, tắm rửa bên giếng Ông Bùi Văn Huy - Trưởng ban Văn hóa xã Ngọc Lâu - cho hay: "Trước đây, "giếng thần" nhìn rất hoang dã như một mó nước tự nhiên. Vì sợ bị mai một nên chúng tôi cho xây dựng tường bao để bảo vệ. Tuy nhiên, tính linh thiêng và mực nước trong giếng vẫn không hề thay đổi". Cụ Bùi Văn Én đã hơn 90 tuổi nhưng vẫn còn nhớ rất rõ câu chuyện cha ông kể lại rằng, "giếng thần" có từ thời đẻ đất, đẻ nước. Trời sinh ra "giếng thần" để nuôi sống muôn loài trên vùng núi đá cao này. Trước đây, bản Khộp là vùng rừng rậm có nhiều thú dữ. Ngay cụ Én thời trẻ cũng phải thường xuyên chạy vào các hang núi để trốn hùm beo. Thú dữ cũng đã làm hại nhiều người dân bản khi họ dùng nước tại "giếng thần" này. Tuy nhiên, theo quan niệm địa phương, muông thú bình đẳng với con người nên không ai được phép đánh đuổi thú dữ khi đến với "giếng thần". Vì thế, một thời "giếng thần" Ngọc Lâu là tài sản chung của tất cả người Mường sống dọc ven núi Hòa Bình và các muông thú trong rừng rậm. Cụ Én cho hay: "Sống gần hết đời người và ăn ở với "giếng thần" nên tôi biết nó thiêng lắm. Các anh có vứt chất bẩn gì xuống đó thì nước vẫn trong vắt và người làm bẩn giếng chắc chắn sẽ bị trừng phạt". Cụ Én kể câu chuyện, có người đến giếng chửi thề và ngay lập tức bị méo mồm. Gia đình đưa nạn nhân đi các thầy lang nhưng không ai chữa khỏi, cuối cùng phải về thắp hương xin lỗi thần giếng và múc nước cho uống thì bệnh tình mới thuyên giảm. Không biết những câu chuyện ấy thực hư đến đâu nhưng tất cả người Mường ở bản Khộp nói riêng và người dân xã Ngọc Lâu nói chung đều rất kính cẩn trước "giếng thần". Họ coi đó là biểu tượng linh thiêng nhất của người Mường bản địa và là nguồn sống của người dân vùng núi đá này. Tục tắm tiên "Giếng thần" Ngọc Lâu linh thiêng còn là nơi làm đẹp của người Mường ở bản Khộp đầy bí ẩn. Hầu hết con gái bản Khộp đều có làn da rất trắng và mịn màng. Họ bảo, đó là do tắm rửa bằng nước "giếng thần". Cũng không biết từ khi nào, người dân nơi đây có tục tắm tiên ngay bên miệng giếng. Tất cả già trẻ trai gái đều tắm tiên với nhau mà không mảy may có một ý nghĩ xấu nào. Họ tắm tiên tại giếng với mong ước được gột rửa những tội lỗi, phàm tục trong cá nhân mỗi con người để trở nên trong sạch hơn. Theo ông Huy, người bản Khộp ngày nào cũng tắm tiên. Họ tập trung vào khoảng 11 giờ trưa và từ 5 giờ chiều cho đến lúc tối mịt. Giờ cao điểm có đến hàng trăm người xếp hàng lũ lượt chờ đợi để được tắm. Nước giếng trong vắt Theo cụ Én, tục tắm tiên của người bản Khộp có liên quan đến lời đồn ma quái cách đây hàng trăm năm: "Thời ấy, có con ma rừng hay đi bắt người về hang trên núi. Con ma rừng đã hại rất nhiều người bản Khộp mà không có cách nào ngăn chặn được. Thế rồi, có một pháp sư người Mường Bi từ dưới sông Mã đạp nước cưỡi mây dùng bùa phép trấn yểm con ma này. Pháp sư căn dặn dân làng phải tắm ở nước giếng thần thì con ma mới không dám bắt. Thế rồi, từ đó đến nay người bản Khộp có tục tắm tiên nổi tiếng khắp tỉnh Hòa Bình". Giếng 2 màu nước Theo lời ông Bùi Văn Lơ - Trưởng bản Khộp - thì giếng có hai màu nước là sự kỳ lạ chưa từng có. Sau khi làm xong tất cả các "thủ tục", bỏ lại giầy dép, máy ảnh... ông Lơ mới dẫn chúng tôi vào xem hai tia nước kỳ lạ dưới đáy giếng. Quan sát kỹ, phần đáy giếng có hai tia nước bắn rất mạnh. Một tia nước màu trắng tinh, một tia màu hồng nhạt. Hai tia nước này được bắn lên từ một khe nhỏ của khúc gỗ dưới đáy giếng. Theo Bee.net.vn 'Hòn ngọc xanh' ở lưng chừng núi Ngắm phụ nữ với thổ cẩm Dao đỏ Khám phá "du lịch bay" 10 nơi ở kỳ lạ nhất Những luật lệ lạ đời nhất thế giới Kỳ nghỉ tuyệt vời tại hòn đảo tình yêu
    1 like
  26. Những bích họa bí ẩn trên núi Cửa Chùa Cập nhật lúc 28/06/2011 10:27:47 AM (GMT+7) Từ vách đá sần sùi, trắng xóa dần hiện lên những vệt đỏ ối. Nước chảy đến đâu, sắc đỏ xuất hiện đến đó và theo thời gian màu đậm dần lên. Khi dòng nước chảy hết một khoảnh trên phiến đá, thì hình ảnh một người đàn ông to lớn, dũng mãnh, dữ dằn hiện lên đỏ rực. Sau khi hứa lên bờ xuống ruộng rằng không tiết lộ cụ thể địa điểm có hình vẽ bí ẩn trên vách đá, tôi được Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Luyên giới thiệu tới ông Trần Xuân Quang, Trạm trưởng trạm du lịch Vân Long. Theo Thạc sĩ Luyên, ông Quang là một trong số ít người biết rõ vách đá có hình vẽ bí ẩn, độc nhất được biết đến ở Việt Nam. Sau phút ngần ngừ, rồi ông Quang cũng gọi anh Nguyễn Văn Nhàn, là cộng tác viên của khu du lịch, có nhiệm vụ tuần tra kiểm soát người ra vào, trông nom đàn voọc trong những dãy núi của khu ngập nước Vân Long. Mái đá chứa những bích họa bí ẩn. Anh Nguyễn Văn Nhàn chống sào đẩy con thuyền nhỏ lướt nhẹ trên đầm Vân Long. Cảnh tượng núi đá mọc lên giữa khu ngập nước, soi bóng lung linh, với sen tỏa ngát hương, chả khác nào bồng lai dưới hạ giới. Dãy núi Cửa Chùa dài gần cây số, là một trong số cả chục dãy núi thuộc khu ngập nước Vân Long, vắt qua hai tỉnh Ninh Bình và Hòa Bình, rộng vài ngàn héc-ta. Toàn bộ các dãy núi đều là núi đá vôi, với vô vàn vách đá phản ánh mặt trời trắng xóa. Nếu không có sự chỉ dẫn, tự lần mò đi tìm, chắc cả năm cũng thấy hình vẽ ở đâu. Con đường từ bến thuyền đến núi Cửa Chùa chỉ dài chưa đầy 1km, song Nhàn phải chèo thuyền ngót 30 phút mới tới nơi. Lâu ngày không có người ra vào dãy núi này, sen mọc bít lối đi. Nhàn phải đẩy thuyền cật lực mới đè bẹp được những lá sen to như cái ô để thuyền lướt đi. Bích họa người đàn ông dữ tợn. Toàn bộ dãy núi Cửa Chùa cỏ mọc rậm rịt, dây leo chằng chịt. Thi thoảng có những vách đá trống trơn, phải chiếu ánh mặt trời trắng xóa, không có cây cỏ nào bám lên được. Chúng tôi chỉ trỏ hết vách đá này đến vách đá kia để phán đoán nơi có những bích họa lạ lùng, song Nhàn chỉ cười tủm tỉm. Rồi con thuyền cũng cập chân núi. Nơi đây, có một bãi đất khá bằng phẳng, khô ráo, rộng rãi và sạch sẽ. Vách đá như một bức tường thành khổng lồ, nghiêng chừng 70 độ, như thể sắp đổ ụp xuống. Nhàn chỉ tay lên vách đá rộng vài trăm mét vuông bảo: “Anh đi tìm xem hình vẽ ở chỗ nào”. Tôi lần mò khắp vách đá, ngửa mỏi cổ nhìn lên cao, vạch từng bụi cỏ song tuyệt nhiên chả thấy có hình vẽ, hình khắc nào cả. Có chăng, chỉ thấy vài vết vạch nguệch ngoạc như ai đó dùng dao chém vào. Không thể nhìn thấy hình vẽ khi chưa dội nước vào vách đá. Nhàn chẳng nói chẳng rằng ra mép đầm hái một lá sen to tướng rồi vục đầy nước. Nước đầm trong đến nỗi nhìn rõ cả con cá bé xíu bằng cọng tăm bơi lội. Nhàn bê bịch nước đứng dưới chân vách đá bảo: “Anh nhìn kỹ nhé, toàn bộ vách đá màu trắng, sần sùi tự nhiên, không có tranh vẽ gì cả”. Thì đúng là vách đá chẳng có gì, bởi tôi đã lần mò tìm kiếm kỹ lưỡng một lượt. Nhàn ráng sức té bịch nước lên vách đá. Một cảnh tượng như ma thuật hiện ra trước mắt tôi: Từ vách đá sần sùi, trắng xóa dần hiện lên những vệt đỏ ối. Nước chảy đến đâu, sắc đỏ xuất hiện đến đó và theo thời gian màu đậm dần lên. Khi dòng nước chảy hết một khoảnh trên phiến đá, thì hình ảnh một người đàn ông to lớn, dũng mãnh, dữ dằn hiện lên đỏ rực. Không rõ đây có phải là chữ tượng hình cổ không? Người đàn ông này có khuôn mặt tròn xoe, hai mắt là hình vẽ tròn như hai hòn bi ve, đôi tai rất lớn và mái tóc trông như ngọn lửa đang cháy. Nhìn toàn bộ khuôn mặt, thì có thể thấy người vẽ muốn biểu đạt đây là người kỳ quái, hung tợn. Lạ nhất là phần khắc họa bụng. Những nét vẽ ở bụng như kiểu giải phẫu, với xương sườn và nội tạng. Tuy nhiên, vì nét vẽ không chi tiết, rõ ràng, nên cũng có thể hiểu đó là áo giáp. Đây là người, khỉ hay mèo? Riêng hình vẽ phần chân thì mang tính cách điệu nhiều hơn là tả thực. Đôi chân khá nhỏ, đứng trong tư thế… xiêu vẹo. Bàn chân thì không có, nhưng các ngón chân thì dài và ngoằn ngoèo như thể rễ cây. Không rõ phần chân của người đàn ông này muốn biểu thị điều gì, hay là sự ngô nghê của con trẻ khi đặt bút? Khả năng ngô nghê ít xảy ra, bởi hai điều, thứ nhất là địa điểm vẽ khá cao, trên vách đá, mà người lớn phải kiễng chân mới với tới được, thứ hai, chất liệu vẽ trên đá không phải là sơn hay mực tầm thường (điều này sẽ nói sau). Như vậy, đôi chân kỳ quái của người đàn ông này phải biểu thị một ý tưởng nào đó, cần sự giải mã của các nhà khoa học. Hai tay người đàn ông này cầm hai thứ vũ khí khác nhau. Tay phải cầm quả chùy cán dài, tay trái cầm thanh đao và giương ra hai bên như thể đe dọa. Xét về mặt tổng thể, có thể tưởng tượng đây là một chiến binh. Bích họa hình người cực kỳ đơn giản. Sau khi quan sát kỹ lưỡng bức họa người đàn ông kỳ dị, tôi dùng chai nước khoáng bằng nhựa múc nước dưới đầm rồi phụt bừa lên vách đá. Nước chảy đến đâu, các nét đỏ ối hiện lên đến đó. Chỗ nào nhiều nước thì màu đậm, chỗ nào ít nước thì màu hiện lên mờ nhạt. Chỉ dội qua một lượt, tôi đếm được tới vài chục hình vẽ. Các hình vẽ khác đều có tiết diện nhỏ hơn so với hình vẽ người đàn ông dữ tợn. Những hình vẽ trên mái đá không theo một thể thống nhất, xuất hiện lộn xộn và rải rác khắp mọi nơi. Có chỗ các hình vẽ tập trung dày đặc, có chỗ lưa thưa vài hình, có chỗ chẳng có hình vẽ nào. Có hai nội dung mà các hình vẽ biểu thị, gồm hình người và ký tự lạ. Các ký tự xuất hiện rất nhiều, có chữ hơi giống chữ Nho, song có chữ như thể tượng hình tả một con vật nào đó. Liệu đây có phải là một loại chữ cổ thời xa xưa? Nếu đây là hệ thống chữ cổ, thì quả là một thông tin vô cùng quý giá. Cậu bé ngồi trên ngai vàng? Về hình người thì có vô số hình vẽ khác nhau, có hình cầu kỳ phức tạp, với đầy đủ tay chân, đầu tóc, vũ khí, song có hình rất đơn giản, chỉ gồm cái đầu tròn xoe và thân hình bầu, thêm mỗi cái tay nữa. Có hình tôi nhìn mãi mà không biết chủ nhân vẽ người, khỉ hay mèo. Nhìn ở một cách toàn diện, thì vừa giống khỉ vừa giống người, nhưng nhìn riêng khuôn mặt thì lại rõ là con mèo. Phổ biến nhất có lẽ là hình người, gồm cả trai lẫn gái nhảy múa bên nhau, rồi hình người tay cầm dao kiếm. Hình vẽ nhiều nhất là cảnh nhảy múa. Lạ nhất là một khu vực dày đặc người, nhảy múa có hàng có lối. Phía trên cùng là một người đang ngồi không rõ trên ghế hay ngai vàng. Hình nhìn vẽ này, có thể liên tưởng người ngồi trên ghế là ông chủ, vua chúa, đấng tối cao. Tuy nhiên, người ngồi trên ghế lại giống một đứa trẻ, đầu đội mũ, miệng cười rất tươi. Nhìn các hình vẽ, có thể thấy nhiều sắc thái, nhiều khung cảnh hiện lên. Đó có thể là mô tả về chiến tranh, về đời sống thường nhật, về các lễ hội… Tôi cứ vục nước té lên khắp mái đá, để rồi ngắm nhìn không chán mắt những bích họa ma quái, kỳ lạ, lúc ẩn, lúc hiện trên vách đá. (Theo VTC News)
    1 like