• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 19/11/2011 in all areas

  1. Chén quỳnh chưa nhấp đã buồn rơi Thiếu bạn tri âm dẫu đã mời Người xa vạn lý chùn chân bước Nơi này ta ngóng mộng đầy vơi Người chốn chân trời ta gốc bể Cạn chén quỳnh tương nhấp với đời :P :P :P
    2 likes
  2. Đau đầu, thần sầu minh triết Việt. Cái câu "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng" của Lý học Việt có câu kết không giống Tàu. Nhưng nền văn minh Việt ghi nó ở đâu để Lão Sư Thiến gàn này dám phát biểu như vậy? Nó ghi trong "Truyện cười dân gian Việt" do Nxb Nguyễn Du in năm 1956 (Hoặc 1958). Câu chuyện kể lại thế này: Có một thày đồ dạy chữ trong làng. Một hôm thày được gia đình học trò cho một đĩa bánh rán tẩm mật. Ăn hết bánh, thấy mật còn nhiều trên đĩa thầy thấy thèm. Nhưng trước mặt học trò không lẽ cứ liếm mật thì còn gì là thể thống người thày nữa. Thày bèn nghĩ ra một mẹo. Thày nói: - Này các con. Sau này các con lớn lên thành lương đống của triều đình, sẽ phải qua thi cử ngặt nghèo. Những sĩ tử đi thi qua nhiều bài khó và những câu hỏi mẹo khắt khe để thử trí thông minh. Nay thầy tập cho các con và thử trí thông minh của các con để các con sau này quen với nhưng câu hỏi khó. Đám học trò chú ý nhìn thày. Thày lè lưỡi liếm vòng quanh đĩa mật và giơ lên hỏi: - Cái gì đây? Đám học trò ngơ ngác. - Hic! Thế mà cũng không biết! Đây chính là ngôi Thái Cực. Nói xong thầy lại lè lưỡi liếm ngang chiếc đĩa và giơ lên: - Cái gì đây? Đám học trò ngơ ngác. - Thái cực sinh lưỡng nghi. Thày dõng dạc bảo. Xong thày lại lè lưỡi liếm dọc chiếc đĩa. - Cái gì đây? Biết học trò mình có thể có thằng biết, nên thày nói ngay: - Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Thày gằn giọng nói tiếp: - Còn đây là "Tứ tượng biến hóa vô cùng". Nói xong thày lè lưỡi liếm sạch cái đĩa. * Như vậy, so sánh với cậu trên trong Hệ từ của Chu Dịch thì chúng khắc hẳn về tính miêu tả nội dung:- Việt: Thái cực sinh lưỡng nghi. Lương nghi sinh Tứ tượng.Tứ tượng biến hóa vô cùng. - Tàu: Thái cực sinh lưỡng nghi. Lương nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng sinh Bát quái .Thưa quí vị! Đấy là cách hiểu của tôi về nội dung câu chuyện cười dân gian Việt, miêu tả hoàn toàn khác với sách hàn lâm về Dịch của các trí giả mũ cao áo rộng, cân đai nghiêm chỉnh của bao thế hệ Nho học Tàu, qua các triều đại Hán Đường Tống Nguyên..... Tất nhiên trong đó không thiếu những học giả sừng sỏ làm nên nhưng thứ minh triết kiểu "Mồm bò, chẳng phải mồm bò. Nhưng lại là mồm bò". Hàng ngàn năm đô hộ Bắc phương, nền văn hiến Việt tộc phải chìm đắm và ngụy trang để tồn tại. Đến khi nước Việt hưng quốc, những giá trị văn hiến Việt bị Hán hóa trong hàng ngàn năm đó trở ngược lại trong văn hiến Việt và nghiễm nhiên bị ngộ nhận có nguồn gốc Tàu. Nhưng những giá trị minh triết Việt vẫn lưu truyền rải rác trong dân gian cho các thế hệ mai sau tìm về nguồn cội và phục hồi lại chính gốc của một lý thuyết cổ xưa đầy huyền bí. Mà những giá trị của nó thì những tri thức của nền khoa học hiện đại chưa đủ để thẩm thấu. Bởi vì nó chính là Lý thuyết thống nhất vũ trụ - "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại".
    2 likes
  3. 2 likes
  4. Hình dáng người cao vừa tầm/nở nang/da trắng /khuôn mặt đẹp /thông minh,nhân hậu và thẳng thắn/thích ăn ngon mặt đẹp hay chưng diện vẽ bề ngoài /tánh hơi lãng mạn và đa tình /đàn bà con gái ra ngoài có nhiều kẻ thầm thương nhớ trộm .Số không được hưởng phúc ,nên ly tổ lập nghiệp,khi chết ở xứ người /cuộc đời tình ái có nhiều trắc trỡ,nên đi xa mà kết duyên vợ chồng thì mới đở được hình khắc chia ly ,thường duyên tình phải đỗ vỡ đôi ba lần rồi mới lập gia ,nếu không sẽ không tránh khỏi 2 đời chồng/ trong cuộc sống gia đạo luôn có sự bất hòa ,có đôi khi những chuyện xẩy đến vô lý và bất ngờ làm cho gia đạo bất ổn ,thường là lấy chồng là trưởng nam , nói chung gia đạo như như đợt sóng xô vào rồi kéo ra ,cứ thế mà cho suốt chung cuộc đời . Công danh gặp nhiều trỡ ngại,nhưng sau vẫn hiển đạt thường là hoạnh phát hoạnh phá và cũng không được lâu bền, sự nghiệp không được hưởng của tiền nhân để lại nếu có chút ít ,cũng tự tay tiêu phá hết /nếu có cũng lìa bỏ mà không được thừa hưởng /về sau tự tay lập nghiệp ,về già mới có ,nhưng nhỏ mọn và tầm thường /sự nghiệp thành bại thất thường /thay đổi nơi ăn chốn ở luôn /trong đời cũng có đôi lần phá sãn có lúc gần như trắng tay . Đến năm 26t /duyên tình tan vỡ chia tay. Năm 27t có thể lập gia đình trong năm nầy. Đến năm 30t ,hạnh phúc gia đạo tan vỡ / nói chung số nầy /hồng nhan không bạc mệnh nhưng lại truân chuyên .
    2 likes
  5. Đời đáng chán hay không đáng chán !Cất chén Quỳnh riêng tìm bạn tri âm ?
    1 like
  6. Cháu xin chúc mừng thầy Thiên Sứ và các anh các chị của trung tâm lý học đông phương .
    1 like
  7. Sáng nay, 19/11/2011 Câu lạc bộ PTLV tại Hà nội đã tổ chức chúc mừng Sư phụ và các trợ giảng nhân ngày Hiến chương các nhà giáo Việt Nam Kínhchúc Sư Phụ luôn mạnh khỏe, có thật nhiều niềm vui, kiên cường -tiếp tục sự nghiệp Vinh danh nền Văn hiến Việt và bồi dưỡng những kiến thức kỳ vĩ cho lớp lớp thế hệ kế cận. Kính chúc ban trợ giảng mạnh khỏe, tiếp bước Sư phụ, vinh danh văn hiến Việt Sau đây là một vài hình ảnh ghi lại: Toàn thể anh chị em chụp ảnh lưu niệm Anh mocmien đại diện tặng hoa và chúc mừng Sư phụ phamhung đại diện tặng hoa và chúc mừng Thày Linhtrang
    1 like
  8. Anh Thiên Anh hôm nay gia nhập hội Lạc Việt Độn Toán rồi hả. Welcome anh! :)
    1 like
  9. 1 like
  10. Sodpa – Nhẫn Nhục Ba La Mật Ngày 23 tháng 7 tại Nyoma, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đã khai thị hoàn toàn bằng tiếng Ladakh về chủ đề Sodpa tức “Nhẫn nhục ba la mật”. Sau đây là phần trình bày tóm tắt nội dung bài giảng pháp của Ngài: Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành quan trọng nhất trong Bồ tát đạo. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa. Trước hết, khi bạn đang đau khổ tột cùng, đừng bao giờ buông xuôi và nản chí. Bạn cần lạc quan và tiếp tục thực hành thiện hạnh. Bạn cần phải kiên trì thực hành Phật Pháp. Chúng ta đã thực hành và nghe thuyết pháp rất nhiều, vậy mà dường như chúng ta chẳng hề tinh tấn và tiến bộ. Đó chính là vì chúng ta thiếu mất Sodpa. Bất cứ khi nào cảm thấy vui sướng hạnh phúc, bạn đều dễ bị trôi lăn lạc bước. Bạn không biết tự thỏa mãn, bằng lòng, và tâm bạn luôn tràn đầy kiêu mạn tự hào. Chẳng hạn, nếu bạn là người giàu có nhất trong làng, bạn cảm thấy rất tự hào về mình và coi thường người khác. Có được sự giàu có và sức khỏe là điều rất tốt, bởi lẽ ai cũng cần có tài bảo và sức khỏe, nhưng đừng nên ngã mạn. Nếu bạn giàu có, hãy biết cảm ơn những nghiệp thiện mình đã tích lũy thay vì coi thường người khác. Là người mạnh mẽ, đẹp đẽ, khỏe mạnh hay giàu có không nên là lý do khiến bạn trở nên ngã mạn, vì ngã mạn sẽ mang lại kết quả không tốt đẹp. Thí dụ, nếu bạn xinh đẹp và hãnh diện về vẻ đẹp của mình, bạn sẽ phải chịu nhiều đau khổ khi nhìn thấy chỉ một vết nhăn hay một cái mụn nhỏ nổi trên mặt. Lúc này đây, trước mặt tôi, tất cả chúng ta đều có làn da cháy nắng, đen đủi và nhăn nheo. Thật đáng tri ân vì chúng ta xấu xí, như vậy chúng ta sẽ không có cơ hội để ngã mạn và vì thế chúng ta sẽ không phải gánh chịu khổ đau. Ha! Ha! Ha! Nếu bạn đang hạnh phúc, bạn không nên để mình lạc bước hay vui mừng quá độ. Bạn cần biết vì sao mình có được hạnh phúc và không nên kiêu mạn vì những gì mình đang có. Mỗi khi có được quyền lực và sự giàu sang, bạn phải hiểu rằng những điều đó rất vô thường và sẽ không trường tồn bền lâu. Sodpa có nghĩa là bạn không nên kiêu mạn về bản thân khi mọi điều suôn sẻ thuận lợi đến với mình, và bạn không nên buồn rầu khi những người khác làm tốt hơn bạn, thay vì thế bạn cần phải hoan hỷ giống như chính mình đang thành công như họ vậy. Thời xa xưa, vua chúa là những người có quyền lực. Họ dùng quyền lực để xây dựng nên rất nhiều thành lũy, cung điện, người dân chẳng có lựa chọn nào khác và buộc phải tuân theo. Giờ đây, tất cả những gì còn lại từ những công trình vĩ đại ấy chỉ còn là đất đá và đổ nát. Những vị vua đó đều đã qua đời từ lâu và bạn chỉ có thể biết tới những thành tựu lớn lao của họ qua những trang sử sách còn lưu lại. Điều này cho chúng ta thấy mọi thứ đều vô thường. Vì vậy, chúng ta cần thực hành Sodpa mỗi khi cảm thấy hạnh phúc hay bất hạnh. Chúng ta luôn nghĩ và tin tưởng rằng tiền bạc là tất cả. Nếu có được tiền bạc, chúng ta sẽ có thể xoay chuyển được cả thế giới. Và để có được tiền, người ta sẵn sàng làm mọi điều xấu xa. Rất nhiều người trong chúng ta tin rằng nếu giàu có, chúng ta sẽ hạnh phúc. Nhưng sự thực lại không phải như vậy. Sodpa thực chất chính là sự thực hành Bồ tát đạo. Nếu không có Sodpa thì sự thực hành Bồ tát đạo sẽ không thể nào viên mãn. Cho dù chúng ta có thực hành bất cứ pháp nào, như Lục độ Ba La mật hay bất cứ một công hạnh nào khác, chúng ta đều cần thực hành Bồ tát đạo với tình yêu thương và lòng bi mẫn. Nếu không có tình yêu thương và lòng bi mẫn, chúng ta sẽ không thể thực hành Lục Độ Ba La Mật cũng như mọi thiện hạnh khác. Vạn Pháp đều không nằm ngoài từ bi và tính không. Từ bi là phạm trù vô cùng rộng lớn và tính không vô cùng sâu xa. Từ và bi giống như những đội quân đóng ở biên phòng để canh giữ biên giới cho tổ quốc, chống lại mọi thế lực thù địch. Chẳng hạn như đội quân biên phòng có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc ở biên cương, nếu chỉ đi người không thì quả thật là điều vô cùng ngu ngốc và vô nghĩa. Họ cần phải được trang bị vũ khí. Tương tự như vậy, bạn cần phải được trang bị tâm từ và tâm bi để có thể chống lại những xúc tình tiêu cực hiện tướng của ngũ độc, tức là sân giận, tật đố, chấp thủ, vô minh và ngã mạn. Vì vậy, nếu bạn tìm kiếm giác ngộ, bạn cần phải thực hành vì lợi ích của hữu tình chúng sinh. Nếu không có sức mạnh của tình yêu thương và lòng bi mẫn, bạn sẽ không thể đạt tới giác ngộ. Khi bạn thực hành tâm từ và tâm bi với động cơ chân chính, sự thực hành sẽ thực sự che chở và giúp đỡ cho bạn có thể chinh phục mọi xúc tình tiêu cực và vượt qua mọi chướng ngại. Thí dụ, có một lần Đức Phật, với tâm đại từ đại bi đã thành thục viên mãn, bị người em họ Ngài là Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) đem tâm đố kỵ âm mưu ám hại. Devadatta định hãm hại Đức Phật bằng một hòn đá tảng, nhưng hòn đá lại lăn xa khỏi người Đức Phật rồi quay vòng trở lại. Một thí dụ khác, Đức Phật đã gặp một đàn voi say điên cuồng giết hại mọi người và phá hoại nhà cửa. Khi tới gần Đức Phật, chúng bỗng trở nên hiền lành, bình tâm trở lại, và quỳ lạy dưới chân Đức Phật. Không ai có thể kiểm soát được đàn voi ấy, nhưng với lòng từ bi, Đức Phật đã có thể chế ngự được chúng. Nhờ thực hành trưởng dưỡng tâm từ bi, Đức Phật đã hoàn toàn chuyển hóa sân giận, vô minh, bám chấp cũng như mọi xúc tình tiêu cực khác trong tâm mình. Nếu bạn không thể phá bỏ được những xúc tình tiêu cực ấy, không thể kiểm soát được tâm sân giận của mình, có thể rốt cuộc bạn sẽ giết hại kẻ thù của mình. Gia đình họ hàng quyến thuộc của kẻ thù sẽ truy đuổi bạn và kết quả là bạn có thêm nhiều kẻ thù hơn. Nếu giết hại 100 kẻ thù, bạn sẽ có thêm 5,000 kẻ thù khác. Bạn sẽ chỉ làm tăng thêm chứ không làm giảm đi những quả báo bất thiện. Vì vậy, nên bạn đừng nghĩ tới chuyện loại bỏ kẻ thù bên ngoài của bạn, thay vì thế, bạn cần phá hủy tâm sân giận bởi đó chính là kẻ thù bên trong của bạn. Như vậy, số lượng kẻ thù sẽ tăng lên hay giảm đi chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào mình bạn. Tam độc hay ngũ độc được coi là kẻ thù bên trong của bạn, còn mọi người, chúng sinh hay hoàn cảnh đều được coi là kẻ thù bên ngoài. Chúng ta vẫn thường cố gắng hết sức để phá hủy những kẻ thù bên ngoài mà không hề biết rằng chỉ cần phá hủy được kẻ thù bên trong, mọi kẻ thù bên ngoài sẽ hoàn toàn biến mất. Khi sân hận, bạn chiến đấu và giết hại kẻ thù, rồi sau đó bạn cảm thấy rất tự hào về mình. Nhưng đối với một con người, đây là điều tệ hại và xấu xa nhất không được phạm phải. Xét từ góc độ từ bi nhân ái, từ góc độ tâm linh hay thậm chí từ góc độ xã hội, sân giận là một điều vô cùng xấu xa. Mọi người có thể sẽ không chê bai trước mặt bạn, nhưng khi vắng mặt họ sẽ nói với nhau “Không nên gần gũi người đó”. Vì vậy chúng ta cần phải kiểm soát được tâm mình. Nếu nói về tài bảo thế gian thì có bao nhiêu cũng không bao giờ đủ. Hôm nay bạn có thể có 10 đô la nhưng bạn vẫn ước ngày mai có 20 đô la, và mỗi ngày ước muốn đó càng tăng lên. Bạn không bao giờ mãn nguyện. Điều này giống như uống nước muối khi bạn đang khát. Càng uống bạn càng thấy khát. Đó chính là hậu quả của lòng tham muốn hay dục vọng. Cách đối trị là mỗi ngày bạn cần kiểm soát sự tham muốn trong nội tâm. Chẳng hạn khi thấy một thứ gì đẹp đẽ, tâm tham muốn bên trong của bạn lập tức muốn có được thứ đó. Nhưng bạn cần kiểm soát tâm mình bằng cách từ bỏ ham muốn đó. Mỗi ngày, từng ngày một, từng chút một, bạn làm như vậy, rồi sẽ tới một ngày bạn kiểm soát được tâm mình. Chẳng hạn, nếu bạn nghiện thuốc hay nghiện rượu, bạn sẽ không thể bỏ được ngay một lúc. Cho dù bạn có phát nguyện, rồi cuối cùng bạn cũng sẽ không làm được. Vì thế, hãy cố đừng giữ bất cứ điếu thuốc nào trong túi, đừng đi chơi với những người bạn thích uống rượu. Hãy đề nghị bạn bè đừng uống rượu hay hút thuốc trước mặt bạn. Nếu bạn có thể thực hiện điều này từng chút một, có khi bạn chưa kịp nhận thấy thì bạn đã từ bỏ được thói quen xấu đó rồi. Nếu không, khi gặp gỡ bạn bè, có thể vì lịch sự, bạn sẽ uống một chút rượu hay hút một điếu thuốc. Và bạn tự nhủ rằng chỉ một lần này thôi thì cũng chẳng hại gì. Cứ như vậy cuối cùng mỗi lần bạn sẽ dùng thêm một chút, cho tới khi bạn sẽ chẳng thể ngừng thói quen xấu đó lại được nữa. Tất cả những thói quen xấu như hút thuốc hay uống rượu đều rất tổn hại đối với con đường dẫn tới giác ngộ xét từ khía cạnh thực hành tâm linh và cả từ góc độ thế tục. Những thói quen này đều rất có hại tới sức khỏe. Hút thuốc rồi sẽ dẫn tới căn bệnh ung thư, thế nhưng mọi người vẫn cứ tiếp tục hút cho tới khi bị mắc bệnh thật sự. Khi họ mắc bệnh thì đã quá muộn rồi. Vì thế, nếu bạn có thể đấu tranh để loại bỏ chúng, từng chút một, từng ngày một bạn sẽ có thể đạt được tiến bộ. Đó cũng chính là thực hành Bồ tát đạo. Bất cứ điều gì bạn nhìn thấy, nghe được hay cảm giác đều là do tâm tạo tác. Tâm chính là yếu tố mang lại cảm giác mãnh liệt về điều gì tốt, điều gì xấu. Chẳng hạn như ngọn đồi ngoài kia, tâm nói với chúng ta rằng ngọn đồi đó cao hay thấp. Ngọn đồi không phải do tâm tạo ra, nhưng tâm tạo ra những hoàn cảnh hay điều kiện về ngọn đồi. Chẳng hạn tâm nói với chúng ta món ăn này ngon hay dở, nói với chúng ta thứ này ngắn hay dài. Nhưng tất cả mọi thứ đều chỉ là vọng tưởng, ngay cả tâm cũng không phải là thật. Nếu bạn thử tìm kiếm xem tâm ở đâu; tâm có màu gì; tâm có kích thước như thế nào; bạn sẽ không thể nào tìm thấy câu trả lời. Đó chính là bản chất của tâm. Có và không, xấu và tốt, cao và thấp, tất cả đều chỉ mang tính tương đối. Tự tính của vạn pháp là chân không. Do tâm là hư vọng nên mọi thứ do tâm tạo ra cũng đều là hư vọng, và chúng ta không nên đuổi theo hư vọng. Chúng ta thường có khuynh hướng tham chấp ái luyến những con người, những hoàn cảnh, những sự vật hiện tượng tốt đẹp. Chẳng ai muốn chịu đựng đau khổ. Ai cũng muốn được hạnh phúc. Nhưng chúng ta cần phải hiểu được rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều là hư vọng. Giống như cầu vồng vậy. Tất cả những thứ tốt đẹp cũng giống như cầu vồng, đều không có thật. Thực hành xả chấp cũng là thực hành Bồ tát đạo. Bám chấp sẽ dẫn tới khổ đau vô lượng. Thế nhưng cũng đừng nên tuyệt vọng khi gặp đau khổ, vì đau khổ cũng chỉ là hư vọng mà thôi. Khổ đau muôn hình vạn trạng, trong đó có bốn nhóm chính. Thứ nhất là bạn đau khổ khi không có được điều mình mong muốn. Thứ hai là ngay cả khi đã có được thứ mình mong muốn rồi, bạn vẫn đau khổ vì lo sợ sẽ đánh mất nó. Loại khổ thứ ba là bạn gặp gỡ những người hoặc những hoàn cảnh mà bạn không mong muốn song lại chẳng có cách nào để trốn tránh. Loại khổ thứ tư là bạn buộc phải xa lìa những người, những đồ vật hay những hoàn cảnh mà bạn yêu mến. Đây là bốn loại khổ thông thường vẫn gặp. Có những người khổ vì ốm đau, có những người khổ vì mất người thân yêu v.v. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đau khổ. Nếu như bạn gặp phải bất cứ cảnh ngộ nào như vậy, bạn đừng nên tuyệt vọng. Bạn cần phải hiểu rằng đau khổ là bản chất của luân hồi. Hãy nghĩ về điều đó và tự nhủ, “Mình đang đau khổ bởi những nghiệp quả bất thiện trong quá khứ đang chín muồi”. Thay vì cảm thấy tuyệt vọng hay hoảng loạn, bạn hãy bình tâm và cầu nguyện. Hãy thử suy nghĩ và hành động tích cực, thiện lành, để trong tương lai và những đời sống sau nữa bạn sẽ không phải trải qua cảnh khổ tương tự. Trong khi đau khổ, bạn cũng cần nghĩ tới những người đang chịu đau khổ giống như bạn, hãy cầu nguyện cả cho họ và nguyện rằng họ sẽ không phải chịu đau khổ giống như bạn đang phải chịu. Đau khổ là vọng tưởng và vọng tưởng giống như một giấc mơ. Thí dụ như khi bạn nằm mơ thấy con mình tử nạn, trong mơ bạn cảm thấy đau đớn tột cùng, cho dù đó chỉ là giấc mơ. Ngay khi thức dậy, bạn nhận ra rằng con bạn vẫn còn sống và đó chỉ là một cơn ác mộng. Điều này cho thấy những đau khổ chúng ta đang trải qua cũng chỉ là ảo vọng. Hiểu được rằng đau khổ là ảo vọng cũng là thực hành Bồ tát đạo. nguồn: http://drukpavietnam.org
    1 like
  11. Rượu RƯỢU GẠO - Rượu cũ bình mới: Âm Dương như Cốt với Bình Cốt là Ruột Rượu, Bình là cái da Dương ngoài biến đổi xông pha Âm trong giữ mãi Nếp nhà cho thơm Nhìn nhận phần Dương của sản phẩm : văn hóa bình đựng rượu Lịch sử của Rượu: Một từ như RƯỢU rồi đến TỬU cũng thấy là từ RƯỢU có trước từ TỬU, có khi đến hàng ngàn năm. Tiếng Việt, “Ruột” là cái Lõi trong cùng của bất cứ vật thể nào. Rượu không phải tự nhiên loài người nghĩ làm ra. Nó là do phát hiện ngẫu nhiên như phát hiện Lửa vậy. Ruột = Ruột-Rà = Tá = Lả = Lửa = Lõi. Ruột là cái Tim = Tâm, nó là ngọn lửa của cơ thể như Hải Thượng Lãn Ông định nghĩa, nó là cái gốc, Ruột = Rễ = Thể. Mọi ngôn ngữ của loài người đều bắt đầu bằng A, như đứa trẻ ra đời là Há miệng khóc A…, A = Cả = Cà = Cơm = Cơ = Kẻ = Thẻ = Thể. Cơm là cái ăn được của quả cây, Cơ là cái ăn được của động vật, nhưng động vật thì phải giết chết nó rồi mới ăn được, nên cái “Thể động vật đã chết bởi bị Giết” mới lướt gọi là “Thịt”. Còn trong Thể động vật đang sống thì gọi là Cơ chứ không gọi là Thịt. Tiếng Việt có thành ngữ “Máu mủ ruột rà” chứ không phải là “Máu mủ ruột thịt” như người ta vẫn nói sai, do hiểu sai chữ Nhục là Thịt như người Hán mượn dùng chữ Nhục để chỉ Thịt. Chữ Nhục nếu truy ngược lịch sử thì thấy Nhục=Nhau=Rau=Ruột (Hai chữ Cùng Nhau=Cùng Rau, ý nói là ruột rà, xưa người Việt viết đều bằng hai chữ nho có bộ Cung, ý là đều Cùng một Bụng mà ra, đó là hai chữ : 同 肉, đọc là Đồng Nhục, tức Cùng Nhau). Trái dừa già bỏ quên lâu thì cơm dừa và nước dừa trong ruột nó tự lên men thành rượu, ngẫu nhiên uống phải thấy ngây ngất , cảm giác hay hay, rồi mới nghĩ ra cách chế rượu. Rượu là phát hiện của dân nông nghiệp trồng trọt ngẫu nhiên từ trong Ruột của trái cây chín nẫu. ( Giáo sư tiến sĩ người Canada Julio Mercader là nhà sử học thuộc Học viện khảo cổ học nhiệt đới, trong một nghiên cứu mới đây nhận định rằng loài người đã bắt đầu sử dụng hạt cốc để ăn từ cách nay 100.000 năm, và biết nấu rượu từ ngũ cốc cũng từ đó). Ruột = Rượu = Riệu = Diệu = Dậu = Lẩu (tiếng Thái) = Chẩu = Chỉu (tiếng Hán- “jiu”) =Tỉu = Tửu. Kỹ thuật làm rượu cũng là có từ thời mẫu hệ, do U làm ra: U = Ủ = Ấm = Ôn温“ wen” = Nốn = Náu = Nấu = Nướng酿 “niang” = Chường = Chưng蒸 “zheng” = Chứa = Chắt = Chất = Cất = Kiếu窖 “jiao”. Nói “Nấu một mẻ rượu” hay nói “Cất một mẻ rượu” cũng nằm trong Nôi Khái Niệm đó cả. Văn hóa đồ đựng rượu: Đồ đựng rượu bao gồm bình rượu, lon rượu, ấm rượu, ly rượu, đồ hâm rượu v.v.Theo cẩu trúc to nhỏ mà chia ra gọi là Lon rượu, Ao rượu, Hải rượu, Đàn rượu v.v. Đồ đựng rượu đại diện cho nội dung và hình thức văn hóa. Trong lịch sử, ấm rượu, ly rượu, đồ hâm rượu từng có một địa vị văn hóa huy hoàng, cho đến tận ngày nay, bất luận số lượng hay chất lượng công nghệ đã sớm lùi xuống vị trí chỉ là bổ trợ, còn giá trị nghiên cứu có ý nghĩa nhất vẫn là tính di lưu của lịch sử. Ngày nay ủ nấu rượu theo công nghiệp với sản lượng lớn và tốc độ nhanh nên đồ chứa đựng rượu người ta không mấy để ý đến tính văn hóa, chia ra bình đựng phổ thông và bình đựng công nghệ. Bình đựng công nghệ thì tập trung thể hiện tính văn hóa. Văn hóa bình rượu đã tồn tại trong một lịch sử rất lâu dài, nhưng khái niệm chân chính về văn hóa bình rượu thì ngày nay mới được nhiểu nhà sưu tầm bình đựng rượu dân gian nêu lên. Nội dung của nó là: Văn hóa bình rượu là tên gọi chung của các loại hiện tượng văn hóa dựa vào bình rượu làm tải thể. Nó bao hàm toàn bộ tư duy và hành vi của con người đối với việc tạo bình, dùng bình, giữ bình, thưởng ngoạn bình. Cũng tức là nói công nghệ bình rượu vừa là sản phẩm vật chất vừa là sản phẩm tinh thần, cái bình rượu vừa là vật thực dụng vừa là vật nghệ thuật, nó có cái đẹp cụ thể lại có cái đẹp trừu tượng, tức nó vừa có dáng vừa có hồn. Nội dung hình thức của bình rượu có thể đề cập đến chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, lịch sử , pháp luật, dân tục, mỹ học, văn nghệ v.v. rất nhiều phạm trù, nó phát triển thành một môn khoa học vòng ngoài vượt qua phạm vi của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, dần dần hình thành một khoa học tự thân , đó là “khoa học văn hóa bình đựng rượu”. Văn hóa bình đựng rượu có các đặc trưng cụ thể là: 1.Tính trang sức văn hóa. Bình đựng rượu là một tải thể thừa kế và chuyển tải nội dung nhiều loại văn hóa. Văn hóa là biểu hiện hình thức của bình rượu. Nội dung này cùng với hình thức đã thống nhất biểu đạt lên tính trang sức của văn hóa. Làm cho nguyên bản vốn chẳng có màu sắc gì trở nên có nhan sắc mỹ lệ, làm cho nguyên bản không có nội dung gì trở thành một câu chuyện làm động lòng người. Làm cho nguyên bản vốn chỉ có hình thái đơn nhất trở nên các loại tạo hình. Những thông tin ấy thông qua thị giác của con người mà chuyển cái đẹp đến đại não, làm cho con người đạt được sự hưởng thụ thỏa mãn về tinh thần, hình thành nên hứng thú thẩm mỹ và giá trị nhân văn cao hơn. Cái lõi của tính trang sức văn hóa là “đẹp”. Bình rượu nghệ thuật là một bài thơ vô thanh, là một bức họa lập thể, là một âm nhạc cô đọng, là một bức tượng lưu động. Đặc trưng cốt lõi của văn hóa bình rượu là tính trang sức văn hóa. 2.Tính phong phú nội dung. Văn hóa bình rượu thừa tải cá tính độc đáo này, quyết định tính phong phú về nội dung của nó. Nước ta có lịch sử văn hóa lâu đời từ thời nền văn minh Văn Lang Lạc Việt rực rỡ cách nay 5000 năm ( “ Kể năm hơn bốn ngàn năm. Tổ tiên rực rỡ anh em thuận hòa. Hồng Bàng là Tổ nước ta. Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang”). Nhiều thời đại trải qua trong lịch sử, các dân tộc trên đất nước ta vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa độc đáo của từng sắc tộc, văn hóa của từng tôn giáo, cùng sống chung “anh em thuận hòa” như “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, những nết độc đáo của văn hóa dân tộc như điêu khắc đá của người Chăm, điêu khắc gỗ của người Tây Nguyên, chạm trổ của người Kinh, nặn tượng đất, tò he, tễu rối nước, dáng đa dạng của dụng cụ đan bằng tre mây của các dân tộc, truyện cổ tích, tích chèo và tích cải lương ca ngợi cái thiện, tích hát bội ca ngợi lòng nghĩa hiệp, ca dao, thư pháp, thơ Đường, câu đối, tranh dân gian v.v.và v.v. là đề tài văn hóa không bao giờ cạn cho bình đựng rượu thừa tải, biểu đạt nên nội hàm trừu tượng về chính trị, kinh tế, lịch sử, văn nghệ, tôn giáo. Tất cả những thứ kể trên đều là chất liệu cơ bản cho văn hóa bình rượu. Nội dung phong phú chính là đặc trưng chủ yếu nhất của văn hóa bình rượu. 3.Tính đa dạng hình thức. Hình thức biểu hiện của văn hóa bình rượu là vô cùng đa dạng. Chất liệu đa dạng, tạo hình đa dạng, màu sắc đa dạng, phụ đề văn hóa trên bình rượu đa dạng. Chất liệu của bình đựng rượu từ cổ xưa là chất liệu tự nhiên: gỗ, tre, sừng , vỏ ốc, vỏ quả bầu hồ lô. Rồi đến gốm, sứ, đồng thau, đá ngọc, thủy tinh, bạc, nhôm, inox, nhựa, giấy v.v..Tạo hình thì muôn vẻ người, cảnh động vật, vật thể v.v., lại muôn màu muôn sắc… Vấn đề là sự kết hợp các tố chất nghệ thuật để phản ánh được một nội dung tinh thần đầy bản sắc văn hóa có thể lay động tâm hồn con người nhất, để người dùng có thể thỏa mãn đầy đủ mọi cảm xúc: thưởng ngoạn, thưởng thức, cất giữ như sưu tầm của báu. 4. Tính dân tộc khu vực . Đây cũng là một đặc trưng của văn hóa bình rượu. Văn hóa rượu truyền thống của dân tộc cũng là một hình thái văn hóa, bản thân nó đã có giá trị khoa học của văn hóa . Bản thân văn hóa bình rượu là một khái niệm động thái, là một quá trình phát triển của lịch sử, bởi vậy văn hóa bình rượu có đặc trưng khu vực và đặc trưng dân tộc, có đặc trưng thời đại. Nước ta nhỏ nhưng đa sắc tộc nên bản sắc văn hóa phong phú, bức tranh ấy là chất liệu phong phú cho văn hóa bình rượu. 5. Tính dung hợp và thừa kế truyền thống. Văn hóa rượu có một quá trình phát triển lâu dài cùng với sự phát triển lịch sử của dân tộc.Văn hóa bình rượu phát triển theo mọi hướng nhưng vẫn là bắt đầu từ truyền thống mà lên . Tinh hoa của bình rượu ở các thời đại là ở chỗ chất liệu, màu sắc, tạo hình, kế thừa mãi theo các đời cho đến ngày nay. Rượu theo quan niệm dân gian thì càng bày ra càng hay, do vậy mà từ xưa người ta đã thích vẽ vời càng nhiều điều trên bình rượu càng hay, đó là một không gian sáng tác rất rộng, đó là độ dễ dãi của văn hóa bình rượu, mỗi một tiến bộ văn hóa gì của thời đại cũng dễ được đem thể hiện trên bình rượu, bình rượu dung hợp được hết, làm cho văn hóa càng hoàn mỹ và đầy đủ. Cho nên có thể nói rằng văn hóa bình rượu là sự chứng kiến lịch sử, là sự tượng trưng thời đại, là phong thái của xã hội, là hình ảnh tổng hợp của đời sống. Tính dung hợp và thừa kế truyền thống là đặc trưng cơ bản nhất của văn hóa bình rượu. Nhà sản xuất rượu chính là người cổ động, sáng tạo và phát triển văn hóa bình rượu. Người tiêu dùng chính là người truyền bá và giữ gìn văn hóa bình rượu. Lãn Miên
    1 like
  12. 1 like
  13. 1 like
  14. 1 like
  15. Công danh sự nghiệp lận đận, thường xuyên phải thay đổi nghề luôn. Tuổi trẻ phải bôn ba rày đây mai đó, Về lúc đứng tuổi các hạ mới được an nhàn và sự nghiệp vững.Tình duyên thì cũng chán lắm. Sẽ có nhiều người nhưng buồn nhiều hơn vui, năm nay cẩn thận với bạn gái ko là ôm cục nợ đấy.
    1 like
  16. Hít và Niệm thở, ru bảy luân xa “Niệm” là “Nói - Nghiệm” với tâm Có nói thành tiếng - hoặc thầm trong im Lục bát trắc - với vần bằng Hễ trắc hít tới - thời bằng thở êm: 1. Om Ma Ni - Pad Me Hum Vẳng như tiếng nhạc - ru êm cõi lòng 2. Óm Ma Ni - Pad Me Hùm Luân xa vẫn cứ - theo vòng mà lăn 3. Om Ma Ni - Pad Me Hum Thân tâm vẫn cứ - lớn lên âm thầm 4. Óm Ma Ni - Pad Me Hùm Trí tuệ thông sáng - trong vùng lặng tâm 5. Om Ma Ni - Pad Me Hum Da dẻ sáng láng - như ông trăng tròn 6. Óm Ma Ni - Pad Me Hùm Nghĩ gì theo nấy - việc làm hanh thông 7. Om Ma Ni - Pad Me Hum Mãi ngân tiếng nhạc - ru êm cõi lòng
    1 like
  17. Ngẩn ngơ, vơ vẩn Lý học Tàu. Hàng ngàn năm trôi qua, nền văn minh Đông phương đã lưu truyền những bản văn chữ Hán nói về thuyết Âm Dương Ngũ hành, một cách mơ hồ và bí ẩn. Cho đến ngày nay, khi xu thế hội nhập toàn cầu đã hội nhập hầu hết những nền văn minh nhân loại thì có thể nói rằng cả thế giới này đã mặc định thuyết Âm Dương Ngũ hành - cốt lõi của nền Lý học Đông phương - thuộc về nền văn hóa Hán. Mặc dù cho đến ngày nay, học thuyết này vẫn chỉ để lại những dấu ấn mơ hồ và sừng sững thách đố trí tuệ của nhân loại. Và có lẽ mọi người cũng quá quen thuộc với một biểu tượng của học thuyết này với đồ hình dưới đây: Những người tìm hiểu ứng dụng và nghiên cứu Lý học Đông phương cũng nghiễm nhiên thừa nhận tính hợp lý của đồ hình này, như một biểu tương cô đọng nhất cho tính minh triết cho thuyết Âm Dương ngũ hành với những lý luận của các nhà Hán Nho. Cũng đã trải hàng ngàn năm qua – kể từ đời Hán – các nhà lý học phương Đông thuộc văn hóa Hán đã có rất nhiều cố gắng lý giải ý nghĩa của câu “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái”. Có người cho rằng: Thái cực là Thái nhất, là thái Hư. Có người cho rằng: Thái cực có nguồn gốc từ Vô cực, Thái cực động sinh Dương, Dương tịnh sinh Âm, Âm Dương sinh ra Ngũ hành (Chu Hy – Dịch học khởi mông). Có người cho rằng: Tứ tượng tức là Thái Âm, Thái Dương, thiếu Âm, thiếu Dương… Nhưng tất cả các cách giải thích của họ đều mơ hồ và mâu thuẫn. Khiến cho đến nay nền văn hóa cổ Đông phương vẫn là một sự huyền bí, khó hiểu ngay từ nguyên lý khởi nguyên của nó (*). Bây giờ, chúng ta xem xét câu trong Hệ từ được các nhà Lý học Trung Hoa phát biểu như sau: “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái” Câu này người viết chia làm hai vế là: “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng" và "Bát quái". Ở vế đầu chúng ta thấy rằng: Thái cực là một khái niệm miêu tả trạng thái khởi nguyên của vũ trụ; sinh "Lưỡng nghi" cũng là khái niệm miêu tả sự phát triển giai đoạn tiếp theo của vũ trụ sau Thái cực. Tương tự như vậy, khái niệm Tứ tượng cũng là sự miêu tả trạng thái tiếp theo của vũ trụ sau "Lưỡng Nghi". Nhưng đến về thứ hai thì khái niệm "Bát quái " lại là khái niệm miêu tả những ký hiệu quy ước trong Dịch học. Như vậy đây là một câu không thống nhất về tính đồng đẳng trong nội dung của chuỗi khái niệm trong Lý học Trung Hoa. Nói nôm na và hình ảnh thì nó tương tự với một nội dung như sau: "Ông bà sinh ra cha mẹ; Cha mẹ sinh ra con cái; con cái đẻ ra con vịt". Vậy mà cả thế giới vỗ tay ầm ầm khen hay. Hay thật! ============================= * Chú thích: Xin xem “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại
    1 like
  18. Mẹ cháu dạng người thấp nhỏ nhưng xương to hay nhỏ ,tay chân có bị tai nạn hay té ngã có tật gảy ? bà ta có bị gì u sơ tử cung hay buồng trứng không ?
    1 like
  19. Đô Dương , mã bất tiến . Bách Việt Trùng cửu . Đình Hội Phụ, quê hương của các tướng Đào Kỳ - Phương Dung Trong tác phẩm Anh hùng Lĩnh Nam, bác sĩ Trần Đại Sỹ có kể lại câu chuyện khá cảm động của hai vợ chồng Đào Kỳ và Phương Dung, là tướng của Hai Bà Trưng, đóng ở vùng Bắc sông Đuống. Trong trận Cấm Khê Đào Kỳ đã bị thương, về đến Cổ Loa thì mất. Phương Dung tuẫn tiết theo chồng. Câu đối còn truyền lại nói về hai vị tướng này: Vị lý Phục Ba thi, loan giá lâm lưu không ẩm hận Bất ly Tiên trấn giáp, Loa thành qui mã thượng trì thanh. Dịch nghĩa: Chưa bọc xác Phục Ba, cạnh sông xe loan còn vang uất hận. Không rời giáp Tiên Trấn, ngựa về Cổ Loa, vẫn vọng âm thanh. Lăng Đào Kỳ ở Mai Lâm – Đông Anh Câu đối khác tương truyền có ở đền thờ Đào Kỳ - Phương Dung ở làng Hội Phụ: Giao Chỉ tượng thành công dư lục thập thành giai kiện tướng. Đô Dương mã bất tiến hậu thiên vạn tải hữu linh thần. Bác sĩ Trần Đại Sỹ dịch là: Voi Giao Chỉ đã thành công, hơn sáu mươi thành đều công tướng giỏi Ngựa Đô Dương chậm bước, nên muôn ngàn năm sau thần vẫn linh. Tuy nhiên, câu đối này nếu dịch như vậy thì có chỗ không ổn. “Mã bất tiến” đúng nghĩa phải là “không tiến lên được”, không phải là “chậm”. Nếu hiểu là “ngựa Đô Dương” không chịu tiến thì thành ra vì Đô Dương không chịu đi ứng cứu nên Đào Kỳ - Phương Dung mới tử trận và hóa thần? Thật vô lý. Đô Dương là tướng của Hai Bà sau đó còn kiên cường chiến đấu ở Cửu Chân chống giặc. Chẳng nhẽ câu đối ở đền thờ này nói tới chuyện “bất hòa” nào đó giữa Đô Dương và Đào Kỳ - Phương Dung? Hiểu chính xác hơn: “Mã bất tiến” đây là quân của Mã Viện đã không thể tiến lên được bởi sự kháng cự của Đô Dương. Đây là một bằng chứng cho thấy cuộc đàn áp của Mã Viện đã không hoàn toàn thành công như sử vẫn chép. Sau khi Hai Bà mất, Đô Dương lui về giữ Cửu Chân và đã cản được bước tiến của Mã Viện xuống phía Nam. Đô Dương không phải chỉ cầm cự được với Mã Viện trong 2 năm như chính sử viết, mà Mã Viện đã “không thế tiến” được qua đất của Đô Dương. Vậy Đô Dương, người thực tế đã tiếp nối thành công sự nghiệp của Trưng Vương là ai? Sử cũ hầu như không cho biết gì về Đô Dương cả. Người đã ngăn được bước tiến của giặc Mã phương Bắc không thể không có những vết tích để lại. Theo Thiên Nam ngữ lục thì Mã Viện và quân Hai Bà đã giảng hòa và dựng cột đồng làm mốc giới ở Man Thành (Bắc Quảng Tây). Cột đồng Mã Viện dựng nên chính nơi Mã Viện đã không thể tiến thêm được nữa, tức là nơi đánh mốc giữa nhà Đông Hán và nước của Đô Dương. Biên giới này nằm ở nơi Đô Dương trấn giữ là Cửu Chân. “Cửu Chân cương lý dư, địa thượng Bắc Nam công bán tại” (Đền Hát Môn) Rõ ràng Cửu Chân, nơi phân chia Nam Bắc không thể là vùng Thanh Hóa mà phải ở Quí Châu, nơi có Man Thành và cột đồng được dựng. “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là lời đe dọa của Mã Viện sẽ bẻ gãy mốc giới để tấn công tiêu diệt Giao Chỉ. Cột đồng như vậy là hình ảnh tương trưng cho sự bất khuất của quân dân Giao Chỉ chứ không phải là biểu trưng thành tích của Mã Viện. Trong câu đối trên từ “Mã” được dùng để chỉ quân Đông Hán nói chung chứ không riêng gì Mã Viện. Và như vậy đối lại, từ “Tượng” ở vế trên cũng là danh từ riêng, chỉ quân vua Trưng, chứ không phải là chỉ "voi Giao Chỉ" như vẫn dịch. Tượng là phương Tây, Mã là phương Bắc. Một lần nữa lại thấy triều đại của vua Trưng có thể đã được gọi là Tây, cũng như trong câu: “Tiếp Lạc khai Đinh, quan miện xưng vương tam tải sử” (Đền Đồng Nhân) Đinh= Tây, Tượng = Tây. Tới đây ta hiểu vì sao lại có hình ảnh Trưng Vương cưỡi voi. Đó là hình ảnh của vua Trưng trên ngôi Hoàng đế của nước Tượng - Tây - Đinh. Có sách ghi cha của Hai Bà Trưng cũng có tên là Hùng Định, có phải cũng muốn nói Hai Bà là dòng giống vua Hùng ở hướng Tây? Liệu Tượng ở đây có phải muốn nói tới Tượng quận đời Tần? Theo Văn nhân, Đô Dương có thể chính là Khu Liên / Khu Đạt, người lập nên nước Lâm Ấp, và là Đạt Vương của người Choang ở Quảng Tây. Theo gia phả họ Phạm: “Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trc CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Viêt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa...” Dễ dàng thấy rằng Lý Kiên là tên phiên thiết của Liên, hay Lý Khu Kiên = Khu Liên. Thông tin Khu Liên họ Lý, là Đô Dương lại đóng ở Cửu Chân sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng dẫn đến một suy nghĩ khác. Khu Liên hay Đô Dương có thể chính là Lý Thiên Bảo trong cuộc khởi nghĩa tiếp theo vì: - Lý Thiên phiên thiết là Liên. Lý Thiên Bảo = Bảo Liên = Khu Liên. Lý Thiên Bảo theo sử Việt chạy về Cửu Chân rồi lập nước Dã Năng ở Ai Lao, lên ngôi Đào (Đoài) Lang Vương. Đoài = Định Đoạt = Đạt, là quẻ Đoài chỉ phương Tây. Như vậy Đoài Lang Vương của người Ai Lao Di có thể cũng là Đạt Vương của người Choang ở Quảng Tây. Nước của Đô Dương như trong các câu đối về Hai Bà Trưng có tên là Đinh hay Tượng, tức là Tây. Nước của Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử lập nên sau này cũng sẽ là Tây, là nước Thục. Thật bất ngờ khi biết khởi nghĩa Trưng Vương đã dẫn đến sự hình thành nước Thục của Lý Phật Tử - Lưu Bị. Như vậy khởi nghĩa Hai Bà Trưng không gì khác chính là khởi nghĩa Hoàng Cân cuối đời Đông Hán. Quân Hai Bà Trưng dùng màu vàng làm cờ hiệu có lẽ muốn nhấn mạnh tính “Lạc Hùng chính thống” của mình theo quốc tổ Hữu Hùng Hoàng Đế. Giặc Mã không tiến được trước quân của Đô Dương – Lý Thiên Bảo /Lưu Biểu ở Quí Châu rõ ràng như vậy chính là quân của Tào Tháo. Dịch lại câu đối ở đền Đào Kỳ - Phương Dung theo nghĩa mới phát hiện: Giao Chỉ, Tượng thành công, dư lục thập thành giai kiện tướng. Đô Dương, Mã bất tiến, hậu thiên vạn tải hữu linh thần. Dịch là: Chốn Giao Chỉ quận Tượng thành công, sáu mươi thành lẻ đâu cũng là tướng giỏi Gặp Đô Dương giặc Mã hết lối, muôn ngàn năm sau mãi mãi có thần thiêng. Nghè Lê Xá thờ Đào Kỳ - Phương Dung ở Đông Anh với câu đối: Cử mục sơn hà vô Hán tướng,Thệ tâm thiên địa hữu Trưng vương .Dịch: Ngước mắt núi sông không tướng HánTâm nguyền trời đất có vua Trưng. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng quả là một thời bi tráng. Dưới sự đàn áp tàn bạo của quân Đông Hán, khởi nghĩa vẫn không thất bại mà cả một vùng Lĩnh Nam đã được giữ vững, buộc giặc Hán phải cắm mốc phân biên, khai mở một triều đại mới của người Việt là nước Thục của họ Lý. Văn nhân góp ý : Tiến sĩ Nguyễn Việt trong bài : “Nguồn cội hình thành truyền thuyết Thánh Gióng” cho biết : Hậu Hán thư có nói đến công trạng của Nhâm Diên khi làm thái thú Cửu Chân (24-29 sau Công nguyên) đã hòa giải được với man Dạ Lang để giảm được quân tuần tra đồn trú. Nhưng do cách nhìn nhận cũ Cửu chân là vùng Thanh hóa nước Việt nên tác gỉa đã lấy đấy làm dẫn chứng cho ý kiến của mình : có người Man Dạ lang ở ngoài Qúy châu . Đoạn văn : ...Nhâm Diên khi làm thái thú Cửu Chân (24-29 sau Công nguyên) đã hòa giải được với man Dạ Lang...đã xác định : Cửu chân chính là Qúy châu và là đất của Âu – Lạc như tư liệu lịch sử viết : ‘Qúy châu bản Tây Âu – Lạc việt chi địa’ .
    1 like