• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 22/12/2011 in all areas

  1. Văn hóa Choang thì tất nhiên không phải văn hóa Hán. Qua những sự kiện này chúng ta thấy rất rõ một di sản văn hóa trống Đồng phổ biến pở Nam Dương Tử mà chính Sử ký và các tư liệu lịch sử Trung Quốc cũng thừa nhận: Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở. Nước Văn Lang: Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Đông giáp Đông Hải, Tây giáp Ba thục. Vua là Hùng Vương. Chỉ có đám tư duy thuộc loại "Ở trần đóng khố" - ông cha 7 đời ăn củ chuối mới ngu ngục mà phủ nhận truyền thống văn hóa của tổ tiên mà thôi. Người Nhật, kinh tế và khoa học đều phát triển. Vậy mà có một tay giáo sư - cũng loại tư duy thuộc dạng "Ở trền đóng khố" - phát biểu : "Không có cơ sở khoa học cho việc dân Nhật là con cháu của Thái Dương thần nữ". Chính phủ Nhật tống cổ về nhà đuổi gà. Bởi vì văn hóa Nhật không có nguồn gốc Hán.
    2 likes
  2. LẠC VIỆT TRÁNG (CHOANG), ZHUANG, NAM TRUNG QUỐC. Tác giả Nguyễn Xuân Quang đứng trước bảng hiệu Làng Tráng Zhuang trong Trung Tâm Văn Hóa Sắc Tộc Quảng Tây tại Nam Ninh. (ảnh Michelle Mai Nguyễn). Như chúng ta, Tráng Việt Zhuang là một thứ Lạc Việt trong Bách Việt, Người Mặt Trời, như đã thấy họ thờ Mặt Trời còn vẽ lại trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây cách đây trên dưới 2.700 năm (Đạo Mặt Trời Của Bách Việt, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Cảnh Tế Lễ mặt trời, thờ mặt thời của Lạc Việt Tráng Zhuang vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây (ảnh của tác giả). Vì thế hiển nhiên họ có văn hóa Lạc Việt ngành Thần Nông Lạc Long Quân như nhánh Lạc Việt Việt Nam. Họ cũng như nhánh Lạc Việt Việt Nam nhận mình là con cháu của Rồng. Bước vào một làng Tráng Zhuang thường thấy các trụ cổng làng thờ Rồng: Trụ cổng làng thờ thần Rồng, thần tổ của người Tráng Zhuang tại Làng Tráng Zhuang (ảnh của tác giả). Lưu ý trụ tròn mang âm tính (khác với trụ vuông có góc cạnh mang dương tính) biểu tượng của ngành nòng nước giống như ta đã thấy ở Đền Động Đình thờ Long Vương, ông ngoại của Lạc Long Quân ở hồ Động Đình (xem Hồ Động Đình). Giống như Việt Nam, văn hóa của họ cũng có cốt lõi dựa trên lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Hai vị thần tổ của họ là một vị thần Chim và một vị Thần Rồng: Thần tổ đầu chim ở Làng Tráng Zhuang (ảnh của tác giả). Lưu ý Thần tổ chim đầu có sừng. Ta đã biết chim sừng (hornbill) mỏ cắt, chim khướng, chim Việt là chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế họ Khương (Sừng), thần tổ của ngành Nọc mặt trời Viêm Việt. Quanh cổ thần có vành sóng nọc mũi tên (mũi mác, răng cưa, răng sói) mang nghĩa dương, lửa, mặt trời. Tấm che ‘hạ bộ’ hình cờ nọc mũi tên có các tua viền hình sóng lưỡi lửa. Tay cầm kiếm nhọn, thẳng biểu tượng cho nọc, dương, mặt trời nọc thái dương. Bao quanh người có những ngọn lửa… Vị thần chim sừng này là hình bóng của thần mặt trời Viêm Đế. Mẹ Tổ Âu Cơ của chúng ta mang hình ảnh chim Tiên thuộc ngành chim Sừng Mỏ Cắt, Chim Việt thần mặt trời Viêm Đế. Ngành rắn, nước, mặt trời âm (theo duy dương) hay không gian (theo duy âm) ứng với Thần Nông thấy rõ qua vị thần tổ đầu rồng: Thần tổ đầu rồng (ảnh của tác giả). Lưu ý thần tổ rồng có sừng là thần tổ của ngành Nòng Thần Nông. Rồng là dạng thần thoại hóa của rắn sừng (Rắn Việt ), theo duy âm là biểu tượng cho Thần Nông không gian. Viền trên áo có hình sóng nước. Tấm che ‘hạ bộ’ cũng có viền tua sóng nước. hai tay cầm kiếm đầu cong vòng cung mang âm tính biểu tượng cho không gian. Vì là thần âm, nước nên thần hai tay cầm hai cây kiếm. Số 2 là số chẵn, số âm trong khi đó vị thần Chim ngành lửa, dương chỉ cầm có một cây kiếm thẳng. Số 1 là số lẻ, số dương. Dưới chân có hình sóng cuộn bạc đầu… Đây là hình bóng của Thần Nông không gian của ngành Rắn, Rồng. Lạc Long Quân thế gian thuộc ngành nòng Thần Nông không gian này. Rõ như ban ngày Tráng Zhuang có hai vị thần tổ chim-rắn, Tiên-Rồng giống hệt Việt Nam chúng ta. Việt Nam có một gốc Lạc Việt. Lạc Việt Tráng Zhuang ruột thịt với gốc Lạc Việt Việt Nam. Hiển nhiên văn hóa Tráng Zhuang có cốt lõi là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng như văn hóa Việt Nam. Họ cũng có ngôi nhà thờ phượng ngày nay gọi là nhà cộng đồng giống như nhà Lang Mường, nhà đình Việt Nam: Nhà cộng đồng kiểu nhà sàn Tam Thế (ảnh của tác giả). Những ngôi nhà cộng đồng, nhà hội kiểu nhà sàn này giống hệt nhà làng, nhà đình của Việt Nam, ngày nay dùng làm nơi hội họp, gặp gỡ của giới trẻ. Lưu ý mái cũng có đầu đao nhưng ở giữa nóc nhà có một kiến trúc hình thuyền cho thấy rõ họ thuộc đại tộc nước Rồng Lạc Long Quân. Họ còn giữ được truyền thống cổ không như các đình làng dòng Lạc Long Quân của chúng ta hiện nay trên nóc bây giờ toàn thấy hình rồng kiểu rồng long Trung Hoa. Người Lạc Việt Tráng Zhuang ruột thịt với nhánh Lạc Việt Việt Nam nên họ cũng có trống đồng thuộc đại tộc trống đồng nòng nọc, âm dương Đông Sơn. Hình trống đồng còn thấy vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây có tuổi cùng thời với trống đồng âm dương Ngọc Lũ I. Hình trống đồng vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây (Đạo Thờ Mặt Trời Của Bách Việt, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com). Trống đồng là tộc biểu, tộc bảo của người Tráng Zhuang (hình chụp tại Làng Tráng Zhuang). Trống đồng Tráng Zhuang thuộc loại trống đồng tượng Nước Nguyễn Xuân Quang IV tức trống chệt Heger IV hình cái âu hay nồi úp thuộc đại tộc mặt trời Nước Lạc Long Quân. Trống đồng tượng Nước Tráng Zhuang chỉ là một tộc trong đại tộc trống đồng nòng nọc, âm dương Đông Sơn có trống biểu là trống Đông Sơn hình Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI hay Heger I (xem Cơ Thể Trống Đồng). Trung Quốc hiện nay dốc hết toàn lực ra quảng bá trống đồng Tráng Zhuang nói riêng, trống Nam Trung Hoa nói chung để lôi cuốn du khách và cố tình nói cho thế giới là văn hóa trống đồng phát gốc từ Vân Nam (họ cho là trống Vạn Gia Bá ở Chử Hùng là trống cổ nhất) rồi truyền qua Việt Nam (sic). Họ cố tình chiếm đoạt văn hóa đại tộc Đông Sơn của Việt Nam để dễ bề đồng hóa Việt Nam về mặt văn hóa. Khắp Nam Trung Hoa nhất là ở Nam Ninh, thủ đô của người Tráng Zhuang, chỗ nào cũng thấy những điêu khắc, kiến trúc về trống đồng đồ sộ. Đặc biệt nhất là Bảo Tàng Viện Sắc Tộc Quảng Tây, Nam Ninh xây theo hình trống đồng. Bảo Tàng Viện Sắc Tộc Quảng Tây, Nam Ninh Lưu ý tên Bảo Tàng Viện được viết bằng chữ ‘quốc ngữ’ ABC Tráng Zhuang ở dưới chữ Hán giống như Việt Nam ngày nay người Tráng Zhuang dùng chữ Quốc ngữ ABC. Tráng Zhuang là Lạc Việt có gốc hay ruột thịt với Tai (thái) vì thế ngôn ngữ Tráng Zhuang ruột thịt với Tầy Thái. Họ có một thứ chữ tượng hình cổ một ngàn năm dựa trên Hán ngữ (một thứ chữ ‘nôm’ Tráng Zhuang) và hiện nay chữ viết chính thức được viết bằng mẫu tự ABC (giống như Việt Nam ngày nay dùng chữ Quốc ngữ). Ta đã biết trống đồng nguyên khởi là trống biểu của Vũ Trụ giáo là họ biễu, quốc biểu, tộc biểu (như thấy qua các trống Quảng Xương, Hòa Bình, Phú Xuyên, Trống Miếu Môn I…) về sau ở các trống muộn thường có tượng cóc/ếch gọi là trống ếch trống mưa, mang khuôn mặt thờ sấm mưa nổi trội lên làm lu mờ đi ý nghĩa biểu tượng nguyên thủy của trống. Các trống Nam Trung Hoa và các quốc gia khác như Lào, Campuchia, Thái Lan… gọi trống đồng là trống ếch trống mưa. Ở tộc Tráng Zhuang cũng vậy, họ coi trống đồng là trống biểu tượng cho sấm, mưa. Trống tiêu biểu mà họ hãnh diện nhất là Trống Đại Lôi (Great Thunder Drum). Thờ trống sấm mưa nên họ thờ thần sấm mưa: Miếu thờ Thần Sấm qua biểu tượng ‘đĩa sấm’ Lửa-Nước Càn-Khôn vũ trụ giao hòa (ảnh của tác giả). Trang phục cũng thấy có những nét giống trang phục cổ truyền ViệtNam rang phục nam nữ của một tộc Tráng Zhuang (ảnh của tác giả chụp tại Bảo Tàng Viện Sắc Tộc Quảng Tây, Nam Ninh). Đa số các chi tộc Tráng Zhuang mặc trang phục mầu đen (rõ nhất là chi tộcNapo). Mầu đen là mầu của nước thái âm của tộc Nước, mặt trời Nước ứng với Rắn (Rồng) Lạc Long Quân. Tộc nước Lạc Việt nhuộm răng đen là vậy. Lưu ý khăn đội đầu của người nam mang hình ảnh khăn đóng của Việt Namvà khăn trùm đầu của người nữ mang hình ảnh chiếc khăn vuông đen cổ truyền của phụ nữ Việt Nam. Họ cũng có tục ném còn (ném một trái cầu tròn qua lỗ của một đĩa tròn) giống như một vài sắc tộc ở miền Bắc ViệtNam. Ném còn (ảnh của tác giả). Ném còn, tung còn là trò chơi nòng nọc, âm dương. Quả cầu tròn và đĩa tròn mang hình ảnh chữ viết nòng nọc vòng tròn-que là chữ chấm nọc nguyên tạo (.) và chữ nòng vòng tròn (O). Chữ chấm nọc dương biểu tượng cho nọc, dương sinh tạo, bộ phận sinh dục nam nguyên tạo. Vòng tròn có lỗ là chữ nòng O có một nghĩa là bột phận sinh dục nữ nguyên tạo. Ném trái còn lọt vào vòng tròn để cho nòng nọc, âm dương giao hòa. Trong lễ cưới một vài sắc tộc ở miền Bắc Việt Nam (trong đó có người Mường?), chú rể cầm quả cầu, cô dâu cầm một cái vòng tròn có dán giấy kín biểu tượng cho màng trinh, họ đứng cách nhau một khoảng xa về phía hai họ. Chú rể phải ném cho tới khi quả cầu lọt vào được vòng tròn chọc thủng tờ giấy màng trinh mới chính thức trở thành người chồng. Trò chơi nòng nọc, âm dương giao hòa này là một nét của cốt lỗi văn hóa lưỡng hợp Chim-Rắn, Tiên Rồng. Vân vân… nguồn: http://bacsinguyenxu...06/img_3467.jpg
    1 like
  3. 1 like
  4. Cập nhật nguồn: Việt học ĐỗThành Khảo cứu Bách Việt Sử : Những Lớp bụi mờ của lịch sư... ( 1 ) Haǹg hàng lớp lớp bụi mờ phủ lên trên bề dầy lịch sử Bách Việt... Người Việt Nam ngày nay khi viết chử Việt với dần A B C thì người ta gọi là chử Việt , khi người ta gập chử tượng hình 越 (Việt ) thì đa số người ta nói là chử Tàu ! Người Quảng _Đông ngày nay khi viết 2 chữ 越 南 ( Việt Nam ) thì họ đọc là "Duyệt -Nàm" , và khi phát âm đọc lên 2 chử đó theo giọng nói địa phương Quảng Đông thì họ gọi tiếng của họ là Việt Ngữ...; Xin kễ 1 Chuyện xảy ra hiện nay tại 1 trường Đại học ở Califronia -USA : Một sinh viên người Việt Nam biết chút it́ tiếng Quảng Đông , Tự giới thiệu mình với một sinh viên đến từ Tỉnh Quảng đông -Trung Quốc rằng : "Ngọ hầy Duyệt-Nàm dành " (Tôi là người Việt Nam) , Người Sinh Viên kia cũng tự giới Thiệu : "Ngọ hầy Duyệt dành" (Tôi là ngườ Việt) ; thế là người sinh viên Việt Nam ngớ ngẩn !!! ...Hả ?...Uả ? sao kỳ Vậy ??? ...tuổi trẽ ngày nay it́ biết được lịch sử Bách Việt , ...nhiều người lớn tuổi mà còn không biết ! vì không muốn biết , vì không được biết v v...thì nói chi đến lứa tuổi sinh viên hiện giờ ! vì sao ??? đó là vì có sự Ngộ Nhận "Hoa-Hạ"- "Hán" và "Việt" ... Từ khi nào thì có chuyện người ta tự xưng là "Hoa-Hạ" hay "Hán" tộc ??? _Điều nầy khá phức tạp , nếu như thiếu dẩn chứng hoặc trình bài qúa ..."đơn sơ" ! thì khó thuyết phục ! Hôm nay tôi tìm cách trình bài những trường thiên dài lê thê của mấy ngàn năm bằng cách ngắn gọn , nhưng, củng phải kể ra những chi tiết quang trọng theo tuần tự -Những chi tiết sẽ được trình bài rỏ ràng theo từng bài khảo cứu tiếp theo sau nầy ; rất mong qúi vị ...cũng như tôi sẽ cố gắng để khảo cứu thêm chi tiết và viết thành nhiều bài đễ công bố online... 1 cách khoa học và nghiêm túc Khảo Cứu :Những chi tiết quang trọng...thời Cổ sử và Cận đaị -Cổ thư được gọi là "Việt Tuyệt ký" hay "Việt Tuyệt Thư"(*thời Xuân -THu chiến quốc : trước Sử Ký của Tư Mã Thiên ) , Trong đó ghi chép Vua Việt là con cháu của vua Vủ thuộc triều nhà Hạ ; Việt Tuyệt thư viết bằng chữ tượng hình như "Việt cổ Văn" và "Trung Văn" , ngày nay , sách phải dùng bằng bản phiên dịch qua Trung -Văn bởi những học giả Việt Học xưa nay , vì cổ Việt văn có 1 số từ ngữ của Cổ ngữ mà ngày nay người ta sẽ khó hay không hiểu khi đọc ! ...Ví dụ chử "Cuấy" hay "Cuây" là "Hội" , "kây " là "kế"; "cuấy kây" chính là "hội-Kế" , "Cuấy -kây"...mà viết theo chử tượng hình xưa thì mấy ai biết được bây giờ ? Đa số sẽ đọc là "Hội -kế" , (Lại có 1 giọng Cối -kê = Cuấy Kây =Hội-Kê ..là Hàn -Châu ngày nay ) , chử 會計( Hội-Kế ) là : 會稽 ngày xưa , Chử "Hội" với chử " kế "nhưng lại đọc là Cuấy-kây với dần "C-hay K " đó là nét đặc biệt của vùng Giang Đông và Phiên Ngung ( bên bờ biễn đông -Thái Bình Dương ) ; nhờ Việt Tuyệt Thư mà sau nầy "Sử Ký" (Cuả TƯ MẢ THIÊN )và nhiều sách sử khác có tài liệu về nguồn gộ́c Bách Việt bên cạnh những truyền thuyết... Truyền thuyết ...***Đế Nghiêu truyền ngôi cho Đế Thuấn , Đế Thuấn truyền ngôi cho Vua Vủ , Vua Vủ lên ngôi rồi truyền ngôi cho con là "Khải" : lập nên triều "HẠ" , triều Hạ là của Việt tộc : VIỆT TUYỆT THƯ chép rằng bởi vì "Vua Vủ được chôn cất ở Mao Sơn ̣(Cuấy kây- Hội kê ) , con cháu trong nhà phải có người theo ở đó đễ giử đất mộ của Vủ gia cho tròn đạo hiếu , và rồi lập ra Việt Quốc ." ; vậy , theo VIỆT TUYỆT cổ thư : Hạ và Việt là 1 nhà , đả là 1 nhà thì "Hạ " ngữ hay "Việt " ngữ là 1 , Có ai cần tranh luận điều nầy không ? ..chú ý : Nghiêu , Thuấn , Hạ là Truyền Thuyết ..., nhưng "Việt Tuyệt thư" là cổ thư thời Xuân Thu - chiến Quốc được lưu lại cho đến ngày nay mà nội dung được ghi chép thật rỏ ràng , cổ thư nầy mang tên "Việt Chép" và chép lại sử Việt ; sau nầy "Hoa"văn không có chử "chép " nên dùng chử "Choẻ , choé : 絕jue "/ đọc theo Hán -Việt ngày nay là "Tuyệt "... có phát âm na ná đễ thay chử "chép" ; Xin đón đọc : sẽ nói rỏ về VIỆT TUYỆT THƯ ở những bài khảo cứu tiếp theo sau nầy ; Việt Tuyệt Thư và những chử viết được khắc trên xương ( Giáp cốt văn )và những đỉnh bằng kim loại đồ đồng ( Chung Đỉnh Văn ) thời nhà Thương và Chu mà khảo cổ học phát hiện đã bổ sung và minh chứng cho truyền thuyết , và vì vậy Việt Tuyệt thư càng thêm giá trị . Triều Hạ bị lật đỗ bỡi Triều Thương , Thương là con cháu của Đế Nghiêu , lấy họ Chử , người Việt không xa lạ với họ Chử qua câu chuyện "Chử Đồng Tử "...,Thương không phải là Việt tộc ??? hay là Việt tộc ??? ( Xin xem bài tiếp theo )-Đọc giã sẽ tự có câu trã lời : Vì Đế Nghiêu truyền ngôi cho đế Thuấn , Đế Thuấn truyền ngôi cho vua Đại Vủ cuả nhà Hạ ;...Sau nầy nhà Thương của họ Chử ( 子 -đọc là Chử khi là họ , chứ không đọc là Tử . ) lớn mạnh và lật đỗ triều Hạ , và chử viết và văn hóa của Thương đều là kế tục của nhà Hạ : Những chử viết trong chung Đin̉h Văn và Giáp cốt văn cuả Khảo cổ học chứng minh được điều nầy , ...Nhà Thương thôn t́inh và Đồng hóa Người Siberia da trắng là "Trung Sơn Quốc" : gọi là "Bạch-Địch " , nói chung nhà Thương bao gồm Việt tộc và những ngoại tộc ̉ bị Việt tộc đồng Hóa ..., ngay cả tên của Trụ Vương ...cũng được ghi chép lại là Đế Tân theo văn phạm Việt ..chứ không phải là Tân Đế ! Triều nhà CHu củng bị Việt tộc đồng Hoá ; Tộc Chu là Tộc Khương đã liên kết với những tộc khác tiêu diệt nhà Thương , trước khi lật đỗ nhà Thương , thì trên bước đường đông tiến từ cao nguyên phía tây tiến về Trung Nguyên là họ đã bị Việt Đồng Hóa rồi , và họ đỗi tên , xưng là : CHu 周 , Chu : có nghiã là Điền 田-Khẩu 口 , Ráp chử Điền đễ phía trên và Khẩu chung sẽ thành chử 周 -Chu , ...Chu là khẩu sống nhờ Điền-(ruộng lúa)- ..., và triều CHu tự xưng là con cháu đích tôn của vua Vủ nhà Hạ để được "chính Danh"; Chu Tự xưng là "Hạ" hay là "Hoa" -vì lẩn lộn phát âm giữa chử Hoa và Hạ của tiếng Việt , Tiếng Khương của dân tộc Khương vẩn tồn tại cho đến ngày nay , cho nên khi đối chiếu tiếng Khương với cổ sử và Tứ THư , NGủ̉ Kinh v v...thì sẽ thấy rỏ Chu đã Bị văn hóa Việt của nhà Hạ và nhà Thương đồng Hóa...: Bỡi vì Triều Chu đã không còn dùng tiếng Khương như người dân tộc Khương hiện nay vẫn tồn tại và nói tiếng Khương , -và ngay cả việc nhà Chu phải nhâṇ thầy và học hỏi từ nước Sở củng ̣được ghi rõ ràng trong chính sử .(điều nầy ghi rỏ trong Sử Ký của Tư Mả Thiên ) Nhà Hạ được xem là chính danh , là Hoa = hoa nghiã là " hoa lệ " , là "qúi phái " , là tiến bộ- là qúi tộc , là thống lỉnh , là chính thống ở Trung Nguyên. Cho nên khi mà Chu muốn gồm thâu thiên hạ qui phục với Chu thì phải tự xưng là "Hoa-Hạ" , ngay cái tên "hoa-Hạ" đả tự bộc lộ là bị Đồng Hóa rồi....!!! Vì lẫn lộn "Hoa" Và "Hạ" !!! bỡi Vì là bị đồng hóa mà vẫn khó phân biệt phát âm của 1 ngôn ngử "mới " đối với họ , cho nên họ không phân biệt được "Hạ" là tên gọi Hoàng Triều , và "Hoa" là tên gọi của qúi Tộc theo lối phát âm tiếng Viêṭ , cho nên mới có việc tự xưng vừa Hoa lại vưà Hạ ...trong khi lẽ ra chỉ cần xưng là HOA , hoặc chỉ xưng là Hạ ...là được rồi ! ( Hoa = 華 , Hạ=夏 ) -華 - 夏 Tiếng Việt cổ đại Hoa Và Hạ đọc rất là giống nhau ... _ 華 - 夏Tiếng Việt ở Việt Nam ngày nay : đọc "Hoa"-"Hạ". ..Phát âm rất giống nhau , chỉ vì dùng cố định dấu nặng trong chử Hạ theo qui định ngày nay cuả phiên âm a , b , c , theo Latin mà tạo nên khác biệt hơi nhiều . -華 - 夏Tiếng Việt ở Qủang Đông nay : Đọc : "Hoà" -"Hà" ...Phát âm rất giống nhau . _華 - 夏Tiếng Mân-Việt Triều / Phước Kiến : đọc : "Hoe"-"he" ...Phát âm rất giống nhau . ....Mãi cho đến Sau nầy qua nhiều triều đại sau nhà Chu nữa , khi nhiều dân tộc khác tiếp tục bị người Việt đồng hóa nữa thì dần dần mới có sự "Lai Căn" văn hóa khác mà đổi phát âm chử "Hạ" đọc thành "seaé" hay "Xié" , và phiên âm theo tiếng Anh / English ngày nay 夏 là "Xia" ; Ngày nay tiếng Bắc kinh đọc 華 - 夏 là "Hoả-Xié" / ( là "HUA-Xia " khi dùng English phiên âm ). ...Chính vì vậy mà có từ ngữ Hoa- Hạ 華 - 夏 đọc thành "Hỏa -xié" theo tiếng "Quang Thoại" ngày nay để tự cho rằng : ta là "truyền nhân" đích tôn của của nhà Hạ !!! ...Việt Tộc thống lỉnh Trung Nguyên từ xa xưa , mà nổi bật là nhà Hạ , Việt , Bách Việt ... ngày nay xét kỷ thấy rằng : các ngôn ngữ cuả người da trắng vùng SIBERIA đã lập ra "TRUNG SƠN Quốc" rồi bị nhà NHà THương thôn tính , rồi CHu thôn tính THương ; Rồi loạn Hung Nô thời Tấn v v..., Xét kỷ ngôn ngữ Siberi , Turky , KHương , Mông Cổ v v... vẩn tồn tại đến bây giờ , đễ người ta có thễ đối chiếu và thấy khác với các tiếng nói phương ngôn Việt và tiếng Quang thoại- phổ thông : Đó chính là 1 bằng chứng người SiBeri thời nhà Thương và luôn cả nhà CHu đã bị Việt đồng hóa : vì họ đã không còn sữ dụng những ngôn ngữ "hung Nô" nêu trên... Vì đã bị Việt Đồng Hóa .mà họ tự Xưng là dân tộc "Hoa-Hạ" 華夏 !!! là con cháu của nhà "Hạ夏 "...! Vì Văn Hóa và ngôn ngữ Việt đã đồng Hóa Thương , Chu , và Yến , Nguỵ ( Người Siberi Thời xuân thu -chiến quốc) v v...cho nên tiếng Việt có thêm "1 nhánh mới phía bắc" mà ngày nay người ta gọi là tiếng Bắc-Kinh hay Mandarin , khi có thêm tiếng phía bắc thì 2 tiếng việt Nam Bắc khác giọng và biến âm khó thông với nhau nên người ta chọn tiếng Việt phía nam là tiếng xưa - "có sẵn từ trước "và là tiếng "tiêu chuẩn" đễ làm tiếng "phổ thông" dùng cho thời đó ! -và tiếng Việt đễ "phổ thông " thời đó đã được gọi là "Nhã ngữ 雅 語 " : thời Xuân -THu Chiến Quốc đã gọi Việt Ngữ là Nhã NGữ , Nho Giaó thời đó đã phát triễn mạnh , lịch sử đã được ghi lại khá hoàn chỉnh , cho nên người ta có thể kiểm chứng rỏ ràng 100 % chuyện nầy . "nhã ngữ雅語 " Mặc nhiên trở thành tiếng đễ dùng chung "phổ thông" phổ cập vào thời xuân thu-chiến quốc , và được gọi là "Nhã ngữ" vì nghĩa là : -Nhã : là Đẹp , văn nhã...; Khổng Tử Dạy học củng là dùng "nhã Ngữ" (雅語) . - Nhã ngữ là Việt Ngữ 粵 語 ( 粵 hay 越 hoàn toàn giống nhau , xưa dùng chung cả 2 chử nầy là "Việt" ) tồn tại cho đến ngày nay ờ Tỉnh Quảng Đông và nước Việt Nam . ...Nhưng tiếng Việt Nam lại mang giọng nam nhiều hơn vùng PHiên -Ngung / Quảng Châu và sau nầy laị biến giọng khi tiếp xúc nhiều với tiếng Mường , rồi lại biến âm nhiều khi dùng A , B , C đễ phiên âm . ...Tiếng Quảng Đông chỉ biến gịọng rất it́ dù và vì bỡi tiếng Bắc-kinh ngày càng phát triễn mạnh nhưng vì không dùng Latin a , b ,c đễ phiên âm , không có "sắc , huyền , hỏi , ngã , nặng " cố định cho nên giữ được nhiều âm thanh cổ ..., điều nầy có thể kiễm chứng được khi so sánh với phương cách thuyết văn giaĩ tự của thời Hán đã được Hứa Thận biên sọan trong sách "Thuyết -Văn". Người ta có thể phục chế ngôn ngữ bằng cách nắm vững quy luật biến hóa cuả ngôn ngữ , người ta nghiên cứu 1 vùng "Việt" ngày xưa bị "hung nô " xâm chiếm rồi biến âm và trở thành sử dụng ngôn ngữ mới ...khác âm như thế nào , rồi lại đối chiếu với ngôn ngữ của những nhóm Việt chạy xa ...xuống phương nam , người ta lại tổng hợp , rồi phân tích 1 từ ngữ đã biến thành nhiều âm cuả các phương ngôn khác nhau : đễ tìm ra 1 từ gốc gác căn bản nhất đã biến hóa thành nhiều phương ngôn mà lại rất giống nhau vì cùng 1 gốc... Nhưng tiếc thay ...nhóm nghiên cứu phục chế ngôn ngữ còn it́ ...và lại rất "bí Mật" , và không được Công Bố đễ phổ biến !!! ...Trong thế gíới Của Blogger tiếng Hoa ngày nay -thông tin gần như là duy nhất và được rò rỉ một cách vô tình hay cố ý cuả nhóm phục chế CỔ Hán NGỮ thì Từ ngữ "Thén Thỉnh" Cuả Tiếng Bắc Kinh , "Thín thìn" cuả Tiếng Qủang Đông , "Thenn thénn" của tiếng Triều Châu ...là : Với kết qủa cuả "phục chế Cổ Hán Ngữ " thì những chữ đó ngày xưa có phát âm là "THIÊN_ĐÌNH -天庭 " : nếu như có hàng trăm hay hàng ngàn nhóm nghiên cứu "phục chế Cổ Hán Ngữ " thì kết qủa sẽ to lớn và hùng tráng hơn nhiều , và cũng sẽ ...không còn gì là "bí mật" hay lạ lùng nữa ! Khi Tần Thủy Hoảng thống Nhất "thiên hạ" thì tiếng Việt-Nhã Ngữ được Triều đình "qui định" để dùng thống nhất hóa về chử viết và tiếng nói... ; nhà Tần ra qui địnḥ thống nhất về chử viết , đơn vị đo lường ...nhưng tồn tại chĩ có 15 năm thì bị người Việt của vùng Sở và vùng Việt Giang Đông liên kết lật đổ ...rồi lập nên Triều Hán . Sách " Thuyết văn"( 説文 ) của Hứa Thận - 許 慎 biên soạn và viết ra thời Hán : phần đánh vần của thuyết văn phải đọc bằng tiếng Việt ... (nếu như ai đọc sách đó mà đọc theo giọng "Quang Thoại-Bắc kinh-Mandarin" thì sẻ không đánh vần được rất nhiều chử ) ; Đó là tiếng Việt cổ đại thời Hán và thời Tần và trở về trước nữa ...; Bỡi hoàng cãnh và điều kiện kịch sử : Tiếng Việt Cổ là tiếng còn lưu lại được ở Quảng Đông và Việt Nam ngày nay , thời Nam Việt Vương Triệu Đà thì Quảng Đông - Việt Nam ngày nay là chung 1 nước và ngôn ngữ rất là tương đồng giữa các vùng bắc và nam , đông và tây dù có khác giọng Âu , Lạc , Mân ...; Còn tiếng Việt gần biễn đông Thái Bình Dương ở phía bắc là Sơn Đông , Tô Châu , Thượng hải sau nầy bị ảnh hưỡng mạnh cuả giọng Bắc -kinh nên trỡ thành 1 nhánh riêng được gọi là NGô-Việt Ngữ ; Phía nam Ngô-Việt ngữ là vùng Phước kiến, Triều Châu lại bị ảnh hưỡng cuả gịọng nói Ngô Việt mà trỡ thành một nhánh riêng gọi là Mân Việt Ngữ ; Laị có riêng 1 nhánh của người Bộc Việt ở Trung Nguyên thời xa xưa qua bao lần loạn lạc vì chiến tranh mà di cư khắp nơi , nhưng vẩn giử được phần cơ bản ngôn ngữ cuả bộ tộc họ , mà lại trộn lẫn ảnh hưỡng các phương ngữ khắp nơi trên đường di cư nên hình thành tiếng Hẹ / khách-Gia -Hakka ngày nay . và Mân Việt Ngữ trên Đảo Hải-Nam thì có qúa nhiều dân cuả bộ tộc Lê /"Cữu-Lê" _Lê -Việt ngày xưa nên hình thành tiếng Hải Nam , và Việt -Nam thì độc lập và tách riêng trở thành tiếng Việt Việt -Nam ; Những Vùng NGô , Sở và phía bắc thì ngày nay đã bị phát âm Bắc-Kinh / Quang thoại /Mandarin ảnh hưỡng gần như là toàn diện bỡi lịch sử xâm chiếm cuả "hung Nô" và vì đa số triều đình của các triều đại đều đặt tại những vùng đất "Trung Nguyên "nầy trong mấy ngàn năm lịch sữ , nên việc sữ dụng quan thoaị trở thành chuyện đương nhiên . Toàn bộ văn hóa Hạ , Thương , CHu , xuân thu- chiến quốc , Ngô , Việt , Sở ,Văn Lang , Mân , Âu , Lạc Việt , Tần , Hán ...là văn Hóa Việt ; Tại sao goị là văn hóa Việt ? vì quốc hồn , quốc túy đã mang tên Việt ! Việt đã là tên của truyền thống dân tộc cho nên các vương triều mới có tên là Việt chiếm đa số như : Sở ,Tần , HÁN, NGÔ VIỆT , MÂN VIỆT , ĐÔNG VIỆT , DƯƠNG VIỆT , NAM VIỆT , ÂU VIỆT , LẠC VIỆT v v... , Triết học và địa danh cuả sử xưa từ xa xưa đã được định hình và lưu laị cho đến ngày nay ... chử viết đã lưu lại là Đế Đoan Hạn , Đế Cảo , Đế Nghiêu , Đế Thuấn ...chứ không phải là Thuấn Đế , Nghiêu Đế v v...,và Địa danh là Sơn Đông chứ không phải Đông Sơn , Hà Nam chứ không phải Nam Hà , Thượng Hải chứ không phải Hãi Thượng , Quảng Đông chứ không phải Đông Quảng và đảo Hải Nam chứ không phải Nam hải V v.... Chỉ đến khi nhà Hán mất , Thời nhà Tấn có nhiều bộ tộc phương bắc tràn xuống chiếm cứ cái nôi văn Hóa Việt vùng Hoàng Hà , Thái Sơn , sông Hoài , sông Lạc , sông Phần v v...thì văn Hóa Việt cổ ở Trung Nguyên mới bị biến đổi và chỉ có phương nam là còn giữ lại được văn hóa Việt gần nguyên vẹn , ...ở phía nam là vùng : sông Trường Giang và Ngủ lỉnh , phương nam ... Từ thời xa xưa đã có người da trắng di cư xuống nam và lập ra Yến Quốc , đến khi thái tử Yên Đan dùng Kinh Kha mưu Sát Tần Thủy Hoàng là Yến Đã bị Việt Hóa lâu rồi , ngành Khảo Cổ ở bán Đảo Sơn Đông cũng đào được mộ của người da trắng ; Loạn thời Tấn cũng là 1 lần nữa làm xảy ra việc văn Hóa Việt Đồng Hóa thêm 1 số nhiều-rất nhiều- người Turky và và nhiều tộc Hung Nô -Siberi , nhưng , vẫn chính là vì vậy mà văn hóa và ngôn ngữ phía Bắc đã đổi khác thật nhiều với sự lai căn mạnh mẽ bởi tiếng Thổ nhị Kỳ , siberia, Hung nô -Chitan / Khiết Đan v v..do đó mà có tiếng "phổ thông-quan thoại" ngày nay khác xa về văn phạm với Việt ngữ bằng cách Đảo ngược văn phạm Việt , nhưng phát âm thì lại tương đương Việt ...ví dụ : Hoa trở thành Hỏa , "Diệt" trở thành "yué" , "to" lớn trở thành "ta" hay lả chỉ đọc giọng cao hơn là "Tá ,Tó" v v... Sau khi nhà Tấn mất phân nửa đất phía bắc , thì phía bắc có qúa nhiều chủng tộc và ngôn ngữ khác nhau , ...những chủng tộc cuả người mới xâm chiếm trung nguyên thành lập nhiều quốc gia với tình trạng đa chủng tộc và đa ngôn ngữ , thì bắt buộc phải chọn và bị đồng hóa bỡi tiếng "Phổ thông " , chứ mạnh ai nấy giữ tiếng Turky , mông Cổ , Nga , Tạng v v thì sẽ qúa nhiều khó khăn khi giao tiếp ..., và sau nhiều đời thì đã bị đồng hóa bỡi văn hóa Việt , Vì Văn hóa Việt nầy thời đó đã mang danh là nhà "Hán" và "Tiền Hán" , thì khi đã bị đồng hóa rồi thì họ cũng xưng là "Hán"... Sau nầy , Khi Dân số phát triễn và cùng Với Sự phức tạp của giọng Việt ở các miền khác nhau như vùng THái Sơn , Sông Hoài , Sở , Dạ Lang , Mân , Lạc , Âu , An Huy , Hà nam , Tô Châu , Hàn châu , Phiên Ngung , Giao Châu V v...đã bắt buộc mỗi 1 triều đại các triều đình các đời sau luôn luôn phải dùng và bổ túc cách nói và cách viết chung "phổ thông " ở triều điǹh , đó là "tiếng Phổ thông" chung cho bá quan văn vỏ mọi miền ...bao gồm luôn nhửng người mới đã bị đồng hóa : cho nên đả điṇh hiǹh và phát triễn thành tiếng "Quan Thoại" , là tiếng nói "mới " của chung cuả những người củ và mới -đã bị đồng hóa ..đễ "phổ thông" , đễ dễ dùng chung cho tất cả các chủng tộc củ và mới của Trung nguyên ...,vì vậy : cho nên đả -hoàn chỉnh dần dần -và- chính thức- sinh ra tiếng "quan Thoại"- "phổ thông"; do đó : Cần chú ý điều nầy : những cổ văn từ Hán , Tần ...trở về trước thì không phải là "Quan Thoại" hay "Phổ Thông" mà là Việt Ngữ-Nhã Ngữ ; Dù "quan-thoại " đã được hình thành dần dần , nhưng chỉ Đến đời nhà Tùy và Đường thì tiếng Phổ Thông mới được đầy mạnh và phát triễn mạnh thêm 1 lần nữa , bỡi vì Tùy và Đường đều là gốc Hung Nô ở Siberia , tuy vậy , thời đó tiếng Phổ thông chưa đủ để thay thế nỗi cho Việt Ngữ , nên Đường thi là đa số phải đọc theo Việt ngữ ... thì mới đúng theo vần đả gieo trong Đường Thi ( Chú ý : Thơ văn từ Tống < Đường trở về trước là Việt , phải đọc theo giọng Việt , nhưng củng có 1 số ít dùng theo tiếng "Phổ thông-Quang Thoại " do những người "mới" đã viết ra ...mà truy nguyên ra sẽ thấy Họ là họ nhà làm quan cha truyền con nối nên đã chỉ rành và chỉ biết "quan thoại " hoặc họ chính là dòng người Hung-Nô , Siberi ...ví dụ như điễn hình là nhà thơ Lý Bạch / lý Bạch gốc Hung Nô-Siberia ) . Sau nhà Đường là nhà Tống ..., Tống -Từ và Đường Thi điều phải đọc theo giọng Việt ...Bởi vì tiếng việt "xưa" tiếp tục vẩn còn mạnh ; Nhưng rồi Nhà Tống bị mất bỡi nhà Nguyên của tộc Mông Cổ ...làm thay đỗi lớn , Tiếng Bắc-kinh / phổ thông lại lớn -và mạnh thêm ... Văn chương xa xưa từ trước là nhà Hán , Tần v v...thì văn phạm Việt rỏ ràng :Ví dụ ... , Người Mân Việt là người Triều châu từ xưa đến nay vẩn dùng từ "CÔI -BÓ 雞 母" ( Gà mẹ ) cho đến ngày nay , -"Côi" là "kê" của tiếng Việt cổ đại mà bên đạo Phật ở Việt Nam ngày nay vẫn còn nhiều người biết ..., ''côi 雞 '' là Kê/Gà , ''Bó 母 '' là ''Po'', là "a-phò" , là "bà" , "bà mẹ" , "mẹ", -"Côi bó" là "gà mẹ" ; Đối chiếu "Côi bó" hay "gà mẹ" với văn chương tiền Tần-Hán thì thấy rỏ văn phạm và phát âm bị gọi là "cổ Hán ngữ" đúng là như vậy và chính là Việt ngữ , và xa xưa thì sách thời tiền Hán đúng là dùng là : 雞 母 . -Côi Bó雞 母= Gà mẹ ; chử Gà là "kê"雞 -viết trước- : Văn Phạm tiếng "Việt" . -ngày nay tiếng Bắc kinh dùng là "Mẩu -kê 母雞 " với chử Gà là "Kê"雞 viết sau : văn phạmBắc kinh/ Phổ-Thông hiện giờ . => rỏ ràng thời Tần , Hán và trở về trước thì ngôn ngữ toàn là Việt. -xưa : tra cổ thư thấy viết là "bộ hành 步行 " : nghiã là Bước Đi ( chử Hành 行 là "Đi"... phải viết phía sau ) ,chứ không phải "hành lộ 行路 " như hiện giờ ( Chử Hành 行 là "Đi"... viết phía trước ) . - Xưa viết là "Mắt" 目 chứ không viết là "nhản tinh"-眼睛 như bây giờ v v.. =>quá nhiều bằng chứng và quá rỏ ràng là trước đây là Hán , Tần , xuân thu-chiến quốc , Chu , Thương , Hạ , Ngủ Đế , Tam Hoàng v v...xa xưa là văn hóa và ngôn ngử là Việt . Đến khi Mông Cổ thôn tính trung nguyên và lập ra nhà Nguyên qúa lâu , thì tiếng Phổ Thông chiếm thượng phong , nhà Minh lật đổ nhà Nguyên , cố khôi phục lại ngôn ngữ , nhưng khi dời thủ đô từ phía nam lên vùng Bắc -Kinh thì quan và triều đình lại phải dùng "quang -Thoại"... , nhưng ...và rồi lại đến 1 nhánh Hung Nô khác là tộc Nữ Chân -của vùng Mản Châu lập nên nhà Thanh , tiếng Phổ Thông -Bắc kinh tiếp tục "lên ngôi" và đồng hóa người tộc Mản/ Kim , Triều đình Mản Thanh bắt buộc thi cử tuyễn "Trạng nguyên" , "tiến-Sĩ" V V...là phải thi tuyễn bằng tiếng Phổ-Thông / Quang Thoại .... , vùng Lưỡng Quảng là Quảng Đông và Quảng -Tây chống đối , vẫn chỉ thi bằng tiếng Việt , Vủng Mân Việt là Phước -Kiến , Triều Châu thì dung hòa thi bằng song ngữ Quan-Thoại và Mân Việt Ngữ ....; Nếu gộp chung lại là "Thương"-Bị ảnh hưỡng bỡi Bạch Địch Siberia , "Chu" , "yến" , Ngụy" , "kim" , "liêu" ,"Tây Hạ" v v...thêm vào nhà "Nguyên" và "Mản Thanh" tính chung cộng lại hàng ngàn năm bắc thuộc "Hung Nô" làm cho vùng Hoàng Hà và bán đảo Sơn Đông -Trung Nguyên đả bị ...trở thành "Văn hóa Việt đồng hóa ngoại tộc " : Trở thành văn hóa "phổ thông" -mà thành phần mới nầy lại rất là mạnh và xưng...là dòng dỏi của "Hạ" ," Hán " , xưng ...là " Hoa Hạ " tộc ! ...xưng là " Hán " tộc với tiếng nói là tiếng Phổ Thông - Quang Thoại ! -Và sau nầy còn có tên là tiếng "Bắc Kinh " hay là "Madarin "- (Mandarin là Do phiên âm từ chử Mản Đại cuả Triều Mản -Thanh bỡi người Tây Phương " ....; Họ đọc chử Hạ夏 là "Xia" ...TRONG KHI SỬ SÁCH CỦA "HẠ 夏" LÀ VIỆT TỘC VỚI VĂN PHẠM Và NGÔN NGỮ RỎ RÀNG ...đọc là " Hạ " . Sau khi nhà Thanh bị Mất bỡi Tôn Dật Tiên làm cách mạng ..., nước "Trung-Hoa" mới được thành lập , Việt ngữ phương nam đã được cân nhắc làm tiếng Phổ thông để dùng thống nhất , nhưng vì trong hàng ngũ tướng lãnh có qúa nhiều người phương bắc sử dụng tiếng Phổ Thông , nên vì đại cuộc mà một lần nữa tiếng Phổ thông-Quang Thoại -Mandarin lại được chọn làm tiếng "Phổ-Thông". _Và điều đó tiếp tục ảnh hươn̉g trở thành hiện traṇg ngày nay... Khi HỨA THẬN Biên soạn "TỰ ĐIỂN" THUYẾT VĂN Thời HÁN Thì chữ ''HẠ'' Vẫn là được ghi phiên âm là : 胡 雅 切= Hồ Nhả Thiết " , hồ nhả thiết...,nghiã là ...Hồ a ha . Hạ 夏 ", đó là tiếg Việt : Khác xa với "phổ thông là "Xia 夏 ". Chú Ý : Xin đón xem bài bài khào cứu " Thuyết Văn " ... Theo Tôi thấy : =>Chỉ khi nào có việc sách THUYẾT VĂN ...để giải tự của Hứa Thận thời nhà Hán mà lại đánh vần chử "HẠ" là " x-i -a -xie =xié ",và toàn bộ những chử khác trong thuyết văn phải đọc theo giọng "Phổ thông-Bắc kinh" thì người ta mới tin được là có 1 nền văn Hóa gọi là "Hoa-Hạ" hay "Hán" có trước văn hóa Việt . =>Chỉ khi nào có việc triều Hán không nói tiếng Việt mà lại có riêng 1 thứ tiếng "Hán !" thì người ta mới nên nghỉ tới những lập luận : Hán ngữ , Hán tộc , Hán hóa những dân tộc khác , v v....; Nhưng chĩ riêng 1 quyển "tự điển"/ "Thuyết Văn" của triều đại mang tên Hán 漢 do Hứa Thận biên soạn cũng đủ chứng minh tất cả Hán là Việt : 越 / 粵 ...bởi phát âm của từ điển , của ngôn ngữ là Việt 越 ; Vậy thật ra là Việt Hóa 越 化...các tộc khác . .=> -Và đặc biệt là nên phải nhấn mạnh và lập lại điều nầy : tất cả NHỮNG CHỬ KHÁC trong TOÀN BỘ SÁCH "THUYẾT VĂN" của Hứa Thận thời nhà Hán PHẢI ĐỌC THEO TIẾNG VIỆT ̣( đã biến thành mấy phương ngôn Việt ngày nay ).../ Nếu như đọc theo tiếng "Mandarin-quang thoại" thì : thứ nhất là đánh vần sẽ sai , thứ hai là đọc được 1 it́ chử trùng hợp thôi , và thứ ba là có chử sẽ không đánh vần phiên âm được : Điều nầy có thể kiểm chứng dễ dàng bằng cách mở sách "thuyết Văn" của Thời Hán ra mà Đọc thử ... =>Và ĐƯỜNG THI Với TỐNG TỪ PHẢI ĐỌC THEO CÁC PHƯƠNG NGÔN VIỆT ...mới đúng vần , mới hay... -...=>Và KHỔNG TỬ DẠY HỌC BẰNG NHÃ NGỮ tiếng VIỆṬ̣( 雅語) , NHÀ CHU VÀ NHỮNG NƯỚC THỜI XUÂN THU -CHIẾN QUỐC PHẢI DÙNG NHÃ NGỮ VIỆT ĐỂ LÀM TIẾNG "PHỔ THÔNG'' KHI GIAO THIỆP...LIÊN LẠC , tất cả những điều nầy được ghi trong nhiều cổ thư , bằng chứng vẫn còn đó và qúa nhiều bằng chứng ... Tất cả sách diển giải sử của từng thời đại đều khó thoát khỏi "tư tưởng sử" của THẾ LỰC Chính Trị của mổi 1 thời đại ! Nhưng hảy dùng khoa học nghiên cứu về NGÔN NGỮ , PHONG TỤC , khảo cổ , di truyền , tôn gíao ,thiên văn , địa lý , toán học v v... để lý giải bằng tinh thần Chân , Thiện , Mỷ thì lịch sử sẻ ̣được sáng tỏ ...; Chúng ta không có máy thu âm thời cổ sử để lưu lại tiếng Việt thời xưa : Nhưng đả có VIỆT TUYỆT THƯ , và có thể tham khảo Chiến Quốc Sách , Ngô Việt -Xuân Thu , Tứ Thư -Ngủ Kinh , Thuỷ kinh chú ,Tiền Hán Ký , Hán Thư , Sử Ký , Tống Sử , Minh Sử , Thanh Sử -Tứ Khố Toàn Thư , Quảng Châu Ký v v...và bên cạnh sách sử của nước Việt-Nam ; Về văn hóa dân giang còn có những bài Đường Thi , Tống Từ , còn Việt Kịch của Giang-Tô , Chiết Giang , những văn hóa , và phong tục dân giang ...và đặc biệt là có sách "Thuyết Văn " với ghi chú cách đánh vần Việt rỏ ràng ở thời nhà Hán của Hứa Thận , cộng thêm có nhiều ngôn ngữ Bách Việt còn tồn tại cho đến ngày nay như Bộc Việt ,Ngô Việt , Mân Việt , Lê Việt ̣( tiếng của người dân sống trên đảo Hải Nam ) ,Lạc Việt , Việt v v..., Tất cả chi tiết trên đã là bằng chứng sống động cho thấy Văn Hóa người Việt đã trải rộng và đồng hóa biết bao dân tộc khác ở Trung Quốc từ ngàn xưa cho đến hiện thời...; Những sự ngộ nhận và diễn giải sai lầm ý nghiã chung quanh chử Hoa và Việt bởi các thế lực chính trị để tranh dành vai trò "chính Thống" và "quyền lực" đã làm gây ra phân ly và chiến tranh và đau khổ cho biết bao muôn dân của đại gia đình Bách Việt. Có 1 thuyết cho rằng nước Việt cuả vua Câu Tiễn không phải là con cháu của vua Vủ nhà Hạ như Việt Tuyệt thư đã ghi chép , vì vua Việt mang họ Mi , sau đổi họ Lạc , trong khi nhà Hạ mang họ 姒-Tự, lập luận nầy rất quang trọng và cần chú ý , Xưa hay đỗi họ do được phong Quan và Đất v v..Các đời tổ tiên trước cuả Vua Vủ cũng thay đổi Họ nhiều lần , THuyết trên không đủ bằng chứng thuyết phục đễ bải bỏ những gì đã được ghi chép trong Việt Tuyệt thư , bỡi vì Việt thư ghi chép qúa rỏ ràng ; muốn phủ nhận Việt thư không phải là dễ . Có thuyết cho rằng người Việt là THổ dân lâu đời ở 1 vùng rộng lớn , lập ra nhiều nước Việt nhỏ và trong đó có nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn , thuyết nầy được các nhà nghiên cứu sử "tin Cậy" hơn , bỡi vì khảo cứu theo thực tế lịch sử thì nhóm Việt cư trú trên địa bàn qúa rộng . Tại sao người ta không nhập 2 thuyết làm 1 ? Và Còn chuyện đỗi họ vẫn đầy vẫy trong lịch sữ xa xưa cũng như sau nầy , họ Mi , họ Lạc cũng đổi làm họ ÂU và Âu_Dương ở vùng Âu giang của Âu Việt , Họ Mi cũng đỗi thành Họ Sỡ ..., Họ Lạc khi chạy loạn cũng đỗi thành họ LA , Họ Lai đễ giữ an toàn ... ; Và từ cổ xưa cũng thế thôi , ở đâu thì gọi theo tên đó lâu ngày thành họ mới , đất Trịnh , đất Triệu , đất Ngụy v v...đều tạo ra họ mới ; xưa có họ Cơ là vì sống ở sông Cơ , lâu ngày thì được gọi là Cơ , Họ Khương là vì ở sông Khương V v....; nên nghĩ đến là nhóm Việt trải rộng trên 1 địa bàn bao la bỡi vì giỏi dùng ghe thuyền , cho nên theo bờ biễn và theo dòng sông di chuyển , di cư rất dễ dàng ? Dù không phải là du mục , nhưng còn phương pháp du canh đốt rừng làm rẩy , đễ tiã lúa khô , trồng kê , bấp , đậu , khoai trên cạn ...cũng đòi hỏi phải di chuyển hoài đễ đốt rẩy mới là có thu hoạch tốt hơn cho mùa trồng tiã kế tiếp , như hiện nay chúng ta vẫn hiểu và thấy rỏ qua lối du canh , du cư , ... Câu "khoai đất lạ , mạ đất nhà " cũng là 1 lý do đễ phải "di cư " ..., hiện nay thì việc trồng lúa và nuôi heo đã được xát định là của Việt tộc biết làm sớm nhất... , gia đình , dòng họ , gia phả , xả hội , đời sống và thực phẩm phong phú , ở đâu có người Việt là ở đó có trái bầu và rau qủa v v..., văn minh nông nghiệp cũng tạo ra âm lịch và quang sát thời tiết , bầu trời , thiên văn-địa lý , sau nầy còn có đoàn quân Hổ và Voi ra trận xông pha chiến trường của Mạnh Hoạch và của Hai bà Trưng , đời sống thực tế cuả người Việt mới thật là lạ và hay cho những sáng kiến và ứng dụng , thuyết nhất nguyên Thái cực sinh lưỡng nghi của vùng đất Sở thật là cao thâm khó lường , vẽ bùa và thần chú của vùng Mao-Sơn (Cối-kê) , yêu tinh hay thần thánh nhập xác người dùng cây nhọn xuyên gò má , xuyên lưỡi , cắt lưỡi lấy máu làm bùa vùng Phước kiến- Triều châu thật lạ lùng đặt biệt , gọi hồn , xem phong thủy địa lý , tử vi , bói toán thuật số , thư-trấn-yếm bùa đối với người và công tr̀inh xây dựng thật là huyền bí , nghiên cứu vỏ công , thế trận-binh thư , nhạc cụ , thi ca , tiên tri , khoa học v v..., chế tạo thuốc pháo , giấy , xe , ghe , nhà sàn , thành quách -cung đình , đền thờ- lăng tẵm , vủ khí , mỷ phẩm , y dược v v...; những người khảo cứu lịch sử Bách- Việt còn hay nhắc lại những phát hiện người Việt giỏi dùng ghe , thuyền di chuyễn trên sông biễn và trồng lúa , cắt tóc ngắn đễ dễ làm việc đồng án ở ruộng lúa nước ... ? có tục xâm mình , vẽ mặt , đội lông chim (điều nầy cũng thấy rỏ ở thổ dân Châu ÚC và Châu Mỹ La-tin), quan niệm sống là "THiên" và "NHân" hợp nhất , khi làm lễ cúng tế thì ca hát và nhảy múa , những từ ngữ "chìa khoá" cuả tiếng Việt có liên hệ với nhóm ngữ hệ nam đảo Thái Bình Dương v v...; người ta ước tính rằng ngày xưa 1 chiếc thuyền bườm (không có́ máy móc cơ khí như hiện nay ) nếu xuất phát từ vùng Cối -kê / Hàn Châu thì chỉ trong vòng 1 tuần lễ là đến nước Nhật hiện giờ... Tiếng Việt thời tiền sử là đa âm , rồi biến dần thành đơn âm , tôi không dám lạm bàn nhiều hơn , không dám đụng đến "chuyên khoa" ngôn ngữ học với mớ kiến thức Lơ-tơ-mơ cuả mình ," lang -thang " và "lênh- đênh" trên 1 biễn taì liệu cổ sử Bách Việt , khảo cứu và đối chiếu với thực tế là sở thích cuả tôi đễ tìm cội nguồn tổ tiên , chuyện nầy rất là bình thường đối với tôi và với biết bao người khác , bài khảo cứu của tôi sẽ chẵng mang lại lợi lộc vất chất gì ! sẽ chẳng có danh hay lợi gì đễ bóp méo sự thật , chỉ là những lời tâm tình và chia sẽ công khai đễ mong những người có tâm huyết nghiên cứu sẽ đưa ra những bằng chứng mà phê phán cho tôi biết là tôi hiểu đúng hay là Sai ...??? Khi qúi vị đọc bài viết nầy : xin phép cho tôi nhắc lại Ca dao Việt ...đễ thấy người Việt Ngày xưa với tiếng Việt đã từng sống ở đâu ... _Gió Động Đình mẹ ru con ngủ Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh ...Bống bồng bông , bống bồng bông Võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên ...Và _Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chử hiếu mới là đạo con ( Động Đình Hồ là hồ nước lớn chính giữa 2 tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ; Thái Sơn là ngọn núi hùng vĩ ở bán đảo Sơn Đông ). Và... Nước đóng băng khi thời tiết băng giá , khi băng tan rồi thì băng lại là nước ..., với thành tựu khoa học và văn hóa khiêm tốn của nhân loaị ngày nay cũng đã bắc đầu vén được bức màn bí mật của DNA và của lịch sử ; trong tương lai thì lịch sử Việt hóa , và lịch sử Việt tiến hóa như thế nào từ xưa cho đến nay ...cùng với những trang sử bị cải biên hay bị ngộ nhận chắc chắn sẽ được làm sáng tỏ rỏ ràng. _Một ngày nào đó ...tất cả tiếng Việt : gồm Hoa ngữ- Phổ Thông -Bắc Kinh của phương bắc ,Bộc Việt-Hakka ,Ngô Việt-Tô Châu , Thượng Hải , Dương Việt-Vùng Kinh Sở và Dương Châu , Giang Tây , Mân Việt-Phước kiến , Triều Châu , Lôi Châu , Lê Việt-Hải Nam , Việt-Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam ,_một ngày nào đó _Vì lý do "Toàn cầu hóa" , hay vì khoa học vi tính và "bàn phím đánh máy hóa" mà tất cả các tiếng Việt nêu trên được đánh vần chung 1 phương cách và bằng cùng 1 loại mẩu tự La-tinh A B C ...thì tât́ cả Việt ngữ nêu trên sẽ lại quay về 1 gốc Việt thống nhất ;Và đó cũng là cách học và hiểu các Việt Ngữ khác biệt nhau hiện nay của tôi là cứ việc phiên âm tất cả trở thành tiếng Việt A B C... thì sẽ thấy được sự tương đồng hay tương đương với tiếng Việt gốc của cá nhân gia đình mình đang dùng- thì sẽ dễ học và dễ hiếu lắm ! Kính bút : Cùng qúi vị đọc giã... -Đề tài "đồng hóa" rất dễ trở thành đụng chạm đến tinh thần "tự ái dân tộc" , với tinh thần cầu và xin tìm được sự thật khi khảo cứu lịch sử ..., xin trân trọng gữi lời chào qúi mến -không phân biệt chủng tộc , vì sự thật khoa học -đến qúi vị nào đã lưu tâm và đọc hết bài nầy ; tất cả mọi ý kiến đóng góp thêm hay phê bình hoặc phản biện đều rất đáng qúi ... Kính chào qúi vị và xin bổ túc thêm những chi tiết và ý khác ở những bài khảo cứu sau ... Nhạn Nam Phi ( Thanh Đỗ ) . Lãn Miên: Tiếng Việt đã được giữ gìn nguyên vẹn nhất, từ phát âm đến ngữ pháp, là ở ngôn ngữ của người Việt Nam ngày nay , hậu duệ đích tôn của Lạc Việt=Bách Việt. Lấy một từ Quốc để lý giải. Từ “quốc” làm sao lại giải thích như từ điển tiếng Việt là quốc=nước được. Nước là Land như Scotland, Thailand. Còn “quốc” là “của nước” (do QT lướt, “của nước”= “quốc”, “của nác”= “quấc”, như cụ Hồ ký tên là Nguyễn Ái Quấc). “Lắm Nác” Việt= “Lạc” Việt= “Trăm Nước” Việt= “Bách” Việt. Của nước=Quốc là chỉ cái chính phủ, đại diện cho Nước, Hán ngữ có từ Quốc Gia nghĩa là cái “nhà của nước” tức cái Phủ, chính phủ là cái nhà cơ quan đại diện cho Nước, gia cũng có nghĩa là người, Quốc Gia là người đại diện Của Nước. (Còn từ Tổ Quốc lại chính là một từ Việt hoàn toàn theo ngữ pháp Việt, Tổ Quốc là Tổ Của Nước, vì Của Nước=Quốc. Về sau bị Hán hóa ngữ pháp thì người ta mới gọi cái ông Tổ của Nước ấy là Quốc Tổ). Chữ Quốc 國 viết ra đúng biểu ý là Của Nước: Một Vuông 口 to bên ngoài là Vùng, biểu trưng cương Vực, bên trong gồm có: chữ Qua 戈 là cây dáo (“Cây dáo của Ta”= “Qua”), biểu trưng đã có chính quyền; một Vuông 口 nhỏ, đó là chữ Văn 文 (cũng gồm bốn nét kẻ, xếp lại, mà người Triều Châu vẫn đọc là “vuông”, người Quảng Đông đọc là “mảnh”, vuông lụa với mảnh lụa thì cũng là một, trong tiếng Việt), biểu trưng đã có văn hiến; một gạch ngang đó là chữ Nhất 一 tức mang ý nghĩa là Việt, vì Việt=1 (còn Vô thì là 0, Vô=0, Vô/Việt tương đương 0/1). Của Nước tức chữ Quốc 國 này đồng thời đồng nghĩa là Của Nước của người Việt, bởi các bộ biểu ý của nó đã nói rõ ra như vậy. Gộp các bộ bên trong Vuông lớn của chữ Quốc thì đó là chữ Hoặc 或, Hoặc là một âm lướt của chữ Hồng Lạc (“Hồng Lạc”= “Hoặc”). Hồng nghĩa là Rộng, Lạc nghĩa là Lắm Nác ( “Lắm Nác”= “Lạc”), Lạc cũng là chữ tắt của Lạc Việt . Vuông 口 to bên ngoài và chữ Hoặc 或 bên trong, đó là chữ Quốc 國, đọc rõ biểu ý thành nghĩa của chữ Quốc 國 là: Vùng đất Rộng của dân Lạc Việt. Chữ Hoặc 或 được dùng trong văn, mang nghĩa là “hoặc” ( “or/and” của tiếng Anh) , có nghĩa là hoặc nước Việt này, hoặc nước Việt nọ trong đám Bách Việt thì cũng đều là cùng một gen và nói cùng một ngôn ngữ Việt cả. Chữ Quốc 國 nghĩa là Của Nước, nó không đơn thuần đồng nghĩa với Nước tức Đất Nước (quốc tế gọi là Land), Đất Nước có thể là chưa có chủ hoặc đã có chủ sở hữu, còn Quốc=Của Nước là vùng đất nước đã có chủ sở hữu tức đã thành lập nhà nước. Từ “Của” trong tiếng Việt có nghĩa là “Quyền sở hữu”, “Của tôi”= “Quyền sở hữu thuộc về tôi”, chẳng phải ngẫu nhiên mà Của=Quyền, là cùng “tơi” theo QT, (trong Hán ngữ thì “của” là “tơ”, “quyền” là “xoén”, “tơ” với “xoén” không cùng “tơi” như QT của tiếng Việt). Về sau để xóa nốt dấu vết Việt trong lý giải biểu ý của chữ, người ta đổi thành chữ Quốc 国 với bên trong Vuông 口 to chỉ có một chữ Ngọc玉, lý giải ngụy biện rằng đó là biểu trưng cho “ngọc tỷ của vua”. Thời Hứa Thận viết Thuyết Văn, viết “trung Quốc 中國” phải hiểu theo ngữ pháp Việt là “trong Của Nước”, chứ thời đó chưa có nước gọi là Trung Quốc như bây giờ. [ Một chữ Trung 中 đó thôi nhưng người ta có thể đọc là Trong=Trung=Trũng=Trụng=Nhúng, tùy theo từng ngữ cảnh mà nó được dùng, đều một nghĩa là ở bên trong hay đưa vào trong. Cũng giống như một chữ Hành 行người ta có thể đọc là Hành=Hạnh=Hàng=Hãng=Hạng, tùy theo ngữ cảnh nó dùng). Bởi thời đó các tên địa danh đều theo ngữ pháp Việt hết, như Sơn Đông 山 東= Núi Đông, Sơn Tây 山 西= Núi Tây, Hà Nam 河 南 = Sông Nam, Thượng Hải 上 海 = Trên Biển (chẳng lẽ Thượng Hải thời đó phải hiểu theo ngữ pháp Hán là Biển Trên tức biển trên trời, ai làm đô thị ở biển được, chỉ có ở trên biển tức trên bờ biển mới làm đô thị được mà thôi – Mời tham khảo bài trên của Đỗ Thành). Thời lương y Lê Hữu Trác, cụ đặt bí danh là Hải Thượng Lãn Ông là theo ngữ pháp Hán, vì đó là thời nhà Thanh, văn bản viết theo Hán hóa ngữ pháp hoàn toàn rồi, theo ngữ pháp Việt thì phải viết là Ông Lãn Thượng Hải tức vẫn có thể đọc là Ông Lười Trên Biển. Mỗi âm tiết mà người Việt Nam phát âm ngày nay là một từ Việt, không có âm nào như người ta gọi là “từ Hán-Việt” cả. Cái âm Thiên Đình từ cổ xưa nó là phát âm chính xác như vậy, như Đỗ Thành đã nói ở trên, nó là từ Việt, do Trên Đỉnh=Thiên Đình (đúng theo QT, Blời=Trời=Trên=Lên=Then=Thiên=Thượng)]. Tại sao Việt lại mang nghĩa là 1, ký hiệu biểu ý là chữ Nhất trong chữ Quốc 國 như đã phân tích ở trên. Bởi vì Vô/Việt là một từ đối nguyên thủy (phải cùng “tơi” theo QT), tương đương cặp số nhị phân 0/1. ( Mà Vô là một từ Việt có gốc do Mô=0, Mô đi cặp đối với Một, Mô/Một tương đương 0/1). Việt là một từ Việt có gốc do từ Chắc cổ xưa là con số 1 trong hệ đếm thập phân của người Việt , từ Chắc đến Chục tức từ 1 đến 10 (còn Lép là con số 0, nên người ta hay “dự đoán Chắc/Lép” hoặc “mặc cả Chắc/Lép”) . Hãy xét từ Biết Chắc, đó là một từ đôi, do ghép hai từ đồng nghĩa nhau là Biết và Chắc để nhấn mạnh ý. “Chắc” tiếng Tày đang dùng nghĩa là “biết”, đó là một từ Việt cổ, một từ dùng để khẳng định, tức con số 1 (number one). Ngôn ngữ nào của loài người cũng dùng con số 1 để chỉ sự khẳng định và con số 0 để chỉ sự phủ định, mà khẳng định tức là Biết (hay Có !) và phủ định tức là Không Biết (hay Không !). Vậy từ 0 tiến lên có 1 tức là có tư duy, tức là Biết, và sự tiến bộ bắt đầu từ con số 1. Chắc=Bắc=Biết=Việt=Vượt (theo QT “tơi” và QT “rỡi”). Bắc mạ là đã biết cách, biết phương tiện, quải hạt thóc mầm xuống bùn cho nó Chắc ở đó như một sự khẳng định sự bắt đầu phát dục của cây lúa. Bắc là đã biết phương tiện để vượt, nên tiếng Nam “chỗ biết để mà vượt sông” gọi là “Bắc”, dù phương tiện dùng là đò hay phà hay cầu (ngày nay cầu bắc Mỹ Thuận đã thay cho phà bắc Mỹ Thuận trước đây). Để có thêm tri thức thì “Bắc thang lên mà hỏi ông trời”. Chắc=Bắc=Biết=Việt, nên chữ Việt dù có viết bằng ký tự gì như 粵,hay 越,hay Việt, thì cái âm đọc của nó 5000 năm nay vẫn thế, là “việt”, có nghĩa là con số 1 (nó ngược với con số Vô là 0, từ đối Vô/Việt như là cặp số đối 0/1 của toán học nhị phân), con số 1 tức Số Dách= Số Nhất, như tiếng Sài Gòn, là “ Number One”. Cho nên biểu thị sự thán phục, khen ngợi, chỉ cần giơ hai ngón tay hình chữ V và phát âm một tiếng “Việt !” là trọn mọi ý nghĩa, để chào nhau, hứa hẹn nhau, cũng được, mà không cần phải bắt chước phương Tây giơ một ngón cái và nói “Number One !”. Do số 1= Chắc, là sự khẳng định, nên nó đã sinh ra các từ để khẳng định mà ta thấy rõ: Chắc=Chắt=Chứ=Chi之=Đi=Đó=Có=Cứ=Cơ=Đỡ=Đã=Được= =Đấy=Đắc 得 =Đích 的 (Hán ngữ hiện đại dùng chữ Chi 之 phát âm là “trư”, dùng chữ Cơ 的 của tiếng Quảng Đông, lại phát âm là “tơ” để biểu thị khẳng định. Nhật ngữ dùng chữ Đấy phát âm là “Đês”, và cũng đặt ở cuối câu để chỉ sự khẳng định)
    1 like
  5. Xin phép bác HGL trao đổi ít thông tin với bạn.Đây là nhà ở à bạn! hơi đặc biệt đấy. Bạn có sơ đồ toàn bộ khu đất và đường vào nhà không? Vẽ thêm chi tiết hiện tại xem. Đo hướng, tuổi những người sống trong nhà. vị trí hầm cầu..vv..vv
    1 like
  6. Chúc mừng Sư phụ, chúc mừng Trung tâm và chúc mừng Hoàng Anh đã thành công buổi tọa đàm Làm lên thành công và để anh chị em, bà con khắp nơi được cùng xem và nghe được buổi tọa đàm này, đó chính là Hậu trường (khâu chuẩn bị: Trà việt, bộ phận phó nháy, quay phim....) Cám ơn các anh/chị đã vất vả và chia sẻ. Sư huynh đẹp giai, ngồi thiền à??
    1 like
  7. Suy ngẫm thời xôi thịt “Thời xôi thịt” gần như đã trở thành một khái niệm trong tiếng Việt, để chỉ cái thời người ta ham chụp giựt để “ăn” được chứ không nghĩ sâu xa về yếu tố văn hóa trong hành vi, mặc dù quảng cáo thì lại rầm rộ về “văn hóa ẩm thực”. Đạo Phật dạy rằng khi ăn phải từ từ, nhai kỹ miếng ăn cả trăm lần cho nhuyễn thành nước rồi mới nuốt, im lặng ngẫm nghĩ món ăn đó từ đâu mà ra, ơn ai làm ra. Đó thật ra cũng là một cách ẩm thực có văn hóa, bởi vậy mà cơ thể hấp thụ tốt, dù đó có thể là ăn chay chỉ gồm “ngọc thực”(cơm gạo) và rau. Các món ăn của Việt Nam quả thực cực kỳ phong phú nội dung văn hóa, bởi mỗi món đều cố gắng “gói ghém” vào trong nó toàn bộ đạo lý Âm Dương Ngũ Hành của người Việt, lành, và đủ dinh dưỡng. Điển hình nhất là cái bánh chưng, như THIÊN SỨ đã phân tích trong “Bánh Chưng Bánh Dầy”, nó là sự tổng hòa tinh khí của đất trời vào trong dinh dưỡng của một cái bánh lá, là một món ăn chậm (chứ không phải “fast foot”) lại dễ mang đi đường mà không có vỏ thải gây ô nhiễm môi trường như bao nilon hay vỏ chai pet. Các loại bánh lá “nhà quê” đều có sự “gói ghém” nội dung văn hóa như vậy cả, như ngày xưa người Việt “gói ghém” mỗi thông điệp vào từng Vuông Chữ gọi là Văn Tự (mà nếu không tháo rời ra để suy luận từng bộ phận của con chữ vuông đó thì không biết nó chính là của Việt, lại ngộ nhận là Hán Tự - Mời tham khảo lý giải của Đỗ Thành blog Nhạn Nam Phi). Ngày nay vẫn sử dụng các loại bánh lá đó trong du lịch ẩm thực, tiếc rằng chưa thấy loại bánh lá nào mới được sáng tạo ra. Tôi thấy món ẩm thực “Trà sữa trân châu” của Đài Loan là một sáng tạo dựa trên đạo lý của cái bánh chưng, và nó có cái mở như cửa mở của hình bộ thủ Cung, đó là ở chỗ hạt trân châu, tùy theo sáng tạo của người đầu bếp. Có hàng trăm loại hạt trân châu, tùy theo các thứ nguyên liệu (tinh khí của đất trời) mà người đầu bếp chọn để vo viên chúng lại thành viên trân châu nhỏ xíu bỏ vô ly trà sữa, đem lại những ly trà với vị và ngon khác nhau. Cái Viên (trân châu) ấy cũng như là cái Vuông (bánh chưng) đều cùng một gốc Vo mà Nở tách đôi ra thành Vuông và Viên mà thôi, đều là “nén” nội dung, “gói ghém” mọi cái tốt đẹp vào trong nó thành một sự gắn kết như tình nghĩa vợ chồng. Nên tôi mới thầm tặng cho những đôi tình nhân lãng mạn uống trà sữa trân châu câu: Đài các thanh cao trà hương nồng hậu Loan phụng duyên tình bách tuế trân châu 臺閣清高茶香濃厚 鸞鳳緣情百歲珍珠 (Trà thơm lịch sự thanh cao. Thắm duyên chồng vợ khác nào trân châu). Bởi người sáng tạo ra món ẩm thực đó đã biết vận dụng cội nguồn văn hóa Việt: Sơn hải phú nguồn mẫn dung chi thắng Huy hoàng nhân hiệt thanh vị tắc linh 山海富源敏容之勝 輝煌仁黠清味則靈 (Non sông nguyên liệu dồi dào. Nhậy nhanh, rộng lượng, nơi nào cũng sang. Nhân từ, trí tuệ là vàng. Vị ngon thanh khiết thế gian vui lòng) [Chú thích: Gọi là “ly” bởi biết chắc nó làm bằng thủy tinh, để còn thấy rõ những viên trân châu trong ly trà, ly=lê, là làm bằng pha lê, không như từ điển giải thích “ly” là “cốc” tiếng miền Nam, ly đâu có đồng nghĩa hoàn toàn với cốc, cốc thì có thể làm bằng thủy tinh, nhôm, sành, sứ, thậm chí bằng cái ống nứa còn mắt, nó là một từ chung, do không hiểu từ “ly” nên để nói “ly” người Bắc phải nói “cốc thủy tinh”, quá rắc rối vì đó không phải là một từ mà là một cụm từ. Cũng như từ “quốc” làm sao lại giải thích như từ điển tiếng Việt là quốc=nước được. Nước là Land như Scotland, Thailand. Còn “quốc” là “của nước” (do QT lướt, của nước=quốc, của nác=quấc, như cụ Hồ ký tên là Nguyễn Ái Quấc). “Lắm Nác” Việt= “Lạc” Việt= “Trăm Nước” Việt= “Bách” Việt. Của nước=Quốc là chỉ cái chính phủ, đại diện cho Nước, Hán ngữ có từ Quốc Gia nghĩa là cái “nhà của nước” tức cái Phủ, chính phủ là cái nhà cơ quan đại diện cho Nước. Còn từ Tổ Quốc lại chính là một từ Việt hoàn toàn theo ngữ pháp Việt, Tổ Quốc là Tổ Của Nước, vì Của Nước=Quốc. Về sau bị Hán hóa ngữ pháp thì người ta mới gọi cái ông Tổ của Nước ấy là Quốc Tổ. Thời Hứa Thận viết Thuyết Văn, viết “trung Quốc 中國” phải hiểu theo ngữ pháp Việt là “trong Của Nước”, chứ thời đó chưa có nước gọi là Trung Quốc như bây giờ. (Một chữ Trung 中 đó thôi nhưng người ta có thể đọc là Trong=Trung=Trũng=Trụng=Nhúng, tùy theo từng ngữ cảnh mà nó được dùng, đều một nghĩa là ở bên trong hay đưa vào trong. Cũng giống như một chữ Hành 行 người ta có thể đọc là Hành=Hạnh=Hàng=Hãng=Hạng, tùy theo ngữ cảnh nó dùng). Bởi thời đó các tên địa danh đều theo ngữ pháp Việt hết, như Sơn Đông 山 東= Núi Đông, Sơn Tây 山 西= Núi Tây, Hà Nam 河 南 = Sông Nam, Thượng Hải上 海 = Trên Biển (chẳng lẽ Thượng Hải thời đó phải hiểu theo ngữ pháp Hán là Biển Trên tức biển trên trời, ai làm đô thị ở biển được, chỉ có ở trên biển tức trên bờ biển mới làm đô thị được mà thôi – Mời tham khảo của Đỗ Thành). Thời lương y Lê Hữu Trác, cụ đặt bí danh là Hải Thượng Lãn Ông là theo ngữ pháp Hán, vì đó là thời nhà Thanh, văn bản viết theo Hán hóa ngữ pháp hoàn toàn rồi, theo ngữ pháp Việt thì phải viết là Ông Lãn Thượng Hải tức vẫn có thể đọc là Ông Lười Trên Biển. Nói “Các Nước họp nhau tại hội nghị quốc tế” liệu có chính xác không? Hay phải nói là “Các Quốc Gia họp nhau tại hội nghị quốc tế”. tức các “nhà của Nước”, là các chính phủ đại diện cho Nước mới đi họp nhau được, chứ Nước thì làm sao mà đi họp được. Một thời do kỳ thị từ “quốc gia” nên người ta đổi “ngân hàng quốc gia Việt Nam” (có in trên tờ giấy bạc Cụ Hồ năm 1946) thành “ngân hàng nhà nước Việt Nam”, bây giờ viện ngôn ngữ lại đặt cho tên “đại học quốc gia Hà Nội” mà không dám đổi lại là “đại học nhà nước Hà Nội”. Ở câu đầu của phần giải thích này có từ ghép Biết Chắc, đó là một từ đôi, do ghép hai từ đồng nghĩa nhau là Biết và Chắc để nhấn mạnh ý. “Chắc” tiếng Tày đang dùng nghĩa là “biết”, đó là một từ Việt cổ, một từ dùng để khẳng định, tức con số 1 (number one), ngôn ngữ nào cũng dùng con số 1 để chỉ sự khẳng định và con số 0 để chỉ sự phủ định, mà khẳng định tức là Biết (hay Có !) và phủ định tức là Không Biết (hay Không !). Hệ đếm thập phân của tiếng Việt là từ Chắc đến Chín rồi Chục tức từ 1 đến 9 rồi 10 (nấu đến chín, tức nóng tới 90 độ là ăn được rồi, nên mới có cồn 90 độ để nướng khô mực, và Luộc Chín = Luật Chính, theo tư duy đi từ cụ thể đến trừu tượng hóa, quá trình luộc nhau gay go trong hội nghị để cho đến thật chín rồi mới thành luật chính được chứ không phải đơn giản mà có ngay được luật chính. Luộc=Luận (là các tham luận) cũng là từ cụ thể đến trừu tượng hóa mà thôi. Vậy từ 0 tiến lên có 1 tức là có tư duy, tức là Biết, và sự tiến bộ bắt đầu từ con số 1. Chắc=Bắc=Biết=Việt=Vượt. Bắc mạ là đã biết cách, biết phương tiện, quải hạt thóc mầm xuống bùn cho nó Chắc ở đó như một sự khẳng định sự bắt đầu phát dục của cây lúa. Bắc là đã biết phương tiện để vượt, nên tiếng Nam chỗ biết để mà vượt sông gọi là “Bắc”, dù phương tiện là đò hay phà hay cầu (ngày nay cầu bắc Mỹ Thuận đã thay cho phà bắc Mỹ Thuận trước đây). Để có thêm tri thức thì “Bắc thang lên mà hỏi ông trời”. Chắc=Bắc=Biết=Việt, nên chữ Việt dù có viết bằng ký tự gì như 粵,hay 越,hay Việt, thì cái âm đọc của nó 5000 năm nay vẫn thế, là “việt”, có nghĩa là con số 1 (nó ngược với con số Vô là 0, từ đối Vô/Việt như là cặp số đối 0/1 của toán học nhị phân), con số 1 tức Số Dách= Số Nhất như tiếng Sài Gòn, là “ Number One”. Cho nên biểu thị sự thán phục, khen ngợi, chỉ cần giơ hai ngón tay hình chữ V và phát âm một tiếng “Việt !” là trọn mọi ý nghĩa, để chào nhau, hứa hẹn nhau, cũng được, mà không cần phải bắt chước phương Tây giơ một ngón cái và nói “Number One !”. Do số 1= Chắc, là sự khẳng định, nên nó đã sinh ra các từ để khẳng định mà ta thấy rõ: Chắc=Chắt=Chứ=Chi之=Đi=Đó=Có=Cứ=Cơ=Đỡ=Đã=Được= =Đấy=Đắc 得 =Đích 的 (Hán ngữ hiện đại dùng chữ Chi 之 phát âm là “trư”, dùng chữ Cơ 的 của tiếng Quảng Đông, lại phát âm là “tơ” để biểu thị khẳng định. Nhật ngữ dùng chữ Đấy phát âm là “Đês”, và cũng đặt ở cuối câu để chỉ sự khẳng định)]
    1 like
  8. Chỉ thấy tháng 8 có điều tiếng , và thấy trong năm có thay đổi công việc , phải chăng dính đến đàn bà phải không ?
    1 like
  9. Thành Viên thân thiện mà dùng từ trên cho Thần Chú Giải Thoát e rằng không mang lợi lạc !!!!! Xem câu trả lời của Thiên Luân! Riêng Cô tin và kiểm chứng được hiệu ứng qua nhiều trường hợp.
    1 like
  10. Chúc Mừng Sinh Nhật Túy Lão Chúc Túy Lão Niên Niên Vạn Túy Vô một cái Túy Lão ơi. Đông Thiền
    1 like
  11. Các A/C khi nhờ Tư vấn, ngoài thông tin cần thiết (theo như NOTE của anh phamthaihoa) xin chú ý một vài điểm sau: KHÔNG đăng nhiều bài viết có cùng nội dung tại nhiều thời điểm (hoặc cùng thời điểm) trên diễn đàn. KHÔNG dùng hình thức "SPAM" để đầy bài viết của mình lên đầu. (Dùng các câu quá ngắn, không mang nghĩa truyền tải thông tin) Lá số Tử vi của các bạn phải lấy từ Trình Tử Vi Lạc Việt ở Trang chủ của trang www.lyhocdongphuong.org.vn Các Thầy xem Tử Vi trong diễn đàn cũng khá lớn tuổi nên mong các bạn sử dụng ngôn ngữ giao tiếp cho phù hợp. Bài viết bắt buộc phải sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt, có dấu. Một vài chú ý nhỏ, mong các A/C lưu ý.
    1 like