• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 27/10/2011 in Bài viết

  1. TẢN MẠN VỀ TỲ HƯU Trong phong thủy có một vật phẩm được tôn vinh là đệ nhất tài thần. Đó là con tỳ hưu. Nó được giới thiệu là một con vật chỉ có ăn và không hề đào thải, nó được coi là hình tượng của sự tích lũy và phát triển tài lộc vì chỉ có vào không có ra. Người ta đồn rằng chính Hòa Thân, một vị đại thần bậc nhất đời nhà Thanh có một con tỳ hưu bằng bạch ngọc rất lớn. Lớn đến nỗi ông ta phải xây cả một ngôi nhà để chứa con tỳ hưu. Nhưng nó được ông ta giấu rất kỹ, chỉ đến khi nhà ông bị khám, mọi người mới biết đến con tỳ hưu này. Bởi vậy, người ta đồn rằng sở dĩ ông ta giàu có đến bậc "Phú gia địch quốc" chính nhờ con tỳ hưu bằng bạch ngọc đồ sộ đó. Huyền thoại từ xa xưa đã nói đến con tỳ hưu. Theo truyền thuyết Tỳ Hưu là đứa con thứ chín của Long Vương, thức ăn của nó là kim ngân châu báu, vì thế toàn thân nó toát lên bảo khí một cách tự nhiên. Đem Tỳ Hưu ra so sánh với các con vật cát tường khác như Cóc vàng thì Tỳ Hưu luôn đứng đầu, vì thế nó rất được Ngọc Hoàng ưa chuộng. Nhưng ăn nhiều thì nặng bụng, cho nên có một lần vì không nhịn được nó đã đi bậy trên Thiên Đình khiến Ngọc Hoàng Đại Đế rất tức giận và cho một tát vào mông khiến cho hậu môn bị bịt kín luôn, từ đó kim ngân châu báu chỉ có thể vào mà không thể ra. Sau khi chuyện đó được truyền đi, Tỳ Hưu được xem như con vật chiêu tài tiến bảo cát tường. Bởi vậy, tỳ hưu bán đầy ở các cửa hàng phong thủy, người giàu thì mua con to giá đến vài trăm triệu, người làng nhàng thì cũng vài triệu một con, người có chút dư dả cũng mua loại nhỏ vài trăm một cặp. Trong lý học Đông phương thì ở trong vũ trụ này mọi sự vận động đều tuần hoàn theo quy luật tạo hóa. Sinh sinh diệt diệt chẳng có cái gì là sự vĩnh cửu. Có nhập thì phải có xuất đó là lẽ tự nhiên. Chẳng có cái gì chỉ có nạp mà không có thải. Những căn nhà, hoặc căn phòng bế khí là một thí dụ cho những hậu quả tai hại của những con người cư ngụ trong đó. Đó là hậu quả của sự có nạp mà không có thải. Cứ cho rằng con tỳ hưu mà hình tượng của nó chỉ nap khí và tụ lại trong hình tượng đó, không có thải ra theo nguyên tắc "hình nào khí đó". Và nếu đúng như vậy thì quả là sự nguy hại cho những ai sử dụng nó. Bởi vậy, tôi chẳng bao giờ khuyên thân chủ tôi mua tỳ hưu. Mua nó về, lúc đầu thì có vẻ như phát tài , phát lộc thật, Nhưng đến khi khí bế thì tài lộc không thể vào được nữa. Kinh doanh ngày càng lụn bại. Nếu đã lỡ mua rồi , tôi thường khuyên thân chủ của tôi tạo ra một cái hậu môn - cũng chỉ là hình tượng - phía dưới đuôi để thông khí.
    1 like
  2. Ngôn Ngữ Đơn Âm Trích của học giả Vương Chấn Ninh (Trung Quốc): 2) Kinh Dịch là một trong các nguyên nhân làm cho Hán ngữ trở thành ngôn ngữ đơn âm. Nguồn gốc của Hán ngữ, Hán tự Các ngôn ngữ nguyên thủy và ngôn ngữ chín muồi trên thế giới đều là ngôn ngữ đa âm [nguyên văn: phức âm]; rất hiếm có ngôn ngữ đơn âm. Tôi không nắm được bất kỳ một ngôn ngữ chín muồi nào khác là ngôn ngữ đơn âm như Hán ngữ. Gần đây các nhà khảo cổ phát hiện 16 nghìn năm trước, người dân Giang Tây đã thu thập lúa dại để làm lương thực chính. Cho nên hơn 10 nghìn năm trước đã hình thành văn hóa Trung Hoa. Ta có thể tin rằng hồi ấy họ đã có ngôn ngữ. Ta cũng có lý do có thể giả thiết những ngôn ngữ mà tổ tiên ta sử dụng hồi ấy là ngôn ngữ đa âm. Thế thì vì sao sau này lại biến ra thành Hán ngữ đơn âm? Từ Hán ngữ đa âm biến thành Hán ngữ đơn âm nhất định phải trải qua một quá trình rất dài, hơn nữa nhất định phải có lý lẽ của nó, vì đây là một chuyện rất độc đáo. Tôi cho rằng thời đại hình thành văn hóa Trung Hoa, thời đại hình thành Hán ngữ đã chịu ảnh hưởng từ tên gọi các quẻ trong Kinh Dịch, từ Kinh Dịch phát triển ra quan niệm ở tầng sâu cho rằng tinh giản là đẹp, cô đọng là đẹpTôi có một giả thiết mạnh dạn như sau : sự biến đổi đó chịu ảnh hưởng của Kinh Dịch. Tên quẻ [quái danh] là đơn âm. Càn, Khôn, .... đều đơn âm cả. Đó là những từ tầng lớp thống trị sử dụng, có tính chất thần bí, có ảnh hưởng lớn, đọc lên có sức mạnh. Lâu ngày nó sẽ hình thành một giá trị quan coi trọng ký hiệu [phù hiệu] đơn âm, về sau ảnh hưởng tới toàn bộ sự phát triển Hán ngữ. Hôm nay tại đây có sự hiện diện của các chuyên gia ngôn ngữ; ý kiến của tôi là rất mạnh dạn, hy vọng sẽ không bị các nhà ngôn ngữ học đập cho tơi bời. Chúng ta xem : Nguyên, Hưởng, Lợi, Trinh, Cát, Hung, Âm, Dương, Nhật, Nguyệt, Thiên, Địa - những chữ đơn âm này có thanh có sắc, có sức nặng, nói ra có tác động, dĩ nhiên có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ ngôn ngữ văn tự. Cho nên vừa rồi tôi nói tôi đoán là Hán ngữ, Hán tự sở dĩ biến thành ngôn ngữ văn tự đơn âm là có quan hệ khăng khít với Kinh Dịch. ( Nguồn: 杨振宁:《易经》对中华文化的影响 ) Để trao đổi, mời bạn đọc xem tiếp bài trích trên mạng viết theo sách của Hà Văn Thùy, dưới đây: Cho đến nay, có lẽ ít người để ý rằng, tiến trình hình thành dân cư Việt Nam có khoảng trống lớn. Từ giữa thế kỷ XX, khảo cổ học xác nhận, người Khôn ngoan (Homo sapiens) có mặt đầu tiên trên đất nước ta tại di chỉ Sơn Vi 32000 năm trước. Nhưng những khám phá di truyền học gần đây cho thấy, người tiền sử đã từ châu Phi theo bờ biển Ấn Độ tới Việt Nam khoảng 70.000 năm trước. Khám phá của các nhà di truyền học là đáng tin vì khảo cổ học cũng đã phát hiện bộ xương người Mongoloid tại Lưu Giang, Quảng Tây 68000 năm tuổi, một sọ người Australoid 60000 năm trước tại sa mạc Mungo nước Úc. Như vậy, di truyền học đã đẩy thời gian người tiền sử xuất hiện trên đất nước ta xa thêm 40.000 năm. 40000 năm ấy là khoảng trống vô tận của khảo cổ học, chắc chắn đã vô tăm tích nếu không được ghi dấu trong bộ gen của chúng ta! Vấn đề đặt ra là, trong thời gian thăm thẳm ấy, tổ tiên chúng ta sống ở đâu và hoạt động như thế nào? Theo nhiều nghiên cứu thì vào thời Băng Hà, mực nước biển thấp hơn hôm nay 130 mét, Thái Bình Dương bị thu hẹp thành những biển nhỏ. Giữa chúng nổi lên lục địa Sundaland nối từ Đài Loan xuống Indonesia và Hainanland ở phía nam đảo Hải Nam, là thềm lục địa Biển Đông của Việt Nam. Về cấu tạo địa chất, thềm Biển Đông là nối dài của kiến tạo địa chất Trường Sơn vươn ra biển. Chưa có nghiên cứu nào về khi hậu Đông Nam Á thời Băng Hà, nhưng dựa trên khí hậu chung Trái đất thời đó, có phần chắc rằng, Đông Nam Á không nóng và ẩm như bây giờ mà có lẽ khô và mát. Trong điều kiện lúc đó thì khi hậu như vậy là thuận lợi nhất cho động, thực vật và con người sinh sống. Từ châu Phi, vượt qua cửa Hồng Hải, đoàn người di cư tới đất Yemen. Một bộ phận dừng lại ở đây vì bị bức thành băng phía bắc chặn đứng. Một bộ phận đi về hướng mặt trời mọc. Từ bờ Ấn Độ dương, họ băng qua eo biển rộng 120 hải lý, tới đảo Mã Lai, sau đó tới quần đảo Indonesia. Một số đi tiếp tới các đảo khác ở Thái Bình dương và châu Úc. Một bộ phận từ mạn tây Borneo đi lên phía bắc, tiến vào đồng bằng Hainanland và Sundaland (1). Gặp môi trường thuận lợi, họ hòa huyết, sinh sôi cho bốn chủng người mà sau nay khoa học đặt tên là Indonesian. Melanesin, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc loại hình Australoid. Trong đó, chủng Indonesian chiếm đa số (2). Khoảng 50.000 năm cách nay, người từ Hainanland và Sundaland đã đông đúc. Một bộ phận di cư về phía đông, tới các hải đảo Thái Bình Dương và châu Úc. Một bộ phận băng qua đất liền Việt Nam, Mianmar vào chiếm lĩnh Ấn Độ. Có thể một nhóm người khi tiến về phía Tây, đã dừng lại tại khu vực Phú Thọ, trở thành chủ nhân văn hóa Sơn Vi 32000 năm trước và để lại di cốt sớm nhất của người tiền sử trên đất liền Việt Nam. Không hiểu vì sao, chúng ta không phát hiện được đi cốt người tiền sử ở Việt Nam sớm hơn niên đại 32000 năm cách nay, mặc dù di truyền học cho thấy 50000 năm trước, người xưa đã băng qua Việt Nam tới Ấn Độ. Khoảng 40000 năm trước, khi khí hậu phía bắc được cải thiện, người từ Hainanland và Sundaland đi lên khai phá đất Trung Quốc. Khoảng 20000 năm trước, tại Hainanland, người cổ thuần hóa được cây kê và cây lúa khô (lúa nương, lúa lốc). Nhờ tự túc được một phần lương thực, đời sống được cải thiện, nhân số tăng nhanh, phân công lao động xuất hiện. Tại đây con người nảy sáng kiến mài đá cuội thành búa, rìu, giúp vỡ đất đề cấy trồng. Từ 18000 năm trước, khí hậu trở nên ấm nóng, băng hà bắt đầu tan, mưa nhiều hơn, nước biển dâng lên mỗi năm một cm. Một số nương trồng kê ngập nước, diện tích kê bị thu hẹp. Tuy nhiên, cũng lúc này, một số chủng lúa khô lại phát triển tốt hơn trong môi trường nước. Con người chuyển sang chăm sóc những ruộng lúa nước. Nông nghiệp lúa nước ra đời cùng với thuần dưỡng gà và chó. Khoảng 15000 năm trước, nước biển dâng cao, ngang với mức hiện nay. Đồng bằng Hainanland, Sundaland bị chìm trong nước. Do nước lên từ từ nên người cổ đã di chuyển lên vùng đất cao xung quanh: các đảo của Mã Lai, Indonesia, miền nam sông Dương Tử, đất Việt Nam… Khoảng 18000 năm trước, tổ tiên ta định cư ở Hòa Bình và sáng tạo nền văn hóa Hòa Bình nổi tiếng (3). Một điều khiến giới khảo cổ đau đầu là trong khi nhiều đoán định cho rằng, khoảng 15000 năm trước, lúa nước đã được trồng ở nơi nào đó tại Đông Nam Á nhưng trên thực tế, những di chỉ khảo cổ có dấu vết lúa nước trong vùng tuổi lại khá muộn! Nay có thể giải thích là, cái nôi của lúa nước là tại đồng bằng Hainanland. Cả bào tử phấn hoa từ cây lúa trồng đầu tiên cũng như di cốt chủ nhân của chúng đã bị chìm trong lòng nước. Ngày nay, nhiều khảo sát ADN cho thấy, trong dân cư Đông Á, người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất, có nghĩa, người Việt Nam là dân cư cổ nhất ở khu vực. Điều này có thể được giải thích là đồng bằng Hainanland, hay thềm Biển Đông chính là cái nôi của dân cư Đông Á mà phần lõi của khối dân cư ấy, khi nước dâng đã di cư lên đất Việt Nam. Do khoảng di chuyển quá ngắn, kiểu như từ chân lên lưng chừng đồi nên các nghiên cứu ADN kết luận: “Người tiền sử từ châu Phi theo đường Nam Á đến Việt Nam 60-70000 năm trước.” Đến Việt Nam nhưng không phải là đất liền Việt Nam hiện tại mà là thềm biển Đông của Việt Nam. Kết luận được rút ra ở đây là: thềm Biển Đông là cái nôi của người Việt. Tại đây, tổ tiên chúng ta đã gặp gỡ, yêu đương, lao động và sáng tạo ra nền văn minh nông nghiệp đầu tiên của nhân loại. Cũng từ đây, nhiều thế hệ người Việt lên đường mở đất, gieo văn minh trên khắp châu Á, châu Âu và cả châu Mỹ. Hy vọng rằng, sau này, nhờ tiến bộ khoa học, cùng với khai thác tài nguyên thềm lục địa, chúng ta sẽ xây dựng khoa khảo cổ hải dương học, tìm lại vết tích của tổ tiên xưa. Bảo vệ Biển Đông cùng Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ giữ gìn lãnh hãi mà còn bảo vệ cái nôi thiêng liêng, nơi tổ tiên chúng ta lần đầu đặt chân lên đất châu Á, 70000 năm trước. Tham khảo: 1- Stephen Oppenheimer. Địa đàng ở phương Đông. NXB Lao Động, H, 2004 2- Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB ĐH&THCN. H, 1983 3- Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008. © Hà văn Thùy ( Nguồn: Đàn chim Việt ) Và xem tiếp bài dưới đây ( Xin lỗi là có chèn những đoạn Lãn Miên chú thích viết trong ngoặc đơn),sưu tầm từ cuốn “Dân tộc bách khoa toàn thư”, trang 424, NXB Đại bách khoa toàn thư, Bắc Kinh tháng 5 – 1994. Trang 424 phần viết về dân tộc Việt: Việt là tên gọi chung các tộc người Việt cổ đại ở miền Nam Trung Quốc. Thời Chiến Quốc gọi là Bách Việt 百 越 ( LM chú thích: ở đây dùng chữ Việt 越 ,mà LM đã giải thích là chữ “Việt đi” ) sử ghi là Bách Việt 百 粤, Việt 粤, ( LM chú thích: ở đây dùng chữ Việt 粤 mà LM đã giải thích là chữ “Việt ở, có trước. Các nét biểu ý để tổng hợp nên chữ nho này đã được học giả Đỗ Thành người Triều Châu, blog Nhạn Nam Phi, giải thích là: Vuông đất – cái nét hình vuông 口, tiếng Triều Châu cũng phát âm là “vuông”- của dân Cháy- chữ Thái 采, Triều Châu phát âm là “Chói”, ở Việt Nam còn có dòng sông Chảy, làm nghề Cày- hình cái cày cong ở dưới, tức dân nông nghiệp định cư thờ mặt trời”. Có ở định cư làm nông nghiệp rồi dân số phát triển đông lên mới đi mở cõi tiếp. Ở=U=Ư 于 =Ổ - theo QT, trường hợp này là những từ cùng có mẫu số chung là Vắng Tơi thì là cùng nôi logic khái niệm. “Từ Ổ” lướt thành đơn âm là “Tổ”, nghĩa là cái người đầu tiên. “Việt U” lướt thành đơn âm là “Vu 于”. Nước Ư Việt 于 越 hay nước Vu Việt 于 越 cổ đại cùng là một. “Vu Quê” lướt thành đơn âm là “Về”). lại nói phân bổ thậm rộng, trong đó có nhiều họ khác nhau, cư trú xen kẽ khắp nơi miền Nam. Bách Việt là một từ bao gồm các dân tộc, hoặc để chỉ một tộc thể theo sự phát triển của lịch sử mà có sự biến hóa. Nguồn gốc và phân bố: Về nguồn gốc tộc Việt, có quan điểm cho rằng có quan hệ sâu xa với Sở, truyền thuyết nói rằng nó cùng họ với Sở ( “dữ Sở đồng tính 与 楚 同 姓”), đều là hậu duệ của thần Chúc Dung ( “Chúc Dung chi hậu 祝 融 之 后”); ( LM chú thích: Chúc Dung, cổ Hán thư khi ghi lại truyền thuyết, và ngày nay khi các sách viết thì đều viết là chữ Chúc Dung 祝 融, Hán ngữ hiện đại phát âm là “trú dung”- zhu yong. Truyền thuyết Trung Hoa lại nói rằng: “Thời Hoàng Đế có thần Chúc Dung được Hoàng Đế giao cho việc bảo quản lửa”. Vậy không hiểu tại sao chữ Chúc Dung 祝 融 này chẳng có nét biểu ý nào thể hiện lửa cả, chữ Chúc 祝 là chúc mừng, chữ Dung 融 là hòa rộng. Còn chữ Chúc Dung 燭 熔 xưa hơn, Hán ngữ hiện đại phát âm cũng là “trú dung”- zhu yong, lại không được dùng. Chữ Chúc Dung 燭 熔 này đều có nét biểu ý là bộ lửa: Chúc 燭 Dung 熔. Chữ Chúc 燭 nghĩa là cây đuốc. Đuốc=Đốt=Đúc=Chúc=Cháy, nghề đúc là cái nghề phải đốt lửa. Chữ Chúc 燭 này có bộ Đỏ 火để biểu ý, nó là màu ngũ hành của lửa - do cặp từ đối nguyên thủy chỉ màu ngũ hành là Đỏ/Đen đại diện cho Lửa/Nước, chính ra cặp đối nguyên thủy là Nắng/Nước kể từ khi hình thành vũ trụ để tạo ra một cái Năng, cái Năng ấy đến bây giờ vẫn nhiều vô tận là ở Nắng và Nước; từ đối nguyên thủy thì là hai từ phải cùng mẫu số chung là Cùng Tơi, hoặc Vắng Tơi, Nắng và Nước cùng Tơi là N. Chữ Chúc 燭 ấy còn có bộ biểu âm là chữ Thuộc属.Thuộc=Thục. “Đỏ 火 Thuộc 属” đã lướt thành đơn âm là “Đuốc 燭”, cũng như “Cháy Thục” đã lướt thành đơn âm là “Chúc”, đều là của Việt cả, Đuốc là từ Việt, Chúc cũng là từ Việt, chẳng có từ nào gọi là “từ Hán Việt”. Còn các nhà hàn lâm thì nói: Đuốc là từ thuần Việt còn Chúc là từ Hán- Việt. Chữ giản thể viết chữ Chúc 烛 gồm bộ hỏa 火 , vẫn nguyên biểu ý, và bộ trùng 虫, đánh mất cái âm “úc” hay “uốc” để biểu âm, cũng coi như làm mờ lịch sử, nên chữ giản thể bị người Hoa phản đối cũng nhiều. Chữ Dung 熔 nghĩa là Nóng Chảy. Nóng Chảy = Nóng Cháy, đều cho hậu quả như nhau là Nóng.Nắng=Nóng=Nung=Dung=Dong. Chữ Dung 熔 này có bộ Nỏ 火 biểu ý lửa, thành ngữ Việt có câu “phơi cho nỏ nắng, hong cho nỏ lửa”, nó là màu ngũ hành đại diện lửa : Đỏ=Nỏ. Chữ Dung 熔 này còn có bộ biểu âm là chữ Dong 容 nghĩa là cái Dáng, Dáng=Dong=Dung, như trong từ chân dung là từ Việt Hán, câu thành ngữ Việt “Trông mặt mà bắt hình dong”. Cái âm dong này được mượn để biểu âm. “ Nỏ 火 Dong 容” đã lướt thành đơn âm là “Nóng 熔”. Cháy Nóng= Chúc Dong = Chúc Dung. Kết luận: Thần Cháy Nóng trong truyền thuyết Viêm Đế Thần Nông của người Việt và cả truyền thuyết Viêm Đế Thần Nông của người Việt đã được người Hán mượn để chế tác thành truyền thuyết Hoàng Đế có thần Chúc Dung 祝 融 coi việc bảo quản lửa, nhưng chữ Chúc Dung 祝 融 mà Hán thư viết lại chẳng có tí lửa nào, do mượn chữ nho có âm na ná – chúc dung - “trú dung”- zhu yong” na ná âm cháy nóng - để làm giả tá mà thôi ). có quan điểm cho rằng nó là hậu đại của Hạ Vũ v.v.Theo sự phát hiện ngày càng phong phú của bộ môn khảo cổ văn học hóa, các học giả thiên về coi trọng văn hóa thời đá mới khi thăm dò và thảo luận về nguồn gốc của người Việt. Có học giả cho rằng người sáng tạo ra đồ gốm có khắc chìm hoa văn tìm thấy phổ biến ở vùng Đông Nam và Nam TQ là tiên nhân của người Việt hoặc Bách Việt ( LM chú thích: Các từ chỉ dụng cụ do người Việt làm ra ở thời đồ gốm sang thời đồ đồng tương ứng là : Chum - Chuông, Vại - Vạc, Bộng - Bồn v.v. đều có logic theo QT cả , dáng cái Chuông bằng đồng giống cái Chum bằng đất nung, dáng cái Vạc bằng đồng giống cái Vại bằng đất nung, dáng cái Bồn bằng đồng giống cái Bộng bằng đất nung. Chỉ có điều Chuông đồng là dáng lộn ngược của cái Chum sành, vì Chum là dụng cụ cho người dương dùng, còn Chuông thì chỉ dùng khi liên hệ với người âm . Cũng như cái Cối Vồ bằng gỗ hoặc bằng đá, có cái Chày, cũng gọi là cái Vồ nếu nó có cán để đứng cách xa cái côi, để dã vào cối, là dụng cụ người dương dùng, thì cái Cối Vồ bằng đồng có dáng lộn ngược lại, vì Cối Vồ bằng đồng chỉ dùng khi liên hệ với người âm và khích lệ người dương khi xung trận, nên danh từ Cối Vồ là cái khái niệm cụ thể đã được nâng nghĩa mà viết thành chữ nho Cổ Võ là một khái niệm trừu tượng. Người Việt cũng còn gọi vật thiêng ấy là Cối Đồng, chất liệu nó bằng đồng, còn tiếng của nó thì trống nên gọi là Tiếng Trống. Tiếng nó “Trong và vang Rộng” đã lướt thành đơn âm là “Trống”, tiếng nó trong suốt như Nước và Nắng, không nhìn thấy được. Khi nền văn minh Văn Lang của người Lạc Việt sụp đổ ở bờ nam sông Dương Tử, mọi Cối Đồng đều được chôn dấu dười lòng đất, sách “ Thuyết văn giải tự” của Hứa Thận thời Đông Tấn đẩu công nguyên có nói tới việc thời Tần- Hán về sau người ta khai quật được nhiều. Danh từ Cối Đồng người Hán gọi ngược là Đồng Cổ theo ngữ pháp Hán phụ trước chính sau ). Sử ghi Man hay Kinh Man thời nhà Thương đại khái bao gồm tộc Việt cổ đại. Trong giáp cốt văn cũng có chữ Việt (Việt tự粤 字), nó có quan hệ gì với tộc Việt khi cần nghiên cứu, nhưng rõ ràng là tộc Việt hoặc tiên nhân của họ cư trú rộng ở miền Nam TQ đã có văn hiến có thể chứng minh. Phạm vi phân bố của người Việt, có thuyết nói ở Giang Nam, có thuyết nói từ Cối Kê đến Giao Chỉ, có thuyết cho rằng bao gồm miền Nam TQ và Bắc Bộ VN, có thuyết cho rằng bao gồm cả các nước ở bán đảo Trung Ấn. Theo ý kiến nghiên cứu rộng rãi nhất thì địa bàn người Việt cổ đại là ở Giang Tô, Triết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến, Đài Loan, Quảng Đông, Quảng Tây, An Huy, Hồ Nam TQ và Bắc Bộ VN. Biến thiên lịch sử và quan hệ với vương triều trung ương: Cuối Xuân Thu đến đầu Chiến Quốc, tộc Việt từng thiết lập Việt Quốc lớn mạnh tại vùng là Giang-Triết ngày nay, truyền 8 đời vua dài 160 năm, triều cống nhà Chu, tôn Chu thiên tử là “Cộng chủ”, Chu thiên tử cũng cho ngai vàng, phong cho là “phương bá”. Việt Quốc lúc đó liên minh với quốc gia ở Trung Nguyên, coi sóc vùng lớn Giang-Chuân, xưng là “Bá chủ”. Sau bị Sở diệt, từ đó phân tán, các con tranh vị, có người xưng Vương, có người xưng Quân, hoạt động ở vùng ven biển Giang Nam, dần dần phục tùng nước Sở. Sau Chiến Quốc, ngoài danh xưng Bách Việt còn có danh xưng Dương Việt, tức tộc Việt ở vùng Dương Châu. Dương Châu bao gồm Chuân Nam, hạ du Trường Giang và miền đông Lĩnh Nam, có lúc bao gồm toàn bộ Lĩnh Nam, ngày nay.Bởi vậy Dương Việt thực tế cũng chỉ là danh xưng chỉ người Việt nói chung ở giai đoạn từ Chiến Quốc đến Tần-Hán. Thời Tần danh xưng rộng chỉ dân tộc ở miền Nam TQ là tộc Việt, sử ghi người miền Bắc gọi là người Hồ, người miền Nam gọi là người Việt (“ Bắc phương Hồ, Nam phương Việt 北 方 胡,南 方 越” . Do sự phát triển và biến hóa của lịch sử, thời Hán sơ, người Việt đã hình thành vài bộ phận tương đối lớn như Đông Âu (Đông Hải), Mân Việt, Nam Việt, Tây Âu. Chứng tích lịch sử tên tộc, nơi cư trú và hoạt động càng có sự khác nhau rõ ràng. Đông Âu ở vùng Ôn Châu ngày nay thuộc nam Triết Giang; Mân Việt ở Phúc Châu Phúc Kiến; Nam Việt ở Quảng Đông sau mở đến Quảng Tây và phía nam; Tây Âu đại khái ở miền tây Quảng Đông, nam Quảng Tây và Vân Nam; Lạc Việt 骆 (雒)chủ yếu phân bố ở Bắc Bộ VN. Các bộ phận Việt này đều có trung tâm chính trị riêng, đều có quan hệ mật thiết với vương triều Hán, như quân chủ đời thứ nhất của Mân Việt là Vô Chư và quân chủ đời thứ nhất của Đông Hải là Diêu đều nhận phong hiệu của Hán triều. Nam Việt vương Triệu Đà nguyên là người Chân Định tỉnh Hà Bắc, thời Tần làm huyện lệnh Long Xuyên ở quận Nam Hải, sau làm đô úy quận Nam Hải, thừa cơ cuồi Tần đại loạn, dùng vũ lực bình định Quế Lâm, Tượng Quận, chiếm hữu cả ba quận của Lĩnh Nam, thành lập nước Nam Việt, quan hệ với triều Hán lúc thì thần phục, lúc thi bội phản. Tây Âu hầu như chưa có tổ chức cình trị thống nhất, ở trạng thái phân tán bộ lạc, bị Tần chinh phục, sau thuộc Quế Lâm, Tượng Quận, sau lại bị Triệu Đà chinh phục, thành một phần của nước Nam Việt. Lạc Việt “骆 越”, cái tên này có người cho rằng Tây Âu và Lạc Việt là đồng tộc dị danh, có người lại cho rằng là hai bộ tộc khác nhau. Các trung tâm chính trị trên của tộc Việt về sau đều bị Hán Vũ đế chinh phục, đổi thành quận huyện của triều Hán. Từ đó về sau danh xưng Bách Việt không còn thấy sử ghi nữa, cái tên tộc Việt cũng hiếm gặp. Thời Tam Quốc ở vùng nước Ngô thống trị có người Sơn Việt (ý nói người Việt ở miền núi) phân bố ở những vùng ngày nay là An Huy, Giang Tô, Triết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây v.v. có giao lưu chính trị , kinh tế, văn hóa mật thiết với Hán tộc, dần dần đồng hóa với Hán tộc. Thời Tùy – Đường cong thấy sử ghi về người Sơn Việt, từ thời Tống trở về sau thì không thấy xuất hiện lại nữa. Ngoài ra thời Tam Quốc ở bắc Phúc Kiến còn có “An gia chi dân”, ở Đài Loan có “Sơn Di”; thời Tùy ở Đài Loan có “Lưu Cầu thổ dân”, nhưng cư dân trên đều được coi là một bộ phận của hậu duệ tộc Việt. Những tên tộc như Việt, Bách Việt đều bị biến mất trên sử ghi nhưng không phải là dân tộc cổ xưa này đã bị biến mất, mà chỉ là phát sinh biến hóa hoặc bị thay tên bằng tên các tộc khác. Hiện nay các dân tộc hệ ngữ Chooang Đồng, Miêu Dao và một số dân tộc ở Đông Nam Á đều có quan hệ sâu xa nhất định với tộc Việt cổ đại. Đặc điểm sinh hoạt và văn hóa: Bách Việt vốn có ngôn ngữ dân tộc và đặc điểm sinh hoạt, văn hóa. Đặc điểm sinh hoạt, phong tục Bách Việt chủ yếu là: Cắt tóc xăm mình, thích cánh kết bạn, ăn nhiều hải sản, ở nhà sàn, thiện nghệ đi thuyền và thủy chiến, thiện nghệ đúc dồng như gươm đồng thau, chuông đồng v.v. Ngôn ngữ thì có người cho rằng tương tự hệ ngữ Choang Đồng ngày nay. Khi dịch Việt ngữ sang Hán ngữ thì thường cứ một chữ Việt phải dịch bằng hai chữ Hán, ví dụ khái niệm yêu thì dịch bằng hai chữ “luyến chức 怜 职”, khái niệm nóng thì dịch bằng hai chữ “húc khẩu 煦 □” (LM chú thích: Hán ngữ cũng giống Việt ngữ là ngôn ngữ đơn âm và có thanh điệu. Hán ngữ có 4 thanh điệu. Việt ngữ có 6 thanh điệu, lại có âm vận phong phú hơn Hán ngữ rất nhiều nên rất ít từ đồng âm dị nghĩa. Bởi vậy Việt ngữ đã có thể từ bỏ ký tự tượng hình để dùng lại ký tự ghi âm , lần này là dùng chữ cái Latin thay cho chữ khoa đẩu xưa kia, là một sự đổi mới mạnh mẽ mang tính cách mạng của người Việt Nam trong quá trình hội nhập Đông - Tây. Do tiếng Việt âm vận phong phú nên rất nhiều âm vận không có trong Hán ngữ. Ví dụ cặp từ đối nguyên thủy Ít/Ắp – hai từ cùng Vắng Tơi- tương đương cặp từ đối nguyên thủy Nheo/Nhiều – hai từ cùng Tơi Nh, những âm vận trên đều không có trong Hán ngữ. Họ phải phiên âm bằng hai chữ thay cho một chữ Việt: Ít đọc là I- Tơ, Ắp đọc là A- Pa, Nheo đọc là Ni- Ao, Nhiều đọc là Ni- I- Ao. Đoạn ở sách trên viết: nóng dịch bằng hai chữ “húc khẩu 煦 □”. Thực ra đó là chữ Hực của tiếng Việt, “Hồng Rực” đã lướt thành đơn âm là “Hực”, Hán ngữ không có âm vận “ưc” nên phải phiên âm thành hai chữ là ư- k, họ phát âm “ Húc Khẩu” là “Xuy Khẩu”- Xukou. Đoạn ở sách trên viết yêu dịch bằng hai chữ “luyến chức 怜 职”, thực ra đó là chữ Luyến Chứ 怜 之, Chứ=Chi 之, Hán ngữ phát âm chữ này là “trư”-zhi, ở trên, sách đã dùng chữ Chức 职 cũng phát âm là “trư”-zhi chỉ là mượn âm na ná của chữ “chức vụ” để phiên âm chữ Chứ. Chữ Luyến Chứ 怜 之 tương đương Yêu Đấy 爱 的, Đấy=Đích. Từ Yêu là từ xuất hiện sau, nhưng nay được dùng nhiều hơn trong tiếng Việt so với các từ đồng nghĩa mà cổ hơn. Trước nó người Việt dùng từ Thương, ít ra là đến giai đoạn lịch sử Đàng Trong Đàng Ngoài vẫn dùng từ Thương (câu ca dao “Thương em anh cũng muốn vô, Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang” ). Vậy từ cổ nhất chỉ khái niệm tình yêu thì người Việt gọi là gì? Đó là từ Lòng, nó là cái “Lỳ bên trong” đã lướt thành đơn âm là “Lòng”, mắc Lòng rồi thì không thể dứt bỏ được, đôi trai giá đã phải Lòng nhau rồi ( “ Mẹ ơi con muốn lấy chồng. Mẹ ơi anh ấy có Lòng với con. Hẳn rồi, con đã phải Lòng anh ta”). Lòng=Lượn ( hát Lượn dao duyên tìm đối tượng của trai gái người Tày)=Luyến. Các cặp từ đôi theo nguyên tắc cổ trước kim sau là Lòng Thương, Thương Yêu, Luyến Ái). Ý kiến của Lãn Miên: Cũng giống như Hán ngữ, đã từ đa âm của cổ xưa rồi biến thành ngôn ngữ đơn âm.Tiếng Việt từ hệ ngôn ngữ Môn Khơ Me đa âm biến thành đơn âm, mà nguyên nhân của nó không phải là do Bát Quái, như ý kiến của Vương Chấn Ninh khi nói về sự đơn âm hóa của tiếng Hán. Mà ngược lại, ngôn ngữ hoàn tất thành đơn âm của tiếng Việt là có trước, rồi người Việt mới dùng ngôn ngữ đơn âm ấy làm công cụ , đặt tên cho các quẻ trong Bát Quái . Tên các Quái đều là tên Việt, cũng như tên 12 con giáp, điều này nhiều người đã chứng minh rồi. Ví dụ con trâu – “đầu cơ nghiệp” của nền văn minh lúa nước đã từ Tlu (tiếng Mường)=Tru=Trâu=Ngầu(tiếng Quảng Đông)=Ngưu=Sửu=Sỉu=Níu ( tiếng Hán). Nguyên nhân để tiếng Việt từ đa âm tiến bộ thành ngôn ngữ đơn âm là ở QT Vo, QT Nở và QT Lướt. Đơn âm thành nghĩa, nên một tiếng của Việt là một từ, mà nghĩa của nó có khi tương đương bằng cả một câu. Ví dụ từ Thẹn, nghĩa là: muốn ẩn vào bóng tối để không ai nhìn thấy. Bởi vì từ Thẹn này có nguồn gốc là từ màu ngũ hành của Nước: Nước= “Nậm” ( tiếng Thái)=Lầm=Thâm=Đậm=Đen=Thẹn=Than=Thủy= “Sủy”= “Suẩy” (tiếng Hán). Đen=Hoẻn=Hắc= “Hây” (tiếng Hán). Người Việt đã dùng màu Than để đặt tên cho khoáng chất Than, cũng như dùng màu Vàng đặt tên cho kim loại Vàng, màu Bạc đặt tên cho kim loại Bạc. Cũng như cặp từ đối nguyên thủy khi hình thành vũ trụ là Nắng/Nước, cặp từ đối nguyên thủy của màu là Thiên/Than, vì trời luôn luôn sáng còn than luôn luôn tối. Từ nôi khái niệm trên của Nước mà có các từ đôi Lầm Than để chỉ cuộc đời tăm tối như màu đen. Sang khái niệm trí tuệ thì Lầm chỉ sự hiểu biết kém chính xác, và có cặp từ đối nguyên thủy là Thấy/Than. Thấy là biết rò tường tận, khi nghiên cứu một cái gì mà đến lúc biết được rõ “Thật là cái ấy” đã lướt thành đơn âm là Thấy. Than là ngu tối chẳng biết gì. Để chỉ cụ thể hơn một con người trong lĩnh vực trí tuệ thì có từ Thợ nghĩa là người biết làm việc, “Thợ giỏi như Hiền” đã lướt thành đơn âm là “Thiện” tức thiện nghệ. Từ Thợ này theo QT Nở cho ra cặp từ đối nguyên thủy là Thầy/Thằng, tương ứng với Thấy/Than. Bạc là màu nguyên thủy của khái niệm Trắng hay dùng bây giờ, dùng lộn do quên nguồn gốc. Bạc mới chính là màu của Bạc và của Vôi, màu Bạc là từ tiếng Mường. Bạc=Bạch="Bái" (tiếng Hán). Trắng nghĩa nguyên thủy là không màu, do Nắng=Trắng=Trong=Trống, trong suốt cũng như Nước. Nói nắng vàng chẳng qua là do ảo giác khi bị ảnh hưởng của các tầng khí quyển. Màu Lầm là màu Than, màu Đen, nên vải nhuộm củ nâu rồi lại còn nhuộm bùn cho nó thành màu Lầm gọi là vải đồng Lầm, loại vải Lầm nhưng sáng bóng loáng thì “Lầm nhưng sáng” đã lướt thành đơn âm là "Láng". Đàn bà Việt đi làm đồng mặc váy vải Lầm, đi chơi chợ mặc váy vải Láng. Vải =Váy=Vận=Mấn=Quấn=Quần 裙. (Người Hán lại gọi cái váy là Quần, phát âm là “xuýn”). Vì chỉ có đàn bà Việt mới mặc váy ( “Cái thúng mà thủng hai đầu. Bên Ta thì có bên Tầu thì không”). Mảnh vải có Quấn có Quây mới thành Quẩn (cái váy) nên từ này được nâng nghĩa lên thành Quây Quần, rồi Quần Chúng (từ Việt Hán), nhưng chữ Quần 群 này phải viết bằng một chữ nho khác. Còn cái quần hai ống thì người Hán gọi là cái Khố 裤, là một từ Việt, cái mảnh vải quấn của đàn ông để “Không ló lộ” đã lướt thành đơn âm là “Khố”. Trên là nói về màu. Nói về mùi cũng vậy. Một Kẻ=Thẻ=Thể. Thể này theo QT Nở chia ra thành Thơm/ Thúi, trong nôi khái niệm đang chia là Thơm… Thum-Thủm…Thúi (Thum tiếng Khơ Me nghĩa là Thúi). Còn cái khứu giác là mũidùng để Ngửi=Hửi cũng phân biệt ra mùi do từ Hửi theo QT Nở mà chia ra thành Hương/Hôi . Do nghĩa Hương tương đồng Thơm nên người ta cũng gọi cây Nhang thơm là cây Hương. Còn từ Nhang chỉ sản phẩm là cây Nhang thì đã có từ nhiều ngàn năm trước, vì đó là sản phẩm do người Việt làm ra đầu tiên, dùng để đốt lên tưởng nhớ tổ tiên. Đến thời trung cổ tàu thuyền Án Độ, Ả Rập, Trung Hoa vẫn đến miền Trung Việt Nam mua hương liệu, nơi xứ sở của trầm và kỳ nam. Tục đốt lửa thờ chắc là có từ tiền sử, như làm Nhang thơm để đốt chắc là có từ khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ, người Việt đốt cây đó lên khi tưởng nhớ nền văn minh xưa, “ Nhớ Lang” đã lướt thành đơn âm là “Nhang” ( Truyền thuyết có nói, dân Việt gọi Lạc Long Quân “Bố ơi sao chưa về”). Ngày nay trong tiếng Việt gặp rất nhiều từ được gọi là “từ Hán Việt” thực ra là do người Việt tự đặt ra, lại đặt theo ngữ pháp Hán, do sính ngoại. Ví dụ từ Vĩ Mô, trong Hán ngữ hiện đại làm gì có, cái khái niệm mà ta gọi là Vĩ Mô thì Hán ngữ gọi là Hồng Quan, lại là một từ Việt Hán, nghĩa là mắt nhìn rộng: Rộng=Hồng=Hoằng=Hùng=Vùng=Vuông; Mắt=Mắc (phát âm Nam Bộ)=Quắc=Quan. Từ cái nôi khái niệm của Việt đó mà có từ Hồng Quan. Còn từ Vĩ Mô nếu hiểu theo ngữ pháp Việt thì có nghĩa là: (cái) Vĩ ( ở) Mô?
    1 like
  3. Đến 27.10.2011 đã có kết quả là tiếng chuông điện thoại kêu reng reng nha, hì. Thank phamhung, longphi và Táo đỏ nhiều nha , tưởng chừng như là chờ đợi trong vô vọng, ai dè ..., hì. I love LVDT, i love everybody. Cheer !
    1 like
  4. KHÔNG TIN PHONG THỦY Một doanh nhân thành đạt, vốn là người tốt bụng quen với tôi. Anh tự hào rằng anh không xem phong thủy bao giờ và vẫn cứ thành đạt. Gia đình anh ấy yên ổn. Nhà rất nề nếp, tuy không giàu như các đại gia , nhưng có thể nói cũng khá giả. Tôi chẳng nói gì chỉ xen vào câu chuyện của anh ta rằng: Phong thủy là một môn khoa học. Anh ta cũng đồng ý. Anh ta kể vợ anh ấy rất tin môn này và cũng tin vào những giá trị tâm linh. Nhưng anh ta thì không. Tất nhiên anh vẫn thành đạt. Tôi thầm nghĩ: "Nữ Hoàng Cleopatra cũng chưa hề biết đến môn phong thủy và cũng không cần đến thuyết Tương Đối và cả những tri thức của khoa học hiện đại, bà ta vẫn là nữ hoàng". Tôi muốn nói với anh ấy điều đó để anh ta suy ngẫm thêm. Nhưng thôi, tôi ngại mất lòng. Tôi cáo từ ra về. ....
    1 like
  5. Châu Âu họp phiên quyết định để đối phó với khủng hoảng nợ Thứ Năm, 27/10/2011 - 07:12 (Dân trí) - Tại Brussels vừa cùng lúc khai mạc hai Hội nghị thượng đỉnh, một của 27 nước trong Liên minh châu Âu (EU), một của 17 nước trong khối sử dụng đồng euro và cả hai đều cùng chung mục đích tìm giải pháp đưa châu Âu thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng nợ. Các nhà lãnh đạo EU bước vào hội nghị quyết định. Những cuộc gặp vừa khai mạc được đánh giá mang tính quyết định cho tương lai của đồng euro và của cả EU. Tâm điểm của sự chú ý là lãnh đạo hai nước Pháp và Đức. Buộc phải thỏa hiệp, cặp Pháp Đức phải đưa ra câu trả lời đáng tin cậy để cứu nguy đồng euro. Trước nguy cơ tài chính của châu Âu lan ra nước ngoài, các nhà lãnh đạo đang phải đối mặt với những áp lực ngày càng gia tăng để họ phải đưa ra hành động mạnh và mau chóng hơn. Các nhà lãnh đạo Đức và Pháp đã bày tỏ quyết tâm đạt được một giải pháp bền vững trước khi diễn ra hội nghị thượng đỉnh của nhóm G-20 tại Pháp vào tuần tới. Tuy nhiên, hy vọng về một nghị quyết chung cho lâu dài tỏ ra khá mong manh, khi mà các bất đồng giữa hai nước trên nhiều vấn đề vẫn tồn tại. Trước tiên là về Hy Lạp, dù trên nguyên tắc, việc tham gia của các khu vực ngân hàng tư nhân vào kế hoạch giải cứu Hy Lạp lần hai đã được thông qua, nhưng các cuộc thương lượng hậu trường vẫn không nhất trí được về mức nợ mà các chủ nợ là ngân hàng tư nhân có thể chấp nhận bỏ cho Hy Lạp. Liên quan đến việc cấp vốn lại cho các ngân hàng, một điều kiện cần thiết để thực hiện chương trình cứu trợ mới cho Hy Lạp, con số 108 tỷ euro, theo một số chuyên gia vẫn còn rất xa với nhu cầu. Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho rằng cần ít nhất hơn 200 tỷ euro. Thủ tướng Hy Lạp, George Papandreou, nói: "Bây giờ là lúc cho giới lãnh đạo châu Âu đưa ra quyết định tập thể, để chấm dứt tình trạng bất trắc và cuộc khủng hoảng, dở trang sử mới và bảo đảm rằng Châu Âu thực hiện được một bước tiến lớn để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, hầu đem lại phồn thịnh và an ninh cho nhân dân châu Âu." Cuối cùng, Quỹ Bình ổn Tài chính châu Âu - FESF - đang rất cần mở rộng thêm để có thể ngăn chặn tình khủng hoảng lây lan. Hai giải pháp đang được nghiên cứu, nhưng không có gì cho thấy trong vòng vài giờ tới, các lãnh đạo khu vực đồng euro có thể thông báo được mức vốn hiệu quả nhất cho Quỹ. Tóm lại, Thượng đỉnh châu Âu vẫn còn nhiều căng thẳng đến phút chót. Thị trường tài chính đang nín thở chờ đợi những quyết định mạnh mẽ của hai cuộc Thượng đỉnh khai mạc tối qua (giờ Brussels). Chỉ có một dấu hiệu có vẻ tích cực, đó là Trung Quốc cùng các nước có nền kinh tế mới trỗi dậy tỏ ý sẵn sàng tham gia vào Quỹ Bình ổn Tài chính. Trong khi đó, khủng hoảng nợ châu Âu đang ảnh hưởng tới các nước đang phát triển. Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, ông Robert Zoellick, cho rằng có thể cần phải có các chương trình mới hỗ trợ các nước đang phát triển bị tác hại của cuộc khủng hoảng nợ nần ở Châu Âu. Phát biểu khi đang ở thăm thủ đô Manila của Philippines, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới cho biết cuộc khủng hoảng nợ châu Âu đã làm tăng chi phí vay mượn, làm giảm giá cổ phần và hàng xuất khẩu trên khắp thế giới, ngay cả đối với các nước xa xôi như Philippines. Việt Hà Theo AP, AFP ================================ Không biết họ uống bia gì trong những cuộc họp này nhỉ? Nếu là tôi thì tôi chọn bia tươi đen nấu kiểu Đức
    1 like
  6. ĐỔI CHỖ TỐN KHÔN. Một sinh viên trường đại học kiến trúc nói chuyện với tôi về một bài giảng của một vị giáo sư liên quan đến Phong Thủy. Ông giảng về lăng của Lê Lợi. Ông nói: Lăng Lê Lợi theo trục Bắc Nam, nhưng có điều lạ là mộ Lê Lợi lại tọa Tây Bắc hướng Đông Nam (Càn Khôn/ Phúc Đức trạch theo Phong thủy Lạc Việt - Càn Tốn/ Họa Hại trạch theo Phong thủy từ cổ thư chữ Hán). Ông ta kết luận: Ngày ấy, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, nên la bàn không chính xác và thầy phong thủy đo nhầm. Thế thì chắc chết!
    1 like
  7. http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/41.gif Hoan nghênh Engineer mở topic này http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/41.gif . Đợt này luyện độ số và độ cảm ứng đê :D
    1 like
  8. Hình như VietnamRich là học viên PTCB 04 thì phải...? Khộng làm BT nên không tham gia PTNC 02...?
    1 like
  9. Tướng Lê Văn Cương bình về "hiện tượng Đinh La Thăng" Tác giả: Hoàng Hường Bài đã được xuất bản.: 2 giờ trước Trong chiến trận có hai cách đánh: một là trực diện, hai là vu hồi, tức là đánh vòng quanh. Trong bài toán giao thông và tài chính Việt Nam, theo tôi cả Vương Đình Huệ - Đinh La Thăng nên chọn cả hai phương án vừa trực diện, vừa vu hồi. Trong cơ chế này, phương án vu hồi xem ra hiệu quả hơn, từng khâu một, chậm mà chắc - Thiếu tướng Lê Văn Cương khuyên. Bộ trường Bộ giao thông Đinh La Thăng có thể đang là người xứng đáng nhận được danh hiệu: Bộ trưởng nổi tiếng trong thời gian ngắn nhất. Hàng loạt động thái của ông, cũng như một loạt văn bản, kiến nghị ông vừa ban hành đang gây chú ý. Kẻ khen, người chê. Để mong giúp Bộ trưởng Thăng có điều kiện soi chiếu về những động thái của mình, cũng như xã hội có một tiếng nói khách quan về cá nhân ông Thăng nói riêng và một vài vấn đề xã hội nói chung, Tuần Việt Nam trò chuyện với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược, Bộ Công an. Tỉnh táo và thực tế Báo chí và dư luận đang được dịp ồn ào với 'hiện tượng Đinh La Thăng', hẳn thiếu tướng cũng biết. Ông có nhận định gì về tân Bộ trưởng Giao thông, cũng như một loạt động thái đang gây chú ý của ông ấy? Trước hết, dù có nhiều luồng dư luận khác nhau về ông Thăng, nhưng quan điểm cá nhân tôi là ủng hộ ông ấy. Thứ nhất, trong điều kiện xã hội hiện nay còn nhiều bức bách, nhức nhối, chất chứa nhiều vấn đề bức xúc như hiện nay thì chuyện đồng chí Bộ trưởng Bộ giao thông Đinh La Thăng công khai thể hiện quan điểm và ý chí hành động ở một loạt vấn đề - tôi cho rằng - là những động thái tích cực. Nó khơi gợi và củng cố niềm tin vào bộ máy quản lý của Nhà nước. Dưới góc độ này tôi ủng hộ và mong muốn hơn 20 bộ trưởng còn lại cũng thể hiện như ông Thăng. Thứ hai, 'hiện tượng Đinh La Thăng' chỉ ra rằng: không phải bây giờ, mà đã hàng chục năm nay, xã hội đã tích dồn rất nhiều vấn đề bức xúc đến độ sớm hay muộn cũng sẽ xuất hiện những nhân tố mới, tích cực hơn nhằm tích cực tháo gỡ. Về mặt khoa học, sự tích dồn khi đến một độ nào đó sẽ chuyển sang một trạng thái khác thì dù là một cá nhân đơn lẻ, vẫn có thể phản ánh xu hướng mới của một xã hội, cụ thể đây là Nhà nước Việt Nam, là nhận thức mới của Đảng. Điều này thể hiện rõ tại Hội nghị Trung ương Đảng III vừa rồi, đã thẳng thắn hơn trước và tiếp cận gần tới tinh thần của Đại hội 6 là nhìn thẳng vào sự thật; và lần đầu tiên tại Hội nghị TW Tổng bí thư phê phán lối 'tư duy nhiệm kỳ' và tệ 'lợi ích nhóm' trong bộ máy công quyền. Tuy nhiên, tôi cũng cho rằng, những vấn đề ông Thăng nêu ra sẽ không thể đạt được nhanh chóng. Bởi lẽ, đến giờ phút này Đinh La Thăng chỉ là thiểu số. Hơn nữa cơ chế của ta đã trì trệ cả chục năm rồi, rất nặng nề níu kéo. Một người nổi lên khó mà lay chuyển được. Chúng ta ủng hộ ông Thăng, nhưng nên tỉnh táo và thực tế đánh giá tình hình. Nói cho cùng ông Thăng chỉ là một bộ trưởng, muốn hay không muốn bộ trưởng cũng chỉ có một số quyền + hạn nhất định, rất nhiều vấn đề nằm ở chỗ khác; và ngay trong nội bộ Bộ giao thông. Tôi ủng hộ ông Thăng. Tôi cũng chia sẻ những khó khăn của ông ấy. Ông ấy sẽ vấp rất nhiều cản trở. Muốn làm những điều tốt đẹp như ông ấy mong muốn là cả một chặng đường lâu dài, và là một quá trình đau đẻ rất nặng nề; nhưng dù sao đó cũng là những đột phá ban đầu, mở ra hy vọng mới cho một thời kỳ mới. Không thể nào 'đẻ' mà không đau Chính phủ vừa bắt đầu một nhiệm kỳ. Cùng với Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng, Bộ trưởng Tài chính Vương Đinh Huệ với những quan điểm mạnh mẽ về nhóm lợi ích trong thị trường xăng dầu cũng làm người dân phấn chấn. Nhiều người gọi ông Thăng - Huệ là "thế hệ bộ trưởng mới" và kỳ vọng nhiều vào họ. Nhưng như ông vừa phân tích, những ông Thăng - Huệ liệu có vượt qua cơn 'đau đẻ' khó nhọc này? Đúng là khi nhiệm kỳ này bắt đầu, ngoài hai ông Thăng - Huệ còn có một số bộ trưởng khác cũng được dư luận cho là có những dấu hiệu tích cực. Cuộc sống luôn có những lối đi riêng không có lực lượng nào cản trở được. Những người này là những nhân tố mới, xu hướng mới, tư tưởng mới. Ở chừng mực nào đó có thể nói đây là những nhân cách mới. Nó báo hiệu rằng đã có sự chuyển mình sau Đại hội 11, rải rác từ những cá nhân, quá trình này sớm muộn cũng sẽ lan tỏa và trở thành phổ biến. Trở lại những năm 1980s, trong bối cảnh bao cấp nặng nề, những đốm lửa như Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Ngọc đã phải trả giá bằng cả sinh mệnh chính trị của ông ấy. Không có quá trình 'đau đẻ' nào không đau đớn. Tôi không dám so sánh ông Thăng - Huệ với những người như ông Kim Ngọc, nhưng dù sao họ cũng là những đốm lửa. Đây là cuộc đấu tranh giữa cái mới với cái cũ, và sẽ còn kéo dài, theo tôi cũng phải mất 1 - 2 kỳ Đại hội Đảng chứ không thể diễn ra đơn giản trong 1 nhiệm kỳ. Ông có thể nêu nhận xét thẳng thắn về những bộ trưởng trước, theo ông, phẩm chất cần có của một bộ trưởng trong thời điểm này là những gì? Có thể tôi hơi cầu toàn, nhưng thật tình, đến trước Đại hội 11, không có một bộ trưởng nào để lại cho tôi một ấn tượng tích cực. Tôi không nói tất cả họ là yếu kém nhưng bảo họ để lại ấn tượng tích cực thì tôi không yên tâm. Bộ nào thì cuối năm tổng kết cũng hoan hô, "chúng ta tiến một bước", hoàn thành tốt nhiệm vụ, thậm chí hoàn thành xuất sắc. Bộ Giao thông cũng vậy. Các con đường thì vẫn thế, tai nạn giao thông vẫn thế, ùn tắc vẫn vậy, hết Văn Thánh 1 sang Văn Thánh 2 rồi đến đường sắt cao tốc... tổng kết lại gắn huy chương, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đố ai tìm được một bộ nào tổng kết cuối năm không hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ? Nhất thiết phải xuất hiện những con người phản ánh được những xu thế phản biện tích cực. Anh Huệ, anh Thăng cũng không phải những con người gì toàn diện, siêu việt ghê gớm nhưng họ phản ánh một xu thế mới tích cực. Tôi tin dần dần chúng ta sẽ có những thế hệ bộ trưởng dám nói dám làm, với bàn tay sạch, trí tuệ cao; mà trí tuệ bộ trưởng không nằm ở chỗ ông ta giỏi chuyên môn thế nào, mà ông ta biết tập hợp những người tài giỏi trong bộ máy của mình. Nhìn vào đội ngũ cố vấn, cán bộ chuyên môn của các bộ trưởng có thể thấy được vận của đất nước. Một người trợ lý của của cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu từng nói với tôi: "Các ông cứ thần thánh hóa ông Lý Quang Diệu chứ ông Diệu chỉ là một người bình thường. Chỉ là ông ta đi khắp thế giới và rút ra được mấy vấn đề: Một đất nước nhỏ như vậy, muốn phát triển được trước hết phải có một bộ máy hành chính tử tế; hai là nguồn nhân lực có chuyên môn cao; ba là hệ thống hạ tầng thông suốt. Việc lớn nhất ông Diệu làm được chính là tập hợp được một đội ngũ những người giỏi xung quanh ông ấy; và đến giờ phút này, chưa có ai kêu ca gì về gia đình ông Lý Quang Diệu, họ hoàn toàn trong sáng" Làm sao hơn 20 vị bộ trưởng, 63 vị bí thư tỉnh ủy của ta làm được những việc như thế. Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược, Bộ Công an Nếu tôi ở cương vị ông Đinh La Thăng... Bên cạnh những lời khen ngợi, loạt động thái của Bộ trưởng Thăng: trảm tướng giữa công trường, bắt nhân viên đi xe buýt, đòi tiêu hủy xe đua, cấm xe cá nhân lưu hành... bị cho là "ngẫu hứng bộp chộp", "thích thể hiện". Với tư cách một chuyên gia nghiên cứu chiến lược, ông hãy vạch giúp ông Thăng một lộ trình. Hay nói cách khác, nếu đặt ông vào cương vị ông Thăng hiện nay, ông sẽ làm những gì? Trước đây cũng có một đồng chí ở địa phương lên phụ trách một bộ. Đây là một người có đầu óc, ông ta muốn cải cách những cái mới, tốt đẹp hơn. Tôi rất mừng, nhưng khi ông ngồi ghế bộ trưởng thì tôi nghĩ ngay ông ấy sẽ không thực hiện được những ý định tốt đẹp đó, thậm chí sẽ rơi vào cực đoan. Bộ máy trì trệ sẽ cản trở ông ấy trong việc thực hiện cải cách. Hơn nữa, tôi không nói tất cả, nhưng những người như vậy dễ rơi vào cực đoan. Họ rất đáng quý trọng, nhưng mọi việc không thể sốt ruột giải quyết được theo kiểu " chiến dịch", "ra quân"... được. Ở Việt Nam chỉ có thể tìm ra từng nút rối để gỡ chứ không thể rũ tung ra làm lại để trở thành một mớ rối hơn, trừ khi anh là Putin. Nếu đặt tôi vào cương vị ông Thăng hiện nay, tôi phải đi tìm lời giải đáp cho 4 vấn đề sau: 1, Điểm "nghẽn" hay "nút thắt" của giao thông hiện nay nằm ở đâu. Nguyên nhân? Giải pháp? 2, Vì không thể có tiềm lực để cùng một lúc giải quyết mọi vấn đề nên phải xây dựng lộ trình và bước đi khả quan, hiệu quả. Tôi sẽ huy động mọi chuyên gia có tài ở trong và ngoài Bộ giao thông giúp tôi lý giải 2 vấn đề nêu trên. Đây là việc đầu tiên và quan trọng nhất Bộ trưởng Bộ Giao thông cần làm. Tất cả các câu hỏi này đòi hỏi phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo để tìm hiểu và giải quyết từng việc một. Việt Nam đang thiếu nhất là trí tuệ chứ không phải là tiền, vì tiền ở trí tuệ mà ra. Anh Vương Đình Huệ dù có tâm huyết thật, thì anh ấy cũng đang ở giữa một cơ chế phức tạp rất khó giải quyết, mà Bộ trưởng Tài chính thì có được bao nhiêu quyền? Trong chiến trận có hai cách đánh: một là trực diện, hai là vu hồi, tức là đánh vòng quanh. Trong bài toán giao thông và tài chính Việt Nam, theo tôi cả Vương Đình Huệ - Đinh La Thăng nên chọn cả hai phương án vừa trực diện, vừa vu hồi. Trong cơ chế này, phương án vu hồi xem ra hiệu quả hơn, từng khâu một, chậm mà chắc. Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng Tôi đố ông Thăng giải quyết được vấn đề xe buýt trong ngày một ngày hai. Tôi cũng đố ông Thăng cấm được phương tiện cá nhân trong nhiệm kỳ của ông ấy. Chưa nói đó là quyết định cực đoan, chắc chắn bị xã hội bác bỏ như hàng loạt những kiến nghị kiểu ngày chẵn đi biển chẵn hay xe ngoại tỉnh không vào Hà Nội đã từng được đề cập trước đây. Thành phố Hồ Chí Minh có 3414 xe buýt và hơn 5000 taxi cũng chỉ giải quyết được 4,5% lượng vận tải hành khách công cộng. Nếu cấm phương tiện cá nhân thì 95% dân TP HCM sẽ đi lại như thế nào? Ra lệnh cấm xe tư nhân thì dễ, nhưng sẽ bị xã hội bác bỏ. Nếu không cẩn thận, ông Thăng sẽ rơi vào cái bẫy cực đoan do chính mình dựng lên. Ở Việt Nam không làm cái gì nhanh được khi anh là thiểu số. Tôi đã nói với nhiều người: Việt Nam không phải nước đang phát triển, đã phát triển hay chậm phát triển; mà là khó phát triển. Ông Huệ - Thăng phải biết rõ các ông ấy đang ở đâu, và văn phòng của các ông ấy không phải điện Kremlin hay Nhà Trắng. Chắc vì thế có người đã nhắn nhủ đến bộ trưởng Đinh La Thăng câu: "Con đường dài nhất không phải từ Lạng Sơn đến Cà Mau, mà là từ mồm đến tay". Câu đó đúng đấy. Tôi cũng xin nhắn tới ông Thăng một câu: "Trong cuộc đời, đôi khi đường thẳng lại là đường dài nhất, và đường vòng là đường ngắn nhất" Xin cảm ơn thiếu tướng! ================================== Đúng cả nghĩa đen! Khi đi taxi tôi thường nói với tài xế: "Anh có thể chọn con đường dài hơn, nhưng không tắc đường". Điều này có lợi cho cả hai bên. Bác tài có tiền hơn vì chạy đường dài hơn. Còn tôi có thời gian ngắn nhất do không bị tắc đường và các ảnh hưởng môi trường, tâm lý do tắc đường gây ra! Ngay cả khoa học cũng thế! Khi là thiểu số cũng chẳng làm được cái gì! Nhưng trong khoa học thì chân lý không lệ thuộc vào số đông.
    1 like
  10. 1 like
  11. Hạ sát Gadhafi có phải là tội ác chiến tranh? Thứ năm, 27/10/2011, 06:12 GMT+7 Thi thể ông Gadhafi bị bày trong một kho chứa thực phẩm ở Misrata, Libya cho dân chúng vào xem. Sau đó chính quyền mới tuyên bố đã bí mật chôn xác ở sa mạc sáng 25/10. Ảnh: FP. Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và nhiều chính khách đã yêu cầu một cuộc điều tra minh bạch về cái chết của Moammar Gadhafi. Liệu việc hạ sát ông này có được điều tra và truy tố bởi Tòa án hình sự quốc tế không? Cho đến nay chi tiết việc ông Gadhafi bị giết như thế nào vẫn chưa được làm sáng tỏ. Thủ tướng Hội đồng chuyển tiếp quốc gia, NTC, thì tuyên bố cựu tổng thống Gadhafi đã bị giết sau khi bị bắt bởi một vết đạn vào đầu và khẳng định không ra lệnh giết ông. Từ thực tế và các video clip tại hiện trường, giới quan sát có thể khẳng định chắc chắn hai điều: (i) Ông Gadhafi bị giết sau khi bị lực lượng NTC bắt, và (ii) Cái chết của ông đã làm nhẹ gánh cho chính quyền mới ở Libya và một số chính quyền phương Tây. Cấu thành tội ác chiến tranh Gia đình ông Gadhafi và các nhóm nhân quyền quốc tế đang kêu gọi Liên hợp Quốc mở cuộc điều tra. Tòa án hình sự quốc tế (ICC) đã yêu cầu phải khám nghiệm tử thi đối với cựu lãnh tụ Libya. Vấn đề đặt ra là liệu việc giết ông Gadhafi có cấu thành một tội ác chiến tranh, có thể bị ICC điều tra hay không và ICC có thể truy tố ai đó hay không. Vấn đề trước tiên đặt ra là liệu hành động giết chết ông Gadhafi có cấu thành tội phạm chiến tranh trong quyền hạn phán quyết của ICC hay không. Để cấu thành một tội phạm chiến tranh cần phải có một cuộc chiến tranh (hoặc tình trạng xung đột vũ trang). Ở đây rõ ràng là Gadhafi bị giết trong một cuộc xung đột có vũ trang. Vậy việc giết một chiến binh đã đầu hàng có cấu thành một tội phạm? Chắc chắn là như vậy. Từ tháng ba, ICC đã chỉ ra rằng Libya đang bị lâm vào tình trạng xung đột của các bên vũ trang. Công ước quốc tế Geneva về tội phạm chiến tranh chỉ ra rằng: "Giết hoặc làm bị thương một chiến binh đã hạ vũ khí hoặc không còn phương tiện tự vệ, hoặc đã đầu hàng... là sự vi phạm nghiêm trọng" công ước. Hơn nữa, thẩm quyền phán quyết của ICC về tội ác chiến tranh ở Libya bao gồm các hành động của tất cả các bên tham gia (NTC và các tay súng chống chính phủ Gadhafi, cũng như những người trung thành với ông). Hội đồng Bảo an đã trình tòa một "tình hình” ở Libya, chứ không phải là hành vi cụ thể nào của bên này hay bên kia. Như vậy ICC có thẩm quyền phán quyết đối với hành động giết ông Gadhafi. Vấn đề tiếp theo là liệu ICC có tiến hành điều tra hay không. Tòa án không có nghĩa vụ điều tra tất cả hoặc hầu như toàn bộ các tội ác thuộc thẩm quyền phán quyết của mình. Trên thực tế, quy chế chỉ đạo của ICC chỉ dẫn các công tố viên không tiến hành các hành vi đơn lẻ, mà cần hướng tới các hành vi quy mô lớn. “Tòa án sẽ có quyền phán quyết đối với các tội ác chiến tranh đặc biệt khi chúng được tiến hành như là một phần của một kế hoạch hay chính sách, hay như là một bộ phận của kế hoạch gây tội ác.” Những lựa chọn của các công tố và những phán quyết gần đây của các thẩm phán ở ICC cho thấy rõ ràng rằng ICC ưu tiên xét xử những tội ác diện lớn tạo thành một khuôn mẫu hay hành vi rộng lớn hơn. Vì vậy có thể chắc chắn rằng ít có khả năng ICC sẽ đem ra xét xử một người nào đó về tội giết hại ông Gadhafi, trừ phi lực lượng chống ông sau này tiến hành một loạt các tội ác chiến tranh hoặc các tội ác chống lại nhân loại và việc giết ông Gadhafi là một ví dụ điển hình của tình trạng đó. Hơn nữa, các nhà chức trách mới ở Libya có thể sẽ bác bỏ bất cứ cuộc điều tra nào của ICC bằng cách đưa ra kế hoạch điều tra của riêng mình. Với một ủy ban điều tra mới được thành lập dưới quyền của NTC, chắc chắn ICC sẽ nhượng bộ, trừ phi ICC phán quyết rằng cuộc điều tra này là giả tạo. Dường như điều làm nhiều người, chủ yếu là ở bên ngoài Libya, thất vọng là ông Gadhafi cũng như người giết ông sẽ không bao giờ được chứng kiến một phiên tòa ở La Hague. Giảm nhẹ gánh nặng cho NTC và phương Tây Các nhà phân tích nói rằng, nếu Gadhafi mất tích hay lẩn trốn trong sa mạc Sahara để rồi lại thành lập một lực lượng du kích mới và gây bất ổn định Lybia thì sẽ là điều tệ hơn so với việc ông này chết. Cái chết của Muammar Gadhafi đồng nghĩa với việc xóa bỏ một vụ án lâu dài và phức tạp có thể dẫn đến sự chia rẽ Lybia và làm khó dễ cho một số chính phủ phương Tây và các công ty dầu lửa. Nếu ông Gadhafi còn sống chắc chắn sẽ xảy ra một cuộc tranh luận gay gắt về việc ông ta phải được mang ra xét xử ở Libya hay bị áp giải đến Tòa án hình sự quốc tế, cơ quan đã ra lệnh bắt giữ ông cùng với con trai đầu và người đứng đầu cơ quan phản gián Libya hồi đầu năm. Bất kể phiên tòa nào thì cũng có thể tạo cho Gadhafi, với cá tính riêng, một diễn đàn để bôi xấu tầng lớp lãnh đạo mới ở Libya và các chính quyền phương Tây, làm họ khó xử với những vấn đề mà họ muốn quên đi. Trong số những việc khiến người ta thắc mắc có thể có việc Libya thoát khổi sự cô lập quốc tế trong thập kỷ trước như thế nào, hay làm thế nào mà các công ty dầu quốc tế ký những hợp đồng khai thác trị giá nhiều tỷ USD ở Libya. Với chính quyền mới, trong số họ từng có người có thời gian dài phục vụ trung thành cho chế độ của Gadhafi, tuân lệnh của chính quyền ông này. Một phiên tòa công khai trong đó bị cáo - một người nắm được quá nhiều chuyện - có thể tiết lộ những điều bất lợi cho những người đang thắng thế. Các nhà phê bình thường phàn nàn rằng nhiều phiên tòa xử tội ác chiến tranh do quốc tế hoặc địa phương tổ chức đôi khi biến thành các sự kiện pháp lý lê thê và mệt mỏi, hoặc thậm chí biến thành các phiên tòa phô diễn. Các cựu lãnh đạo như Saddam Hussein và Slobodan Milosevic thường không thừa nhận quyền tài phán của tòa hoặc sử dụng phiên tòa để chỉ trích những người bắt giữ mình. Họ có thể sử dụng các cơ hội này để khơi lại vết thương chính trị cũ, và có thể gây thêm nhiều thiệt hại chính trị mới. Sau cái chết của Gadhafi, NTC sẽ tiến hành các biện pháp củng cố quyền lực tại Libya và thực tế họ đã tuyên bố Libya hoàn toàn được “giải phóng” ngay sau đó. Tuy nhiên nếu họ thực sự muốn đưa Libya trở lại con đường phát triển thực thụ dân chủ, trước hết họ phải bắt đầu bằng một chương trình hòa giải dân tộc thực sự mà khởi đầu là một tiến trình điều tra trung thực và không thiên vị về vụ sát hại đối với Gadhafi. Nếu không làm được như vậy thi chính quyền mới ở Libya chắc chắn sẽ thất bại trong thử thách đầu tiên về dân chủ, với nguy cơ các cuộc trả thù và sát hại đẫm máu lan tràn đất nước, lấn át luật pháp và an ninh trật tự. Vai trò của các cường quốc đi đầu trong nỗ lực của NATO, như Anh, Pháp và Mỹ ném bom Libya “thay đổi chế độ” cũng sẽ bị gián tiếp lên án. Các nước này cũng sẽ không thanh minh được là liệu họ sử dụng quyền của Liên Hợp Quốc để “can thiệp nhân đạo” nhằm mang lại dân chủ cho Libya hay mang lại cho họ quyền tiếp cận nguồn dầu lửa to lớn của nước này. Phạm Ngọc Uyển ================================Bởi vậy, đấy chính là hành vi không chính danh của việc giết ông Gadhafi. Rất tiếc tham gia cuộc chiến này có khối NATO. Nếu không làm sáng tỏ việc này thì NATO mất uy tín.
    1 like
  12. Chúng tôi nghiên cứu về vấn đề này rất kỹ và sẵn sáng chia sẻ với những người ham học hỏi như anh. Chúng tôi sẽ tổ chức một buổi offline nội bộ các học viên các lớp PT từ nâng cao trở xuống để nói chuyện về vấn đề này. Anh có thể tham gia - Anh liên hệ với Thiên Đồng về việc này. Trong buổi nói chuyện anh hoàn toàn thoải mái phản biện, hoặc đặt các câu hỏi nghi vấn. Cá nhân tôi mệt mỏi về những lời phản biện - xin lỗi - ngớ ngẩn, nên chưa thể công bố trên diễn đàn. Chừng nào tôi khỏe và rảnh rỗi đã.
    1 like
  13. Trận Tây Ban Nha bắt đấu lúc 3h ngày 27/10/2011 RealMadrid - Vallarreal Tỷ số 4-0 , 6-0
    1 like
  14. @TuAnh85, Em tuổi Ất Sửu (1985) Bạn trai Quý Hợi (1983) Hỏi vào lúc 11 Th10 2011 02:55 PM giờ Diễn Đàn Câu 1 : Khi nào em mới làm đám cưới được ? nhanh 2013 chậm 2014. Câu 2: Em sẽ có mấy đứa con? 3 hoặc 4, nhiều là 8. Câu 3 :Trong tương lai chồng em sẽ chung thủy với em không ? Cưng chiều lắm! Cám ơn anh nhiều! @nhkndc Cháu chào Chú Thiên Đồng. - Tuổi: Mậu Thìn (20/10/1988 dương lịch) - Hỏi vào 12-10-2011(dương lịch) lúc 12:27PM Câu 1: Cháu buồng quá ai cũng quay lưng lại với cháu (gia đình, người yêu, bạn bè). khi nào thì mới kết thúc tình tình hình này ạ? Hết năm 2012. Câu 2: Cháu đang có yêu một người sinh năm đinh mão, cháu và người này đang cãi nhau liệu lần này có quay lại không hay ai đi đường nấy ạ? sẽ quay lại, hơi chậm tí, có thể xuân sau. Câu 3: Cháu đã tốt nghiệp nhưng chưa đi làm, cho cháu khỏi khi nào cháu mới đi làm? công việc tốt không ạ? Tháng 3 năm 2012, nhanh thì đầu tháng 12 âm 2011, công việc vừa khả năng, nhưng hơi cực tí. Cháu cảm ơn chú Thiên đồng. @VinhNSH Chào anh Thiên Đồng. Em tuổi Ất Sửu. (Nam) Hỏi vào lúc 12h41 phút (buổi trưa) ngày 12/10/2011 dương lịch. Câu hỏi 1: Em có quen một bạn nữ, lúc mới quen em và bạn nữ này thường xuyên nhắn tin cho nhau. Nhưng dạo gần đây, em thấy bạn ấy thay đổi rất nhiều, em nhiều lần nhắn tin nhưng không thấy bạn ấy trả lời. Em không biết có phải bạn ấy đã có người yêu khác rồi hay không? Người nay đang lựa chọn, có thể đang quen ít nhất 3 người và đang đắng đo. Câu hỏi 2: Hôn nhân sau này của em có hạnh phúc không, có gặp trục trặc gì không? Có nhiều sóng gió nhưng vẫn hạnh phúc. Em cám ơn anh Thiên Đồng rất nhiều. @fjtung Cháu (nam): Tuối Ất Sửu 11/12/1985 AL Hỏi vào ngày 12/10/2011 vào 23h 43p dương lịch Câu hỏi 1: Cháu đang có ý định tiến tới hôn nhân với người yêu cháu (20/11/1985 AL), bọn cháu có thể tổ chức vào cuối năm được không ạ? Quẻ tốt, nhanh thì 3 tháng nữa Câu hỏi 2: Cho cháu hỏi tình hình công việc và tài chính cuối năm có tin gì đáng mừng không ạ? Khá, dư ăn đủ chơi. Câu hỏi 3: Cho cháu hỏi tình hình gia đạo (Sức khỏe ba mẹ...) được không ạ? Không gì đáng lo. Ông bà vẫn vui vẽ yêu đời. Cháu xin cảm ơn và mong nhận được hồi âm của chú ạ. @An Thư Gửi anh Thiên Đồng! An Thư cảm ơn những lời luận giải của anh! Hiện tại An Thư mới lấy chồng (ngày cưới 05/10/2011 DL). Chồng sinh ngày 21/09/1980 và Em sinh ngày 29/11/1982 (DL) Em hỏi vào ngày 13/10 /2011, lúc 14h45p. 1. Em nên sinh con vào năm nào để tốt cho hai vợ chồng? Khó chọn 2014 giáp ngọ và mậu tuất 2018. 2. Em đang rất muốn xin vào làm nhà nước, khi nào thì mới có cơ hội xin được? Chắc không có cơ hội, nếu có thì tháng 3 âm 2012. 3. Tài chính của hai vợ chồng em từ giờ đến cuối năm có tốt không ạ? chờ đợi hơi lâu rồi cũng được kha khá. Em mong anh luận quẻ giúp em, em cảm ơn anh nhiều ạ! Chúc anh mọi sự vui vẻ, như ý! An Thư @ngongoe Nữ, sinh năm 1990 Hỏi vào ngày 16 tháng 10 năm 2011 dương lịch, lúc 12h03 phút trưa 1. Chuyện về em trai cháu liệu có đáng lo ngại như cháu nghĩ không? Cháu có nên can thiệp ko, nếu có thì nên ntn? Không nên can thiệp, không gì phải lo. 2. Em cháu sau này tương lai có tốt không, cha mẹ có được nhờ không? Cháu có thể định hướng cho nó thế nào ạ? Em trai có ý hướng tự lập, chút giang hồ lãn mạn, kệ nó. 3. Cháu có chút tình cảm với 1 người, vậy tình cảm người đó với cháu ở mức độ thế nào, có tiến triển được không? người này là người ntn ạ? được, người này tuy thấy chậm chạp nhưng không kém lãn mạn, đôi khi làm chuyện bất ngờ, cưa đi! Mong chú giải đáp giúp Chúc chú vạn sự như ý Mệt nghỉ nha! Thiên Đồng
    1 like
  15. hi, hqua mình mới biết là có 35 người đi tt cơ nhưng có 2 người không đi ăn chơi cùng được nên lúc campuchia tiền ăn chơi còn 33ng Engineer à :P . Mình cũng sai tùm lum với quẻ cho anh Thích Đủ Thứ kia kìa :P . Ôi.... http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/crying.gif
    1 like
  16. Hehehe, mình ko kinh doanh, chỉ là làm thủ tục về đất đai thôi. Hiện tại mình và 1 số người bạn khác có vướng mắc về thủ tục đất đai mà người bạn này có khả năng lo được. Mình hỏi để thêm vững tin thoai, chứ kinh doanh thì ... :P :P :P
    1 like
  17. Đứa con thứ 9 của Long Vương chuyên ăn kim Ngân châu báu. Đó chính là độ số 9 ở phía Tây thuộc Kim của Hà Đồ (Lạc thư phía Tây Kim độ số 7). Đó cũng là con số cao nhất - cũng có thể hiểu là sự tận cùng - trong lý Dịch kết thúc một chu kỳ để sang một chu kỳ mới. Bởi vậy, nếu bí không có đào thải thì mọi việc sẽ dừng lại ở đây và không có chuyển hóa. Đó là cái lý mà tôi chẳng bao giờ khuyên thân chủ dùng tỳ hưu cả.
    1 like
  18. Các năm tốt để sinh con : 2016 Bính Thân, 2019 Kỷ Hợi có thể sinh con út, ưu tiên con trai, các năm còn lại không tốt nên ưu tiên sinh con gái nhé. Sắp xếp thế nào tùy bạn và gia đình. Thân mến.
    1 like
  19. 1 like
  20. Tên người Ngữ pháp chân chính của tiếng Việt là như trong các câu Kiều, tức như cách nói năng hàng ngày của người dân Việt hàng ngàn năm xưa nay vẫn thế. Bởi vậy Phạm Quỳnh mới nói: “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn; tiếng Việt còn, dân tộc Việt còn”. Cao Xuân Hạo đã nêu ra cái ngữ pháp đó của tiếng Việt là qui tắc “Đề và Thuyết”. Có nghĩa là trong câu nói của người Việt không có chia ra theo kiểu “Chủ ngữ-Vị ngữ-Tân ngữ” như ngữ pháp tiếng Pháp, mà chia ra theo kiểu “Đề và Thuyết”. “Đề” là cái người nói cần đề cập đến, “Thuyết” là cái có đề rồi mới nói tới để giải thích cho đề. Ví dụ so sánh hai câu: “Tên đặt hay quá” và “Đặt tên hay quá”.Trong câu đầu “Tên đặt hay quá” thì “Đề” là Tên, là cái người nói muốn đề cập đến, muốn nêu ra để bình, còn xuất xứ của nó từ đâu không quan tâm, nó được “Thuyết” là Hay. Ý ở câu này là người nói muốn khen cái tên.Trong câu sau “Đặt tên hay quá” thì “Đề” là Đặt, và nó được “Thuyết” là Hay. Ý ở câu này là người nói muốn khen ai đó là người đã hoàn thành cái việc đặt này. Nếu cứ căn cứ vào ngữ pháp nước ngoài làm chuẩn để chấm điểm cho hai câu nói trên thì sẽ cho chúng điểm kém vì bị “đổ tội” cho là “câu cộc lốc”. Về kết cấu từ ghép thì theo ngữ pháp tiếng Việt là phải nói “xuôi” tức chính trước phụ sau, cái To có trước mới đẻ ra cái Nhỏ sau, cũng như vũ trụ có trước mới đẻ ra các thứ nhỏ hơn. Một con người được đặt một cái tên. Người=Ngôi=Tôi=Tui=Tau=Tên=Tâm=Tay=Ta=Ngã=Người. Một Tên là phải do hai Họ mới sinh ra được một tên, nên Họ trước Tên sau là ngữ pháp Việt. Dân tộc nào đặt tên người theo kiểu Họ trước Tên sau (kiểu chính trước phụ sau ) là do họ đã được thừa hưởng cái ngữ pháp tiếng Việt có trước ngôn ngữ của họ mà thôi. Do quá trình Hán hóa, từ ghép của tiếng Việt có rất nhiều từ đã bị ép ghép theo kiểu ngữ pháp Hán, phụ trước chính sau, những từ ấy gọi chính xác là từ Việt Hán, vì cái tố của từ là cái có trước, nó là của Việt , còn cái qui tắc ghép theo “ngược”, phụ trước chính sau kiểu Hán là có sau, bởi vậy phải gọi theo logic Trước- Sau là từ Việt - Hán. Ví dụ từ “Kinh Luân” (văn học còn dùng ám chỉ mặt trăng) thực gốc nó là từ “Lăn Quay” đã bị ép ghép ngược. Cái tố của nó vẫn còn là Việt: Lăn quanh quẩn=(lướt)=Luân, Quay theo trình=(lướt)=Kinh. Nhưng những từ Việt-Hán ấy được nâng ý lên thành “trang trọng” hơn (do tâm lý) nên đã đóng góp làm phong phú thêm tiếng Việt. Còn ba từ trong kết cấu Họ Tên của chính người Hán trong Hán ngữ hiện đại mới chính xác gọi là từ Hán- Việt, vì cái tố của nó là chữ Hán phát âm như người Hán phát âm, còn cách ghép thì lại Họ trước Tên sau như ngữ pháp Việt (chính trước phụ sau) trong khi người Hán nói năng theo ngữ pháp Hán là phụ trước chính sau (đáng lý ra họ phải viết Tên trước Họ sau như người Anh vậy). Do bị quán tính lịch sử (vốn xưa họ có Tên trước Họ sau) trước khi họ bị Việt hóa ở Trung Nguyên 5000 năm trước, nên khi đã theo văn Việt mà viết Họ trước Tên sau rồi thì họ vẫn quen xưng Họ, gọi Họ (vì quán tính nghĩ đó là cái Tên, đứng trước, theo ngữ pháp tiếng họ), và người đời, với tâm lý Hán hóa lại cho rằng “gọi thế cho nó trang trọng”. Ví dụ gọi cụ Hồ là gọi bằng Họ. Ở nhà quê “kính lão đắc thọ” người ta không gọi các cụ bằng tên vì nghĩ rằng như vậy “xược”, cũng chẳng gọi các cụ bằng họ, nên họ gọi thay bằng thứ,cụ Hai, cụ Ba, hoặc gọi thay là cụ “Chắt” nếu có con trưởng là trai, cụ “Hoe” nếu có con trưởng là gái. Vì nghĩ rằng nó là “trang trọng” nên người Việt cũng hay dùng từ Việt Hán để đặt tên. Hiểu được nghĩa của nó sẽ thấy đẹp. Ví dụ: KINH LUÂN: trải ánh trăng vàng HỒNG THANH: nổi tiếng Hồng Bàng văn minh THANH PHONG: xanh thắm quê mình HOÀNG DUY: giữ mãi lung linh sáng ngời MINH THIÊN: bài lý tuyệt vời THANH MY: tiếng Việt muôn đời nhạc vang LỆ THANH: tươi đẹp giang san VŨ MINH: sạch sẽ thênh thang bầu trời
    1 like
  21. 1 like