-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 02/11/2011 in all areas
-
Dĩ Đạo Âm Dương
Nguyên Anh and 3 others liked a post in a topic by Hà Uyên
Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm. Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó. Cho nên nói tình dã Hà Uyên4 likes -
Nước Mắt Chú Trâu
longphibaccai and one other liked a post in a topic by wildlavender
MỘT CHÚ TRÂU ĐÃ THAY ĐỔI CUỘC SỐNG CỦA NHỮNG NGƯỜI XẺ THỊT Theo tin được phổ biến bởi “Tin Tức Nhân Dân” (People’s News) của Trung Quốc thời có một chuyện bất ngờ xảy ra ở Hong Kong, nghe có vẻ khó tin nhưng lại có thật. Tờ “Tin Tức Thế Giới Hàng Tuần” (Weekly World News) tường thuật rằng có một nhóm nhân công dắt một con trâu vào trong một lò sát sinh để sửa soạn giết thịt làm bíp-tết và hầm ra-gu. Khi họ đi tới trước cửa lò thời con vật thình lình đứng khựng lại, không chịu tiến bước thêm nữa. Chú trâu qùy xuống bằng hai chân trước và tuôn rơi nước mắt. Tại sao trước khi vào lò sát sinh mà một con trâu lại có thể hay biết rằng nó sắp bị xẻ thịt. Điều này tỏ ra nó có vẻ nhậy cảm hơn nhiều con người. Tay đồ tể SHIU TAT-NIN kể lại chuyện đó một cách hoàn toàn súc động: “Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!” Anh chàng kể tiếp: “Tôi vội vàng gọi mọi người tới coi và tất cả đều ngạc nhiên như tôi. Chúng tôi cùng xúm vào để người thì đẩy và người thì lôi kéo chú trâu đi nhưng nó không chịu nhúc nhích, nó chỉ ngồi đó và tiếp tục khóc!” Chủ lò sát sinh BILLY FONG nói: “Con người luôn nghĩ rằng những con vật này không giống người, đâu biết khóc, nhưng chú trâu này quả thật đã khóc như một đứa trẻ nít!” Vào lúc đó có ít nhất là cả chục con người khoẻ khoắn và vạm vỡ hiện diện nhưng tất cả đều mủi lòng khi thấy chú trâu khóc. Riêng những đồ tể thường có nhiệm vụ hàng ngày phải giết trâu bò trong lò sát sinh thời súc cảm hơn nữa, họ cũng nhỏ lệ. Buffalo weeping nonstop. Khi các tay đồ tể từ các lò sát sinh khác nghe thấy tin này họ cũng kéo nhau chạy tới xem. Tất cả đám đông đều rất ngạc nhiên vì những chuyện xảy ra trước mắt họ. Ba người đồ tể trong nhóm đó quá súc động đến nỗi họ tuyên bố rằng kể từ lúc này mỗi khi họ phải làm thịt các sinh vật khác họ cũng sẽ không thể quên hình ảnh nước mắt của chú trâu này. Kết thúc sẽ giải quyết như thế nào? Thấy cả trâu lẫn người đều nhỏ lệ chúng ta biết rằng chú trâu sẽ không bị xẻ thịt nữa. Quả thật vậy, một số người bỏ tiền mặt ra mua chú trâu đó rồi gửi chú vào trong một ngôi chùa Phật giáo để nơi đó quý Tăng sẽ chăm sóc nó chu đáo hơn và chú trâu có thể an lành sống đến tận cuối đời! . THIS BUFFALO HAS CHANGED THE LIFE OF THESE BUTCHERS According to the news release from China’s People’s News, whether people believe it or not, this incident actually happened in Hong Kong. The Weekly World News reported that a group of workers were bringing a water buffalo into a packaging factory, ready to slaughter it to make steak and beef stew. When they approached the front door of the slaughterhouse, the sorrowful buffalo suddenly stood still, refusing to move forward, kneeling on its two front knees, and with tears streaming from its eyes. How could the buffalo have already been aware that it was going to be slaughtered, before entering the slaughterhouse? This shows that it was even more alert than many a person. "When I saw what is believed to be a stupid animal actually crying, and when I noticed that its eyes were full of fear and sadness, I could not help but shiver." Extremely shocked by this, butcher Shiu Tat-Nin recalled:"I quickly called other people to come see, and they were as surprised as I was! We pushed and pulled the water buffalo, but it would not move; it just sat there crying constantly." Billy Fong, the boss of the Hong Kong packaging plant said, "Mankind has always thought that animals are not like people who can cry, but this buffalo is really sobbing like a baby!" At that time there were at least a dozen strong, burly men present, but their hearts were softened by the buffalo's crying, and those who were responsible for killing water buffaloes were even more touched by this, tears welling out of their eyes. Buffalo weeping nonstop When workers from other slaughterhouses heard the news, they also ran to the crying and kneeling buffalo, and the site was soon crowded with people who were astonished at what they saw. Three of them were so shocked that they said that from now on, even when they slaughter other kinds of animals, they will never forget that buffalo’s tears.At the point when a buffalo is crying and people are crying as well, we can all be sure that none of them will kill the buffalo now. Then the question was how to take care of this matter. Finally, they decided to buy the water buffalo with cash, and then they sent it to a Buddhist temple, for the monastic to take good care of it, so that it could be assured of living out its life peacefully. When this decision was made, an amazing thing happened again: "When there was an assurance that the buffalo would not be killed, it finally agreed to move, got up, and it’s here with us." How could a water buffalo understand human words? Shiu said: "Whether you believe it or not, this is really true, although it sounds really incredible." Undoubtedly, this buffalo has changed the lives of these butchers. Một chuyện kỳ lạ khác lại xảy ra. Sau khi có quyết định trên chú trâu linh cảm rằng sinh mạng chú được bảo đảm, chú tự đứng dậy và đi theo họ. SHIU TATNIN ngạc nhiên nói: “Tại sao một con trâu lại hiểu được những lời nói của con người? Dù bạn có tin hay không nhưng chuyện lạ lùng này quả có thật.” Hiển nhiên chú trâu này đã làm lay chuyển cuộc sống của những nhân công làm việc trong lò sát sinh! Tâm Minh lược dịch2 likes -
Muốn học Dịch, chẳng nên ra câu hỏi kiểu như thế này ! 俗人察察, 我獨悶悶1 like
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT THIÊN ANH. VẠN SỰ AN LÀNH - TÀI LỘC DỒI DÀO, HẠNH PHÚC DÀI LÂU.1 like
-
Chân thành cảm ơn những lời chúc tốt đẹp của Cô Will, và Huynh, đệ, Tỷ, muội! Chúc cho tất cả cùng nhau tất tới và đạt được nhiều niềm vui trên diễn đàn và trong cuộc sống Xin cảm ơn!1 like
-
1 like
-
xem theo giờ của bạn: 20h30, 7/10/2011: Cảnh Tiểu cát Tuyệt vời, chúc mừng bạn, chuyện cưới hỏi, thưa chuyện của bạn thành công tốt đẹp, cả nhà cùng vui xem theo giờ của bạn: 20h30, 7/10/2011: Cảnh Tiểu cát Tuyệt vời, chúc mừng bạn, chuyện cưới hỏi, thưa chuyện của bạn thành công tốt đẹp, cả nhà cùng vui1 like
-
Thưa anh, Năm nay là một năm không tốt đối với anh, nên làm gì thì dở dang đó. Việc vỡ nợ là do năm ngoái anh đầu tư hơi bốc đồng, tưởng ăn ngay, ăn nhanh nhưng cuối cùng năm nay dổ bể. Việc phục hồi thì phải 3 năm nữa (39 tuổi) anh mới có cơ hội làm ăn khá hơn. Đại vận42 trở di của anh khá, nên anh cũng bền gan vững chí mà làm ăn. chúc anh thành công Huyencodieuly1 like
-
Ủa, nhậu hả???? sinh NHẬT THIÊN ANH thì nhậu thôi, cho nhậu với!!! chúc mừng, chúc mừng!!!!1 like
-
Ui sinh Nhật Thiên Anh hả. Nhậu điii...1 like
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT !
Thiên Anh liked a post in a topic by Guest
CHÚC MỨNG SINH NHẬT THIÊN ANH, Thêm một tuổi mới nhiều Niềm Vui và Hạnh Phúc1 like -
Chào bạn, Môt quẻ bói chỉ là một thông số mà dựa vào đó có thể luận giải. Đúng hay sai, chính xác hay chưa chính xác, chính xác tới bao nhiêu %, tất cả là do người bói quẻ - tuy thuộc vào khả năng, vào trực giác, kinh nghiệm. Người dùng Lạc Việt Độn Toán cấp 3 tức là ko cần bấm mà đoán quẻ bằng cảm ứng, lúc đó chính là bạn dùng 100% vào trực giác, giác quan để đoán quẻ. Trong một canh giờ, có bao nhiêu chuyện xảy ra trên trái đât này, nhưng một quẻ bói hàm chứa thông tin của tất cả các sự kiện, hiện tượng đó. Cho nên, việc luận đoán quẻ chính xác hay không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của người bấm quẻ. Chúc bạn tìm được nhiều điều thú vị từ LVDT. Thân hth1 like
-
Cốt yếu là phù hợp với thẩm mỹ là tốt nhất, vì chỉ một màu thì đơn điệu quá. Hai vợ chồng nhà này dùng màu vàng chủ đạo pha màu trắng nhé Thân mến1 like
-
Mệnh Thất Sát ở Thân dạng người trung bình đến hơi cao, mặt vuông, xương lộ, da trắng, thông minh học hành giỏi giang. Là con trưởng hay đoạt trưởng, dáng đi nhón gót hay nhanh nhẹn, lúc đi bộ ngừoi khác theo không được mình. Tính tình can đảm, thẳn thắn, dũng mãnh, nhưng cũng khá nóng nẩy. Cha hay mẹ là người rất đào hoa, có thêm anh chị em dị bào sức khỏe mẹ kém. Bản thân hay bệnh về phụ nữ, hay bị đau bụng hàng tháng, lúc ngủ hay đổ mồ hôi trộm, phía mắt phải có từng bị vật gì nhọn đâm phải để lại vết sẹo dài.1 like
-
Chúc mừng sinh nhật Anh Thiên Anh! Em chúc anh gặp nhiều may mắn và thành công trong cuộc sống!!!1 like
-
Upload lên Photobucket.com, resize về 640x640 rồi tìm nút chèn hình ở phía trên, past link vào đó là được. Cả Trong lẫn ngoài nhé! Thân mến1 like
-
Hôm nay SN Thiên Anh à, vui nhi ?! Chúc Thiên Anh nhiều thành công hơn nữa, sức khỏe dồi dào, và may mắn1 like
-
Chúc Mừng Sinh Nhật Thiên Anh! Chúc Thiên Anh luôn vui khỏe, yêu đời, công việc và học thuật ngày càng thăng tiến.1 like
-
Chúc mừng sinh nhật anh Chúc anh luôn khoẻ mạnh, vui vẻ, hạnh phúc1 like
-
Chúc mừng sinh nhật THIÊN ANH, Chúc thêm tuổi mới với nhiều niềm vui và thắng lợi mới!!!!!1 like
-
Chúc Mừng Tuổi Mới! Anh em họp mặt thôi!!1 like
-
Chúc mừng sinh nhật sư huynh Thiên Anh! Làm ăn tiến tới, năm mới phát tài.1 like
-
Hey ! Happy Birthday Thiên Anh.Hạnh Phúc Thăng Hoa, Sự Nghiệp Thăng Tiến1 like
-
Chúc mừng sinh nhật Thiên Anh Chúc Thiên Anh sức khỏe, hạnh phúc và thành công! Trực giác1 like
-
Tổng luận nạp âm : - Thường khi viết lách đàm luận Lục thập Giáp tí nạp âm có 60 luật làm gốc tương vòng thành cung vậy, mỗi mỗi đều gồm ngũ âm. Phàm thì dương khí khời đầu ở phương Đông rồi hành qua phải, âm khí khởi ở phương Tây rồi hành qua trái. Âm dương tương thác mà sanh biến hóa. Gọi là khí bắt đầu ở phương Đông mà tứ thời bắt đầu ở Mộc, hành qua phải thì truyền ở Hỏa, Hỏa truyền qua Thổ, Thổ truyền qua Kim, Kim truyền qua Thủy . Gọi là gốc ở phương Tây tức ngũ âm khởi đầu ở Kim, hành qua trái truyền ở Hỏa, Hỏa truyền qua Mộc, Mộc truyền qua Thủy, Thủy truyền qua Thổ. - Nạp âm trong Dịch cũng cùng một pháp. Càn nạp Giáp, Khôn nạp Quý, bắt đầu ở Càn mà hết ở Khôn. Nạp âm đầu ở Kim, Kim tức là Càn vậy, kết ở Thổ, Thổ là Khôn vậy. Ở trong ngũ hành chỉ có Kim luyện mà thành khí, thanh âm rất rõ vang xa, cho nên nạp âm đầu là Kim. - Pháp nạp âm tương tự như lấy vợ, cách 8 mà sanh con, là pháp âm luật tương sanh vậy. Giáp Tí Kim thân đồng vị lấy Ất Sửu cách 8 mà sanh Nhâm Thân là Mạnh. Nhâm Thân đồng vị lấy Quý Dậu cách 8 ngôi mà sanh Canh Thìn Kim là Quý. Canh Thìn đồng vị lấy Tân Tỵ cách 8 mà sanh Mậu Tí Hỏa là Trọng . Mậu Tí lấy Kỷ Sửu sanh Bính Thân Hỏa là Mạnh. Bính Thân lấy Đinh Dậu sanh Giáp Thìn Hỏa là Quý. Giáp Thìn lấy Ất Tỵ sanh Nhâm Tí Mộc là Trọng. Cứ như vậy Tả hành đến Đinh Tỵ trung cung. Ngũ âm hết trở lại Giáp Ngọ Kim mà truyền. Giáp Ngọ lấy Ất Mùi cách 8 mà sanh Nhâm Dần, cứ theo pháp Giáp Tí cho đến Quý Hợi. Từ Tí đến Tỵ là dương, cho nên từ hoàng chung đến trung cung là dương đều hạ sanh ; từ Ngọ đến Hợi là âm, nên từ lâm chung đến ứng với chung đều thượng sanh. Nói thượng hạ sanh tức là thiên khí hạ giáng địa khí thượng thăng. - Dịch nói thiên địa giao thái cũng chính là cái nghĩa ấy vậy, nhưng sở sanh chỉ có ba tức cũng có nghĩa tam nguyên cho nên trong sách nói tam mà thành thiên, tam mà thành địa, tam mà thành nhân tượng hào trong Dịch. - Lão tử nói : nhất sanh nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn vật, bởi có trước mới có sau vậy. Lại xem Hư lạc sử nói : Giáp Ất mộc, Sửu Mùi Thổ, Tí thủy mà Ngọ hỏa, sáu thứ này không có kim mà phối hợp Phong hậu bèn lấy Giáp Tí Ất Sửu, Giáp Ngọ Ất Mùi mà xuất kim, số cũng vậy mọi sự hòa hợp biến đổi cũng từ đấy mà ra .Càn là Thiên, Khôn là Địa, Càn Khôn hợp lại là thái bình ; Đức là cha, Hồng là mẹ, Đức Hồng hợp mà Đồng. Can là quân, Chi là thần, can hợp chi mà sinh nạp âm ; cho nên Giáp Ất là quân và Tí sửu là thần, Tí Sửu Giáp Ất hợp lại mà thành Kim, bởi ngũ hành tại nơi thiên hạ, tất cả đều có khí tánh, có tài vị, hoặc tương tế hoặc tương khắc, nếu thành hoặc chưa thành khí thì trong vượng phải chịu tuyệt, trong tuyệt phải chịu khí, nếu chỉ lấy tương phối mà thủ thì là bất đồng thôi. Cho nên số của Kim sở dĩ khó đồng vậy mà lại có Hải trung, Sa trung khác nhau vậy. Hoặc nói Giáp Ất lấy tương khắc mà thủ, Gíap gia với Canh , Ất giá với Tân, Giáp Ất tức có Kim khí, cho nên thường thì Mộc có Kim thai, dương sanh nơi tí thủy vượng địa cho nên Giáp tí Ất sửu là Hải trung dương Kim, âm sanh nơi ngọ hỏa vượng địa cho nên Giáp ngọ Ất mùi là Sa trung âm kim. Tí là Thái dương, Ngọ là Thái âm. Lấy giáp vào Tí, Ất vào Sửu lần lượt đến Ngọ thì được Canh, Mùi thì gặp Tân tức dương sách âm. Lấy Giáp vào Ngọ, Ất vào Mùi cho đến Tí sửu cũng được Canh Tân là âm đơn dương. Đây cũng chính là phép toàn cung. Phu thê tử mẫu tương tề, tương khắc, tương thượng tương hạ mà mang sẵn các điềm cát hung vậy. Thảo thì có đàn có đống, đơn lẻ mà thực là sát yểu, hợp lại mà thực là thọ, tỷ như Kim có sắc trắng mềm hợp lại mà luyện sẽ thành cứng, cái lý là như. %20align= Lại xét trong lục vi âm luận nói : Nạp âm tức là Tí Ngo đếm đến Canh, Sửu Mùi đếm đến Tân, Dần Thân đếm đến Mậu, Mảo Dậu đếm đến Kỷ, Thìn Tuất đếm đến Bính, Tỵ Hợi đếm đến Đinh ; 7 phần nầy tứ phương khí số nạp âm thuộc Kim vậy ; phương Nam thiên khí màu đỏ nên nạp âm thuộc hỏa vậy, được 9 tức phương Đông khí dương 9 nên nạp âm thuộc Mộc vậy, được 1 tức trung ương khí tỗn thống nên nạp âm thuộc Thổ vậy, được 5 tức Bắc phương khí huyền cực nên nạp âm thuộc thủy. Giả như Giáp Tí Giáp Ngọ từ Giáp đến Canh, Ất Sửu Ất Mùi từ Ất đến Tân thỉ số đều là 7 nên nạp âm thuộc Kim. Bính Dần Bính Thân theo Bính đến Mậu, Đinh Mảo Đinh Dậu từ Đinh đến Kỷ thì đều số 3 nên nạp âm thuộc Hỏa. Mậu Thìn Mậu Tuất từ Mậu đến Bính, Kỷ Tỵ Kỷ Hợi từ Kỷ đến Đinh thì đều số 9 nên nạp âm thuộc Mộc. Canh Tí Canh Ngọ, Tân Mùi Tân Sửu, đều là số 1 nên nạp âm thuộc Thổ. Bính Tí Bính Ngọ từ Bính dến Canh, Đinh Mùi Đinh Sửu từ Đinh dến Tân đều là số 5 nên nạp âm thuộc Thủy. Sở dĩ chỉ lấy Can số mà không lấy Chi số, như từ Bính đến Canh tức là Bính đinh mậu kỷ canh đó tức 5 số vậy. Lại như từ Giáp đến Canh tức Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh thì 7 số vậy. Đây là cái nghĩa của Lạc sứ. - Lại trong Tục đường hà lục nói : Nạp âm lục thập Giáp tí tức là dùng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ mà làm rõ vậy. Nhứt lục là Thủy, nhị thất là Hỏa, tam bát là Mộc, tứ cửu là Kim, ngủ thập là Thổ. Nhưng ở trong ngũ hành chỉ có Kim và Mộc là có âm tự nhiên, còn Thủy Hỏa Thổ thì nương giả mà sau đó có âm vậy. Thủy giả Thổ, Hỏa giả Thủy, Thổ giả Hỏa nên Kim âm là 4, 9 Mộc âm là 3, 8. Nhứt lục là Thủy, ngũ thập là Thổ, nhị thất là Hỏa ; như Giáp Tí Ất Sửu có số là 34 thừa 4 là Kim âm vậy. Mậu Thìn Kỷ Tỵ có số 28 thừa 8 là Mộc âm vậy . Canh Ngọ Tân Mùi có số là 32 thừa 2 là Hỏa vậy. Thổ dùng Hỏa làm âm nên bèn là Thổ vậy. Giáp Thân Ất Dậu có số 30 là Thổ vậy. Mà Thủy dùng Thổ làm âm nên bèn là Thủy vậy .Mậu Tí Kỷ Sửu có số 31 thừa 1 là Thủy, Hỏa lấy Thủy làm âm nên bèn là Hỏa vậy. Thường lục thập Giáp Tí đều gồm lưỡng Kim lưỡng Mộc tương kích tự nhiên mà thành âm và Thủy thì dùng Thổ kích, Hỏa thì dùng Thủy kích, tương thắng mà thành âm. Thổ nhờ Hỏa nung đúc mà thành khí vật sau đó mới có âm, đấy cũng là cái lý tự nhiên. Lại nói rằng Lục thập Giáp tí nạp âm đều do ngũ âm mà sanh, ngay thẳng thông suốt, bởi Giáp tí là đầu mà ngũ âm đầu tiên ở cung Thổ nhưng cung Thổ sanh kim nên Giáp Tí là Kim còn Ất Sửu là âm theo dương ; lấy Kim mà sanh Thủy nên Bính Tí là Thủy mà Đinh sửu tòng theo. Giác Mộc sanh Hỏa nên Mậu Tí là Hỏa, dùng hỏa sanh Thổ nên Canh Tí là Thổ. Vũ Thủy sanh Mộc nên Nhâm tí là Mộc mà Kỷ sửu Tân sửu Quý sửu tùng theo, đến nơi Giáp Dần thì nạp âm khởi ở Thương, Thương là Kim sanh Thủy cho nên Giáp Dần là Thủy ; giác Mộc sanh Hỏa nên Bính Dần là Hỏa, trưng Hỏa sanh Thổ nên Mậu Dần là Thổ. Vũ thủy sanh Mộc nên Canh Dần là Mộc , cung Thổ sanh Kim nên Nhâm Dần lá Kim , ngũ Mảo đều theo đó . Dến Giáp Thìn thì nạp âm khởi ở Giác, Giác Mộc sanh Hỏa nên Giáp Thìn là Hỏa, chủy tương Hỏa sanh Thổ nên Bính Thìn là Thổ, Vũ thủy sanh Mộc nên Mậu thìn là Mộc, cung Thổ sanh Kim nên Canh Thìn là Kim, Thương Kim sanh Thủy nên Nhâm Thìn là Thủy mà ngũ Tỵ đều tong theo. Cung Thương Giác đều vậy chỉ có Trùng Vũ thì không thể ở đầu, đó là Giáp Ngọ trở lại như Giáp Tí, Giáp Thân như Giáp Dần, Giáp Tuất như Giáp Thìn mà ngũ Mùi ngũ Hợi cũng tùng theo các loại Lại một thuyết nói : số đại diễn ngũ thâp thì dùng 49, trước dùng 49 số mà bố, không dùng số thái huyền : Giáp Kỷ tí Ngọ 9, Ất Canh Sửu Mùi 8 ,Bính Tân Thân Dần 7, Đinh Nhâm Mảo Dậu 6 Mậu Quý Thìn Tuất 5, Tỵ Hợi đơn danh 4. Lấy số 5 mà trừ, không đủ 5 thì lấy nạp âm mà thuộc, Thủy 1 Hỏa 2 Mộc 3 Kim 4 Thổ 5 hể tương sanh thì tiện dùng vậy ; như dư 1 thủy thì sanh Mộc, dư 2 Hỏa thì sanh Thổ, dư 3 Mộc thì sanh Hỏa, dư 4 Kim thì sanh Thủy , dư 5 Thổ thì sanh Kim . Giã sử Giáp Tí Ất Sửu 4 vị Can Chi cọng được số 34 , lấy 49 trừ đi ta có số 15, lấy 15 trừ 10 còn dư 5 thuộc Thổ, Thổ năng sanh Kim nên Giáp Tí Ất sửu là Kim ; Bính Dần Đinh Mão 4 vị can chi cộng số được số 26 , lấy 49 trừ đi ta có số 23, lấy 23 trừ 20 còn lạ 3 thuộc Mộc, Mộc năng sinh Hỏa nên Bính Dần Đinh Mão thuộc Hỏa ; Các vị khác cứ theo đó mà tính vậy. Đại để Lục thập Giáp tí như vậy, luật nạp âm vậy, cái khác của can chi nạp âm vậy, đây là cái số tự nhiên của trời đất, Hà Đồ sanh số thì tả toàn nên dùng trung ương là Thổ mà sanh Tây phương Kim, Tây phương Kim mà sanh Bắc phương Thủy, Bắc phương Thủy mà sanh Đông phương Mộc, Đông phương Mộc mà sanh Nam phương Hỏa, Nam phương Hỏa mà trở lại sanh trung ương Thổ. Lạc Thư khác số thì Hữu chuyển nên lấy trung ương Thổ mà khắc Bắc và Tây Bắc Thủy , Bắc và Tây Bắc Thủy mà khắc Tây và Tây Nam Hỏa, Tây và Tây Nam Hỏa mà khắc Nam và Đông Nam Kim, Nam và Đông Nam Kim mà khắc Đông và Đông Bắc Mộc, Đông và đông bắc Mộc mà trở lại khắc trung ương Thổ. Thật là thông suốt cho nên Nạp âm đúng là vi diệu vậy, từng đoạn đều xuất từ Hoàng đế không nghi vậy. Trở lại xét số Thái huyền thì vì sao lấy Giáp Kỷ Tí Ngọ là số 9 , bởi lẻ nguồn gốc của vạn vật thì từ Thiên Địa mà Vận thì lại ở Tứ Thời, Xuân vạn vật tươi tốt nơi Cấn, Thu vạn vật điêu linh ở Khôn, Sanh thì phát, Quy thì chứa mà chẳng rời nơi Thổ, Thổ tức là Khôn Cấn. Dịch nói : Cấn trước sanh ra vật mà Khôn thì vật trưởng thành, Giáp thì đầu thiên can còn Tí thì đầu địa chi, hai nghĩa tuần hoàn mà 1 dương trở lại nên Giáp Tí khởi số ở nơi thiên địa là vậy. Tí 1 dương thuộc Càn tức là đạo cha vậy, Giáp phối với Nhâm theo Tí đếm đến Thân thì gặp Nhâm được 9 số cho nên Nhâm lấy số 9 vậy. Phu phụ phối hợp nên hai can Giáp Kỷ đều mang số 9 vậy. Sửu trước có Ất đến thân được số 8 nên Ất Canh đều mang số 8 vậy. Dần trước có Bính đến Thân được số 7 nên hai can Bính Tân đếu mang số 7. Mảo trước có Đinh đếm đến Thân được số 6 nên hai can Đinh Nhâm đều mang số 6. Thìn trước có mậu đến Thân được 5 nên hai can Mậu Quý đều mang số 5. Đây là thiên can khởi ở Càn. Ngọ là nhứt âm thuộc Khôn là cái đạo làm thần ( tôi ) vậy. Ất phối với Quý, từ Ngọ gia ất đếm đến Dấn gặp Quý được 9 số, Tí là nhứt dương, Ngọ là nhứt âm phụ phụ tương phối nên hai chi Tí Ngọ đếu mang số 9. Sửu gia Dần đếm đến Mùi được 8 nên 2 chi Sửu Mùi đều mang số 8 ,lấy Dần gia Thân đếm đến Dần được 7 nên hai chi Dần Thân đều mang số 7. Lấy Mảo gia Dậu đếm đến Dần được 6 nên hai chi Mảo Dậu đều mang số 6. Lấy Thìn gia Tuất đếm đến Dần được 5 nên hai chi Thìn Tuất đều mang số 5. Lấy Tỵ gia Hợi đếm đến Dần được 4 nên hai chi Tỵ Hợi đều mang số 4. Số chỉ dừng nơi 9 mà không phải là 10 bởi nếu 10 thì lại khởi 1, cho nên thường số 10 thì viết nhứt thập. Số Lạc Thư bắt đầu ở 1 mà hết ở 9, cái số sanh hắc tự nhiên của Thái Ất đồ thư vậy. ( Bởi vạn vật có nguồn gốc là Thiên địa mà vận thì ở tứ thời . ) . Thái Huyền chỉ tùng theo 4 mà khởi số chứ không nói 1, 2, 3 bởi vì 1 sanh 2, 2 sanh 3, 3 sanh vạn vật, 1 là Thiên, 2 là Địa, 3 là Nhân, có thiên địa mà sau mới có vạn vật cho nên nói rằng Tam nguyên ; còn thiên can 10 , địa chi 12 thì khởi ở 9 mà hết ở 4, thiên can địa chi đã tận tự không có 1,2, 3. Số Thái Huyền khởi đều do cái lý tự nhiên như vậy, không thể không biết. nguồn: Phongthuyquan.com1 like
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT THIÊN ANH CHÚC THIÊN ANH LUÔN YÊU ĐỜI, HẠNH PHÚC VÀ TÀI LỘC DỒI DÀO P/s: Có tài lộc nhiều thì nhớ rủ đi nhậu nhé :P1 like
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT THIÊN ANH Chúc Thiên Anh luôn hạnh phúc - trẻ trung - thành đạt1 like
-
Tôi cũng đang tự học Dịch như bạn! - Thiên của số Dương là: Giáp - Bính - Mậu - Canh - Nhâm - Thiên của số Âm là: Ất - Đinh - Kỷ - Tân - Quý - Địa của số Dương là: Tý - Dần - Thìn - Ngọ - Thân - Tuất - Địa của số Âm là: Sửu - Mão - Tị - Mùi - Dậu - Hợi - Nhân của số Dương là: 1 - 3 - 5 - 7 - 9 - Nhân của số Âm là: 2 - 4 - 6 - 8 - 10 Hỏi như vậy, thì biết trả lời sao đây?1 like
-
Yên tâm đi. Để kỳ này bác ra Hanoi gặp Papa của bé, bác sẽ ca bài ca "Của đi thay người"....papa của bé sẽ không cho bợp tai đâu. . Con bác ngủ quên không đóng cửa mất đồ hoài - Từ Ifonne thứ xin, đến laptop, ví tiền...vv....Tạm thời mua cái điện thoại dởm, gắn sim cũ vào; hoặc mua sim mới báo cho papa của bé biết là con đã đổi sim lấy....may. Từ nay bố gọi theo sim này. Hi. Papa của bé sẽ không bít bé làm mất dt .1 like
-
Anh đã đi đền, chùa xóc thẻ xin quẻ "Thánh dậy" bao giờ chưa? Đấy chính là nguyên lý tương tự bốc thăm, rút số như của anh.1 like
-
1 like
-
Bạn có thể cho đường link đến vị trí của nó trên bản đồ wikipedia map được không? Cần có số đo độ chính xác. Thân mến1 like
-
Chia sẻ vấn đề này, tôi có người bạn thân từ thuở hai người còn nhậu rượu đế bị mưa, nhà dột phải bưng mâm chạy. Nay anh ta là đại gia của một tỉnh. Cách đây 6 năm (Đầu 2006), vợ anh ấy bị xác định là ung thư vú và di căn vào phổi. Có ba bệnh viện nổi tiếng nhất Sài Gòn cùng xác định như vậy . Tôi có nhờ một đại cao thủ về Phong thủy Tàu cùng tôi về tỉnh để giúp bạn tôi. Nhưng cao thủ này từ chối. Tôi đành về một mình. Căn nhà được đập hết phần sau sửa lại theo yếu cầu của tôi. Căn bệnh được bớt và vợ bạn tôi khỏe mạnh trở lại. Trước khi trở về Sài Gòn tôi dặn : "Nếu sau này phát triển, mua đất mở rộng được nhà thì mua phía bên trái ". Hai năm sau, anh bạn tôi ăn nên làm ra mua liên tiếp hai căn bên phải. Lúc ấy tôi có về sửa giúp PT cho anh ấy. Tôi nhắc lại lời yêu cầu của tôi: "Chấm dứt mua nhà bên phải". Đầu năm nay, hoặc cuối năm ngoái anh bạn tôi mua thêm căn nữa bên trái. Mua xong, bệnh vợ anh ấy trở lại rất nặng. Đã nhiều năm tôi không về dưới tỉnh ấy, cách đây hơn một tháng tôi được anh ấy mời về chữa phong thủy cho các căn nhà mới mua và cân đối với nhà cũ (Do các căn liền thổ). Tôi không biết lần này có cứu được không. Vợ anh ấy đã nằm liệt giường, có 4 người thay nhau bóp chân tay suốt 24 tiếng. Tôi hy vọng kéo dài được sau Tết. Còn khỏi hẳn thì "May thày phúc chủ". Trước đây , nghe tin đạo diễn tài ba Huỳnh Phúc Điền bị ung thư, tôi có ngỏ lời dùng phong thủy chữa cho anh ta. Tiếc thay! Không có duyên. Mặc dù việc căn nhà anh ta sẽ xảy ra người bị bạo bệnh đã được báo trước một năm.1 like
-
Thuốc gồm có: 1- Hạnh nhân . . . . . . . . . . . . . . . . .10g 2- Chỉ tử . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10g 3- Đào Nhân . . . . . . . . . . . . . . . . . .10g 4- Nếp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10 hột 5- Tiêu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10 hột 6- Lòng trắng trứng gà . . . . . . . . . 1 quả Mua tại tiệm thuốc Bắc. Cách làm : Tất cả đâm nhuyễn trọn đều, để tối trước khi đi ngũ trộn thêm lòng trắng trứng gà rồi đắp vào lòng bàn chân. (lấy vải bó lại cho khỏi rớt) Nam đắp lòng bàn chân trái Nữ đắp lòng bàn chân phải Đắp ngũ qua đêm, nếu ra màu xanh cửu long (xanh biển) là hết bị tai biến từ nay về sau. Chỉ đắp một lần trong đời - Người cao máu mới dùng được Lưu ý -Nếu bị tai biến giật méo miệng, lưởi co rút không nói được, thì lấy kim châm hai dái tai (dưới lổ tai) nặn máu ra liền, miệng sẽ trở lại bình thường. -Nếu bị tai biến xụi chân tay, thì lấy kim châm mười đầu ngón tay nặn máu ra liền, chân tay sẽ trở lại bình thường.1 like
-
ĐỪNG NÊN TỨC GIẬN Mọi người đều biết tức giận sẽ ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe nhưng cụ thể là những bệnh gì và nó gây hại ra sao? 1. Nám da Khi tức giận, một lượng máu lớn sẽ dồn lên não, nguyên nhân là do lượng ô-xy trong máu giảm, độc tố tăng cao. Độc tố sẽ kích thích nang lông phát triển, dẫn đến viêm quanh nang lông ở các mức độ khác nhau, từ đó xuất hiện các vết nám trên mặt. Lời khuyên: Khi gặp phải những chuyện không vui, bạn hãy hít một hơi thật sâu, dang hai tay ra để điều tiết cơ thể để loại bỏ các độc tố. 2. Lão hóa tế bào não Khi một lượng máu lớn dồn lên não, nó sẽ tạo sức ép cho động mạch. Lúc này hàm lượng độc tố trong máu tăng mạnh, lượng ô-xy giảm xuống mức thấp nhất. Các tế bào não sẽ giống như như bị trúng thuốc độc vậy.Lời khuyên: Như trên 3. Loét dạ dày Tức giận dẫn đến các dây thần kinh giao cảm bị kích thích hưng phấn, ảnh hưởng trực tiếp đến tim và động mạch, khiến cho lượng máu lưu thông trong đường tiêu hóa bị giảm, quá trình lưu thông diễn ra chậm, gây kém ăn, dần dần sẽ dẫn đến bệnh loét dạ dày.Lời khuyên: Mát xa vùng bụng khi căng thẳng 4. Thiếu máu cơ tim Một lượng máu lớn dồn lên não và toàn bộ khuôn mặt, khiến cho lượng máu về tim giảm gây thiếu máu cơ tim. Trong khi đó, hoạt động của tim vẫn phải đảm bảo nên lúc này sẽ phải làm việc hơn bình thường gấp nhiều lần, dẫn đến nhịp tim đập bất thường.Lời khuyên:Nhớ lại những kỷ niệm vui đã có trước đây để nhịp tim trở lại bình thường. 5. Gan bị tổn thương Khi tức giận, cơ thể sẽ tiết ra một chất có tên là Catecholamine. Chất này tác động đến hệ thần kinh trung ương khiến cho huyết áp tăng cao, tăng cường phân hủy axit béo, các độc tố trong máu và gan cũng tăng theo tương ứng.Lời khuyên:Hãy uống 1 cốc nước khi tức giận. Nước sẽ “rửa trôi” các axit béo tự do trong cơ thể, giảm bớt độc tố. 6. Kích thích tuyến giáp Khi tức giận, hệ thống nội tiết trong cơ thể sẽ bị rối loạn, khiến cho hormone tuyến giáp tăng tiết, theo thời gian sẽ dẫn đến bệnh ở tuyến giáp.Lời khuyên:Hãy ngồi xuống và thư giãn, nhắm mắt lại, hít thở thật sâu. 7. Hại phổi Khi tâm trạng bị xúc động, nhịp thở sẽ rất gấp, phế nang liên tục mở rộng, ít co giãn, đồng thời cũng không thể thư giãn và nghỉ ngơi.Lời khuyên:Tĩnh tâm, từ từ hít-thở sâu 5 lần, để cho phổi được nghỉ ngơi và thư giãn. 8. Tổn thương hệ thống mễn dich Khi tức giận, cơ thể sẽ theo mệnh lệnh của não tạo ra chất cortisol, hormone stress. Nếu như chất này bị tích lũy quá nhiều trong cơ thể, nó sẽ cản trở các tế bào của hệ thống miễn dịch hoạt động, làm giảm sức đề kháng của cơ thể.Lời khuyên: Nghĩ lại những hồi ức đẹp trước đây mình đã có, cố gắng lấy lại trạng thái cân bằng lúc đầu.1 like
-
(Tiếp theo) Một tử tù bị lời nói, óc tưởng tượng doạ chết. Nhà tâm lý học từng làm một thí nghiệm đối với một người tử tù như sau. Họ bịt mắt một người tử tội và để anh nằm trên một chiếc giường, rồi bảo: “Chúng tôi sẽ cắt đứt gân máu nơi cổ tay anh, máu sẽ chảy ra từng giọt, từng giọt… Đến khi máu chảy hết, anh sẽ chết!” Nói xong, họ giả vờ dùng một vật gì đó gạch mạnh lên cổ tay anh ta, song thực ra không có rách da. Kế đó nhà tâm lý lại dùng nước mà nhiệt độ tương đồng với nhiệt độ máu, nhễu từng giọt, từng giọt lên tay anh ta, khiến anh có cảm giác thực sự là dòng máu ấm của mình đang chảy. Họ lại dùng một chiếc thùng thiếc đặt phía dưới cánh tay để hứng nước, khiến anh nghe được tiếng tí tách như máu đang nhỏ. Họ lại bảo: “Máu của anh đang chảy ra từng giọt một, chảy một lát sẽ hết máu. Bây giờ chỉ còn lại vài phút, thời gian sắp đến rồi!”Quả nhiên thời gian vừa đến, người tử tù đã thực sự chết đi vì sợ! Thực ra, anh chẳng có chảy một giọt máu nào, cũng không bị rách một chút da, mà hoàn toàn bị lời nói và cảnh tưởng tượng lừa dối mà chết đi tức tưởi. Đây là một thí nghiệm tương đối tàn nhẫn, chúng ta tạm gác qua vấn đề này có nhân đạo hay không, nhưng nó đã chỉ ra một sự thực: Tâm niệm và lòng tin có thể quyết định vận mệnh của chúng ta! Người tử tội này có thể bảo là một vị Bồ tát! Tuy rằng anh ta bị dọa sợ đến chết, nhưng kết quả cuộc thí nghiệm này giúp chúng ta phần nào hiểu và tin được đạo lý “tất cả do tâm tạo” của nhà Phật. Tôi thường kể cho người bệnh nghe về cuộc thí nghiệm này. Trước đó họ rất lo lắng, buồn khổ, nhưng sau khi thực sự hiểu được đạo lý này, họ biết rằng có thể dùng tâm niệm mình để thay đổi vận mệnh. Cho nên, họ không còn tự dọa lấy mình, dùng óc tưởng tượng hành hạ bản thân, oan uổng rước lấy lo sợ, đau khổ. Khơi dậy lòng tin, tế bào sẽ phấn chấn, an vui. Tôi còn nhớ, lúc nhỏ đã đọc qua một bài tập đọc, được phiên dịch từ tiếng nước ngoài. Sau khi đọc xong, tôi cảm động đến mức rơi lệ, mãi đến bây giờ vẫn còn ấn tượng rất sâu đậm. Bài văn kể lại câu chuyện một người bệnh nặng, cảm thấy mình sắp chết. Mỗi ngày người đó nằm trên giường bệnh nhìn ra cửa sổ. Lúc đó mùa thu sắp qua, chuẩn bị bước vào mùa đông. Mùa đông ở nước ngoài rất lạnh, lá cây rơi rụng trơ trụi. Người bệnh nhìn lá rụng trong lòng rất cảm thương. Một hôm, người bệnh nằm mơ thấy có người bảo: “Khi những chiếc lá trên cây bên ngoài cửa sổ hoàn toàn rụng hết, sinh mệnh của anh cũng sẽ kết thúc.” Khi tỉnh dậy, nhớ đến giấc mộng đêm qua, anh càng bi quan. Mỗi ngày anh nhìn những chiếc lá rơi rụng mà lòng thấp thỏm âu lo, sức khoẻ sa sút. Thực vậy, mỗi một chiếc lá rụng là tăng thêm một phần sợ hãi, và giảm đi một phần sức khoẻ của anh. Có một vị bác sĩ nhân hậu đến thăm, nhận thấy vẻ bi thương của anh mới dọ hỏi và biết được đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, vị bác sĩ này nghĩ cách giúp đỡ. Sắp đến ngày có tuyết rơi, một buổi tối trời nổi cơn gió mạnh, giá rét căm căm, dường như tất cả những chiếc lá trên cây đều rơi rụng cả. Trong đêm tối người bệnh tuy không trông thấy bên ngoài, nhưng trong lòng đoan chắc rằng không còn chiếc lá nào trên cành, trong tâm hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng sáng sớm hôm sau, người bác sĩ nhân hậu đó lại đến, chỉ cội cây ngoài cửa sổ và bảo: “Anh xem, lá trên cây đều rơi rụng cả, song có một cành lá vẫn còn kia. Cơn gió mạnh tối qua dù có hung dữ đến đâu, cũng không làm nó rơi rụng. Đây thực là một phép mầu. Điều này cho thấy bệnh tình của anh nhất định cũng gặp được phép mầu, sẽ bình phục trở lại!” Người bệnh nhìn ra ngoài khung cửa sổ, quả nhiên lá cây đều rụng sạch, chỉ còn lại những cành cây trơ trụi, khẳng khiu. Nhưng kỳ lạ sao, nếu nhìn kỹ, vẫn còn vài chiếc lá nguyên vẹn trên một cành cây. Nhìn thấy cảnh này, lại nghe lời bác sĩ khích lệ, tinh thần anh phấn chấn trở lại, cả người sung sướng, không bao lâu hết bệnh, trở lại bình thường. Các bạn có biết vì sao câu chuyện này khiến tôi cảm động và có ấn tượng sâu sắc hay không? Bởi vì những chiếc lá còn lại trên cành trải qua cơn giông bão, chính được vị bác sĩ đó vào lúc giữa đêm leo lên cây, tìm cách dán chặt chúng vào cành, nhằm để an ủi, khích lệ, giúp người bệnh có niềm tin, hy vọng, và vui vẻ sống. Những chiếc lá không rụng này tuy giả, nhưng lòng tin của người bệnh là thực, và sức mạnh của nó sinh ra cũng là sự thực! Từ thực tế này, chúng ta có thể hiểu được “niềm tin” có sức mạnh mang tính quyết định! Chúng ta có thể quyết định thời gian còn lại của đời mình phải sống an lạc, vui vẻ, không bị bệnh tật ảnh hưởng! Đây là điều không ai có thể ngăn cản được chúng ta! Bào thai là khối u lớn nhất trong cơ thể. Tôi từng đọc qua một câu trong sách y học về khoa phụ sản: “Thai nhi là khối u lớn nhất trong cơ thể!”Quả thực, thai nhi trong bụng mẹ phân hoá, càng lúc càng lớn, người mẹ không thể nào khống chế được. Ngay cả nhóm máu của thai nhi cũng có thể khác với mẹ. Người mang thai là người mang trong người một sinh mệnh khác mà mình không thể khống chế. Trong sách còn bảo đó là khối u lớn nhất trong thân thể con người! Nhưng tâm lý của người mẹ lại không sợ hãi, phần lớn còn rất vui sướng. Đây là vì người mẹ nhìn thấy phần lớn người có mang đều không sao cả, cho nên tự nhiên không sợ hãi. Giá như, nhóm những người mắc bệnh ung thư nhưchúng ta ai cũng có thể sống vui vẻ, an lạc thì những người sau này mắc căn bệnh này cũng không có lo lắng, sợ hãi. Không ai quy định mắc bệnh ung thư là phải sầu thương ủ rủ, buồn khổ khóc lóc. Chúng ta có thể phấn chấn tinh thần, sống một cách thoải mái, tự tại. Bài học từ cây đu đủ. Chỗ tôi ở có trồng một cây đu đủ. Cây đu đủ này từng là vị bác sĩ và cũng là thầy của tôi. Sao lại nói như vậy? Có một dạo, dạ dày và ruột của tôi bị khối u ung thư bức ép, cho nên ăn uống đều khó khăn, người trở nên gầy ốm. Một hôm tôi tình cờ trông thấy cây đu đủ này. Thực vô cùng kinh ngạc! Thân cây đu đủ còn nhỏ hơn ống quyển chân tôi, chỉ lớn hơn bắp tay của tôi một chút. Lại nữa, nó cũng không cao, có thể nói đó là một cây đu đủ vừa thấp lại vừa nhỏ. Nhưng trên thân của nó lại trổ ra rất nhiều trái, đeo bám đến mấy lớp, ít lắm cũng hơn ba mươi trái! Mỗi trái đu đủ đều lớn hơn khối u ung thư của tôi. Nhưng cây đu đủ này không vì những trái vừa nhiều, vừa to, vừa nặng trên thân mà ngã xuống! Thậm chí nó còn mọc rất thẳng, không nghiêng một chút nào. Tôi nhìn nó mà lòng vô cùng xúc động trước sức sống kiên cường, nên bất giác nước mắt lưng tròng, tỏ lòng tôn kính bảo: “Đu đủ ơi, ngươi thực là vị thầy của ta, ta sẽ học hỏi nơi ngươi.” Muốn thực sự học được như cây đu đủ cũng không phải là điều dễ dàng. Nhưng chúng ta chẳng lẽ lại không bằng cây đu đủ vừa thấp vừa bé đó sao? Lẽ nào chúng ta lại yếu đuối như vậy? Từng có một vị dược sĩ trẻ tuổi mắc bệnh ung thư rất bi quan và cuộc sống của cô cũng trở nên ảm đạm như ngày tận thế! Song thực ra cô không đến nỗi gì cho lắm. Nếu không nói ra, bạn cũg không biết cô ta mắc bệnh. Bên ngoài cô mập mạp hồng hào, sắc mặt cũng không đến đỗi, nhưng bởi vì tinh thần cô ta rất khổ, nên giáo sư Viện Y Học đưa cô đến tìm tôi để cùng khích lệ lẫn nhau. Lúc cô đến, tôi đưa cô đi thăm cây đu đủ, nói với cô về bài học mà cây đu đủ đã dạy cho tôi. Cô nghe xong cảm động đến rơi nước mắt. Chúng tôi cùng nhau chắp tay hướng về cây đu đủ tỏ lòng kính trọng, phát tâm học tập đức tính kiên cường của nó. Trái đu đủ mọc từ thân cây ra, đã có thể mọc ra thì cũng có thể gánh vác! Bướu từ thân chúng ta mọc ra, thì chúng ta cũng có thể chịu đựng, xử lý thoả đáng. Đây là niềm tin căn bản! Tiềm năng cơ thể con người là vô tận. Thân thể của chúng ta vốn chỉ là một cái trứng thụ tinh bé tí trong lòng mẹ, thế mà nó đã phát triển thành đủ mọi giác quan. Những giác quan này tự mình lớn lên và đều có công năng khác nhau, có thể nói đó là một điều không thể nghĩ bàn! Cho dù bạn không quan tâm đến, da thịt bạn vẫn đổi mới mỗi ngày. Người không học ngành y có lẽ không biết rằng trong thân mình có những cơ quan nào. Nhưng tuy bạn không biết, chúng từnhỏ vẫn giúp bạn làm rất nhiều việc tốt. Tiềm lực của chúng thật vô cùng. Trước đây, tôi được nghe thầy Tiêu Vũ Dung giảng Phật Pháp. Người dạy chúng tôi phải có tâm biết ơn đối với cơ thể. Ngài đã nói đến một việc rất lý thú. Đó là lúc chúng ta dùng cơm, chén đũa dính dầu mỡ nếu không dùng nước rửa chén để rửa thì không sao sạch được. Nhưng dạ dày và ruột chúng ta ăn biết bao nhiêu thứ dầu mỡ mà trước giờ mình đâu có cần nước rửa chén hay bất cứ thuốc tẩy rửa nào! Ruột và dạ dày tự nó biết xử lý mà không cần chúng ta dạy dỗ, can thiệp! Vậy bạn nói xem, có phải chúng ta có được một thân thể rất giỏi giang, rất khéo léo hay không? Nó thực sự có Phật tánh, lại còn có đầy đủ tiềm năng lớn mạnh trong đó. Cho nên chúng ta phải gắng sức khai phát, vận dụng tiềm năng này, mà không phải chỉ biết trách móc, chà đạp nó. Thông thường, người ta hay: lúc chưa bệnh sống bê bối, vô độ, đó là chà đạp thân thể; lúc có bệnh lại trách móc nó! Ông chủ nên có lòng từ bi và biết ơn. Bạn thấy, tim của mình đã đập không ngừng từ nhỏ. Lúc chúng ta ngủ nó cũng không ngủ, vẫn tiếp tục đập, chưa từng xin chúng ta nghỉ phép một ngày, cũng như chưa từng có đình công! Nói ra, chúng rất cực khổ. Hiện nay, tuyệt đối tìm không ra một nhân viên nào làm việc hết lòng, hết sức như vậy. Cho nên khi các cơ quan trong thân mình thỉnh thỏang có mệt, có bệnh, chúng ta cũng nên cảm thông nỗi cực khổ mà đối xử với chúng với thái độ từ bi và biết ơn, cũng như cho chúng có cơ hội điều chỉnh và khôi phục. Chúng ta không nên một mực trách móc, bài xích, dường như có mối thù không đội trời chung với chúng, cần phải lập tức cắt bỏ, quyết phải tiêu diệt không chút lưu tình! Nếu bướu mọc nơi mà mình không thể cắt, không thể tiêu diệt ngay lập tức, thì mình lại lo sợ, bực bội, trách móc. Chúng ta thử nghĩ: Giả như bình thường có một ông chủ đối với nhân viên của mình không chút quan tâm, giúp đỡ, một khi nhân viên có chút gì sai lầm, lại muốn lập tức khai trừ! Bạn bảo xem ông chủ đó có quá đáng hay không? Tin rằng ông chủ mà như vậy thì nhân viên đều phản lại! Một ngày trước và sau khi phát hiện ung thư. Chúng ta thử nghĩ xem, một ngày trước khi phát hiện ra ung bướu, thì khối u đó vẫn tồn tại trong thân, vả lại kích thước lớn nhỏ vẫn giống nhau. Lúc ấy, mình mang khối u đi khắp nơi, làm việc và cười nói với mọi người. Vậy tại sao một khi trong đầu mình có ý niệm: “Tôi mắc bệnh ung thư,” thì thế giới trở nên mưa gió, tối tăm, không còn cười tươi được nữa! Chúng ta ai cũng biết, mỗi người khi sinh ra đều chú định sẵn có ngày sinh mệnh kết thúc. Đây không phải là điều mà khi mắc bệnh ung thư mới biết. Nếu mình vì sinh mệnh sẽ kết thúc mà lo sợ, thì lẽ ra từ khi sinh ra đã bắt đầu lo sợ rồi, mà không phải đợi khi bị tuyên bố là mắc bệnh ung thư mới lo sợ! Có thể chuyển hóa tế bào sai lầm . Thực ra tế bào ung thư vốn cũng là những tế bào tốt, như những công dân tốt, trong thân thể của ta. Do phải chịu bức ép, tổn thương, đả kích nên chúng mới bất đắc dĩ thay đổi, phân hóa thành những tế bào sai lầm. Những tế bào sai lầm này sẽ bị thân thể chúng ta quản chế. Bởi vì thân thể của chúng ta giống như một tổ chức xã hội, nó có hệ thống cảnh sát, đối với những tế bào mọc sai, thì bạch huyết cầu, lymphocyte của chúng ta có công năng phát hiện, quản chế và điều chỉnh. Giả sử lúc thể lực chúng ta suy yếu, cuộc sống không điều độ, thì công năng của hệ thống cảnh sát (hệ thống miễn dịch) sẽ trở nên suy yếu, khiến những tế bào mọc sai không được điều chỉnh, không biết cải đổi lỗi lầm. Chính những tế bào sai lầm này lại sinh ra những tế bào sai lầm đời thứ hai. Cứ như vậy tiếp tục sinh sản, dần dà chúng sẽ biến thành một đòan thể tự phát triển, đây chính là “ung bướu.” Điều này giống như một đứa trẻ tốt, nhưng gặp phải hoàn cảnh xấu, thì nó cũng bị ảnh hưởng, tâm lý tốt sẽ dần dần thay đổi, trở nên xấu tính, rồi đi gia nhập băng đảng, chiếm cứ địa bàn, gây gỗ đánh nhau. Đây giống như là ung bướu. Nhưng ngược lại, đứa bé biến chất thành xấu đó cũng có thể trở lại người tốt! Chỉ cần chúng ta hiểu biết, giúp nó loại bỏ những nguyên nhân, điều kiện khiến nó hư đốn. Đối với đứa bé đó, có người chủ trương cứ giết phứt đi là giải quyết được vấn đề. Song giết nó đi rồi sau đó có thực sự đã giải quyết được vấn đề hay không? Nếu hoàn cảnh xấu của toàn xã hội không thay đổi, thì sau này những đứa trẻ tốt khác cũng lại trở thành những đứa bé xấu. Vậy rốt cuộc phải giết đến mức độ nào đây? Đứa bé trở nên xấu là có nguyên nhân. Chúng ta cần phải hiểu rõ và loại trừ nguyên nhân đó, đồng thời cảm hoá, thì đứa trẻ sẽ trở nên tốt. Tế bào chúng ta cũng giống như vậy, không phải chỉ cần giải phẫu, giết sạch tất cả là được! Những người thuộc băng đảng có thể sửa đổi tu thành Phật, thì tế bào ung thư cũng có thể chuyển hoá thành tế bào lành mạnh. Tôi từng quen biết một số người xuất thân từ băng đảng, lại còn giao tiếp với họ rất vui vẻ. Tôi cũng tôn trọng họ. Họ không phải đều là xấu cả, thậm chí có người còn rất ưu tú, biết nhạy cảm với việc thiện. Chẳng qua trong một lúc nào đó do nhân duyên không tốt, họ có mối khổ tâm bất đắc dĩ, nhất thời không thể giải quyết, nên đã đi một bước sai lầm. Nếu có ai thực sự cảm thông cho lập trường và mối khổ tâm của họ, thì trong một niệm họ cũng có thể trở lại là người tốt. Sau khi Phật tánh thiện lương của họ được khai phát, thậm chí họ còn vượt qua một số người bình thường. Chúng ta biết rằng nhân duyên là cái có thể thay đổi. Tế bào cũng giống như vậy, có thể biến thành xấu, mà cũng có thể trở nên tốt. Tế bào ung thư có thể trở thành tế bào bình thường. Y học có một thí nghiệm về việc cấy nuôi tế bào ung thư. Lúc mà điều kiện được khống chế tốt, quả thực có thể khiến tế bào ung thư trở nên bình thường, rồi biến thành tế bào tốt. Chúng ta cần phải lắng lòng lại để phản tỉnh về nguyên nhân khiến những tế bào này trở nên xấu, rồi cố gắng dứt trừ nguyên nhân đó. Khi nhân duyên thay đổi, tế bào có thể trở nên tốt, hay ít ra chúng cũng không phát triển thêm. Một sinh mệnh khác, cũng chưa chắc đã làm hại chúng ta. Huống chi là tế bào trong tự thể.Chúng ta thử nghĩ xem, tế bào ung thư của mình có lớn như con mèo nhỏ hay không? Con chó hay con mèo nhỏ là một sinh mệnh khác, là một nhóm tế bào khác. Giả như một con chó nhỏ hay con mèo nhỏ leo lên mình chúng ta, cũng chưa chắc đã làm hại chúng ta, huống chi ung bướu là một nhóm tế bào trong thân thể của mình. Nó lại còn nhỏ hơn con chó nhỏ, hay con mèo nhỏ. Vậy chúng ta có nhất thiết phải sợ nó không? Cho dù gặp phải rắn độc cũng không nhất thiết phải sợ! Ung bướu cũng chưa chắc gây cho chúng ta tai hại gì! Rắn mắt kính còn có thể cảm nhận lòng thành sám hối niệm Phật, huống chi là tế bào của mình. Chúng tôi có một vị thầy, là người hết sức chân thật. Một hôm vị thầy đó đi xe máy trên đường núi, do nhìn không rõ, thấy một sợi dây nằm vắt ngang qua đường, liền cho xe cán qua phần đuôi của nó. Lúc đó mới phát hiện đó là con rắn, một con rắn mắt kính rất độc! Thầy không vì sợ mà cho xe chạy luôn. Thầy bước xuống xe, khởi tâm từ bi, xem con rắn có bị thương hay không. Con rắn lúc mới bị cán qua, liền vươn cao đầu và phần thân trên ngó thầy, xem chừng rất hung dữ, như là định xông tới. Thầy lúc đó không suy nghĩ gì cả, liền quỳ xuống chắp tay hướng về con rắn đảnh lễ như là lễ Phật, sám hối sự sơ suất của mình, sau đó còn niệm Phật cho con rắn. Con rắn đó thấy như vậy, dường như thực sự hiểu được ý của thầy, liền cúi đầu xuống nằm im, sau đó từ từ bò đi khỏi. Chúng ta xem, một chúng sinh được gọi là rắn độc, còn cảm thông được tâm niệm từ bi mà thay đổi thái độ và hành vi, huống chi là một số tế bào bất đắc dĩ phải trở nên xấu trên thân chúng ta. Thực ra, năng lượng những tế bào nhỏ này rất yếu, sức ảnh hưởng của nó cũng không là bao. Chúng ta có một thân thể to lớn hơn nhiều, thì tâm niệm, năng lượng và sức ảnh hưởng cũng to lớn hơn nhiều. Về mặt lý luận, chúng ta lẽ ra có thể là thay đổi những tế bào nhỏ này mới đúng. Chỉ cần khéo léo vận dụng tâm niệm này mạnh mẽ, phát huy sức ảnh hưởng tốt đẹp, thì chúng ta có thể thay đổi những tế bào ung thư nhỏ này. Huống chi chúng ta còn có Phật tánh rộng lớn vô biên và Phật lực bất khả tư nghì. Không cần phải sợ. Cần phải biết, dù chúng ta mắc bệnh ung thư vào thời kỳ nào, thì tế bào ung thư cũng không nhiều bằng tế bào lành mạnh. Thân thể chúng ta có bao nhiêu tế bào tốt? Có khoảng sáu mươi ngàn tỷ (60.000.000.000.000) tế bào tốt! Đây là một lực lượng vô cùng hùng hậu.Vậy tại sao lại bị một nhóm tế bào do nhân duyên xấu biến thành bệnh hoạn đánh bại? Về mặt lý luận, đây là điều không thể có được. Trừ khi nào tất cả tế bào lành mạnh đều bị sợ hãi đến mức không thể phấn chấn, phản kháng! Chúng ta có thể dùng một ví dụ để nhận ra lý này. Như một ngôi làng có rất nhiều thanh niên khỏe mạnh. Một hôm có một tên cướp đến đó giết sạch tất cả. Các vị nghĩ xem điều này có hợp lý không? Chẳng lẽ những thanh niên đó đều ngủ mê cả sao? Hay là đều sợ đến mức tay chân thóat lực? Phải biết thanh niên là người, mà tên cướp cũng là người, vì sao thanh niên phải khiếp sợ tên cướp đến như vậy? Tên cướp không sợ thanh niên, mà thanh niên lại sợ tên cướp, đây là điều hoàn toàn vô lý! Có một em bé chỉ mới ba tuổi được người hỏi: “Giá như bị người xấu bắt, định giết chết, thì em làm sao?” Em nghe xong, dõng dạc trả lời: “Thì cứ niệm Nam Mô A Di Đà Phật cho hắn nghe!” Em bé đó đã biết vận dụng sức mạnh và trí tuệ vốn có của Phật tánh! Tên cướp cũng có Phật tánh, nên vẫn có thể phát tâm từ bi và được cảm hoá. Thực ra, làm ăn cướp chỉ trong một niệm. “Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật” cũng trong một niệm! Cho nên chúng ta có thể tập hợp sức mạnh hùng hậu của sáu mươi ngàn tỷ tế bào lành mạnh để cảm hoá, cải thiện tế bào xấu, ít ra cũng không bị nó ảnh hưởng, nên có thể sống một cách an lạc! Tâm niệm và quan niệm quyết định vận mệnh và hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta có thể quan sát bản thân, giả như gặp chuyện bất như ý hay sợ hãi, có phải tim mình đập nhanh và mạnh lên không? Dạ dày chúng ta cũng đau thắt như sắp đi vệ sinh, tay chân trở nên giá lạnh, thậm chí có người còn run rẩy, đổ mồ hôi lạnh! Xin hỏi, chúng ta có từng suy nghĩ điều gì khiến tim mình đập nhanh, tay chân run rẩy không? Một niệm thay đổi, sáu mươi ngàn tỷ tế bào cũng thay đổi. Trước đây, lúc chúng tôi thi môn giải phẫu học trong Y Học Viện, mọi người đều rất hồi hộp lo lắng, bởi vì phải vừa trả lời đề thi treo trên tử thi, vừa phải chạy quanh bàn mổ. Có một vị đồng học cảm khái bảo: “lạ quá, hai chân cứ phát run, không biết đây là do dây thần kinh nào khống chế, mà muốn dừng run cũng không được!” Mọi người có nhận ra không: Chỉ một tin tức đưa đến khiến mình thay đổi tâm niệm là sáu mươi ngàn tỷ tế bào liền thay đổi theo! Môi đang từ màu hồng liền chuyển sang màu xám xịt, cả người cũng nổi gai ốc! Có phải chúng ta thường dùng những tâm niệm áp lực, không vui này để bức ép sáu mươi ngàn tỷ tế bào tốt của mình. Hèn chi mà có một số tế bào nổi loạn! Giá như biết rằng sinh mệnh tạm thời này có lúc phải kết thúc, chúng ta sẽ biết trân trọng nó, sống một cách thong dong, tự tại, từ bi và hoan hỉ! Vậy chúng ta có nên tự làm cho thân tâm mình chịu áp lực, khiến phải đau khổ đến lúc chết hay không? Cấp trên từ bi hoan hỉ, nhân viên mới vui vẻ hết lòng! Chúng ta thử nghĩ: Nếu cấp trên biết quan tâm và cảm thông, có phải chúng ta sẽ vui vẻ hết lòng làm việc? Còn gặp phải cấp trên hà khắc, bữa nào cũng nổi giận, trách cứ, đòi đuổi việc nhân viên, thì đương nhiên không ai hết lòng làm việc, thậm chí còn cố ý quấy rối, phản kháng, khiến cấp trên bị tổn thất! Tình hình tế bào toàn thân của chúng ta cũng giống như vậy. Chúng là nhân viên của chúng ta. Là ông chủ, lẽ ra chúng ta nên dùng tâm niệm từ bi, an vui để khiến cho mỗi tế bào hoan hỉ làm tốt công việc và được đượm nhuần sức sống. Chúng ta nên để cho chúng có cơ hội nghỉ ngơi để tái tạo sức làm việc, máu huyết lưu thông để tiếp tế dưỡng khí và dưỡng chất một cách đầy đủ. Chúng ta thử nghĩa xem: khi chúng ta cảm thấy hoan hỉ và có tâm niệm tốt lành, thì có phải toàn thân đều cảm thấy thơ thới dễ chịu hay không? Chúng ta niệm Phật, niệm Pháp chính là đem tâm niệm của mình đặt vào trong trạng thái năng lượng cao nhất, từ bi hỉ xả thanh tịnh nhất. Trạng thái tâm niệm này sẽ sinh ra hiệu quả an ủi và khích lệ từng tế bào một trong cơ thể! Niệm Phật chính là cách vận dụng tâm niệm quý báu của mình một cách tốt đẹp nhất! Niệm Phật là môn trị liệu bằng âm ba vi diệu nhất, nhằm khai thác khả năng trị liệu tự nhiên của Phật tánh. Bản thân tôi niệm Phật không có thành tựu gì đặc biệt. Bởi vì sự hiểu biết của tôi rất cạn cợt, còn về phương diện thực hành thì cũng không được tinh tấn, thiết thực bằng người khác. Nhưng tôi có một kinh nghiệm nhỏ như sau. Đó là khi niệm Phật lập tức trong miệng tiết ra chất dịch rất ngọt, khiến cả ngày dù không uống nước cũng không cảm thấy khát, nên dù niệm Phật ra tiếng suốt buổi cũng không bị khan giọng, có lúc còn cảm thấy cả lục phủ ngũ tạng của mình đều mát mẻ, dường như mỗi tế bào đều hoan hỉ. Trên thế giới không có ai bắt buộc tôi phải niệm Phật; càng không có ai quy định mỗi ngày tôi phải niệm bao nhiêu câu Phật. Nhưng tôi cảm thấy niệm Phật thân tâm thực sảng khoái, thư thới, vượt hơn bất cứ sự hưởng thụ nào. Vì vậy tôi chọn lựa niệm Phật. Làn sóng tâm niệm Phật và làn sóng âm thanh niệm Phật khiến toàn thân chúng ta chấn động một cách vi diệu, dường như xoa bóp cho tất cả tế bào. Việc xoa bóp này rất nhẹ êm, rất tinh tế, khiến cho các tế bào trong trạng thái dễ chịu có thể phát huy công năng tốt nhất. Sự rung động tinh tế, vi diệu này, chỉ có khi nào thân tâm của mình buông thỏng, thư thới mới có thể nhận được tương đối rõ ràng. Giới y học và âm nhạc từng cùng nhau nghiên cứu việc dùng âm nhạc để trị liệu. Những loại âm nhạc khác nhau có khả năng trị liệu khác nhau. Đây là điều mà các nhà khoa học đã chứng minh được qua thực nghiệm. Khi chúng ta mở rộng tấm lòng, toàn thân buông thư và niệm Phật theo âm vận nhất định, thì tin rằng còn hiệu quả hơn so với những âm nhạc bình thường. Bởi vì trong danh hiệu Phật đã hàm chứa tâm từ vi vĩ đại và trí tuệ thâm sâu cứu độ chúng sinh của đức Phật. Đồng thời, danh hiệu Phật cũng khai phát ánh sáng và năng lực công đức Phật tánh vốn có bên trong chúng ta! Năng lực công đức này đương nhiên cũng bao gồm năng lực trị liệu tâm bệnh và thân bệnh! Chúng ta niệm Phật có thể khai phát và hiển lộ năng lượng Phật tánh sẵn có nơi chính mình, giải quyết được rất nhiều vấn đề. Phật là người đã khai phát và hiển lộ năng lượng Phật tánh của mình đến mức viên mãn. Khi chúng ta niệm danh hiệu Phật, Ngài cũng sẽ theo bản thệ nguyện của mình mà đến hướng dẫn, giúp chúng ta đạt đến cảnh giới vĩnh viễn an vui, không còn lo buồn! Vọng tưởng chấp trước là rác bẩn! “Vui vẻ không buồn lo, gọi là Phật.” Trước đây khi còn ở Học Viện Y Học, chúng tôi đã từng thảo luận qua câu này. Có một vị đồng học bảo: “Điều này không có gì kỳ diệu đặc biệt! Tôi cũng làm được. Tôi bây giờ vui vẻ không lo buồn, vậy hiện tại tức là Phật rồi! ” Mọi người nghe xong đều phì cười! Có một sinh viên lớp trên liền trả lời: “Ngày mai giáo sư cho anh rớt, lại bị bạn gái bỏ rơi, thử xem anh còn vui vẻ không lo buồn được nữa không! Hay đến chừng đó mặt mày anh ủ dột, oán trời trách người!”Mọi người ai nấy đều cười! Anh bạn học đó cũng cười bảo: “Quả đúng như vậy! Cái Phật này của tôi rất ngắn ngủi! Một ông Phật bong bóng nước, không biết sẽ vỡ lúc nào!” Thực ra, Phật vốn nói với chúng ta: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể giác ngộ và vui vẻ không lo buồn. Nhưng trong tâm chúng ta đầy dẫy những vọng tưởng chấp trước. Vì vậy, mỗi ngày mình đều bị phiền não, chướng ngại và những tư tưởng lăng xăng dẫn dắt, khiến chúng ta không thể sống vui vẻ, an lạc. Do đó, sức mạnh và tiềm năng Phật tánh cũng không sao phát huy ra được. Thực ra, chúng ta ai cũng có thể quyết định: Buông bỏ những vọng tưởng chấp trước như đổ bỏ rác bẩn, để tận hưởng bản tánh thanh tịnh tự tại. Đây là điều mà không ai có thể ngăn chúng ta. Nhưng lạ lùng thay chúng ta cứ thích “chiếm hữu”! Chính là sự chiếm hữu đau khổ! Chúng ta ôm chặt lấy đau khổ, cam chịu với nó mà không sao thoát ra được. Mất đi phân dơ, được nhẹ nhàng. Một hôm, tôi nói với một người bạn: “Chị nghĩ xem, đi vệ sinh là được hay mất?” Cô ấy nghe xong cười lớn bảo: “Tôi đã sống và đi vệ sinh bốn mươi năm, thế mà vẫn chưa nghĩ đến vấn đề này!” Rồi cô ấy suy nghĩ một chút, lại bảo: “À, có lẽ là được, mà cũng có nghĩa là mất. ” Tôi liền hỏi: “Chị được cái gì và mất cái gì?” Cô nói: “Đơn giản là mất đi phân hôi thối, và được nhẹ nhàng dễ chịu!” Tôi lại hỏi: “Phân có được kể là cái của chị hay không?” Chị lại cười và bảo: “Vấn đề này thực tức cười! Nếu bạn bảo nó không phải là cái của mình, thì nó từng ở trong bụng, do ruột của mình gia công tạo ra. Còn như bảo nó là cái của mình, tại sao nó lại không thể ở mãi trong bụng? Lại cũng không ai muốn giữ, mà phải bỏ nó ra ngoài.” Chúng ta thử suy nghĩ phân dơ từ đâu đến? Chúng ta phải cực khổ bôn ba kiếm tiền, lại cũng cực khổ mua đồ nấu ăn. Ăn xong cũng phải cực khổ tiêu hoá ra “kết quả” như vậy. Nhưng chúng ta không thể giữ lấy nó, phải bỏ ra mới được. Nếu không bài tiết ra ngoài mà giữ lại trong bụng sẽ rất nặng nề, khó chịu, vừa đau lại vừa khổ! Phải giải quyết xong thì mới dễ chịu! Tu hành như bài tiết phân dơ, buông bỏ phiền não, được thư thới. Trong quá trình tu học Phật Pháp, tôi chỉ được kể là có chút duyên với Phật mà thôi, không có tu hành bao nhiêu. Nhưng một chút kinh nghiệm này, khiến tôi cảm thấy tu hành như bài tiết phân dơ, xả bỏ những rác bẩn phiền não làm chướng ngại trong tâm, để được nhẹ nhàng, thư thới. Nếu chúng ta biết tiết kiệm sức lực và tinh thần tiêu tốn trong những vọng tưởng lăng xăng, thì thể lực của mình sẽ khá hơn rất nhiều. Còn như phân dơ trong bụng nếu không bài tiết ra ngoài, thì dùng bất cứ thuốc nào cũng không dễ chịu. Cũng vậy, rác bẩn phiền não làm chướng ngại trong tâm nếu không thực sự giải quyết được, thì niệm Phật sẽ không đắc lực, không được nhẹ nhàng, thư thới. Kinh Hoa Nghiêm có nói: Tâm khéo an trú: không gì bằng, Ý thường thanh tịnh: niềm vui lớn Tâm niệm và hiệu quả điều trị của việc ăn uống. Do có nhiều người hỏi đến vấn đề ăn uống, nên nơi đây bàn qua vấn đề này. Đừng vì ăn uống mà tâm căng thẳng. Có rất nhiều người bệnh và gia quyến đã bỏ ra phần lớn thời gian và tâm trí trong việc tìm kiếm một loại thuốc đặc trị nào đó, như thuốc bí truyền, gia truyền, hay cách ăn uống có hiệu quả trị liệu đặc biệt. Thậm chí có người chưa hiểu được nguyên lý, phương pháp mà lại tuyệt thực lâu ngày. Vì bôn ba khắp nơi, lại cố ý miễn cưỡng mong cầu nên khiến tâm lý họ trở nên căng thẳng, tự gây thêm áp lực trong tâm. Vì vậy, thân tâm của họ không sao được điều hoà, nhẹ nhàng và an ổn thực sự, càng làm trở ngại cho công năng miễn dịch chính mình. Tâm cảnh khác nhau, mùi vị cũng khác nhau. Chúng ta có thể nhận ra: Đồng một thức ăn, nhưng nếu ăn với những trạng thái tâm lý khác nhau, thì mùi vị cũng khác nhau, và chất dinh dưỡng hấp thu lại càng khác nhau! Chúng ta hãy tự quan sát: Cùng một đĩa thức ăn, mà khi đói và khi no chúng ta nhìn lại có cảm giác hoàn toàn khác nhau. Khi thi đậu và khi thi rớt, ăn cơm mùi vị cũng khác nhau xa. Lúc bị mắng và khi được khen, tình trạng tiêu hoá nhất định khác nhau. Đây là do vì tâm niệm sinh ra những làn sóng điện làm ảnh hưởng đến vật chất. Cho nên trạng thái tâm lý khác nhau cũng sinh ra chất men tiêu hoá cũng khác nhau. Ví dụ, khi ăn uống, đối với thức ăn mà có sự chê chán, hay tâm trạng buồn bực, lo lắng, thì nước miếng sẽ bị biến mất, giảm số lượng kháng thể và men tiêu hoá, do đó sự co bóp của dạ dày và ruột cũng không tốt. Cho nên, dù có ăn thức ăn có bổ dưỡng đến đâu cũng không hấp thu được nhiều và lợi ích bao nhiêu. Tâm vui vẻ: hiệu quả trị liệu lớn, tâm hoan hỉ biết ơn: dinh dưỡng cao. Như đã nói qua, tâm niệm vui vẻ sẽ sinh ra vật chất làm tăng sức miễn dịch. Thân tâm buông lỏng, thư thới thì máu huyết sẽ lưu thông, dưỡng khí được đầy đủ, nước miếng bao gồm kháng thể và men tiêu hoá mới dồi dào. Tâm an định và đủ lòng tin thì chất nội tiết sẽ điều hoà đúng mức bình thường, cũng như có đầy đủ chất men để giải độc hay hấp thu dinh dưỡng. Người mà ăn uống trong lòng vui vẻ, biết ơn, cảm thấy ngon miệng, thì chất nội tiết tất nhiên sẽ điều hoà, chất men cũng rất dồi dào. Vì vậy, tuy cùng ăn một thức ăn, mà người đó hấp thu dinh dưỡng và được lợi ích nhiều hơn hẳn người khác. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho biết, loại người này có hiệu quả trị liệu tốt nhất, chỉ cần ăn một chút gạo lức, gạo ngũ cốc, nhai kỹ khiến hoàn toàn tan vào trong nước miếng rồi nuốt từtừ, thì cũng hết được bệnh! Nguyên lý này, đức Phật đã sớm biết rõ từ gần ba ngàn năm trước, nên Ngài dạy chúng ta khi ăn cơm phải phát nguyện tốt đẹp và khéo dụng tâm. Khéo vận dụng tâm niệm cầu nguyện hạnh phúc cho chúng sinh, cho đến cầu nguyện hạnh phúc cho tế bào. Cho nên tâm niệm lúc ăn uống, như tâm biết ơn, tâm tán thán, tâm phát nguyện, tâm hoan hỉ niệm Phật…, còn quan trọng và có lợi ích hơn nhiều so với nội dung thực phẩm. Đức Phật dạy chúng ta khi ăn phải cầu nguyện: Khi con đang dùng cơm Nguyện tất cả chúng sinh Hưởng thức ăn Thiền duyệt Ngập tràn tâm Pháp hỉ. Đây là đức Phật dạy chúng ta khi ăn phải khéo vận dụng tâm niệm để điều hoà thân mình và tu tập công đức. Khéo dùng tâm phát nguyện tốt đẹp, cầu nguyện phước lành cho mỗi chúng sinh, mỗi tế bào đều ngập tràn niềm vui tột cùng của Thiền định (thiền duyệt), và niềm hoan hỉ đến từ chân lý (pháp hỉ); dùng tâm biết ơn và chánh niệm để thọ thực. Đối trước thức ăn, không khởi tâm tham, sân, thì tâm niệm mới không “tự tạo ra độc tố!” Độc tố này chỉ trong một niệm đã sinh ra số lượng lớn đưa vào trong huyệt dịch, còn tai hại hơn nhiều so với chất độc từ ngoài vào! Nếu ăn những thức ăn sạch sẽ, dinh dưỡng mà trong tâm buồn giận, không vui, thì bao giờ cũng còn độc tố trong mình, không khi nào bài tiết ra hết! Trị liệu bằng cách ăn uống, đừng thực hành một cách cực đoan, sai lệch, chỉ làm tăng thêm chướng ngại tâm lý. Những năm gần đây, ngày càng có nhiều người bệnh sử dụng cách ăn sống. Họ phần lớn đều mới nghe qua lời đồn đãi, truyền miệng, chưa biết rõ ràng, đã vội theo trí tưởng tượng của mình mà thực hành. Hay có người chưa hiểu thấu đáo đã tuyên truyền ý chỉ “thân, tâm, linh” phối hợp toàn bộ, liền thiên chấp một bề ăn sống, khiến bản thân phải mang thêm nhiều bệnh tật và rắc rối. Thậm chí có người, về mặt tâm lý đối với thức ăn rất lo sợ, hay đối với thức ăn đã nấu chín rất bất mãn hay bài xích. Họ ăn thức ăn gì cũng rất lo lắng, không bỏ được tâm lý “sợ”. Họ sợ cái này có độc, cái kia có hại, suốt ngày chỉ nghi ngờ, lo sợ vẩn vơ. Họ lại nghĩ không biết ăn cái này có bổ lắm không, sẽ khiến tế bào ung thư thêm lớn? Ăn cái kia có lạnh lắm không, sợ không đủ sức lực? Nói chung, họ ăn thứ gì cũng hồi hộp lo sợ, hoàn toàn đánh mất tâm biết ơn, tâm hoan hỉ và tâm tự khích lệ mà lẽ ra nên có. (Kinh Hoa Nghiêm: “Nhuợc phạn nhật thời, đương nguyện chúng sinh, thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn.” (T10, no. 279, p.71,c17-18) 14) Họ có biết đâu, chính những tâm niệm đen tối như “sợ hãi”, “nghi ngờ”, “bất mãn” đều là nguyên nhân tạo ra chất độc, làm tổn giảm năng lượng và sức đề kháng của cơ thể nhiều nhất. Ăn uống vốn là để phát huy ánh sáng sinh mệnh một cách thoả đáng, khiến chúng ta có sức để khai phát lương tri, lương năng và tu hành Phật đạo. Không ngờ chỉ sai lầm trong một niệm, lại khiến sinh mệnh tốt đẹp của mình vì ăn uống mà sợ hãi, lo lắng. Có một số người suốt ngày chỉ lo ăn mà bận rộn, nhọc nhằn, lại có một số người thà nhịn đói không ăn, song có lúc chịu không nổi nên ăn rất là nhiều. Lại có người nghe nói thứ gì tốt, liền theo trào lưu, thứ gì cũng ăn! Như có một nhóm nào đó từng cười, kể lại: Họ nghe nói có tiểu mạch rất tốt, liền không hỏi số lượng sử dụng bao nhiêu và thích hợp dùng trong điều kiện nào, liền mỗi người trong tập thể cùng uống một ly lớn (hiểu lầm uống càng nhiều càng tốt). Kết quả, “toàn quân tan rã”! Đây là cách dùng từ dí dỏm của họ, ý nói uống xong ai nấy cũng đều ói mửa, uể oải, đầu nhức, chân run đứng không muốn vững. Nên biết cách trị liệu bằng ẩm thực, cũng phải cần “biết mình biết ta”, tức biết thể chất và tình trạng bệnh của mình, cũng như biết thuốc: biết đúng cách dùng và lượng dùng. Còn như không biết mình biết người, sử dụng một cách hồ đồ, khó tránh khỏi việc lệch lạc, nên không được lợi ích. Lại nữa, cần phải hiểu rõ một cách toàn diện mối liên hện giữa “thân, tâm, linh”, mới không phụ lòng của người quảng bá việc thương yêu, bảo vệ chúng sinh. Cho nên, chúng ta quyết không được “tu mù luyện quáng”, chưa hiểu rõ toàn bộ cách phối hợp và điều kiện sử dụng thích hợp, đã vội cố chấp một bề ăn sống. Cần phải biết mình biết người, mới là việc làm sáng suốt. Ngoài ra, đối với những bạn thích tuyệt thực, tôi xin trân trọng giới thiệu một phương pháp tuyệt thực đúng đắn, an toàn và hợp lý nhất. Đức Phật chế giới Bát Quan Trai, tức trong một ngày một đêm (24 giờ), thọ tám giới và trai pháp. Trai, có nghĩa là quá giờ Ngọ không ăn, cho đến ngày hôm sau khi mặt trời mọc. Đây là tương đương với tuyệt thực 18 giờ. Điều này có ý nghĩa đạo lý rất sâu. Tạm nói về mặt y học, nó cũng là việc “nhịn ăn ngắn” rất hợp lý, có lợi ích cho mình và người. (Có chuyên đề thảo luận nguyên lý y học đối với vấn đề này) Lại nữa, do tám giới điều chỉnh nội tâm đến mức an định, từ bi, khiến tâm niệm đoan chính, thanh tịnh (không tạo ra độc tố). Chữ Trai trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là “nghiêm chỉnh, thanh tịnh”. Cho nên bát Quan Trai Giới mà đức Phật chế ra giúp thân tâm chúng ta được điều chỉnh đến mức nghiêm chỉnh, thanh tịnh và phát huy công năng tốt nhất. Tám giới là: 1. không sát sinh, 2. không trộm cướp, 3. không hành dâm, 4. không nói vọng, 5. không uống rượu, 6. không dùng hương thơm, vòng hoa trang sức, 7. không tự mình ca múa và cũng không đi xem nghe, 8. không ngồi nằm trên giường cao rộng. Nếu ai có thể phát tâm bồ đề rộng lớn, thọ trì tám giới này trong một ngày một đêm, thì công đức vô lượng, không thể nghĩ bàn. Người thích nhịn ăn, có thể chọn ngày nghỉ nào mà mình thuận tiện, thọ tám trai giới này trong một ngày một đêm. Đức Phật là vị thầy của tất cả vị thầy thuốc lớn, nên pháp “không ăn quá ngọ” mà Ngài dạy chúng ta là trung đạo và hợp lý nhất. Đây là phương pháp nhịn ăn ngắn và hữu ích, khiến thân tâm của mình được thanh tịnh, hoan hỉ và an lạc. Lễ Phật để tiêu trừ tội chuớng và khai phát năng lực tiềm ẩn. Tôi còn có một chút kinh nghiệm, cũng xin giới thiệu để các bạn tham khảo. Biết đâu kinh nghiệm này có thể giúp vượt thắng được cơn bệnh, hay giúp đỡ được phần nào. Khi tôi mắc bệnh không lâu, Hoà thượng Sám Vân dạy tôi phải lạy Phật cho nhiều để tiêu trừ nghiệp chướng. Hai chữ “nghiệp chướng” nếu giải thích đơn giản có nghĩa: “Nghiệp” là hành vi; “chướng” là chướng ngại. Đây là chỉ những hành vi tích lũy trong quá khứ chúng ta đã tạo ra chướng ngại cho cả hai mặt thân thể và tâm lý. Nói hành vi trong quá khứ bao gồm những tư tưởng, lời nói, và hành động của ba nghiệp thân, miệng, ý. Sao lại nói niệm Phật và lễ Phật lại có thể tiêu trừ nghiệp chướng? Vì đang lúc chúng ta lạy Phật, tâm niệm được điều chỉnh đến mức “cung kính” và “từ bi thanh tịnh”. Miệng chúng ta niệm Phật thì không còn những lời nói tạp nhạp nào khác, đạt đến “ngôn ngữ thanh tịnh”, còn động tác lạy của thân thể thì mềm mại, thành kính, khiêm cung, đều có thể tiêu trừ những hành vi không tốt đã tạo ra những áp lực và chướng ngại. Như vậy cả ba phương diện thân, miệng, ý đều trở nên thanh tịnh, cung kính, thì có thể tiêu trừ những chướng ngại do hành vi thân tâm không hợp lý của mình tạo ra trong quá khứ. Đó chính là tiêu trừ nghiệp chướng, và cũng là huấn luyện thân tâm “an định không động”. Giống như chúng ta không ngừng đổ nước hay dội nước vào ống nước, thì có thể lần lần khiến ống nước trở nên thông lưu và sạch sẽ. Thân tâm ta cũng như vậy, không ngừng tắm mình trong pháp niệm Phật, lễ Phật, thì có thể khai phát được năng lực còn tiềm ẩn, làm sống dậy và thêm sinh lực cho các bộ phận chức năng trong cơ thể. Khi sức khoẻ tôi suy yếu trầm trọng, khối u lại rất lớn, động tác lạy mọp sát người theo cách “năm vóc sát đất,” (ngũ thể đầu địa) thực là khó khăn, nhọc mệt. Nói năm vóc sát đất, là chỉ cho năm phần thân thể: đầu, hai tay và hai đầu gối khi lạy phải chạm sát đất. Lúc ban đầu vì không biết cách, nên khi cúi xuống lạy, khối u và ruột lại cấn, đè vào nhau, có cảm giác như nghẹt thở. Lúc đứng dậy thì chóng mặt như trời xoay đất chuyển. Cho nên mỗi một lạy là một cực hình. Nhưng tôi đối với Phật có lòng tin và tôn kính rất sâu xa. Tôi nghĩ: “Dù mình có lạy Phật mà chết ngay tại chỗ cũng tốt hơn là không lễ Phật, nằm chết trên giường bệnh!” Chính tâm niệm này đã nâng đỡ, giúp tôi tiếp tục lạy Phật. Mới ban đầu, phải hết sức cố gắng tôi mới lạy xong một ngày một trăm lạy. Tôi cảm thấy thân thể rất nặng nề, hơi động một chút là thở hổn hển, tối tăm mày mặt. Sau đó, một hôm, tôi biết được có một chị họ Vương, là người tu học trước tôi, mắc bệnh ung thư xương, bị cưa mất một chân, thế mà mỗi ngày chị đứng trên chiếc chân còn lại, niệm Phật và lễ Phật đến một trăm lẻ tám lạy! Ngoài ra chị còn làm rất nhiều việc nhà. Tôi nghe xong cảm thấy rất xấu hổ. Trong lòng thầm nghĩ: “Chị chỉ có một chân, khó khăn như vậy mà còn cung kính lễ Phật đủ một trăm lẻ tám lạy. Còn mình hai chân nguyên vẹn, ít ra cũng phải lễ Phật đến ba trăm lạy!” Thực ra bạn chỉ cần thử qua cũng đủ biết, đứng một chân lạy còn khó hơn đứng hai chân cả chục lần! Việc khó khăn gấp mười so với tôi mà chị còn làm được, cho nên tôi phải cố gắng hơn. Vì vậy, tôi đã phát nguyện: “Phải lạy một trăm ngàn lạy để cám ơn Phật, cảm ơn cha mẹ, thầy tổ và tất cả chúng sinh; cũng đem công đức này hồi hướng cho những ai đang lâm khổ nạn, và những ai chẳng may mắc bệnh ung thư, nguyện mọi người đều có thể lìa khổ được vui!” Tưởng rằng mệt lắm, đâu ngờ càng lạy càng nhẹ nhàng, khoan khoái. Trên đời không có ai bắt ép tôi lạy Phật. Trái lại, mọi người còn khuyên tôi không nên nhọc sức quá. Đây là vì tôi tự phát nguyện rồi thì phải làm. Cho dù có khổ thì cũng phải làm đến nơi đến chốn. Nhưng thực lạ kỳ, lạy Phật hoàn toàn không phải khổ, không phải mệt như mọi người đã nghĩ! Trái lại, dường như càng lạy Phật càng thấy khoẻ, gánh nặng như mỗi lúc mỗi nhẹ. Ban đầu lễ Phật ba trăm lạy, mỗi ngày tôi phải chia ra làm nhiều lần mới lạy xong. Sao đó không biết tại sao, càng lạy, càng thấy nhẹ nhàng, mau chóng. Tôi cũng không có ý là lạy mau cho đủ số, chẳng qua là thân thể dường như nhẹ đi rất nhiều. Tôi có cảm giác là ống nước càng được rửa sạch bao nhiêu, thì nước chảy càng thông suốt bấy nhiêu, không giống ống nước lúc mới đầu bị bùn cát bên trong cản trở, nên nước chảy không thông. Có một hôm, trong trạng thái quên bẵng thời gian, không ngờ mình lạy liền một mạch đến ba trăm lạy! Thêm nữa, không mệt cũng không thở hổn hển, giống như mình chỉ mới lạy cái lạy đầu tiên. Tạp niệm càng ít, thân tâm càng nhẹ. Trước đây rất lâu, tôi nghe nói có một vị Pháp sư mỗi ngày vào buổi sáng đếu lạy ba ngàn lạy. Lúc đó tôi không tin. Làm sao mà trong khoảng thời gian ngắn lại có thể lạy hết ba ngàn lạy? Bởi vì tôi lạy vừa chậm vừa nặng nề, có cố lạy nhanh như thế nào cũng không thể lạy hết ba ngàn lạy. Lúc đó cũng có người vì không tin như tôi, nên đã cùng tôi đi đến đó xem vị Pháp sư này lạy Phật và đếm thử xem. Quả nhiên, trông Pháp sư lạy Phật không có gì vội vã, rất thong dong tự tại. Người xem chỉ có cảm giác như động tác của vị đó nhẹ nhàng, trôi chảy, như không có trọng lượng. Mọi người đếm số quả đúng là ba ngàn, không sót một lạy! Sau đó tôi mới tin: Khi vọng niệm của con người càng ít, thì gánh nặng của thân thể càng giảm, càng cảm thấy nhẹ nhàng, động tác càng không có chướng ngại, nên mới có thể lạy nhanh như vậy. Trong nhà Phật, những vị Pháp sư âm thầm dụng công như vậy rất nhiều. Tính ra, tôi chỉ là một người rất biếng nhác mà thôi. Lạy Phật hàm chứa nguyên lý y học thâm sâu. Trước đây tôi nghe sư phụ Sám Vân dạy: “Lạy Phật là vận động tốt nhất, còn tốt hơn khí công và thái cực quyền.” Lúc đó tôi còn chưa thể lãnh hội được. Về sau, trong khi lạy Phật tôi phát hiện ra rất nhiều lợi ích, cho đến mối quan hệ tương ứng giữa nguyên lý lễ Phật và y học, chừng đó mới lần lần hiểu được lời của sư phụ. Lạy Phật là môn vận động giúp thân, miệng, ý chúng ta thanh tịnh; có thể giúp tâm chúng ta có thể khế hợp với tâm Phật và đương nhiên cũng có thể trị bệnh. Về mối quan hệ giữa lạy Phật và y học, chúng tôi sẽ có một chuyên đề riêng để bàn luận sâu hơn. Ở đây chỉ xin nói lược qua đôi điều. Lạy Phật có hiệu quả điều chỉnh xương sống, cường hoá nội tạng, làm tăng thêm tế bào mang dưỡng khí. Con người hiện này bị rất nhiều áp lực, tinh thần căng thẳng, cơ bắp toàn thân cũng tự nhiên căng cứng theo. Lại thêm vì thiếu vận động, cột xương sống trở nên cứng nhắc, rất khó uốn cong. Đứng về mặt y học mà nói, kẻ hở giữa những đốt xương trên cột sống là chỗ thần kinh và mạch máu đi qua. Thần kinh nơi tủy sống phụ trách quản lý các cơ quan nội tạng. Nếu khoảng cách giữa những đốt xương quá sát thì sẽ chèn ép dây thần kinh và mạch máu. Cho nên, nếu thần kinh và mạch máu ở đốt xương sống nào đó bị chèn ép thì đốt xương đó có vấn đề. Những chức năng của cơ quan nội tạng nào được sự giúp đỡ của dây thần kinh và mạch máu đó sẽ từ từ hư hoại. Bởi vì tư thế không đúng, cơ bắp căng cứng khiến xương cột sống đè lên nhau quá sát, máu chảy không thông, thần kinh bị ảnh hưởng, nên không thể đưa chất dinh dưỡng và dưỡng khí đến cung cấp cho những tế bào trong cơ quan nội tạng. Tế bào nếu thiếu dưỡng khí dễ dàng trở thành tế bào ung thư. Cho nên, điều này có liên quan rất lớn đến bệnh ung thư, Vì vậy chúng ta lúc bình thường, điều chỉnh các tư thế và động tác đi đứng nằm ngồi phối hợp với hơi thở, sẽ có ảnh hưởng tốt đối với tình trạng bệnh tật. Động tác lạy Phật đúng đắn giúp tiêu trừ những chướng ngại về mặt sinh lý và tâm lý. Động tác lạy Phật nếu đúng đắn có thể giúp ích cho việc trị liệu. Vì lúc lạy Phật phải cúi đầu xuống một cách dịu dàng, đến mức cằm đụng sát ngực, động tác này có thể giúp cột xương cổ gồm bảy đốt kéo giãn ra, đem lại những lợi ích sau đây: 1. Lượng máu dồn về bộ não đầy đủ Chỉ có hai đường huyết quản dẫn máu lên não bộ. Đường thứ nhất là động mạch cổ, đường thứ hai là động mạch xương sống. Động tác này khiến động mạch xương sống không bị đè ép, lượng máu và dưỡng khí cung cấp cho bộ não sẽ thông suốt và nhiều hơn, do đó giúp nâng cao công năng bộ não. 2. Dịch tủy xương sống và não (cerebrospinal fluid)lưu thông: Dịch tủy xương sống và não là lớp chất dịch tuần hoàn ở vòng ngoài tủy sống và bộ não, cũng như bên trong não thất. Nó có những công năng như sau: 1. Điều tiết sức ép của não. 2. Bảo vệ não. 3. Cung cấp chất dinh dưỡng. 4. Chuyển đưa các chất thải. Nếu tư thế của đầu, cổ không đúng, góc độ không ngay, sự lưu thông của chất dịch này bị cản trở, thì lớp tủy sống và não như bị ngâm trong nước ứ đọng không tươi mới, sức ép não cũng bất bình thường, dễ bị chứng nhức đầu, choáng váng. Động tác lạy Phật có thể giúp cho chất dịch của tủy sống và bộ não lưu thông, giúp tăng cường công năng bộ não, có thể chỉ huy tế bào toàn thân một cách thoả đáng. 3. Giúp hệ thần kinh ở xương cổ không bị ép, phát huy được công năng: Thần kinh ở những đốt xương cổ có liên quan mật thiết với những chức năng của mắt, tim, huyết áp, khí quản và nước miếng. Thần kinh của cánh tay cũng đến từ xương cổ. Nếu hệ thần kinh trong xương cổ bị chèn ép, sẽ sinh ra các chứng như đau nhức, tê bại. Nếu thường lạy Phật, cúi đầu nhè nhẹ, kéo giãn các đốt xương cổ, thì có thể trị liệu những chứng bệnh ở các bộ vị nói trên. Lạy Phật: Điều chỉnh xương sống, trị dứt bệnh nhức lưng, đau hông. Lúc cúi mình, lạy xuống (cúi đầu, khom lưng, co gối), phải lấy gót chân làm điểm tựa. Lấy gót chân làm điểm tựa là nguyên lý trọng tâm vật lý tự nhiên. Vì như vậy cơ bắp mới không căng cứng, tốn sức. Phần bụng và ngực phải cố gắng đưa về phía sau, đến có thể thấy được gót chân sau, mới cúi lưng xuống. Tốt nhất cúi đến mức phần bụng dưới cũng có thể sát với đùi. Động tác này có thể kéo giãn làm buông lỏng bắp thịt ở hai bên xương sống, khiến kẻ hở giữa các đốt xương sống có thể kéo giãn ra. Làm như vậy sẽ có tác dụng cải thiện rất lớn đối với nội tạng, hệ thần kinh và sự lưu thông máu huyết. Toàn bộ động tác lạy, cũng như động tác quỳ xuống, thân tuy động và trọng tâm giữ không động. Đó gọi là nhất tâm, là định trong động. Lại nữa, trong khi lạy Phật mắt đừng nhắm lại, nên thu nhiếp nhãn thần, quán chiếu lại mình. Nếu nhắm mắt thì tư thế không vững, công năng điều tiết huyết áp cũng bị ảnh hưởng. Hơn nữa, làn sóng não lúc mở mắt và nhắm mắt khác nhau. Chúng ta lễ Phật và khai thác công năng của tánh giác, Khai phát công năng, điều hành thống nhất cao cấp của não bộ, mà không phải sùng bái một cách mù quáng. Lúc lạy Phật hai tay chắp lại, nhưng trước khi quỳ xuống thì hai tay buông nhẹ ra hai bên, chống xuống đất, sau đó đầu gối mới quỳ xuống. Sau khi quỳ xuống, lòng bàn chân hướng lên, thân người ngồi giữa mé trong của hai gót chân. Động tác này giúp kéo giãn khớp xương cổ chân, đồng thời cũng kích thích làm hoạt hoá điểm phản xạ của tuyến lymph, sau đó thân trên cúi xuống, mặt úp ngay sát đất. Điều nên chú ý là mắt phải mở. Động tác này có thể điều chỉnh lại cột sống của chúng ta. Con người vì muốn giữ tư thế đứng thẳng đã phải trả giá bằng sự đau lưng nhức hông. Nói chung khi người ta đứng, phần eo tương đối chịu lực, nên cột sống phần eo thường cong lại về phía bụng. Như vậy sẽ khiến các đốt xương ở cột sống phần eo ép chặt lại, tạo nên sức ép chướng ngại. Như vậy nó sẽ làm ảnh hưởng đến công năng của các cơ quan nội tạng như gan, dạ dày, lá lách, ruột già, ruột non, thận, bàng quang v.v…Lạy Phật có thể trị được những chướng ngại này. Đây cũng gọi là tiêu trừ nghiệp chướng. Vì lạy Phật sửa cột sống phần eo cong vào khiến cho nó thẳng lại, bằng cách đưa nó ra về hướng lưng. Đây cũng chính là cách đẩy ra phần cột sống bị ép quá chặt, khiến nó được giãn ra, không còn bị ép. Lạy Phật làm tăng lượng thở buồng phổi, mở rộng lòng độ lượng và khai phát sức tự giác. Lạy Phật khi quỳ xuống đầu sắp chạm đất, đồng thời hai tay duỗi ra trước một cách nhẹ nhàng, mềm mại để chuẩn bị tiếp xúc chân Phật. Tay đưa ra cách đỉnh đầu khoảng một nắm tay, đồng thời hai bên nách cũng cố mở rộng ra. Ý của nó là mở rộng tâm lượng của chúng ta, cũng là làm tăng lượng thở của buồng phổi. Sau khi đưa tay quá đầu, thì lật bàn tay lại khiến lòng bàn tay ngửa lên. Động tác này biểu thị: Tôi nhất định phải chuyển hoá cảnh giới tâm linh của mình, để tiếp nhận ánh sáng của Phật. Cũng có nghĩa: Tôi phải đem hết lòng mình ra để cúng dường cho Phật, không một chút lưu giữ. Lúc đó phải quán chiếu đầu ngón tay của chúng ta giống như cánh hoa sen mềm mại, không cần phải dùng sức. Dùng đôi bàn tay hoa sen này để đỡ chân Phật nhắc nhở chúng ta rằng: Hoa sen nở ra không phải nhờ sức mạnh bên ngoài, mà nhờ vào sức tự giác bên trong. Hoa lòng chúng ta rộ nở cũng giống như vậy. Lúc đó chúng ta phải quán tưởng đức Phật đại từ đại bi đứng trên đôi tay hoa sen của mình để tiếp nhận sự đảnh lễ. Chúng ta có thể đối diện cùng Phật, điều này thật là hạnh phúc biết bao! Lúc đó tự nhiên từ đáy lòng chúng ta sẽ mỉm cười. Chúng ta lại quán tưởng đức Phật phóng luồng ánh sáng thanh tịnh, từ bi chiếu vào đầu mình, khiến toàn thân trở nên thanh tịnh, sáng suốt. Tất cả bệnh đau đều quét sạch, như bóng tối gặp phải ánh sáng. Chúng ta lại quán tưởng tất cả chúng sinh đều lạy Phật chung với chúng ta, cùng tắm mình trong ánh sáng Phật. Lạy Phật giúp hô hấp triệt để, hoành cách mô co giãn mạnh, dẫn đến thở ở đan điền. Thở ra hết hơi dơ cặn bã, hít vào toàn hơi Phật thanh tịnh. Mọi người chúng ta ai cũng hít thở mãi. Nhưng thực ra ít ai biết phải hít thở như thế nào. Rất ít người biết thở một cách hoàn chỉnh và triệt để. Vì sao? Bạn thử quan sát xem, người ta chỉ cần ở trong trạng thái bận rộn, hay là tâm đang chú ý đến sự việc bên ngoài, thì hơi thở sẽ bị ảnh hưởng. Nó trở nên rất cạn, rất ngắn, thậm chí có lúc còn tạm thời dừng lại. Nhất là lúc trong lòng buồn bực, hay nổi giận, thì cách thở này không thể đem những khí dơ trong cơ thể ra ngoài, đổi lấy không khí tươi mới. Nếu như vậy lâu ngày chày tháng sẽ tích luỹ thành uế khí bên trong khiến cơ thể thiếu dưỡng khí. Chúng ta biết tế bào nếu thiếu dưỡng khí thì dễ biến thành tế bào ung thư. Chúng ta lễ Phật có thể điều chỉnh hơi thở, khiến hít vào thở ra triệt để hoàn toàn. Vì vậy, lễ Phật cũng là loại khí công rất tốt. Khi chúng ta cúi xuống lễ Phật, động tác này giúp chúng ta thở ra một cách triệt để, những chất khí dơ trong toàn thân và vùng phổi đều được xả bỏ sạch sẽ. Lúc năm vóc mọp sát đất, vì bắp thịt toàn thân buông lỏng, không bị sức cản, nên tự nhiên sẽ hít vào một cách rất sâu, rất đầy đủ. Theo nguyên lý động lực học của huyết dịch, thì hít hơi thở vào sâu có tác dụng hấp dẫn dòng máu chảy thuận lợi trở về tim rồi bơm đi khắp nơi. Do đó trong khi lạy Phật, từng tế bào trong thân chúng ta sẽ nhận được dưỡng khí và dinh dưỡng rất phong phú, cho đến cảm nhận được không khí hoan hỉ, hạnh phúc của thế giới Cực Lạc. Lúc lạy xong chuẩn bị đứng dậy, cần phải mượn sức hít thở vào để đứng lên, thì sẽ cảm thấy nhẹ nhàng, đỡ nhọc mệt.1 like
-
Dịch Can Chi
Ham Học liked a post in a topic by Hà Uyên
CHU KỲ 1 ............................. LY ........TỐN..................................KHÔN ...CHẤN.....................+...................ĐOÀI .......CẤN...................................CÀN .............................KHẢM 1. Giáp Tý – Thuần Càn, hào 1 - “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”. - “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.” 2. Ất Sửu – Thuần Khôn, hào 4 - “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.” - “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen”. - Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa. 3. Bính Dần - Thuần Cấn, hào 6 - “Thượng Cửu, đôn cấn, cát”. - “Hào Chín Trên, lấy phẩm chất đôn hậu để ghìm chặn tà dục, tốt lành.” - Tượng “đôn cấn chi cát, dĩ hậu chung dã” – Hào Chín Trên với bản chất tốt đẹp đã giữ vững đến lúc cuối. 4. Đinh Mão – Thuần Đoài, hào 2 - “Cửu Nhị, phu đoài, cát, hối vong” - “Hào Chín Hai, thành tín mà vui vẻ với mọi người, tốt lành, hối hận mất hết.” - Tượng “phu đoài chi cát, tín chí dã” – Chín Hai chí nằm ở sự thành tín trung thực. 5. Mậu Thìn - Thuần Khảm, hào 2 - “Cửu Nhị, khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc” - “Chín Hai, Ở nơi hiểm nạn khốn cùng trong hố bẫy, từ nơi nhỏ hẹp mưu cầu thoát hiểm, tất có được điều mong muốn”. - Tượng “cầu tiểu đắc, vị xuất trung dã” – Hào Chín Hai lúc này còn chưa thoát khỏi chỗ hiểm. 6. Kỷ Tị - Thuần Ly, hào 6 - “Thượng Cửu, vương dụng xuất chinh, hữu gia chiết thủ hoạch phỉ kỳ xú, vô cữu” - “Chín Trên, nhà Vua xuất quân chinh phạt, lập được công lớn, chém đầu quân địch, bắt những kẻ “dị kỷ” không chựu lệ thuộc, không có lỗi. - Tượng “Vương dụng xuất chinh, dĩ chính bang dã” – hào Chín Trên làm như vậy để cho đất nước được yên ổn, trị vì được thiên hạ. 7. Canh Ngọ - Thuần Chấn, hào 4 - “Cửu Tứ, chấn toại nê” - “Chín Bốn, lúc sấm động kinh hoàng thất thố, rơi vào đống bùn lấy”. - Tượng “chấn toại nê, vị quang dã” – hào Chín Bốn đức dương cứng chưa thể sáng lớn. Sa vào nơi đồi trụy. 8. Tân Mùi - Thuần Tốn, hào 4 - “Lục Tứ, hối vong, điền hoạch tam phẩm” - “Sáu Bốn, hối hận mất hết, vật săn được chia làm ba loại (để làm vật tế tự, đãi khách, và dâng lên bếp Vua). - Tượng “điền hoạch tam phẩm, hữu công dã” – hào Sáu Bốn tuân theo mệnh Vua, lập được công lao. 9. Nhâm Thân - Thuần Càn, hào 5 - “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân” - “Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân”. 10. Quý Dậu – Thuần Khôn, hào 6 - “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng” - “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng”. - Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận. 11. Giáp Tuất – Thuần Càn, hào 6 - “Thượng Cửu, cang long hữu hối” - “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận”. 12. Ất Hợi – Thuần Khôn, hào 5 - “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát” - “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành”. - Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” - Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”. 13. Bính Tý - Thuần Cấn, hào 5 - “Lục Ngũ, cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong” - “Sáu Năm, ghìm chặn miệng mình, không để nói càn, nói phải rành mạch đâu ra đấy, hối hận sẽ mất. - Tượng “Cấn kỳ phụ, dĩ trung chính dã” – Sáu Năm có thể ở ngôi giữa giữ chính. Giữ chính là thừa. 14. Đinh Sửu – Thuần Đoài, hào 3 - “Cửu Tam, lai đoài hung” - “Chín Ba, quay lại để cầu vui, có hung hiểm”. - Tượng “Lai đoài chi hung, vị bất đáng dã” – Sáu Ba ngôi vị không chính đáng. 15. Mậu Dần - Tập Khảm, hào 1 - “Sơ Lục, tập khảm, nhập vu khảm tãm, hung” - “Sáu Đầu, ở nơi chất chồng hiểm họa cạm bẫy, rơi sâu vào hố bẫy, có hung hiểm”. - Tượng “tập khảm nhập khảm, thất đạo hung dã” – hào Sáu Đầu lạc đường rơi thêm vào chỗ hiểm nên tất có hung hiểm. 16. Kỷ Mão – Thuần Ly, hào 1 - "Sơ Cửu, lý thác nhiên, kính chi, vô cữu” - “Chín Đầu, làm việc cẩn trọng không cẩu thả, giữ thái độ cung kính, cẩn thận thì tất không tội lỗi.” - Tượng “lý thác chi kính, dĩ tị cữu dã” – Ý hào Sáu Đầu có như vậy mới tránh được tội lỗi. 17. Canh Thìn – Thuần Chấn, hào 3 - "Lục Tam, chấn tô tô, chấn hành vô sảnh” - “Sáu Ba, lúc sấm động kinh hãi không yên, do sấm động mà biết sợ, thì đi lên sẽ không gặp họa hoạn.” - Tượng “chấn tô tô, vị bất đáng dã” – Ngôi vị hào Sáu Ba không thỏa đáng. 18. Tân Tị - Thuần Tốn, hào 5 - “Cửu Ngũ, trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sơ hữu chung; tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát” - “Chín Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận mất hết, không gì không lợi ; lại ban mệnh lệnh, mới đầu không thuận lợi, nhưng cuối cùng tất sẽ thông thuận ; dự định ban bố lệnh mới vào ba ngày trước ngày Canh, là ngày tượng trưng cho sự “biến canh” (thay đổi), và thi hành mệnh lệnh mới, vào ba ngày sau ngày Canh, như vậy mà trên dưới thuận theo, tất được tốt lành.” - Tượng “cửu ngũ chi cát, vị chính trung dã” – hào Chín Năm được như vậy là do ngôi hào này chính mà giữ vững được đạo “trung”. 19. Nhâm Ngọ - Thuần Càn, hào 4 - “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu” - “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không tội lỗi.” 20. Quý Mùi – Thuần Khôn, hào 1 - “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.” - “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.” - Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến. 21 Giáp Thân – Thuần Càn, hào 5 - “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân” - "Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.” 22. Ất Dậu – Thuần Khôn, hào 6 - “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng” - “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng.” - Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận. 23. Bính Tuất - Thuần Cấn, hào 4 - “Lục Tứ, cấn kì thân, vô cữu” - "Sáu Bốn, ghìm chặn ở phần thân mình, không để vọng động, tất không tội lỗi.” - Tượng “cấn kì thân, chỉ chư cung dã” – hào Sáu Bốn có thể tự ghìm chặn, yên giữ ngôi mình. 24. Đinh Hợi – Thuần Đoài, hào 4 - “Cửu Tứ, thương đoài vị ninh, giới tật hữu thỉ” - "Chín Bốn, cân nhắc về sự vui nhưng trong lòng chưa yên, nếu cắt đứt hẳn với sự “tà tật” của bạn xiểm nịnh thì thật đáng mừng. - Tượng “cửu tứ chi hỷ, hữu khánh dã” - Điềm mừng của hào Chín Bốn, là vì có tượng đáng chúc mừng vậy. 25. Mậu Tý - Thuần Khảm, hào 6 - “Thượng Lục, hệ dụng huy mặc, chỉ vu tùng cức, tam tuế bất đắc, hung” - “Sáu Trên, bị trói bằng dây thừng, giam hãm trong bụi gai, ba năm không được giải thoát, có hung hiểm. - Tượng “thượng lục thất đạo, hung tam tuế dã” – hào Sáu Trên lạc chính đạo đi vào nơi hiểm, hung hiểm sẽ kéo dài suốt ba năm. 26. Kỷ Sửu – Thuần Ly, hào 2 - “Lục Nhị, hoàng ly, nguyên cát” - “Sáu Hai, giữ được sắc vàng trung chính phụ bám vào vật, cực tốt.” - Tượng “hoàng ly nguyên cát, đắc trung đạo dã” – hào Sáu Hai đạo hợp giữa không lệch. 27. Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2 - “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc” - “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.” - Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy. 28. Tân Mão - Thuần Tốn, hào 6 - “Thượng Cửu, tốn tại sàng hạ, táng kì tư phủ; trinh hung” - “Chín Trên, thuận theo quá mức, nép ở dưới giường, giống như mất búa sắc cứng rắn, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.” - Tượng “tốn tại sàng hạ, thượng cùng dã ; táng kì tư phủ, chính hồ hung dã” – hào Chín Trên ở ngôi cuối của sự khốn cùng ; hào Chín Trên nên giữ vững sự chính của dương cứng để phòng hung hiểm. 29. Nhâm Thìn – Thuần Càn, hào 3 - “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu” - “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.” 30. Quý Tị - Thuần Khôn, hào 2 - “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi.” - “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.” - Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang. 31. Giáp Ngọ - Thuần Càn, hào 4 - “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu” - “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không cữu hại tội lỗi.” 32. Ất Mùi – Thuần Khôn, hào 1 - “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí” - “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.” - Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến. 33. Bính Thân - Thuần Cấn, hào 3 - “Cửu Tam, cấn kì hạn, liệt kì di, lệ huân tâm.” - “Chín Ba, ghìm chặn sự vận động của lưng, đến nỗi đứt cả nơi chỗ thăn lưng (chỗ trên dưới giao nhau), nguy hiểm như cháy ruột.” - Tượng “cấn kì hạn, nguy huân tâm dã” - Sự nguy hiểm của hào Chín Ba sẽ như cháy ruột. 34. Đinh Dậu – Thuần Đoài, hào 5 - “Cửu Ngũ, phu vu bác, hữu lệ.” - “Chín Năm, tin kẻ tiểu nhân âm mềm, mà tiêu mòn hết đức dương cứng (bị nó lôi kéo mà cùng vui), có nguy hiểm.” - Tượng “phu vu bác, vị chính đáng dã” - Thật đáng tiếc cho hào Chín Năm lại ở vào ngôi chính đáng mà thôi ! 35. Mậu Tuất - Thuần Khảm, hào 5 - “Cửu Ngũ, khảm bất doanh, chỉ kí bình, vô cữu.” - “Chín Năm, hố bẫy hiểm nạn còn trưa tràn đầy, thì gò nhỏ đã bị san bằng, tất không cữu hại.” - Tượng “khảm bất doanh, trung vị đại dã” – hào Chín Năm tuy ở ngôi giữa, nhưng công sức làm cho phẳng chỗ hiểm còn được chưa sáng lớn. 36. Kỷ Hợi – Thuần Ly, hào 3 - “Cửu Tam, nhật trắc chi ly, bất cổ phẫu nhi ca, tác đại điệt chi ta, hung.” - “Chín Ba, mặt trời sắp lặn, ngả dần “bám” về phía trời tây, lúc này nếu không gõ vò, vui vẻ ca hát tự vui, tất sẽ than thân già nua, ốm yếu, có hung hiểm.” - Tượng “nhật trắc chi ly, hà khả cữu dã” – Ngả dần bám về phía trời Tây, tình trạng này thì làm sao mà giữ cho được lâu dài ! 37. Canh Tý - Thuần Chấn, hào 1 - “Sơ Cửu, chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn nha nha, cát.” - “Chín Đầu, sấm sét ập tới mà biết mà biết kinh hãi khiếp sợ, thì sau sẽ biết thận trọng hành động, giữ phúc để được nói cười râm ran, tốt lành.” - Tượng “chấn lai khích khích’, khủng chí phúc dã ; ‘tiếu ngôn nha nha’ hậu hữu tắc dã” – hào Chín Đầu kinh sợ thận trọng, thì có thể đưa phúc trạch đến ; hào Chín Đầu sau khi kinh sợđã biết tuân thủ phép tắc. 38. Tân Sửu - Thuần Tốn, hào 1 - “Sơ Lục, tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh.” - “Sáu Đầu, thấp thuận quá mức, tiến thoái do dự, lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền.” - Tượng “tiến thoái chí nghi dã ; lợi vũ nhân chi trinh, chí trị dã” – hào Sáu Đầu ý chí nhu nhược nghi sợ ; ‘lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền’ là để khuyến khích Sáu Đầu sửa trị và tạo lập ý chí kiên cường. 39. Nhâm Dần – Thuần Càn, hào 2 - “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân.” - “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.” 40. Quý Mão – Thuần Khôn, hào 3 - “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.” - “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.” - Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng. 41. Giáp Thìn – Thuần Càn, hào 3 - “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu” - “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.” 42. Ất Tị - Thuần Khôn, hào 2 - “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi. ” - “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.” - Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang. 43. Bính Ngọ - Thuần Cấn, hào 2 - “Lục Nhị, cấn kì phì, bất chửng kì tùy, kì tâm bất khoái.” - “Sáu Hai, ghìm chặn sự cử động của cẳng chân, chưa thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, trong lòng không được khoan khoái.” - Tượng “bất chửng kì tùy, vị thoái chính dã” – hào Sáu Hai không thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, lại không có cách nào lùi lại để nghe theo mệnh lệnh đang ghìm chặn (vì vậy trong long không khoan khoái). 44. Đinh Mùi – Thuần Đoài, hào 6 - “Thượng Lục, dẫn đoài.” - “Sáu Trên, dụ dỗ người ta cùng vui.” - Tượng “thượng lục dẫn đoài, vị quang dã” – hào Sáu Trên đạo vui vẻ chưa thể (không thể) sáng lớn. 45. Mậu Thân - Thuần Khảm, hào 4 - “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu” - “Sáu Bốn, một chén riệu nhạt, hai rá thức ăn đạm bạc, dùng vò sành thô lậu đựng các thứ trên (thành kính dâng biếu bậc tôn quý), nộp ước qua cửa sổ sáng, cuối cùng tránh được cữu hại.” - Tượng “tôn tửu quỹ nhị, cương nhu tế dã” – Ý hào Chín Năm dương cứng và hào Sáu Bốn âm mềm giao tiếp với nhau. 46. Kỷ Dậu – Thuần Ly, hào 4 - “Cửu Tứ, đột như kì lai như, phần như, tử như, khí như” - “Chín Bốn, đột nhiên hiện lên ráng bình minh đỏ rực, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán, diệt vong, bị vứt bỏ trạch trơn.” - Tượng “đột như kì lai như, vô sở dụng dã” – Cái hư thế của hào Chín Bốn, tất sẽ làm nó không nơi phụ bám, chứa chấp. 47. Canh Tuất - Thuần Chấn, hào 6 - “Thượng Lục, chấn tác tác, thị quắc quắc, chinh hung ; chấn bất vu kì cung, vu kì lân, vô cữu ; hôn cấu hữu ngôn” - “Sáu Trên, lúc sấm động sợ đến nỗi hai chân co rúm lại không đi được, hai mắt nhớn nhác, cứ mạo hiểm tiến lên tất gặp hung hiểm ; nếu có thể khi sấm động còn chưa tới bản thân mình, mới tới nhà hàng xóm đã đề phòng trước, thì không gặp cữu hại ; nhưng nếu mong có được âm dương hôn phối, thì sẽ đi đến tranh cãi nhau.” - Tượng “chấn tác tác, trung vị đắc dã ; tuy hung vô cữu, úy lân giới dã” – Hào Sáu Trên chưa ở được vào vị trí có thể ứng xử thích hợp được với đạo “trung” ; mặc dù có hung hiểm nhưng không có cữu hại gì, là do biết sợ tiếng sấm chấn động từ bên hàng xóm nên đã đề phòng trước. 48. Tân Hợi - Thuần Tốn, hào 2 - “Cửu Nhị, tốn tại sàng hạ, dụng sử, vu phân nhược cát, vô cữu” - “Chín Hai, thuận theo nép ở dưới giường, nếu có thể noi theo thầy bói, thầy cúng, lấy sự khiêm nhún mà phụng sự thần linh thì sẽ được nhiều tốt lành, tất không cữu hại.” - Tượng “phân nhược chi cát, đắc trung dã” - Sẽ được nhiều tốt lành, là vì hào Chín Hai có thể giữ giữa không lệch. 49. Nhâm Tý – Thuần Càn, hào 1 - “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng.” - “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng. 50. Quý Sửu – Thuần Khôn, hào 4 - “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.” - “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen.” - Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa. 51. Giáp Dần – Thuần Càn, hào 2 - “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân” - “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.” 52. Ất Mão – Thuần Khôn, hào 3 - “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung” - “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.” - Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng. 53. Bính Thìn - Thuần Cấn, hào 1 - “Sơ Lục, cấn kì chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh” - “Sáu Đầu, biết ghìm chặn ở ngón chân khi cất bước, tất vô cữu hại, lợi về sự giữ vững chính bề lâu dài.” - Tượng “cấn kì chỉ, vị thất chính dã” – hào Sáu Đầu chưa từng vi phạm chính đạo. 54. Đinh Tị - Thuần Đoài, hào 1 - “Sơ Cửu, hòa duyệt, cát.” - “Chín Đầu, dựu dàng, vui vẻ với người, tốt lành.” - Tượng “hòa duyệt chi cát, hành vị nghi dã” – Hành vi của Chín Đầu đứng đắn mà không bị người ta nghi kị. 55. Mậu Ngọ - Thuần Khảm, hào 3 - “Lục Tam, lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm tãm, vật dụng” - “Sáu ba, tới lui đều ở trong vòng hiểm hãm, đi tới là hiểm lui lại khó an, rơi xuống hố sâu không thể thi thố tài dụng.” - Tượng “lai chi khảm khảm, chung vô công dã” – hào Sáu Ba cuối cùng khó thành công trong sự “hành hiểm”. 56. Kỷ Mùi – Thuần Ly, hào 5 - “Lục Ngũ, xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát” - “Sáu Năm, nước mắt chảy ròng ròng, ngậm ngùi than thở, (ở nơi tôn quý, được giúp dập, về cuối sẽ) tốt lành.” - Tượng “lục ngũ chi cát, ly vương công dã” – hào Sáu Năm được phụ bám vào ngôi tôn quý của đấng vương công. 57. Canh Thân - Thuần Chấn, hào 5 - “Lục Ngũ, chấn vãng lai , lệ, ức vô táng, hữu sự” - “Sáu Năm, khi sấm động thì bất kể là đi lên hay đi xuống đều có nguy hiểm ; nếu có thể thận trọng giữ đạo “trung” thì vạn lần cũng không thất thố một lần, có thể giữ lâu dài được việc trọng đại là việc tế tự.” - Tượng “chấn vãng lai lệ, nguy hành dã ; kì sự tại trung, đại vô táng dã” – hào Sáu Năm cần thấy rõ sự nguy sợ mà thận trọng tiến lên, sử sự nên thận trọng giữ đạo “trung”. 58. Tân Dậu - Thuần Tốn, hào 3 - “Cửu Tam, tần tốn, lận.” - “Chín Ba, ưu sầu không vui, miễn cưỡng thuận theo, sẽ có thẹn tiếc.” - Tượng “tần tốn chi lân, chí cùng dã” – Tâm chí Chín Ba khốn cùng không hăng hái. 59. Nhâm Tuất – Thuần Càn, hào 6 - “Thượng Cửu, cang long hữu hối” - “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận 60. Quý Hợi – Thuần Khôn, hào 5 - “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.” - “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.” - Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” – hào Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung” ................................................................................ ..... CHU KỲ 2 ................................LỮ ....TIỂU SÚC................................PHỤC ...DỰ........................+......................KHỐN .......BÍ..........................................CẤU ...............................TIẾT 1. Giáp Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1 - “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục” - “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.” - Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng. 2. Ất Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4 - “Lục Tứ, trung hàng độc phục” - “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại.” - Tượng viết “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo. 3. Bính Dần – Sơn Hỏa Bí, hào 6 - “Thượng Cửu, bạch bí, vô cữu” - “Chín Trên, văn sức bằng mầu trắng không diêm dúa, không có cữu hại” - Tượng “Bạch bí vô cữu, thượng đắc chí dã” – hào Chín Trên hết sức toại chí do đạo văn sức chuộng về chất. 4. Đinh Mão - Trạch Thủy Khốn, hào 2 - “Cửu Nhị, khốn vu tửu thực, chu phất phương lai, lợi dụng hưởng tự ; chinh hung, vô cữu” - “Chín Hai, riệu thịt mà nghèo nàn, cùng khốn, vinh lộc sẽ tới, lợi về sự chủ trì đại lễ tế tự nơi tông miếu ; lúc này tiến thủ tuy nhiều hung hiểm, nhưng không có gì cữu hại” - Tượng “Khốn vu tửu thực, trung hữu khánh dã” – hào Chín Hai chỉ cần giữ vững đạo giữa thì sẽ có phúc khánh. 5. Mậu Thìn - Thủy Trạch Tiết, hào 2 - “Cửu Nhị, bất xuất môn đình, hung” - “Chín Hai, (cố chấp mà tiết chế) không ra khỏi sân nhà, có hung hiểm. - Tượng “Bất xuất môn đình, thất thời cực dã” – hào Chín Hai lỡ mất thời cơ thích hợp. 6. Kỷ Tị - Hỏa Sơn Lữ, hào 6 - “Thượng Cửu, điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào ; táng ngưu vu dị, hung” - “Chín Trên, tổ chim trên cành cao bị cháy, kẻ lữ khách trước được ngôi cao vui mừng cười nói, sau bị tai ương kêu gào khóc lóc ; giống như mất trâu nơi bơt ruộng hoang xa, có hung hiểm” - Tượng “Dĩ lữ tại thượng, kì nghĩa phần dã ; táng ngưu vu dị, chung mạc chi văn dã” – Làm một kẻ lữ khách, mà lại ở cao ngôi trên, về lý thì tất gặp họa cháy tổ ; mất trâu nơi cánh đồng hoang xa, nói lên hào Chín Trên ăn nhờ ở đậu gặp họa, cuối cùng sẽ không người hay biết. 7. Canh Ngọ - Lôi Địa Dự, hào 4 - “Cửu Tứ, do dự, đại hữu đắc ; vật nghi, bằng hạp trâm” - “Chín Bốn, người khác nhờ ta mà vui, ta có thể thành công lớn được ; cứ thẳng thắn đừng nghi ngờ gì, bè bạn sẽ tụ tập lại theo ta, như cả đám tóc được gài lại nơi chiếc châm cài đầu”. - Tượng “Do dự đại hữu đắc, chí đại hành dã” – Chí dương cứng của hào Chín Bốn được thực hành nhiều. 8. Tân Mùi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 4 - “Lục Tứ, hữu phu ; huyết khứ thích xuất, vô cữu” - “Sáu Bốn, nếu có sự thành tín với dưới thì sẽ tránh được sự buồn phiền, thoát được sự sợ hãi, như vậy tất sẽ “vô cữu hại”. - Tượng “Hữu phu thích xuất, thượng hợp chí dã” – hào Sáu Bốn có ý chí tương hợp với bậc tôn thượng dương cứng. 9. Nhâm Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5 - “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên” - “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”. - Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời. 10. Quý Dậu – Địa Lôi Phục, hào 6 - “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính” - “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”. - Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng. 11. Giáp Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (11 = 59) - “Thượng Cửu, cấu kỳ giác ; lận, vô cữu” - “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”. - Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người. 12. Ất Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (12 = 60) - “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối” - “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”. - Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện. 13. Bính Tý – Sơn Hỏa Bí, hào 5 - “Lục Ngũ, bí vu khâu viên, thúc bạch tiển tiển ; lận, chung cát” - “Sáu Năm, văn sức ở gò vườn, mang một bó dải lụa mỏng (lễ vật đến mời kẻ hiền sỹ), mặc dù hào dưới không ứng mà có sự hối tiếc, nhưng hào trên lại ứng, cuối cùng sẽ tốt lành”. - Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu hỷ dã” - Sự tốt lành của Sáu Năm nói lên tất có sự mừng. 14. Đinh Sửu - Trạch Thủy Khốn, hào 3 - “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung” - “Sáu Ba, khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dựa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm. - Tượng “Cứ vu tật lê, thặng cương dã ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, bất tường dã” - Dựa vào cây tật lê, nhiều gai khó dẫm, nói lên hào Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi trên kẻ cương cường ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, đây là hiện tượng chẳng lành. 15. Mậu Dần - Thủy Trạch Tiết, hào 1 - “Sơ Cửu, bất xuất hộ đình, vô cữu” - “Chín Đầu, (tiết chế thận trọng giữ gìn), không ra khỏi sân cổng nhà, tất không có cữu hại”. - Tượng “Bất xuất hộ đình, tri thông tắc dã” – Không ra khỏi sân cổng nhà, nói lên hào Chín Đầu rất biết lẽ đường thông thì đi, đường bị ngăn thì dừng. 16. Kỷ Mão - Hỏa Sơn Lữ, hào 1 - “Sơ Lục, lữ tỏa tỏa, tư kỳ sở thủ tai” - “Sáu Đầu, người lữ khách ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen, ti tiện, ấy là tự chuốc lấy họa”. - Tượng “Lữ tỏa tỏa, chí cùng tai dã” – Ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen ti tiện, nói lên hào Sấu Đầu ý chí quẫn bách, tự chuốc lấy tai họa. 17. Canh Thìn – Lôi Địa Dự, hào 3 - “Lục Tam, vu dự hối ; trì hữu hối” - “Hào Sáu Ba, xun xoe với trên để cầu vui, tất hối hận ; nếu tỉnh ngộ chậm tất lại sinh hối hận”. - Tượng “Vu dự hữu hối, vị bất đáng dã” – Xun xoe tất có hối hận, nói lên hào Sáu Ba ngôi vị không chính đáng. 18. Tân Tị - Phong Thiên Tiểu súc, hào 5 - “Cửu Ngũ, hữu phu loan như, phú dĩ kỳ lân” - “Chín Năm, có lòng thành tín, liên kết cả bầy dương cùng có lòng thành tín với một âm, dùng cái cứng của dương để làm giầu cho làng giềng” - Tượng “Hữu phu loan như, bất độc phú dã” – Liên kết bầy dương thành tín với một âm, nói lên hào Chín Năm không riêng hưởng sự giầu có dương cứng. 19. Nhâm Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (19 = 31) - “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung” - “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”. - Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân. 20. Quý Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1. (20 = 32) - “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát” - “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành. - Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân. 21. Giáp Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5 (9 = 21) - “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên” - “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”. - Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời. 22. Ất Dậu - Địa Lôi Phục, hào 6 (10 = 22) - “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính” - “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”. - Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng. 23. Bính Tuất – Sơn Hỏa Bí, hào 4 - “Lục Tứ, bí như, bà như, bạch mã hàn như ; phỉ khấu, hôn cấu” - “Sáu Bốn, văn đức được đẹp đẽ thanh bạch đến nhường ấy, toàn thân một mầu trắng toát tới nhường ấy, ngồi trên con ngựa trắng lại thuần khiết vô tạp thanh bạch tới nhường ấy ; phía trước không có giặc mạnh, mà là lễ ăn hỏi của đôi giai ngẫu”. - Tượng “Lục Tứ đương vị, nghi dã ; ‘phỉ khấu hôn cấu’, chung vô vưu dã” – hào Sáu Bốn đáng ngôi được chính, nhưng trong lòng mang mối nghi ngờ, sợ hãi ; Không phải giặc mạnh mà là lễ ăn hỏi, nói lên Sáu Bốn cứ bắt chấp đi đến và rút cục trong lòng không có sự oán trách gì. 24. Đinh Hợi - Trạch Thủy Khốn, hào 4 - “Cửu Tứ, lai từ từ, khốn vu kim xa, lận, hữu chung” - “Chín Bốn, bị một cỗ xe sắt chặn lại, có điều ân hận ; nhưng cuối cùng được phối ngẫu như nguyện”. - Tượng “Lai từ từ, chí tại hạ dã, tuy bất đương vị, hữu dư dã” - Đến một cách từ từ nghi ngại, tâm chí Chín Bốn ở nơi cầu hợp với hào Sáu Đầu ở dưới ; mặc dầu ngôi vị không thỏa đáng, nhưng do đến một cách khiêm cẩn, nên tất có thể đẹp lòng như nguyện. 25. Mậu Tý - Thủy Trạch Tiết, hào 6 - “Thượng Lục, khổ tiết ; trinh hung, hối vong” - “Sáu Trên, tiết chế quá mức, khiến người ta quá khổ sở ; nên giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, thì hối hận có thể tiêu vong”. - Tượng “Khổ tiết trinh hung, kỳ đạo cùng dã” - Tiết chế quá mức khiến người ta quá khổ sở, nói lên đạo tiết chế của Sáu Trên đã khốn cùng. 26. Kỷ Sửu - Hỏa Sơn Lữ, hào 2 - “Lục Nhị, lữ tức thứ, hoài kỳ tư, đắc đồng bộc, trinh” - “Sáu Hai, kẻ lữ khách thuê ở nơi quán trọ, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ, nên giữ vững chính bền”. - Tượng “Đắc đồng bộc trinh, chung vô vưu dã” – hào Sáu Hai cuối cùng sẽ không có gì phải quá oán. 27. Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2 - “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát”. - “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành”. - Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – Không đợi ngày mà biết, vì Sáu Hai đã trung, lại chính. 28. Tân Mão – Phong Thiên Tiểu súc, hào 6 - “Thượng Cửu, ký vũ ký xử, thượng đức tái ; phụ trinh lệ, nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung”. - “Chín Trên, mây dầy đã đổ mưa, dương cứng đã bị ngăn cản, dương đức ở cực cao bị khí âm tích chứa ; lúc này người vợ phải giữ vững chính bền, để đề phòng nguy hiểm, phải như trăng sáng sắp tròn mà không quá đầy, người quân tử nếu cứ thẳng tiến sẽ gặp hung”. - Tượng “Ký vũ ký xử, đức tính tái dã ; ‘quân tử chinh hung’, hữu sở nghi dã” - Thẳng tiến sẽ gặp hung, nếu cứ đi lên trước, thì sẽ khiến chất dương bị âm khí ngưng tụ làm cho biến hóa hết. 29. Nhâm Thìn – Thiên Phong Cấu, hào 3 (29 = 41) - “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu” - “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”. - Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà). 30. Quý Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (30 = 42) - “Lục Nhị, hưu phục, cát” - “Hào Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”. - Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân. 31. Giáp Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (31 = 19) - “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung” - “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”. - Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân. 32. Ất Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1 (32 = 20) - “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát” - “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành. - Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân. 33. Bính Thân – Sơn Hỏa Bí, hào 3 - “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát” - “Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững sự chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành”. - Tượng “Vĩnh trinh chi cát, chung mạc chi lăng dã” – ‘Giữ vững chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành’, nói lên Chín Ba có thể làm được như vậy, thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn. 34. Đinh Dậu - Trạch Thủy Khốn, hào 5 - “Cửu Ngũ, tị ngoạt, khốn vu xích phất ; nãi từ hữu thoát, lợi dụng tế tự” - “Chín Năm, dùng hình phạt xẻo mũi, chặt chân, để trị chúng dân, đến nỗi ở ngôi tôn quý mà bị khốn cùng ; nhưng có thể dần dần thoát khỏi cảnh khốn, lợi về sự làm lễ tế”. - Tượng “Tị ngoạt, chí vị đắc dã ; nãi từ hữu thoát, dĩ trung trực dã ; lợi dụng tế tự, thụ phúc dã” – Dùng hình phạt để trị chúng dân, nói lên tâm chí vượt khốn của Chín Năm chưa thể gọi là đạt ; ‘dần thoát khỏi cảnh khốn’, đây là kết quả của sự giữ vững đạo cương trung, chính trực ; ‘lợi làm tế lễ’, như vậy thì có thể thừa hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng. 35. Mậu Tuất - Thủy Trạch Tiết, hào 5 - “Cửu Ngũ, cam tiết, cát ; vãng hữu thượng” - “Chín Năm, tiết chế một cách thích đáng, khiến người ta cảm thấy đẹp đẽ vừa phải, tốt lành ; tiến về phía trước, tất được tôn sùng”. - Tượng “Cam tiết chi cát, vị cư trung dã” – Do bởi vậy là vì Chín Năm ở cao ngôi giữa, được chính. 36. Kỷ Hợi - Hỏa Sơn Lữ, hào 3 - “Cửu Tam, lữ phần kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc, trinh lệ” - “Chín Ba, kẻ lữ khách (quá cứng nóng vội), bị cháy nhà trọ, lạc mất đầy tớ ; nên giữ vững chính bề đề phòng hung hiểm”. - Tượng “Lữ phần kỳ thứ, diệc dĩ thương hỹ ; dĩ lữ dữ hạ, kỳ nghĩa táng dã” - Bị cháy nhà trọ, cũng do vậy mà Chín Ba bị tổn thương ; kẻ lữ khách mà chuyên gia ơn cho kẻ dưới, lẽ tất nhiên sẽ dẫn đến táng vong. 37. Canh Tý – Lôi Địa Dự, hào 1 - “Sơ Lục, minh dự, hung” - “Sáu Đầu, quá vui mà reo mừng đắc ý, có hung hiểm”. - Tượng “Sơ lục minh dự, chí cùng hung dã” – Quá vui, chí cùng cực của sự vui vẻ sẽ đưa đến hung hiểm. 38. Tân Sửu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 1 - “Sơ Cửu, phục tự đạo, hà kỳ cữu ? cát” - “Chín Đầu, trở về đạo dương cứng của mình, có cữu hại gì đâu ? Tốt lanh”. - Tượng “Phục tự đạo, kỳ nghĩa cát dã” – Quay trở về đạo dương cứng của mình, hành vi của Chín Đầu là thích hợp, có được sự tốt lành. 39. Nhâm Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (39 = 51) - “Cửu nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”. - “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”. - Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn. 40. Quý Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (40 = 52) - “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”. - “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”. - Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại. 41. Giáp Thìn – Thiên phong Cấu, hào 3 (41 = 29) - “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu” - “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”. - Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà). 42. Ất Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (42 = 30) - “Lục Nhị, hưu phục, cát” - “Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”. - Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân. 43. Bính Ngọ - Sơn Hỏa Bí, hào 2 - “Lục Nhị, bí kỳ tu” - “Sáu Hai, văn sức bộ râu đẹp cho bậc tôn quý”. - Tượng “Bí kỳ tu, dĩ thưỡng hưng dã” – hào Sáu Hai và Chín Ba đồng tâm một lòng dấy lên văn sức cho nhau, Dựa theo ngôi vị chỗ đứng, được ngôi mà không ứng. 44. Đinh Mùi - Trạch Thủy Khốn, hào 6 - “Thượng Lục, khốn vu cát lũy, vu niết ngột ; viết động hối hữu hối, chinh cát”. - “Sáu Trên, bị khốn trong đám sắn dây chằng chịt, lại bị khốn ở nơi lung lay nghiêng ngả, nên suy nghĩ một chút ; đã động rồi sau hối thì sẽ biết hối ngay, như vậy nếu đi lên tất được tốt lành. - Tượng “Khốn vu cát lũy, vị đáng dã ; ‘động hối hữu hối’, cát hành dã” - Khốn trong đám sắn dây, nói lênđịa vị của Sáu Trên chưa từng ổn đáng. ‘động rồi sau hối’, nói lên cứ làm ngay đi thì có thể giải trừ khốn mà được tốt lành. 45. Mậu Thân - Thủy trạch Tiết, hào 4 - “Lục Tứ, an tiết, hanh” - “Sáu Bốn, yên lòng tự tiết chế, hanh thông”. - Tượng “An tiết chi hanh, thừa tượng đạo dã” – hào Sáu Bốn nghiêm cẩn giữ đạo “thuận thừa” bậc tôn trưởng. 46. Kỷ Dậu - Hỏa Sơn Lữ, hào 4 - “Cửu Tứ, lữ vu xử, đắc kỳ tư phủ, ngã tâm bất khoái” - “Chín Bốn, kẻ lữ khách chưa được yên ổn tại nơi ở tạm, như được búa sắc chặt bỏ gai góc, nhưng trong long ta chẳng sướng”. - Tượng “Lữ vu xử, vị đắc vị dã” – Chín Bốn chưa thể được ở ngôi chính đáng. 47. Canh Tuất – Lôi Địa Dự, hào 6 - “Thượng Lục, minh dự thành, hữu du vô cữu” - “Sáu Trên, đã thành hậu quẻ xấu, vì mê muội trong hoan lạc, sửa lỗi sơm thì không nguy hại”. - Tượng “Minh dự tại thượng, hà khả trường dã” - Mệ muội trong hoan lạc ở ngôi trên, sự vui vẻ này làm sao có thể giữ được lâu dài. 48. Tân Hợi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 2 - “Cửu Nhị, khiên phục, cát” - “Chín Hai, được dắt quay trở lại đạo dương cứng, tốt lành”. - Tượng “Khiên phục tại trung, diệc bất tự thất dã” - được quay trở lại đọa dương cứng, ở ngôi giữa, nói lân hào Chín Hai cũng có thể không để từ mất dương đức. 49. Nhâm Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1 (1= 49) - “Hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục” - “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên”. - Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng. 50. Quý Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4 (2 = 50) - “Lục Tứ, trung hàng độc phục” - “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại” - Tượng “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo. 51. Giáp Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (51 = 39) - “Cửu Nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”. - “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”. - Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn. 52. Ất Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (52 = 40) - “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”. - “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”. - Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại. 53. Bính Thìn – Sơn Hỏa Bí, hào 1 - “Sơ Cửu, bí kỳ chỉ, xả xa nhi đồ” - “Chín Đầu, văn sức cho ngón chân của mình, bỏ xe lớn mà cam lòng đi bộ” - Tượng “Xả xa nhi đồ, nghĩa phất thừa dã” – Cam lòng đi bộ, là do xét về ngôi vị mà hào Chín Đầu đang ở thì không nên đi xe lớn. Bỏ thuyền xuống nước. Bỏ chỗ ích lợi mà tìm đến nơi tổn hại. 54. Đinh Tị - Trạch Thủy Khốn, hào 1 - “Sơ Lục, đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất dịch” - “Sáu Đầu, mông bị khốn ở dưới gốc cây, không thể ở yên, chỉ lui vào nơi sơn cốc u tối, ba năm không thấy ló mặt. - Tượng “Nhập u vu cốc, u bất minh dã” - Chỉ còn cách lui vào nơi sơn cốc u tối, nói lên hào Sáu Đầu ẩn thân tạm bợ nơi u ám, không sáng sủa. 55. Mậu Ngọ - Thủy Trạch Tiết, hào 3 - “Lục Tam, bất tiết nhược, tắc ta nhược, vô cữu” - “Sáu Ba, không tiết chế được, nhưng biết than vãn tự hối, thì có thể tránh được cữu hại”. - Tượng “Bất tiết chi ta, hựu thùy cữu dã” – Không tiết chế được, nhưng biết tự hối, hỏi còn kẻ nào dám đổ lỗi cho nữa ! 56. Kỷ Mùi - Hỏa Sơn Lữ, hào 5 - “Lục Ngũ, xạ trĩ, nhất thỉ vong ; chung dĩ dự mệnh” - “Sáu Năm, bắn con chim trĩ, mất một mũi tên (mặc dù có tổn thất nhưng), sau được tiếng khen và được ban tước lệnh. - Tượng “Chung dĩ cư mệnh, thượng đãi dã” - Được khen và ban tước mệnh, nói lên Sau Năm có thể theo kịp người trên. 57. Canh Thân – Lôi Địa Dự, hào 5 - “Lục Ngũ, trinh tật, hằng bất tử” - “Sáu Năm, giữ chính phòng bệnh, tất sẽ khỏe lâu không chết” - Tượng “Lục Ngũ trinh tật, thừa cương dã ; hằng bất tử, trung vị vong dã” – Hào Sáu Năm tất phải giữ chính phòng bệnh, nói lên âm mềm đội dương cứng khó tránh nguy hiểm hoạn nạn ; ‘Khỏe lâu không chết’, là vì ở giữa không lệch, thì vị tất đã bại vong. 58. Tân Dậu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 3 - “Cửu Tam, dư thoát bức, phu thê phản mục” - “Chín Ba, nan hoa bánh xe đứt hết, vợ chồng ly dị mỗi người một hướng”. - Tượng “Phu thê phản mục, bất năng chính thất dã” - Vợ chồng ly dị, hào Chín Ba không làm cho nhà cửa được nghiêm chỉnh. 59. Nhâm Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (59 = 11) - “Cấu kỳ giác ; lận, vô cữu” - “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”. - Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người. 60. Quý Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (60 = 12) - “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối” - “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”. - Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện. CHU KỲ 3 ................................ĐỈNH ......GIA NHÂN................................LÂM ...GIẢI........................+.........................TỤY ......ĐẠI SÚC..................................ĐỘN ................................TRUÂN 1. Giáp Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (G. Tý – N. Tý) (1 = 49) - “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng” - “Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”. - Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu ! 2. Ất Sửu - Địa Trạch Lâm, hào 4 (2 = 50) - “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu” - “Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”. - Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng. 3. Bính Dần – Sơn Thiên Đại súc, hào 6 - “Thượng Cửu, hà thiên chi cù, hanh” - “Chín Trên, đường trời sao mà thông suốt đến vậy, hanh thông” - “Tượng “Hà thiên chi cù, đạo đại hành dã” – nói rằng, đạo chứa đức của Chín Trên hết sức thông suốt”. 4. Đinh Mão - Trạch Địa Tụy, hào 2 - “Lục Nhị, dẫn cát, vô cữu ; phu nãi lợi dụng Thược” - “Sáu Hai, được người dẫn dắt mà tụ hội với nhau thì được tốt lành, không dẫn đến cưu hại ; chỉ cần trong lòng thành tín, thì sẽ làm cho lễ “tế Thược” đơn sơ cũng lợi về sự dâng hiến cho thần linh” - Tượng “Dẫn cát vô cữu, trung vị biến dã” – Tâm chí ở ngôi giữa giữ chính đạo của Sáu Hai chưa từng biến đổi. 5. Mậu Thìn - Thủy Lôi Truân, hào 2 - “Lục Nhị, Truân như, chiên như. Thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự” - “Sáu Hai, thời khai sáng buổi đầu rất nhiều gian nan, dùng dằng loanh quanh chẳng tiến. Người cưỡi ngựa dập dừu tới, nhưng họ không phải là bọn cường đạo, mà là những người đến cầu hôn ; Người con gái giữ vững chính bền không vội lấy chồng, chờ mười năm sau mới kết lương duyên” - Tượng “Lục nhị chi nan, thừa cương dã ; thập niên nãi tự, phản thường dã” – Sáu Hai khó đi không tiến, là do âm mềm cưỡi trên dương cứng. Chờ mười năm là để nói ý “nan cực thì đến lúc thông”, mọi việc lại quay trở lại bình thường. 6. Kỷ Tị - Hỏa Phong Đỉnh, hào 6 - “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi” - "Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi” - Tượng “Ngọc huyễn tại thượng, cương nhu tiết dã” – Đòn vạc bằng ngọc ở cao phía trên, là chỉ Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm. 7. Canh Ngọ - Lôi Thủy Giải, hào 4 - “Cửu tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu” - “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín” - Tượng “Giải nhi mẫu”, vị đáng vị dã” - rằng ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng. 8. Tân Mùi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 4 - “Lục Tứ, phú gia, đại cát” - “Sáu Bốn, làm giầu cho nhà, hết sức tốt lành” - Tượng “Phú gia đại cát, thuận tại vị” – Làm giâu cho nhà, là do Sáu Bốn thụân, đội hào dương cứng ở ngôi tôn quý. 9. Nhâm Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (9 = 21) - “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát” - “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành” - Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính. 10- Quý Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (10 = 22) - “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu” - “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại” - Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ. 11. Giáp Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (11 = 59) - “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi” - “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”. - Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì. 12. Ất Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (12 = 60) - “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát” - “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành” - Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo. 13. Bính Tý – Sơn Thiên đại súc, hào 5 - “Lục Ngũ, phần thỉ chi nha, cát” - “Sáu Năm, bẻ nanh con lợn thiến, tốt lành”. - Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu khánh dã” - cái tốt lành của Sáu Năm nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” đúng phép, đáng được chúc mừng. 14. Đinh Sửu – Trạch Địa Tụy, hào 3 - “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận”. - “Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự đáng tiếc nhỏ”. - Tượng “Vãng vô cữu, thượng tốn dã” – Đi lên trước không có cữu hại, nói lên Sáu Ba có thể hướng lên trên, thuận theo với dương cứng. 15. Mậu Dần – Thủy Lôi Truân, hào 1 - “Sơ Cửu, bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu”. - “Chín Đầu, loanh quanh, lợi về sự ở yên, giữ vững chính bền, lợi về việc kiến lập chư hầu”. - Tượng “Tuy bàn hoàn, chí hành chính dã ; ‘dĩ quý hạ tiện’ đại đắc dân dã” - Mặc dầu loanh quanh, nhưng hành vi tâm chí đều giữ được đoan chính ; thân phận tôn quý mà lại ở ngôi thấp, nói lên Chín Đầu sẽ rất được lòng dân. 16. Kỷ Mão – Hỏa Phong Đỉnh, hào 1 - “Sơ Lục, đỉnh điên chỉ, lợi xuất bĩ ; đắc thiếp dĩ kỳ tử, vô cữu” - “Sáu Đầu, vạc đổ chổng chân, lợi về sự đổ đồ phế bỏ ; như lấy được người thiếp sinh ra con, đỡ đần người vợ cả, tất không cữu hại”. - Tượng “Đỉnh điên chỉ, vị bội dã ; ‘lợi xuất bĩ’ dĩ tòng quý dã” - Vạc đổ chổng chân, vị tất đã là trái lẽ ; ‘Lợi về sự đổ đồ phế bỏ’ nói lên Sáu Đầu nên theo lên với bậc tôn quý (đợi đưa vật phẩm mới vào). Thải đồ phế bỏ để nhận vật mới. 17. Canh Thìn – Lôi Thủy Giải, hào 3 - “Lục Tam, phụ thả thừa, chí khấu chí ; trinh lận”. - “Sáu Ba, mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, tất xúi bọn cướp đến cướp ; giữ vững chính bền để phòng hối tiếc”. - Tượng “Phụ thử thừa, diệc khả xú dã, tự ngã chí nhung, hữu thùy cữu dã” – Mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, ấy là nói hành vi của Sáu Ba rất xấu xa, do bản thân không có đức, trộm ngôi mà đưa nạn binh nhung đến, như vậy thì còn quy lỗi vào ai được ? 18. Tân Tị - Phong Hỏa Gia nhân, hào 5 - “Cửu Ngũ, vương cách hữu gia, vật tuất, cát”. - “Chín Năm, đấng quân vương lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, sau đó bảo vệ nhà mình, không phải lo lắng, tốt lành”. - Tượng “Vương cách hữu gia, giao tương ái dã” - Lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, nói lên lúc này người người đều thân ái, hòa mục với nhau. 19. Nhâm Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (19 = 31) - “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ” - “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”. - Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy. 20. Quý Mùi – Địa Trạch Lâm hào 1 (20 = 32) - “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát” - “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”. - Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua. 21. Giáp Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (21 = 9) - “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát” - “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành” - Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính. 22. Ất Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (22 = 10) - “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu” - “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại” - Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ. 23. Bính Tuất – Sơn Thiên Đại súc, hào 4 - “Lục Tứ, đồng ngưu chi cốc, nguyên cát”. - “Sáu Bốn, buộc gông lên đầu nghé không sừng, hết sức tốt lành”. - Tượng “Lục Tứ nguyên cát, hữu hỷ dã” – Sáu Bốn hết sức tốt lành, nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” có phương pháp, đáng được vui mừng. 24. Đinh Hợi – Trạch Địa Tụy, hào 4 - “Cửu Tứ, đại cát, vô cữu” - “Chín Bốn, hết sức tốt lành, tất không có cữu hại”. - Tượng “Đại cát vỗ cữu, vị bất đáng dã” – Đã quá tốt lành, lại phải ‘tất không cữu hại’, nói lên ngôi vị của Chín Bốn còn rất không thỏa đáng. 25. Mậu Tý – Thủy Lôi Truân, hào 6 - “Thượng Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như”. - “Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có được sự cảm ứng), nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa”. - Tượng “Khấp huyết liên như, hà khả trường dã” – Khóc đến nỗi nước mắt chảy đầm đìa, nói lên Sáu Trên làm sao mà có thể trường cửu như vậy được. 26. Kỷ Sửu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 2 - “Cửu Nhị, đỉnh hữu thực ; ngã cừu hữu tật, bất khả năng tức, cát” - “Chín Hai, trong vạc chứa đầy vật phẩm ; người phối ngẫu với ta, thân có tật bệnh, tạm thời không đến làm tăng gánh nặng cho ta, tốt lành”. - Tượng “Đỉnh hữu thực, thận sở chi dã ; ‘ngã cừu hữu tật’, chung vô vưu dã” – Trong vạc chứa đầy vật phẩm, ý nói rằng Chín Hai phải cẩn thận khi đi lên ; ‘người phối ngẫu với ta thân có tật bệnh’, nói lên Chín Hai tạm thời chưa ứng được với Sáu Năm, cuối cùng không có điều gì phải trách cứ. 27. Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2 - “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát”. - “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành”. - Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành, nói lên được đạo ở giữa không lệch. 28. Tân Mão – Phong Hỏa Gia nhân, hào 6 - “Thượng Cửu, hữu phu, uy như, chung cát” - “Chín Trên, lấy lòng chí thành, uy nghiêm để trị nhà, cuối cùng sẽ được tốt lành”. - Tượng “Uy như chi cát, phản thân chi vị dã” – Uy nghiêm trị nhà thì được tốt lành, ý trước tiên Chín Trên phải tu tỉnh mình, đòi hỏi phải nghiêm khắc ở chính bản thân mình. 29. Nhâm Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (29 = 41) - “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát” - “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”. - Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước. 30. Quý Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (30 = 42) - “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi” - “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”. - Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua. 31. Giáp Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (31 = 19) - “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ” - “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”. - Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy. 32. Ất Mùi – Địa Trạch Lâm, hào 1 (32 = 20) - “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát” - “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”. - Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua. 33. Bính Thân – Sơn Thiên Đại súc, hào 3 - “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh ; nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng” - “Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe ; lợi về có sự đi”. - Tượng “Lợi hữu du vãng, thượng hợp chí dã” - Lợi về có sự đi, nói lên ý Chín Ba hợp chí với Chín Trên. 34. Đinh Dậu – Trạch Địa Tụy, hào 5 - “Cửu Ngũ, tụy hữu vị, vô cữu, phỉ phu ; nguyên vĩnh trinh, hối vong”. - “Chín Năm, ở thời hội tụ, ở nơi cao tôn quý không bị cữu hại, nhưng còn chưa được sự tin rộng của chúng dân ; là một vị quân trưởng có đức, nên giữ vững chính bền mãi mãi không đổi thay, thì sự hối hận tất sẽ mất”. - Tượng “Tụy hữu vị, chí vị quang dã” - Thời hội tụ ở cao ngôi tôn quý, nói lên tâm chí hội tụ thiên hạ của Chín Năm còn chưa sáng lớn. 35. Mậu Tuất – Thủy Lôi Truân, hào 5 - “Cửu Ngũ, truân kỳ cao. Tiểu, trinh cát ; đại, trinh hung. - “Chín Năm, muốn khắc sự gian nan thời khai sáng buổi đầu, cần rộng ban bố ân trạch. Việc nhỏ, giữ được chính bền thì tốt ; việc lớn, giữ được chính bền để phòng hung hiểm”. - Tượng “Truân kỳ cao, thi vị quang dã” - Cần rộng ban bố ân trạch, ý nói đức trạch của Chín Năm ban bố còn chưa tỏa sáng. 36. Kỷ Hợi – Hỏa Phong Đỉnh, hào 3 - “Cửu Tam, đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc ; phương vũ khuy hối, chung cát” - Chín Ba, tai vạc đang bị biến dạng, chỗ xỏ gậy để khênh ở tai vạc bị tịt ; món trĩ hầm thơm ngon, tinh khiết chưa đem ra cho người ăn được, đợi đến khi có trận mưa dầm âm dương điều hòa, tất sẽ không còn hối hận nữa, về cuối sẽ được tốt lành”. - Tượng “Đỉnh nhĩ cách, thất kỳ nghĩa dã” – Tai vạc bị biến dạng, nói lên Chín Ba mất sự thích nghi ở khoảng trống giữa. 37. Canh Tý – Lôi Thủy Giải, hào 1 - “Sơ Lục, vô cữu”. - “Sáu Đầu, (hiểm nạn mới bắt đầu được giải) không có gì cữu hại”. - Tượng “Cương nhu chi tế, nghĩa vô cữu dã” – Sáu Đầu giao tiếp cùng Chín Bốn, tương ứng với nhau, xét về lẽ thư giải hiểm nạn, thì tất nhiên không có gì cữu hại. 38. Tân Sửu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 1 - “Sơ Cửu, nhàn hữu gia, hối vong”. - “Chín Đầu, phòng ngừa tà ác, sau đó bảo vệ gia đình mình, hối hận sẽ tiêu vong”. - Tượng “Nhàn hữu gia, chí vị biến dã” – Phòng ngừa tà ác, bảo vệ gia đình mình, đó là nói lên Chín Đầu cần phòng ngừa khi ý chí còn chưa thay đổi. 39. Nhâm Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (39 = 51) - “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”. - “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”. - Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui. 40. Quý Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (40 = 52) - “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”. - “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”. - Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài. 41. Giáp Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (41 = 29) - “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát” - “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”. - Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước. 42. Ất Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (42 = 30) - “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi” - “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”. - Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua. 43. Bính Ngọ - Sơn Thiên Đại súc, hào 2 - “Cửu Nhị, dư thoát phúc”. - “Chín Hai, xe long moayơ không đi được”. - Tượng “Dư thoát phúc, trung vô vưu dã” – nói lên ý Chín Hai ở ngôi giữa mà không nóng vội tiến lên, cho nên không phạm lỗi lầm. 44. Đinh Mùi – Trạch Địa Tụy, hào 6 - “Thượng Lục, tê tư thế di, vô cữu”. - “Sáu Trên, ta thán buồn than, lại đau đớn khóc lóc nước mắt nước mũi dàn dụa, có thể tránh được cữu hại”. - Tượng “Tê tư thế di, vị an thượng dã” - Buồn than, lại đau đớn khóc lóc, nói lên hào Sáu Trên mong “tụ” không được, chưa thể ở yên tại ngôi trên cùng. 45. Mậu Thân – Thủy Lôi Truân, hào 4 - “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi”. - “Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.” - Tượng “Cầu nhi vãng, minh dã” - Muốn cầu hôn ở phí dưới mà tiến lên, nói lên Sáu Bốn là kẻ sáng suốt, hiểu biết. 46. Kỷ Dậu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 4 - “Cửu Tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”. - “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái anh, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”. - Tượng “Giải nhi mẫu, vị đáng vị dã” – nói lên ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng. 47. Canh Tuất – Lôi Thủy Giải, hào 6 - “Thượng Lục, công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng, hoạch chi, vô bất lợi”. - “Sáu Trên, vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, một phát bắn trúng, không gì không lợi”. - Tượng “Công dụng xạ chuẩn, dĩ giải bội dã” – Vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, nói lên Sáu Trên giải trừ hiểm nạn do kẻ bội nghịch gây nên. 48. Tân Hợi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 2 - “Lục Nhị, vô du toại, tại trung quỹ, trinh cát”. - “Sáu Hai, không có thành tựu gì, coi sóc việc nấu nướng trong nhà, giữ vững chính bền thì được tốt lành”. - Tượng “Lục Nhị chi cát, thuận dĩ tốn dã” - Sự tốt lành của Sáu Hai là do sự nhu thuận, ôn hòa, khiêm tốn đưa đến. 49. Nhâm Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (49 = 1) - “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng” - “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”. - Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu ! 50. Quý Sửu – Địa Trạch Lâm, hào 4 (50 = 2) - “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu” - “Hào Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”. - Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng. 51. Giáp Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (51 = 39) - “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”. - “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”. - Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui. 52. Ất Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (52 = 40) - “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”. - “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”. - Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài. 53. Bính Thìn – Sơn Thiên Đại súc, hào 1 - “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ” - “Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến”. - Tượng “Hữu lệ tắc dĩ, bất phạm tai dã” – Ý nói không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi. 54. Đinh Tị - Trạch Địa Tụy hào 1 - “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy ; nhược hào, nhất ác vi tiếu: Vật tuất, vãng vô cữu”. - “Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyên tình mà kêu gọi mọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay: Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại”. - Tượng “Nãi loạn nãi tụy, kỳ chí loạn dã” – Làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người, nói lên tâm chí Sáu Đầu có sự mê loạn. 55. Mậu Ngọ - Thủy Lôi Truân, hào 3 - “Lục Tam, tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung ; quân tử cơ, bất như xả, vãng lận”. - “Sáu Ba, đuổi hiêu không có ngu nhân dẫn đường, thì chỉ đi sâu vào rằng rậm vô ích ; người quân tử cần kiến có hành sự, lúc này bỏ không đuổi nữa là hơn cả, nếu cứ nhất mực tiến nữa, tất sẽ hối tiếc”. - Tượng “Tức lộc vô ngu, dĩ tòng cầm dã ; quân tử xả chi, vãng lận, cùng dã” – Không có người dẫn đường, mà vẫn đuổi bắt, nói lên Sáu Ba lòng tham đã thái quá. Người quân tử bỏ không đuổi nữa, nếu cứ đuổi mãi thì sẽ cùng khốn. 56. Kỷ Mùi – Hỏa phong Đỉnh, hào 5 - “Lục Ngũ, đỉnh hoàng nhĩ kim huyễn, lợi trinh”. - “Sáu Năm, vạc có tai mầu vàng, đòn vạc cứng rắn, lợi về sự giữ vững chính bền”. - Tượng “Đỉnh hoàng nhĩ, trung dĩ vi thực dã” - Vạc có tai mầu vàng, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa mà được tính cứng đặc. 57. Canh Thân – Lôi Thủy Giải, hào 5 - “Lục Ngũ, quân tử duy hữu giải, cát, hữu phu vu tiểu nhân”. - “Sáu Năm, người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, tốt lành, thậm chí còn có thể dùng đức thành tín để cảm hóa kẻ tiểu nhân”. - Tượng “Quân tử hữu giải, tiểu nhân thoái dã” - Người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, kẻ tiểu nhân tất sẽ sợ phục, lui bước. 58. Tân Dậu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 3 - “Cửu Tam, gia nhân hạc hạc, hối lệ, cát ; phụ tử hy hy, chung lận”. - “Chín Ba, người trong nhà sầu oán gào khóc, mặc dù có hối hận, có nguy hiểm, nhưng vẫn được tốt lành ; còn nếu là đàn bà trẻ con mà nô đùa hớn hở, thì cuối cùng sẽ thẹn tiếc”. - Tượng “Gia nhân hạc hạc, vị thất dã ; ‘phụ tử hy hy’, thất gia tiết dã” - Người trong nhà sầu oán gào khóc, nói lên đây là thời chưa thể thoải mái nhàn vui ; ‘đàn bà trẻ con cười đùa hớn hở’, nói lên đã mất lễ tiết trong nhà. 59. Nhâm Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (59 = 11) - “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi” - “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”. - Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì. 60. Quý Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (60 = 12) - “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát” - “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành” - Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo. CHU KỲ 4 ..............................VỊ TẾ ........ÍCH....................................THÁI ...HẰNG.....................+.....................HÀM .......TỔN......................................BĨ ..............................KÝ TẾ 1. Giáp Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (1 = 49) - “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”. - “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”. - Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới người Trên, không dám nghĩ đến việc dùng xiểm nịnh mà tiến bừa. Cho nên tốt và hanh thông. 2. Ất Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4 - “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”. - “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”. - Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới. 3. Bính Dần – Sơn Trạch Tổn, hào 6 - “Thượng Cửu, phất tổn ích chi ; vô cữu, trinh cát, hữu du vãng, đắc thần vô dã”. - “Chín Trên, mình không tổn gì mà làm ích được cho mọi người ; tất không có cữu hại, giữ vững chính bền thì được tốt lành, nếu có sự đi, tất sẽ được quảng đại thần dân ủng hộ, chẳng phải chỉ một nhà”. - Tượng viết: “Phất tổn ích chi, đại đắc chi dã” – “Mình không tổn gì mà làm ích được cho người, nói lên Chín Trên đắc chí lớn về sự ban ân cho thiên hạ. 4. Đinh Mão – Trạch Sơn Hàm, hào 2 - “Lục Nhị, hàm kỳ phì, hung ; cư cát” - “Sáu Hai, giao cảm ở bụng chân, có hung hiểm ; ở yên tĩnh thì được tốt lành”. - Tượng viết: “Tuy hung cư cát, thuận bất hại dã” – Sáu Hai mặc dù có hung hiểm, nhưng nếu ở yên giữ tĩnh thì được tốt lành, nói lên ý thuận theo chính đạo “giao cảm” thì có thể tránh gặp phải sự họa hại. 5. Mậu Thìn – Thủy Hỏa Ký tế, hào 2 - “Lục Nhị, phụ táng kỳ phất, vật trục, thất nhật đắc”. - “Sáu Hai, người đàn bà đánh mất rèm xe (không đi được), không cần phải đi tìm, quá không đầy bảy ngày tất vật mất sẽ trở lại”. - Tượng viết: “Thất nhật đắc, dĩ trung đạo dã” – “Quá không đầy bẩy ngày, tất vật mất sẽ quay trở lại”, nói lên Sáu Hai có thể giữ đạo trung chính không lệch. 6. Kỷ Tị - Hỏa Thủy Vị Tế, hào 6 - “Thượng Cửu, hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu ; nhu kỳ thủ, hữu phu thất thị”. - “Chín Trên, tin dùng kẻ khác, an nhàn uống riệu thì không có gì cữu hại ; nhưng (chơi bời quá độ) sẽ như con cáo nhỏ qua sông đánh (làm) ướt đầu, đó là quá tin người mà hại tới chính đạo. - Tượng viết: “Ẩm tửu nhu thủ, diệc bất tri tiết dã” – “An nhàn uống riệu mà (như con cáo nhỏ qua sông) làm ướt đầu gặp phải tai họa”, nói lên Chín Trên nếu như vậy, thì thật là không biết tiết chế gì hết. 7. Canh Ngọ - Lôi Phong Hằng, hào 4 - “Cửu Tứ, điền vô cầm” - “Chín Bốn, đi săn không được cầm thú”. - Tượng viết: “Cửu phi kỳ vị, ân đắc cầm dã” – Chín Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú ? 8 . Tân Mùi – Phong Lôi Ích, hào 4 - “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc”. - “Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân”. - Tượng viết: “Cáo công tùng, dĩ ích chí dã” – “Cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo”, nói lên ý chí Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công. 9. Nhâm Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (9 = 21) - “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”. - “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa). - Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng. 10. Quý Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (10 = 22) - “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”. - “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”. - Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn. 11. Giáp Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (11 = 59) - “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ” - “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”. - Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài ! 12. Ất Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (12 = 60) - “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”. - “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”. - Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới. 13. Bính Tý – Sơn Trạch Tổn, hào 5 - “Lục Ngũ, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, nguyên cát”. - “Sáu Năm, có người tiến dâng một con rùa lớn quý, có giá trị “mười bằng”, không thể từ tạ, hết sức tốt lành”. - Tượng viết: “Lục Ngũ nguyên cát, tự thượng hựu dã” – Sáu Năm hết sức tốt lành, đây là Trời phù hộ. 14. Đinh Sửu – Trạch Sơn Hàm, hào 3 - “Cửu Tam, hàm kỳ cổ, chấp kỳ tùy, vãng lận”. - “Chín Ba, cảm được tới đùi, khăng khăng nhắm mắt đi theo người ; như vậy tất sẽ thẹn tiếc”. - Tượng viết: “Hàm kỳ cổ, diệc bất xử dã, ‘chí tại tùy nhân’, sở chấp hạ dã” – “Cảm được tới đùi”, nói lên Chín Ba không thể yên tĩnh lúc lùi ; “tâm chí ở chỗ nhắm mắt theo người”, nói lên Chín Ba cứ khăng khăng là thấp hèn. 15. Mậu Dần – Thủy Hỏa Ký tế, hào 1 - “Sơ Cửu, duệ kỳ luân, nhu kỳ vỹ, vô cữu”. - “Chín Đầu, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), con cáo qua sông đánh (làm) ướt đuôi (để không đi nhanh), tất không có lỗi”. - Tượng viết: “Duệ kỳ luân, nghĩa vô cữu dã” – “Kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), nói lên hành vi của Chín Đầu hợp với ý nghĩa: cẩn thận giữ gìn mọi thành tựu mà không dẫn đến cữu hại. 16. Kỷ Mão – Hỏa Thủy Vị tế, hào 1 - “Sơ Lục, nhu kỳ vỹ, lận”. - “Sáu Đầu, cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi, đáng thẹn tiếc”. - Tượng viết: “Nhu kỳ vỹ, diệc bất chi cực dã” – “Cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi”, nói lên Sáu Đầu rất không biết cẩn thận giữ giữa. 17. Canh Thìn – Lôi Phong Hằng, hào 3 - “Cửu Tam, bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu ; trinh lận” - “Chín Ba, không thường giữ được đức đẹp, có khi bị người làm cho hổ thẹn ; phải giữ vững sự chính bền để phong sự thẹn tiếc”. - Tượng viết: “Bất hằng kỳ đức, vô sở dung dã” – “Không thường giữ được đức đẹp, ý nói Chín Ba sẽ không có chỗ dung thân. 18. Tân Tị - Phong Lôi Ích, hào 5 - “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: hữu phu huệ ngã đức”. - “Chín Năm, có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ, không còn nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp ; Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta”. - Tượng viết: “Hữu phu huệ tâm, vật vắn chi hỹ ; ‘huệ ngã đức’ đại đắc chí dã” – “Có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi ; “người trong thiên hạ tất báo đáp ân đức của ta”, nói lên Chín Năm được lớn chí “tổn thượng ích hạ”. 19. Nhâm Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (19 = 31) - “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ” - “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”. - Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện. 20. Quý Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (20 = 32) - “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”. - “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”. - Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài. 21. Giáp Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (21 – 9) - “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”. - “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa). - Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng. 22. Ất Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (22 = 10) - “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”. - “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”. - Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng đang phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn. 23. Bính Tuất – Sơn Trạch Tổn, hào 4 - “Lục Tứ, tổn kỳ tẳt xuyền hữu hỷ, vô cữu” - “Sáu Bốn, tự ta giảm bớt tật tương tư, có thể nhanh chóng tiếp nhận dương cứng, tất có sự vui, không có cữu hại”. - Tượng viết: “Tổn kỳ tật, diệc khả hỷ dã” – “Tự giảm bớt bệnh tương tư”, ý nói Sáu Bốn tiếp nhận hào dương cứng là việc rất đáng mừng. Bốn dựa vào hào Đầu, để nhanh chóng đến “ích”, là cái lý của hào. 24. Đinh Hợi – Trạch Sơn Hàm, hào 4 - “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư”. - “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận sẽ mất hết ; lăng xăng qua lại, bạn bè cuối cùng sẽ thuận theo sự nghĩ của anh thôi”. - Tượng viết: “Trinh cát hối vong, vị cảm hại dã ; đồng đồng vãng lai, vị quang đại dã” - Hối hận tất sẽ mất hết, nói lên Chín Bốn chưa từng vì giao cảm bất chính mà gặp điều hại ; ‘lăng xăng qua lại mà lòng ý bất đinh’, nói lên ý lúc này đạo giao cảm còn chưa sáng lớn. 25. Mậu Tý – Thủy Hỏa Ký tế, hào 6 - “Thượng Lục, nhu kỳ thủ, lệ”. - “Sáu Trên, con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”. - Tượng viết: “Nhu kỳ thủ, lệ’, hà khả cửu dã” – “Con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”, dụ chỉ sau khi việc thành, nếu không cẩn thận, thì làm sao bảo vệ sự thành công cho được lâu dài ! 26. Kỷ Sửu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 2 - “Cửu Nhị, duệ kỳ lân, trinh cát”. - “Chín Hai, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi mạnh), giữ vững chính bền thì được tốt lành”. - Tượng viết: “Cửu Nhị trinh cát, trung dĩ hành chính dã” – Chín Hai giữ vững được tốt lành”, nói lên phải giữ giữa, mà làm việc đoan chính không lệch. 27. Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2 - “Cửu Nhị, hối vong”. - “Chín Hai, hối hận tiêu hết” - Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – Chín Hai hối hận tiêu hết, nói lên có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch. 28. Tân Mão – Phong Lôi Ích, hào 6 - “Thượng Cửu, mạc ích chi, hoặc kích chi ; lập tâm vật hằng, hung”. - “Chín Hai, không có ai làm ích cho anh ta, mà có người còn công kích anh ta nữa, là vì không thường giữ được sự yên ổn trong lòng (mà tham cầu không chán), có hung hiểm”. - Tượng viết: “Mạc ích chi, thiên từ dã ; ‘hoặc kích chi’, tự ngoại lai dã” – Không có ai làm ích cho anh ta, nói lên Chín Hai đơn phương đưa ra lời cầu ích ; ‘có người công kích anh ta’, đây là sự hung hiểm từ bên ngoài, không vời gọi mà tự đến. 29. Nhâm Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (29 = 41) - “Lục Tam, bao tu”. - “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”. - Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng. 30. Quý Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (30 = 42) - “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”. - “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”. - Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh. 31. Giáp Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (31 = 19) - “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ” - “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”. - Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện. 32. Ất Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (32 = 20) - “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”. - “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”. - Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài. 33. Bính Thân – Sơn Trạch Tổn hào 3 - Tượng viết: “Nhất nhân hành, tam tắc nghi dã” - Một người đi một mình, thì có thể chuyên nhất cầu, ba người cùng đi sẽ khiến cho đối phương nghi hoặc không có chủ. - “Lục Tam, tam nhân hành tắc tổn nhất nhân ; nhất nhân hành tắc đắc kỳ hữu”. - “Sáu Ba, ba người cùng đi đều muốn cầu một dương, tất sẽ bớt một người là dương cứng đó ; một người đi một mình mà một lòng cầu hợp, thì sẽ được những người bạn dương cứng” 34. Đinh Dậu – Trạch Sơn Hàm, hào 5 - “Cửu Ngũ, hàm kỳ mai, vô hối”. - “Chín Năm, cảm tới thăn lưng, không đến nỗi hối hận”. - Tượng viết: “Hàm kỳ hối, chí mạt dã” – “Cảm tới thăn lưng, nói lên chí hướng giao cảm của Chín Năm quá nông mỏng. 35. Mậu Tuất – Thủy Hỏa Ký tế, hào 5 - “Cửu Ngũ, đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi Thược tế, thực thụ kỳ phúc”. - “Chín Năm, nước láng giềng bên đông giết trâu tế lớn, chẳng bằng lễ “tế Thược” sơ sài của nước láng giềng bên tây, được thực hưởng nhiều phúc trạch của thần linh ban giáng hơn”. - Tượng viết: “Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thời dã ; ‘thực thụ kỳ phúc’ cát đại lai dã” – “Chẳng bằng “tế Thược” của nước láng giềng phía tây”, ý nói nước láng giềng phía tây tế lễ hợp thời ; “nước láng giềng phía tây càng được thực hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng nhiều hơn”, dụ chỉ sự tốt lành nối tiếp nhau đến. 36. Kỷ Hợi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 3 - “Lục Tam, vị tế, chinh hung, lợi thiệp đại xuyên”. - “Sáu Ba, việc chưa thành, đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nhưng lợi về sự vượt qua sông cả sóng lớn để thoát khỏi hiểm nạn”. - Tượng viết: “Vị tế chinh hung, vị bất đáng dã” - Việc chưa thành đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nói lên ngôi vị Sáu Ba không thích đáng. 37. Canh Tý – Lôi Phong Hằng, hào 1 - “Sơ Lục, tuấn hằng trinh hung, vô du lợi” - “Sáu Đầu, quá mông được đạo hằng cửu, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, nếu không thì không có lợi”. - Tượng viết: “Tuấn hằng chi hung, thủy cầu thâm dã” - Sự hung hiểm của việc “quá mong cầu đạo hằng cửu”, nói lên Sáu Đầu ngay từ đầu đã cầu được quá sâu. 38. Tân Sửu – Phong Lôi Ích, hào 1 - “Sơ Cửu, lợi dụng vi đại tác, nguyên cát, vô cữu”. - “Chín Đầu, lợi về sự làn việc lớn, hết sức tốt lành, tất không cữu hại”. - Tượng viết: “Nguyên cát vô cữu, bất hậu sự dã” - Hết sức tốt lành mà không có cữu hại, nói lên Chín Đầu vốn không thể gánh vác được việc lớn (nhưng lúc này được ích, có thể làm việc lớn) 39. Nhâm Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (39 = 51) - “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”. - “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”. - Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn. 40. Quý Mão – Địa Thiên Thái hào 3 (40 = 52) - “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”. - “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”. - Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất” 41. Giáp Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (41 = 29) - “Lục Tam, bao tu”. - “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”. - Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng. 42. Ất Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (42 = 30) - “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”. - “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”. - Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh. 43. Bính Ngọ - Sơn Trạch Tổn, hào 2 - “Cửu Nhị, lợi trinh, chung hung ; phất tổn ích chi”. - “Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, vội tiến ngày sẽ có hung hiểm ; không làm tổn hại đức của mình thì có thể làm ích cho người trên”. - Tượng viết: “Cửu Nhị lợi trinh, trung dĩ vi chí dã” – Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, nói lên nên kiên trì giữ đạo trung làm hướng của mình. 44. Đinh Mùi – Trạch Sơn Hàm, hào 6 - “Thượng Lục, hàm kỳ phụ giáp thiệt” - “Sáu Trên, cảm bằng lời nói”. - Tượng viết: “Hàm kỳ phụ giáp thiệt, đằng khẩu thuyết dã” – “Cảm bằng lời nói”, nói lên Sáu Trên chẳng qua được tâng bốc lên bởi những lời rỗng tuếch mà thôi. 45. Mậu Thân – Thủy Hỏa Ký tế, hào 4 - “Lục Tứ, nhu hữu y như, chung nhật giới” - “Sáu Bốn, quần áo đẹp rồi sẽ biến thành rách nát tả rơi, phải luôn đề phòng họa hoạn”. - Tượng viết: “Chung nhật giới, hữu sở nghi dã” - Phải luôn đề phòng họa hoạn, nói lên Sáu Bốn đang có sự nghi sợ. 46. Kỷ Dậu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 4 - “Cửu Tứ, chinh cát, hối vong ; chấn dụng phạt Quỷ Phương, tam niên hữu thưởng vu đại quốc”. - “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; đánh nước Quỷ Phương với uy thế mạnh mẽ, qua ba năm chiến đấu công thành, được phong thưởng là chư hầu của nước lớn”. - Tượng viết: “Trinh cát hối vong, chí hành dã” - Giữ vững chính bền hối hận mất hết, nói lên Chín Bốn đang thực hiện chí cầu “tế”. 47. Canh Tuất – Lôi Phong Hằng, hào 6 - “Thượng Lục, chấn hằng, hung”. - “Sáu Trên, chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, có hung hiểm”. - Tượng viết: “Chấn hằng tại thượng, đại vô công dã” - Chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, mà lại ở cao tại ngôi trên, nói lên Sáu Trên giải quyết mọi việc tất sẽ uổng công vô ích. 48. Tân Hợi – Phong Lôi Ích, hào 2 - “Lục Nhị, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, vĩnh trinh cát ; vương dụng hưởng vu đế, cát”. - “Sáu Hai, có người cho một con rùa lớn quý đáng giá mười bằng, không từ tạ được, giữ vững chính bền lâu dài thì được tốt lành ; lúc này nhà vua đang tế trời cầu xin giáng phúc tốt lành”. - Tượng viết: “Hoặc ích chi, tự ngoại lai dã” – “Có người cho (một con rùa lớn quý, đáng giá mười bằng), nói lên Sáu Hai được tăng ích là từ bên ngoài tự đến. 49. Nhâm Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (49 = 1) - “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”. - “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”. - Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới Vua. 50. Quý Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4 (50 = 2) - “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”. - “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”. - Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới. 51. Giáp Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (51 = 39) - “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”. - “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”. - Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn. 52. Ất Mão – Địa Thiên Thái, hào 3 (52 = 40) - “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”. - “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”. - Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất” 53. Bính Thìn – Sơn Trạch Tổn, hào 1 - “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu, chước tổn chi”. - “Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp cho người ở ngôi cao, tất không có cữu hại ; nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân”. - Tượng viết: “Dĩ sự xuyền vãng, thượng hợp chí dã” – Thành việc tu dưỡng bản thân rồi đi giúp người trên cao, nói lên Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng. 54. Đinh Tị - Trạch Sơn Hàm, hào 1 - “Sơ Lục, hàm kỳ mẫu”. - “Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chấn cái”. - Tượng viết: “Hàm kỳ mẫu, chí tại ngoại dã” – Giao cảm ở ngón chân cái, nói lên chí hướng của Sáu Đầu phát triển ra phía ngoài. 55. Mậu Ngọ - Thủy Hỏa Ký tế, hào 3 (ý thông 46) - “Cửu Tam, Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên khắc chi ; tiểu nhân vật dụng”. - “Sáu Ba, vua Ân Cao Tông đánh nước Quỷ Phương, kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng ; không thể dùng kẻ tiểu nhân nóng vội gấp tiến”. - Tượng viết: “Tam niên khắc chi, bị dã” – Kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng, nói lên Chín Ba nỗ lực, bền bỉ tới mức sức lực cùng kiệt. 56. Kỷ Mùi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 5 - “Lục Ngũ, trinh cát, vô hối ; quân tử chi quang, hữu phu cát”. - “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, không có gì phải hối hận ; đây là do sự sáng của người quân tử, (lại thêm) trong lòng thành tín mà được tốt lành. - Tượng viết: “Quân tử chi quang, kỳ huy cát dã” - Sự sáng của người quân tử, dụ chỉ sự rực lên những tia sáng của Sáu Năm, là thể hiện của sự tốt lành. 57. Canh Thân – Lôi Phong Hằng, hào 5 - “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung”. - “Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm”. - Tượng viết: “Phụ nhân trinh cát, tòng nhất nhi chung dã ; phu tử chế nghĩa, tòng phụ hung dã” – “Đàn bà giữ vững chính bền thì được tốt lành”, nói lên cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà thì tất có hung hiểm. 58. Tân Dậu – Phong Lôi Ích, hào 3 - “Lục Tam, ích chi dụng hung sự, vô cữu ; hữu phu trung hàng, cáo công dụng khuê” - “Sáu Ba, nhận “ích” phần lớn phải dấn thân để cứu người khỏi điều ác, giải trừ hiểm nguy (như vậy) mới không lỗi ; tất phải giữ lòng thành tín, giữ đạo trung, thận trọng trong công việc, lúc nào cũng phải như tay cầm Ngọc khuê tâu việc với bậc vương công”. - Tượng viết: “Ích dụng hung sự, cố hữu chi dã” - Nhận “ích” rất nhiều nên nỗ lực dấn thân vào việc “cứu hung bình hiểm”. Như vậy Sáu Ba mới có thể giữ “ích” đã nhận được một cách chắc chắn. 59. Nhâm Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (59 = 11) - “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ” - “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”. - Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài. 60. Quý Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (60 – 12) - “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”. - “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”. - Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.[/size]1 like -
Dịch Can Chi
Ham Học liked a post in a topic by Hà Uyên
CHU KỲ 5 ...............................MÔNG .....VÔ VỌNG............................ĐẠI TRÁNG ...THĂNG...................+....................KIỂN ......KHUÊ...................................QUAN ...............................CÁCH 1. Giáp Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (1 ~ 49) - “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.” - “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.” - Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân. 2. Ất Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (2 ~ 50) - “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.” - “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.” - Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi. 3. Bính Dần - Hỏa Trạch Khuê, hào 6 - “Thượng Cửu, khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ ; phỉ khấu, hôn cấu ; vãng ngộ vũ tắc cát.” - “Chín Trên, trái lìa hết mức, cô độc hồ nghi, hoảng hốt như nhìn thấy con lợn lưng bám đầy bùn, lại thấy như một cỗ xe lớn chở đầy quỷ đang chạy, thoạt tiên thì dương cung muốn bắn, sau lại buông cung xuống ; thì ra không phải là giặc mạnh, mà là một cô gái đẹp tới kết hôn với mình ; lúc này mà đi gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành.” - Tượng “Ngộ vũ chi cát, quần nghi vong dã.” - Gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành, nói lên mọi điều ức đoán, nghi ngờ của Chín Trên đều bị tiêu tan. 4. Đinh Mão - Thủy Sơn Kiển, hào 2 - “Lục Nhị, vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố.” - “Sáu Hai, người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua “kiển nạn”, không phải vì bản thân.” - Tượng “Vương thần kiển kiển, chung vô cữu dã.” - Người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua kiển nạn, nói lên Sáu Hai cuối cùng sẽ không lỗi. 5. Mậu Thìn - Trạch Hỏa Cách, hào 2 - “Lục Nhị, kỷ nhật nãi cách chi, chinh cát, vô cữu.” - “Sáu Hai, vào “ngày Kỷ” phải chuyển biến gấp thì phải quả đoán mà tiến hành biến cách, tiến lên phía trước tất có sự tốt lành, không bị cữu hại.” - Tượng “Kỷ nhật cách chi, hành hữu giai dã.” – Vào ngày Kỷ thì phải chuyển biến gấp, nói lên Sáu Hai gắng đi lên tất có công tốt đẹp. 6. Kỷ Tị - Sơn Thủy Mông – hào 6 - “Thượng Cửu, kích mông ; bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.” - “Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối ; không lợi về sự dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên dùng để ngừa giặc mạnh.” - Tượng “Lợi dụng ngự khấu, thượng hạ thuận dã.” - Lợi nếu dùng cách ngừa giặc mạnh để trừ sự ngu tối, là nói rằng có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận. 7. Canh Ngọ - Địa Phong Thăng, hào 4 - “Lục Tứ, vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, cát, vô cữu.” - “Sáu Bốn, nhà vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, tốt lành, tất không cữu hại.” - Tượng “Vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, thuận sự dã.” – Nhà Vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, nói lên Sáu Bốn phải thuận theo nhà Vua lập công lập việc. 8. Tân Mùi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 4 - “Cửu Tứ, khả trinh, vô cữu.” - “Chín Bốn, có thể giữ vững chính bền, do đó tất không bị cữu hại.” - Tượng “Khả trinh vô cữu, cố hữu chi dã.” – Có thể giữ vững chính bền, nói lên Chín Bốn phải nắm bắt được cái bền, giữ được cái chính, mới có thể bảo tồn được sự vô hại lâu dài. 9. Nhâm Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (9 ~ 21) - “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.” - “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.” - Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình. 10. Quý Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (10 ~ 22) - “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.” - “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.” - Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài. 11. Giáp Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (11 ~ 59) - “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.” - “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.” - Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được. 12. Ất Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (12 ~ 60) - “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.” - “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.” - Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng. 13. Bính Tý - Hỏa Trạch Khuê, hào 5 - “Lục Ngũ, hối vong, quyết tông phệ phu, vãng hà cữu.” - “Sáu Năm, hối hận mất hết, kẻ trong họ thân ứng với nó, cắn vào da mềm giòn của nó (như với ý hòa thuận mong được gặp gỡ), đi lên thì sao mà cữu hại được ? - Tượng “Quyết tông phệ phu, vãng hữu khánh dã.” - Kẻ trong họ thân ứng với nó (như) cắn vào da mềm giòn của nó, nói lên lúc này Sáu Năm mà đi tất vui. 14. Đinh Sửu - Thủy Sơn Kiển, hào 3 - “Cửu Tam, vãng kiển, lai phản,” - “Chín Ba, tiến lên thì gian nan, quay lại là trở về nơi chốn của mình.” - Tượng “Vãng kiển lai phản, nội hỷ chi dã.” - Tiến lên thì gian nan, quay trở lại là trở về nơi chốn của mình, nói lên các hào âm mềm ở trong quẻ đều vui mừng thấy Chín Ba quay lại. 15. Mậu Dần - Trạch Hỏa Cách, hào 1 - “Sơ Cửu, củng dụng hoàng ngưu chi cách.” - “Chín Đầu, nên bó chặt bằng da con bò vàng.” - Tượng “Củng dụng hoàng ngưu, bất khả dĩ hữu vi dã.” – Bó chặt bằng da bò, nói lên Chín Đầu không thể bạ việc gì cũng làm bừa làm càn để biến cách. 16. Kỷ Mão – Sơn Thủy Mông, hào 1 - “Sơ Lục, phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc ; dĩ vãng lận.” - “Sáu Đầu, mở mang đầu óc, lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, khiến cho người ta không phạm tội ác ; nếu đi lên quá mức tất sẽ hối tiếc.” - Tượng “Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã.” - Lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, là để mọi người tuân theo các phép tắc đúng đắn. 17. Canh Thìn - Địa Phong Thăng, hào 3 - “Cửu Tam, thăng hư ấp.” - “Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.” - Tượng “Thăng hư ấp, vô sở nghi dã.” – Lên cao dễ dàng như vào nơi không người, nói lên lúc này Chín Ba “thượng thăng” sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ. 18. Tân Tị - Thiên Lôi Vô vọng, hào 5 - “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.” - “Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà sẽ vui vì khỏi bệnh.” - Tượng “Vô vọng chi dược, bất khả thí dã.” – Không càn bậy mà bị bệnh nhưng không cần phải uống thuốc, đó là vì không thể dùng thử linh tinh. “Bất khả thí” - tức không được thử thuốc. Thuốc công hiệu với những kẻ làm càn, mà không công hiệu với những ai không làm càn, cho nên nói “bất khả thí” vậy. 19. Nhâm Ngọ - Phong Địa Quán, hào 4 (19 ~ 31) - “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.” - “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.” - Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách. 20. Quý Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (20 ~ 32) - “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.” - “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.” - Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn. 21. Giáp Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (21 ~ 9) - “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.” - “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.” - Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình. 22. Ất Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (22 ~ 10) - “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.” - “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.” - Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài. 23. Bính Tuất - Hỏa Trạch Khuê, hào 4 - “Cửu Tứ, khuê cô ; ngộ nguyên phu, giao phu, lệ vô cữu.” - “Chín Bốn, chống đối, chia lìa, thui thủi một mình ; gặp chàng trai tốt dương cứng mà đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm nhưng tránh được cữu hại.” - Tượng “Giao phu vô cữu, chí hành dã.” - Đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm, nhưng lại tránh được cữu hại, nói lên chí hướng của Chín Bốn được thực hành để qua được thời khuê. 24. Đinh Hợi - Thủy Sơn Kiển, hào 4 - “Lục Tứ, vãng kiển, lai liên.” - “Sáu Bốn, tiến lên thì gian nan, quay lại gặp gian nan.” - Tượng “Vãng kiển lai liên, vị đáng thực dã.” - Tiến lên thì gặp kiển nạn, quay lại lại gặp gian nan, nói lên Sáu Bốn chính là đáng ngôi thật (kiển nạn không phải đưa lại một cách vu vơ) 25. Mậu Tý - Trạch Hỏa Cách, hào 6 - “Thượng Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện ; chinh hung, cư trinh cát.” - “Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước ; lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ chính thì được tốt lành.” - Tượng “Quân tử báo biến, kỳ văn úy dã ; tiểu nhân cách diện, thuận dĩ tòng quân dã.” - Người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, nói lên mỹ đức của Sáu Trên nhân vì vẻ tươi tắn sáng sủa của bậc đại nhân mà thành ra rực rỡ ; kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước, đây là thuận tòng sự biến cách của nhà vua. 26. Kỷ Sửu – Sơn Thủy Mông, hào 2 - “Cửu Nhị, bao mông, cát. Nạp phụ, cát ; tử khắc gia.” - “Chín Hai, được trẻ nhỏ vậy quanh, tốt lành. Như đón được người vợ hiền thục đẹp đẽ về nhà, tốt lành ; lại như người con coi sóc được việc nhà.” - Tượng “Tử khắc gia, cương nhu tiếp dã.” - Người con coi sóc được việc nhà, nói lên Chín Hai dương cứng ứng với Sáu Năm âm mềm. 27. Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2 - “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.” - “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi cữu hại.” - Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh. 28. Tân Mão – Thiên Lôi Vô vọng, hào 6 - “Thượng Cửu, vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi.” - “Chín Trên, tuy không làm bậy nhưng ở thế cùng mà đi thì tất gặp họa, không được lợi gì.” - Tượng “Vô vọng chi hành, cùng chi tai dã.” – Chín Trên tuy không làm bậy nhưng nếu có sự đi, thì sẽ do thế cùng, khó thông mà gặp phải tai ương. 29. Nhâm Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41) - “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.” - “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.” - Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”. 30. Quý Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (30 ~ 42) - “Cửu Nhị, trinh cát.” - “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.” - Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa. 31. Giáp Ngọ - Phong Địa Quan, hào 4 (31 ~ 19) - “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.” - “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.” - Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách. 32. Ất Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (32 ~ 20) - “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.” - “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.” - Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn. 33. Bính Thân - Hỏa Trạch Khuê, hào 3 - “Lục Tam, kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết ; kỳ nhân thiên thả tị. Vô sơ hữu chung.” - “Sáu Ba, dường như nhìn thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, trâu kéo xe bị cản không tiến được, như người bị khốc hình gọt tóc, xẻo mũi. Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp.” - Tượng “Kiến dư duệ, vị bất đáng dã ; vô sơ hữu chung, ngộ cương dã.” - Dường như thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, đây là do ngôi của Sáu Ba ở nơi không thích hợp gây nên ; Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp, nói lên cuối cùng Sáu Ba tất gặp được hào dương cứng tương ứng. 34. Đinh Dậu - Thủy Sơn Kiển, hào 5 - “Cửu Ngũ, đại kiển, bằng lai.” - “Chín Năm, đi thì mười phần gian nan, bè bạn tấp nập kéo đến giúp đỡ.” - Tượng “Đại kiển bằng lai, dĩ trung tiết dã.” – Đi thì mười phần gian nan, bạn bè tấp nập kéo đến giúp đỡ, nói lên Chín Năm giữ khí tiết dương cứng trung chính. 35. Mậu Tuất - Trạch Hỏa Cách, hào 5 - “Cửu Ngũ, đại nhân hổ biến, vị chiêm hữu phu.” - “Chín Năm, bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, không nghi ngờ gì nữa, tất sẽ làm sáng tỏ đức đẹp thành tín, chân thực.” - Tượng “Đại nhân hổ biến, kỳ văn bỉnh dã.” - Bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, nói lên đức đẹp của Chín Năm mang mầu vẻ đẹp đẽ. 36. Kỷ Hợi – Sơn Thủy Mông, hào 3 - “Lục Tam, vật dụng thủ nữ, kiến kim phu, bất hữu cung, vô du lợi.” - “Sáu Ba, không nên lấy người con gái này, trong mắt cô ta chỉ thấy người chồng đẹp mã thôi, không biết giữ mình, lấy cô ta không có lợi gì hết.” - Tượng “Vật dụng thủ nữ, hạnh bất thuận dã.” – Không nên lấy người con gái này, nói lên Sáu Ba có đức hạnh không hợp với lễ tiết. 37. Canh Tý - Địa Phong Thăng, hào 1 - “Sơ Lục, doãn thăng, đại cát.” - “Sáu Đầu, thích hợp về sự cao, hết sức tốt lành.” - Tượng “Doãn thăng đại cát, thượng hợp chí dã.” – Thích hợp về sự lên cao, hết sức tốt lành, nói lên Sáu Đầu đội trên mà thuận hợp với tâm chí của hai hào dương rồi cùng “thăng”. 38. Tân Sửu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 1 - “Sơ Cửu, vô vọng, vãng cát.” - “Chín Đầu, không làm càn, đi tất sẽ được tốt lành.” - Tượng “Vô vọng chi vãng, đắc chí dã.” – Không làm càn mà đi, ý nói Chín Đầu tất nhiên được toại ý tiến thủ. 39. Nhâm Dần – Phong Địa Quan, hào 2 (39 ~ 51) - “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.” - “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.” - Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy. 40. Quý Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (40 ~ 52) - “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.” - “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.” - Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế. 41. Giáp Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41) - “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.” - “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.” - Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”. 42. Ất Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (42 ~ 30) - “Cửu Nhị, trinh cát.” - “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.” - Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa. 43. Bính Ngọ - Hỏa Trạch Khuê, hào 2 - “Cửu Nhị, ngộ chủ vu hạng, vô cữu.” - “Chín Hai, trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, tất không cữu hại.” - Tượng “Ngộ chủ vu hạng, vị thất đạo dã.” – Trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, nói lên Chín Hai chưa từng phạm vào cách xử sự ở thời Khuê. 44. Đinh Mùi - Thủy Sơn Kiển, hào 6 - “Thượng Lục, vãng kiển, lai thạc ; cát, lợi hiện đại nhân.” - “Sáu Trên, đi lên thì gian nan, quay lại có thể lập công lớn ; tốt lành, lợi về sự xuất hiện đại nhân.” - Tượng “Vãng kiển lai thạc, chí tại nội dã ; lợi hiện đại nhân, dĩ tòng quý dã.” – Đi lên thì gian nan, nói lên chí hướng của Sáu Trên là liên hợp bên trong cùng nhau vượt gian nan ; Lợi về sự xuất hiện đại nhân, nói lên Sáu Trên nên theo giúp bậc quân chủ dương cứng tôn quý. 45. Mậu Thân - Trạch Hỏa Cách, hào 4 - “Cửu Tứ, hối vong, hữu phu cải mệnh, cát.” - “Chín Bốn, hối hận mất hết, giữ lòng thành tín để cách trừ (vương) mệnh cũ, tốt lành.” - Tượng “Cải mệnh chi cát, tín chí dã.” – Cách (vương) mệnh cũ thì được tốt lành, nói lên Chín Bốn thực hiện chí biến cách. 46. Kỷ Dậu – Sơn Thủy Mông, hào 4 (Khốn vòng 2) - “Lục Tứ, khốn mông, lận.” - “Sáu Bốn, khốn vì tăm tối, có sự hối tiếc.” - Tượng “Khốn mông chi lận, độc viễn thực dã.” - Hối tiếc do khốn vì tăm tối, nói lên Sáu Bốn cách xa “mông sư” cứng, khỏe, vững. 47. Canh Tuất - Địa Phong Thăng, hào 6 - “Thượng Lục, minh thăng, lợi vu bất tức chi trinh.” - “Sáu Trên, mê muội cùng cực lại cứ muốn lên cao, lợi về sự giữ vững chính bền không ngừng nghỉ.” - Tượng “Minh thăng tai thượng, tiêu bất phú dã.” – Mê muội cùng cực lại vẫn cứ muốn lên cao, nói lên xu thế phát triển của Sáu Trên tất sẽ tiêu mòn, không thể giầu thịnh. 48. Tân Hợi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 2 - “Lục Nhị, bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng.” - “Sáu Hai, không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch; không khai khẩn thì không có được ruộng tốt, như vậy lợi về có sự đi.” - Tượng “Bất canh hoạch, vị phú dã.” – Không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch, nói lên ý Sáu Hai chưa từng mưu cầu sự giầu sang phú quý. 49. Nhâm Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (49 ~ 1) - “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.” - “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.” - Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân. 50. Quý Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (50 ~ 2) - “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.” - “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.” - Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi. 51. Giáp Dần – Phong Địa Quán, hào 2 (51 ~ 39) - “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.” - “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.” - Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy. 52. Ất Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (52 ~ 40) - “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.” - “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.” - Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế. 53. Bính Thìn - Hỏa Trạch Khuê, hào 1 - “Sơ Cửu, hối vong ; táng mã, vật trục tự phục ; kiến ác nhân, vô cữu.” - “Chín Đầu, hối hận tiêu vong, ngựa chạy mất, chớ đuổi theo, bình tĩnh chờ nó tự trở về, khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, không bị cữu hại.” - Tượng “Kiến ác nhân, dĩ tị cữu dã.” – Khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, là để tránh sự cữu hại do sự trái lìa gây nên. 54. Đinh Tị - Thủy Sơn Kiển, hào 1 - “Sơ Lục, vãng kiển, lai dự.” - “Sáu Đầu, tiến lên thì gian nan, trở lại ắt được khen.” - Tượng “Vãng kiển lai dự, nghi đãi dã.” - Tiến lên thì gian nan, trở lại thì được khen, nếu nói như vậy thì Sáu Đầu nên chờ đợi thời cơ. 55. Mậu Ngọ - Trạch Hỏa Cách, hào 3 - “Cửu Tam, chinh hung, trinh lệ ; cách ngôn tam tựu, hữu phu.” - “Chín Ba, gấp vội cầu tiến tất sinh “hung”, giữ chính phòng nguy hiểm ; khi biến cách bước đầu đã thành hiệu cần phải nhiều lần đi xuống làm theo lòng dân, yên định đại cục, xử sự phải giữ lòng thành tín.” - Tượng “Cách ngôn tam tựu, hựu hà chi hỹ.” – Khi sự biến cách bước đầu đã thành hiệu, nói lên tại thời điểm này, Chín Ba hà tất phải quá vội vàng đi lên ! 56. Kỷ Mùi – Sơn Thủy Mông, hào 5 - “Lục Ngũ, đồng mông, cát.” - “Sáu Năm, trẻ nhỏ chưa biết gì, chính thế lại dễ dạy, tốt lành.” - Tượng “Đồng mông chi cát, thuận dĩ tốn dã.” - Trẻ nhỏ chưa biết gì, nói lên Sáu Năm cung kính, nhu thuận, khiêm tốn với thầy dạy. 57. Canh Thân - Địa Phong Thăng, hào 5 - “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.” - “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.” - Tượng “Trinh cát thăng giai, đại đắc chí dã.” - Từng bậc một mà tiến lên cao, nói lên Sáu Năm đã hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao của bản thân. 58. Tân Dậu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 3 - “Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.” - “Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.” - Tượng “Hành nhân đắc ngưu, ấp nhân tai dã.” - Người đi đường thuận tay dắt và lấy mất trâu đi, nói lên người trong Ấp tự nhiên bị tai bay vạ gió, bị đổ tội nghi là lấy cắp trâu. 59. Nhâm Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (59 ~ 11) - “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.” - “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.” - Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được. 60. Quý Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (60 ~ 12) - “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.” - “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.” - Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.1 like -
Chúng ta có bốn con số, được quy định như sau: cặp số 7 - 8 được quy định đại diện cho "tĩnh", cặp số 9 -6 được đại diện cho "động". Trong cặp số 7 - 8 đại diện cho cho "Tĩnh", thì số "8" là số đại diện cho Dương "Tĩnh", còn số "7" là số đại diện cho Âm "Tĩnh". Các bước thực hiện: - Quẻ Càn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Càn là 8 + 16 + 32 = 56 - Quẻ Khôn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khôn là 7 + 14 + 28 = 49 - Quẻ Chấn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 8 + 14 + 28 = 50 - Quẻ Khảm: hào một có trị số là 7, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là 7 + 16 + 28 = 51 - Quẻ Đoài: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là 8 + 16 + 28 = 52 - Quẻ Cấn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Cấn là 7 + 14 + 32 = 53. - Quẻ Ly: hào một 8, hào hai là 7 x 2 = 14, hào ba là 16 x 2 = 32. Tông trị số ba hào quẻ Ly là 8 + 14 + 32 = 54 - Quẻ Tốn: hào một là 7, hào hai là 16, hào ba là 32. Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là 7 + 16 + 32 = 55 Bát quái tương đương với trị số quẻ được xếp như sau: ..49.....50.......51......52.....53....54....55....56. Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn. Từ đây, chúng ta thấy mối liên hệ của thuật toán "Cỏ thi", tại sao lại dùng có 49 cây Cỏ thi để thực hiện 18 lần chia, mỗi lần 3 biến thì được một hào, 18 lần thì được 6 hào của một quẻ Dịch. Từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "Có", từ tối tới sáng, từ đêm tới ngày, ... , Cũng từ đây, có thể số 50 được coi là "Đế xuất hồ Chấn" Bây giờ, chúng ta xếp các trị số của quẻ theo mô hình được gọi là Tiên thiên như sau: ....................56.................... ...........52................55.......... ...54...............+.................51.. ..........50.................53............ .....................49.................... Khi chúng ta đọc thứ tự số từ "không" tới "có", từ Âm tới Dương, lần lượt tăng thêm một đơn vị, bắt đầu từ số 49, thì chúng ta thấy đường đi hình chữ số 8 thật là vui mắt. Tổng trị số của Càn-Đoài-Ly-Chấn, đều có hào một là hào dương là: 56 + 52 + 52 + 50 = 212 Tổng trị số của Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, đều có hào một là hào âm là: 55 + 51 + 53 + 49 = 208 Như vậy, trị số của Dương và Âm có khác biệt 4 đơn vị. Không hiểu tại sao người xưa lại gọi 4 là chìa khóa của âm dương khi sinh Ngũ hành ? Nhìn vào đồ hình sắp xếp các trị số của quẻ, ta thấy những cặp số đứng liền nhau mà khác biệt 4 đơn vị gồm có: Càn và Đoài, Khôn và Cấn, Chấn và Ly, Tốn và Khảm. Có thể từ đây, mà người xưa đặt ra điều lệ: cặp Khôn-Cấn và cặp Càn-Đoài là Tây tứ trạch. Còn cặp Tốn-Khảm và Chấn-Ly là Đông tứ trạch (?) Những cặp này đều có trị số cách nhau 4 đơn vị Tiếp tục khảo sát, tổng trị số của 8 quái là: 212 + 208 = 420. Thật lạ, như vậy Tổng trị số của tám quẻ khi "Tĩnh" lại bằng với Tổng Trị số tám quẻ Khi "Động", đều bằng 420. (?) Lại tiếp tục khảo sát: ..49.....50.......51......52......53....54....55....56......... (khi dùng cặp số 7 - 8) Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn. ..63.....60.......57......54......51.....48....45....42..........(Khi dùng cặp số 6 - 9) Nhận thấy, từ Khôn tới Đoài số thứ tự là 4 khi "Tĩnh", thì khi "Động" có trị số cách nhau là 42 + 9 = 51. Tiếp tục từ Đoài tới Tốn, thì thứ tự khi "tĩnh" cũng cách nhau là 4, mà khi "động" cũng có trị số cách nhau là 9, cụ thể là 51 + 9 = 60. Từ "Tĩnh" chuyển sang "động", từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "có", thông qua 9 con số Cửu cung, chúng ta từng bước tìm hiểu về những con số của Dịch 7 - 8 - 9 - 6.1 like
-
Khảo sát Lịch sử về chiêm bốc, thì "cỏ thi" đã thay thế cho "mai rùa". Trên thực tế, ngoài ghi chép của Khổng Tử ra, không có phương pháp bói "cỏ thi" nào khác, được ghi chép lại. Tới tận đời Đường, thời gian có tới hơn hai ngàn năm. Một cuộc cách mạng đã làm thay đổi thời gian Bốc quẻ, khi thay thế Ba đồng tiền để tiến hành lắc quẻ. Theo thời gian, Bốc dịch lại sản sinh ra một cuộc cách mạng trọng đại nữa, cho tới khi xuất hiện Thiệu Ung. Ông cho rằng: "Thần sinh Số, Số sinh Tượng, Tượng sinh Khí". Được gọi là Khang Tiết Thần số. Thời Tam quốc, Vương Bật, một người thanh niên đề xướng tư tưởng trị dịch: "đắc ý quên tượng". Thì Dịch học đã chuyển từ Chiêm Bốc sang Triết học. Trường phái Nghĩa - Lý đã thay thế Dịch Số thời nhà Hán. Cho tới ngày hôm nay, Bốc Dịch cần Khoa học, hiện đang là thời mà Khoa học không cần Chiêm Bốc.1 like
-
Trước khi tìm hiểu về Âm Dương sinh Ngũ hành như thế nào ? Có lẽ, chúng ta khảo sát trước về những con số Âm Dương khi sinh. Một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Khôn là 49 như sau: ..1......2......3......4......5......6......7......8......9.. .49....48.....47....46.....45....44.....43....42....41.. .40....39.....38....37.....36....35.....34....33....32.. .31....30.....29....28.....27....26.....25....24....23.. .22....21.....20....19.....19....17.....16....15....14 .13....12.....11....10......9......8......7......6......5 ..4......3......2......1......0.............................. .................................9......8......7......6.....??? Thông qua năm lần hàng ngang, trị số giảm dần của Khôn, thì hàng dọc cho chúng ta thấy những cặp số: 1 -4, 2 - 3, 3 -2, rồi lại 1 - 4, thì trị số của quẻ Khôn từ 49 => 1 ở vị trí có số thứ tự là 4. Tiếp tục một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Càn là 56 như sau: ...1......2......3......4......5......6......7......8......9.. ..56.....55....54....53.....52....51.....50....49....48.. .................................................................... .................................................................... .................................................................... .................................................................... ..11.....10.....9......8......7......6......5.....4.......3.. ...2.......1.....0................................................ Trị số của Càn là 56, nếu theo thứ tự là một, thì từ hàng dọc, trị số của Càn được khởi đầu lại là 2, là số "Chẵn", là số "Ngẫu". Vậy thì tại sao Dịch lại nói: Dương lẻ Âm chẵn, Dương cơ âm ngẫu ?1 like
-
Chúng ta khảo sát lại với cặp số 9 - 6, được coi là cặp số đại diện cho "động" ....................CÀN.........................KHÔN.......... Hào ba.......18 x 2 = 36...............12 x 2 = 24...... Hào hai...... 9 x 2 = 18.................6 x 2 = 12..... Hào một...............= 9..........................= 6...... - Quẻ Chấn: hào một dương 9, hào hai âm 6 x 2 = 12, hào ba âm 12 x 2 = 24. Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 9 + 12 + 24 = 45 (Hàm tam vi nhất) - Quẻ Khảm: hào một âm 6, hào hai dương 9 x 2 = 18, hào ba âm 12 x 2 = 24. Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là: 6 + 18 + 24 = 48 - Quẻ Cấn: hào một âm trị số là 6, hào hai âm 6 x 2 = 12, hào ba dương 18 x 2 = 36. Tổng 3 hào: 6 + 12 + 36 = 54. - Quẻ Tốn: hào một âm trị số là 6, hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18, hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36. Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là: 6 + 18 + 36 = 60 - Quẻ Ly: hào một dương trị số là 9, hào hai âm 6 x 2 = 12, hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36. Tổng trị số ba hào quẻ Ly là: 9 + 12 + 36 = 57. - Quẻ Đoài: hào một dương trị số là 9, hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18, hào ba âm trị số là 6 x 2 x 2 = 12. Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là: 9 + 18 + 24 = 51. Tổng trị số 3 hào của Càn là: 9 + 18 + 36 = 63. Tổng trị số 3 hào của Khôn: 6 + 12 + 24 = 42. .42.......45.........48.........51......54........57.......60.........63... Khôn....Chấn......Khảm.....Đoài....Cấn......Ly.......Tốn.......Càn.. .49.......50.........51.........52.......53.......54........55........56... Tổng trị số tám quái khi tĩnh: 420 (cặp số 7 - 8) Tổng trị số tám quái khi động: 420 (cặp số 6 - 9) Âm Dương sinh Ngũ hành, có thể thông qua chìa khóa của Ngũ hành là số 4, và những con số từ 1 => 9, chúng ta nhận thức được không ? Người xưa đã thực hiện tính toán như thế nào để quy tám quái về Ngũ hành ? Tại sao Càn Đoài thuộc Kim, Chấn Tốn thuộc Mộc, Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy, Cấn Khôn thuộc Thổ ???. Người xưa nói: phương Đông sinh Mộc, vậy phương Tây có sinh Mộc không ?1 like
-
Có thể, những con số là sợi dây nối liền Bốc Dịch với Khoa học.1 like