-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 20/11/2011 in all areas
-
Ngơ ngẩn Lý học Tàu - Thần sầu Minh triết Việt Ngẩn ngơ, vơ vẩn Lý học Tàu. Hàng ngàn năm trôi qua, nền văn minh Đông phương đã lưu truyền những bản văn chữ Hán nói về thuyết Âm Dương Ngũ hành, một cách mơ hồ và bí ẩn. Cho đến ngày nay, khi xu thế hội nhập toàn cầu đã hội nhập hầu hết những nền văn minh nhân loại thì có thể nói rằng cả thế giới này đã mặc định thuyết Âm Dương Ngũ hành - cốt lõi của nền Lý học Đông phương - thuộc về nền văn hóa Hán. Mặc dù cho đến ngày nay, học thuyết này vẫn chỉ để lại những dấu ấn mơ hồ và sừng sững thách đố trí tuệ của nhân loại. Và có lẽ mọi người cũng quá quen thuộc với một biểu tượng của học thuyết này với đồ hình dưới đây: Những người tìm hiểu ứng dụng và nghiên cứu Lý học Đông phương cũng nghiễm nhiên thừa nhận tính hợp lý của đồ hình này, như một biểu tương cô đọng nhất cho tính minh triết cho thuyết Âm Dương ngũ hành với những lý luận của các nhà Hán Nho. Cũng đã trải hàng ngàn năm qua – kể từ đời Hán – các nhà lý học phương Đông thuộc văn hóa Hán đã có rất nhiều cố gắng lý giải ý nghĩa của câu “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái”. Có người cho rằng: Thái cực là Thái nhất, là thái Hư. Có người cho rằng: Thái cực có nguồn gốc từ Vô cực, Thái cực động sinh Dương, Dương tịnh sinh Âm, Âm Dương sinh ra Ngũ hành (Chu Hy – Dịch học khởi mông). Có người cho rằng: Tứ tượng tức là Thái Âm, Thái Dương, thiếu Âm, thiếu Dương… Nhưng tất cả các cách giải thích của họ đều mơ hồ và mâu thuẫn. Khiến cho đến nay nền văn hóa cổ Đông phương vẫn là một sự huyền bí, khó hiểu ngay từ nguyên lý khởi nguyên của nó (*). Bây giờ, chúng ta xem xét câu trong Hệ từ được các nhà Lý học Trung Hoa phát biểu như sau: “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái” Câu này người viết chia làm hai vế là: “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng" và "Bát quái". Ở vế đầu chúng ta thấy rằng: Thái cực là một khái niệm miêu tả trạng thái khởi nguyên của vũ trụ; sinh "Lưỡng nghi" cũng là khái niệm miêu tả sự phát triển giai đoạn tiếp theo của vũ trụ sau Thái cực. Tương tự như vậy, khái niệm Tứ tượng cũng là sự miêu tả trạng thái tiếp theo của vũ trụ sau "Lưỡng Nghi". Nhưng đến về thứ hai thì khái niệm "Bát quái " lại là khái niệm miêu tả những ký hiệu quy ước trong Dịch học. Như vậy đây là một câu không thống nhất về tính đồng đẳng trong nội dung của chuỗi khái niệm miêu tả sự khởi nguyên của vũ trụ trong Lý học Trung Hoa. Nói nôm na và hình ảnh thì nó tương tự với một nội dung như sau: "Ông bà sinh ra cha mẹ; Cha mẹ sinh ra con cái; con cái đẻ ra con vịt". Vậy mà bao kẻ vỗ tay ầm ầm khen hay. Mặt đờ đẫn, cứ làm như hiểu được sự huyền vi của vũ trụ Hay thật! Thâm sâu, thần sầu minh triết Việt. Cái câu "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng" của Lý học Việt có câu kết không giống Tàu. Nhưng nền văn minh Việt ghi nó ở đâu để Lão Sư Thiến gàn này dám phát biểu như vậy? Nó ghi trong "Truyện cười dân gian Việt" do Nxb Nguyễn Du in năm 1956 (Hoặc 1958). Câu chuyện kể lại thế này: Có một thày đồ dạy chữ trong làng. Một hôm thày được gia đình học trò cho một đĩa bánh rán tẩm mật. Ăn hết bánh, thấy mật còn nhiều trên đĩa thầy thấy thèm. Nhưng trước mặt học trò không lẽ cứ liếm mật thì còn gì là thể thống người thày nữa. Thày bèn nghĩ ra một mẹo. Thày nói: - Này các con. Sau này các con lớn lên thành lương đống của triều đình, sẽ phải qua thi cử ngặt nghèo. Những sĩ tử đi thi qua nhiều bài khó và những câu hỏi mẹo khắt khe để thử trí thông minh. Nay thầy tập cho các con và thử trí thông minh của các con để các con sau này quen với nhưng câu hỏi khó. Đám học trò chú ý nhìn thày. Thày lè lưỡi liếm vòng quanh đĩa mật và giơ lên hỏi: - Cái gì đây? Đám học trò ngơ ngác. - Hic! Thế mà cũng không biết! Đây chính là ngôi Thái Cực. Nói xong thầy lại lè lưỡi liếm ngang chiếc đĩa và giơ lên: - Cái gì đây? Đám học trò ngơ ngác. - Thái cực sinh lưỡng nghi. Thày dõng dạc bảo. Xong thày lại lè lưỡi liếm dọc chiếc đĩa. - Cái gì đây? Biết học trò mình có thể có thằng biết, nên thày nói ngay: - Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Thày gằn giọng nói tiếp: - Còn đây là "Tứ tượng biến hóa vô cùng". Nói xong thày lè lưỡi liếm sạch cái đĩa. * Như vậy, so sánh với cậu trên trong Hệ từ của Chu Dịch thì chúng khắc hẳn về tính miêu tả nội dung: - Việt: Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng.Tứ tượng biến hóa vô cùng. - Tàu: Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng sinh Bát quái. Thưa quí vị! Đấy là cách hiểu của tôi về nội dung câu chuyện cười dân gian Việt, miêu tả hoàn toàn khác với sách hàn lâm về Dịch của các trí giả mũ cao áo rộng, cân đai nghiêm chỉnh của bao thế hệ Nho học Tàu, qua các triều đại Hán Đường Tống Nguyên..... Tất nhiên trong đó không thiếu những học giả sừng sỏ làm nên những thứ triết lý kiểu "Mồm bò, chẳng phải mồm bò. Nhưng lại là mồm bò". Hàng ngàn năm đô hộ Bắc phương, nền văn hiến Việt tộc phải chìm đắm và ngụy trang để tồn tại. Đến khi nước Việt hưng quốc, những giá trị văn hiến Việt bị Hán hóa trong hàng ngàn năm đó trở ngược lại trong văn hiến Việt và nghiễm nhiên bị ngộ nhận có nguồn gốc Tàu. Nhưng những giá trị minh triết Việt vẫn lưu truyền rải rác trong dân gian cho các thế hệ mai sau tìm về nguồn cội và phục hồi lại chính gốc của một lý thuyết cổ xưa đầy huyền bí. Mà những giá trị của nó thì những tri thức của nền khoa học hiện đại chưa đủ để thẩm thấu. Bởi vì nó chính là Lý thuyết thống nhất vũ trụ - "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại". ============================= * Chú thích: Xin xem “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại7 likes
-
Em xin phép các bạn đang chờ được trả lời và xin phép admin cho em spam diễn đàn một chút ạ!! :D Nhân ngày nhà giáo Việt Nam, cháu xin gửi lời chúc đến các bác các anh chị đã dành thời gian, nhiệt tình tư vấn giúp mọi người. Cháu đặc biệt gửi riêng lời chúc đến bác Haithienha nhân ngày nhà giáo. Bác ơi, một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy. Bác không dạy những kiến thức giáo khoa...nhưng từ Bác cháu học về cuộc đời. Riêng với cháu, cháu đã tìm được cho mình lối đi, lý tưởng và cách sống cho riêng mình, và cuộc sống dường như thay đổi và tốt đẹp hơn rất nhiều từ khi có duyên được đọc những lời khuyên , những kinh nghiệm sống mà Bác chia sẻ qua lời tư vấn cho mỗi lá số...Cháu tin Bác đã làm thay đổi tư tưởng sống của không chỉ riêng một mình cháu. Cảm ơn Bác, một người Thầy trong lòng cháu. Cháu gửi đến Bác lòng kính trọng và a bunch of e-flower nhân ngày nhà giáo Việt Nam. Mong Bác có một ngày 20.11 vui vẻ và mong Bác cảm nhận được tấm lòng của mọi người dành cho bác qua diễn đàn vì cháu biết có rất rất nhiều lòng kính trọng dành cho Bác như một người Thầy. ( PS: thầy thật ko phải thầy bói xem voi đâu nhé Bác) :D Cháu Thương,7 likes
-
3 likes
-
Cho chị chúc ké với nhé, cảm ơn em :wub: Thank You so much for being More Than A Teacher, A Close Friend, A Guide and An Inspiration during the time I knew You, You made me find the way to go and the way to survive. Sorri my Dear, I have only an Apple :wub: :wub: :wub:3 likes
-
2 likes
-
Cảm ơn cat88 đã nói lên tất cả cảm xúc cũng như lòng tôn kính mà rất nhiều người dành cho bác Haithienha. Cháu kính chúc bác luôn mạnh khỏe để bọn cháu có thể học được từ bác những bài học đường đời qua các lá số. Cho em được gưi lời chúc tới chị Ntpt, anh Quốc Tuấn, chị TM, bác Túy Lão, bác Học Trò...sẽ luôn mạnh khỏe và nhiệt huyết với diễn đàn như từ trước đến nay.2 likes
-
Hihi, ntpt vẫn hay thường vào đọc thơ của chị, rất hay, rất thấm tình đượm ý, tuy hông lên tiếng lóc chóc như xưa, nhưng vẫn cứ hay ngóng thơ hay của chị :wub:. Hẹn chị sau này bên quán thơ của chị nhé hi vọng vẫn còn cục gạch hôm nào :wub: Giờ thì trả đất lại cho chủ nhân. Hihi Tặng chị Dạ rối như tơ, dạ rối vò Chẳng lòng tơ tưởng đến thơ ca Mượn chén quỳnh tương tìm tri kỷ Muốn mượn thơ sầu trút ý say Say trời say đất say quên ý Lắp chữ thành thơ cũng chẳng liền Ngày sau nếu có duyên tao ngộ Hẹn người giữ gạch ngóng thơ hay :wub: :wub: :wub:1 like
-
ntpt, Lâu ghê hôm nay HC đọc được mấy câu hay quá, nên vô kéo gạnh lại gom vần chung vui với ntpt nghe Nhắp chén quỳnh tương điệu bát âm Nhạc trăm dòng réo mãi trong tâm Chia nhau nữa mãnh trời thương nhớ Nữa chén quỳnh tương lệ khóc thầm Thương nhớ người đi trong tuyết giá Cho lòng ta lạnh đến trăm năm Đông nay trở lại thèm Chung rượu Rượu của ngày xưa dưới nguyệt cầm HC 20/11/111 like
-
Kiến trúc bí ẩn của khám Chí Hòa Xuất bản: Thứ sáu, 18/11/2011, 15:05 [GMT+7] Theo Cảnh sát Toàn cầu Có một truyền thuyết khá ly kỳ về khám Chí Hoà được truyền miệng ra ngoài là hầu như năm nào trong khuôn viên của trại đều bị sét đánh và sau khi trại bị sét đánh thì bao giờ cũng có 1 hay nhiều hơn một cán bộ chết vì rất nhiều lý do. Đặc biệt có năm sửa nhà thờ nằm trong khuôn viên trại thì chỉ trong vài tháng, 5-6 cán bộ đang công tác trong trại đã bị chết vì những lý do hết sức bất ngờ… Mô hình trại giam. Tôi cho rằng đó chỉ là truyền thuyết trong muôn ngàn những truyền thuyết được tôi đã được nghe. Nhưng khi tiếp xúc với các cán bộ công tác trong trại thì mọi người cũng đều xác nhận, chuyện khám Chí Hoà hay bị sét đánh hay chuyện cán bộ chết bí ẩn là có thật.Tôi tìm gặp Thượng tá Nguyễn Văn Cao - người có 16 năm làm việc trong trại để tìm hiểu bí mật này. Bát trận đồ trong lòng thành phố Nơi bị sét đánh nhiều nhất lại là toà nhà quan trọng nhất, toà nhà hình bát giác nơi giam giữ hàng ngàn phạm nhân. Toàn bộ khu nhà giam này rộng bảy hécta. Đường hầm trong trại giam Trại giam Chí Hòa (tên thường gọi là khám Chí Hòa) được Pháp xây từ năm 1943, Kiến trúc của Chí Hoà rất đặc biệt, do một kiến trúc sư người Nhật thiết kế và xây dựng theo ngũ hành bát quái. Nó cao ba tầng lầu có hình bát giác với 8 cạnh đều, 8 góc A, B, C, D, E, F, G, H. Tượng trưng cho 8 quẻ trong Kinh dịch (cũng có người thì cho là kiến trúc này dự trên Bát trận đồ của Khổng Minh). Do vậy nó có lối kiến trúc độc đáo: vừa mang những đặc trưng cơ bản của kiến trúc Pháp: kiên cố, kín đáo, mát mẻ vừa mang nét huyền bí: âm - dương, ngũ hành của phương Đông. Mỗi cạnh của bát quái trận đồ là một khu, lưng xây bịt kín ở phía ngoài còn phía trong toàn song sắt. Chí Hoà chỉ có 1 cửa vào người ta nói đó là cửa Tử, qua cửa đó là hệ thống đường hầm, đường đi bên trong đều thiết kế theo cung vị nếu không có người hướng dẫn thì một người đi vào đó sẽ mất hết phương hướng giống như lọt vào một mê cung đồ không thấy đường ra. Chính giữa hình bát quái đồ là một sân rộng cũng hình bát giác chia thành 8 khu hình tam giác nhỏ, với rất nhiều cây cối, bãi cỏ sạch sẽ và thoáng mát. Ngay tâm của hình bát quái có một đài bơm nước, với một đoạn là bể nước phình to nhìn từ trên cao có hình một cây kiếm cắm thẳng xuống đất, nghe đâu thanh kiếm này có tên là "Tru Tiên Kiếm". Đây là thanh kiếm trấn, những tên tội phạm dù có xảo quyệt đến đâu thì khi ở đây mọi thủ đoạn của chúng cũng bị thanh kiếm "linh" này hoá giải hết. Thanh kiếm này chính là "trái tim" của của toà nhà, nếu thanh kiếm này bị nhổ lên thì toàn bộ "trận đồ" không cần phá mà sẽ tự vỡ. Chính lối kiến trúc "bát trận đồ" kỳ diệu đó mà hầu hết các phạm nhân bị kết án nặng khi đã bước qua cửa Tử thì có thể coi như là không có đường ra, và không thể nhận biết được đường ra chờ khi hết án tù, hoặc được phóng thích. Lịch sử khám Chí Hòa cho đến ngày hôm nay chỉ ghi nhận có hai trường hợp vượt trại thành công. Lần thứ nhất là vào năm 1945, của những người tù cách mạng và lần thứ hai, sau đó 50 năm của một tử tội hình sự khét tiếng là Phước "Tám Ngón". Có cả triệu người đã bị nhốt vào đây mà hầu như không thấy có người nào thoát ra được cả. Theo nhiều nhà nghiên cứu tâm linh thì những người chết linh hồn vẫn bị "bát quái" giam giữ không thể siêu thoát cứ lởn vởn bên trong nên ở đây âm khí rất nặng nề (quả thực khi tôi đứng đây cảm giác rờn rợn, u uất lạnh toát cả cột sống). Người ta đồn rằng oán khí bay lên thấu trời cao, do thế ông Trời thường xuyên làm sấm sét đánh bể một góc để khai một cửa Sanh, cho oán khí được thoát ra, người chết được siêu thoát. Tất nhiên, tất cả những đồn đại này chỉ là truyền nhau, không ai dám chắc điều đó là sự thật. Chẳng biết truyền thuyết và đồn đại này thật giả bao nhiêu phần trăm, nhưng chính Tổng thống Ngô Đình Diệm ông cũng tin chuyện này là có thật. Ông cho mời một thầy địa lý rất cao tay nhằm hoá giải một phần "trận đồ" này. Và sau đó một trong 8 nóc nhà của hình bát giác đã được san bằng, phá vỡ tính hoàn hảo của "bát quái", thuận theo ý Trời mở 1 cửa Sanh cho các linh hồn được bay đi. Nhà thờ hình chúa Giêsu trên cây thập giá Cũng theo lời Thượng tá Cao kể, thì trong khuôn viên trại còn có một nhà thờ (ngày nay được sử dụng làm Hội trường của trại), thực dân Pháp cho xây dựng nhà thờ này để "rửa tội" cho những người cộng sản mà chúng sẽ xử tử. Nếu theo quan niệm của phương Tây thì khi sống con người ta dù phạm rất nhiều tội lỗi, nhưng trước khi chết nếu người đó được rửa tội thì mọi tội lỗi sẽ được tha thứ và linh hồn người đó sẽ được lên thiên đàng. Nhưng nhà thờ này có kiến trúc khác đặc biệt và quanh nó cũng rất nhiều chuyện ly kỳ được truyền miệng cho đến nay. Về kiến trúc nhà thờ được xây hình Giêsu trên cây thập giá: cửa vào chính là chân, hai nhà nguyện là hai cánh tay bị đóng đinh đang dang rộng, bàn thờ nơi Cung Thánh chính là phần đầu của Chúa. Người ta đồn rằng đây là nơi rửa tội cho những chiến sỹ cộng sản trước khi bị thực dân Pháp bắn nên rất "linh thiêng". Chiến tranh đã đi qua rất lâu nhưng nhà thờ vẫn nằm sừng sững trong khuôn viên trại, vì không ai dám dỡ bỏ nó. Chí Hòa nhìn từ vệ tinh. Thế nhưng có một biến cố xảy ra vào những năm 90 của thế kỷ trước, vị phó giám đốc mới được cử về công tác trong trại - một người không tin vào những lời đồn thổi "nhảm nhí", đã cho sửa nhà thờ thành hội trường nơi diễn ra hội họp, hội nghị của trại. Nơi được người ta sửa chữa đầu tiên là cửa vào (vị trí chân Chúa). Người ta phá đi cửa cũ, mở một cái cửa đại hội vào hội trường. Nhưng việc sửa chữa chỉ mới được bắt đầu thì một sự cố lớn đã xảy ra, chỉ trong một thời gian ngắn liên tiếp 5-6 cán bộ công tác trong trại bị thiệt mạng vì những lý do bất ngờ: tai nạn, súng cướp cò, đột tử… Tất nhiên, rất có thể những tai nạn này xảy ra là ngẫu nhiên, trùng hợp với thời gian sửa chữa nhà thờ. Song lúc đó sự hoang mang bao trùm toàn trại, vị tân phó giám đốc thật sự dao động và cuối cùng ông quyết định sửa lại ngôi nhà như thiết kế ban đầu, thuê thầy về cúng giải hạn. Và điều kỳ diệu đã xảy ra, dường như "báo ứng" đã được hoá giải, những vụ chết bất đắc kỳ tử đã dừng lại hầu như ngay lập tức. Cán bộ toàn trại thở phào. Nếu bạn nghĩ chuyện âm khí, oán khí chỉ là sản phầm tưởng tượng cũng những người có đầu óc mê tín dị đoan lý giải chuyện sét đánh, chuyện những cái chết bất thường. Tuy nhiên, sau những sự cố trên, một nhóm những nhà khoa học và nhà nghiên cứu đã âm thầm nghiên cứu và lý giải mọi chuyện dưới góc độ khoa học. Một số nhà khoa học cho rằng bên dưới của toà nhà có một mỏ quặng đó mới chính là nguyên nhân tại sao "ông Trời" hay "nhắm" vào toà nhà đó và những cái chết chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tru Tiên Kiếm chụp cận cảnh. Riêng tôi khi bước qua cửa Tử vào một mê cung đồ mà ở đó mất hết mọi khái niệm phương hướng - không gian, ngày đêm - thời gian, khi nhìn trên mô hình hình bát giác "hoàn hảo" bị khuyết với khu GF mái ngói bị san bằng, bước chân vào nhà thờ nơi chúa đang chịu đau đớn vì nhục hình tôi tin nơi đây còn nhiều điều bí ẩn chưa lời giải. Ngày nay khoa học đã rất phát triển nhưng tự nhiên, vũ trụ vẫn còn đầy rẫy những bí ẩn mà chúng ta chưa thể lý giải đang chờ chúng ta khám phá. Bài viết này chỉ là nhát cắt phản ánh sự bí ẩn của kiến trúc cổ, với mong muốn đưa đến cho độc giả một vài giả thuyết mới Tác giả: Kim Ngân nguồn: http://landtoday.net/vn1 like
-
@ Zenova mến, Những câu chuyện về cảm giác và sự kiện mà bạn đã kể ra tôi không biết là thật hay không, nhưng nếu Zenova có ở trong tình trạng tinh thần đó thì cũng không có gì đáng phải buồn phiền lo lắng mà nên ngay bây giờ bạn cần đến tác bạch với một vị sư phụ nào đó trong môn phái Thiếu Lâm Hải Nam để các vị này có những lời khuyên hữu ích. Thân mến1 like
-
* "Thiên cơ bất khả lậu" nên chú không tranh luận. Nhưng chú tin rằng sẽ không có chiến tranh ở biển Đông Việt Nam. Lời khuyên của tôi là các bên hãy kiềm chế và tìm một giải pháp hòa bình. * Cái này Lý học Việt nói lâu rồi! Không chỉ có hạt netrino mà còn nhiều thứ nhanh hơn ánh sáng, mà khoa học trong tương lai sẽ xác định được. Tốc độ giới hạn của vũ trụ là tuyệt đối. Điều này không thể dùng bất cứ một phương tiện khoa học nào trên thế giới bây giờ và vĩnh viễn trong tương lai xác định được. Bởi vì không thể có một cái tuyệt đối này xác định cho một trạng thái tuyệt đối khác. Nó chỉ có thể xác định bởi sự suy nghiệm lý thuyết.1 like
-
Năm sau thu nhập tốt, có thể chuyển việc hay đầu tư. Tổng kết cuối năm có lời nhiều, có thể ra ở riêng trong năm tới khoảng tháng 6 hay 8 âm lịch.1 like
-
Chén quỳnh chưa nhấp đã buồn rơi Thiếu bạn tri âm dẫu đã mời Người xa vạn lý chùn chân bước Nơi này ta ngóng mộng đầy vơi Người chốn chân trời ta gốc bể Cạn chén quỳnh tương nhấp với đời :P :P :P1 like
-
Lá số của chị tôi xem rồi. Làm đường link giùm "chị" luôn rồi. Nhưng mà đang bận, bữa sau rảnh gửi bài sau -,.-"1 like
-
Trong thuyết nhà Phật thì có chữ nhân duyên, thuyết của Lý Học Đông Phương thì mọi sự đều tương tác lẫn nhau và không có gì ngẫu nhiên trên vũ trụ này, nghiệp của ta cũng thế và nhân của ta cũng thế. Có 1 câu chuyện nhỏ mà cũng đem lại cho Cô sự giác ngộ về lòng từ, Dịp giỗ đầu của Bố Cô trùng hợp với tai nạn xảy ra trên Tàu Dìn Ký ở Bình Dương, Cô có tác bạch với Thầy "nhân đây con khởi tâm 1 mâm cúng cầu siêu cho các nạn nhân trong đêm mưa giông gây chìm tàu mà trên đó có tiệc sinh nhật" Thầy đã từ chối với lẽ " Nghiệp ai người nấy trả tội ai người ấy mang, người ta giàu, đã có trai đàn cầu siêu tại chỗ' có nghĩa Thầy từ chối không nhận thực hiện khóa lễ cầu siêu cho các nạn nhân vụ đó, và tôi đã ngộ hay Thầy đã đúng ? Bởi lòng thương người thì tốt, nhưng phải có trí huệ để nhận biết nơi nào cần giúp nơi nào để luật nhân định tự xét. Góp đến M A câu chuyện mà tôi trãi nghiệm và nhận được sự phản hồi tự Thầy trụ trì và nhận được cả kinh nghiệm chưa hẳn điều ta muốn tốt đều đúng cả!1 like
-
NGHIỆP CHƯỚNG
Minh_Anh liked a post in a topic by Thiên Sứ
Nếu trong lúc nó đang bắn người mà mình bắn nó cứu nhiều người thì lại là chuyện khác. Trong điều kiện này đúng là sự dũng cảm nhân danh lòng nhân ái. Còn bắt được nó mà giết thì phạm luật. Luật Na Uy cùng lắm là tù chung thân - vì để khuyến khích giá trị nhân đạo, nên họ không tử hình.Nếu giết nó thì trái tinh thần nhân đạo của luật pháp. Hay nói cách khác: Phủ nhận tính nhân đạo của một hình thái ý thức xã hội. Về lâu dài nguy hiểm hơn. Tất nhiên luật Na Uy theo điều kiện của Na Uy và điều này không có nghĩa luật tử hình là thiếu nhân đạo.1 like -
Thể Thao Và Lạc Việt Độn Toán
Guest liked a post in a topic by Thiên Sứ
Thôi. Anh em tập trung vào mục đích cuối cùng là nghiên cứu và học hỏi, không nên phê phán nhau . Đây là topic dự báo thể thao. Lát nữa tôi xóa các bài không liên quan.1 like -
Vậy là quẻ của longphi và của Engineer đều nghiệm về thời gian với việc của Thích Đủ Thứ . Cheer !1 like
-
Cứ bình tĩnh và tiếp tục theo như tôi đã nói đi bạn, khoảng 4-5 ngày nữa (tính từ ngày hôm nọ tôi đoán) báo cho tôi biết tình hình nhé.1 like
-
VÔ LÝ !âm dương là 2 thế giới hoàn toàn khác nhau ,làm gì có duyên âm ? xảo thuật của mấy tay bốc sư phù thủy vườn muốn kiếm tiền ... tình duyên lận đạn là do cái số của mình từ kiếp trước ,người phối ngẫu trong cuộc đời mình cũng phải có tiền duyên cho nên kiếp nầy mới có cơ hội gặp nhau mà gọi là duyên ,chung sống với nhau gọi là nợ , chính vì 2 chử duyên nợ mà người ta mới nên đôi vợ chồng được ,dù trong hoàn cảnh hay thời thế lúc nào cũng sẽ đến với nhau ,đừng nghe lời thầy bói ma mà đi cắt duyên âm ,lỡ có cắt thiệt thì suốt đời ở giá !1 like
-
Ví dụ minh họa: Cập nhật 18/10/2011 06:22:00 AM (GMT+7) Vietnam.net. Trùm phát xít Hitler chết già ở Argentina? Trùm phát xít Adolf Hitler không tự sát ở Berlin vào năm 1945 mà sống ở Argentina cho tới tận khi chết già năm 1962, một cuốn sách mới khẳng định. Adolf Hitler ném một cây gậy cho con chó Blondi của ông ta. Các tác giả của cuốn sách khẳng định họ tìm thấy "quá nhiều bằng chứng" cho thấy lãnh đạo Đức Quốc xã và người tình Eva Braun đã được đưa ra khỏi nước Đức bằng máy bay và tới Argentina. Hầu hết các sử gia đều cho rằng trùm phát xít chết trong boongke của ông ta ở Berlin năm 1945, Tuy nhiên, đồng tác giả Gerrard William, một nhà báo Anh, nói nghiên cứu của họ nghi ngờ điều này. Ông cho biết: "Không có bằng chứng pháp lý về cái chết của ông ta hoặc của Eva Braun và chuyện của các nhân chứng về sự sống sót của họ ở Argentina rất thuyết phục". "Chúng tôi không muốn viết lại lịch sử, nhưng chứng cứ chúng tôi phát hiện ra về sự tẩu thoát của Adolf Hitler là quá nhiều để mà bỏ qua", ông nói thêm. Cuốn sách có tựa đề "Sói sám: Sự tẩu thoát của Adolf Hitler" còn cáo buộc tình báo Mỹ đã cho nhà độc tài này chạy trốn để đổi lấy việc tiếp cận công nghệ chiến tranh của Đức Quốc xã. Cuốn sách mới cho rằng "các mảnh hộp sọ của Hitler" mà người Nga nắm giữ thực tế là của một người phụ nữ. Williams và đồng tác giả Simon Dunstan đã nghiên cứu các tài liệu mới được giải mật và các thử nghiệm pháp y. Thanh Hảo (Theo The Sun, Sky News) Xét điểm hạn năm 1962: 1962 là năm Nhâm Dần thuộc đại vận Tân Dậu, tiểu vận Mậu Dần và Đinh Sửu. Ta xét tiểu vận Đinh Sửu (vì tiểu vận Mậu Dần có tổng điểm hạn thấp). 1 – Vào đại vận Tân Dậu có Bính trụ ngày hợp với Tân trụ giờ và Tân đại vận, Dậu đại vận hợp với Sửu trụ năm hóa Kim. Đến năm Nhâm Dần và tiểu vận Đinh Sửu có : Tam hội Dần Mão Thìn trong Tứ Trụ hợp với Dần thái tuế không hóa. Nhâm lưu niên hợp với Đinh tiểu vận không hóa được Mộc mặc dù có Dần thái tuế động có khả năng dẫn hóa (vì Kim cục có trước ngăn cản). .......... Tổng điểm hạn quá thấp không thể chấp nhận được. Nếu Adolf Hitler thật sự chết vào năm 1962 thì để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết : “Bán hợp hay lục hợp chỉ có 2 can-chi là chủ khắc có trước không thể cản được các hóa cục bị khắc có tổng cộng ít nhất 6 can-chi cùng xuất hiện có sau (trừ hóa cục chỉ có các chi trong Tứ Trụ)”. Nếu sử dụng giả thiết này thì lục hợp và tam hội cục có tổng cộng 6 can-chi cùng hóa Mộc. Vì trong Tứ Trụ có Sửu và Thìn hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm phải tính lại. Mộc có 9,9đv được thêm 2,56đv của Thìn trụ tháng thành 12,46đv. Thổ có 16,17đv bị giảm 2,56đv còn 11,06đv. Ta thấy Kiêu Ấn sinh được 50% đv của nó cho Thân, vì vậy Thân có 12,46.1/2 đv + 8đv = 14,23đv. Thân trở thành vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Sửu trụ tháng. Vì Hỏa là kỵ 1 động (Bính hợp với tuế vận) nên phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Mộc có 12,46đv được thêm 2.9đv của Dần thái tuế, 2.4,8đv của Nhâm lưu niên và 3đv của Đinh tiểu vận thành 43,06đv. Kim có 4,55đv được thêm 5,73đv của Dậu đại vận và 4,1đv Tân đại vận thành 14,38đv. Mộc trở thành kỵ 1 và là kỵ vượng. Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158) thì điểm kỵ vượng được tăng 2 lần. Kim cục và Mộc cục đã gây ra Đại Chiến có (0,2.7 + 0,1)đh = 1,5đh. Kim cục có 1đh và lục hợp Mộc cục có 0,5đh còn tam hội cục có (1.2 + 0,25)đh = 2,25đh. Nhâm và Dần lưu niên mỗi can-chi có 2.0,5đh kỵ vượng, còn Đinh tiểu vận có 2.0,5đh kỵ vượng. .............................. Tổng số là 7,79.1/2 đh = 3,9đh (vì tam hội có 3 chi liền nhau trong Tứ Trụ và có 2 trụ động). Số điểm này là không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa tiếp ra giả thiết : “149a/ - Nếu ĐC được gây ra bởi hóa cục chủ khắc là hỷ dụng thần với các hóa cục có cùng hành trong đó có tam hội cục có thái tuế và hành của tam hội cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên (đòi hỏi thái tuế khi hóa cục không được thay đổi hành (?)) thì điểm hạn cho mỗi can-chi tham chiến là 0,35đh nếu hóa cục bị khắc (hành của tam hội cục) có số can-chi nhiều hơn 1 can-chi so với tổng số can-chi của hóa cục chủ khắc, 0,4đh nếu nó nhiều hơn là 2 can-chi, 0,45đh nếu nó nhiều hơn 3 can-chi, 0,5đh nếu nó nhiều hơn 4 can-chi, 0,55đh... (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này)”. Loại ĐC này là một dạng tương tự như ĐC-1. Nếu sử dụng giả thiết này thì Đại chiến có (0,5.7 + 0,25)đh = 3,75đh. Tổng số là 10,04.1/2 đh = 5,02đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Ta thấy nếu năm 1962 mà Adolf Hitler không chết thì cái chết khó mà với tới được ông ta. Bởi vì trong Tứ Trụ có tới 5 can-chi trong các tổ hợp (nó giảm được rất nhiều các điểm hạn bởi hình, xung, khắc, hại...), còn thêm tam hội có 3 chi liền nhau (giảm được tới 50% tổng điểm hạn). Vận Bính Tuất là một hung vận có dụng thần và Nhật can đều nhập Mộ ở đại vận và cùng tử tuyệt tại nhiều năm của lưu niên, cộng thêm có 2 trụ TKĐX với tam hội mà còn không phá được tam hội... nên ông ta đã may mắn thoát chết (vì TKĐX vào đúng năm Ất Dậu, tam hội đã kịp hóa cục nên không nhằm nhò gì khi chỉ có 2 trụ TKĐX) huống hồ về sau không có đại vận nào có 2 trụ TKĐX với tam hội cả và dụng thần, Nhật can không nhập Mộ.... Năm 1962 có tam hội cục mà tam hội cục này có thái tuế mà hành của nó cùng hành với hành của can chi lưu niên. Điều này cho biết các vị thần đã xuất hiện để đón Adolf Hitler đi, tương tự như họ đã xuất hiện để đón con tầu Titanic đi là rất hợp lý, có thể tin được (?).1 like
-
Ví dụ minh họa: Ví dụ 146 : Adolf Hitler sinh ngày 20/4/1889 lúc 6,00’ (?). Ta xét điểm hạn năm 1944. Adolf Hitler đã làm lên chuyện kinh thiên động địa ắt hẳn ông ta phải có tứ trụ đặc biệt. Chúng ta xét các giờ của ngày sinh có can Bính là: Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, .... đến Kỷ Hợi, ta dễ nhận thấy giờ Tân Mão có khả năng đúng nhất. Bởi vì tứ trụ có Bính hợp với Tân là tướng nắm binh quyền, Thực và Thương sinh Tài thì “phú quý tự nhiên đến” thêm tam hội cục Dần Mão Thìn cho biết có cả thế giới hữu hình (người dương) và vô hình (người âm) giúp đỡ. Thực tế có rất nhiều câu chuyện nói về Hitler thoát chết một cách kỳ lạ mà chúng ta đã biết. Các yếu tố này đã đưa Adol Hitler nên đỉnh cao của quyền lực. Tất nhiên ông ta chỉ có thể phát quan ở các vận hỷ dụng thần là Đinh Mão (từ 6/1894 đến 6/1904), Bính Dần, Ất Sửu, Giáp Tý, còn đại vận Quý Hợi (từ tháng 6/1934 tới tháng 6/1944) là kỵ vận nhưng can Quý là kỵ thần hợp với Mậu trụ tháng, mà Mậu và Quý đều là kỵ thần nên từ vận xấu thành vận không xấu, và rất may cho Quý là Quan bị hợp cho nên Quan tránh được tai họa do gặp Thương quan Kỷ ở trụ năm. Do vậy vận này vẫn có thể phát quan. Đại vận Nhâm Tuất là kỵ vận nhưng Nhâm là Sát bị Mậu là (Thực) trụ tháng chế ngự thì đáng nhẽ đại vận này đúng với câu “Thực thần chế ngự Sát anh hùng áp đảo vạn người”. Nhưng đáng tiếc là Sát (Nhâm) vượng còn Thực (Mậu) nhập mộ, vì vậy Thực không thể chế ngự được kỵ thần Sát, còn thêm Thân nhược mà dụng thần Ất và Nhật can Bính đều nhập mộ ở đại vận Tuất nên đại vận này thành hung vận. Do vậy ở đại vận này ông ta dễ gặp tai họa về Quan và tuyệt mạng. 146a - Ta xét đại vận Nhâm Tuất bắt đầu từ tháng 6/1944. 6/1944 là năm Giáp Tuất, nó bắt đầu thuộc đại vận Nhâm Tuất và tiểu vận Ất Mùi. 1 - Mệnh này Thân nhược thực thương Thổ là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên lấy kiêu ấn là Ất tàng trong Mão trụ giờ. 2 - Kỷ trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục, vì vậy ta phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng ở tuế vận, dụng thần không thay đổi. 3 – Trụ tháng Mậu Thìn TKĐX với đại vận Nhâm Tuất có 0,25đh + 0,05đh (vì Mậu được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). ..................................... Tổng số có 4,81đh (theo sơ đồ trên). Tam hội trong tứ trụ có 3 chi liền nhau và có 2 trụ của nó động, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 4,81.1/2đh = 2,41đh. Số điểm này chấp nhận được. ...................................... 146b - Điểm hạn ở tiểu vận Ất Mùi của năm 1945: 1945 là năm Ất Dậu thuộc đại vận Nhâm Tuất, ta xét tiểu vận Ất Mùi . Trong tứ trụ có tam hội Dần Mão Thìn hóa Mộc (vì Ất lưu niên dẫn hóa) có -1,5đh và bán hợp của Dậu lưu niên với Sửu trụ năm hóa Kim có 1đh. Nếu sử dụng giả thiết 174/146 thì TKĐX và 2 hóa cục ở chi của nó có cùng hành với các chi đó cùng xuất hiện một lúc nên TKĐX phá được Kim cục nhưng vẫn còn hợp của nó và TKĐX không phá được tam hội cục. Vì vậy TKĐX không có điểm hạn. Tam hội Mộc có -1,5đh. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra và ứng dụng giả thiết 187/146 thì tam hội cục không bị phá. Tổng số là 9,56đh (theo sơ đồ trên). Nếu sử dụng giả thiết 270/50 thì tổng số của các điểm được giảm ½ đh còn 9,56.1/2.đh = 4,78đh (vì tam hội cục có 3 trụ động). Số điểm này có thể chấp nhận được (vì người bại trận cũng giống như người bị phá sản). Nếu tổng điểm hạn chỉ được giảm 1/3 hay TKĐX không phá được Kim cục hoặc vẫn có điểm hạn TKĐX thì tổng điểm hạn quá cao là không thể chấp nhận được. Nếu 2 trụ TKĐX vào 1 hoặc 2 trụ của tam hội hóa cục mà phá được cục của nó thì tổng điểm hạn cũng là quá cao nên không thể chấp nhận được (vì trước ngày 20/4/1945 Adolf Hitler vẫn còn sống). 146c - Điểm hạn ở tiểu vận Giáp Ngọ, 1945: Nếu theo sơ đồ trên thì ở tiểu vận Giáp Ngọ có Tuất đại vận hợp với Ngọ tiểu vận hóa Hỏa có -0,5đh .... Tổng số là 8,21đh. Số điểm này được giảm ½ còn là 8,21.1/2 = 4,11đh. Điều này chứng tỏ cuối năm 1945 Hitler vẫn còn sống. 146d - Điểm hạn ở năm 1946 1946 là năm Bính Tuất thuộc đại vận Nhâm Tuất, tiểu vận Giáp Ngọ và Quý Tị. Ta xét tiểu vận Quý Tị (vì điểm hạn ở tiểu vận Giáp Ngọ là thấp, do Ngọ tiểu vận hợp với 2 Tuất của tuế vận). Tổng số có 9,57đh (theo sơ đồ trên và ứng dụng giả thiết 214a/47a;60). Tam hội trong tứ trụ có 3 trụ của nó động, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 9,57.1/2.đh = 4,79đh. Số điểm này chứng tỏ năm 1946 Adolf Hitler vẫn còn sống và theo tin đồn Adolf Hitler đã sống trên 80 tuổi ở Argentinien (?).1 like
-
Bài 27 - Điểm hạn và tổng điểm hạn được giảm... Chương 15 Điểm hạn và tổng điểm hạn được giảm 1 - Tam hợp . 263/5 – Nếu giữa tứ trụ và tuế vận có tam hợp không hóa có ít nhất 4 chi, trong chúng có ít nhất 3 chi trong tứ trụ thì điểm hạn được giảm 1đh và từ chi thứ 4 trở nên mỗi chi được giảm thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được giảm thêm 0,13đh), nếu 3 chi trong tứ trụ tạo thành tam hợp có chi tháng thì được giảm thêm 0,5đh. 264/(7;14;32) - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận có tam hợp cục có từ 4 chi trở nên, trong đó có ít nhất 3 chi trong tứ trụ và tam hợp có ít nhất 4 chi có điểm hạn thì điểm hạn mới được giảm 1đh và từ chi thứ 4 có điểm hạn trở nên, mỗi chi được giảm thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được giảm thêm 0,13đh) và khi đó nếu trong tứ trụ có 3 chi tạo thành tam hợp có chi tháng thì điểm hạn mới được giảm thêm 0,5đh. (Chú ý : Các chi trong tứ trụ của tam hợp cục này đã hóa cục có cùng hành từ khi mới sinh thì các chi này mới không có điểm hạn). 265/35 - Giữa tứ trụ với tuế vận có tam hợp cục có từ 4 chi trở nên, trong đó có ít nhất 3 chi trong tứ trụ, nếu 2 trong 3 chi này giống nhau mà tam hợp cục có hành giống với hành của 2 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm ½ , còn nếu 2 trong 3 chi này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của tam hợp cục thì tổng điểm hạn chỉ được giảm 1/3. 2 – Tam hội trong và ngoài tứ trụ 266a/ - Tam hội ngoài tứ trụ, nó nghĩa là chỉ khi có thêm chi của tuế vận mới có tam hội. 266b/ - Tam hội trong tứ trụ là trong tứ trụ đã có đủ 3 chi để tạo thành tam hội. 266c/50 - Một trụ được coi là động khi can, chi hay nạp âm của nó xung hay khắc với các can, chi hay nạp âm khác cũng như can hay chi của nó hợp với tuế vận (nếu nạp âm bị khắc hay khắc với các nạp âm khác không có điểm hạn thì nó được coi là tĩnh). 266d/52 - Nếu tam hội trong tứ trụ hợp với tuế vận thì cả 3 trụ của nó được coi là động. 267/(26;18;210) - Nếu tam hội ngoài tứ trụ có ít nhất 2 chi khác nhau trong tứ trụ thì điểm hạn được giảm 1đh và từ chi thứ 4 trở đi mỗi chi được giảm thêm 0,25đh (chi tiểu vận chỉ được giảm thêm 0,13đh), nhưng nếu các chi của tam hội tự hình và hại được với nhau thì tổng điểm hạn không được giảm. 268/34 - Tam hội cục ngoài tứ trụ có ít nhất 3 chi trong tứ trụ, nếu 2 trong 3 chi này giống nhau mà tam hội cục có hành giống với hành của 2 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm ½ , còn nếu 2 trong 3 chi này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của tam hội cục thì tổng điểm hạn chỉ được giảm 1/3. 269/48 - Nếu trong tứ trụ có tam hội mà 3 chi của nó không liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm 1/3 khi có ít nhất 2 trụ của nó động. 270/49 - Nếu 3 chi của tam hội trong tứ trụ liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm ½ khi có ít nhất 2 trụ của nó động. 272/51 - Tam hội trong tứ trụ không được giảm thêm điểm hạn của tam hội ngoài tứ trụ. 3 – Hình và Hại 272b/ 206 - Tổng điểm hạn được giảm 5/12 nếu tất cả 7 chi của tứ trụ, tuế vận và tiểu vận hình và hại nhau, và giữa hai mức 1/3 và 5/12 nếu chỉ có 6 chi hình và hại nhau chỉ khi các chi này không bị hợp. 4 – Hóa cục có các chi giống nhau trong tứ trụ 273/33 - Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau mà 1 trong 2 chi này cùng 1 chi khác trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của 2 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 1/3. 274/36 - Nếu trong tứ trụ có ít nhất 2 chi giống nhau mà tất cả 4 chi trong tứ trụ đã hóa thành bán hợp cục hay lục hợp cục từ khi mới sinh có hành giống với hành của các chi giống nhau này thì mặc dù chúng có hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của các chi giống nhau này thì tổng điểm hạn không được giảm. 275/82 - 4 chi trong tứ trụ hợp với nhau tạo nên 1 bán hợp hay lục hợp không hóa và trong chúng có 2 chi giống nhau, nếu nó không hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của các chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức ½ và 7/12, còn nếu nó hợp với tuế vận hóa cục vẫn là bán hợp hay lục hợp thì tổng điểm hạn được giảm 7/12 (?). 276/42 - Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau và trong chúng chỉ có 1 trong 2 chi này hợp với 1 chi khác trong tứ trụ hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của 2 chi giống nhau này còn chi thứ hai không bị hợp thì tổng điểm hạn được giảm ¼. 277/37 - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi 1 trong 3 chi này hợp với chi thứ 4 trong tứ trụ hóa cục có hành giống hành của 3 chi này thì tổng điểm hạn được giảm 1/3. 278/38 - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi tất cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 2/3, còn nếu chỉ có 3 chi giống nhau trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12. 279/ - Nếu 3 chi trong tứ trụ giống nhau, khi có 3 chi hay cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm...? 280/ - Nếu 4 chi trong tứ trụ giống nhau, khi cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành giống hay khác với hành của 4 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm .... ?. (Chú ý : Tổng điểm hạn được giảm theo các chi giống nhau trong tứ trụ và giảm theo tam hợp hay tam hội trong tứ trụ hay ngoài tứ trụ là khác nhau). Chương 17 Dự đoán về thời gian và các lĩnh vực dễ xẩy ra hạn I – Dự đoán về thời gian xẩy ra tai họa 1 - Các tháng trong một năm 305/ - Nếu một trong các nguyên nhân chính gây ra tai họa là hóa cục thì hạn thường xẩy ra vào mùa có hành giống với hành của hóa cục này, nhất là vào các tháng có chi giống với các chi trong tứ trụ của hóa cục này. 306/ - Nếu một trong các nguyên nhân chính gây ra tai họa bởi các chi trong tứ trụ xung hay khắc thái tuế thì tai họa thường xẩy ra vào các tháng của lưu niên có các chi giống như vậy. 307/ - Nếu một trong các nguyên nhân chính gây ra tai họa là các trụ trong tứ trụ và tuế vận TKĐX với nhau thì tai họa dễ xẩy ra vào các tháng của năm đó TKĐX với lưu niên hay các trụ trong tứ trụ.... 2 - Tiểu vận và các tháng của năm sinh 308/ - Tại một năm (lưu niên) nếu hạn đã xẩy ra ở tiểu vận đầu thì sang tiểu vận sau thường không có hạn, mặc dù tổng điểm hạn ở tiểu vận sau vẫn cao (bởi vì đa số các điểm hạn đã gây ra tai họa ở tiểu vận đầu). 309/ - Tại năm sinh nếu hạn đã phát ra ở một tháng nào đó thì các tháng sau nó không còn khả năng gây ra hạn, cho dù ở các tháng đó vẫn có các điểm hạn cao (bởi vì....tương tự như câu trên). .................................................. Giả thiết số 309/ đã kết thúc phần lý thuyết chính của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ (đến nay đã có thêm hàng chục giả thiết mới). Sau phần lý thuyết này là 136 ví dụ minh họa cho lý thuyết. Thực chất của 136 ví dụ này là những ví dụ mẫu để từ đó đưa ra 309 giả thiết trên. Trong các ví dụ mẫu này tôi đã diễn giải chi tiết cách xác định dụng thần và cách tính các điểm hạn theo 309 giả thiết này cũng như đưa ra cách giải cứu.... Tới bây giờ từ các ví dụ mới tôi vẫn tiếp tục đưa ra những giả thiết mới. Số lượng các giả thiết là khá nhiều, đến nỗi tôi cũng không thể nhớ nổi chúng mà thường là phải xem lại như tra Từ Điển khi nghiên cứu 1 ví dụ nào đó. Tôi hy vọng sau này có ai đó sẽ rút gọn hay tóm tắt được các giả thiết này bằng một lý thuyết hay những cách nào đó (tất nhiên chỉ với các giả thiết đã được kiểm tra là đúng). Phần lý thuyết sau thuộc về phần “Mở Rộng“ của cuốn sách này. Tôi sẽ trình bầy nội dung chúng qua các bài : Bài 28 : Khắc phối hôn (có các giả thiết từ 310 đến 332. Phần này có 28 ví dụ mẫu). Bài 29 : Con cái khắc cha mẹ và cha mẹ khắc con cái (có các giả thiết từ 333 đến 348 . Phần này có 16 ví dụ mẫu). Bài 30 : Dự đoán về phát Tài Bài 31 : Dự đoán về phát Quan. Hai bài cuối cùng này tôi mới đang nghiên cứu nên chưa có khả năng đưa được số điểm vào để Cân Đo Đong Đếm xem chúng phát mạnh hay nhẹ như phần dự đoán tai họa. Ví dụ minh họa : Ví dụ 48 (Giải Mã Tứ Trụ): 9/2/2001 là năm Tân Tị thuộc đại vận Giáp Thìn và tiểu vận Giáp Dần . 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn đủ nên dụng thần đầu tiên phải là thực thương/ Nhâm tàng trong Thân trụ tháng. 2 – Trong trụ có tam hội Thân Dậu Tuất hóa Kim cục. 3 - Dụng thần Nhâm tử tuyệt ở lưu nên có 1đh và nhập mộ ở đại vận nên có 1đh. 4 - Nhật can Tân tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 – Đinh trụ năm vượng ở lưu niên khắc 2 Tân nên lực khắc Tân lưu niên có 1,4.1/2 đh = 0,7đh còn khắc Tân trụ ngày có 0,7.1/2 đh = 0,35đh (vì cách 1 ngôi). Giáp đại vận nhược ở tuế vận khắc 2 Mậu trong tứ trụ, mỗi lực có 0đh và Giáp có 1 cát thần có -0,25đh. 2 Mậu trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Mậu có 1đh. Giáp tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh. Dần tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh và 3 hung thần có 3 .0,13đh. Tân lưu niên có 1 cát thần có 0đh (vì Tân tử tuyệt ở tuế vận). 6 - Dần tiểu vận hình và hại thái tuế, vì vậy mỗi lực có 0,5đh. 7 - Lửa dưới núi trụ năm có Đinh được lệnh nên khắc đất dịch chuyển trụ tháng có 1đh (phải thừa nhận), vì vậy đất dịch chuyển không khắc được Lửa đèn ở đại vận. Kim giá đèn không bị gỗ đồng bằng khắc bởi vì có lửa yếu là lửa đèn (vì theo các sách cổ đã viết như vậy, hy vọng sẽ có bạn đọc giúp tôi giải thích điều này). Tổng số là 7,42đh. Số điểm này quá cao là khôn g thể chấp nhận được. Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra và sử dụng giả thiết 269/48 thì tổng số điểm hạn được giảm 1/3 còn 7,42.2/3 đh = 4,95đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được (vì cả 3 trụ của tam hội cục đều động). Các nguyên nhân chính gây ra hạn này là các điểm hạn của nạp âm, hình, hại và năm Tị có Hỏa quá vượng khắc Kim (tức Kim bị thương tổn chứ không phải do Kim quá vượng như VIETHA đã dự đoán, mặc dù đoán đúng năm Canh Tân). Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu và kết hợp với giải cứu về hình và hại. Người này đã may mắn thoát chết bởi vì anh ta sống ở phương tây bắc nên Thủy nhiều phù trợ cho dụng thần Nhâm (thủy) và nó làm cho Hỏa bị suy yếu đi một phần (tam hội ở đây đã chứng minh đúng như thực tế là đã có các Quý Nhân và Thần Linh phù hộ). Nếu anh ta biết trước để giải cứu thêm về hình và hại thì có thể làm cho hạn nhẹ thêm hoặc không có (thực tế đây là một vụ ám sát chính trị bằng khí độc). Có Dần tiểu vận hình và hại Tị thái tuế nên vào tháng Dần và ngày Quý Mão (ngày 9/2/2001) đã TKĐX với trụ năm Đinh Dậu, đó chính là 2 nguyên nhân đã tác động làm tai họa xẩy ra. Có Hỏa (Đinh) khắc Kim (Tân), vì vậy người này đã bị phẫu thuật phổi bởi vì Hỏa đại diện cho tim, máu,... còn Kim đại diện cho phổi, máu,... và dao, kéo,... Tứ Trụ của ví dụ này chính là Tứ Trụ trên bìa của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” và nó cũng chính là Tứ Trụ trong chủ đề “Tứ Trụ của Thánh Nhân” trong mục Tử Vi hay chủ đề “Thánh Nhân trong Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm” trong mục Tử Bình-Bát Tự tại trang web này (trong đó tôi có nói qua về tiểu sử của người này). Người có Tứ Trụ này là bạn thân của tôi học bên khoa toán. Mặc dù khác khoa nhưng chúng tôi chơi rất thân với nhau.... và cùng vượt biên giới sang tị nạn tại Đức. Và mọi cái được bắt đầu từ các câu hỏi của bạn tôi: “Tại sao tai họa lại xẩy ra đúng ngày Quý Mão (9/2/2001) nó thiên khắc địa xung với trụ năm Đinh Dậu ?”... “Tại sao nó không lệnh đi trước hay sau một ngày?” Là một nhà “Vật Lý” thất nghiệp tôi đã cố gắng suy nghĩ nhưng vẫn không thể giải thích được. Từ hồ nghi rồi đi đến khẳng định rằng: Không, không.... không thể là duy tâm, mê tín dị đoan như cả một hệ thống tuyên truyền trong cái xã hội “Văn Minh-Khoa Học” đã nhồi nhét vào đầu những người như chúng tôi từ khi mới lọt lòng mẹ. Chắc chắn nó phải được xây dựng trên một lý thuyết chính thống của Khoa Học thì mới tồn tại và còn chính xác đến ngày nay như vậy. Vâng chính từ điều khẳng định này mà những kiến thức Vật Lý của tôi sau 4 năm học ở trường đã không uổng phí, nhất là khi đang thất nghiệp (tị nạn) này. Đó là lý do sự ra đời của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ”. Tất cả những gì tôi muốn nói thêm ở đây đã được viết trong “Lời Nói Đầu” của cuốn “Giải Mã Tứ Trụ”.1 like
-
Sơ đồ tính điểm hạn trên có sai sót, đó là Dần trụ tháng xung tháng Thân của lưu niên chỉ có 0,3đh và thêm 0,5đh của tháng Thân khắc lại lệnh tháng Dần, vì vậy nó chỉ có 0,8đh. Khi bị giảm 1/2 nó chỉ còn 0,4đh. Tổng số là 4,64đh, số điểm này có thể là khá thấp (vì nếu không mổ kịp thời để giải cứu thì tính mạng khó bảo toàn). Do vậy các lực tác động này không được giảm ở mức 1/2 (tức 6/12) mà chỉ được giảm ở mức 5/12. Sơ đồ tính điểm hạn được sửa lại như sau: Tổng số là 4,87đh, số điểm này mới có thể chấp nhận được.1 like
-
Các ví dụ tham khảo : Xác định giờ sinh với Tứ Trụ của Steve Jobs là quá dễ dàng với phương pháp của tôi. Bởi vì Tứ Trụ này chỉ có thể vượng khi Kiêu Ấn sinh được 50% đv của nó cho Thân. Điều này xẩy ra khi điểm vượng của Kiêu Ấn ít nhất phải bằng điểm vượng của Thực Thương (vì Kiêu Ấn đã lớn hơn Tài tinh và Nhật can đã được lệnh hoặc Thân đã lớn hơn Tài Quan). Chưa tính can chi trụ giờ thì Mộc đã có 11,4đv còn Thổ có 6,1đv nếu Thìn trụ ngày bị khắc, và 8,5đv nếu Thìn trụ ngày không bị khắc. Nếu tính lần lượt từng giờ thì chỉ có giờ Mậu Tý và Mậu Tuất là Thân nhược nên Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (Đinh, Bính, Ất, Giáp) mới là hỷ dụng phù hợp với các vận của Steve Jobs. Trong đó giờ Mậu Tý có tổng số điểm hạn quá thấp (với năm 2011) là không thể chấp nhận được cho dù phải hay không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Do vậy Steve Jobs sinh giờ Tuất là một điều không thể chối cãi được. Nếu Steve Jobs sinh giờ Tuất thì sơ đồ tính điểm hạn vào ngày 5/10/2011 như sau : 5/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Tân Sửu. 1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Thực Thương là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Ất ở trụ năm. 2 – Vào đại vận Quý Dậu và năm Tân Mão có : 2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật. Bính trụ ngày hợp với Tân lưu niên không hóa. Tam hội Dần Mão Thìn hóa Mộc (vì Dậu đại vận xung gần Mão không thể phá được tam hội cục). Đến tiểu vận Tân Sửu có Dậu hợp với Sửu tiểu vận hóa Kim. Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì tổng điểm hạn rất thấp là không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết : "Nếu 2 can trong Tứ Trụ hợp với tuế vận là tranh hợp thật mà có ít nhất một địa chi trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của nó thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm". Nếu sử dụng giả thiết này thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Mộc có 11,4đv được thêm 3,6đv của Thìn trụ ngày thành 15đv. Thổ có 15,06 mất 3,6đv của Thìn còn 11,46đv (nếu điểm vượng của 2 Mậu cũng bị mất thì Thổ chỉ còn 4,6đv). Ta thấy Kiêu Ấn sinh được cho Thân 50% đv của nó, vì vậy Thân có 13,5đv. Thân trở thành vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ. Mộc là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Mộc có 15đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế thành 33đv. Kim có 0đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên, 5,07đv của Dậu đại vận và 5,02đv của Sửu tiểu vận thành 10,27đv. Mộc là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được gấp đôi (vì Mộc không phải kỵ 1 từ khi mới sinh). Kim cục ở tiểu vận chỉ có 1,5 chi là hỷ dụng khắc Mộc cục là kỵ thần có 3 chi, vì vậy Mộc cục và Kim cục đã gây ra ĐC-1 có (0,7.4 + 0,35) đv = 3,15đh, vì vậy Kim cục có 1đh còn Mộc cục có 0,75đh. Thái tuế Mão có 0,5đh kỵ vượng. 3 - Dụng thần Tân tử tuyệt tại lưu niên có 1đh. 4 - Nhật can Bính vượng ở lưu niên có -1đh. 5 – Bính trụ ngày vượng ở lưu niên khắc Tân có 0,5đh, vì vậy Tân chỉ vượng ở đại vận có -0,5đh, nhưng nó bị giảm 50% còn -0,25đh. Tổng số là 5,65đh. Tam hội Dần Mão Thìn ngoài Tứ Trụ hóa Mộc có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ được giảm 1đh nên tổng số còn 4,65đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải áp dụng giả thiết 202/63 (xem tai họa năm 2009 phía dưới) thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên (là can tranh hợp thật) nên khắc gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.3/4 đh = 0,75đh. Tổng điểm hạn là 5,4. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Ví dụ này đã chứng minh rằng các can tranh hợp thật không phải hoàn toàn vô dụng như tôi đã kết luận mà nó vẫn còn khả năng quyết định được lực khắc của các nạp âm của chúng. Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ để cấy ghép gen vào tháng 6/2009 do sự mất cân bằng hocmon : 6/2009 là năm Kỷ Sửu thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Quý Mão. 1 – Thân nhược và dụng thần là Ất ở trụ năm. 2 – 2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật. Mão tiểu vận xung Dậu đại vận phá tan bán hợp hay lục hợp của Dậu với Sửu thái tuế hay Thìn trụ ngày. 3 - Trụ năm Ất Mùi TKĐX với lưu niên Kỷ Sửu có 0,25đh + 0,05đh (vì Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). 4 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh. 5 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh. 6 - Ất trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Kỷ lưu niên có 0,25đh. Kỷ lưu niên chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh nhưng bị giảm 25% (bị khắc bởi Kỷ) chỉ còn 0,25.0,75đh = 0,19đh. Kỷ khắc Quý tiểu vận có 0,5.1/2= 0,25đh (vì khắc can tiểu vận) nhưng cũng bị giảm 25% còn 0,19đh (vì bị Ất khắc). Quý tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh nhưng bị giảm 19% do Kỷ khắc còn -0,11đh. Dậu đại vận xung Mão tiểu vận có 0,15đh và hại Tuất trụ giờ có 1đh., vì vậy Tuất không hình được Sửu thái tuế. Mùi trụ năm xung Sửu thái tuế có 0,65đh, vì vậy Sửu thái tuế hình Mùi trụ năm có 1đh nhưng bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh. 7 – Sét ở lưu niên có Kỷ chỉ vượng ở đại vận nên khắc Kim lưỡi kiếm ở đại vận và Đất trên thành ở trụ tháng, mỗi lực có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Kỷ đã sử dụng 0,5đk). Tổng số là 4,13đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 202/63 (tôi mới bổ xung thêm từ ví dụ này): "202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc (trừ giả thiết 201/) nhưng bị giảm khoảng ¼ nếu can của nó là tranh hợp thật". Nếu áp dụng giả thiết này thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên nhưng là can tranh hợp thật nên lực khắc gỗ đồng bằng ở trụ giờ bị giảm 1/4 và bị giảm thêm 13% do bị sét khắc còn 1.3/4.0,87đh = 0,65đh. Tổng số là 4,78đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Nếu lực khắc của Kim lưỡi kiếm ở đại vận với gỗ đồng bằng không bị giảm 1/4 thì tổng số là 5,00đh. Số điểm này có thể là hơi cao (?). Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ vào tháng 8/2004 bởi ung thư tuyến tụy : 8/2004 là năm GiápThân thuộc đại vận Quý Dậu, tiểu vận Mậu Thân và tháng 8 của lưu niên là Nhâm Thân. 1 - Tứ Trụ này có Thân nhược, dụng thần là Ất ở trụ năm. 2 – Có 3 Mậu hợp với Quý đại vận và tam hội Thân Dậu Tuất ngoài Tứ Trụ có 3 chi không hóa. Nhìn qua ta thấy tổng điểm hạn là một số âm vì mỗi Mậu trong Tứ Trụ khắc Quý có -0,5đh can trong khi chỉ có 0,5đh + 0,05đh của trụ tháng Mậu Dần TKĐX với lưu niên GiápThân (vì Giáp nhược ở tuế vận). Do vậy nếu giờ sinh là đúng và không có các điểm hạn dương do bên ngoài tác động vào mệnh của người này thì bắt buộc tam hội Thân Dậu Tuất phải bị phá mới có hy vọng giải thích được tai họa này. Nhưng với các giả thiết đã có thì chỉ có Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung nhau gần trong Tứ Trụ mới có thể phá được tam hội ngoài Tứ Trụ có 3 chi, mà ở đây chỉ có Dần xung Thân thái tuế. Vậy thì làm sao có thể «Bói» ra giả thiết như thế nào mà có thể phá được tam hội này ? Giả thiết này có thể phát biểu như sau : "Tam hội có 3 chi không hóa ngoài Tứ Trụ có thể bị phá khi có ít nhất một trụ của nó TKĐX với một trụ ở bên ngoài và có ít nhất 2 chi của nó bị xung hay bị khắc gần bởi 2 chi ở bên ngoài". Nếu áp dụng giả thiết này thì rõ ràng có lưu niên Giáp Thân TKĐX với trụ tháng Mậu Dần, Dần xung Thân và Thìn xung Tuất đều là xung gần, vì vậy tam hội đã bị phá. 3 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh 5 – 2 Mậu trong Tứ Trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Mậu có -0,5đh can động và khắc Quý đại vận mỗi lực có 0,13đh. Dần trụ tháng xung Thân thái tuế có 0,65đh , vì vậy Thái tuế xung lại lệnh tháng có 0,5đh và hình lại Dần trụ tháng có 1.1/2 đh = 0,5đh (vì bị Dần xung). Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ có 1đh. Tổng số là 2,46đh. Số điểm này quá thấp là không thể chấp nhận được. Vậy thì đành phải bó tay sao ? Theo châm ngôn : "Còn nước còn tát" hay "Thà Giết Nhầm còn hơn Bỏ Sót" mà "Binh Pháp của Đạo XXX" gì đó đã dạy mang áp dụng vào đây thành "Thà Sai còn hơn Sót Bỏ" như sau : "Nếu lưu niên và trụ tháng của lưu niên có chi giống nhau cùng TKĐX với ít nhất 1 trụ trong Tứ Trụ mà các chi của chúng không bị hợp thì can, chi và nạp âm của trụ tháng này chỉ có thể tác động được với các can, chi và nạp âm trong tứ trụ và ngược lại nhưng điểm hạn của chúng bị giảm ít nhất 1/2". Nếu áp dụng giả thiết này thì Dần xung 2 Thân nên Thân thái tuế hình lại Dần chỉ bị giảm 1/3 còn 1.2/3 đh = 0,67đh. Dần xung Thân (của trụ tháng Nhâm Thân) bị giảm ½ còn 1,3.1/2 đh = 0,65đh và Thân trụ tháng này hình Dần có 0,67.1/2 đh = 0,34đh. Nhâm vượng ở lưu niên có 0,5đh can và khắc Bính trụ ngày có 1.1/2 đh = 0,5đh. Bính trụ ngày được lệnh nhưng nhược ở lưu niên có -0,5đh (các điểm hạn can không bị giảm vì chúng không phải là các điểm hạn xung khắc hay hình hại nhau). Kim lưỡi kiếm ở trụ Nhâm Thân có Nhâm vượng ở lưu niên khắc Gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.1/2 đh = 0,5đh. Trụ tháng Mậu Dần TKĐX với trụ Nhâm Thân có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Mậu được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh. Tổng số là 4,82đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được (Chú ý : ở đây ta mới chỉ xét đến các thông tin giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận, còn nếu tai họa này là do các thông tin bên ngoài tác động vào mệnh của người này gây lên thì giả thiết này là sai). ....................................... Trong chủ đề "Giải đáp các thắc mắc về khoá học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp" bác Học Hỏi đã hỏi tôi về cách tính điểm hạn của tai họa sau : "Tôi có 1 người bạn cùng tuổi. sinh ngày 31-7-1930 giờ Hợi. Ngày 7-9-2011 bạn tôi bị sốt mấy ngày, ngày 20 hết sốt thì sáng 21 khi ngủ dậy thấy bị liệt 1 tay phải, phải đi nằm viện mãi đến giữa tháng 10 mới gần bình phục hoàn toàn". Sơ đồ tính điểm hạn tháng 9/2011 : 9/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Tân Mão và tiểu vận Quý Dậu. 1 – Tứ Trụ này có Thân vượng (vì Kiêu Ấn sinh được 50% ddvcủa nó cho Thân, Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Đinh tàng trong Ngọ trụ năm. 2 - Trong Tứ Trụ có lục hợp của 2 Ngọ hợp với Mùi là tranh hợp giả không hóa. Đến đại vận Tân Mão và năm Tân Mão có tam hợp Hợi Mão Mùi có 4 chi không hóa phá tan lục hợp. Dậu tiểu vận tử tuyệt tại tuế vận xung 2 Mão không phá được tam hợp có 4 chi này. 3 - Dụng thần Đinh nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Nhật can Nhâm tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 - Tuế vận cùng gặp có 0,25đh.(vì 2 Tân nhược ở tuế vận). Tổng số là 1,25đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được. Nếu như tai họa này không phải do các nguyên nhân tác động từ bên ngoài gây ra thì ta bắt buộc phải sử dụng đến tháng 9 mà tai họa đã xẩy ra là tháng Đinh Dậu nó TKĐX với tuế vận. Nếu áp dụng giả thiết 179/60 thì trụ tháng của lưu niên là Đinh Dậu TKĐX với 2 trụ Tân Mão đã phá tan tam hợp cục có 4 chi (bới vì 2 trụ là Mão của tam hợp không hóa đều bị TKĐX nên ta có thể coi tam hợp cớ 4 chi chỉ như có 3 chi). 6 - Ta có thêm 0,15đh của Mão đại vận xung Dậu tiểu vận và 1,3đh của Dậu tiểu vận khắc Mão thái tuế. Dậu tiểu vận có điểm hạn của 2 hung thần nhưng bị Mão đại vận xung mất hết. Tổng số là 2,7đh. Số điểm này cũng không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết : "Nếu trụ tháng của lưu niên chỉ TKĐX với 2 trụ của tuế vận cùng gặp thì can, chi và nạp âm của trụ tháng này chỉ có thể tác động tới các can, chi và nạp âm của tuế vận và ngược lại nhưng các điểm hạn của các lực này bị giảm ¼ cũng như can chi đại vận với can chi của trụ tháng này được coi như cách nhau 1 ngôi và độ vượng suy của can này được xác định tại chi của nó". Nếu sử dụng giả thiết này thì ta có thêm các điểm hạn sau : 7 – Mão đại vận xung Dậu trụ tháng của lưu niên có 0,3.1/2.3/4 đh = 0,11đh. Dậu trụ tháng này khắc Mão thái tuế có 1,3.3/4 đh = 0,98đh. Đinh trụ tháng này vượng ở Dậu nên có -1đh can và khắc 2 Tân có 1.4.1/2.3/4 đh = 0,53đh, trong đó lực khắc Tân đại vận bị giảm thêm ½ còn 0,53.1/2 đh = 0,27đh (vì cách 1 ngôi). Đinh có 1 cát thần có -0,25đh (điểm hạn can động và của các thần sát không bị giảm ¼ vì nó không phải là điểm hạn xung, khắc, hình, hại). 8 - Trụ tháng Đinh Dậu TKĐX với 2 trụ giống nhau là Tân Mão, vì vậy mỗi lực bị giảm ¼ và bị giảm thêm ¼ do giả thiết trên còn 1.3/4.3/4 đh = 0,56đh. Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh. Tổng số là 4,56đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Trường hợp này kết hợp với trường hợp trên của Steve Jobs thì chúng ta còn thiếu trường hợp trụ tháng của lưu niên TKĐX với cả tuế vận và các trụ trong Tứ Trụ.1 like
-
Ví dụ minh họa: Ví dụ 108: Nam sinh ngày 14/11/1977 lúc 21,30’. Năm 2005 không có hạn. Năm 2005 là năm Ất Dậu thuộc đại vận Mậu Thân, tiểu vận Kỷ Mùi và Mậu Ngọ . 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên lấy tài tinh là Mậu tàng trong Tị trụ năm. 2 - Vào đại vận Mậu Thân có lục hợp của Thân đại vận với Tị trụ năm không hóa bị phá bởi trụ tháng Tân Hợi TKĐX với trụ năm Đinh Tị. Tới năm Ất Dậu có bán hợp của thái tuế Dậu với Tị trụ năm hóa Kim nhưng cũng bị TKĐX này phá tan Kim cục nhưng nó còn lại tổ hợp (vì lực xung của Hợi với Tị là 5,65đv là nhỏ hơn lực hợp của Dậu với Tị là 9đv), vì vậy TKĐX có 0,5đh + 0,05đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). 4 - Dụng thần Mậu tàng trong Tị trụ giờ bị tuế vận hợp có 1đh và tử ở lưu niên có 1đh. 5 - Nhật can Ất tuyệt ở lưu niên có 1đh. 6 – Tân trụ tháng vượng ở lưu nên khắc 2 Ất, vì vậy mỗi lực có 0,7đh. Ất lưu niên có 2 cát thần có -2.0,25đh nhưng bị Tân khắc mất 70% chỉ còn -0,15đh. Thân đại vận có 4 hung thần và 1 cát thần có tổng cộng 0,75đh. 7 – Thân đại vận hại 3 Hợi nên có tổng cộng 2đh. Tổng số có 7,55đh. Nếu sử dụng giả thiết 283/108 và 303/101 thì tổng số có 3,55G (thêm 0,25G vì lệnh tháng bị hại) nên tổng điểm hạn được giảm 5/12, vì vậy nó còn 7,55.7/12đh = 4,40đh. Số điểm này là cao nhất có thể chấp nhận được. Nếu mỗi lực hại chỉ có 1,0G thì tổng cộng có 3,25G, vì vậy tổng điểm hạn được giảm ở giữa 2 mức 1/3 và 5/12, nó còn 7,55.(2/3 + 7/12).đh = 4,72đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được. ........................................................................ Chủ đề “Nhiệm lý lá số hạn nặng“ của GiáoViên trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org nói về một phụ nữ trẻ có Tứ Trụ : Nhâm Tuất – Canh Tuất – ngày Kỷ Tị - Giáp Tuất Giáo Viên đã viết: “Cô bé này, tháng 11 năm ngoái (2010) sinh con gái. Trước hôm đi sinh con 1 tuần, thì phát hiện ra bị liệt một chân, sau đó bác sỹ mổ lấy con ra, rồi nghi là mẹ bị lao xuơng, chuyển qua viện lao nằm 1 tháng. ............................................... Tháng 1 năm 2011, bác sỹ quyết định mổ cột sống. Nhưng mổ ra, mới biết không phải lao xuơng, mà là một thứ bệnh quái lạ, ung thư đốt sống cùng. Xét nghiệm là tế bào ác, kháng điều trị, và hiện đang chuyển về nhà chờ........ ........................................................... Bé Vân mất sáng nay rồi (8/10/2011), chiều GV đi Ninhbinh viếng, có gì về sẽ update với mọi người sau. Buồn quá .................“ . Sau đây là sơ đồ tính điểm hạn ở tiểu vận Ất Tị (sau ngày sinh 13/10/2010) của năm 2010. 11/2010 là năm Canh Dần thuộc đại vận Đinh Mùi và tiểu vận Ất Tị. 1 - Tứ Trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương đều ít nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Giáp ở trụ giờ. 2 – Ta thấy Nhâm trụ năm hợp với Đinh đại vận và Ất tiểu vận hợp với Canh lưu niên đều không hóa. 3 - Dụng thần Giáp nhập Mộ ở đại vậnMùi có 1đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 4 - Nhật can Kỷ tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 – Nhâm trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 0,5đh can và khắc Đinh đại vận có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì khắc trái dấu). Do vậy Đinh đại vận chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh can nhưng nó bị giảm 13% (bị khắc bởi Nhâm) còn 0,5.0,67đh = 0,34đh.. Canh lưu niên cũng chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Ất tiểu vận có 0,5.1/2.1/2 đh= 0,13đh (vì khắc trái dấu và khắc vào chi tiểu vận). Mùi đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Tị tiểu vận có 1 cát thần và 1 hung thần. 6 – Mùi đại vận hình 3 Tuất trong Tứ Trụ có tổng cộng max 2đh. Tị trụ ngày và Tị tiểu vận hại Dần thái tuế có 1đh và 0,5đh, vì vậy Dần thái tuế không hình và hại được 2 Tị. 7 – Nước biển ở tụ năm có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận, vì vậy nó khắc Kim trang sức, Lửa trên núi và gỗ Tùng có tổng cộng 0,75đh (vì Nhâm đã sử dụng 0,25đk). Nước mưa đại vận có Đinh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Lửa đỉnh núi có 0,75đh. Lửa trên núi có Giáp vượng ở lưu niên khắc Kim trang sức có 1đh (lực khắc của Lửa đỉnh núi với các nạp âm khác không bị giảm khi nó bị khắc). Tổng số là 8,1đh. Nếu ta sử dụng giả thiết 283/108 thì Mùi đại vận hình 3 Tuất có tổng cộng 3,55G (mỗi lực hình có 1,1G và thêm 0,25G vì lệnh tháng bị hình), vì vậy tổng điểm hạn được giảm 5/12, nó còn 8,1.7/12 đh = 4,73đh. Số điểm này có thể chấp nhận được. Ở tiểu vận Bính Ngọ có Bính khắc Canh lưu niên có 1đh và Bính có 3 cát thần có -3.0,13đh. Dần thái tuế hợp với Ngọ tiểu vận có 1đh. Tổng số là 8,33đh, nó cũng được giảm 5/12 còn 8,33.7/12 đh = 4,86đh. Với số điểm cao như vậy, tại sao tai họa không xẩy ra ? Cụ Thiệu Vĩ Hoa có nói tới trong cuốn «Dự Đoán Theo Tứ Trụ» là có thai và sinh con có thể giảm được một phần hạn. Điều này có thể được giải thích đơn giản là khi đứa con còn trong bụng mẹ, nó có thể Cõng Giúp cho mẹ nó ít nhất khoảng 0,5đh, vì vậy chỉ còn 4,36đh. Với số điểm này khá thấp nên nó không thể gây ra tai họa nào cả. Đến tiểu vận Ất Tị, đáng tiếc là với 4,73đh còn khá cao nên chúng ta dự đoán : Đứa trẻ chưa ra đời, nó mới có thể Cõng Giúp hạn cho mẹ nó còn khi đứa bé đã ra đời thì nó không còn giúp được gì cho mẹ nó nữa (?). Nếu sự lý luận này là đúng thì nó là một cách giải hạn vô cùng hữu hiệu cho phái nữ, bởi vì ngày nay người ta sinh đẻ có thể chủ động qua việc thụ tinh bên ngoài ống nghiệm. Nếu mỗi lực hình có 1,2G thì tổng cộng có 3,85G, nó tương đương với tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 5/12 và ½ còn 8,1.(7/12 + ½).1/2đh = 4,39đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì nó không phù hợp với thực tế). Kết hợp với ví dụ trên thì các lực hình hay hại này có 1,1G là tin cậy được. Sơ đồ tính điểm hạn ngày 8/10/2011 như sau : 8/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Đinh Mùi và tiểu vận Ất Tị. 1 – Ta thấy Nhâm trụ năm hợp với Đinh đại vận không hóa và lục hợp của 3 Tuất trong Tứ Trụ hợp với Mão thái tuế hóa Hỏa (vì lực hợp của Mùi đại vận với Mão thái tuế có 5,87đv là nhỏ hơn lực hợp của 3 Tuất với Mão thái tuế có 3.5,03đv). Vì trong Tứ Trụ có 3 chi hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của chúng nên điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 4,2đv được thêm 1,5đv của Tuất trụ năm, 1,8đv của Tuất trụ tháng và 0,9đv của Tuất trụ giờ thành 8,4đv. Thổ có 11,3đv bị mất 4,2đv của 3 Tuất còn 7,1đv. Ta thấy Thân vẫn vượng nhưng Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Nhâm ở trụ năm. Vì Hỏa là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 8,4đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế và 4,8đv của Đinh đại vận thành 31,2đv. Kim có 5,28đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên thành 11,48đv. Mộc có 4,2đv được thêm 7đv của Ất tiểu vận thành 11,2đv (Tân và Ất động vì Tân khắc Ất tiểu vận). Tị tiểu vận và Mùi đại vận ở trạng thái tĩnh nên điểm vượng của chúng không được tính. Hỏa là kỵ vượng. Hỏa cục có 1đh + 0,25đh (vì Hỏa cục có chi thứ 4) và Mão thái tuế hóa Hỏa có 0,5đh kỵ vượng. 2 - Dụng thần Nhâm bị tuế vận hợp có 1đh và tử tuyệt tại lưu niên có 1đh. 3 - Nhật can Kỷ nhược ở lưu niên có 0đh. 4 – Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Đinh đại vận có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì khắc trái dấu). Đinh đại vận chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh và nếu sử dụng giả thiết 17/67a thì Đinh đại vận có 0,5đh kỵ vượng nhưng 2 điểm hạn này đều bị giảm 13% (vì bị Nhâm khắc) còn 0,25.0,65đh = 0,22đh và 0,5.0,67đh = 0,44đh. Mùi đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Tị tiểu vận có 1 cát thần và 1 hung thần. 5 - Nước biển trụ năm có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận khắc Kim trang sức và gỗ Tùng có tổng cộng 0,75đh (vì Nhâm đã sử dụng 0,25đk). Nước mưa đại vận có Đinh chỉ vượng ở đại vận nên khắc Lửa đỉnh núi chỉ có 0,75đh. Lửa đỉnh núi có Giáp vượng ở lưu niên nên khắc Kim trang sức có 1đh. Tổng số là 8,29đh. Nếu sử dụng giả thiết 278/38 ( - Nếu trong tứ trụ có 3 chi giống nhau, khi tất cả 4 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm 2/3, còn nếu chỉ có 3 chi giống nhau trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 3 chi giống nhau này thì tổng điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12 (trước ví dụ này tôi đã dự đoán được giảm tới ½ nhưng nay thấy không phải như vậy)) thì tổng số các điểm hạn được giảm giữa 2 mức 1/3 và 5/12, nó còn 8,29(2/3 + 7/12).1/2 đh = 5,18đh. Số điểm này có thể chấp nhận được. Vì tai họa chủ yếu do điểm hạn của 3 Tuất trong Tứ trụ hợp với tuế vận hóa Hỏa nên tai họa dễ xẩy ra vào mùa hè và tháng Tuất. Thực tế cho thấy bệnh của người này đã phát nặng vào mùa hè và cái chết đáng nhẽ phải xẩy ra vào tháng Tuất nhưng đến 23,57' ngày 8/10/2011, tức còn ít nhất 12 tiếng nữa mới sang tháng Tuất. Tại sao lại như vậy? Phải chăng giờ giao lệnh người ta đã xác định sai? Ở đây ta thấy chỉ có Hỏa quá vượng và có sự xung khắc của Thủy (Nhâm) với Hỏa (Đinh) nên Thủy và Hỏa đều bị tổn thương, nhất là Thủy. Ta đã biết Thủy đại diện cho bệnh ung thư, vì vậy người này đã bị bệnh ung thư. Còn Hỏa đã đại diện cho xương chăng ?1 like
-
Bài 26 - Định luật giảm và điểm G Chương 16 Định luật giảm và điểm G I - Định luật Giảm Đây là phần phức tạp nhất của Phương Pháp Tính Điểm Hạn. Định luật giảm có nghĩa là tổng điểm hạn sẽ được giảm theo một tỷ lệ nhất định nào đó, nó phụ thuộc vào các yếu tố giữa tứ trụ với tuế vận mà ở trên ta đã biết trong các dạng đơn giản nhất như tam hợp, tam hội, hóa cục của các chi giống nhau trong tứ trụ ... còn ở phần này bạn đọc sẽ được biết đến một dạng khác. Khi thái tuế hay các chi trong tứ trụ bị các chi khác hình, xung, khắc hay hại thì trong một số trường hợp các lực này có điểm giảm được gọi là điểm G. Tổng các điểm G này tương đương với tổng điểm hạn được giảm theo một tỷ lệ nhất định nào đó. Để cho đơn giản tôi tạm thời phân ra thành 10 trường hợp tổng điểm hạn được giảm theo các điểm G như sau : Bảng G Dòng đầu tiên trong bảng là số thứ tự, dòng thứ hai là điểm G và dòng thứ ba là tỉ lệ tổng điểm hạn được giảm tương ứng theo điểm G. Nếu số điểm G ít nhất bằng điểm giữa của 2 mức giảm thì tổng điểm hạn mới được giảm ở mức trung bình của 2 mức giảm đó (vd 106; 107). Trong phần này hình và tự hình có tác dụng khác nhau II - Điểm giảm G A - Có 5 dạng chính gây ra các điểm G E1 – Các chi ở tuế vận tác động tới các chi trong tứ trụ. E2 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế E3 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ khắc thái tuế E4 – 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ tự hình thái tuế. E5 – Có ít nhất 3 chi giống nhau trong tứ trụ xung, khắc, tự hình, hình hay hại thái tuế. E1 - Tuế vận tác động tới các chi giống nhau trong tứ trụ 281/(101 ;102) : Các trường hợp như sau: 1 - Dần đại vận hình và hại 2 Tị trong Tứ Trụ. 2 - Sửu đại vận hình và xung 2 Mùi trong Tứ Trụ. 3 - Thân đại vận khắc và hình 2 Dần trong Tứ Trụ. 4 - Tý ở tuế vận cùng hại 2 Mùi trong Tứ Trụ. 5 - Mùi ở tuế vận cùng hại 2 Tý trong Tứ Trụ. 6 - ........ ???? Các lực này mới có các điểm G và chúng được xác định như sau : a - Thái tuế hình hay hại có 1G. b - Đại vận khắc hay xung có 1G và hình hay hại có 0,5G. 282/(105;106;107) – Nếu trong tứ trụ có 2 chi giống nhau là Thổ mà mỗi chi này chỉ có 1 lực tác động tới thái tuế hay nếu 2 chi giống nhau này không là thổ mà mỗi chi chỉ có 1 lực hình hay hại thái tuế thì các lực này có điểm G chỉ khi các chi này bị tác động bởi 2 lực của đại vận, khi đó điểm G của các lực này được xác định như sau : a - Mỗi lực xung thái tuế có 0,5G. b - Mỗi lực hình hay hại thái tuế có 0,25G ? (Chú ý dấu ?, nó nghĩa là các giả thiết đó chưa có ví dụ để kiểm tra). 283/108 - Chi tuế vận tác động với ba chi giống nhau trong tứ trụ : a - Mỗi lực hình hay hại của chi đại vận với mỗi chi trong Tứ Trụ có 1,1G b - Mỗi lực xung hay khắc của chi đại vận với mỗi chi trong Tứ Trụ có ...? c - Mỗi lực hình hay hại của thái tuế với mỗi chi trong Tứ Trụ có... ? E2 - 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế 1 – Các chi là Thổ 284/(105;109) – 1 hay 2 chi Sửu trong tứ trụ hình và xung Mùi thái tuế có điểm G, còn nếu trong tứ trụ chỉ có 2 chi giống nhau, khi chúng chỉ có 1 lực xung thái tuế thì mỗi lực này có 0,5G chỉ khi chúng bị đại vận tác động có điểm G. 285/70 – Trong tứ trụ có 1 hay 2 chi là Mùi, Tuất hay Thìn xung thái tuế và có ít nhất 1 chi hình, tự hình hay hại thái tuế thì các lực này có điểm G hay không (chưa có ví dụ để kiểm tra) ? 2 – Các chi không là Thổ 286/ 113 - Nếu trong Tứ Trụ chỉ có một chi xung thái tuế (không có các lực hình hay hại thái tuế, trừ lực tự hình thái tuế) thì các lực tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có chi đại vận xung thái tuế. 287/112 - Nếu các tổ hợp trong tứ trụ bị phá mà chúng có ít nhất 1 chi xung và 1 chi hình hay hại thái tuế thì các lực này không có điểm G nhưng các lực khác vẫn có điểm G khi có chi đại vận tác động tới thái tuế (trừ lực tự hình). 288/111 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có ít nhất một chi xung và 1 chi hình (trừ tự hình) hay hại thái tuế. 289/114 – Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi có ít nhất hai chi giống nhau trong tứ trụ xung thái tuế. E3 - 1 hay 2 chi giống nhau trong tứ trụ khắc thái tuế 290/115 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có ít nhất 1 chi khắc và 1 chi hình (trừ tự hình) hay hại Thái tuế. 291/(116;117;118) - Nếu trong tứ trụ chỉ có 1 chi khắc Thái tuế, ngoài ra không có các lực tác động khác (trừ chi Thân nếu nó hình được thái tuế và các chi trong tứ trụ tự hình thái tuế) thì tất cả các lực tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có thêm lực của chi đại vận hay tiểu vận tác động với thái tuế (kể cả lực tự hình), còn nếu nó ở trong tổ hợp trong tứ trụ từ khi mới sinh bị phá thì các lực này tác động tới thái tuế có điểm G chỉ khi có chi đại vận khắc thái tuế. 292/118 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có Thân khắc và hình Dần thái tuế. 293/120 - Các lực tác động tới thái tuế có điểm G khi trong tứ trụ có 2 chi khắc thái tuế. 294/121 – Các lực tác động tới thái tuế không có điểm G khi 2 chi trong tứ trụ và chi đại vận hay tiểu vận giống nhau là các chi thuộc loại tự hình khắc thái tuế. E4 – Thái tuế bị tự hình bởi các chi trong tứ trụ 295/123 - Nếu trong tứ trụ chỉ có 1 hay 2 chi tự hình với thái tuế thì các lực này có điểm G chỉ khi có thêm chi đại vận cũng tự hình thái tuế, khi đó điểm G của các lực được xác định như sau : Mỗi chi trong tứ trụ tự hình thái tuế có 2G. Chi đại vận tự hình thái tuế có 1G. Chi tiểu vận tự hình, hình hay hại thái tuế có 0,5G, còn xung hay khắc thái tuế có 1G. Chi đại vận tự hình các chi trong tứ trụ, mỗi lực có 0,5G, trong đó mỗi lực tự hình với lệnh tháng có thêm 0,25đh.. Các chi trong tứ trụ tự hình gần với nhau, mỗi lực có 0,25G, trong đó mỗi lực tác động gần với lệnh tháng có thêm 0,13G E5 - Ba chi giống nhau trong tứ trụ tác động với thái tuế 296/125 - 3 chi trong tứ trụ tự hình thái tuế, mỗi lực có ít nhất 1.5G và mỗi lực hình, hại thái tuế có ... ? 297/211 – 3 chi giống nhau là Thổ trong tứ trụ xung thái tuế, mỗi lực có 1,25G (còn nếu 3 chi giống nhau này không là Thổ ?) và mỗi lực hình, tự hình và hại của các chi trong tứ trụ với thái tuế có 0.5G (?), khi đó : - Chi đại vận xung thái tuế có 0.5G (?) và mỗi lực hình, tự hình và hại thái tuế có 0.25G (?). - Chi tiểu vận xung thái tuế có 0,25G (?) và mỗi lực hình, tự hình và hại thái tuế có 0.13G. B – Nói chung E1, E2 và E3 tuân theo các giả thiết sau đây: 298/109 - Mỗi chi trong tứ trụ xung thái tuế có 1G và mỗi chi hình hay hại thái tuế có 0,5G, còn chi đại vận hay chi tiểu vận xung thái tuế có 0,5G và hình hay hại thái tuế có 0,25G. 299/(116...) - Mỗi chi trong tứ trụ khắc thái tuế có 2G và hình hay hại thái tuế có 1G, khi đó chi đại vận khắc thái tuế có 2G (riêng Thân đại vận khắc thái tuế chỉ có 1G) nhưng chi tiểu vận khắc thái tuế chỉ có 1G, còn chi đại vận và chi tiểu vận hình hay hại thái tuế mỗi lực có 0,5G. Tất cả các lực này không có điểm G chỉ khi có 3 hay 4 chi giống nhau là tự hình khắc thái tuế mà ở trong tứ trụ chỉ có 2 trong 3 hay 4 chi này (vd 121 ;122). 300/ - Nếu chi đại vận xung thái tuế có điểm G thì nó xung với mỗi chi giống với thái tuế ở trong tứ trụ mới có điểm G như vậy. 301/ - Nếu chi đại vận khắc thái tuế có điểm G thì nó khắc với mỗi chi giống với thái tuế ở trong tứ trụ mới có điểm G nhưng chúng chỉ bằng ½ điểm G như vậy (trừ lực khắc của Thân đại vận không bị giảm - ví dụ 118). 301a/ - Nếu chi trong Tứ Trụ khắc thái tuế có 2G và chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 0,5G thì chi đại vận hình, tự hình hay hại các chi trong Tứ Trụ cũng có 0,5G chỉ khi trong chúng có ít nhất một chi giống thái tuế (?). 301b/ - Nếu chi trong Tứ Trụ xung thái tuế có 1G và chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 0,25g thì chi đại vận hình, tự hình hay hại với mỗi chi trong Tứ Trụ có 0,13G chỉ khi trong chúng có ít nhất một chi giống thái tuế (?). 302/103 - Nếu chi đại vận tác động với các chi trong tứ trụ có điểm G thì các chi giống với chi đại vận ở trong tứ trụ tác động với các chi này mới có điểm G nhưng chúng chỉ bằng ½ . 303/101 - Nếu mỗi lực của chi đại vận tác động với lệnh tháng có điểm G thì mỗi lực đó được thêm 0,25G và khi đó mỗi lực của thái tuế tác động tới lệnh tháng có điểm G, mỗi lực này mới được thêm 0,25G. 304/103 - Nếu mỗi lực của các chi trong tứ trụ tác động với lệnh tháng có điểm G thì mỗi lực này cũng được thêm 0,13G. Chú ý : Các điểm G ở đây được xác định bởi các chi tác động gần với nhau, còn chúng bị giảm ½ G nếu chúng cách 1 ngôi và ¾ G nếu chúng cách 2 ngôi.1 like
-
Các ví dụ minh họa: Ví dụ 40 : Nữ sinh ngày 6/6/1961 lúc 7,01’ sáng. Năm 1963 bị liệt 2 chân vì sốt cao. 1963 là năm Quý Mão thuộc đại vận Nhâm Ngọ và Quý Mùi (tức tiểu vận). Ta xét đại vận Nhâm Ngọ (vì điểm hạn ở đại vận Quý Mùi quá thấp). 1 – Mệnh này Thân vượng mà Kiêu Ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất tàng trong Thìn trụ giờ. 2 - Dụng thần Ất vượng ở lưu niên có -1đh. 3 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Ngọ đại vận hại Sửu trụ năm có 1đh, tự hình Ngọ trụ tháng và Ngọ trụ ngày mỗi lực có 1đh. Sửu trụ năm bị hại, vì vậy nó không hình hay hại được các chi khác, còn mặc dù 2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận nhưng chúng vẫn hình, tự hình hay hại được với các chi khác (giả thiết 233/40). Do vậy 2 Ngọ trong tứ trụ tự hình với nhau có 0,5đh, Ngọ trụ tháng hại Sửu trụ năm có 0,5đh và Ngọ trụ ngày hại Sửu trụ năm có 0,25đh (vì cách 1 ngôi). Thìn trụ giờ hại Mão thái tuế có 1đh. na 5 – Quý lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh. Ngọ đại vận có 2 cát thần có -2.0,25đh. Mão lưu niên có 1 hung thần có 0,25đh. 6 - Đất ven đường trụ ngày có Canh được lệnh nên khắc được kim trong cát trụ tháng có 1đh. Tổng số là 4,75đh. Số điểm này có thể chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của tự hình và hại. Vì vậy ta phải giải cứu về tự hình và hại. 2 Ngọ trong tứ trụ bị tự hình bởi Ngọ đại vận và 3 Ngọ hại Sửu trụ năm, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào tháng Ngọ. Ví dụ 54 : Nam sinh ngày 5/8/1950 lúc 0,00’ sáng. Tháng 4/2006 mất Quan vào tù. Tháng 4/2006 là năm Bính Tuất thuộc đại vận Kỷ Sửu và tiểu vận Bính Thân. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh/ Đinh tàng trong Mùi trụ tháng. Thủy là kỵ vượng. 2 – Trong tứ trụ có bán hợp của Thân với Tý hóa Thủy. Vào đại vận Kỷ Sửu và năm Bính Tuất có đại vận Kỷ Sửu TKĐX với trụ tháng Quý Mùi có 0,25đh +0,05đh (vì Kỷ nhược ở tuế vận). 3 - Dụng thần Đin la nhập Mộ ở đại vận Sửu nên có 1đh và nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Nhật can Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh. 5 – Quý trụ tháng thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh và khắc Bính lưu niên có 0,25đh. Nhâm trụ ngày thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên có 1đh và khắc Bính lưu niên có 1đh. Sửu đại vận xung Mùi trụ tháng có 0,4đh (vì lệnh tháng Mùi bị xung bởi Mùi) Tuất lưu niên có 1 hung thần có 0,25đh. 6 – Ta thấy Mùi trụ tháng hình hay không hình được Tuất lưu niên thì Tuất lưu niên vẫn hình được Sửu đại vận có 1đh, vì vậy Sửu đại vận không thể hình được Mùi trụ tháng. Nếu sử dụng giả thiết 236/(54;159) và 237a/106 thì Mùi trụ tháng bị xung gần bởi Sửu đại vận nên lực hình của nó với Tuất thái tuế bị giảm ¾ , vì vậy điểm hình của nó với Tuất thái tuế có 1đh bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh. Tổng số là 4,95đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì quá cao). Nếu sử dụng giả thiết 254/27 thì Không Vong không có điểm hạn (vì can của Không Vong là Bính bị Nhâm khắc một lực có 1đh), vì vậy tổng số điểm hạn chỉ còn (4,95 - 0,25)đh = 4,7đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của TKĐX, Hurt, Thủy quá vượng khắc Hỏa, trong khi dụng thần Hỏa quá nhược (vì Hỏa chỉ là can tàng tạp khí). Do vậy ta phải dùng Mộc và Hỏa, nhất là Hỏa để giải cứu và kết hợp với giải cứu về hình. Thủy quá vượng khắc Hỏa quá nhược, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Nhâm Thìn bởi vì nó TKĐX với lưu niên Bính Tuất và nó là tháng mà Hỏa vượng còn Thủy nhập Mộ. Hỏa bị tổn thương mà Hỏa của tứ trụ này là Tài (tiền), vì vậy người này vì tiền mà phải vào tù. Người này mất quan và vào tù bởi vì đại vận là đại vận hình (Sửu đại vận hình Mùi trong tứ trụ), vào năm Bính Tuất giữa tứ trụ với đại vận và lưu niên có đủ tam hình Sửu Mùi Tuất. Thân vượng mà Tài (Đinh) và Quan (Kỷ) tàng trong Mùi đều vượng. Đó là mệnh của người phú quý và thường đại phát vào các vận tài hay quan. Thực tế người này đã làm đến cục trưởng. Ở đây đại vận là Quan (Kỷ) nhưng đáng tiếc đại vận Quan bị hình hại là xấu. Tổng điểm hạn ở tiểu vận Đinh Dậu là 4,92 nhưng trong thực tế người này không bị thêm tai họa nào bởi vì có thể phần lớn số điểm hạn này đã gây ra tai họa ở tiểu vận Bính Thân hay ông ta vẫn đang còn ngồi trong tù (?). Ví dụ 30 : Trương Chấn Hoàn chủ nhiệm ủy ban khoa học kỹ thuật quốc phòng (TQ), sinh ngày 21/10/1915 lúc 12,00’ sáng. Năm 1993 có hạn cực nặng. 1993 là năm Quý Dậu thuộc đại vận Mậu Dần, tiểu vận Giáp Tý và Quý Hợi. Ta xét tiểu vận Giáp Tý. 1 - Mệnh này Thân nhược mà quan sát Kim là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn/ Nhâm ở trụ giờ. 2 – Trong tứ trụ có lục hợp của Mão với Tuất bị phá. Bởi vì lực xung của Dậu trụ ngày với Mão trụ năm có 8.2/3 đv = 5,33đv (vì cách 1 ngôi) là lớn hơn lực hợp của Tuất trụ tháng với Mão trụ năm chỉ có 3.1/2đv = 1,5đv (vì Tuất phải hợp với Ngọ trụ giờ). Vào đại vận Mậu Dần và năm Quý Dậu có: Tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa Hỏa. Ngũ hợp của Mậu với Quý hóa Hỏa (vì chi đại vận hay lệnh tháng là Hỏa dẫn hóa). Nếu sử dụng giả thiết 3/30 thì điểm vượng vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 3,3đv được thêm 0,96đv của Tuất trụ tháng thành 4,26đv. Thổ có 0,96đv bị mất hết. Do vậy Kim vẫn là kỵ 1 và động (vì Mão trụ năm xung Dậu trụ ngày). Do vậy ta phải tính thêm điểm vượng tuế vận. Kim có 6,4đv được thêm 2.9đv của Dậu thái tuế thành 24,4đv. Hỏa có 4,26đv được thêm 5,75đv của Dần đại vận, 2.4,8đv của Quý và 3đv của Mậu đại vận thành 22,61đv. Kim lớn hơn hỷ dụng thần Thủy và Mộc trên 10đv nên Kim là kỵ vượng. Nếu sử dụng giả thiết 77/29 và 78/30 thì Nhâm không khắc được 2 Hỏa cục có tổng cộng 5 can chi. Vì vậy tam hợp Hỏa cục có 0,75đh và ngũ hợp Hỏa cục có 0,5đh. 3 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên niên có -1đh. 4 - Nhật can Ất tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 5 – Mão trụ năm xung thái tuế Dậu có 0,8đh và Mão xung Dậu trụ ngày có 0,15đh (vì cách 1 ngôi). Dậu thái tuế có 1 hung thần có 0,25đh nhưng nó bị Mão xung mất hết. Tý tiểu vận có 2 cát thần có -2.0,13đh và 1 hung thần có 0,13đh. Nếu sử dụng giả thiết 15/12 thì Dậu thái tuế bị Mão xung có 0,5đh kỵ vượng. 6 – Nếu sử dụng các giả thiết 237/, 234/và 235a/ thì lực xung của Mão trụ năm với Dậu trụ ngày bị giảm 2/3 (vì Mão xung 2 Dậu không phải Thổ) còn 1/3 nhưng nó bị giảm thêm 1/3 (vì cách 1 ngôi), nó còn 1/3.2/3 và Mão phải sinh cho Hỏa cục động tại Tuất, nó bị giảm thêm 2/3, vì vậy lực này chỉ còn 1/3.2/3.1/3 = 0,07. Cho nên Dậu trụ ngày tự hình Dậu thái tuế có 1đh nhưng nó bị giảm 7%đh còn 1.93%.đh = 0,93đh. 7 - Đất trên thành của đại vận có can Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc được nước suối của trụ năm có 0,75đh nhưng can chi của nạp âm đều bị tuế vận hợp nên bị giảm ½ đh còn 0,38đh. Đất mái nhà trụ tháng có Bính thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên chỉ khắc nước suối có 0,75đh. Tổng số có 4,62đh. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì nó quá thấp so với thực tế). Nếu sử dụng giả thiết 121/30 thì đất mái nhà của trụ tháng khắc nước suối của trụ năm có (0,75 + 0,25)đh = 1đh và đất trên thành khắc nước suối có (0,75 + 0,25).1/2đh = 0,5đh (vì các nạp âm này nhận được sự sinh từ Hỏa cục cùng trụ). Tổng số là 5,00đh. Số điểm này mới phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết: “ Khắp nơi các cao sư khí công đều kéo về cứu giúp. Thầy Thiệu Vĩ Hoa cũng dốc hết sức mình cố kéo dài tuổi thọ cho ông “. Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm, Mộc xung Kim và Hỏa quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu. Trong tứ tự có Mão xung Dậu thái tuế và vào đại vận Mậu Dần có Hỏa quá vượng, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào các tháng của mùa Xuân và mùa Hè, nhất là tháng Mão. Hỏa quá vượng, vì vậy người này bị bệnh Tim bởi vì Hỏa đặc trưng cho Tim,... Nếu Nhâm trụ giờ vượng ở lưu khắc hết tổng điểm hạn của 2 Hỏa cục có 5 can chi thì số điểm hạn quá thấp là không thể chấp nhận được. Nếu điểm kỵ vượng ở thái tuế bị giảm 1/3 khi nó bị Mão xung còn 0,33 thì tổng số là 4,75đh, nó là quá thấp so với thực tế nên không thể chấp nhận được. Ta xét tiểu vận Quý Hợi của năm Quý Dậu: Ở tiểu vận Quý Hợi của năm Quý Dậu (bắt đầu từ ngày 21/10/1993), nếu sử dụng giả thiết 78/30 thì điểm hạn của Hỏa cục bị Nhâm trụ giờ vượng ở lưu niên khắc mất hết, vì vậy đất trên thành và đất mái nhà không được sinh bởi Hỏa cục. Các điểm hạn ở tiểu vận Quý Hợi được mô tả ở sơ đồ trên. 1 – Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý lưu niên và Quý tiểu vận. Điểm hạn của Hỏa cục có 3 chi bị Nhâm vượng ở lưu niên khắc mất hết. Mậu chỉ vượng ở đại vận nên có 0,5đh và khắc 2 Quý có 0,75đh, nên mỗi lực có 0,75.1/2.1/2.đh = 0,19đh, riêng lực khắc Quý tiểu vận chỉ có 0,19/2đh = 0,1đh (vì khắc tiểu vận điểm hạn giảm một nửa). Quý lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên có -0,5đh bị khắc mất 19% nên còn -0,5.0,81đh = -0,41đh. 2 – Nước biển ở tiểu vận có Quý vượng ở tiểu vận khắc khắc đất trên thành của đại vận có 0,5đh. Đất trên thành đại vận có Mậu chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối trụ năm có 0đh (vì Mậu đã dùng tất cả 0,75đh để khắc 2 Quý) Đất mái nhà trụ tháng có Bính thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối trụ năm có 0,75đh. .................... Tổng số là 3,51đh. Số điểm này là chấp nhận được bởi vì nó phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết “Ngày 24/10/1993 sau khi bệnh đỡ đã ra viện đi ăn dưỡng, trong nửa năm đó ông lại cố gắng làm việc”. Nếu điểm hạn của Hỏa cục không bị Nhâm khắc mất hết thì tổng số là 4,57đh (vì Hỏa cục có 0,75đh, đất mái nhà và đất trên thành khắc nước suối có (0,75 + 0,25)đh = 1đh và 0,25.1/2.1/2 đh = 0,06đh)). Số điểm này không thể chấp nhận được bởi vì với số điểm này ông ta không thể rời khỏi bệnh viện. Ta xét điểm hạn của năm 1994: 1 – 23/3/1993 đó là năm Giáp Tuất thuộc đại vận Mậu Dần và tiểu vận Quý Hợi có: Tam hợp Dần Ngọ Tuất có 4 chi hóa Hỏa, vì vậy Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý tiểu vận hóa Hỏa. Nếu sử dụng giả thiết 11/30 (Nếu các hóa cục cùng hành giữa tứ trụ với tuế vận có tổng cộng từ 6 can chi trở lên (trừ hóa cục của các địa chi trong Tứ Trụ) thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng tuế vận mặc dù kỵ 1 là tĩnh (đây là một trường hợp ngoại lệ)) thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Hỏa có 3,3đv được thêm 0,96đv của Tuất trụ tháng thành 4,26đv. Kim vẫn có 6,4đv, vì vậy Thân vẫn nhược và dụng thần không thay đổi. Ta phải tính tiếp các điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 4,26đv được thêm 2.3đv của Tuất thái tuế, 5,8đv của Dần đại vận, 3đv của Mậu đại vận và 10đv của Quý tiểu vận thành 29,06đv. Nếu sử dụng giả thiết 22/17 thì Hỏa đã thành kỵ 1 (vì nó lớn hơn Kim là kỵ 1 trên 10đv) và Hỏa có điểm kỵ vượng (vì lớn hơn hỷ dụng thần trên 20đv) nhưng các điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi (vì Hỏa không phải là kỵ 1 từ khi mới sinh). Do vậy nếu sử dụng giả thiết 101/29 thì điểm hạn chính của tam hợp Hỏa có 4 chi được tăng gấp đôi là 1.2đh + 0,25đh và Dần, Tuất và Mậu mỗi can và chi có 0,5đh kỵ vượng còn Quý tiểu vận chỉ có 0,25đh kỵ vượng. 2 - Dụng Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh. 3 - Nhật can Ất mộ ở lưu niên niên có 1đh. 4 – Nhâm trụ giờ vượng ở lưu niên nhưng nó không thể khắc được Hỏa cục có tổng cộng 6 can chi. 5 - Nước biển của tiểu vận Quý Hợi có can Quý vượng ở tiểu vận khắc lửa đỉnh núi của lưu niên có 1đh và khắc đất trên thành của đại vận có 0,5đh (vì khắc đại vận bị giảm ½). Đất trên thành của đại vận có can Mậu chỉ vượng ở đại vận nên khắc nước suối của trụ năm có (0,75 + 0,25)đh = 1đh (vì nó được Hỏa cục trong cùng trụ sinh cho), nhưng nó bị giảm ½ đh (vì nước biển khắc) và ½ đh (vì can và chi của nạp âm đều bị hợp ở tuế vận), nó chỉ còn 1.1/2.1/2.đh = 0,25đh. Lửa đỉnh núi của lưu niên có can Giáp chỉ vượng ở đại vận nên khắc đất mái nhà và gỗ liễu có 0,75đh, vì vậy mỗi lực có 0,38đh (chú ý lửa đỉnh núi là lửa của núi lửa nên nó không bị giảm khi nó bị khắc bởi các loại nạp âm của nước). Đất mái nhà có Bính thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận khắc nước suối có (0,75 + 0,25)đh = 1đh (vì nó được sinh bởi Hỏa cục cùng trụ), nhưng nó bị giảm 38%đh (vì lửa đỉnh núi khắc), nó còn 0,62đh. Tổng số là 7,63đh. Số điểm này chấp nhận được bởi vì nó phù hợp với thực tế mà Trần Viên đã viết : “Cấp cứu nhưng không có hiệu quả, đã tạ thế ở Bắc Kinh hồi 23,30’ ngày 23 tháng 3 năm 1994 hưởng thọ 79 tuổi“ (theo Tử Bình đã sang ngày 24/3). Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và do Hỏa quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu. Thân nhược mà thực thương quá mạnh, vì vậy kiêu ấn ở đây vô cùng quan trọng bởi vì nó có chế ngự thực thương Hỏa và sinh cho Thân. Tai họa đã xẩy ra vào tháng Mão của mùa Xuân. Bởi vì vào tháng Mão dụng thần Thủy bắt đầu ở trạng thái tử tuyệt nên nó không có khả năng chế ngự Hỏa và sinh cho Thân. Qua ví dụ này cho ta biết khả năng giải hạn của các cao thủ Tử Bình và khí công Trung Quốc chưa đạt tới 7,63đh (nếu số điểm này chính xác). Đây là mệnh quý hiển vì Thân nhược có Ấn vượng sinh Thân và chế ngự Thương nhược nên thực sự đúng với câu : «Thương quan mang ấn quý hết chỗ nói». Nếu không tính thêm điểm vượng của tuế vận thì Hỏa không phải là kỵ 1 nên điểm hạn của hóa cục không được tăng gấp đôi và không có các điểm kỵ vượng, vì vậy tổng số là 4,76đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.1 like
-
Bài 25 - Điểm hạn của hình, tự hình và hại..... Y9 - Kiêu ấn và điểm hạn của nó 190/ – Xem giả thiết 27/12 (27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên.) 192/ - Xem giả thiết 28/100 và 29/(98;99 (28/100 – Thân nhược và khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Kiêu Ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh nếu nó lớn hơn Thân ít nhất 20đv, trừ trường hợp nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Kiêu Ấn chỉ được thêm không quá 10đv mà nó đã lớn hơn Thân 20đv thì Kiêu Ấn trở thành kỵ thần chỉ có 0,38đh. Kiêu Ấn trở thành kỵ vượng.... giống như giả thiết 27/12. 29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu).) Y11 – Điểm hạn của hình, tự hình và hại B - Các chi không bị xung hay bị khắc hình, tự hình hay hại các chi khác Như trên đã nói ở trên chi đại vận phải được xem là động đầu tiên, sau mới đến các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận, cuối cùng mới đến thái tuế (chi của lưu niên) và ở đây nói về Hình thường bao hàm cả Tự hình. 222/124 - Mỗi chi hình hay tự hình nhiều chi, mỗi loại có tổng cộng max 2 đh. 223/108 - Mỗi chi hại nhiều chi có tổng cộng max 2 đh. 224/4 - Chi đại vận hình, tự hình hay hại thái tuế có 1đh. 225/40 – Chi đại vận hình, tự hình hay hại các chi trong tứ trụ mỗi lực có 1đh và khi đó các chi trong tứ trụ giống chi đại vận mới có thể hình, tự hình hay hại được với các chi trong tứ trụ này, nhưng số điểm hạn của mỗi lực chỉ có 0,5đh nếu là chi gần, 0,25đh nếu cách 1 ngôi và 0,13đh nếu cách 2 ngôi (nó nghĩa là các lực hình, tự hình hay hại với chi cách 1 ngôi bị giảm ½ đh và ¾ đh nếu cách 2 ngôi). 226/2 – Các chi trong tứ trụ hình, tự hình hay hại thái tuế mỗi lực có 1đh và khi đó các chi này mới hình, tự hình hay hại được các chi giống chi thái tuế ở trong tứ trụ có điểm hạn giống như câu trên nhưng nó không hình hay hại được với chi đại vận và tiểu vận. 227/20 – Chi tiểu vận hình hay hại chi đại vận hay thái tuế, mỗi lực có 0,5đh nhưng nó không hình hay hại được các chi trong tứ trụ. 228/66 - Thái tuế hình hay hại chi đại vận hay chi trong tứ trụ mỗi lực có 1đh. 229/(15;38;109) - Thái tuế hay chi đại vận hình hay hại chi tiểu vận có 0,5đh chỉ khi lực tác động này không phải là lực thứ 3 trở nên (riêng Dần ở tuế vận hình và hại Tị tiểu vận chỉ được tính là 1 lực), riêng Thân thái tuế hay đại vận hình Dần tiểu vận có 0,5đh nếu lực này mới là lực thứ 5, ngoài ra các lực này chỉ có 0,25đh, và riêng mỗi lực hợp được tính là 0,5 lực và nếu chi tuế vận hình hay hại chi tiểu vận mới là 2,5 lực thì mỗi điểm hình hay hại này chỉ bị giảm 1/3 đh. 230/39 - Các chi trong một tổ hợp giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận không hóa vẫn hình hay hại được với nhau và có điểm hạn như bình thường. 231/40 – Chi bị hại không hình và hại được các chi khác. 232/40 – Chi bị hình không hình được chi khác (trừ Thái tuế) nhưng chúng vẫn hại được các chi khác và có điểm hạn như bình thường. 233/40 – Chi bị tự hình vẫn hình, tự hình hay hại các chi khác có điểm hạn như bình thường. B – Các chi bị xung hay bị khắc hình hay hại các chi khác Chú ý : Ở đây, các lực xung hay khắc các chi này phải có điểm hạn. 234/ - Lực hình, tự hình hay hại của các chi bị xung hay bị khắc với các chi khác bị giảm tỉ lệ thuận theo lực xung hay khắc chúng, các lực này chỉ xét về ngũ hành và nếu chúng ta quy ước các lực xung hay khắc này là 1 (nghĩa là các lực này không liên quan tới điểm vượng của các chi của chúng) thì các lực này bị giảm giống như giả thiết 95/ nhưng chúng không có điểm vượng. 235/ - Mỗi lực xung hay khắc với mỗi chi của giả thiết 95/ còn bị giảm thêm giống như giả thiết 96/ nhưng không có điểm vượng. 236/(54;159) - Nếu 1 chi xung gần với 1 chi thì lực này bị giảm ¼ với các chi Thổ (vd 54) và ½ với các chi không phải Thổ (ví dụ 159), các lực này bị giảm thêm ...nếu nó xung 1 chi cách 1 hay 2 ngôi như các giả thiết 234/ và 235/. 237/(30;106) - Nếu 1 chi xung với 2 chi thì mỗi lực xung này bị giảm ½ khi nó xung với các chi là Thổ (ví dụ 106) và 2/3 với các chi không phải là Thổ (ví dụ 30; 66), nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/. 237a/106 - Nếu lực hình hay tự hình của một chi với một chi bị giảm x% đh thì lực hình của chi bị hình này với các chi khác bị giảm (100-x)% đh, 238/(43;113) - Nếu 1 chi xung với 3 chi thì mỗi lực xung này bị giảm 7/8 khi nó xung gần với các chi là Thổ (ví dụ 43) và 15/16 với các chi không phải là Thổ (ví dụ 30; 66), nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/. 238a/104 - Nếu 1 chi xung với 4 chi thì mỗi lực xung này bị giảm 15/16 khi nó xung gần với các chi là Thổ và 31/32 đv với các chi không phải là Thổ, nó bị giảm thêm....như các giả thiết 234/ và 235/. 239/(50;68) - Nếu từ 2 chi trở lên chỉ xung với 1 chi thì chi bị xung này không hình hay hại được các chi khác chỉ khi chúng xung gần với nhau (riêng chi Tý cũng được coi là bị xung bởi Thìn nếu nó bị xung bởi TKĐX* có điểm hạn - ví dụ 68), các lực này bị giảm thêm... như câu 234/30 và 235/30. 240/(115;131) - Nếu 1 chi khắc với 1; 2; 3; 4 chi thì các chi bị khắc gần không hình hay hại được các chi khác, nhưng lực hình hay hại của chi bị khắc cách 1 ngôi với các chi khác bị giảm ...?, và cách 2 ngôi.... bị giảm....? Nếu 1 chi khắc ít nhất 5 chi thì....(?). Hy vọng bạn đọc giúp tôi trả lời các câu hỏi này. Y12 - Điểm hạn của Tứ hình 241/ Tứ hình là phải có đủ 4 chi của tự hình là Thìn, Ngọ, Dậu và Hợi 242/41 – Nếu trong tứ trụ có ít nhất 3 chi khác nhau và chỉ khi có thêm chi lưu niên (thái tuế) mới đủ tứ hình thì nó mới có 1đh (kể cả khi chúng hóa cục), sau đó mới tính đến các chi thứ 5 trở đi của tứ hình ở trong tứ trụ, đại vận và tiểu vận, mỗi chi được thêm 0,25đh (riêng chi tiểu vận chỉ được thêm 0,13đh). Y13 – Điểm hạn của Thương quan gặp Quan 245/ – Thương quan lộ gặp được Quan cũng lộ thì mới có điểm hạn và điểm hạn này được gọi là điểm hạn của thương quan gặp quan. Nếu Quan hay Thương quan ở trong hợp thì chúng được xem như không gặp được nhau. Các điểm hạn của thương quan gặp quan không bị giảm khi Thương quan bị khắc. Điểm Thương quan gặp Quan phụ thuộc vào các trạng thái vượng hay suy của thương quan như sau : 245a/ - Thương quan ở tuế vận mà nó vượng ở lưu niên có 1đh, nó chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, còn nó nhược ở tuế vận có 0đh. 245b/ - Thương quan ở trong tứ trụ mà nó vượng ở lưu niên có 1đh, nếu nó chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, nếu nó được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 0,25đh, còn nếu nó thất lệnh và nhược ở tuế vận có 0đh. 246/120 - Thương quan ở tiểu vận gặp Quan ở tuế vận không có điểm hạn. Y14 – Điểm hạn của các thần sát 248a/ - Mỗi cát thần ở can hay chi của đại vận hay lưu niên có -0,25đh (ở tiểu vận chỉ có -0,13đh), còn mỗi hung thần có 0,25đh (nó chỉ có 0,13đh ở can hay chi của tiểu vận). 248b/ - Thần sát của các can và chi trong các tổ hợp và trong tứ trụ không có điểm hạn (trừ Tứ Phế hay Kình Dương). 248c/ - Điểm hạn của các thần sát ở thiên can bị giảm tỉ lệ thuận theo các lực khắc chúng, còn điểm hạn của các thần sát ở địa chi mất hết khi chúng bị xung hay bị khắc. 249/(2;109) - Nếu can tiểu vận ở trạng thái tử, mộ hay tuyệt ở tiểu vận và nhược ở cả lưu niên và đại vận cũng như can đại vận hay can lưu niên mà ở tử, mộ hay tuyệt ở cả lưu niên và đại vận thì các thần sát của chúng không có điểm hạn. Nếu can đại vận hay can lưu niên nhược ở cả đại vận và lưu niên mà bị khắc ít nhất bởi 1 lực có 0.7 đh thì tất cả điểm hạn của các cát thần của nó bị mất hết. 250/(7;11) – Kình dương ở đại vận hay lưu niên không bị hợp mới có 1đh, khi đó Kình dương ở các vị trí khác không bị hợp mới có 1đh và điểm hạn của Kình Dương không bị giảm khi nó bị khắc. 250a/(28;149) - Ðiểm hạn của Kình Dương tại lưu niên bị giảm ít nhất 50% nếu thái tuế bị xung hay khắc bởi TKÐX, trừ khi chi xung thái tuế bị xung hay bị khắc bởi chi đại vận (tức chi đại vận cũng là Kình Dương).) 251/133 - Tại năm sinh, Kình dương ở chi của các tháng của lưu niên cũng có điểm hạn (nếu nó không bị hợp). 252/2 - Trụ ngày là tứ phế có 1đh. Nếu trụ ngày là Tứ Phế thiên khắc địa khắc với trụ tháng (tức can và chi trụ ngày đều là chủ khắc) thì điểm Tứ Phế được tăng ít nhất 0,25đh. 253/ - Nếu không sống ở phương (so với nơi sinh của người có tứ trụ) của Nguyên thần (theo hành của Nguyên Thần) thì Nguyên Thần có thể không có điểm hạn (?). . 254/27 - Nếu can và chi của Không Vong ở tuế vận (hay tiểu vận) không bị hợp thì Không Vong mới có 0,25đh (0,13đh với tiểu vận), điểm hạn này bị giảm tỉ lệ thuận theo lực khắc can của nó và nó không có điểm hạn khi chi của nó bị xung hay bị khắc. 255/(147;150) - Nếu trong tứ trụ có kim thần thì Hỏa cục luôn luôn có điểm hạn âm, trừ khi có Mộc cục sinh cho nó hay Hỏa cục có ít nhất có 4 chi có điểm hạn (trừ Hỏa cục của các chi trong tứ trụ (?)) bởi vì khi Hỏa quá mạnh, nó sẽ làm kim thần ra tro). Y15 - Điểm hạn của thiên la và địa võng 256/73 - Nếu thiên la (TL) hay địa võng (ĐV) ở trụ ngày trong tứ trụ thì khi nó gặp thái tuế cũng là TL hay ĐV có ít nhất 0,3đh (vì theo các sách cổ thì TL và ĐV là 2 hung thần). 257/75 - Nếu TL hay ĐV ở trụ năm trong tứ trụ thì khi nó gặp TL hay ĐV ở lưu niên có 0,15đh. 258/76 - Nếu TL hay ĐV ở trụ năm trong tứ trụ thì khi nó gặp TL hay ĐV ở lưu niên mà có Kình dương ở trong tứ trụ hợp với thái tuế và chi giống với thái tuế trong tứ trụ hóa thành cục có hành giống với hành của Kình dương thì thiên la hay địa võng có 0,38đh. 259/75 – Nếu trong tứ trụ có Thiên La hay Địa Võng, tới năm Thiên La hay Địa Võng thì tất cả điểm hạn của các thần sát tại thái tuế sẽ bị mất. Y16 - Tuế vận gặp nhau 260/ - Tuế vận gặp nhau (can và chi của đại vận và lưu niên giống nhau) mà can của chúng vượng ở lưu niên có 1đh, nếu chúng chỉ vượng ở đại vận có 0,5đh, còn nếu chúng nhược ở tuế vận có 0,25đh 261/(62;105) - Nếu tuế vận cùng gặp mà các can của nó là Quan Sát của dụng thần (nghĩa là hành của các can này khắc hành của dụng thần) không bị hợp thì điểm hạn của tuế vận cùng gặp được tăng thêm 50%.1 like