• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 02/01/2012 in Bài viết

  1. Chữ Thờ Ngày nay nghe chữ Thờ người ta cứ liên tưởng tới cái gì thần bí như mê tín. Thực ra chữ Thờ trong tiếng Việt đơn giản là sự tôn trọng. Người Việt hiếu học nên rất tôn trọng Thầy. Muốn khẳng định một Từ người ta chỉ việc thêm vào sau tiếng đó một từ khẳng định. Ví dụ thời tiên Tần, chỗ nguy hiểm không thể đi được, người ta chỉ cần cắm biển để hai chữ “Hiểm Chi 險 之”; chỗ có thể đò qua được, người ta chỉ cần cắm biển đề hai chữ “Độ Chi 渡 之”. Những từ khẳng định trong tiếng Việt là Ờ ! = Ừ ! = Chứ ! = Chi ! = Chớ !.= Đó ! = Đấy ! = Đích ! ( từ "Đích Xác" nguyên gốc nó là từ "Xác Đấy" ! , cái gốc đối nguyên thủy 0/1 là Xạo/Xác, “đứa nói Xạo, kẻ nói Xác, biết tin ai”, 1 = Chắc = Chạc = Xác, Chững Chạc là Đứng Vững Chắc như con 1 là Đinh Đóng Cột). Khẳng định chữ Thầy thì thêm từ khẳng định vào sau: “Thầy Ờ”=Thờ, như vậy chữ Thầy đồng nghĩa với khái niệm tôn trọng (Thầy Ờ là một câu, trong đó “đề” là Thầy, và “thuyết” là Ờ, nhưng Thờ thì đã thành một từ, do lướt một câu mà thành. Bởi vậy nói đến chữ Thờ tức nói sự tôn trọng. Người Việt xưa đã đề ra 5 cái mà mỗi con người trong xã hội phải tôn trọng là 5 cái Thờ là: THIÊN-THỔ-THỂ-THÂN-THẦY là 5 kẻ mà mỗi người đều phải “Thượng Tôn Chớ !”=Thờ. Thượng tôn Thiên (thờ Trời), thượng tôn Thổ (thờ thổ công), thượng tôn cá nhân mình (thờ Thể), thượng tôn ruột rà (thờ Thân), thượng tôn Thầy (thờ Thầy). Tóm lại là thượng tôn toàn thể. Về sau đạo nho viết thành câu trên hoành phi để thờ trong mỗi gia đình Việt là năm chữ (lại cũng 5 chữ như Ngũ Hành) là Thiên-Địa-Quân-Thân-Sư (天 地 君 親 師). Nếu xoay bức hoành phi ấy đi 90 độ để dựng đứng nó lên như con người đứng thẳng (Đứng=Vững=Chững=Chín=Chính) thì sẽ thấy từ trên xuống dưới là THIÊN-ĐỊA-QUÂN-THÂN-SƯ, trong đó đứng giữa là QUÂN tức mỗi con người trong xã hội (Quân=Quan=Con=Cần=Mân=Dân=Nhân=Rấn- “ren”, như phát âm của Hán ngữ, vẫn chỉ là mỗi con người trong xã hội, dù có là Quan hay là Quân tức vua thì cũng là con của dân, là một công dân bình đẳng của xã hội). Theo thành ngữ Việt thì “Kính trên nhường dưới”, “Kính già thương trẻ” nên ở cái bức hoành phi dựng đứng (Chính) này thì mỗi Con chân chính đứng ở giữa, nhìn lên thì nhìn thấy cao nhất là chữ “THIÊN”, tức phải biết “Thượng Tôn Pháp Luật”, là cái Trật Tự mà cả xã hội đã đề ra. Tiếp đến là thấy chữ “ĐỊA”, tức phải “Tôn trọng Thổ” là những cái Thật đang hiện hữu ở địa phương mình sinh sống (Địa chất, Địa lý, Đạo đức, Đạo giáo, Đời sống của nhân dân địa phương mình sinh sống). Nhìn xuống thì thấy chữ “THÂN”, tức phải biết “Tôn trọng ruột rà”, coi mọi người trong cộng đồng như người thân của mình. Tiếp đến thấy chữ SƯ, tức phải biết “Tôn trọng Thầy”, cũng là tôn trọng nhân dân như người thầy vĩ đại của mình ( cụ thể thì mỗi cá nhân trong cộng đồng cũng là một người thầy, bởi đều có sở trường riêng, đều có sáng kiến, bất kể học vấn hay giàu nghèo khác nhau, như câu ngạn ngữ Việt “Con gà có mỏ, con chó có lông, cây tre có mắt, nồi đồng có quai”), ( QT từ Viêt: “Thấy Thật Đầy”=Thầy, “Thấy Thật Thành Mạnh”=Thánh).
    2 likes
  2. Năm tới quan lộ thì thấy sáng sủa như ban ngày đi không cần thêm đèn pin ,có thể được lên chức hay thêm lương,tài lộc thì có vào dễ mà thấy cũng có sự hao tốn cho việc gì đó cũng không còn được là bao ... có điều đáng đáng chú ý khó mà tránh được ,nếu không gặp khó khăn với ông chồng củ thì cũng gặp tai tiếng thị phi không nhỏ chuyện nầy có thể kéo dài cả năm ,có thể bắt đầu từ tháng 02 al với những tháng cần chú ý 4-6 ,nếu chưa xảy ra sớm ở những tháng 1/2 đầu năm thì những tháng 8-10 -11 al rất nặng nề ,sức khỏe có bệnh thì không nghiêm trọng nhưng kéo dài lâu khỏi .
    1 like
  3. Sang năm tiểu hạn vào cung Tý Đào hồng phiêu diêu gặp kỵ hà sát Ôi tình duyên. Đất này lưu Hổ Kình . Có đám đông muốn cãi nhau . Lại thấy tả hữu cơ tồn khoa muốn giữ lại mà không được . Vậy giữ cái gì đây? "nếu chưa muốn lập gia đình thì nên cân nhắc cẩn thận trước khi quan hệ với người khác phái " Số này thân cư Phu nằm nhầm vào đất tử lại cô quả thủ chiếu. Mệnh VCD nên dù sao lập trường khó vững vàng . Lại có cung di luôn có thiên hình nên nguyên tắc cứng nhắc. Kha kha số này yêu được đã là khó hỏi lấy được có mấy chàng? Lão đồng ý với bác HTH. sang năm nên cẩn thận
    1 like
  4. Em đợi đến cuối tháng 2 đầu tháng 3 xem có chuyện gì không ?
    1 like
  5. NNC LHDP NGUYỄN VŨ TUẤN ANH DỰ BÁO TOÀN CẢNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM http://ktcatbd.com.v...-a-vit-nam-2012 NNC LHDP NGUYỄN VŨ TUẤN ANH: DỰ BÁO TOÀN CẢNH THẾ GIỚI & VIỆT NAM 2012 Năm 2004, Nhà nghiên cứu Lý học Đông phương Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương đã dự báo trước trận động đất kinh hoàng sẽ xảy ra ở Indonesia và Philippine. Năm 2008 chính ông đã dự báo sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu sẽ xảy ra vào tháng 5/2008. Năm 2010 với tuyên bố đình đám là ông sẽ “đuổi mưa” suốt 10 ngày diễn ra Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, điều này đã được chứng nghiệm qua 10 ngày Đại lễ. Năm 2011 ông đã đưa ra những dự báo về thị trường chứng khoán, bất động sản và vàng…Năm nay, ông tiếp tục đưa ra những dự báo cho năm 2012, mời độc giả tham khảo và chiêm nghiệm... Những di sản của nền văn hóa Đông phương có rất nhiều phương pháp dự báo cho tương lai. Những phương pháp này rất khác nhau, nhưng đều phản ánh một thực tại sẽ xảy ra, mọi năm tôi thường sử dụng phương pháp Lạc Việt Độn toán, trong đó dùng các quẻ để dự báo các hiện tượng. Năm nay, do những nghiên cứu mới về Huyền không Lạc Việt nên tôi đã ứng dụng thêm phương pháp này để dự báo kết hợp với Lạc việt độn toán. Theo Huyền không Lạc Việt được thể hiện như đồ hình dưới đây: Đồ hình Huyền không năm Nhâm Thìn: Trên cơ sở Huyền Không Lạc Việt mà tôi trình bày ở bảng trên thì Thái Tuế động cung Thìn (Khôn) ở Đông Nam theo Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Đối xung Thái Tuế sẽ ở Tây Bắc, Tuế Phá sẽ ở Tây Nam – điều này thì tất cả các nhà nghiên cứu Lý học đều thống nhất và các sách cổ cũng thống nhất như vậy, dù cách gọi có thể khác nhau. Theo chu kỳ thì cứ 12 năm Thái Tuế - tức Mộc tinh – lại về vị trí đã định sẵn. Nhưng chu kỳ Huyền Không thì khác nhau – 9 năm mới lặp lại một lần và cứ 180 năm mới lặp lại vận 20 năm. Vận từ 2004 đên 2003 là vận 8 cũng là tượng của Thái Tuế nhập trung cung. Ngoài ra còn những Hội, Đại Vận, Đại vận hội....theo tính toán của Lý Học Đông phương. Để giản lược những phương thức phức tạp liên quan đến các Đại vận, Hội và Đại vận Hội, mang tính chuyên môn sâu, chúng tôi chỉ trình bày trên cơ sở Huyền Không Lạc Việt theo đồ hình đã trình bày ở trên với vận 8. Trên cơ sở này, chúng tôi dự báo rằng: THẾ GIỚI NĂM 2012 Về kinh tế toàn cầu Năm 2008, tôi đã dự báo về một sự suy thoái kinh tế toàn cầu và lời dự báo này đã được đăng trên số báo Xuân Gia Đình & Xã hội - thì đó là năm mà nhiều đại Cty đã sụp đổ trên thế giới. Qua năm 2010 tôi cũng xác định và dự báo cho rằng đây là năm mà sự khủng hoảng kinh tế mang tầm cỡ quốc gia. Thực tế đã cho thấy nhiều quốc gia nợ công cao ngất ngưởng và họ phải có những gói cứu trợ và tiếp tục vay nợ của nước ngoài. Từ đầu năm 2011 tôi đã dự báo rằng: Đây là một năm chịu hậu quả tiếp tục của sự suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 và sẽ ảnh hướng đến đời sống, an sinh xã hội, dẫn tới khủng hoảng xã hội ở nhiều quốc gia. Năm 2012 chúng tôi cho rằng: Nền kinh tế thế giới tiếp tục suy thoái ở cấp quốc gia, nối tiếp của sự tiếp tục suy thoái kinh tế thế giới năm 2011 nhưng ở mức độ trầm trọng hơn. Nếu như ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 2008 tôi đã dự báo những công ty tầm cỡ quốc tế bị phá sản thì năm 2011 và 2012 sẽ có nhiều doanh nghiệp bậc trung và thấp phá sản. Đương nhiên hệ quả của nó là kéo theo số người thất nghiệp đông đảo. Những ngành nghề mang tính truyền thống như: sản xuất hàng tiêu dùng, điện tử dân dụng, xây dựng, bất động sản, du lịch… sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và đình trệ. Thị trường chứng khoán thế giới suy thoái nặng. Có thời điểm xuống dốc rất bất ngờ nhất là cuối Xuân, đầu Hè. Ở nhiều quốc gia có thể nói kinh tế suy thoái nặng nề, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Nhiều quốc gia xuất hiện sự lạm phát trầm trọng và tất nhiên đẩy giá cả tăng vọt và làm khủng hoảng thêm trầm trọng vì mất cân đối giữa các khu vực kinh tế và an sinh xã hội. Bất động sản trên toàn thế giới đều bị tình trạng khủng hoạng thừa, ở một số nước là sự bùng nổ của bong bong bất động sản, hậu quả của nó dẫn tới sự đổ vỡ của các ngành liên quan như: ngân hàng, vật liệu xây dựng, ngành xây dựng.... Thị trường chứng khoán thế giới suy thoái nặng. Có thời điểm xuống dốc rất bất ngờ nhất là cuối Xuân đầu Hè. Bất động sản tiếp tục ảm đạm, suy thoái. Vàng và giá dầu thế giới bắt đầu tăng đáng kể bắt đầu từ tháng Hai Việt lịch. Ngành ngân hàng lao đao. Thiên tai Năm 2011 thế giới đã chứng kiến và trải qua những thiên tai nặng nề về những trận lũ lụt, hạn hán, động đất mang tính kỷ lục – và điều này cũng đã được chúng tôi dự báo trước trong dịp Lễ Tất Niên năm ngoái - thì năm Nhâm Thìn 2012 thiên tai còn tăng nặng hơn và mức độ tàn phá cũng như những thiệt hại, ảnh hưởng sẽ còn tăng hơn so với năm 2011 rất nhiều. Đặc biệt là về cuối năm, có thể nói năm 2012 là năm khủng hoảng về thiên tai trong lịch sử văn minh nhân loại được ghi nhận. Những nước càng gần phía Bắc bán cầu càng bị ảnh hưởng nặng nề. Theo hình vẽ Huyền không trên đây thì nơi xảy ra thiên tai nặng nhất là Tây Âu, Đông Nam Á, Úc, Nam và Đông nam Trung Quốc. Nói chung là trục Tây Bắc – Đông Nam theo sự phân cung trong hình Huyền không mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Càng về cuối năm thiên tai càng tăng nặng. Hạn hán sẽ rất nghiêm trọng so với năm 2011, những thiệt hai do các trận lụt lội, mưa bão…như năm Tân Mão sẽ gia tăng hơn vào năm Nhâm Thìn - 2012. Ngoài ra còn có những hiện tượng bất thường của tự nhiên như: lốc xoáy, mưa đá, bão tuyết…. xảy ra nhiều hơn. Sẽ có những trận động đất lớn, tuy chưa xác định được cường độ, nhưng sẽ gây nhiều thiệt hại. Đặc biệt là những quốc gia nằm trong vành đai lửa, như Úc, Indonesia, Nam Philippin... (những nơi thường xuyên phải đề phòng). Những nơi khác mà chúng tôi đã trình bày ở trên cũng là những địa danh tiềm ẩn khả nặng động đất lớn. Năm 2012 tuy không có trận động đất với cường độ lớn như trận động đất ở Nhật Bản vào 11. 3. 2011; nhưng sẽ xuất hiện nhiều trận động đất tuy nhỏ hơn về cường độ, lại gây thiệt hại lớn. Dịch bệnh Sẽ xuất hiện nhiều loại bệnh lạ, nhưng không mang tính phổ biến, chỉ xuất hiện cục bộ tại các vùng miền hoặc giới hạn trong lãnh thổ quốc gia. Những trận đại dịch sẽ manh nha vào cuối năm. Chiến tranh Nếu như năm 2011 chúng tôi chỉ đặt vấn đề "Thế giới nên đề phòng chiến tranh cấp quốc gia" thì năm 2012 sẽ có chiến tranh cấp quốc gia, điều này có thể xảy ra vào ngay đầu năm tới. Chậm không quá nửa đầu năm. Nơi xảy ra có thể là: Trung Đông hoặc Đông Bắc Á. Nhưng khả năng xảy ra ở Trung Đông nhiều hơn. Vấn đề Biển Đông nói chung sẽ xảy ra nhiều tranh cãi, nhưng sẽ không có chiến tranh lớn xảy ra. Sẽ có nhiều dấu hiệu rất tốt đẹp cho chủ quyền của Việt Nam tại các vùng đảo Hoàng Sa. Trường Sa. Ở đây tôi cần xác định rằng: Nếu ở Biền Đông không xảy ra chiến tranh thì điều nàycuũng đồng nghĩa với không có chiến tranh ở Đông Bắc Á. Khủng bố Các nhóm khủng bố ngày càng giảm về số lượng và mức độ nguy hiểm, sẽ không gây được những ấn tượng lớn. Cuộc khủng hoảng và các tổ chức khủng bố ở Afghanixtan gần như bị vô hiệu hóa. Tuy nhiên lại xuất hiện nguy cơ hình thành các nhóm khủng bố ở các vùng miền khác. Mức độ táo bạo và không kém phần nguy hiểm của các hoạt động của các nhóm này. Nhưng chỉ thể hiện ở những nước nhỏ. Nhìn chung thì các sự kiện liên quan đến khủng bố giảm hẳn, nhiều tổ chức khủng bố bị bắt hoặc tan rã. Các vấn đề tệ nạn xã hội Khủng hoảng xã hội sẽ tăng nặng do suy thoái kinh tế gây ra. Xuất hiện nhiều cuộc biểu tình, đình công hoặc các cuộc bạo động ở một số quốc gia. Sẽ xuất hiện những cuộc đối đầu giữa lực lương bảo vệ và chống đối gây khủng hoảng nghiêm trong ở ngay các cường quốc hiện nay. Những tệ nạn xã hội sẽ ngày một nhiều nhưng các vụ việc mang tính nghiêm trọng, đặc biệt tàn ác sẽ giảm. Các tệ nạn xã hội như: trộm, cắp, cướp giật tăng về số lượng nhưng giảm về mức độ nghiêm trọng. Nạn đói sẽ xảy ra do những thiên tai nói trên và do mâu thuẫn xã hội chủ yếu xảy ra ở Châu Phi và Nam Á. Xã hội khủng hoảng, giá trị văn hóa truyền thống bị xáo trộn, xuất hiện những lối sống mới . Ở một khía cạnh nào đó, ở bộ phận dân chúng sẽ xuất hiện trào lưu tín ngưỡng mới. Có một số siêu cường gặp những khủng hoảng xã hội lớn sẽ phải giải quyết, gây dấu ấn trong lịch sử. Sẽ có nhiều chính phủ không làm hết nhiệm kỳ ở những cường quốc. Những điểm nóng về ma túy ở Mexico sẽ giảm hẳn do nỗ lực của chính phủ và đồng minh. Nhưng tệ nạn buôn bán ma túy và các tệ nạn khác, như: buôn lậu, buôn người, nhập cư trái phép... vẫn không giảm ở các vùng khác trên thế giới và có chiều hướng tăng nặng hơn. Chi tiết này của dự báo sẽ được thẩm định qua những tần xuất kẻ phạm tôi bị pháp luật trừng trị trong năm 2012. An toàn vệ sinh thực phẩm Có thể nói về an toàn vệ sinh thực phẩm, hàng tiêu dùng không giảm mức độ tiêu cực, mà có nơi trở thành vấn đề quốc gia cần quan tâm. Khoa học kỹ thuật Quân sự Khoa học kỹ thuật quân sự sẽ có nhiều tiến bộ vượt trội và phát triển mạnh mẽ. Những siêu vũ khí sẽ ra mắt và làm những phương thức chiến tranh hiện đại trở thành cổ điển. Cụ thể là những siêu vũ khí vũ trụ sẽ ngày càng hoàn thiện và xuất hiện những loại vũ khí mới với những cấu trúc phi truyền thống, thí dụ như vũ khí lade... Dân sự Tuy nhiên, trong sự suy thoái kinh tế toàn cầu, một số ngành khoa học kỹ thuật mũi nhọn như tính năng các phần mềm điện tử, kỹ thuật thông tin truyền thông, các ngành khoa học cơ bản, khoa học lý thuyết vẫn phát triển. Xu hướng nghiên cứu về robot, tự động hóa sẽ rất phát triển trong năm tới tất nhiên sẽ có những tác động tích cực vào sự ổn định kinh tế. Đặc biệt các ngành khoa học vũ trụ và tự động hóa sẽ có nhiều phát minh quan trọng. Năm 2012 sẽ là năm phát triển về robot của ngành khoa học thế giới. Tương lai của nền khoa học kỹ thuật sẽ phát triển khoa học lý thuyết và tự động hóa với những phần mềm ngày càng vượt trội với tư cách là công cụ phục vụ cho những ý tưởng của con người trong việc khám phá tự nhiên. Những robot phỏng sinh học sẽ ngày càng chiếm ưu thế trong các phát minh của tương lại. Sẽ xuất hiện những phát minh vượt trội trong khoa học mang tính ấn tượng như hiện tượng “Bổ đề toán học Ngô Bảo Châu”. Riêng công nghệ điện tử vi tính, mạng toàn cầu có nhiều phát triển vượt trội. Y học Năm 2012 sẽ là năm có những phát minh vượt trội liên quan đến sinh học và y học. Một số căn bệnh nan y và những bệnh được sự quan tâm của thế giới như HIV, ung thư, sốt rét sẽ bị đẩy lùi hoặc bị khống chế .... Nhà nghiên cứu Lý học Đông phương Nguyễn Vũ Tuấn Anh HOA KỲ 2012 Theo dự báo của tôi năm 2012 Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng do sự suy thoái chung của thế giới, nhưng sẽ không có ảnh hưởng mang tính nghiêm trọng. Mặc dù có những khắc phục nhất định, nhưng nền kinh tế của Mỹ vẫn trong tình trạng suy thoái. Năm 2012 sẽ được đánh giá là sự phát triển của nền kinh tế Mỹ rất chậm chạm, mọi cố gắng để thúc đẩy cho sự phát triển đều vô ích. Nhưng nước Mỹ vẫn là một siêu cường mạnh. Tổng thống Obama vẫn đắc cử nhiệm kỳ tiếp theo. Những mâu thuẫn nội bộ của Mỹ lại không đáng kể so với năm 2011. Những phong trào như "Chiếm phố Wal" sẽ tự giảm nhiệt và tan rã, thay thế vào đấy là những cuộc biểu tình nhỏ lẻ khác. Sự đoàn kết của nhân dân Mỹ sẽ tăng lên vì quyền lợi chung. Đây sẽ là xu hướng chung của Mỹ và thế giới kể từ năm 2012. VẤN ĐỀ CÓ HAY KHÔNG NGÀY TẬN THẾ 21. 12. 2012? Có thể nói năm 2012 là 1 năm có nhiều sự chú của những nhà khoa học và tiên tri. Trong thời đại thông tin toàn cầu, có thể nói đây cũng là một thông tin được sự quan tâm của hầu hết mọi người trên thế giới. Nhưng chúng ta cũng biết rằng đã có rất nhiều những dự báo tiên tri cho một thập niên trở lại đây về ngày tận thế. Thí dụ như năm 2000 với sự cố Y2K, hoặc năm ngoái vào ngày 21-5 ở Hoa Kỳ,... Nhưng sự kiện ngày 21-12-2012 rất đáng quan tâm hơn tất cả những lời tiên tri về ngày tận thế trong lịch sử văn minh nhân loại. Bởi vì nó có sự trùng hợp rất đáng chú ý sau đây: - Bộ Lịch cổ của nền văn minh Maya kết thúc vào ngày 21-12-2012; - Vào thời điểm đó tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời đều thẳng hàng và đường thẳng xuyên qua tâm của dải Ngân Hà. Đồng thời ngày đó cũng chính là ngày Đông chí. Xét theo LHĐP thì đó là một hiện tượng cực âm trong tương quan vị trí các hành tinh trong Thái Dương hệ, tức là dương khí sẽ cực mạnh tác động lên trái Đất. Vậy thì đó có phải là nguyên nhân gây nên sự hủy diệt trên trái đất hay không? Tuy nhiên, khoảng khắc để các hành tinh gần thẳng hàng và sự kiện này diễn ra rất nhanh. Bởi vậy sự ảnh hưởng sẽ không lớn, mặc dù tác động trực tiếp xuống trái đất. Hơn nữa, từ sự tương tác đó để kích hoạt những hiện tượng tự nhiên bất thường - quen gọi là thiên tai - trên Trái đất thì phải có thời gian để tạo các hiệu ứng dây chuyền. Do đó thiên tai sẽ không phải xẩy ra ngay lập tức vào thời điểm đó, nhưng ngay sau đó khi các hành tinh chuyển động về trạng thái bình thường thì các tác động lại cân đối trở lại. Tuy nhiên cá nhân tôi với sự hiểu biết Lý học nhân danh nền Văn hiến Việt thì thiên tai sẽ tăng nặng hơn so với rất nhiều thập niên trở lại đây, nhưng không phải là sự hủy diệt. Không có ngày tận thế. Tôi vẫn xác định rằng đúng vào ngày đó tôi sẽ mời các bạn bè của tôi đi ăn nhậu. Và tôi hy vọng rằng qua giai đoạn này Thế giới sẽ tốt đẹp hơn, nhân loại sẽ gần gũi nhau hơn chính bởi những thiên tai đó. VIỆT NAM 2012 Phân tích dưới góc nhìn của Lý học Kinh tế Nền kinh tế Việt Nam sẽ được sự đầu tư mạnh mẽ từ nhiều nước trên thế giới. Nhưng phải có một chính sách, định hướng cho sự đầu tư hướng tới tương lai. Ví dụ như: đầu tư hạ tầng cơ sở như cầu, đường giao thông... Cân đối về môi trường sinh thái, năng lượng của tương lai....Đặc biệt nên đầu tư vào các ngành khoa học mũi nhọn sẽ phát triển trong tương lai đó là Công nghệ thong tin, tự động hóa, đầu tư nghiên cứu khoa học cơ bản về lý thuyết... Theo tôi, Việt Nam nên cố gắng phát triển đồng bộ về mọi mặt, văn hóa, khoa học kỹ thuật, kinh tế... Nên khôi phục những giá trị văn hóa lịch sử để cân bằng những trạng thái tâm lý xã hội. Những nền kinh tế xương sống của Nhà Nước mang tính đầu tầu như Doanh nghiệp lớn của Nhà nước cần củng cố lại về tổ chức lẫn định hướng phát triển. Ngoại giao: Năm tới Việt Nam sẽ tiếp tục củng cố và tăng cường địa vị trong mối quan hệ quốc tế. Tiếng nói của Việt Nam trước quốc tế ngày càng được chú ý, nể trọng. Khoa học kỹ thuật: Năm 2012 Việt Nam sẽ có xu hướng và nên phát triển khoa học kỹ thuật hướng tới nông nghiệp và các nghiên cứu khoa học phục vụ cho phát triển nông nghiệp sẽ phát triển, kể cả ngành cơ khí chế tạo các sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp. Một trong những ngành cần được quan tâm nữa đó là đầu tư năng lượng cho tương lai, đặc biệt là phát triển hệ thống mạng thông tin toàn cầu. Riêng công nghệ điện tử vi tính, mạng toàn cầu có nhiều phát triển vượt trội đặc biệt ở Việt Nam. Nền khoa học nên chú ý nghiên cứu những sản phẩm phục vụ con người và vận tải liên quan tới biển. Tôi cho rằng: Trong tương lai xu hương phát triển của thế giới sẽ hướng tới khai thác các tiềm năng của biển, như: lương thực biển, hải dương học, tài nguyên biển… Khoa học kỹ thuật phục vụ cho quân sự: Sẽ xuất hiện những phát minh, cải tiến phát triển và củng cố sức mạnh phòng vệ của mình đủ để răn đe và làm cho những thế lực nhòm ngó lãnh thổ Việt Nam phải ngần ngại. Bất động sản: Thị trường Bất động sản VN vẫn là sự tiếp tục suy thoái của năm 2011 và bắt đầu tạo ra những hậu quả nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến những ngành liên quan, như: vật liêu xây dựng, sắt thép, ngân hàng..... Diễn biến tiếp theo sẽ là những xáo trộn về kinh tế do những nợ xấu gây ra. Chỉ những ai có tiềm lực thực sự có thể trụ vững được qua giai đoạn khủng hoảng này thì sẽ tiếp tục phát triển về sau. Chứng khoán: Do ảnh hưởng chung của tình hình kinh tế thế giới thì thị trường chứng khoán VN cũng không thể nằm ngoài sự suy thoái chung của thị trường thế giới. Tình trạng này sẽ kéo dài trong nhiều năm,. Sự tồn tại và nền kinh tế được duy trì bởi chính doanh nghiệp nhỏ và vừa. Xã hội: Do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế cho nên những tệ nạn xã hội sẽ phát triển: trộm, cắp, cướp giật sẽ xảy ra nhiều hơn nhưng mức độ nghiêm trọng sẽ giảm. Tuy nhiên, năm Nhâm Thìn là một năm phát triển của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, những giá trị của nền văn hóa Việt sẽ được chú ý tới cả trong nước và trên thế giới. Thiên tai: Năm tới cần đề phòng thủy tai, ở miền Bắc quan trọng nhất là vùng Tây Bắc và từ Trung Trung Bộ tới Đồng Sông Cửu Long nên đề phòng lũ lụt. Những vùng miền trên còn có khả năng động đất, nhưng không quá 5, 5 độ richter +/- 1độ , và không gây hậu quả nặng nề. Động đất vẫn có thể xảy ra ngoài khơi từ trung Trung bộ tới Nam bộ, ngoài ra còn 1 địa điểm có thể xảy ra động đất nữa là vùng biển quanh Mũi Cà Mau. Quan hệ xã hội: Những cuộc tranh luận, phản biện xã hội sẽ phát triển theo chiều hướng xây dựng. Tuy nhiên cũng xuất hiện những phản biện theo chiều hướng đả kích, tiêu cực nhưng không mang tính phổ biến. Tai nạn: Năm 2012 với cả thế giới và VN tai nạn đều mang tính tăng nặng, nhất là tai nạn xe cộ chưa khắc phục được. Những tai nạn khác , như: Sập nhà có liên quan , hoặc không liên quan đến thiên nhiên, cháy nổ....đều có xu hướng tăng lên. Đặc biệt trong năm 2012, ở Việt Nam cần đề phòng cả tai nạn liên quan đến máy bay. Các hãng hàng không cần kiểm tra kỹ thuật kỹ các máy bay liên quan đến các chuyền bay dân sự.....Nhất là một trong hai mùa Đông hoặc Hè. Văn hóa: Năm 2012 những giá trị văn hóa Việt sẽ được chú ý trên thế giới và cả trong nước. Những giá trị văn hóa của VN sẽ được thế giới biết đến nhiều hơn. Dịch bệnh: Trên con người Xuất hiện những loại bệnh liên quan đến tiêu hóa, máu huyết, tim mạch và thần kinh. Nhưng không trầm trọng. Nhưng cũng trong năm 2012, Việt Nam sẽ có những tiến bộ về y học. - Trên vật nuôi: Bệnh vật nuôi: nhìn chung VN có những vùng rộ lên bệnh tật nhưng không quan trọng, đặc biệt thú 4 chân như trâu, bò, lợn dễ bị mắc bệnh. Nhìn chung bức tranh toàn cảnh của thế giới năm tới không mấy sáng sủa, nhưng riêng Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Mặc dù có thể không được như ý. Tôi hy vọng năm 2012 sẽ là một năm có nhiều bước khởi đầu cho một tương lai tốt đẹp hơn cho vận hội của nước nhà trong tương lai. Thay mặt Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương, Tôi xin gửi tới tất cả quí vị độc giả một năm mới tốt đẹp và an khang thịnh vượng.
    1 like
  6. Sau đây là bài viết của tôi bên trang web “Huyền Không Lý Số“ : “Trích: Nguyên văn bởi sonthuy Chào bạn VULONG …………… Hóa giải thực ra là Cải Số chính ở tinh thần cá nhân đó có làm được hay không mà thôi . Vì nhiều khi biết được nhưng làm không được. Và còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố bên ngoài cộng với Phúc đức ông bà cha mẹ và bản thân người đó...“ Tôi đã trả lời: “Chào Sonthuy! …………………………………… Còn cách suy luận của bạn về các cách giải cứu có vẻ như là quá bị động thì phải. Theo tôi không nên bi quan đến như vậy, mặc dù giải cứu về mặt đạo đức cũng quan trọng nhưng giải cứu về ngũ hành còn quan trọng hơn bởi vì nó dễ làm và làm được ngay không cần thời gian lâu như đạo đức. Có thể lấy ví dụ đơn giản là khi mà tai họa có các điểm hạn về hình, hại hay tự hình gây ra thì cách tốt nhất và nhanh nhất cũng như hiệu quả nhất là sống ẩn dật ở một nơi an toàn không tiếp xúc với con người và các phương tiện giao thông... bởi vì chúng chính là những yếu tố gây ra các điểm hạn về hình, hại, tự hình (do thù oán nhau mà dẫn tới ám hại, giết nhau....). Đại khái là như vậy“. Trong tất cả các trường phái Tử Bình từ trước tới nay thì chỉ có trường phái của cụ Thiệu mới đưa ra và áp dụng quy tắc: “Các can chi trong tổ hợp hóa hay không hóa cục không có khả năng tác động với các can chi bên ngoài và ngược lại“. Chính quy tắc này là nền tảng để xây dựng nên “Phương pháp tính điểm hạn“ của tôi. Do vậy với sơ đồ trên thì không có chuyện Đinh trụ giờ là Thương quan gặp được Tân ở lưu niên là Quan (vì Tân đã bị hợp hóa cục) và cũng không thể có chuyện Mão trụ giờ và Mão thái tuế cùng Thìn trụ ngày hại được với nhau (vì Thìn đã bị hợp và hóa cục), hay cũng không thể có chuyện Tý đại vận và 2 Mão hình được với nhau (vì Tý đã hợp hóa cục). Trong khi các sách cho là Kinh Điển như: “Trích Thiên Tủy“, “Tử Bình Chân Thuyên“,… cũng như các sách mới xuất hiện gần đây như : “Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa“ của Hoàng Đại Lục hay các sách về “Manh Phái“ của Đoàn Kiến Nghiệp, …. đều bác bỏ quy tắc này, thậm chí họ còn không có một quy tắc rõ ràng nào cả về tranh hợp giữa các tổ hợp như: lục hợp, bán hợp, tam hợp và tam hội. Khi 2 hay 3 tổ hợp này cùng xuất hiện thì họ thích cho tổ hợp nào được tạo thành thì họ cho, miễn là phù hợp ý muốn của họ (cụ thể như các sách về “Manh Phái“ của Đoàn Kiến Nghiệp). Một điều cần nói thêm nữa là hầu như họ cũng không quan tâm lắm tới độ vượng suy của các can chi đang luận phải phụ thuộc vào lưu niên đó (tại thái tuế - tức chi của lưu niên) thì phải (?). Cho nên để đi tìm cách giải cứu cho ví dụ trên theo trường phái của cụ Thiệu, ta thấy không hề có các điểm hạn về Thương quan gặp Quan; không hề có các điểm hại nhau của Thìn và Mão; không hề có sự hình nhau của Tý với Mão và cũng không hề có các điểm xung khắc nhau của các can chi…. Trên sơ đồ ta chỉ thấy các điểm hạn gây lên tai họa này là các điểm hạn của Thủy cục, Mộc cục và của Thủy cục sinh cho Mộc cục. Ngoài ra còn có điểm hạn của nạp âm khắc nhau nhưng với điểm hạn này thì tôi chưa có được một ý tưởng nào để ngăn chặn nó. Do vậy ở đây ta chỉ cần tập chung vào tìm cách giải cứu để ngăn cản các điểm hạn của Thủy cục (2đh), Mộc cục (0,5đh) và điểm hạn của Thủy cục sinh cho Mộc cục (2.0,6đh = 1,2đh). Như tôi đã thắc mắc là tại sao tai họa lại xẩy ra vào tháng Dậu mà không xẩy ra vào các tháng Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi và Thân (vì chúng cùng ở tiểu vận Giáp Thìn) ? Phải chăng Mộc không ở các trạng thái Tử, Mộ và Tuyệt tại các tháng Dần, Mão, Thìn và Tị nên nó có thể nhận được sự sinh từ Thủy nhưng tai họa không xẩy ra chỉ vì Thủy lại ở các trạng thái hưu tù tử tuyệt ở các tháng này nên nó không có khả năng sinh cho Mộc ? Còn các tháng Ngọ, Mùi và Thân thì Thủy ở các trạng thái Thai, Dưỡng và nhất là Trường sinh ở tháng Thân có thể sinh được cho Mộc cục nhưng tai họa vẫn không xẩy ra bởi vì Mộc lại ở các trạng thái Tử, Mộ và Tuyệt tại các tháng này nên Mộc không có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy chăng ? Cho nên đến tháng Dậu Thủy vượng còn Mộc ở trạng thái Thai (tức bắt đầu tiến khí) nên nó có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy. Chính vì lúc này số điểm quá cao, vì vậy gặp ngày Tân Mão (3/10 dương lịch) cùng lưu niên Tân Mão thiên khắc địa xung với trụ tháng Đinh Dậu (tháng 9) đã tác động cho số điểm hạn này phát ra gây nên tai họa này chăng ? Nếu sự suy luận này là đúng thì đơn giản nhất là chúng ta tìm cách nào đó để Thủy không có khả năng sinh được cho Mộc hoặc Mộc không có khả năng nhận được sự sinh từ Thủy là được. Rõ ràng chúng ta thấy 6 tháng đầu năm đã thỏa mãn điều kiện này (như đã phân tích ở trên), vậy thì chúng ta dễ dàng nhận thấy cách giải cứu đơn giản nhất là …… Cho dù đây mới chỉ là lý thuyết cần có thực nghiệm để kiểm chứng, nhưng chả sao cả. Chúng ta cứ mạnh dạn đưa ra ý tưởng (tức lý thuyết) đi cho dù là sai (bởi vì từ trước tới nay hầu như là lý thuyết bao giờ cũng có trước sau đó mới có các thực nghiệm kiểm tra lý thuyết đó). Hy vọng có ai đó dựa vào câu tôi tô đậm ở trên có thể điền vào chỗ bỏ trống (…..) cách giải cứu mới mẻ này.
    1 like
  7. Lá số nầy năm tới sẽ có biến động về cuộc sống tình cảm mà khó tránh khỏi ;nếu chưa muốn lập gia đình thì nên cân nhắc cẩn thận trước khi quan hệ với người khác phái , có thể bị lừa đảo về tình cảm ,còn muốn đi đến hôn nhân vẫn được nhưng lễ lộc không đầy đủ hay thiếu mâm trầu buồng cau .
    1 like
  8. NĂM TỚI ,chỉ có vấn đề cháu quan tâm là sức khỏe của cháu hay của mẹ ,nếu trong thân tộc không có tang chế ai ... thường thì hay bị nóng sốt , đau thần kinh hay bị thiếu máu .
    1 like
  9. Năm tới sẽ tìm được công việc tốt lương cao bổng hậu ,khoảng từ tháng 3 al trở đi.
    1 like
  10. Thưa Sư phụ và ACE, thực sự chưa kiểm nghiệm tác dụng của cây xương rồng như thế nào, nhưng gần đây, trong một lần đi ta - bà trên vùng đất Phú Thọ, trong lúc nghỉ giải lao gần một khu vực có rất nhiều nhà trồng cây xương rồng làm hàng rào, thanhphuc có xin một nhánh định về trồng, thì có mấy người dân vùng đó chỉ dẫn nên dùng một loại xương rồng ông nếu muốn cầu tài, lộc và bình an, đặc biệt cho người đi làm ăn xa; dân ở đây thường dùng 3 nhánh xương rồng chôn trước cửa hoặc cổng nhà!!! thanhphuc nghĩ là có sự liên thông nào đó về ý nghĩa của cây xương rồng trong dân gian (cụ thể là dân Quảng Nam ở bài viết trên và dân Phú Thọ). Xin Sư phụ giải thích tác dụng và ý kiến ACE nào có kinh nghiệm và sự kiểm chứng để mọi người hiểu biết thêm.
    1 like
  11. Con Rồng cháu Tiên chào đón năm Thìn: Thú vị tiếng Việt (Thìn=Thiên=Tiên; Thìn=Thông=Rồng; Thiên Thông=Thìn Rồng) Gặp nhau hay hẹn nhau chỉ cần giơ hai ngón tay hình chữ V và nói một câu ngắn gọn là “Việt !”, là hàm chứa hết mọi ý nghĩa tốt đẹp. Việt là con số 1 Một Chân lý như “Đinh đóng Cột” (“Luôn Nhất”=Luật, tức Hiến Pháp, con người là nhất) Cái Ngay là chân lý rõ như ban Ngày (từ đối Ngược/Ngay) Từ đối : Ngược/Ngay, Nguội/Ngày, Nhược/Nhạy (tốc độ), Nước/Nắng (vật chất). Bởi vậy: Tức Nước ắt đến vỡ bờ Nước là sự sống, bao giờ mà thay Đang toàn cầu hóa ngày nay Chủ nghĩa giữ Nước cho Ngày dài lâu (Môi trường xanh là trên hết của toàn cầu) Cho nên, khuyên rằng: Học thật giỏi tiếng Việt Sẽ Viết nên cái hay Thế giới mãi tồn tại Cũng như Ngày đến Ngày Hãy luôn luôn Vui -Vẻ Công việc càng hăng say Càng thêm nhiều hạnh phúc Vẻ-Vang sẽ đến Ngày Một, Mai, ắt đến Mốt Việt, Vẩn-Vơ, Viết thay (thời đại “kinh tế Trí Thức”) Nhược qua ắt đến Nước “Sắc Nước, hương Trời” ngay Nhật sắc lên là Nhất Việt đứng Nhất đến Ngày.
    1 like
  12. HỘI NGHỊ TỔNG KẾT CUỐI NĂM 2011 & Những lời tiên tri của năm 2012 Tiếp theo Mở đầu những bài phát biểu phần II. Đại diện TTNC LHDP trình bày nội dung dự báo cho năm 2012 về toàn cảnh thế giới - Việt Nam và Hoa Kỳ với vấn đề Biển Đông (Nội dung sẽ trình bày sau). Trong bài phát biểu này, chúng tôi cũng đề cập tới mối quan tâm của nhiều con người trên thế giới là: Có hay không ngày Tận Thế vào 21. 12. 2012? Dưới đây là nội dung bài nói của TTNC Lý học Đông phương: ===================== LỜI DỰ BÁO TOÀN CẢNH THẾ GIỚI & VIỆT NAM 2012 Nguyễn Vũ Tuấn Anh Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương. Kính thưa ban lãnh đạo Trung Tâm nghiên cứu văn hóa cổ Đông phương. Kính thưa các bị đại biểu và các quí vị khách quí có mặt ngày hôm nay. Như thường lệ hàng năm, những nhà nghiên cứu các bộ môn dự báo thuộc nền Lý học Đông phương – một bộ phận của văn hóa cổ Đông phương - lại gặp nhau ở đây để làm lễ tổng kết tiễn một năm cũ qua đi và dự báo cho những gì năm tới sẽ đến. Cá nhân tôi và các thành viên thuộc Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương chân thành cảm ơn ban giám đốc Trung tâm nghiên cứu văn hóa cổ Đông phương, đứng đầu là Giáo sư tiến sĩ Hoàng Tuấn – mà tiền thân là Câu Lạc bộ Thăng Long Dịch học nghĩa kỳ - do tiến sĩ Hoàng Sơn, hiện là Phó giám đốc Trung tâm sáng lập. Lễ Tất niên năm nay, tôi lại hân hạnh được sự tín nhiệm của quí vị và tham gia những dự báo của cá nhân tôi cho năm 2012 – Năm Nhâm Thìn. Kính thưa quí vị. Trước khi đi vào nội dung dự báo, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu những dữ kiện theo phương pháp tính toán của Lý học Lạc Việt là bộ môn Huyền Không Lạc Việt. Đây là kết quả những nghiên cứu của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương căn cứ trên nguyên lý nhất quán Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt. Những kết quả nghiên cứu này đã được chúng tôi ứng dụng trong dự báo từ nhiều năm nay.Đồ hình Huyền Không lạc Việt được miêu tả như dưới đây: Như vậy, trên cơ sở Huyền Không Lạc Việt mà chúng tôi trình bày ở trên thì Thái Tuế động cung Thìn (Khôn) ở Đông Nam theo Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Đối xung Thái Tuế sẽ ở Tây Bắc, Tuế Phá sẽ ở Tây Nam – điều này thì tất cả các nhà nghiên cứu Lý học đều thống nhất và các sách cổ cũng thống nhất như vậy, dù cách gọi có thể khác nhau. Theo chu kỳ thì cứ 12 năm Thái Tuế - tức Mộc tinh – lại về vị trí đã định sẵn. Nhưng chu kỳ Huyền Không thì khác nhau – 9 năm mới lặp lại một lần và cứ 180 năm mới lặp lại vận 20 năm. Vận từ 2004 đên 2003 là vận 8 cũng là tượng của Thái Tuế nhập trung cung. Ngoài ra còn những Hội, Đại Vận, Đại vận hội....theo tính toán của Lý Học Đông phương. Để giản lược những phương thức phức tạp liên quan đến các Đại vận, Hội và Đại vận Hội, mang tính chuyên môn sâu, chúng tôi chỉ trình bày trên cơ sở Huyền Không Lạc Việt theo đồ hình đã trình bày ở trên với vận 8. Trên cơ sở này, chúng tôi dự báo rằng: THẾ GIỚI NĂM 2012 Về kinh tế toàn cầu N ăm 2008, tôi đã dự báo về một sự suy thoái kinh tế toàn cầu và lời dự báo này đã được đăng trên số báo Xuân Gia Đình & Xã hội - thì đó là năm mà nhiều đại Cty đã sụp đổ trên thế giới. Qua năm 2010 tôi cũng xác định và dự báo cho rằng đây là năm mà sự khủng hoảng kinh tế mang tầm cỡ quốc gia. Thực tế đã cho thấy nhiều quốc gia nợ công cao ngất ngưởng và họ phải có những gói cứu trợ và tiếp tục vay nợ của nước ngoài. Từ đầu năm 2011 tôi đã dự báo rằng: Đây là một năm chịu hậu quả tiếp tục của sự suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 và sẽ ảnh hướng đến đời sống, an sinh xã hội, dẫn tới khủng hoảng xã hội ở nhiều quốc gia. Năm 2012 chúng tôi cho rằng: Nền kinh tế thế giới tiếp tục suy thoái ở cấp quốc gia, nối tiếp của sự tiếp tục suy thoái kinh tế thế giới năm 2011 nhưng ở mức độ trầm trọng hơn. Nếu như ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 2008 tôi đã dự báo những công ty tầm cỡ quốc tế bị phá sản thì năm 2011 và 2012 sẽ có nhiều doanh nghiệp bậc trung và thấp phá sản. Đương nhiên hệ quả của nó là kéo theo số người thất nghiệp đông đảo. Những ngành nghề mang tính truyền thống như: sản xuất hàng tiêu dùng, điện tử dân dụng, xây dựng, bất động sản, du lịch… sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và đình trệ. Thị trường chứng khoán thế giới suy thoái nặng. Có thời điểm xuống dốc rất bất ngờ nhất là cuối Xuân, đầu Hè. Ở nhiều quốc gia có thể nói kinh tế suy thoái nặng nề, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Nhiều quốc gia xuất hiện sự lạm phát trầm trọng và tất nhiên đẩy giá cả tăng vọt và làm khủng hoảng thêm trầm trọng vì mất cân đối giữa các khu vực kinh tế và an sinh xã hội.Bất động sản trên toàn thế giới đều bị tình trạng khủng hoạng thừa, ở một số nước là sự bùng nổ của bong bong bất động sản, hậu quả của nó dẫn tới sự đổ vỡ của các ngành liên quan như: ngân hàng, vật liệu xây dựng, ngành xây dựng.... Thị trường chứng khoán thế giới suy thoái nặng. Có thời điểm xuống dốc rất bất ngờ nhất là cuối Xuân đầu Hè. Bất động sản tiếp tục ảm đạm, suy thoái. Vàng và giá dầu thế giới bắt đầu tăng đáng kể bắt đầu từ tháng Hai Việt lịch. Ngành ngân hàng lao đao. Thiên tai Năm 2011 thế giới đã chứng kiến và trải qua những thiên tai nặng nề về những trận lũ lụt, hạn hán, động đất mang tính kỷ lục – và điều này cũng đã được chúng tôi dự báo trước trong dịp Lễ Tất Niên năm ngoái - thì năm Nhâm Thìn 2012 thiên tai còn tăng nặng hơn và mức độ tàn phá cũng như những thiệt hại, ảnh hưởng sẽ còn tăng hơn so với năm 2011 rất nhiều. Đặc biệt là về cuối năm, có thể nói năm 2012 là năm khủng hoảng về thiên tai trong lịch sử văn minh nhân loại được ghi nhận. Những nước càng gần phía Bắc bán cầu càng bị ảnh hưởng nặng nề. Theo hình vẽ Huyền không trên đây thì nơi xảy ra thiên tai nặng nhất là Tây Âu, Đông Nam Á, Úc, Nam và Đông nam Trung Quốc. Nói chung là trục Tây Bắc – Đông Nam theo sự phân cung trong hình Huyền không mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Càng về cuối năm thiên tai càng tăng nặng. Hạn hán sẽ rất nghiêm trọng so với năm 2011, những thiệt hai do các trận lụt lội, mưa bão…như năm Tân Mão sẽ gia tăng hơn vào năm Nhâm Thìn - 2012. Ngoài ra còn có những hiện tượng bất thường của tự nhiên như: lốc xoáy, mưa đá, bão tuyết…. xảy ra nhiều hơn. Sẽ có những trận động đất lớn, tuy chưa xác định được cường độ, nhưng sẽ gây nhiều thiệt hại. Đặc biệt là những quốc gia nằm trong vành đai lửa, như Úc, Indonesia, Nam Philippin... (những nơi thường xuyên phải đề phòng). Những nơi khác mà chúng tôi đã trình bày ở trên cũng là những địa danh tiềm ẩn khả nặng động đất lớn. Năm 2012 tuy không có trận động đất với cường độ lớn như trận động đất ở Nhật Bản vào 11. 3. 2011; nhưng sẽ xuất hiện nhiều trận động đất tuy nhỏ hơn về cường độ, lại gây thiệt hại lớn. Dịch bệnh Sẽ xuất hiện nhiều loại bệnh lạ, nhưng không mang tính phổ biến, chỉ xuất hiện cục bộ tại các vùng miền hoặc giới hạn trong lãnh thổ quốc gia. Những trận đại dịch sẽ manh nha vào cuối năm. Chiến tranh Nếu như năm 2011 chúng tôi chỉ đặt vấn đề "Thế giới nên đề phòng chiến tranh cấp quốc gia" thì năm 2012 sẽ có chiến tranh cấp quốc gia, điều này có thể xảy ra vào ngay đầu năm tới. Chậm không quá nửa đầu năm. Nơi xảy ra có thể là: Trung Đông hoặc Đông Bắc Á. Nhưng khả năng xảy ra ở Trung Đông nhiều hơn. Vấn đề Biển Đông nói chung sẽ xảy ra nhiều tranh cãi, nhưng sẽ không có chiến tranh lớn xảy ra. Sẽ có nhiều dấu hiệu rất tốt đẹp cho chủ quyền của Việt Nam tại các vùng đảo Hoàng Sa. Trường Sa. Ở đây tôi cần xác định rằng: Nếu ở Biền Đông không xảy ra chiến tranh thì điều nàycuũng đồng nghĩa với không có chiến tranh ở Đông Bắc Á. Khủng bố Các nhóm khủng bố ngày càng giảm về số lượng và mức độ nguy hiểm, sẽ không gây được những ấn tượng lớn. Cuộc khủng hoảng và các tổ chức khủng bố ở Afghanixtan gần như bị vô hiệu hóa. Tuy nhiên lại xuất hiện nguy cơ hình thành các nhóm khủng bố ở các vùng miền khác. Mức độ táo bạo và không kém phần nguy hiểm của các hoạt động của các nhóm này. Nhưng chỉ thể hiện ở những nước nhỏ. Nhìn chung thì các sự kiện liên quan đến khủng bố giảm hẳn, nhiều tổ chức khủng bố bị bắt hoặc tan rã. Các vấn đề tệ nạn xã hội Khủng hoảng xã hội sẽ tăng nặng do suy thoái kinh tế gây ra. Xuất hiện nhiều cuộc biểu tình, đình công hoặc các cuộc bạo động ở một số quốc gia. Sẽ xuất hiện những cuộc đối đầu giữa lực lương bảo vệ và chống đối gây khủng hoảng nghiêm trong ở ngay các cường quốc hiện nay. Những tệ nạn xã hội sẽ ngày một nhiều nhưng các vụ việc mang tính nghiêm trọng, đặc biệt tàn ác sẽ giảm. Các tệ nạn xã hội như: trộm, cắp, cướp giật tăng về số lượng nhưng giảm về mức độ nghiêm trọng. Nạn đói sẽ xảy ra do những thiên tai nói trên và do mâu thuẫn xã hội chủ yếu xảy ra ở Châu Phi và Nam Á. Xã hội khủng hoảng, giá trị văn hóa truyền thống bị xáo trộn, xuất hiện những lối sống mới . Ở một khía cạnh nào đó, ở bộ phận dân chúng sẽ xuất hiện trào lưu tín ngưỡng mới. Có một số siêu cường gặp những khủng hoảng xã hội lớn sẽ phải giải quyết, gây dấu ấn trong lịch sử. Sẽ có nhiều chính phủ không làm hết nhiệm kỳ ở những cường quốc. Những điểm nóng về ma túy ở Mexico sẽ giảm hẳn do nỗ lực của chính phủ và đồng minh. Nhưng tệ nạn buôn bán ma túy và các tệ nạn khác, như: buôn lậu, buôn người, nhập cư trái phép... vẫn không giảm ở các vùng khác trên thế giới và có chiều hướng tăng nặng hơn. Chi tiết này của dự báo sẽ được thẩm định qua những tần xuất kẻ phạm tôi bị pháp luật trừng trị trong năm 2012. An toàn vệ sinh thực phẩm Có thể nói về an toàn vệ sinh thực phẩm, hàng tiêu dùng không giảm mức độ tiêu cực, mà có nơi trở thành vấn đề quốc gia cần quan tâm. Khoa học kỹ thuật Quân sự Khoa học kỹ thuật quân sự sẽ có nhiều tiến bộ vượt trội và phát triển mạnh mẽ. Những siêu vũ khí sẽ ra mắt và làm những phương thức chiến tranh hiện đại trở thành cổ điển. Cụ thể là những siêu vũ khí vũ trụ sẽ ngày càng hoàn thiện và xuất hiện những loại vũ khí mới với những cấu trúc phi truyền thống, thí dụ như vũ khí lade... Dân sự Tuy nhiên, trong sự suy thoái kinh tế toàn cầu, một số ngành khoa học kỹ thuật mũi nhọn như tính năng các phần mềm điện tử, kỹ thuật thông tin truyền thông, các ngành khoa học cơ bản, khoa học lý thuyết vẫn phát triển. Xu hướng nghiên cứu về robot, tự động hóa sẽ rất phát triển trong năm tới tất nhiên sẽ có những tác động tích cực vào sự ổn định kinh tế. Đặc biệt các ngành khoa học vũ trụ và tự động hóa sẽ có nhiều phát minh quan trọng. Năm 2012 sẽ là năm phát triển về robot của ngành khoa học thế giới. Tương lai của nền khoa học kỹ thuật sẽ phát triển khoa học lý thuyết và tự động hóa với những phần mềm ngày càng vượt trội với tư cách là công cụ phục vụ cho những ý tưởng của con người trong việc khám phá tự nhiên. Những robot phỏng sinh học sẽ ngày càng chiếm ưu thế trong các phát minh của tương lại. Sẽ xuất hiện những phát minh vượt trội trong khoa học mang tính ấn tượng như hiện tượng “Bổ đề toán học Ngô Bảo Châu”. Riêng công nghệ điện tử vi tính, mạng toàn cầu có nhiều phát triển vượt trội. Y học Năm 2012 sẽ là năm có những phát minh vượt trội liên quan đến sinh học và y học. Một số căn bệnh nan y và những bệnh được sự quan tâm của thế giới như HIV, ung thư, sốt rét sẽ bị đẩy lùi hoặc bị khống chế .... HOA KỲ 2012 Theo dự báo của tôi năm 2012 Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng do sự suy thoái chung của thế giới, nhưng sẽ không có ảnh hưởng mang tính nghiêm trọng. Mặc dù có những khắc phục nhất định, nhưng nền kinh tế của Mỹ vẫn trong tình trạng suy thoái. Năm 2012 sẽ được đánh giá là sự phát triển của nền kinh tế Mỹ rất chậm chạm, mọi cố gắng để thúc đẩy cho sự phát triển đều vô ích. Nhưng nước Mỹ vẫn là một siêu cường mạnh. Tổng thống Obama vẫn đắc cử nhiệm kỳ tiếp theo. Những mâu thuẫn nội bộ của Mỹ lại không đáng kể so với năm 2011. Những phong trào như "Chiếm phố Wal" sẽ tự giảm nhiệt và tan rã, thay thế vào đấy là những cuộc biểu tình nhỏ lẻ khác. Sự đoàn kết của nhân dân Mỹ sẽ tăng lên vì quyền lợi chung. Đây sẽ là xu hướng chung của Mỹ và thế giới kể từ năm 2012. VẤN ĐỀ CÓ HAY KHÔNG NGÀY TẬN THẾ 21. 12. 2012? Có thể nói năm 2012 là 1 năm có nhiều sự chú của những nhà khoa học và tiên tri. Trong thời đại thông tin toàn cầu, có thể nói đây cũng là một thông tin được sự quan tâm của hầu hết mọi người trên thế giới. Nhưng chúng ta cũng biết rằng đã có rất nhiều những dự báo tiên tri cho một thập niên trở lại đây về ngày tận thế. Thí dụ như năm 2000 với sự cố Y2K, hoặc năm ngoái vào ngày 21-5 ở Hoa Kỳ,... Nhưng sự kiện ngày 21-12-2012 rất đáng quan tâm hơn tất cả những lời tiên tri về ngày tận thế trong lịch sử văn minh nhân loại. Bởi vì nó có sự trùng hợp rất đáng chú ý sau đây: - Bộ Lịch cổ của nền văn minh Maya kết thúc vào ngày 21-12-2012; - Vào thời điểm đó tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời đều thẳng hàng và đường thẳng xuyên qua tâm của dải Ngân Hà. Đồng thời ngày đó cũng chính là ngày Đông chí. Xét theo LHĐP thì đó là một hiện tượng cực âm trong tương quan vị trí các hành tinh trong Thái Dương hệ, tức là dương khí sẽ cực mạnh tác động lên trái Đất. Vậy thì đó có phải là nguyên nhân gây nên sự hủy diệt trên trái đất hay không? Tuy nhiên, khoảng khắc để các hành tinh gần thẳng hàng và sự kiện này diễn ra rất nhanh. Bởi vậy sự ảnh hưởng sẽ không lớn, mặc dù tác động trực tiếp xuống trái đất. Hơn nữa, từ sự tương tác đó để kích hoạt những hiện tượng tự nhiên bất thường - quen gọi là thiên tai - trên Trái đất thì phải có thời gian để tạo các hiệu ứng dây chuyền. Do đó thiên tai sẽ không phải xẩy ra ngay lập tức vào thời điểm đó, nhưng ngay sau đó khi các hành tinh chuyển động về trạng thái bình thường thì các tác động lại cân đối trở lại. Tuy nhiên cá nhân tôi với sự hiểu biết Lý học nhân danh nền Văn hiến Việt thì thiên tai sẽ tăng nặng hơn so với rất nhiều thập niên trở lại đây, nhưng không phải là sự hủy diệt. Không có ngày tận thế. Tôi vẫn xác định rằng đúng vào ngày đó tôi sẽ mời các bạn bè của tôi đi ăn nhậu. Và tôi hy vọng rằng qua giai đoạn này Thế giới sẽ tốt đẹp hơn, nhân loại sẽ gần gũi nhau hơn chính bởi những thiên tai đó. VIỆT NAM 2012 Phân tích dưới góc nhìn của Lý học Kinh tế Nền kinh tế Việt Nam sẽ được sự đầu tư mạnh mẽ từ nhiều nước trên thế giới. Nhưng phải có một chính sách, định hướng cho sự đầu tư hướng tới tương lai. Ví dụ như: đầu tư hạ tầng cơ sở như cầu, đường giao thông... Cân đối về môi trường sinh thái, năng lượng của tương lai....Đặc biệt nên đầu tư vào các ngành khoa học mũi nhọn sẽ phát triển trong tương lai đó là Công nghệ thong tin, tự động hóa, đầu tư nghiên cứu khoa học cơ bản về lý thuyết... Theo tôi, Việt Nam nên cố gắng phát triển đồng bộ về mọi mặt, văn hóa, khoa học kỹ thuật, kinh tế... Nên khôi phục những giá trị văn hóa lịch sử để cân bằng những trạng thái tâm lý xã hội. Những nền kinh tế xương sống của Nhà Nước mang tính đầu tầu như Doanh nghiệp lớn của Nhà nước cần củng cố lại về tổ chức lẫn định hướng phát triển. Ngoại giao: Năm tới Việt Nam sẽ tiếp tục củng cố và tăng cường địa vị trong mối quan hệ quốc tế. Tiếng nói của Việt Nam trước quốc tế ngày càng được chú ý, nể trọng. Khoa học kỹ thuật: Năm 2012 Việt Nam sẽ có xu hướng và nên phát triển khoa học kỹ thuật hướng tới nông nghiệp và các nghiên cứu khoa học phục vụ cho phát triển nông nghiệp sẽ phát triển, kể cả ngành cơ khí chế tạo các sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp. Một trong những ngành cần được quan tâm nữa đó là đầu tư năng lượng cho tương lai, đặc biệt là phát triển hệ thống mạng thông tin toàn cầu. Riêng công nghệ điện tử vi tính, mạng toàn cầu có nhiều phát triển vượt trội đặc biệt ở Việt Nam. Nền khoa học nên chú ý nghiên cứu những sản phẩm phục vụ con người và vận tải liên quan tới biển. Tôi cho rằng: Trong tương lai xu hương phát triển của thế giới sẽ hướng tới khai thác các tiềm năng của biển, như: lương thực biển, hải dương học, tài nguyên biển… Khoa học kỹ thuật phục vụ cho quân sự: Sẽ xuất hiện những phát minh, cải tiến phát triển và củng cố sức mạnh phòng vệ của mình đủ để răn đe và làm cho những thế lực nhòm ngó lãnh thổ Việt Nam phải ngần ngại. Bất động sản: Thị trường Bất động sản VN vẫn là sự tiếp tục suy thoái của năm 2011 và bắt đầu tạo ra những hậu quả nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến những ngành liên quan, như: vật liêu xây dựng, sắt thép, ngân hàng..... Diễn biến tiếp theo sẽ là những xáo trộn về kinh tế do những nợ xấu gây ra. Chỉ những ai có tiềm lực thực sự có thể trụ vững được qua giai đoạn khủng hoảng này thì sẽ tiếp tục phát triển về sau. Chứng khoán: Do ảnh hưởng chung của tình hình kinh tế thế giới thì thị trường chứng khoán VN cũng không thể nằm ngoài sự suy thoái chung của thị trường thế giới. Tình trạng này sẽ kéo dài trong nhiều năm,. Sự tồn tại và nền kinh tế được duy trì bởi chính doanh nghiệp nhỏ và vừa. Xã hội: Do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế cho nên những tệ nạn xã hội sẽ phát triển: trộm, cắp, cướp giật sẽ xảy ra nhiều hơn nhưng mức độ nghiêm trọng sẽ giảm. Tuy nhiên, năm Nhâm Thìn là một năm phát triển của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, những giá trị của nền văn hóa Việt sẽ được chú ý tới cả trong nước và trên thế giới. Thiên tai: Năm tới cần đề phòng thủy tai, ở miền Bắc quan trọng nhất là vùng Tây Bắc và từ Trung Trung Bộ tới Đồng Sông Cửu Long nên đề phòng lũ lụt. Những vùng miền trên còn có khả năng động đất, nhưng không quá 5, 5 độ richter +/- 1độ , và không gây hậu quả nặng nề. Động đất vẫn có thể xảy ra ngoài khơi từ trung Trung bộ tới Nam bộ, ngoài ra còn 1 địa điểm có thể xảy ra động đất nữa là vùng biển quanh Mũi Cà Mau. Quan hệ xã hội: Những cuộc tranh luận, phản biện xã hội sẽ phát triển theo chiều hướng xây dựng. Tuy nhiên cũng xuất hiện những phản biện theo chiều hướng đả kích, tiêu cực nhưng không mang tính phổ biến. Tai nạn: Năm 2012 với cả thế giới và VN tai nạn đều mang tính tăng nặng, nhất là tai nạn xe cộ chưa khắc phục được. Những tai nạn khác , như: Sập nhà có liên quan , hoặc không liên quan đến thiên nhiên, cháy nổ....đều có xu hướng tăng lên. Đặc biệt trong năm 2012, ở Việt Nam cần đề phòng cả tai nạn liên quan đến máy bay. Các hãng hàng không cần kiểm tra kỹ thuật kỹ các máy bay liên quan đến các chuyền bay dân sự.....Nhất là một trong hai mùa Đông hoặc Hè. Văn hóa: Năm 2012 những giá trị văn hóa Việt sẽ được chú ý trên thế giới và cả trong nước. Những giá trị văn hóa của VN sẽ được thế giới biết đến nhiều hơn. Dịch bệnh: - Trên con người: Xuất hiện những loại bệnh liên quan đến tiêu hóa, máu huyết, tim mạch và thần kinh. Nhưng không trầm trọng. Nhưng cũng trong năm 2012, Việt Nam sẽ có những tiến bộ về y học. - Trên vật nuôi: Bệnh vật nuôi: nhìn chung VN có những vùng rộ lên bệnh tật nhưng không quan trọng, đặc biệt thú 4 chân như trâu, bò, lợn dễ bị mắc bệnh. Nhìn chung bức tranh toàn cảnh của thế giới năm tới không mấy sáng sủa, nhưng riêng Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Mặc dù có thể không được như ý. Tôi hy vọng năm 2012 sẽ là một năm có nhiều bước khởi đầu cho một tương lai tốt đẹp hơn cho vận hội của nước nhà trong tương lai. Kính thưa quí vị Trên đây là những dự báo của chúng tôi, mục đích xác định những khả năng xảy ra trong tương lai, ngõ hầu giúp con người gần lành tránh dữ và hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Xin trân trọng cảm ơn quí vị đã quan tâm. Thay mặt Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương , chúng tôi xin gửi tới tất cả quí vị đại biểu có mặt hôm nay và gia đình một năm mới tốt đẹp và an khang thịnh vượng.
    1 like
  13. Ví dụ 3 : Tìm cách giải cứu Tsunami trong chủ đề : "Nghiệm lý: Một việc rất quan trọng xảy ra với người này trong năm 2011" trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org đã viết : "Thưa các cô chú, anh chị trên diễn đàn. Em có đứa em họ, năm nay tầm cuối tháng 9 dương lịch có 1 sự kiện rất lớn xảy ra với nó. Em đưa lá số của nó lên đây để mọi người nghiệm lý. Sự kiện gì thì em sẽ cung cấp sau. Rất mong các thành viên mạnh dạn cho ý kiến ạ. Lá số của nó đây ạ: Nam mệnh : Giáp Tuất - Ất Hợi – ngày Giáp Thìn – Đinh Mão .................................................. .............. Em chưa thấy cao thủ nào luận rõ ràng cả. Thôi em đưa đáp án để cả nhà luận xem tại sao lại xảy ra vậy và bộ sao nào dẫn tới kết cục đó. Đầu tháng 9 âm, chú em em bị tai nạn xe máy, bất tỉnh 1 tuần trong viện, sau đó thì mất. Xin nói thêm là trong gia đình nhà này thì có nhiều người chết trẻ, có người chú ruột định sang cát mấy lần nhưng không được vì cứ dự định sang cát thì năm đó trong gia đình lại có người mất, lại phải hoãn. Năm nay cũng thế, nhưng trong lúc thằng em em đang nằm bất tỉnh (chắc chắn sẽ ra đi, khi nào rút ống thở thì nó sẽ đi) thì gia đình quyết định sang cát cho ông chú. Xong xuôi rồi thì rút ống thở, đưa được thằng em từ viện về đến nhà thì nó mất. Em biết là việc cũng đã rồi, gia đình em ai cũng buồn nhưng sau 1 thời gian vẫn cố gạn hỏi chú xem em sinh giờ nào để nghiệm lý lá số. Mong các bậc cao thủ cho ý kiến ạ". Sau đây là bài luận của tôi : Tháng 9/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Bính Tý và tiểu vận Giáp Thân. 1 – Thân vượng mà Kiêu Ấn / Hợi ở lệnh tháng có 6đ v trong vùng tâm nên được xem là Kiêu Ấn đủ, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương/ Đinh ở trụ giờ. 2 – Vào đại vận Bính Tý và năm Tân Mão ta thấy Bính đại vận hợp với Tân lưu niên hóa Thủy, vì vậy Thìn trụ ngày hợp với Tý đại vận mới hóa được Thủy (vì lực hợp của Thân tiểu vận với Tý đại vận chỉ có 3,73đv là nhỏ hơn lực hợp của Thìn trụ ngày với Tý đại vận có 4,8đv. Cũng như lực xung của Tuất trụ năm với Thìn trụ ngày quá nhỏ (vì Tuất phải hợp với 2 Mão và xung cách ngôi 4,8.1/3.2/3= 1,6đv, chưa kể Tuất phải khắc Hợi trụ tháng - giảm thêm ¾ đv) so với lực hợp của Tý đại vận với Thìn là 5,33.1/2=2,67đv, vì Tý phải hợp với Thân tiểu vận). Hợi trụ tháng hợp với Mão thái tuế hóa Mộc (vì lực hợp của Hợi với Mão có 7,75.1/2= 3,88đv là lớn hơn lực hợp của Tuất trụ năm với Mão chỉ có 4,8.1/2= 2,4đv (vì Hợi và Tuất đều phải hợp với Mão trụ giờ). Ta thấy Hợi và Thìn trong Tứ Trụ hợp với tuế vận đều hóa cục có hành khác với hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải được tính lại. Thổ có 1,24đv bị mất 0,74đv của Thìn trụ ngày còn 0,5đv. Thủy có 6đv bị mất 6đv của Hợi trụ tháng nhưng được thêm 0,74đv của Thìn trụ ngày thành 0,74đv. Ta thấy Thân vượng mà Kiêu Ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Tân tàng trong Tuất trụ năm. Hành Mộc là kỵ vượng và các điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi (vì Mộc lớn hơn hỷ dụng thần trên 20đv). Do vậy Mộc cục có 0,5đh, Mão thái tuế có 2.0,5đh kỵ vượng. Mỗi Thủy cục có 1đh và mỗi Thủy cục sinh cho Mộc cục có 2.0,3đv = 0,6đh (vì hành Mộc chỉ có 0,5đh). 3 - Dụng thần Tân tử tuyệt tại lưu niên có 1đh. 4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh. 5 – Giáp tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh. 6 - Lửa đỉnh núi ở trụ năm và trụ tháng có Giáp và Ất đều vượng ở lưu niên khắc nước khe đại vận, mỗi lực có 0,5đh. Tổng số là 5,44đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (nếu sinh vào các giờ Bính Dần hay Mậu Thìn thì tổng số các điểm hạn là quá thấp không thể chấp nhận được). (Không cần biết "Âm Dương ngũ hành tứ thời luận" là gì cả, mọi người cứ áp dụng các Giả Thiết đã có của tôi sẽ tìm ra 5,44đh này. Số điểm hạn này cho biết người này có hạn rất nặng vào năm 2011. Vậy thì "Phương Pháp tính Điểm Hạn" của tôi có đủ để chứng minh môn Tử Bình là một môn Khoa Học giống như các môn khoa học của phương tây 1 + 1 = 2 hay không ?) Điều bất ngờ đầu tiên là : Tai họa này chủ yếu do điểm hạn của hành Thủy và Mộc gây ra mà không có can chi, đại chiến xung khắc nhau thì thường ứng vào bệnh tật có liên quan tới Thủy và Mộc. Ở đây Mộc quá vượng lại còn được Thủy vượng sinh cho nên dễ bị các bệnh về gan hay thần kinh, đầu .... nhưng tại sao lại là tai nạn giao thông, có thể do tháng Đinh Dậu (tháng 9) đã thiên khắc địa xung với lưu niên Tân Mão gây ra chăng ? Điều bất ngờ thứ 2 là : Vào mùa Thu Kim đang vượng còn Mộc đang hưu tù tử tuyệt nên nó không thể nhận được 2.0,6đh của 2 Thủy cục sinh cho. Vậy mà tổng số chỉ có (5,44 – 1,2)đh = 4,24đh mà tai họa vẫn xẩy ra. Tại sao lại như vậy ? Điều này chứng tỏ Mộc ở trạng thái Thai ở tháng Dậu nó đã nhận được phần lớn số điểm này và dĩ nhiên tới tháng Hợi, Mộc bắt đầu ở trạng thái trường sinh nó sẽ nhận được tất cả số điểm này. Nhưng nếu vậy thì tiểu vận Giáp Thân từ ngày 4/2 tới 14/11 có tháng Dần và Mão Mộc cực vượng, còn tháng Thìn và Tị Mộc hưu tù, vậy thì tại sao tai họa không xẩy ra ? Có thể khi đó mặc dù Mộc có thể nhận được sự sinh từ Thủy nhưng Thủy lại đang ở trạng thái hưu tù tử tuyệt nên Thủy không thể sinh được cho Mộc (?). Nếu các điều suy luận này là đúng thì liệu chúng ta có thể tìm ra các cách để giải cứu cho những người có cùng Tứ Trụ này được không ? Dĩ nhiên nếu chúng ta biết được môi trường và hoàn cảnh của những người có cùng Tứ Trụ này đang còn sống (vì không bị tai họa hoặc bị rất nhẹ) thì chúng ta dễ dàng tìm ra các nguyên nhân đã làm cho tổng điểm hạn được giảm. Đó chính là các cách để giải cứu mà bây giờ chúng ta đành phải mò mẫm đi tìm. Hiện nay trên thế giới có 7 tỷ người. Cho nên một điều chắc chắn rằng sẽ có trên (13.1/2 =) 6,5 nghìn người nam có cùng Tứ Trụ này (trên 13 nghìn người nếu kể cả nam và nữ) nhưng không thể tất cả đều gặp tai họa nặng và chết như người này. Do vậy tôi hy vọng mọi người cùng tham gia tìm các cách giải cứu mà những người may mắn không chết do được các yếu tố âm dương ngũ hành bên ngoài tác động vào âm dương ngũ hành trong Tứ Trụ của những người này làm cho tổng điểm hạn được giảm. Hy vọng được mọi người tham gia.
    1 like
  14. Ví dụ 2 : Chủ đề : “Đương số liệu có tuyệt mạng năm 2013 ?" của Dunghoa trong mục Tử Bình bên trang Web "Tuvilyso.org" : “Chào các bác, Dunghoa có một người bạn hiện đang phải chạy thận 1 tuần 3 lần kể từ khi bắt đầu phát hiện bệnh năm 2010. Dunghoa thấy đại hạn này xấu, năm 2013 xấu nhưng không biết năm 2013 liệu có xảy ra sự cố trầm trọng cho bạn dunghoa không nên mong mọi người góp ý, và xin cho biết đương số có qua được đại hạn này không, cách hóa giải nếu có. Sơ lược về đương số: Cao hơn 1.7m, nước da bình thường không trắng không đen, trước kia to béo giờ rất gầy. Hồi nhỏ và khi lớn nhiều lần gặp tai nạn nặng nhưng không chết, phải khâu mặt, khâu đầu. Mắt phải bị lác. Bố đã mất khoảng gần 10 năm, mẹ ở nước ngoài. Có anh em dị bào. Năm 2008 lấy vợ, năm 2009 ly hôn, năm 2010 suy thận. Tình duyên cũng trắc trở không thành vài lần trước khi cưới. Chưa có con. Công danh lận đận, hồi bé rất vất vả khó khăn, lớn lên mới được mẹ trợ cấp thêm kinh tế. Dunghoa xin cảm ơn, ". Sau đây là bài luận của tôi: Sơ đồ tính điểm hạn năm 2010 : 2010 là năm Canh Dần thuộc đại vận Ất Tị, tiểu vận Đinh Sửu và Bính Tý. 1 - Tứ Trụ này có Thân quá vượng mà Kiêu Ấn không có nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ (vì nó vượng hơn Canh lộ ở trụ giờ). 2 – Trong Tứ Trụ có 2 Tị hợp với Thân là tranh hợp giả không hóa (vì 3 cho đều ở trong Tứ Trụ hoặc 2 Tị là chủ khắc nhưng mang dấu âm nên thuộc phái nữ). Vào đại vận Ất Tị và năm Canh Dần có : Canh trụ giờ và Canh lưu niên hợp với Ất đại vận. Lục hợp của 3 Tị với Thân trụ tháng không hóa (vì lực xung của Dần thái tuế với Thân trụ tháng chỉ có 9đv là nhỏ hơn lực hợp của 3 Tị với Thân trụ tháng có (5,33 + 2.5,75)đv = 10,83đv). 3 - Dụng thần Tân nhược ở lưu niên nên có 0đh. 4 - Nhật can Đinh tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 – Canh trụ giờ được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh can động và khắc Ất đại vận có 0,25đh. Canh lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên có -0,5đh can động và khắc Ất đại vận có 0,25đh. Do vậy Ất đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh can động nhưng bị giảm 2 lần 25% do 2 Canh khắc nên còn 0,5.0,75.0,75 đh = 0,28đh. Sửu tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh. Dần thái tuế có 3 hung thần nên có 3.0,25đh. 6 - Lực hợp của 3 Tị với Thân không hóa nên Tị đại vận hình Thân trụ tháng có 1đh, khi đó Tị trụ năm và Tị trụ ngày mới hình được Thân, mỗi lực có 0,5đh. 7 - Đất dịch chuyển trụ tháng có Mậu vượng ở lưu niên nên khắc Lửa ngọn đèn đại vận có 1đh. Tổng số là 5,66đh. Với trường hợp này nếu không có các yếu tố bên ngoài tác động cũng như không thể BÓI ra được một giả thiết nào để làm cho tổng điểm hạn được giảm thì cách duy nhất còn lại là chúng ta có quyền nghi ngờ dụng thần có thể đã xác định sai. Ta thấy Thân quá vượng (Thân lớn hơn Tài tinh, Quan Sát và Thực Thương trên 20đv) trong khi Kiêu Ấn không có nên dụng thần đầu tiên không thể là Tài tinh được mà phải là Thực Thương (trừ khi Thực Thương nhiều mới đủ sức hóa Thân sinh cho Tài thì Tài mới không bị tổn thương). Điều này có logic, vì vậy ta đưa ra giả thiết : 1 - "Nếu Thân lớn hơn Tài, Thực Thương và Quan Sát ít nhất 20đv mà Kiêu Ấn không có thì dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương chỉ khi Thực Thương không nhiều". Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn năm Canh Dần khi Thực Thương là dụng thần : Nếu áp dụng giả thiết vừa đưa ra thì dụng thần đầu tiên phải là Thực Thượng/ Mậu ở trụ tháng. Theo như sơ đồ trên thì tổng số là 4,94đh. Số điểm này là hơi cao. Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa tiếp ra giả thiết : 2 - "Nếu can chi của tiểu vận đều nhập Mộ ở tiểu vận thì các thần sát ở chi tiểu vận không có điểm hạn". (Vì nhìn đi nhìn lại chỉ có thông tin này là phù hợp.) Nếu áp dụng giả thiết này thì Không Vong ở Sửu tiểu vận không có điểm hạn nên tổng số chỉ là 4,81đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Qua ví dụ này chúng ta đã tìm thêm được 2 giả thiết mới. Hy vọng 2 giả thiết này sẽ trở thành các quy tắc chính thức (hiện giờ tôi mới kiểm tra được giả thiết thứ 2 này trong 216 ví dụ mẫu trong sách của tôi, nó đã làm cho tổng số điểm của các ví dụ mẫu này càng thêm chính xác).
    1 like
  15. Bài 28 : Tiếp tục đi tìm các giả thiết mới (Hôm nay vào thì thấy bài 28 này hình như tôi đã đưa nên rồi mà nay lại không thấy.) Dương Chấn Ninh nhà Noben về Vật Lý (TQ) đã viết: “Nếu nói tôi có một quan điểm có tính cách mạng nào, thì đó là tôi đã vạch ra vết thương chí mạng ấy. Cho nên người ta không thích... Phương Tây có thái độ đối với học thuật khác với TQ: Người TQ quá tôn sư trọng đạo. Tiền nhân nói gì, Khổng Tử, Mạnh Tử nói gì thì không được bình luận mà phải coi là tuyệt đối đúng. Lời thầy giáo cũng tuyệt đối đúng... Thái độ ấy quá ư thâm căn cố đế...”. Và trong diễn văn của tỷ phú Steve Jobs tại ĐH Stanford năm 2005, có đoạn viết: “....Thời gian của các bạn là có giới hạn, vì thế đừng phí phạm thời gian do sống bởi đời sống của kẻ khác. Ðừng bị mắc kẹt trong những điều giáo lý vốn [chỉ] sống với các kết quả suy nghĩ của người khác. Ðừng để sự ồn ào của những ý kiến, quan điểm của người khác dìm chết tiếng nói trong tâm hồn, con tim và trực giác của chính bạn. Bằng cách nào đó, chúng đã biết bạn thực sự muốn trở thành cái gì. Tất cả những cái khác chỉ là thứ yếu…“. Nên tôi tạm thời dừng lại không giới thiệu tiếp “Phần Mở rộng“ như đã dự kiến mà tiếp tục Bài 28 có chủ đề này để mọi người có thể hiểu rõ phương pháp nghiên cứu của tôi đã được trình bầy qua 27 bài trên. Ví dụ 1 : Chủ đề : “Giải mã cái chết Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ dưới góc nhìn Tứ Trụ Mệnh Lý“ của GIANGHA trong mục “Xem Tứ Trụ“ bên trang web “Tuvisaigon.com“ đã viết : “Cái chết của Tây Sở Bá Vương Hạng Võ được nhiều người nhắc đến trong mệnh lý học Tử vi với câu phú nổi tiếng “ Hạng Võ anh hùng, ngộ Thiên Không táng quốc,Thạch Sùng hào phú, phùng Địa Kiếp vong gia”. Câu phú trên là đúng hay sai đối với cái chết của Tây Sở Bá Vương theo góc nhìn của khoa Tử vi, tôi sẽ phân tích về phần này ở một bài viết khác. Hôm nay tôi muốn phân tích cái chết của Hạng Võ dưới góc nhìn của khoa Tứ Trụ. Đương số: HẠNG VŨ Giới tính: Nam CÀN TẠO: ĐINH MÃO- KỶ DẬU- BÍNH TUẤT- TÂN MÃO Phân tích mệnh cục: .................. SƠ LUẬN Mệnh cách; Mệnh cách thân nhược, gặp can hợp chi hợp, vừa hại vừa xung, nên con người không bình thường. Người có khả năng lãnh đạo, chí lớn, có cái uy dũng của bậc vạn phu bất địch nhưng cũng sẽ vì cái uy dũng đó mà hại thân (mệnh có Bạch Hổ xung Tướng Tinh). Là người không được hưởng phúc ấm của tổ tiên, phúc bạc, phá bại tổ nghiệp (Kiếp đóng trụ năm, lệnh tháng bị xung). Thân nhược, lại Thực thương nhiều và vượng, nên số đoản thọ. Sự nghiệp: Thực Vận (8-17 tuổi): Nằm trong vận Thực Thần là kỵ vận của bản mệnh. Nên cha mất sớm, bản thân phải về sống với người chú là Hạng Lương. Học chữ cũng không thông, đòi học kiếm cung, học kiếm cung cũng chẳng ra hồn. Sau khi Hạng Lương giết chết người, 2 chú cháu bèn cùng nhau chốn đến đất Ngô Trung. Kiếp Vận (18-27 tuổi): Năm Canh Dần (209 TCN): Hạng Vũ và chú lập mưu giết chết Thái thú quận Cối Kê. Hạng Lương tự xưng làm thái thú Cối Kê, Hạng Vũ làm kì tướng, chiêu hàng các huyện trong quận. Năm Tân Mão (208 TCN): Cùng với Lưu Bang sát cánh đánh quân Tần. Nhìn chung, trong vận trình này Hạng Vũ đã từng bước tạo được các chiến công và uy danh hiển hách: Chém Tống Nghĩa, Đại phá Vương Ly, Thu hàng Chương Hàm nhưng một sự kiện làm ai cũng rùng rợn là Hạng Vũ cho chôn sống hơn 20 vạn lính Tần ở phía tây thành Tây An. Tỷ vận (28-37 tuổi): Đây là hỉ dụng thần, do đại vận Bính Ngọ, hỏa quá đầy đủ, lẽ ra Hạng Võ sẽ thống nhất được Trung Hoa và đánh bại Lưu Bang nếu như trong đại hạn này không gặp Không Vong. Hỉ thần gặp Không Vong thì sẽ trở thành Kỵ Thần, ngược lại hung thần gặp Không Vong thì tốt lại nhiều hơn xấu. Vận trình này Hạng Võ lần lượt thất bại liên tiếp: mất Mất Tam Tần, Sa lầy ở nước Tề, mất đất phía tây, Tây tiến thất bại, Mắc lừa mất Phạm Tăng, Hạ thành Huỳnh Dương, truy kích Thành Cao, Trận Cai Hạ. Anh hùng mạc vận ......................... Sau đây là bài luận của tôi: Qua tiểu sử về Hạng Vũ trong đại vận Đinh Mùi (tức Kiếp vận): “Kiếp Vận (18-27 tuổi): Nhìn chung, trong vận trình này Hạng Vũ đã từng bước tạo được các chiến công và uy danh hiển hách: Chém Tống Nghĩa, Đại phá Vương Ly, Thu hàng Chương Hàm“. Và đại vận Bính Ngọ (tức Tỷ vận) : “Tỷ vận (28-37 tuổi): Nhìn chung, trong vận trình này Hạng Vũ đã từng bước tạo được các chiến công và uy danh hiển hách: Chém Tống Nghĩa, Đại phá Vương Ly, Thu hàng Chương Hàm“. Chúng ta nhận thấy 2 đại vận này hoàn toàn trái ngược nhau nên mặc dù cùng là hành Hỏa (Bính và Đinh) nhưng đại vận Bính Ngọ không thể là hỷ hay dụng thần được mà nó phải là kỵ vận thì mới đúng theo thực tế đã xẩy ra của người này (vì toàn bị thất bại liên tiếp, dồn dập …., nó hoàn toàn khác với đại vận Đinh Mùi liên tiếp thành công). Điều này đủ để ta khẳng định Thân của Tứ Trụ này vào đại vận Bính Ngọ không còn là nhược nữa mà phải là vượng thì đại vận Bính Ngọ mới trở thành kỵ thần. Một điều vô cùng hợp lý là vào đại vận Bính Ngọ chỉ có Thân vượng thì Bính đại vận là Tỷ Kiếp hợp và khắc Tân là Tài trong Tứ Trụ mới thể hiện sự tranh đoạt Tài với Thân. Điều này phù hợp với thực tế của ví dụ này là vì Tài ở đây đại diện cho đất đai, lãnh thổ, tài nguyên, con người… của Hạng Vũ dần dần bị mất vào tay đối phương là Lưu Bang (Tỷ Kiếp). 1 - Sơ đồ tính điểm hạn năm Mậu Tuất: Năm Mậu Tuất thuộc đại vận Bính Ngọ, tiểu vận Canh Thân và Kỷ Mùi. 1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Tài tinh là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Đinh ở trụ năm. 2 – Trong Tứ Trụ có Bính trụ ngày hợp với Tân trụ giờ không hóa. Vào đại vận Bính Ngọ và năm Mậu Tuất có: Bính đại vận cùng Bính trụ ngày hợp với Tân trụ giờ. Lực hợp của Tuất trụ ngày và Tuất thái tuế với 2 Mão nhỏ hơn lực xung của Dậu trụ tháng với 2 Mão nên 2 Tuất không hợp được với 2 Mão, vì vậy mà Ngọ đại vận hợp được với 2 Tuất hóa Hỏa. Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì Hỏa là dụng thần nên Hỏa cục và Bính đại vận có điểm hạn âm cũng như không có các điểm hạn kỵ vượng của Hỏa nên tổng điểm hạn là rất thấp không thể chấp nhận được. Nhưng xem lại các giả thiết đã có thì trường hợp này không thuộc vào các trường hợp phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Từ đây ta có thể nghĩ ngay ra rằng: Có thể đây là một trường hợp mới về tính lại điểm vượng trong vùng tâm chăng? Nhìn vào sơ đồ ta thấy Nhật can là Bính lại vào đại vận Bính Ngọ là vận Kình Dương lại còn Kình dương hóa cục Kình Dương nên Hỏa khá mạnh có thể Thân đã trở thành vượng là có lý. Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết như sau: “6a/ - Nếu can chi của đại vận cùng hành mà chi đại vận là Kình Dương hợp với chi trong Tứ Trụ hóa cục Kình Dương thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại chỉ khi can đại vận hợp với can trong Tứ Trụ (?)“. Nếu sử dụng giả thiết này thì điểm vượng của Hỏa chỉ được thêm 2đv của Tuất trụ ngày và 3đv của Bính ở đại vận nên Thân vẫn nhược (vì Hỏa chỉ có 11,6đv vẫn nhỏ hơn Kim có 11,76đv). Do vậy ta phải bổ sung thêm vào giả thiết 13a/ như sau : 13a/ - Điểm vượng của can đại vận cũng như can và chi của lưu niên chính là điểm vượng của chúng tại lưu niên (nghĩa là tại chi của lưu niên (thái tuế) và xem thái tuế như lệnh tháng), chúng được viết ngắn điểm vượng của chúng tại lưu niên, số điểm này được tính như sau : 1 - Với chi của lưu niên (thái tuế) thì số điểm vượng này được tăng gấp đôi, trừ trường hợp trong tứ trụ không tồn tại hành của nó (kể cả can tàng là tạp khí) - (ví dụ 197). 2 - Với can lưu niên thì số điểm vượng này cũng được tăng gấp đôi, trừ khi nó hợp với can trong tứ trụ hóa cục (ví dụ 212). 3 - Với can đại vận thì số điểm này bằng chính điểm vượng của nó ở lưu niên, trừ khi nó hợp với can trong Tứ Trụ mà chi đại vận là Kình Dương lại hợp hóa cục Kình Dương thì điểm vượng của nó ở lưu niên được tính tương tự như của chi đại vận hay chi tiểu vận (vì trường hợp này can đại vận chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi chi đại vận). Nếu sử dụng điều bổ sung này thì Bính đại vận có (10 + 2.3)1/2 đv = 5,33đv. Thân trở thành vượng (vì nó có 6,6 + 2 + 5,33 = 13,93đv) mà Kiêu Ấn đủ nên dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương/ Kỷ ở trụ tháng. Ở đây ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có thêm 5,33đv của Ngọ đại vận và 2.3đv của Tuất thái tuế thành 25,26đv. Do vậy Hỏa là kỵ vượng. Theo sơ đồ trên thì tổng điểm hạn là 6,65đv. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Từ trước tới nay hầu như chưa có một cuốn sách nào hay một người nào đả động tới khái niệm “Thân có thể thay đổi“ mà chỉ thấy nói “dụng thần có thể thay đổi“, cho nên gặp các ví dụ như trường hợp này người luận thường phải “Gọt Chân Cho Vừa Giầy“. Cụ thể như bài luận trên, người luận chỉ còn bấu víu vào can chi lưu niên là Thực Thương, Ngọ đại vận và Mùi tiểu vận là Không Vong mà thôi. Nhưng Tuất thái tuế và Ngọ đại vận đã hóa Hỏa là dụng thần thì họ lại giả bộ như không nhìn thấy. Bởi vì nếu nhìn thấy thì chả nhẽ Hỏa cục này không đủ bù vào phần hao hụt do Thân bị xì hơi bởi Mậu hay sao ? Nhưng thực tế Mậu lưu niên và Kỷ trong Tứ Trụ đều ở trạng thái tĩnh (còn Tuất thái tuế đã hóa Hỏa) nên khả năng xì hơi Thân của chúng coi như là không đáng kể. Còn Không Vong thì có giá trị gì khi nó bị hợp ? Mùi ở tiểu vận là Không Vong thì phá được cái gì ở đây ngoài giá trị là có 0,13đh ? Theo tôi Không Vong chỉ có khả năng làm mất tính chất tốt xấu của các thần sát chứ nó không thể làm mất tính chất hỷ hay kỵ của các hành được, cũng như nó chỉ có tác dụng tốt hay xấu tại trụ mà nó đóng. Không Vong cũng như các thần sát và các khái niệm khác trong Tử Bình (như can, chi, tổ hợp, hóa cục, thiên khắc địa xung, nạp âm, hình, hại ....) đều có mặt mạnh và mặt yếu của chúng. Có lúc chúng mạnh có lúc chúng thành vô dụng.... nhưng điều này hình như chưa có sách nào nói tới thì phải (mà giả dụ có nói thì người luận cũng giả bộ không nhìn thấy như trên tôi đã viết). Cho nên kể cả các sách được cho là Kinh Điển vẫn thường thấy sử dụng các Tuyệt Chiêu “Gọt Chân Cho Vừa Giầy“ để luận, chắc họ cố tình tung hỏa mù để giấu Bí Kíp chăng? 2 - Sơ đồ tính điểm hạn năm Giáp Ngọ : Năm Giáp Ngọ thuộc đại vận Bính Nggo, tiểu vận Giáp Tý và Quý Hợi. 1 – Nếu sử dụng điều bổ xung trên thì các năm thuộc đại vận Bính Ngọ là Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu và Mậu Tuất thường phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và Thân thường là vượng, dụng thần thường là Kỷ ở trụ tháng (một vài trường hợp ngoại lệ như ở tiểu vận Giáp Tý này có Tý xung 2 Ngọ nên bán hợp của Ngọ bị phá, vì vậy ở tiểu vận này không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm). 2 - ............. Theo sơ đồ trên thì tổng điểm hạn là 8,62. Nếu như không tính tới các yếu tố bên ngoài tác động vào mệnh của người này (vì chúng có thể làm cho số điểm này thay đổi) thì số điểm này là quá cao không thể chấp nhận được Do vậy để phù hợp với thực tế của trường hợp này ta phải đưa ra giả thiết : 280a/ - Nếu các can chi của tuế vận đều hợp với can chi trong Tứ Trụ mà các tổ hợp này có tổng cộng ít nhất 8 can-chi thì tổng điểm hạn được giảm ít nhất giữa 2 mức 5/12 và ½ (hay ½ ?) chỉ khi chi tuế vận đều hóa cục có cùng hành (vì ở đây không những chỉ có can chi lưu niên đều hợp với can chi trong Tứ Trụ báo hiệu có tin mừng mà còn thêm can chi đại vận cũng vậy nên giả thiết tổng điểm hạn được giảm có một chút hợp lý). Nếu sử dụng giả thiết này thì tổng điểm hạn còn 8,62(7/12 + ½).1/2 đh = 4,67đh. Số điểm này có thể là chấp nhận được nếu năm Giáp Ngọ Hạng Vũ thất trận để mất đất..., còn nếu năm Giáp Ngọ Hạng Vũ không bị thất trận thì tổng điểm hạn của giả thiết này phải được giảm 1/2 còn 8,62.1/2 đh = 4,3đh. Tất cả các giả thiết được đưa ra trong ví dụ này đều có phần nào hợp lý cho dù là ít hay nhiều. Những giả thiết này sẽ được kiểm tra trong những ví dụ tương tự và thường thường chúng được hiệu chỉnh cho ngày càng chính xác, còn nếu thấy sai nhiều thì cần loại bỏ để tìm ra những giả thiết khác có tính thuyết phục hơn. Phương pháp nghiên cứu này liệu có đúng với lời khuyên của nhà Noben Vật Lý Dương Chấn Ninh và nhà tỷ phú Steve Jobs ở trên hay không ?
    1 like
  16. Ngôn từ Việt và thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Để dễ theo dõi bài viết, xin bạn đọc chú ý mấy điểm sau ở cách nói của Lãn Miên: 1/ Định nghĩa Từ: Từ là một Lời, tức có mang một nghĩa hoàn chỉnh. Ở ngôn ngữ Việt Nam, Từ cơ bản chỉ là một Tiếng (đơn âm tiết, coi như là một cái Tế để tạo thành Từ, hay là một cái Trứng để tạo thành Tiếng) có cấu tạo gồm cái “Tơi” hoặc cái “Vời” ở đầu và cái “Rỡi” ở đuôi. Tơi là phụ âm đầu, tức cái “Tiền tố tạo Lời”=(lướt)= “Tơi”, cũng là cái “Tay đưa Lời”=(lướt)=”Tơi”. Vời là không có Tơi, tức “Vắng Tơi”=(lướt)= “Vời”, hay cũng là “Vỏ Lời”=(lướt)=”Vời”. Rỡi có cấu tạo là một nguyên âm hoặc một âm vận, là cái “Ruột của Lời”=(lướt)= “Rỡi”(có mang dấu ngã là gen của Lõi). 2/ Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên, viết tắt là QT, gồm: 1.Qui tắc Vo ( qui tắc 1): Đưa từ đa âm tiết (của ngôn ngữ chắp dính) vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. 2.Qui tắc Nở ( qui tắc 2) : Một “Từ” đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “nôi khái niệm” như cái “bầu”, cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào tức một cái “Trứng” tự tách thành hai “Tiếng”, hai tiếng ấy dính thành một “Từ hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự khi phát âm”, gọi là “từ dính” , mang khái niệm lấp-lửng (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch ngang - ). Rồi “từ dính” đó mới tách rời hẳn ra thành hai từ đơn âm tiết riêng, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương, ghép chúng lại với nhau thì được một Từ Đối (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch xẹt / ).Từ Đối dùng để khái niệm sự trái ngược. 3.Qui tắc Lởi ( qui tắc 3) : Một từ nếu giữ nguyên Rỡi, đổi Tơi khác hoặc đổi Vời thành có Tơi (trường hợp từ đó là Vắng Tơi ), sẽ tạo được từ mới cùng Nòi, tức cùng Nôi khái niệm lớn với từ ấy (ngôn ngữ học gọi là qui tắc “Phối tố đầu”, theo kiểu “Biến phụ âm đầu mà Bất biến âm vận đuôi”). Phụ âm đầu là cái “Tố đầu để tạo Lời” =(lướt)= “Tơi”, hay là cái “Tay đưa Lời”=(lướt)= Tơi. Nhưng cái “Tố đầu”, theo triết lý Âm Dương “Trong Có vẫn có Không, trong Không vẫn có Có”, nên cái “Tố đầu” có trường hợp nó là Tơi , cũng có trường hợp nó là Vắng Tơi, mà “Vắng Tơi”=(lướt)=Vời, tức cái Tơi của nó từ trước đã được mời đi đâu mất rồi không rõ, nó không có mặt, nên nó là Vắng Tơi, gọi lướt là Vời. 4.Qui tắc Rút ( qui tắc 4): Một từ nếu giữ nguyên Tơi hoặc Vời , đổi Rỡi khác, sẽ tạo được từ mới cùng Nòi, tức cùng Nôi khái niệm lớn với từ ấy (ngôn ngữ học gọi là qui tắc “Phối tố đuôi”, theo kiểu “ Biến âm vận đuôi mà Bất biến “cái Có phụ âm đầu” hoặc “cái Vắng phụ âm đầu”). Âm vận đuôi là cái “Ruột để tạo Lời”=(lướt)= “Rỡi” (cùng gen dấu ngã với Lõi). 5.Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. Từ sẽ có Tơi hoặc Vời mang gen của Tiếng đầu câu và có Rỡi mang gen của Tiếng cuối câu, hoặc có thêm cả gen của một vài Tiếng giữa câu. 6.Qui tắc Tháp ( qui tắc 6): Là ghép hai từ đơn âm tiết đồng nghĩa (gọi là đồng Nòi) nhưng dị âm lại với nhau (gọi là khác Sắc, như 0 với 1 hay 1 với 0) thành một từ hai âm tiết đồng nghĩa (đồng Nòi) với hai từ trên. Nguyên tắc ghép là từ nào cổ hơn thì đứng trước. Từ ghép kiểu này tạo thành từ hai âm tiết gọi là “từ đôi”. Từ Đôi có ý nghĩa “Nhiều” hơn hay “Nhấn” mạnh hơn, như 0+1=1, hay 1+0=1. 7.Qui tắc Lặp (qui tắc 7): Là lặp lại một từ thành từ có hai âm tiết ( đương nhiên đồng âm, cùng ý nghĩa), dùng để nhấn mạnh hay so sánh. 3/. Dấu nối giữa các tiếng, gồm: 1. Dấu gạch ngang (-) là giữa hai tiếng của từ đôi 2. Dấu gạch xẹt (/) là giữa hai tiếng của từ đối 3. Dấu bằng (=) không phải là dấu ( = ) của đẳng thức trong toán học, nó chỉ dùng để dẫn ra nôi khái niệm lớn, có nghĩa là các Từ, tức các Tiếng, tức các Trứng liên hệ với nhau bằng dấu ( = ) là có cùng Gen. Giống như cái Hột giống của thực vật, nó có thể nẩy mầm ra cây Đực hoặc cây Cái (như cây đu đủ đực hoặc cây đu đủ cái). Vì Hột=Cột=Cộc=Cái=Trai=Gái=Gen. Cùng Gen tức cùng Gốc, Gốc ấy trong QT là: 1. Cùng Vò trong QT Vo (khi liên hệ với từ đồng nghĩa của các ngôn ngữ chắp dính) 2. Cùng Nôi trong QT Nở (tức cùng Tơi hoặc cùng Vắng Tơi như từ Gốc cho Gen) 3. Cùng Rỡi ( tức Rỡi bất biến) trong qui tắc Lởi < “Lấy tơi ra Đổi tơi khác nhằm thay Lời”=(lướt)= “Lởi”, Lởi còn có gen dẩu hỏi của Đổi, lại cùng gen với Lẩy như “Lẩy Kiều”, “Lấy câu ra thay câu khác để cho ý mới Nẩy”=(lướt)= “Lẩy”. Nếu là từ Vắng Tơi thì thay bằng có Tơi > 4. Cùng Tơi hoặc cùng Vời (tức Tơi hoặc Vời bất biến) trong QT Rút. < “Vắng Tơi”=(lướt)= “Vời”, nghĩa là Tơi đã được mời đi đâu mất rồi từ trước nên không có mặt, tức Vắng Tơi . “Rã thay Rỡi để đÚc mới Từ”=(lướt)=Rút, Từ = Tờ = “t” , giải phẫu của RÚT là R-Ú-T, R mang gen của Rã, Ú mang gen của Đúc, T mang gen của Từ > 5. Cùng Tơi của tiếng đầu câu và cùng Rỡi của tiếng cuối câu trong QT Lướt . 4/ Qui tắc đếm của hệ số nhị phân là: 0+0=1 , 0+1=1, 1+0=1, 1+1=0 Ngôn từ Việt có Âm Dương Ngũ Hành, hay Âm Dương Ngũ Hành có trong ngôn từ Việt. Ngôn ngữ Việt Nam được xếp vào hệ ngữ Môn-Khơ Me. Nguyên thủy nó là một ngôn ngữ chắp dính (đa âm tiết, không biệt rõ thanh điệu). Tại miền đất bán đảo Đông Dương, hàng vạn năm trước, khi canh tác nông nghiệp trồng trọt đã phát triển thành nền văn minh lúa nước, người Việt sáng tạo ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành cho nhiều ứng dụng khác nhau trong đời sống, rồi cũng vận dụng nó vào cả trong phát triển ngôn từ, người Việt mới dùng QT Vo để tạo ra một Tiếng phải là một Lời. < Qui tắc Vo - qui tắc 1: Đưa từ đa âm tiết của ngôn ngữ chắp dính vào trong cái Vò của Việt , gọi là Vò Việt, là một cái “Nôi khái niệm”, để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết. > Thế là ngôn ngữ đơn âm tiết xuất hiện, và theo nó là bắt buộc phải xuất hiện thanh điệu. Khi trong ngôn ngữ đã có cái hiệu quả: một Lời (tức đã trọn một nghĩa) chỉ là một Tiếng, như khái niệm dẫn ra: Lời=Lõi=Nòi=Trọi=Trồi=Trứng=Tưng=Tiếng; “Tiếng của Trứng” =(lướt)= “Tưng”=Tửng-Từng-Tưng, giống âm thanh của tiếng đờn T,rưng, thì người Việt coi cái Tiếng đó như là một cái Trứng, theo vận dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành, cái Trứng đó phải tự đẻ được theo cách như tế bào tự tách đôi, xuất hiện QT Nở. < Qui tắc Nở - qui tắc 2 : Một “Từ” đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “nôi khái niệm” là cái “bầu”( đây chính là cái bầu tròn của biểu tượng Âm Dương, bên trong có hình giống như hai con Nòng-Nọc quấn quýt ngược đầu nhau), cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào tức một cái “Trứng” là một cái “Tế” tự tách đôi thành hai “Tiếng”, mỗi “Tiếng” sẽ thành một “Từ”, nhưng khi còn trong nôi thì hai tiếng ấy vẫn đang dính thành một “Từ có hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự vị trí của chúng khi phát âm”, gọi là “Từ Dính” . Từ Dính mang khái niệm lấp-lửng (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch ngang - ). Rồi “Từ Dính” đó mới tách rời hẳn ra như nảy ra khỏi nôi thành hai từ đơn âm tiết khác nữa độc lập nhau, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương, ghép chúng lại với nhau thì được một Từ Đối (thường đánh dấu giữa hai tiếng bằng một gạch xẹt / ).Từ Đối dùng để khái niệm sự trái ngược.> Đi sâu vào xét QT Nở ta sẽ thấy ngôn từ Việt ẩn chứa qui tắc của thuyết Âm Dương Ngũ Hành chính xác như thế nào. Tiếng Việt là ngôn ngữ có âm vận phong phú nhất, thêm sáu thanh điệu làm cho lượng âm vận càng phong phú (tiếng Thái Lan có 5 thanh điệu, tiếng Hán có 4 thanh điệu). Âm vận đơn giản nhất là chỉ có một nguyên âm, đó là một Lời chỉ có Rỡi < Rỡi tức “Ruột của Lời” = (lướt)= “Rỡi” > mà Vắng Tơi < Tơi tức “Tay đưa ra Lời”=(lướt)= “Tơi”, hay “Tiền tố của Lời”=(lướt)= “Tơi” >. Đã phát âm thành một “Tiếng” thì của tiếng Việt nó ắt phải là một “Từ”, tức một Lời vì nó mang nghĩa hoàn chỉnh. Ký tự nguyên thủy của loài người là vẽ một vòng tròn ( O ) biểu thị Đực, là Dương, là bầu trời. Trong tiếng Việt thì Trời=Trồi=Tròn ( cái Rỡi của Tròn là On sẽ cho ra Con, cũng thuộc Đực, thuộc Dương). Nhưng “trong Dương có Âm” tức tính của Dương là Âm, nên từ hình vẽ chuyển sang ký tự của ngôn ngữ thì hình tròn ấy là chữ O, người Việt gọi “O” nghĩa là “Người con gái” (thơ Tố Hữu: “ O du kích nhỏ giương cao súng…”). O có dấu thanh điệu Ngang, tức vần Trắc, chỉ cần đổi ngược sang vần Bằng, tức thay dấu thanh điệu Ngang thành dấu thanh điệu Sắc ta có Ó là con chim Ó là loài diều hâu thuộc tính Dương, biểu trưng Dương. Hình thành cặp đối O/Ó. Con gà nó gáy bằng tiếng Việt là “ Ò-Ó-O…Ò-Ó-O…” một dãy âm thanh tiếp nối Bằng-Trắc…Bằng-Trắc…Con gà trong quan niệm cổ đại là biểu tượng Lửa, là Dương,tính của thịt gà theo Đông Y của người Việt là Nóng. Gà (tiếng Việt)=Cà (tiếng Việt)=Cáy (tiếng Tày)=Qué (tiếng Hoa)=Kê (chữ nho Việt), có từ đôi Cà Kê, Gà Qué. Gà=Kê ứng với hành Kim trong Ngũ Hành. Trong tiếng Việt thì khái niệm đã mở rộng ra theo QT là Gà=Lả=Tá=Tra=Trời=Trống=Rộng=Đồng=Hồng=Hùng, và chữ nho Việt viết Hùng nghĩa là Con Trống. Chỉ trong một nôi khái niệm này của tiếng Việt theo QT, đã có thể nhìn thấy thời đại Hùng Vương là thời đại kim loại đồ đồng của Trống Đồng trên một vùng đất đai văn hóa Rộng mênh mông của các Bản Làng đại tộc Việt. Vùng đất đai văn hóa rộng lớn ấy trải dài từ vịnh Thái Lan đến bờ nam sông Dương Tử, đó là nước Hồng Bàng cổ xưa của 18 thời đại Vua Hùng, (“Vua” “Hùng” = “Vùng của” “Trống Đồng”). Khi ngôn ngữ Việt đã thành đơn âm tiết, người Việt lại còn dùng Qui tắc Lướt để tạo thành những từ mới ngắn gọn bằng một Tiếng do cô đọng một câu dài. < Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ đơn âm tiết đồng nghĩa. Từ sẽ có Tơi hoặc Vời mang gen của Tiếng đầu câu và có Rỡi mang gen của Tiếng cuối câu, hoặc có cả gen của một vài Tiếng giữa câu > Bản Làng=(lướt)=Bàng=Bang=Băng, nhiều làng hợp lại thì thành một bang, dân biển đảo sông nước thì sống trên Bè, Mảng, nhiều thì cũng hợp lại thành Bang. Bè Mảng=(lướt)=Bảng=Bang. Bè=Phe=Phái, có từ đôi Phe Phái, Bè Phái, do đó thấy cổ nhất vẫn là từ Bè, đó là cái vật cụ thể ghép bằng nhiều cây nứa để đi sông biển. Ngôn từ của nhân loại đều do từ chỉ vật cụ thể rồi nâng lên tính trừu tượng thành từ bác học. Mảng cũng là vật cụ thể ghép bằng nhiều cây nứa để đi sông biển, Mảng=Mường=Minh, Liền Mảng=Liên Minh, Liên Minh là một từ bác học. <Trong Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có viết địa danh Bảo Giang, nói lái thì là Bảng Giao tức Bang của Giao Chỉ vùng biển, Bảng Giao=(lướt)=Bảo , mà cũng vậy Biển Đảo=(lướt)=Bảo. Bảo=Bửu=Báu. Còn nói theo qui tắc “phản thiết” của Hứa Thận thời Đông Tấn thì “phản” tức đảo ngược lại là Giang Bảo rồi “thiết” tức lướt thì Giang Bảo=(lướt)=Giao, cũng là Giao Chỉ nốt. Câu Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: “Phân phân Tùng bách khởi. Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh. Bảo Giang thiên tử xuất. Bất chiến tự nhiên thành”. Hán ngữ dùng các từ “Bang” nghĩa là một quốc gia, “Bàng Đại” nghĩa là rất to lớn, “Đại Bàng” nghĩa là loài chim có cánh xòe rộng > QT Lướt rất quan trọng trong tạo từ mới. Do lười biếng, ăn sẵn, vọng ngoại (lái là “vái ngọng”, đã làm hỏng dần ngôn từ Việt) người ta không để ý mấy đến QT Lướt. Trong khi đó thời Đông Tấn hai ngàn năm trước có Hứa Thận viết cuốn “Thuyết Văn Giải Tự” đã vận dụng qui tắc này , gọi là “Thiết”, Lướt=Thướt=Thiết, để dạy cách đọc đúng âm chữ nho. Tư duy của người Việt là một khái niệm phải được biểu đạt chỉ bằng một từ. Ngày nay trong tiếng Việt vô cùng nhiều khái niệm được các nhà ngôn ngữ học biểu đạt bằng cả một câu. Ví dụ “bao cao su”, đây là một cụm từ chứ không phải một từ, nếu trong đối thoại hỏi “Đây là cái gì?”, trả lời “Bao cao su” thì đó là một câu. Vậy mà nó cứ được dùng tự nhiên để khái niệm một vật cụ thể, nếu sau dăm năm nữa công nghệ phát triển không làm nó bằng cao su nữa thì gọi nó là cái gì?. Từ để khái niệm nó thực ra đã có sẵn trong QT rồi. Tên khoa học nó là Condom, QT Vo đã nhìn thấy cái lõi “Đ” ở Giữa là gen Giao Chỉ rồi. Nó là cái dụng cụ dùng để Đụ, mà Đụ là QT Lướt của câu “Đưa tinh trùng đến Tụ” vào cái ổ trứng, “Đưa tinh trùng đến Tụ”=(lướt)=Đụ. Nhưng dùng dụng cụ ấy không phải là để nhằm di truyền nòi giống, mà chỉ là dụng cụ dùng để Đụ Chơi. QT Lướt đã cho từ mới “Đụ Chơi”=(lướt)=Đơi. Vậy thì gọi dụng cụ ấy là cái Đơi cho rồi, khỏi “bao cao su” dài dòng. Hán ngữ gọi nó là cái “vệ sinh đai”, cũng dài, nghĩa là cái vành đai bảo vệ cho sạch sẽ. Nhưng cái Đơi của QT thì nó đã hàm ý bảo vệ rồi, vì nó nhắc nhở “Đừng có làm ngắn cuộc Đời của bạn”, Đời mà bị ngắn mất cái dầu huyền thì là Đơi. Đơi=Tơi (cái áo ngoài)=Toi, hãy coi chừng ! Trước khi hành sự thì nhớ “Đợi mang Tơi”=(lướt)=Đơi, kiểu nào cũng giải thích được.( “Phong ba bão táp chưa bằng ngữ pháp Việt Nam” ). Trong dân gian, nhất là trong lớp “teen” mạng bây giờ họ rành QT lắm, có lẽ là do từ trong tiềm thức Việt. Ví dụ từ “đi Phượt “ chỉ cả câu: Đi du lịch kiểu “Phớt lờ mà Vượt” mọi trở ngại thiên nhiên và bó buộc của tua truyền thống gọi là đi Phượt. Thợ xẻ có từ thợ “Làm lưỡi cưa cũ cho sắc lại như Mới”=(lướt)=Lỡi, gọi là thợ Lỡi. Ngày nay dùng máy tự động mài lưỡi cưa, lại không gọi là “máy Lỡi” mà gọi là “máy mài lưỡi cưa tự động”. Dân nuôi tôm ở Cà Mau gọi cái lưới mắt rất nhỏ để quây tôm con ở góc ao là cái “Vzèo” do lấy ở từ láy Vòng-Vèo, làm gì có chuyện “Vòng là tiếng đã đem dùng, còn Vèo là tiếng đang chờ chứ chưa sử dụng” như ngôn ngữ học giải thích từ láy. Vèo là do cái “Võng có mắt nhỏ tí Tẹo”=(lướt)= “Vèo”. Vòng là do cái “Võng có mắt Rộng”=(lướt)=Vòng. Ngôn từ Việt với chữ Quốc Ngữ: Ký tự cổ đại của loài người thì vẽ Đực-Trời là cái vòng tròn ( O ), ký tự Latin thì vòng tròn là cái chữ O . Sách giáo khoa dạy vỡ lòng của giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi truyền bá chữ quốc ngữ có câu đầu tiên là: “O tròn như quả trứng gà. Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”. Ý là, muốn hiểu rõ ngôn ngữ Việt Nam phải bắt đầu từ Trời ( tức từ nguyên lý Vũ Trụ) và từ cái Trứng (tức từ nguyên lý gen DNA), cả hai cái đó đều nằm trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành của người Lạc Việt sáng tạo ra. Việc dùng QT để dẫn ra một nôi khái niệm lớn cũng là theo như triết lý Âm Dương “Trong Dương có Âm, trong Âm có Dương”, vậy thì nếu qui ước Âm là Nhỏ, Dương là To thì Trong To có Nhỏ, trong Nhỏ có to, cũng như trong Vũ Trụ có một con Người và trong một con Người cũng có cả một Vũ Trụ, trong Trời có một con Gà và trong một con Gà cũng có cả Trời. Lão Tử nói Tim chỉ là một cái phủ xác thịt trong số lục phủ của lục phủ ngũ tạng, còn Tâm của con người thì nó là Thiên Phủ, nó sâu vô cùng tận và cũng rộng vô cùng tận ( thì nó như là Vũ Trụ vậy). Đã ai nghiên cứu được hết tiềm năng con người? Hán ngữ chỉ có một từ “xin” , quả tim cũng gọi là “xin”, lòng người cũng gọi là “xin”, viết bằng chữ Tâm. Những nhà “từ Hán-Việt” thì soạn ra từ để trong cuốn Từ Điển Tiếng Việt có cụm từ “khoa Tim Mạch”, nhưng lại có cụm từ “đo điện Tâm đồ”, đo đồ Tim bằng điện thì có thể, chứ đo thế nào được đồ của Tâm mà gọi theo kiểu Hán là “điện Tâm đồ”. Vì ngôn từ tiếng Việt được tạo ra theo qui tắc Âm Dương, tức qui tắc của hệ số nhị phân, nên trước hết ta phải nhớ lại là qui tắc đếm nhị phân khác qui tắc đếm thập phân. Hệ số nhị phân đếm như sau: 0 + 0 = 1, 0 + 1 =1, 1 + 0 +1, 1 + 1 = 0 . Ngôn từ Việt đều được tạo ra theo qui tắc đó của hệ đếm nhị phân. Thời cổ đại người Việt dùng ký tự Kẻ vạch. Kẻ bằng một vạch liền là Dương, Kẻ bằng hai vạch nối cách nhau là Âm. Thời dùng Que làm công cụ để Kẻ ra ký tự là những vạch thẳng có lẽ là thời còn Cứng, thời ấy là còn người Kinh (cần Keo), nói còn gọi là Kêu (giọng rất Cứng), ra đến Lưỡng Quảng đất rộng hơn thì Kêu lại thành Coỏng (vẫn rất Cứng và giữ đến ngày nay). Sau đến thời biết dùng công cụ là chất liệu mềm hơn thì động tác Kẻ đã biến thành Vẽ, ký tự càng phong phú lên thì biết viết, lúc đó người Kinh đã thành người Việt. Từ người Kinh biết Kẻ đến biết Vẽ đến Viết để người Kinh trở thành người Việt là quá trình dài hàng vạn năm để từ Cứng thành Mềm, lúc đó mới gọi là người Man hay Mân. Thời còn Cứng ấy kéo dài đến thời nước Sừng hay nước Sùng, giọng Cứng sinh ra các từ cũng Cứng, nhiều Tơi “K”. Thức ăn thì có Cơm, Canh, Cay, Quyệt, Kẹo. Thực vật có Cây, Cọng, Cỏ, Cành, Cánh,Củi, Củ, Quả. Động vật hoang dã có Cá, Cua, Cáy, Cóc, Còng, Cà Cuống, Cồ Cộ, Cào Cào, Cắc Kè, Cà Cưỡng, Kền Kền, Qué, Qụa, Cù Cu, Cun Cút, Cồng Cộc, Công, Cò, Két , Cắt, Cú, Cọp. Nông cụ có Cán, Càn, Quang, Cày, Cuốc, Cào. Kỹ thuật đánh bắt thủy sản có Cất, Câu, Quây, Quét, Cào. Công đoạn làm thuyền có Cưa, Cắt, Quay, Cạo, Quết. Làm nghề rèn có Kiềng, Quạt, Kê, Quật, Cạy. Bán hàng có Quang, Cân, Cóng, Ky, Quầy. Máy móc là bộ Cơ có Cộ, Cọn, Cối, Cửi, Cạm. Đến thời Vẽ và Viết là ký tự ký âm gọi là chữ nòng nọc. Qua hàng vạn năm sau lại quay lại đến thời thay chữ ký âm nòng nọc (khoa đẩu) bằng ký tự La Tinh thì hóa ra lại Là Mình (La Tinh=Là Mình). Có thể La Tinh không đồng nghĩa với Là Mình, nhưng chắc chắn là nó có gen đấy. Vì trong tiếng Việt thì Là Tinh=Là Tỉnh=Là Tình=Là Mình. Ơn Ai đưa chữ La Tinh. Để Ta thấy lại Là Mình ngàn xưa (Lãn Miên) Hãy xét các cặp từ đối, dùng chữ Quốc Ngữ để thấy rõ cái gen của Từ. Cặp đối Con/Cái: Từ đối Con/Cái (từ đốii tương ứng do hai cặp từ đôi: “Con Cặc”/ “Cái Lồn”) chính là từ đối Âm/Dương (từ đối tương ứng do hai cặp từ đôi “Ít Ỏi”/ “Dồi Dào”, khoa học đã chứng minh Âm/Dương là một tám một mười, tỷ lệ dân số hiện nay ở Trung Quốc đang là Dương thịnh Âm suy).Từ đối Con/Cái dù là đối nhưng Con và Cái đều là một Nòi ở trong một Nôi mà ra, vì chúng cùng Tơi là “C”, cái Tế (bào) chung của chúng là “Kẻ” đã theo QT Nở mà tách đôi theo cách tự sinh sản của tế bào, lúc mới bắt đầu thì cái trứng “Kẻ” ấy mới chỉ là sinh ra từ dính “Cựa-Quậy” tức cái trứng đang từ từ tự tách để lớn dần lên, lớn đến mức độ “thái” thì nó thành từ dính “Quá-Quắt”, rồi trứng ấy nói được thì thành từ dính “Quang-Quác”. Nếu qui ước Quang=1=Dương thì trong Dương có Âm nên Quang đã có sẵn cái gen là dấu thanh sắc của Quác, nên khi nở (tức lúc đã thái Dương thì biến thành Âm) nó nở thành Cái, mang giá trị 0=Âm. Tất nhiên cũng phải theo qui ước, Quác=0=Âm, thì trong Âm có Dương nên Quác đã có sẵn cái gen là dấu thanh ngang của Quang, nên khi nở ( tức lúc đã thái Âm thì biến thành Dương) nó nở ra thành Con. Có được hai cá thể hoàn chỉnh ở ngoài là Con và Cái, rõ ràng là một tiếng Dương và một tiếng Âm, chúng là một đôi nguyên thủy cùng Nôi, nên tạo thành từ đối nguyên thủy là từ đối Con/Cái. Về thời gian mà cái trứng “Kẻ” dùng để duy dưỡng , dần dần tách ra được hai trứng Con và Cái, là một quá trình, được biểu thị bằng từ đôi Chọn Chài ( Chọn cùng Rỡi “on” với Con, Chài cùng Rỡi “ai” với Cái, câu “ Chài người để Chọn làm chồng” đã giải thích được ý nghĩa của từ đôi Chọn Chài, là quá trình mà “Kẻ” đang nuôi dưỡng, cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể DNA cho hai đứa, đứa nào sẽ sinh ra thành Con, đứa nào sẽ sinh ra thành Cái). Chọn Chài là quá trình lâu dài, bản thân Con=Gọn, Cái=Dài đã tiên đoán đàn bà có tuổi thọ hơn là đàn ông.Từ đôi Chọn Chài theo QT Lướt thì “Chọn Chài”=(lướt)= “Chãy”. Chãy là từ thứ sáu, với dấu thanh điệu thứ sáu của ngôn ngữ Việt Nam. Theo QT Lởi và QT Rút thì Chãy=Chửa=Chở=Chứa=Chữa=Đưa=Đẩy=Dẫy=Dài,=Dỗi =Rỗi=Rãi=Rảnh=Rang, là một quá trình lâu dài, có từ đôi Chứa Chở, Đưa Đẩy, Chữa Chãy (thường phát âm sai là Chữa Chạy), Rảnh Rang , Rỗi Rãi , Dẫy Dài đều là cần thời gian lâu dài ; từ ghép Dẫy Chết cũng cần thời gian lâu chứ không thể chết ngay lập tức được.Toàn bộ thể hiện quá trình duy dưỡng và cân nhắc phân phối nhiễm sắc thể cho hai đứa sắp ra đời của “Kẻ” là Con và Cái. Năm từ kia với năm dấu thanh điệu khác nữa đều là năm động từ thể hiện tương tác giữa Âm và Dương, tức giữa Con và Cái khi chúng đang còn ở trong Nôi chưa tách rời hẳn nhau, đó là các động từ chỉ sự tương tác: Chạy (di chuyển - Kim), Cháy (thiêu đốt - Hỏa), Chảy (biến hóa - Thủy), Chày (giữ lại - Thổ), Chay (loại trừ - Mộc). Ngoài năm từ với năm dấu thanh điệu mà ứng với Ngũ Hành ở cái ý nghĩa của từ, thì từ thứ sáu có dấu thanh điệu thứ sáu thể hiện quá trình tương tác, tính chất của quá trình ấy là Sáu=Sâu=Lâu (Nên thuốc Nam làm bằng các vị thảo dược nó tác dụng lâu mới khỏi bệnh, không nhanh như thuốc Tây làm bằng hóa chất).Từ đối Con/Cái tương đương với Nam/Nữ = Nường/Nõn = Lang/Lồn (Câu “đi lang” ý chê trách là đi theo trai, “lang thang”, “lang bạt kỳ hồ” thường chỉ hành vi của con trai). Nữ là Âm nhưng tính của Âm là Động tức Nông-Nổi, nên mới có câu chê ngược cho vui là “Đàn ông nông nổi giếng thơi, Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu” ( từ đối Thác/Thơi, Thác là nước chảy trên cao xuống, Thơi là nước mạch đùn dưới sâu lên). Như trên đủ thấy ngôn từ của tiếng Việt được tạo ra từ nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, chứng tỏ thuyết Âm Dương Ngũ Hành là sản phẩm của người Việt, vì tư duy tạo ra ngôn ngữ, ngôn ngữ lại là công cụ để tư duy. Nhưng không chỉ có thế. Trong ngôn ngữ Việt Nam lại cũng đã chỉ rõ sự sinh ra vũ trụ từ trong cách tạo từ của nó: Vũ trụ nguyên sơ là một cái Ổ hư vô, nhưng trong nó đã có mầm mống của tố chất Âm và Dương, chỉ có điều là chưa có cái nào được sinh ra mà thôi.Từ Ổ ấy là cùng Nòi với từ AND của tiếng Anh, vì “Ổ” và “AND” đều là cùng mẫu số chung là “Vắng Tơi”. ( Tiếng Anh AND nghĩa là “và” tức ám chỉ nó phải có ít nhất là hai yếu tố nằm ẩn trong đó, mà tiếng Việt thì Và=Vài=Hai).Thượng Đế thấy cái Ổ hư vô đó là không được, Thượng Đế không hài lòng, muốn phủ định nó đi, nên Ngài mới lệnh Nỏ Ổ ! ( “Nỏ” tiếng Việt là Không, như “No” tiếng Anh cũng là Không, suốt giải miền Trung “trọ trẹ” đều vẫn đang dùng từ “Nỏ” nghĩa là Không, nhưng Từ điển Tiếng Việt thì không đưa từ này vào !). Thế là No AND đã thành một câu phủ định, và theo QT5 nó lướt “No AND”=(lướt)= “NAND”. Nhưng ở tiếng Việt thì Nỏ Ổ đã lướt “Nỏ Ổ”=(lướt)=Nổ. Vụ Nổ này là nổ tan tành sạch sành sanh, nên gọi là Nổ Trắng, theo QT5 để lướt thì “NổTrắng”=(lướt)=Năng. Vụ nổ đó tạo ra một cái Năng, là cái hàm chứa trong nó sức lực vô tận. Cái trứng Năng này như một Tế bào, trong Nôi âm dương của Việt nó được duy dưỡng và từ từ tách đôi, thoạt đầu nó thành từ dính Nở-Nang (như 0 + 1, tức ký tự kẻ: một Vạch Đứt và một Vạch Liền, Âm Dương cân bằng), rồi tiếp diễn quá trình, nó đến thành Nảy-Nòi (như 1 + 0, tức ký tự kẻ: một Vạch Liền và một Vạch Đứt, Dương Âm cân bằng). Cuối cùng thì cái trứng NĂNG ấy tạo ra được hai đứa ,“con” là NẮNG và “cái” là NƯỚC, ghép lại có từ đối NẮNG/NƯỚC tương đương Dương/Âm. (Như Thượng Đế tạo ra ADAM rồi bẻ một mẩu xương sườn của Adam để nặn ra EVA. Dương sinh ra trước, Âm sinh ra sau, vì Nắng mang nhiều gen của Năng hơn là Nước. Rõ ràng thiên nhiên thì Nắng vẫn nhiều hơn Nước). “Cái” là Nước nên câu thành ngữ “Khôn ăn cái dại ăn nước” có nghĩa là đều ăn nước cả là khôn. Tây nó khôn hơn Ta nên nó toàn ăn súp với một tẹo bánh mì mà nó khỏe hơn, nên dưỡng sinh dạy là phải nhai một trăm lần cho mieesngthuwsc ăn nhuyễn thành Nước rồi mới Nuốt là tốt nhất. Cổ sơ thì trong tiếng Việt cũng chỉ có một từ Yên=Nghiền=Ngốn, dùng chung cho cả khái niệm uống và ăn, như tiếng Thái Lan vẫn chỉ một từ Yên=In=Kin, uống cũng gọi là Kin, ăn cũng gọi là Kin. Bởi cái QT Nở mà Yên đã chia tách ra thành Uống và Ăn ( đều cùng Nòi là “Vắng Tơi”). Thành ra nói hơi rắc rối, “nghệ thuật Uống-Ăn”= “nghệ thuật Ẩm- Thực”, tiếng Thái Lan chỉ cần nói “nghệ thuật Kin” là xong. Cho nên chắc chắn Thái Lan sẽ tiến đến “khoa học hợp nhất” nhanh hơn Việt Nam, vì Việt Nam đang còn lưỡng lự giữa hai, vấn-vương như Uống-Ăn, còn lâu mới tiến được đến “khoa học hợp nhất” như Yên, vốn đã có dùng thủa cổ xưa. Những nhà ngôn ngữ học “từ Hán-Việt” cứ cho rằng ngôn từ Việt gần gũi nhất với ngôn từ Hán, nhưng lại không thấy thực tế là nó gần gũi với ngôn từ tiếng Thái Lan và tiếng Khơ Me hơn nhiều . NĂNG là nhất nguyên đã sinh ra NẮNG và NƯỚC là nhị nguyên. NẮNG ghi bằng hai kẻ: Vạch Liền và Vạch Liền, như 1+1, thái Dương thì thành Âm, Nắng sẽ biến thành Nước gây mưa , sóng thần, lụt lội. NƯỚC ghi bằng hai kẻ: Vạch Đứt và Vạch Đứt, như 0+0, thái Âm thì thành Dương, nước có thể biến thành lửa, như QT: Nước=Nấu=Lẩu (tiếngTháiLan, nghĩa là rượu)=Dậu=Diệu=Riệu=Rượu=Rang=Rộp=Rổn= Cồn= Êtanol. Có từ đôi Rượu Cồn, Rổn Rang=Rộn Ràng chỉ cái không khí “hot”. Hệ đếm nhị phân trong ngôn ngữ Việt Nam ở con số Mô/Một đã có từ thủa khai thiên lập địa, nên cách tạo ngôn từ Việt nó mới nhuyễn Âm Dương Ngũ Hành và cả hệ số nhị phân như vậy. Thượng Đế cho tiếng Việt, ở lệnh phủ định Nỏ Ổ=(lướt)=NỔ trước , để tạo ra Vũ Trụ. Rồi Thượng Đế mới cho tiếng Anh, ở lệnh No AND=(lướt)=NAND, để xử lý ra hệ nhị phân, như ngôn ngữ Việt Nam vốn đã tự có hệ nhị phân từ trong tạo ngôn từ của nó từ khi có Vũ Trụ. Thượng Đế cho tiếng Anh cái lệnh phủ định là No AND= (lướt)=NAND, đã thành cái cổng (gate) NAND là mạch điện tử cơ bản sơ đẳng nhất trong kỹ thuật xử lý số. Mạch này có hai đầu vào, một đầu ra, xử lý phủ định (như lệnh của Thượng Đế đã ban), tạo ra ở đầu ra được bốn tổ hợp là 0 0, 0 1, 1 0, 1 1. (Đó chính là Tứ Tượng). Mà hệ nhị phân của công nghệ thông tin, như các nhà khoa học nói, “là công cụ tạo ra mọi văn minh cho nhân loại trong tương lai”. Cặp từ đối Âm/Dương, người Việt phát âm thì đúng như động tác cặp môi Mím/Mở (hay Ngậm/Toang), còn người Hán phát âm Âm/Dương là Yin/Yang, hai âm này cặp môi phát âm đều mở hết cỡ, vậy Yin/Yang chỉ là phiêm âm bắt chước mà thôi, không thể hiện được Đóng/ Mở như công tắc điện là môi trên môi dưới phải tiếp xúc chặt khi phát âm “Đóng” và nhả ra không tiếp xúc nữa khi phát âm “Mở”. Công tắc điện Mở/Đóng người Hán gọi là Khai/Quan, hai âm này khi cặp môi phát âm đều mở toang hết cỡ, làm sao phân biệt được là Đóng hay Mở, Ngậm miệng hay Há miệng. Động tác Đóng/Mở của công tắc điện được điều khiển trong kỹ thuật số bằng con số 0/1 của hệ số đếm nhị phân: 0=Âm= “Không có điện”=Chẳng được gì, 1=Dương= “Có điện”=Được nhiều. Cặp số Không/Một cũng đúng động tác Ngậm môi và Mở môi của cái miệng Việt. Nguyên thủy thì nó là Mô/Một. Người ta quan niệm Âm là khái niệm khép kín (hướng nội), Dương là khái niệm mở mang (hướng ngoại) thì Mô và Một của tiếng Việt cũng phản ảnh đúng như vậy: Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết, tức chẳng được kiến thức gì, vì “bế quan tỏa cảng”. Một=Hốt=Nhốt=Nhặt=Nhận=Nhiều, tức tiếp thụ được nhiều kiến thức, vì “cải cách mở cửa” (Không “hốt” bạc thì cũng “hốt” được nhiều kiến thức, từ “hot” lại là “nóng” của tiếng Anh). Nguyên thủy từ đối phải là cùng gốc như Âm Dương vốn cùng một gốc mà ra, nên hai tiếng trong từ đối phải có cùng mẫu số chung là “cùng Tơi” hoặc “cùng Vời”, hoặc cùng “Rỡi”. Ví dụ nguyên thủy của cặp từ đối Mưa/Nắng phải là Nước/Nắng.(Vậy mà Nước và Nắng đều là năng lượng vô tận). Cặp từ đối Nước/Nắng phản ánh đúng nơi sinh ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành là bán đảo Đông Dương có bên núi bên biển, chỉ rõ Âm tính động, Dương tính tĩnh, chỉ rõ phương hướng của Hà Đồ. Những điều này thể hiện rõ ngay trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: NƯỚC=Nổi=Sôi=Dội=Dậy=Đẩy=Đảo=Động=ĐÔNG=Đấm=ÂM=Sấm=Sóng=Chỏng= =Chống=CHẤN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Nước Nổi=Nước Nôi, Sôi Động, Dậy Sóng, Chấn Động, Đẩy Chống (thuyền). Tất cả chúng đều biểu thị tính động của Âm. ( Nếu theo QT mà dẫn ra sẽ có hàng trăm động từ diễn tả tác động của nước (tức hiệu quả của năng lượng từ Nước, công nghệ kỹ thuật cao đang nghiên cứu các động từ ấy để lấy được hiệu ích từ năng lượng của nước, thủy điện mới chỉ là một ứng dụng sơ đẳng nhất có mỗi một động từ “chảy” của Nước. Chính vì phong phú động từ do Nước như vậy, để mà lấy được năng lượng, nên mới có câu thành ngữ “Rừng vàng Biển bạc”) NẮNG= Lắng=Lặng=Ắng=Im=Ương=Bướng=DƯƠNG=Tượng=Tịnh=Tĩnh=TÂY=TỐN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Tĩnh Lặng, Im Ắng, Lắng Lặng, Lẳng Lặng, Ương Bướng. Tất cả chúng đều biểu thị tính tịnh của Dương. Người ta cũng quan niệm rằng cặp từ đối Âm/Dương cũng tương tự cặp từ đối Nữ/Nam hay tương tự cặp từ đối Ít/Nhiều ( đúng như câu “Nam thực như hổ, Nữ thực như miêu, hay đúng như ở châu Á số đàn bà đang ít hơn số đàn ông). Điều này cũng thể hiện rõ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt: Âm=Ít=Ỏi, có từ đôi Ít Ỏi. Âm tương đương con số 0=Ít Dương=Dồi=Dào=Diều=Nhiều, có từ đôi Dồi Dào. Dương tương đương số 1 = Nhiều. Trong số học nhị phân nó xử lý như sau: 0+0=1 (tức Thái Âm thì thành Dương) 0+1=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+0=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều) 1+1=0 (tức Thái Dương thì thành Âm) (Đấy là xử lý của mạch NAND trong kỹ thuật số, là một cổng điện tử có hai đầu vào một đầu ra, nó cũng đúng như qui tắc tạo từ của tiếng Việt. Ví dụ từ đôi Gà Qué, cùng Nòi khác Sắc, tức Gà=1 Qué=0, 1+0=1 như Gà+Qué = Gà Qué = Nhiều gà). Âm là Nhu, Dương là Cương. Nhu=0, Cương=1. Từ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt cũng đã thấy được: 1+1=0 (0 tức chẳng được gì, cũng như mất cả chì lẫn chài). Bản thân Biển Đông là Âm, “khái niệm” Âm thì là 0, nhưng “tính” của Âm thì là Động, tức=1. Bây giờ bọn cường bạo lại đến quấy Động nữa tức đưa thêm 1 vào để thành Động+Động như 1+1, ắt phải là 1+1=0, vậy thì bọn cường bạo sẽ chẳng được gì, mà sẽ được cái 0=Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết. Dùng ký tự La Tinh để phân tich tính Âm Dương trong ngôn từ Việt, ta thấy rất trùng hợp trong từng con chữ cái của chữ Quốc Ngữ: Cặp đối Ơ/Í. Tư duy con người là bắt đầu từ 0 rồi đến 1. Lúc đang là 0 (chưa nảy ra gì) thì là âm vận Ơ ( “Ơ ! sao nó lại như thế này ?” ). “Ơ” là chưa hiểu gì, Ơ=Mơ=Lơ Mơ=Lơ Tơ Mơ=Mờ=Ngờ=Ngờ Ngợ là chưa nghĩ ra được, cái bước chuẩn bị tư duy ấy cũng chỉ có ở con người, Người Ơ=(lướt)=Ngờ. Lúc tư duy nảy ra thì nó đã là 1, đó là âm vận Í ( “ Í ! hay quá ta !” ). “Í” là đã hiểu rồi, “Ý” là một tư duy, Ý = Nghĩ = Kỹ = Duy = Tri = Trí . Cặp đối Ơ/Í tương đương 0/1. Từ Ngơ đến Nghĩ rồi mới ra Lời, vậy mà nó đã xử lý trong óc là : 0+1=1, như Ơ+Í=ƠÍ, hay Ơ Í=(lướt)=ƠÍ, và nhờ cái Lưỡi làm công cụ đưa cái tư duy đó ra thì Lưỡi+ƠÍ= 0+1=1, hay Lưỡi Ơi=(lướt)=Lời . (Phân tích bằng số của hệ nhị phân như vậy để khẳng định rằng: Nếu đã cho rằng “Lời” là từ thuần Việt, thì “Ý” cũng phải là từ thuần Việt, và các từ mà “Lời” và “Ý” dẫn ra theo QT đều là thuần Việt hết, chẳng có từ nào gọi là “từ Hán-Việt” cả). Ta đã thấy rõ Í là tư duy, chỉ có loài người thì mới có tư duy, chính nó là như vậy, trong tiếng Việt đã chỉ rõ: Người+Í=0+1=1, hay Người Í=(lướt)=Nghĩ. Nhưng khi cái tư duy đã có nhưng chưa đưa ra bằng Lưỡi, thì cái tư duy ấy mới chỉ là Ơ+I=0+1=1, hay Ơ I=(lướt)=Ơi, và Người+ Ơi=1+0=1, hay Người Ơi=(lướt)=Ngợi. Từ đôi Nghĩ Ngợi chính là chỉ người đang tư duy nhưng chưa đưa ý nghĩ ra bằng Lời. Xin nhắc lại: Mỗi Từ của tiếng Việt như là giá trị của một “bit” thông tin, “bit” thông tin thì có hai giá trị nảy sinh một cách xác suất, hoặc khi là 1, hoặc khi là 0. Ví dụ từ Người, khi này nó có thể mang giá trị 1, Người=1, khi khác nó có thể mang giá trị 0, Người=0, tùy theo khi nó cặp với từ nào, đã mang sẵn giá trị nào. Vì hai từ tiếng Việt khi ghép lại với nhau chúng theo qui tắc là âm chúng phát ra phải khác nhau, như một Đực và một Cái tương ứng nhau trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ Người=Ngợm=Ngài=Ngòi=Dõi=Dân=Nhân thì cặp từ đôi Nhân+ Dân=1+0=1=Nhiều người; Người+ Dân=1+0=1=Nhiều người (nếu khi ấy Dân đang mang giá trị Dân=0) nhưng cũng có thể là Người+Dân=0+1=1=Nhiều người (nếu khi ấy Dân đang mang giá trị Dân=1, thì Người phải nhảy ngay sang giá trị Người=0, để đảm bảo xử lý cho đầu ra bằng 1, đây là xử lý của kỹ thuật số); Người+Ngợm=1+0=Nhiều người (mang khái niệm xấu). < Dõi=Người, Nối Dõi là nối người đời sau với đời trước, Dòng Dõi là chuỗi người cùng huyết thống, Dòng Dõi chữ nho viết là Tông Đại, Đời=Đại=Ngài=Người, Đời cũng là Người chứ hết đời thì đã gọi là Ma, Đời=Ngời=Người, Ngời tức Sáng là Người Đời=(lướt)=Ngời, tức đang ở Dương thế nên nghĩa là Sáng, chứ ở Âm thế thì đã là Ma> Cặp đối U/Ù Cặp đối nguyên thủy U/Ù chính là nghĩa Ở/Đi, mà qua một ngàn năm Hán hóa, người Việt đã quên. Cùng mẫu số chung là cùng “Vời” với U có Ổ=Ở=Ủ=U. U nghĩa là Mẹ (tiếng Bắc Bộ, người Đài Loan cũng gọi là U), có nghĩa là “dân tại chỗ”, như cái noãn trứng trong tử cung của Cái thì nó là “dân tại chỗ”, còn con tinh trùng của Đực thì nó là “dân nhập cư”. Thủa xa xưa là mẫu hệ, còn lại dấu ấn là cái nhà dài của Tây Nguyên, các gia đình của con cái vẫn tiếp tục ở với mẹ, nối dài cái nhà ra mãi. Phát triển lên viết bằng chữ nho thì U=Ư=Vu=Vầy=Về=Quê đều là sự qui tụ tại chỗ. Ù là “đi” ( Đánh bài tổ tôm có bước “chạy ù” tức chạy đi; câu “Làm nhanh ù, đi con” tức “làm nhanh đi, đi con”). Đó là thủa còn là người Kinh, vạn năm sau khi người Kinh đã gọi là người Việt thì cặp đối U/Ù nó biến thành Vu/Vù (“Nó vù mất rồi” tức “Nó đi mất rồi”; “Đánh vu hồi”, câu này đã bị Hán hóa, tức “Đánh về chỗ ở”). Thời này vẫn đúng Âm Dương trong ngôn từ Việt, hai tiếng đối nhau phải là phát âm khác nhau (Vu/Vù) như tiếng Đực tiếng Cái, như 1 và 0, không thể là đồng âm nhau được. Đến thời chữ nho Việt bị Hán hóa, người Hán không có quan niệm Âm Dương trong ngôn từ, nên họ đọc hai chữ Vu/Vù ấy là đồng âm “Yuê”/ “Yuê”, đó là cặp Việt ở/ Việt đi, mà chữ nho viết là 粵 / 越. Chữ Việt ở 粵thì Hứa Thận giải thích chữ “Yuê 粵” ấy là “Vu dã”= “Vu ạ” tức nó là “Vu” (tức là tại chỗ, là dân bản địa, tức “Việt 粵ở”.< Người ta cứ gọi đó là chữ Việt bộ mễ, thực ra không phải vậy, theo học giả Đỗ Tòng người Triều Châu giải thích, đây là chữ nho Việt hoàn toàn biểu ý, ghép bằng Vuông (口) + chữ Thái (采) . Thái=Chái (phát âm của Nam Bộ) = Chói (phát âm của Triều Châu) = Chá (phát âm của Quảng Ngãi)= Lả ( phát âm của Nghệ An) =Tá (phát âm cổ nhất của người Kinh), có từ đôi Tá Lả, Tá Hỏa đều chỉ sự nóng phát hoảng, nghĩa của chữ Thái 采 là ánh nắng mặt trời, Vuông đất của dân thờ mặt trời trên Trống Đồng , + bên dưới là hình cái cày của dân nông nghiệp lúa nước. Chữ Việt đi 越 thì Hứa Thận giải thích chữ “Yuê 越” tức “Việt 越 đi” ấy là “Độ dã” tức “Đò ạ” tức vượt sông, đò thì chỉ có vượt sang ngang qua sông, chỉ có thuyền thì mới đi dọc sông. Chữ Việt đi này là chỉ rõ, người Việt đã vượt sông Trường Giang lên đến Hoàng Hà thời cổ đại, về sau còn là thủa nước Sở của người Kinh Sở chiếm đến vùng Trung Nguyên, kình địch với nước Tần. Những cặp từ đối bằng chữ nho đã bị Hán hóa thành đọc hai chữ nghịch nghĩa đều đồng âm, có nhiều lắm, như Lửa/Lụn thì thành Liệt 烈 / Liệt 劣 ( nghĩa là lừng lẫy / lụn bại , bộ ghép biểu ý là Thiếu 少 Sức 力) , Ma / Mãnh thì thành Minh 冥 / Minh 明 (nghĩa là Âm phủ/ Dương thế) v.v.
    1 like