• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 31/12/2011 in all areas

  1. Trong những năm trước đây , nằm trong thập niên đại vận xấu nhất trong đời ,cho nên công danh sự nghiệp suy sụp ,gia đạo tan vỡ.Sắp bước vào thập niên kế hoàn cảnh sẽ thay đổi,công danh và sự nghiệp có nhiều biến chuyễn thay đổi lớn ,tài lộc hưng vượng mai mắn. theo tôi chau nên theo nghiệp kinh doanh ,năm tới và năm tới nữa sẽ thuận lợi cho việc kinh doanh hay đầu tư gì đó , nhưng năm tới chưa hẳn dứt khoát với công việc làm hiện tại ,nếu muốn khởi nghiệp kinh doanh chỉ lập nền tảng cho những năm kế tiếp ,đến năm Tỵ sẽ có sự thay đổi lớn về công việc hay phải đi xa khá nhiều tốn kém .
    1 like
  2. HỘI NGHỊ TỔNG KẾT CUỐI NĂM 2011 & Những lời tiên tri của năm 2012 Tiếp theo Giáo sư Hoàng Tuấn - tác giả cuốn sách nổi tiếng "Kinh Dịch và hệ nhị phân" đọc lời khai mạc. Ông cũng có những ý kiến xác định Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về văn minh Việt. Giáo Sư Hoàng Tuấn đã nhiều lần thể hiện sự ủng hộ những cố gắng chứng minh và phục hồi những gía trị văn hiến Việt. Nhà văn Xuân Cang - Nguyên Tổng Biên tập Báo Lao Động. Ông đã có bài tham luận mang nội dung tiên tri sâu sắc về một số mặt - đặc biệt là nền giáo dục tương lai năm 2012 ở Việt Nam qua quẻ Sơn Thủy Mông không có hào động (Bài viết chúng tôi sẽ trình bày sau). Nhà nghiên cứu - Phong thủy gia Khương Văn Thìn đọc tham luận, tiên tri về Việt Nam trong năm 2012. Ông lên quẻ Thủy Phong tỉnh và bàn về khí hậu có nhiều khả năng thay đổi thất thường trong năm 2012. Nhà nghiên cứu Lê Xuân Bảo với phương pháp dự báo Thái Ất. Cụ cũng cho rằng năm 2012 là năm có nhiều bất lợi về thời tiết. Nhà nghiên cứu Đỗ Trọng Hoàn - Lâm Đồng - Luận quẻ Trạch Hỏa Cách, biến quẻ Thủy Hỏa Ký tế để dự đoán về Việt Nam năm 2012. Đại tá Nguyễn Ngọc Thạch dùng Thái cực hoa giáp luận đoán về vận mệnh 60 tuổi theo hoa giáp trong năm 2012. Giáo sư Nguyễn Thế Bình - hiệp hội UNESCO - dùng Tăng San bốc dịch được quẻ Thủy Trạch Tiết , luận đoán về Việt Nam năm 2012. Ông Nguyễn Huy Quang nói về thời tiết đầu năm, hướng xuất hành trong năm 2012 và Tết Nhâm Thìn. Còn tiếp
    1 like
  3. Chúc Mừng Năm Mới Sắc=Sạch=0 (Phật: “Sắc Sắc Không Không”). Vũ trụ hình thành từ cái Sạch đó (“Từ Sạch”=Tách). Tách ra ban đầu là Dương/Âm (như sự tự sinh sản bằng cách tách đôi của tế bào) nhờ cái khái niệm NÔI của người Việt, thành ra hai khái niệm đối nhau là Tá/Té (Tách chia ra Tá và Té, đều là cùng “tơi” T). Cái Sạch khi đưa vào trong NÔI của Việt thì nó như là cái Nòi. Cái Nòi trong Ổ của NÔI thì “Nòi Ổ”=Nổ. Sự Nổ ấy của khởi đầu vũ trụ tạo ra cái Năng, Nổ tách ra cặp đối là Nắng/Nước (Nổ chia ra Nắng và Nước, đều là cùng “tơi” N), Nắng và Nước đều là hai loại năng lượng lớn (tiếng cổ nó là “hai loại Năng đều cùng là Nậy cả”). Cho nên tiếng Việt có từ Năng Nổ chỉ cái tư duy Việt luôn luôn sáng tạo để có ý tưởng mới (thành ngữ: “Cái lý của người Việt là Nước”, “Sắc như Nước”). Tá=Lửa, Té=Nước. Trên trái đất thì Nước là bắt đầu của sự sống, và biết dùng lửa là bắt đầu hình thành loài người. Bởi vậy ngọn lửa bếp được coi là nơi thân thuộc nhất. Bốn nét Kẻ của Quẻ Ly ( Lả=Li) được viết cách điệu thành bốn nét của chữ Tâm (Tá=Lả=Lửa=Lý=Lòng=Trong=Tỏng=Tim=Tấm=Tâm), thể hiện ba ông đầu rau và cái vòng kiềng ở trên. Ngọn lửa cũng được dùng để cầu chúc sự an lành (ví dụ ngọn nến), và thể hiện vui mừng bằng điệu múa cộng đồng quanh đống lửa. Đó là sự hình thành của từ Chúc: (Tá=Lả=Ló=Đỏ=Tỏ=Đỏ=Đốt=Đuốc=Thuộc=Thục=Chúc). Mừng là niềm vui, từ Một mà có hai trạng thái tâm lý đối nhau trong cặp Mừng/Mủi. Năm là một chu kỳ thời gian mười hai tháng, gọi là “năm” vì theo logic của hệ đếm ngũ phân cổ xưa, hết “prăm” thì quay lại chu kỳ đếm ( tiếng Khơ Me “prăm” là con số 5, còn “chnăm” là “năm” mười hai tháng). Người Việt đếm ngày theo thời gian là MỘT, rồi đến MAI, rồi đến MỐT. Nếu Một là cái hiện tại thì Mai là cái Mới (Hai=Mai=Mới, “Mới”, tiếng Khơ Me là “Thmây”, tiếng Lào là “Mạy”, tiếng Thái Lan là “Mai”, tiếng Hán là “Xin”). Đó là nguồn gốc của câu CHÚC MỪNG NĂM MỚI. Thần tình là từ “Mới” của tiếng Việt cùng là gen dấu sắc của bắt đầu vũ trụ. Khi còn là 0 tức là chưa có tư duy, khi đã sang 1 tức là bắt đầu có tư duy, mà sự bắt đầu là Một , Một cũng là Việt (các cặp đối 0/1=Mô/Một/=Vô/Việt). 1 là có tư duy, tức là Việt=Biết, và để biết cái Sắc tức khởi đầu của vũ trụ thì “Biết Sắc”= “Bắc” tức phải “có phương tiện”, cái phương tiện để mà “Nom” ông trời (Nom=Dòm=Nhòm=Nhìn=Nhãn), đó là Âm Dương Ngũ Hành Lạc Việt. Thời đó người Việt còn ở nhà sàn, gọi là Thang=Sàng=Sàn, vì lên nhà phải “bắc” thang, tức phải “có phương tiện” là thang. (Cái nhà sàn tiếng Indonexia là “Tangga”=Sàn Nhà, tiếng Chăm là “Thanggiơ”. Thang=Đàng=Đường, từ “Thanggiơ” đã tạo nên từ Gia Đường trong tiếng Hán, phát âm là “chia tháng”. Người Hán khi đó là dân du mục phương Bắc, không có khái niệm nhà sàn). Âm Dương Ngũ Hành Lạc Việt là cái phương tiện để người Việt “Bắc thang lên hỏi ông trời” (thành ngữ Việt). Cái phương tiện để xác định phương hướng đi biển của người Việt là cái Kim “Chỉ Nom” là cái la bàn, chỉ cho người nom lên chòm sao đại hùng tinh trên trời, biết là hướng Bắc (cái hướng xác định được nhờ “có phương tiện” tức là cái “bắc”, như bắc thang, được đặt tên là hướng Bắc. Người phương Tây sử dụng cái Kim Chỉ Nom tức cái la bàn của người Việt, nên hiểu “Nom” là hướng Bắc, phiên âm “Nom” là North, người Hán phiên âm ngược lại là “Chỉ Nam” Châm . “Chỉ Nom” tức chỉ cho mà nom, chỉ cho mà nhìn, cũng được nâng nghĩa lên là “đường lối”. Tiếng Hán không có âm vận “om” và “am”, chỉ có âm vận “an”, nên họ mượn chữ Nam để phiên âm cái âm tiết “Nom”,thành ra chữ “Chỉ Nam” của Hán ngữ, cũng ám chỉ là đường lối, nhưng nó không có nghĩa là “đường lối”, mà thực biểu ý của chữ là “chỉ hướng nam”, thực sự kim la bàn đâu có chỉ hướng Nam, nó chỉ hướng Nom là hướng ngửa mặt lên mà Nom cho thấy Chòm sao Đại Hùng, tức hướng Bắc, nhờ cái “bắc” là cái “có phương tiện” tức cái Kim Chỉ Nom hay còn gọi là cái la bàn. Nếu lấy từ đếm trôi thời gian ba ngày liền nhau của tiếng Việt là MỘT-MAI-MỐT để đếm ba giai đoạn kể từ khi Âm Dương Ngũ Hành nguyên bản của người Lạc Việt làm nên nền văn minh Văn Lang rực rỡ cách nay 5000 năm ở nam Dương Tử, coi như thời MỘT; tiếp đến thời kể từ khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở nam Dương Tử dài đến hàng ngàn năm tiếp theo, coi như thời MAI; thì thời hiện nay chính là thời MỐT. Thần tình nữa của tiếng Việt là MỐT lại cũng cùng gen dấu sắc với khởi đầu vũ trụ, lại cùng gen với Một. Mà thời của thiên niên kỷ này các nhà khoa học nói rằng là “thời nhân loại khai thác trên trời (năng lượng mặt trời) chứ không khai thác trái đất (nhiên liệu hóa thạch, thủy điện) nữa”, “thời kinh tế Trí Thức”. Trí Thức thì cũng cùng gen dấu sắc với MỐT (mà “mốt” còn là thời thượng). Vậy thì đúng là đến thời MỐT là thời khoa học của nhân loại quay trở về với MỘT (nguyên bản Âm Dương Ngũ Hành), tức quay trở về với Việt, nhưng sắc hơn. Một sắc MỐT là Việt sắc Viết, thời của TRÍ THỨC. ( Chữ Một và Việt chỉ có thể từ nặng rồi đến sắc , đố có dấu nào chen vào được nữa để ra nghĩa khác. MỘT sẽ phải đến MỐT, VIỆT sẽ phải đến VIẾT, là thời của “sắc”, của kinh tế Trí Thức) Chúc Diễn đàn Lý Học Đông Phương một NĂM MỚI CÀNG SẮC !
    1 like
  4. Người vợ thứ 2 có dạng như ; cao trung bình tới thấp ,mặt tròn da trắng thì hơi nhiều mụn ,da ngâm thì ít mụn nhọt ,tánh tình dễ hòa đồng dễ xúc động hay mũi lòng trước cảnh khổ của người khác ,nhưng hơi cố chấp và bảo thủ ,thích ăn diện quần áo phấn son , xài hàng hiệu .
    1 like
  5. TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG TỪ THIỆN 2011 Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương Wildlavender Quỹ từ Thiện của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương đã được sự tín nhiệm của quí vị hội viên giầu lòng hảo tâm đóng góp, nhằm giúp đỡ cho những mảnh đời bất hạnh. Qua một năm tích cực hoạt động, nhân Tất Niên năm 2011 và chuẩn bị bước sang năm mới, thay mặt ban Tử Thiện của Trung Tâm, chúng tôi công bố tường minh tổng kết hoạt động của Quỹ Từ Thiên như sau: Được sự đóng góp của ACE sinh hoạt trong và ngoài diễn đàn từ tháng 1/2011 đến 31/12/2011. Số tiền tổng cộng nhận được là: 135,100,000 đ (một trăm ba mươi lăm triệu một trăm ngàn đồng). Đã trao tặng 133,000,000 đ (một trăm ba mươi ba triệu ngàn đồng) 25 trường hợp và các hoàn cảnh đặc biệt trong đó gồm có: * 1 chương trình Tôn tạo Tịnh Thất Quan Âm tỉnh Lâm Đồng. * 1 chương trình chia sẽ Nhân Dân Nhật Bản trong trận Động đất sóng thần lịch sử. * 5 Chương trình trao tặng suất ăn cho Bệnh nhân nghèo đang điều trị tại BV Ung Bướu TP HCM. * 3 trường hợp Các cháu mồ côi. * 15 cá nhân hoạn nạn hiểm nghèo. Thay mặt Ban Điều hành Diễn Đàn, xin chân thành tri ân những tình cảm đóng góp của tất cả ACE xa gần đã tạo điều kiện cho chúng tôi làm chiếc cầu nối đến với bao mãnh đời.Nguyện hồi hướng những phước báu này đến với toàn thể chúng sanh đang còn ngập chìm trong bể khổ nhân gian. Xin nhận con làm công cụ hòa bình, nơi nào hận thù xin cấy trồng yêu thương.Nơi nào hận thù ,xin cấy trồng tha thứ..........
    1 like
  6. Hồ Quý Ly: Ông Vua cải cách tiền tệ Nguyên liệu đồng khan hiếm, nguy cơ bị giặc Minh đe dọa xâm lược, buộc Hồ Quý Ly phải lựa chọn hoặc đúc tiền, hoặc đúc súng. Ông đã lựa chọn đúc súng. Và việc chuyển sang dùng tiền giấy là một quyết định đúng. Thành Nhà Hồ được Việt Nam công nhận là di tích quốc gia từ năm 1962. Việc xây dựng hồ sơ để đệ trình UNESCO được khởi động từ năm 2006 và ngày 27/6/2011 vừa qua đã chính thức được công nhận là Di sản văn hoá thế giới tại kỳ họp lần thứ 35 của Uỷ ban di sản thế giới UNESCO (WHC) diễn ra tại Paris, Cộng hoà Pháp. Thành nhà Hồ là công trình kiến trúc theo lối dinh lũy phòng thủ khi xảy ra chiến tranh. Công trình được Hồ Quý Ly- một ông quan có nhiều thanh thế trong triều Trần cho xây dựng vào năm 1397 ở An Tôn (thuộc hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Thành có hình chữ nhật, chu vi khoảng 3 km vuông, tường bao quanh xây bằng những khối đá hình hộp được mài nhẵn, phẳng, dài từ 2 đến 4m, cao 1m, dày 0,7m. Cổng ghép đá hình vòm, cao 8m. Trong thành có khu dinh thự để vua ngự và xuống chiếu, nay chỉ còn lại những con rồng đá chạy dọc bậc thềm... Từ một ông Quan nắm được nhiều quyền hành tối cao ở triều Trần, tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly truất ngôi vua Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua, lập ra vương triều mới: Triều Hồ. Nhà Hồ tồn tại được 7 năm (1400-1407) và dời đô từ Thăng Long về An Tôn, gọi đây là Tây Đô để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội). Trong khoảng 35 năm, Ông đã từng bước tiến hành nhiều cuộc cải cách rộng lớn về mọi mặt, từ chính trị, văn hóa đến kinh tế- xã hội. Trong phạm vi bài viết này, xin dẫn dụ về một số nét về cải cách tiền tệ. Lần đầu tiên trong lịch sử tiền tệ thời phong kiến Việt Nam có chuyện tiêu dùng tiền giấy. Lịch sử tiền tệ của chế độ phong kiến Việt Nam là lịch sử tiếp thu có chọn lọc tinh hoa chế tác đồng tiền kim loại hình tròn- lỗ vuông của nước láng giềng Trung Quốc vốn đã có ảnh hưởng khá sâu đậm qua hàng ngàn năm Bắc thuộc. Khác chăng là các ông Vua Việt lấy biểu trưng niên hiệu, hoặc thời hiệu của mình để đặt tên cho đồng tiền qua mỗi lần phát hành thay vì dùng tên tiền Trung Quốc cùng thời để chứng tỏ tính độc lập của vương triều thông qua tiền tệ. Thế nhưng vào năm 1396 “…mùa hạ, tháng 4 năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái, năm thứ 9 bắt đầu phát hành tiền giấy “Thông Bảo Hội Sao”. In xong, hạ lệnh cho người đem tiền đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy tiền giấy 1 quan 2 tiền…”. (trích Đại Việt sử ký toàn thư). Cũng phải nhắc lại là, năm 1024 ở Trung Quốc đã thấy nói triều đình Bắc Tống phát hành tiền giấy, gọi là “Quan Giao Tử”. Dần dần, “Giao tử” cải thành “Tiền dẫn”, “Hội tử”, “Giao sao” …(xin xem: Lịch sử tiền giấy. http://vi.wikipedia.org). Tuy nhiên, các loại “tiền giấy” này thực chất chỉ như “ngân phiếu”, nó không thay thế hoàn toàn tiền kim loại trong lưu thông tiêu dùng. Do là những “bảo chứng” tiền tệ có mệnh giá lớn nên nó cũng chỉ lưu hành hạn hẹp ở tầng lớp giàu có. Cho đến năm1455 (thuộc triều nhà Minh) loại “tiền giấy” này không còn thấy lưu hành. Việc phát hành tiền giấy thời Hồ có thể xem là dấu hiệu của một “biến cố” bởi sự kiện xảy ra chưa từng có tiền lệ tại Việt Nam. Điểm khác biệt căn bản so với nước láng giềng Trung Quốc là Hồ Quý Ly đã quyết định thay đổi dùng tiền kim loại sang tiền giấy. Về hình thức có thể cho rằng “Thông bảo hội sao” là cách phỏng theo “Quan Giao Tử” hoặc “Giao sao” của Trung Quốc … , nhưng về quan niệm tiền tệ thì Hồ Quý Ly đã xem ‘Thông bảo hội sao” là đồng tiền chính thức. Do tiên liệu trước sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc khép dân chúng tiêu dùng tiền giấy, Hồ Quý Ly cũng đã ban hành các điều luật cực đoan đi kèm, như: Cấm hẳn tiêu tiền kim loại, định tội không tiêu tiền giấy… Cho đến năm 1401, Hồ Hán Thương (con trai thứ của Hồ Quý Ly, nối ngôi vua) còn phải khuyến khích: “… mỗi mẫu thu 3 thăng thóc nay thu 5 thăng nhưng nộp bằng tiền giấy thì được giảm đi. Thuế đinh cũng tương tự, thu bằng thóc thì thu nặng hơn trước, nhưng thu bằng tiền giấy thì lại giảm đi…” (sách đã dẫn). Năm 1402, định lại các thuế về tô ruộng, theo đó: ngoài việc dùng các quy định của pháp luật còn đưa ra nhiều biện pháp khác cố làm cho tiền giấy được lưu hành rộng rãi trong dân. Nhưng trong thực tế, đến năm 1403, tức sau bảy năm ban hành, tiền giấy vẫn không được ưa dùng, đến nỗi dân buộc phải trao đổi theo hình thức hàng đổi hàng để tránh phạm luật… Nguyên nhân và những hệ lụy của việc phát hành tiền giấy. Chuyện kể rằng, thời Hồ có Nguyên Trừng (con trai trưởng của Hồ Quý Ly)- là người sáng chế ra “thần cơ sang pháo” (súng thần công). Khi nhà Minh Trung Quốc tấn công Việt Nam theo lời thỉnh cầu của hậu duệ họ Trần, bắt được người chế súng cùng nhiều khẩu thần công đem về Trung Quốc, ông không bị giết mà còn được phong là “Tả tướng quốc”. Mỗi lần làm lễ tế súng thần công, quân Minh đều phải tế sống Hồ Nguyên Trừng. Do thời phong kiến, nguồn nguyên liệu đồng luôn khan hiếm, vì vậy, nếu để duy trì đúc tiền kim loại trong hoàn cảnh sáng chế súng thần công cũng đang rất cần một nguồn nguyên liệu đồng to lớn, thì đây quả là một thách thức không nhỏ. Cùng với nguy cơ bị giặc Minh Trung Quốc đe dọa xâm lược, buộc Hồ Quý Ly phải lựa chọn hoặc đúc tiền, hoặc đúc súng. Và ông đã lựa chọn đúc súng. Nếu đây là một trong những nguyên nhân cơ bản thì việc chuyển sang dùng tiền giấy là một quyết định đúng. Chỉ có điều, việc hoạch định chính sách cải cách đó luôn chứa đựng các yếu tố cực đoan, thiếu các cơ sở có tính chất nền tảng để thực thi, khi mà việc phát hành tiền giấy rất khác với tâm lý tiêu dùng thông thường, lại không giống quốc gia nào xét trên bình diện chung của tiền tệ trong khu vực. Những sự thay đổi đó vô hình chung đã đi ngược lại quyền lợi thiết yếu của người dân, với thói quen tiêu dùng và giao thương hàng hóa lâu đời bằng đồng tiền có lỗ xỏ dây, với việc cất trữ, tích lũy tiền với số lượng lớn của tầng lớp quan lại, địa chủ, thương lái...một bộ phận không nhỏ tầng lớp trên trong xã hội. Sự quá đỗi đó đã vượt ngưỡng khuôn phép của hoàn cảnh kinh tế- xã hội đương thời có thể chấp nhận được. Việc ban hành tiền giấy của nhà Hồ xem như thất bại. Cùng với sự sụp đổ của nhà Hồ, tiền giấy cũng chấm dứt lưu hành (1407). Đánh dẹp xong quân Minh, năm 1429, năm thứ hai sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho đúc tiền kim loại trở lại, nhân dân trở về tiêu dùng đồng tiền tròn- lỗ vuông. Ngày nay giới sử học nói chung đánh giá cao mặt tích cực của Hồ Quý Ly, cho rằng Ông là một nhà cải cách táo bạo và hiếm có trong lịch sử Việt Nam nhằm hai mục đích: tăng cường chế độ tập quyền, giải quyết mâu thuẫn kinh tế- xã hội, giải phóng sức sản xuất... những điểm sáng, tích cực trong hoàn cảnh hạn chế của chế độ phong kiến Việt Nam đương thời. ============================================================= Về mặt sử dụng tiền giấy và đúc súng thần công, người Việt đã đi có những bước tiến nhanh trong cuộc sống thời phong kiến, vượt xa các nươc phong kiến khác cùng thời
    1 like
  7. Nói thật với cái lối suy nghĩ và tư duy của ông PhamHung thì xã hội không bao giờ có thể phát triển được Máy tính bảng, laptop, hay máy tính bàn, sách, báo, .... hãy coi nó là các phương tiện đi, mục đích chính của ta là gì? Nếu nói nó là hàng sa sỉ thì ai có tiền thì dùng, ko có tiền thì ông dùng cái khác, nếu cứ nghĩ ta còn nghèo, ta ko nên dùng thì không khác gì những năm 1995 1 loạt các đại biểu quốc hội phản đối đưa internet vào Việt Nam với các lý do tương tự, nếu ngày đó quốc hội đồng ý với mấy ý kiến của mấy ông đó, chắc giờ này VN mình vẫn còn tăm tối lắm Còn việc dùng bàn phím ảo, màn hình nhỏ đưa ra thật là vớ vẩn, khi thiết kế chả lẽ cái sản xuất nó không tính tới phương án đó, nếu nó là nhược điểm sao thị phần nó bán ra lớn như vậy, năm 2002 apple vẫn đang chìm trong nợ nầm, nhưng đến 2009 đã là 1 trong những thằng giàu nhất thế giới Còn việc sửa chữa đắt và chi phí internet hàng tháng đắt thì lại là 1 suy nghĩ cực kỳ ấu trĩ và vớ vẩn hết sức, với chi phí 200 ngàn / 1 tháng phí internet như hiện nay là 1 chi phí quá nhỏ so với những thứ mà ta được lại, và nói thật nó còn tiết kiệm hơn những chi phí nếu ko sử dụng nó có khi đến cả chục lần Vấn đề cốt lõi ở đây là, ai có tiền và có nhu cầu, và cần thiết thì dùng, ai ko cần thiết thì thôi, còn đừng nói ở nông thôn mạng yếu, giờ về quê thấy mấy nhà có con nhỏ học, nhà nào cũng có máy tính, nối internet cả
    1 like
  8. Xin chào mọi người Cháu lỡ chọn đám cưới vào ngày 5 tháng 11 năm 2011 (dương lịch) không ngờ lại trúng vào ngày kim thần thất sát, bây giờ không biết phải làm sao, đã trả tiền đặt cọc rồi và họ không cho lấy lại Cũng tại vì coi ngày trên internet trúng cái trang chẳng nói gì về ngày này cả, lại còn nói ngày này tốt cho đám cưới . Cháu coi ngày ở www.thoigian . com . vn Kính mong cao nhân giúp giùm cháu làm sao để giảm bớt độ xấu của cái ngày này . Cháu xin cảm ơn
    1 like
  9. 1 like
  10. Cảm ơn bác Thiên Sứ rất nhiều . Làm sao để có phong thủy tốt ạ ?
    1 like
  11. * Nếu đặt cọc ít - Bỏ cọc.* Chọn giờ tốt rước dâu. Phong thủy tốt, khắc chế Kim Thần thất sát. * Đặt một quả cầu thủy tinh màu xanh nước biển trước/ dưới bàn thờ khi rước dâu.Hoặc quả cầu màu đỏ trên bàn thờ.
    1 like
  12. Đây là bài kim thần thất sát ca quyết .Giác Cang Khuê Lâu Ngưu Quĩ Tinh Ra binh chẳng thấy đặng về binh Ngồi thuyền chắc hẳn gặp giông bảo Nhậm chức không lâu lãnh tội hình khởi tạo hôn nhân trong buổi đấy ba năm sau chắc phải biệt ly Cho nên cảnh giác , không phải sách nào cũng đúng ,mạng nào cũng hay ,thầy nào cũng giỏi .
    1 like