-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 20/10/2011 in Bài viết
-
Đứa con thứ 9 của Long Vương chuyên ăn kim Ngân châu báu. Đó chính là độ số 9 ở phía Tây thuộc Kim của Hà Đồ (Lạc thư phía Tây Kim độ số 7). Đó cũng là con số cao nhất - cũng có thể hiểu là sự tận cùng - trong lý Dịch kết thúc một chu kỳ để sang một chu kỳ mới. Bởi vậy, nếu bí không có đào thải thì mọi việc sẽ dừng lại ở đây và không có chuyển hóa. Đó là cái lý mà tôi chẳng bao giờ khuyên thân chủ dùng tỳ hưu cả.2 likes
-
Người Mẹ Khắc Khổ
VietnamRich and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tôi đã nhận trực tiếp tiền từ thiện của những anh chị em có lòng hảo tâm ở Hà Nội , gồm: Đời Vui: 500. 000 Đ Thảo Châu: 500. 000Đ. Bà Nguyễn Thị Thanh Hằng: 500. 000đ. Cô Lê thi Hồng Hạnh: 200. 000đ. Thiên Sứ: 1.000. 000đ ============================ Tổng cộng: 2. 700. 000VND. (Hai triệu bẩy trăm ngàn đồng chẵn).2 likes -
Quán vắng!
longphibaccai and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Người phụ nữ cứu bé Duyệt Duyệt bỏ về quê Thứ Năm, 20/10/2011, 12:03 (GMT+7) TTO - Là người qua đường duy nhất nâng bé Duyệt Duyệt dậy giữa vũng máu, bà Trần Hiền Muội liên tục bị hàng xóm hỏi bà đã kiếm được bao nhiêu tiền sau vụ này. Bà đã lặng lẽ bỏ về quê đêm qua 19-10. >> “Lẽ nào làm một việc tốt cũng khó khăn đến vậy sao?" >> Sự vô cảm tàn nhẫn >> Bé 2 tuổi bị xe đụng, người qua đường thờ ơ >> Bé gái 2 tuổi bị xe đụng hồi phục Bà Trần Hiền Muội bật khóc khi gặp mẹ của bé Duyệt Duyệt ở Bệnh viện quân y Quảng Châu chiều 18-10 - Ảnh: ycwb.com “ Bà làm thế để nổi tiếng à? - những câu hỏi giễu cợt bám lấy bà hàng ngày. Người ta cười khẩy với bà ở bất cứ góc phố nào bà đi qua. A Bân - con trai bà Trần - rất buồn và giận dữ nói rằng mẹ anh không biết chữ, không đọc được báo nên cần gì phải muốn nổi tiếng. Gia đình bà Trần đã trao hết số tiền được thưởng cho gia đình Duyệt Duyệt với hi vọng cứu sống em. Rồi đêm qua, bà tắt điện thoại, lặng lẽ về quê với chồng ở Thanh Viễn, tỉnh Quảng Đông. Giới truyền thông quá bám riết? Người phụ nữ nhỏ bé cao chỉ 1,4m này tỏ ra mệt mỏi với sự bám riết của hàng trăm tờ báo trong nước cũng như ngoài nước. Việc làm của bà tự nhiên nổi bật bởi 18 người trước đó đi qua đứa trẻ 2 tuổi nằm trong vũng máu mà không hề cứu giúp. Ai ai cũng hỏi tại sao bà làm thế, trong khi bà Trần không thể hiểu nổi tại sao họ hỏi thế. “Việc tôi làm là hết sức bình thường. Tôi thấy cháu bé nằm ngã ra như thế nên kéo lên. Ai ngã tôi cũng đến nâng dậy cả” - bà bày tỏ khi được phỏng vấn. Câu trả lời đơn giản đó như chưa làm các phóng viên hài lòng. Điện thoại của bà liên tục reo và các phóng viên quay lấy căn phòng trọ nhỏ bé của bà để phỏng vấn, khiến người chủ nhà đe dọa sẽ cắt hợp đồng thuê nhà. Sức khỏe bé Duyệt Duyệt xấu đi Tình trạng của bé Duyệt Duyệt có tín hiệu không tốt. Dù không được thông báo chi tiết, truyền thông Trung Quốc cho hay mẹ bé Duyệt Duyệt đã ngất xỉu khi nghe tin. Gia đình Duyệt Duyệt đã chuẩn bị tinh thần rằng con gái họ sẽ chết. Ảnh: China Daily “Chúng tôi đã mời các chuyên gia từ Bắc Kinh tới để tham gia cứu cháu bé”, ông Wen Qiang - phó giám đốc khoa điều trị chuyên sâu ở Bệnh viện Quân y Quảng Châu - cho hay. Trong khi đó, báo Daily Mail cho hay các bác sĩ đã kết luận bé bị chết não. Mẹ của bé nói nấc lên: “Đừng bỏ mẹ, mẹ sẽ không từ bỏ đâu. Hãy để mẹ có thêm cơ hội được yêu thương con nữa”. Gia đình Duyệt Duyệt đang đối mặt với quyết định đau đớn là có tắt máy trợ thở của con đi không bởi tình trạng chết não sẽ khiến em tử vong bất cứ lúc nào. PHAN ANH ============================ Tội nghiệp bà lão cứu bé Duyệt Duyệt. Cuối cùng bà ta phải bỏ nơi sinh sống để về quê. Đã nghèo lại càng nghèo thêm. Cái phũ phàng nó ở chỗ ấy. Bởi vậy, từ ngàn xưa Lý học đã đề cao tính chính danh và "quân tử thì không trái lý". Người cứu bé Duyệt Duyệt dù với động cơ gì thì cái lý vẫn là cứu người, là nhân hậu và tính chính danh của hành vi này là ở chỗ đó. Bởi vậy nó cần được dư luận xã hội thừa nhận. Nhưng tiếc thay!2 likes -
Chiếc Lá
Lan Anh and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Câu chuyện này có lẽ là sự cải biên chuyện ngắn nổi tiếng của một nhà văn Hoa Kỳ (Tôi quên mất tên) - dịch ra tiếng Việt có tựa là "Chiếc lá cuối cùng".Nội dung câu chuyện tóm tắt như sau: Một ông lão nghèo làm nghề người mẫu thuê giá rẻ cho các sinh viên mỹ thuật. Ông ước mơ trở thành một họa sĩ nổi tiếng và có tác phẩm để đời. Vào một ngày mùa đông lạnh giá ở nước Mỹ, có một cô sinh viên thuê ông làm mẫu bị viêm phổi, một bệnh khó chữa ở đầu thế kỷ trước. Cô bé thất vọng và nằm chờ chết ở bệnh viện, cô ta nhìn qua cửa sổ phòng bệnh và đếm từng chiếc lá rơi ở một cây leo trên tường ngoài cửa sổ và nói với ông lão người mẫu khi ông đến thăm cô: "Số phận của con như những chiếc lá trên cành cây kia, khi chiếc lá cuối cùng rơi xuống con sẽ chết.". Cô ấy tin như vậy. Ngày lại ngày trôi qua, cái cây rụng từng chiếc lá. Khi trên cành chỉ còn trơ trọi vài chiếc lá vàng heo hắt, cô bé nói: "Ngày mai khi mở cửa sổ ra thấy những chiếc lá cuối cùng đã rơi xuống thì đó là ngày con kết thúc cuộc đời mình!". Đêm hôm ấy, gió thổi ào ào với những cơn mưa tuyết.... Nhưng kỳ lạ thay! Khi cô bé mở cửa sổ phòng ngủ thì vẫn thấy chiếc lá cuối cùng ở trên cây như một dấu ấn của sự sống mãnh liệt trước những phong ba cuộc đời. Một khí lực trào lên trong người cô bé và cô bé tự tin ấy đã khỏi bệnh trở về mái trường xưa. Nhưng từ ngày ấy, không thấy ông lão người mẫu đâu cả. Người ta kể lại rằng: Vào cái đêm mà gió và mưa tuyết ào ào tới vùng này thì họ thấy một ông lão co ro trong chiếc áo lạnh cũ sờn với cái đèn măng sông ngồi dưới chân tường bệnh viện. Ông lão đã chờ chiếc lá cuối cùng trên cành cây rơi xuống và nhặt chiếc lá ấy lên. Ông lão bắc thang, treo đèn măng sông và vẽ lại chiếc lá ấy y hệt như nó vẫn ở trên cây. Sau đêm hôm đó, ông lão bị viêm phổi và đã chết. Hình như câu chuyện này là cảm hứng cho một bài hát của nhạc sĩ Tuấn Khanh, mà tôi rất thích nghe. Cũng có tựa là "Chiếc lá cuối cùng". http-~~-//www.youtube.com/watch?v=E5jw8EDytZA2 likes -
Chúc Mừng Ngày Phụ Nữ Việt Nam xứng đáng tặng tám chữ vàng Diệu Dàng Chu Đáo Trung Hậu Đảm Đang Mến chúc các Cô, Chị, Em thành viên của diễn đàn lyhocdongphuong, cùng các Chị Em các lớp Phong Thủy Lạc Việt vui tươi và hạnh phúc. Thiên Đồng1 like
-
16/15/2008 Kính thưa các anh chị em diễn đàn Lyhocdongphuong! Học thuyết Âm dương Ngũ hành là học thuyết thống nhất vũ trụ mà chủ nhân của nó chính là nền văn hoá huyền vĩ Văn Lang – cội nguồn của dân tộc Việt Nam ta - 5000 năm trước đã từng rực rỡ, huy hoàng phía nam sông Dương Tử. Đó là quan điểm nhất quán, sáng tạo, có tính đột phá của anh Thiên Sứ mà tôi rất hâm mộ. Lấy cảm hứng từ quan điểm đó mà tôi vốn trước kia không quan tâm lắm đến học thuyết này, “kính nhi viễn chi” thôi, chú tâm vào những bài nghiên cứu, tranh luận về học thuyết này trên các diễn đàn lịch sử, lý số. Tôi nhận thấy rằng, học thuyết huyền vĩ này của tổ tiên ta đã bị che lấp, thất truyền hành ngàn năm, chỉ còn sót lại một số ít ỏi những mảnh vỡ đã bị biến dạng dưới dạng những ứng dụng cụ thể, không hoàn chỉnh cả về thực hành cũng như lý thuyết bằng văn tự của chính nền văn hoá đã đập vỡ nó. Không nhận thức được điều đó thì thôi, nhưng đã biết được thì bổn phận của mỗi chúng ta trước tổ tiên là phải đóng góp một phần, dù là nhỏ bé của mình theo từng hoàn cảnh, phục hưng, tôn vinh văn hoá Việt. Một phần quan trọng trong những đóng góp đó là phục hồi lại học thuyết Âm dương Ngũ hành nguyên thuỷ. Đó là một công việc vô cùng khó khăn nhưng không phải không làm được nếu tất cả chúng ta cùng nhiệt tâm, kiên trì, sáng tạo, khoa học và đặc biệt phải có với tấm lòng trong sạch, không vụ lợi hướng tới tổ tiên. Theo dõi các bài nghiên cứu tranh luận trên các diễn đàn, tôi cho rằng chúng ta đang thiếu hẳn sự sáng tỏ bản chất hệ thống khái niệm căn bản của học thuyết Âm dương Ngũ hành, một phương pháp luận đúng đắn xuất phát từ bản chất của những đối tượng mà ta nghiên cứu. Chúng ta phải thiên về sự hợp lý hình thức, những “tượng”, “số” mang nặng suy diễn chủ quan của mỗi chúng ta, rất khó thống nhất ý kiến và phản ánh không đầy đủ, trọn vẹn đối tượng đó. Hơn nữa, chúng ta phải lệ thuộc vào những tài liệu chữ Hán còn sót lại, lưu truyền đã hàng ngàn năm, chắc chắn đã có rất nhiều sai lệch dễ làm chệch hướng tư duy đúng đắn. Ngoài ra, sự trì trệ tư duy, sự câu nệ bảo thủ, những toan tính, đố kỵ, tự ái, … cũng cản trở sự sáng tạo, đồng tâm hiệp lưc của chúnh ta. Xưa kia, các cụ của chúng ta chắc chắn cũng quan sát thực tại khách quan, chiêm nghiệm thực tế, dùng trí tuệ của mình phát minh ra học thuyết Âm dương Ngũ hành. Ngày nay, thực tại khách quan đó vẫn còn hiện hữu. Chúng ta – con cháu các cụ - đương nhiên phải được thừa hưởng trí thông minh đó. Chúng ta lại có bao nhiêu lợi thế so với các cụ do thời đại mình mang lại. Hơn nữa, lại được những gợi ý vẫn còn vô cùng giá trị từ những “mảnh vỡ văn minh” của các cụ còn sót lại... Chẳng có lý do gì chúng ta không thể nghĩ ra được cái mà các cụ đã nghĩ ra từ hàng mấy ngàn năm trước, và nhất định phải tốn ít thời gian hơn. Tâm niệm những điều đó, lại được anh Thiên Sứ gợi ý rằng, chúng ta chỉ có thể phục hồi lại được học thuyết Âm dương Ngũ hành từ những giá trị của nền văn minh sản sinh ra nó – nền văn minh tộc Việt, tôi chẳng tự lượng sức mình, cố gắng xây dựng “Cơ sở học thuyết Âm dương Ngũ hành” và trình ra đây để cùng anh chị em trong diễn đàn thảo luận, cũng là để tỏ một phần tấm lòng tôi với tổ tiên tộc Việt. Suy nghĩ còn nhiều chỗ chưa thấu đáo, diễn tả còn nhiều chỗ chưa hết ý, mong anh chị em lượng thứ. VÔ TRƯỚC1 like
-
ĐI TÌM CỘI NGUỒN KINH DỊCH VÀ THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH. Nguyễn Vũ Tuấn Anh Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Kể từ khi hai nền văn minh Đông Tây giao lưu trong lịch sử phát triển của nhân loạị thì cả thế giới đều nhận thấy rằng: Kinh Dịch và hệ thống phương pháp luận liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành là một thành tố quan trọng tạo nên một cái nhìn bí ẩn và huyền vĩ về văn hóa Đông phương. Nhưng vẫn hoàn toàn bế tắc khi đi tìm bản chất và thực tại khách quan mà nó phản ánh. Có nhiều ý kiến khác nhau về lịch sử, nội dung và bản chất của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành, Nhưng tất cả đều chưa đủ sức thuyết phục. Những bài viết dưới đây là sự tóm lược trong những sách đã xuất bản của Nguyễn Vũ Tuấn Anh từ những năm 1998 trở lại đây nhằm xác định một cái nhìn về lịch sử, nội dung và mục đích của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. I - LỊCH SỬ THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG CỔ THƯ CHỮ HÁN. I – 1: Những vấn đề của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Từ trước đến nay, có thể nói rằng tuyệt đại đa số những ai biết về Kinh Dịch đều mặc nhiên coi kinh Dịch và tất cả những phương pháp ứng dụng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành là của nền văn minh Hoa Hạ cổ với hàng ngàn đầu sách bằng bản văn chữ Hán viết về nó trong hàng thiên niên kỷ. Người ta không thấy một văn bản nào ngoài chữ Hán trong các sách vở từ hàng ngàn năm này liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Từ Thiên văn, lịch số, Đông y, phong thủy, các phương pháp bói toán…… Đã rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến Kinh Dịch. Những bản văn chữ Hán cổ này xác định rõ tác giả, thời gian xuất hiện trong lịch sử văn minh Hoa Hạ. Và những hiệu quả ứng dụng vượt thời gian trong lịch sử phát triển của con người và xuyên qua mọi không gian văn với khả năng tiên tri, đã biện minh cho tác giả và xuất xứ của nó. Nhưng, khi có sự giao lưu giữa nền văn hóa Đông Tây thì người ta đã nhận thấy sự bí ẩn và tính mơ hồ của những gía trị liên quan đến nguyên lý lý thuyết có tính nền tảng của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nền văn minh Đông phương trở thành huyền bí trong nhận thức của tri thức khoa học hiện đại. Đã có một thời gian dài, các học giả Tây phương cho rằng Lý học Đông phương mang màu sắc tôn giáo và mê tín dị đoan. Nhưng những thập kỷ gần đây, những tri thức khoa học Tây phương đang chiếm ưu thế và được tôn vinh trong tri thức nhân loại hiện đại bắt đầu quan tâm đến nền văn hóa cổ Đông phương và nhận ra tính minh triết và đặt vấn đề về tính khoa học của nó. Cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã 4 lần tổ chức đại hội thảo về Kinh Dịch ở Bắc Kinh để tìm hiểu về Kinh Dịch, nhưng vẫn không có một kết luận cuối cùng về nó. Những bí ẩn của Kinh Dịch hay nói rộng hơn của Lý học Đông phương mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn không được khai thông. Những học giả Trung Quốc hiện đại trong những năm gần đây, đã dấy lên một phòng trào phủ nhận những gía trị của Đông Y và Phong thủy, vì cho rằng nó mơ hồ, không có cơ ở khoa học, nên đã không thể phát triển từ hàng ngàn năm nay. Kinh Dịch và nói rộng hơn là thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn sừng sững thách đố tri thức của nhân loại bằng sự mơ hồ của những khái niệm và hiệu quả trên thực tế từ hàng thiên niên kỷ. Nhưng có thể nói rằng: Cũng từ hàng ngàn năm nay, hầu hết những đề tài nghiên cứu này đều mặc nhiên coi những nguyên lý, những tiên đề ghi nhận trong Kinh Dịch là không bàn cãi và lấy đó làm tiêu chí để tìm hiểu nội dung bí ẩn của nó. Mặc dù xuất xứ của các nguyên lý có tính tiên đề đó hết sức thần bí. Đó là Hà Đồ được xác định là do con Long Mã xuất hiện trên sông Hoàng Hà trên minh mang những dấu ấn là những vòng xoáy trên lưng. Căn cứ vào đấy vua Phục Hy, được coi là vị vua Thái cổ của nền văn minh sử Hán đã lập nên đồ hình Hà Đồ. Từ đồ hình này, nhà vua đã tạo nên đồ hình Tiên Thiên Bát quái. Mở đầu cho một nền văn hóa Dịch học của xứ sở Đông Phương huyền bí. Con Long Mã huyền thoại từ 6000 năm trước, nay trở thành một biểu tượng cho điềm lành dùng trong những gia đình tin vào tác dung mang lại may mắn của nó. Nguồn: mynga.vn Đồ hình Hà Đồ điểm, được các đạo gia công bố vào đời Tống – 5000 năm sau khi lịch sử văn hóa Hán xác nhận thời điểm ra đời của nó, vào đời vua Phục Hy từ trên lưng con Long Mã hiện lên ở sông Hoàng Hà. Đồ hình Tiên Thiên Bát quái tương truyền do vua Phục Hy sáng tạo căn cứ vào Hình Hà đồ trên lưng con Long Mã. Sự huyền bí chưa dừng lại ở đây. Cổ thư chữ Hán còn xác định rằng: Đến thời Vua Đại Vũ – 4000 năm cách ngày nay – khi đi trị thủy ở sông Lạc – thấy con Thần Quy hiên lên. Trên đầu, lưng mai và đuôi có những vết chấm. Nhà vua nhìn thấy và làm ra đồ hình Lạc Thư. Căn cứ vào Lạc Thư ngài đã phát minh ra Ngũ Hành trong trước tác nổi tiếng là “Hồng Phạm cửu trù”. Hình minh họa những điểm trên thân Thần Qui hiện trên sông Lạc và đồ hình Lạc Thư điểm. Cũng do các đạo gia đời Tống công bố sau khi lịch sử văn hóa Hán xác nhận lịch sử ra đời 3000 năm sau đó. Cấu trúc cửu trù theo Lạc Thư – Trù thứ nhất nói về Ngũ hành. Một ngàn năm sau nữa, cũng theo cổ thư chữ Hán viết rằng: Vua Văn Vương nhà Chu, lúc còn là một chư hầu của nhà Hạ dưới đời Trụ Vương, đã bị Trụ Vương bắt nhốt vào ngục Dữu Lý, đã nghiệm ra Hậu Thiên Bát Quái và lập nên hệ thống 64 quẻ Dịch gọi là Chu Dịch, viết nên Soán Từ - tức là giải thích ý nghĩa của từng quẻ trong hệ thống 64 quẻ Hậu Thiên Bát quái. Sau đó con của ngài là Chu Công Đán đã viết tiếp Hào từ - Tức là giải thích ý nghĩa của từng vạch trong một quẻ. *** Phải chăng: Người ta đã không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Bất cứ cái gì xuất hiện trên thế gian đều phải có hoàn cảnh ra đời của nó. Một học thuyết thì phải có lịch sử ra đời theo thuận tự hợp lý với nội dung của nó. Thuyết Âm Dương Ngũ hành không thể từ trên trời rơi xuống, nên nó cũng không thể ngoại lệ. Chưa hết, Một học thuyết được coi là hoàn chỉnh, dù chưa biết đúng hay sai thì cũng không thể tự mâu thuẫn ngay trong cấu trúc nội dung của nó. Và nếu là một học thuyết khoa học thì nó phải mô tả được thực tế khách quan và giải thích một cách hợp lý những thực tại liên quan đến nó với khả năng dự báo. Trên cơ sở này, xin mời bạn đọc cùng xem lại những vấn đề được nêu ra ở trên để minh xác cội nguồn Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. I - 2: Những mâu thuẫn bất hợp lý trong lịch sử Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành từ cổ thư chữ Hán. Tất cả những ai tìm hiểu về Kinh Dịch, nếu chịu khó suy ngẫm một chút đều nhận thấy ngay tính bất hợp lý và mâu thuẫn trong lịch sử Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành qua cổ thư chữ Hán. Điểm lại thời gian xuất hiện của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành qua các bản văn chữ Hán, chúng ta dễ dàng nhận thấy ngay sự vô lý trong thời gian lịch sử của nó. Những sự kiện này, cổ thư chữ Hán miêu tả như sau: - Cách đây 6000 năm, Vua Phục Hy thấy con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng hà, trên mình có những xoáy bèn nghĩ ra Hà Đồ. Căn cứ trên Hà Đồ làm ra Tiên Thiên bát quái. Nhưng, những điều này chỉ được lịch sử ghi nhận sự kiện và không có văn bản nào cho biết rõ ký hiệu Tiên Thiên bát quái và Hà Đồ có cấu trúc như thế nào. Những đồ hình này chỉ thực sự xuất hiện vào đời Tống sau đó 5000 năm. - Sau đó 1000 năm – Tức 5000 năm cách ngày nay – Hoàng Đế là một vị vua được coi là khai sáng nên dân tộc Hán cùng các đại thần của ngài làm nên cuốn: Hoàng Đế nội kinh tố vấn. - Sau 1000 năm nữa tiếp theo – Tức 4000 năm cách ngày nay – Vua Đại Vũ cũng vốn là một vị vua huyền thoại, đi trị thủy trên sông Lạc gặp một con rùa Thần có những chấm trên đầu, chân, mai bèn nghĩ ra Lạc Thư và viết Hồng Phạm cửu trù. Trong Hồng Phạm cửu trù khái niệm Ngũ hành xuất hiện.. Hồng phạm cửu trù được nhắc tới trong thiên Vũ Cống của kinh Thư. Nhưng đồ hình Lạc thư như thế nào cũng không rõ và cũng chỉ được công bố vào đời Tống, tức là hơn 3000 năm sau khi cổ thư nhắc tới sự kiện này. - Tiếp theo 1000 năm nữa – Tức 3000 năm cách ngày nay – Vua Văn Vương bị giam trong ngục Dữu Lý 7 năm, dựa vào Lạc Thư, sắp xếp lại Tiên Thiên Bát quái thành Hậu Thiên Văn Vương và cấu trúc nên 64 quẻ Hậu Thiên. Ngài cùng con trai là Chu Công Đán viết Soán Từ, Hào từ cho 64 quẻ Chu Dịch. Đồ hình Hậu Thiên Bát quái Văn Vương, cũng chỉ được công bố vào đời Tống sau đó 2000 năm. - Tiếp theo 500 năm sau – Tức 2500 năm cách ngày nay – Khổng Tử lúc về già, viết thập Dực, Hệ từ thương, Hạ truyện và thuyết quái truyện - hoàn thành bộ Chu Dịch truyền đến ngày nay. Trong trước tác của Khổng tử nói tới Âm Dương, Thái cực và lưỡng nghi. - 200 năm tiếp theo – Tức khoảng 2300 năm cách ngày nay - Xuất hiện phái Âm Dương gia được coi là phát triền thuyết Ngũ hành. Dấu ấn của Ngũ hành còn thấy trong sách Lã Thị Xuân thu, được coi là của Lã Bất Vi, tể tường đời Tần. Các nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng thuyết Âm Duơng và Ngũ hành hòa nhập vào đời Hán. - 1000 năm sau Công Nguyên xuất hiện các đồ hình - Hà Đồ, Lạc Thư, Hậu thiên, Tiên thiên bát quái - do các đạo gia như Thiệu Khang Tiết, Trần Đoàn Lão Tổ công bố và họ vẫn thừa nhận tác giả những đồ hình này thuộc về Phục Hy, Đại Vũ và Chu Văn Vương như đã trình bày ở trên. Trần Đoàn Lão tổ còn được coi là tác giả của môn Tử Vi , Thiệu Khang Tiết còn được coi là tác giả của Mai Hoa Dịch số. Trong suốt hơn 2000 năm, việc nghiên cứu, tìm hiểu Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành được các nhà nghiên cứu Hán nho - tiềm hiểu từ đó đến nay - bắt đầu từ: Mao Diên Thọ, Kinh Phòng, Mạnh Hỷ - Đời Hán...vv..mỗi đời đều để lại những triết gia nổi tiếng về thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nhiều thành tựu nhất là đời Tống nổi tiếng với Chu Hy với thuyết Vô cực và được nhiều người tin cho đến ngày nay. Riêng cuốn Hoàng đế Nội Kinh tố vấn - được các nhà nghiên cứu cho là xuất hiện từ thế kỷ thứ II BC đến thế kỷ I AC – nhưng có nội dung bản văn miêu tả Hoàng Đế đối thoại với Kỳ Bá và Quỉ Du khu từ 5000 năm cách ngày nay và hoàn toàn dùng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành - được coi là phương pháp luận căn bản của Đông Y thì không thể đặt vào bất kỳ thời kỳ lịch sử nào trong văn minh Trung Hoa. Bởi vì với nội dung này, nó đã xác minh rằng: Phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành đã xuất hiện trước tất cả những tác gỉa được coi là phát minh ra học thuyết này là Đại Vũ, Khổng Tử và cả phái Âm Dương gia (Vốn được cho là tồn tại vào khoảng thế kỷ thứ III BC. Tức là sau thời gian xuất hiện của cuốn Hoàng Đế nội kinh hơn 5000 năm?), khi phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành đã được ứng dụng trong nội dung của cuốn sách này. Mặc nhiên cuốn “Hoàng đế nội kinh tố vấn” đã phủ nhận toàn bộ lịch sử phát triển của thuyết Âm Dương Ngũ hành miêu tả trong cổ thư chữ Hán. 1 – 3: Kết luận: Bất cứ một lý thuyết nào cũng phải được hình thành từ nhận thức trực quan sinh động đến tư duy trừu tương và tổng hợp thành một lý thuyết. Tất nhiên nó phải có một nền tảng tri thức xã hội hình thành nên lý thuyết đó với những khái niệm được phổ biến trong nền văn minh tạo ra nó. Nhưng hàng ngàn năm tiếp theo đã trôi qua, Chính nền văn minh Họa Hạ cũng không lý giải được những khái niệm của một lý thuyết mà được coi là của họ . Những mâu thuẫn trong thuận tự lịch sử thời gian hình thành thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch trong cổ thư chữ Hán đã xác định nền văn minh Hoa Hạ không phải cội nguồn của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Muốn lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về văn minh Hoa Hạ thì phải viết lại toàn bộ xuất xứ theo thuận tự nói trên, mà chính bản văn chữ Hán ghi nhận. Nhưng như vậy thì tức là tự phủ nhận toàn bộ lịch sử hình thành Thuyết âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch từ cổ thư chữ Hán. II – NỘI DUNG THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ KINH DỊCH TRONG BẢN VĂN CHỮ HÁN. Một học thuyết phải có một nội dung hợp lý với chính nó, cho dù chỉ là một sự hợp lý hình thức với những giả qui luật. Như vậy chỉ với tính mâu thuẫn trong lịch sử hình thành Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán, cũng đủ chứng tỏ nền văn minh Họa Hạ không thể là chủ nhân của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Khi những thuận tự xuất hiện trong lịch sử thời gian của nó hoàn toàn bất hợp lý theo kiểu: "Sinh con rồi mới sinh cha. Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông". Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng ở đây. Một bằng chứng sinh động nữa không kém phần quan trong và xác minh một cách rõ nét nhất rằng: Nền văn minh Hoa Hạ không thể là chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch chính là nội dung của nó. Mâu thuẫn trong nội dung của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán thể hiện ở những vấn đề quan yếu sau đây: II – 1: Nền tảng tri thức phổ biến trong văn hóa Hán và thuyết Âm Dương Ngũ hành với Kinh Dịch. Trên thực tế, một học thuyết xuất hiện phải trên cơ sở nền tảng tri thức phổ biến của xã hội đó để có thể tiếp tục những khái niệm của nó. Nhưng trong thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch lưu truyền trong cổ thư chữ Hán lại không thỏa mãn điều kiện này. Ngay bây giờ, chính Thiệu Vĩ Hoa - được coi là truyền nhân đời thứ 20 của Thiệu Khang Tiết - một danh gia đời Tống công bố Mai Hoa Dịch số - cũng không biết căn cứ vào đâu để có bảng Lục Thập Hoa giáp. Ông ta đã thừa nhận điều này trong các tác phẩm của mình. Đồng thời ông ta cũng xác định rằng: Đã nhiều thế kỷ, những nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng không thể hiểu được vì sao có bảng Lục thập hoa giáp. Thật là vô lý hết sức, khi mà cả một nền văn minh tự coi là cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành mà lại không thể biết được tổ tiên của họ căn cứ vào đâu để có chính những sản phẩm ứng dụng truyền lại. Điều này tự thân nó xác định rằng: Xã hội Trung Hoa cổ không phải là nền tảng tri thức để hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Đấy cũng chỉ là một thí dụ. Còn rất nhiều những khái niệm mơ hồ và mâu thuẫn ngay trong nội dung của học thuyết này mà chính những nhà nghiên cứu Hoa Hạ hiện đại cũng không giải thích được. Phong trào phủ nhận Đông Y và phong thủy vốn được coi là có xuất xứ Hoa hạ của chính các học giả Trung Quốc hiện đại chứng đỏ điều này. II – 2: Mâu thuẫn từ nguyên lý căn để của học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch từ cổ thư chữ Hán. 2 - 1: Hà Đồ và Tiên thiên Bát quái. Đồ hình dưới đây miêu tả cửu cung Hà Đồ phối với Tiên Thiên Bát quái, được cho là của vua Phục Hi phát hiện trên lưng con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng Hà và nghĩ ra Tiên Thiên Bát quái phối với Hà Đồ. Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái theo cổ thư chữ Hán. Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống – chúng ta nhận thấy: * Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa/ Chính Nam trên Hà đồ. Như vậy Hỏa vị khắc Kim quái. * Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 2 là Âm Hỏa/ Đông Nam trên Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Hỏa vị khắc Kim quái. * Ly (Hỏa) nằm ở độ số 3 Dương Mộc/ Chính Đông của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị sinh Hỏa quái. * Chấn (Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị hòa Mộc quái. * Khôn (Thổ) nằm ở độ số 1 Dương Thủy/ Chính Bắc của Hà đồ. Như vậy, Thổ quái khắc Thủy vị. * Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 6 Âm Thủy/ Tây Bắc của Hà đồ. Trường hợp này: Thổ quái khắc Thủy vị. * Khảm (Thủy) nằm ở độ số 9 Dương Kim/ Chính Tây của Hà đồ. Trường hợp này Kim vị sinh Thủy quái. * Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim/ Tây Nam của Hà đồ. Trường hợp này, Kim vị khắc Mộc quái. Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ. Có người dẫn sách khác cho rằng vị trí sắp xếp trên Càn - nằm ở phương Nam là không chính xác mà Càn nằm ở vị trí chính Bắc, Khôn nằm ở vị trí chính Nam trên Hà đồ. Tương quan các vị trí của các quái trong Bát quái Tiên thiên không thay đổi. Chúng tôi đã sắp xếp theo vị trí được đặt ra ở trên và thể hiện dưới đồ hình sau đây. Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái II Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống. * Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 1 Dương Thủy / Chính Bắc, * Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 6 là Âm Thủy/ Tây Bắc trên Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Kim quái sinh Thủy vị * Ly (Hỏa) nằm ở độ số 9 Dương Kim / Chính Tây của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Hỏa quái khắc Kim vị. * Chấn (Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim / Tây Nam của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Kim vị khắc Mộc quái. * Khôn (Thổ) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa / Chính Nam của Hà đồ. * Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 2 Âm Hỏa / Đông Nam của Hà đồ. Trường hợp này: Hỏa vị sinh Thổ quái. * Khảm (Thủy) nằm ở độ số 3 Dương Mộc / Chính Đông của Hà đồ. Trường hợp này Thủy quái sinh Mộc vị. * Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Trường hợp này, Mộc quái tương hòa Mộc vị. Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng: Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ đã được thay đổi như trên. Trên thực tế, với tương quan của đồ hình Tiên thiên bát quái thì dù bạn đọc có xoay như thế nào cũng không thể nào tìm được sự tương thích giữa quái vị và phương vị trên cơ sở Ngũ hành của Hà đồ và Ngũ hành của bát quái. Để tiếp tục tìm sự bí ẩn qua câu hỏi này, chúng ta tiếp tục quán xét sự tương thích theo cổ thư chữ Hán là: “Hậu thiên bát quái bản Lạc thư dã” (Đồ hình Hậu thiên bát quái xuất phát từ với Lạc thư - Chu Hy). Xin quí vị quan tâm xem hình dưới đây: Đồ hình Cửu cung Lạc thư theo cổ thư chữ Hán Hậu thiên bát quái Văn Vương liên hệ Lạc thư theo cổ thư chữ Hán Như vậy, với ngay cả Hậu thiên bát quái vốn là một cơ sở của những phương pháp ứng dụng bao trùm trên mọi lĩnh vực cũng không hề có sự tương thích với Lạc thư. Đây chính là nguyên nhân để học giả uyên bác Nguyễn Hiến Lê cho rằng: ”Nhất là so sánh những hình đó với hình Bát quái thì dù giàu trí tưởng tượng tới mấy cũng không thể bảo rằng Bát quái phỏng theo hai đồ hình đó được”. (Kinh Dịch - Đạo của người quân tử) Chính vì tính bất hợp lý của sự liên hệ ngay từ nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành là “Tiên thiên Bát quái phối Hà đồ” và “Hậu thiên Bát quái với Lạc thư” – được lưu truyền trong cổ thư chữ Hán từ hàng ngàn năm nay – đồng thời với sự xuất hiện muộn màng đến mức phi lý của những đồ hình này trong lịch sử văn minh Hán so với chính bản văn chữ Hán về sự xuất hiện của nó, đã cho thấy những mâu thuẫn rất căn bản ngay trong nội dung cua 3thuyết Âm Dương Ngũ hành theo cổ thư chữ Hán. Đồng thời đó cũng chính la 2nguyên nhân để có những kết luận sai lầm cho rằng: 1) Âm Dương trong Kinh Dịch không liên quan gì đến Ngũ hành. 2) Âm Dương Ngũ hành là của người Việt và Bát quái là của người Hán. Hai học thuyết này hoà nhập vào thời Hán. Những sai lầm của luận điểm này vì những nhà nghiên cứu đã không xuất phát từ một tiêu chí và phương pháp luận khoa học. Họ chỉ nhìn thấy một cách trực quan từ những nội dung trong bản văn chữ Hán và không biết rằng cổ thư chữ Hán Không phải là những căn bản hoàn chỉnh về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chính từ những sai lầm từ nguyên lý căn để ngay trong nội dung của nó, khiến cho dù có sự cố gắng trải hơn 2000 năm, người Hán và cả thế giới này vẫn không thể tìm ra những bí ẩn của nền văn minh Đông Phương. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. III – NỘI DUNG THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG BẢN VĂN CHỮ HÁN KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG PHẢN ÁNH THỨC TẠI KHÁCH QUAN. Một học thuyết ra đời phải xuất phát từ một thực tại khách quan trong quá trình tiến hóa và phát triển của nhận thức - Từ trực quạn sinh động đến nhận thức thực tại và cuối cùng là hình thành tư duy trừu tượng khái quát thực tại và sự tổng hợp những nhận thức đó tiến đến hình thành một học thuyết giải thích các hiện tượng nhận thức được. Dù đó là học thuyết gì, nhân danh tôn giáo, tâm linh, sự sai lầm hay đúng đăn, đúng một phần hay toàn bộ thì nó vẫn phải có một hiện thực để phản ánh mà con người nhận thức được. Thí dụ như cách giải thích theo tôn giáo cho các học thuyết tôn giáo: Giải thích từ sự hình thành vũ trụ - do ý muốn của Thượng Đế, cho đến sự vận động của các thiên hà, đến mọi hiện tượng ...đều do ý muốn của Thượng đế. Thuyết tôn giáo này giải thích thực tại khách quan mà con người nhận thức được. Thuyết tôn giáo này có tính hệ thống, tính nhất quán và nó giải thích một cách hợp lý trên cơ sở phương pháp luận của nó. Nhưng nó không mang tính khoa học vì thiếu tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Chẳng ai đoán được Thương Đế muốn cái gì và ý muốn của Thượng Đế thì không tuân thủ theo quy luật nào. Nhưng, trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành thì chúng ta không thể lý giải được chúng phản ánh một thực tại nào làm nên khả năng tiên tri của Dịch và các bộ môn tiên tri. Những khái niệm rất mù mờ: Quẻ Càn vừa là trời, vừa là cha, vừa là con ốc, vừa là con ba ba....vv....Hoặc oái oăm hơn - Trong Phong Thủy thì Khôn lại tượng cho người đàn ông chứ không phải đàn bà, mẹ...vv...như trong Dịch học. Vậy bản chất của chúng là gì? Hoặc Cấn là núi, Đoài là đầm ..không lẽ trước khi vũ trụ hình thành đã có núi, có đầm? Đây cũng là thắc mắc của các nhà nghiên cứu Dịch ở miền Nam trước 1975. Hay nói chính xác hơn, người ta không thể hiểu được vì sao lại có mối liên hệ với các thực tại trên với nội dung các quẻ được miêu tả trong các bản văn chữ Hán. Nhưng khả năng tiên tri trong các phương pháp dự báo với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì cực kỳ huyền vĩ. Có thể nói rằng: Không có một lý thuyết khoa học hiện đại nhất được vinh danh trong thời đại hiện nay, có thể tạo ra những phương pháp tiên tri như vậy. Tuy nhiên, có thể nói rằng: Mặc dù trong các bản văn chữ Hán, thiếu hẳn tính hợp lý cho việc giải thích các vấn đề liên quan, thiếu tính nhất quán, tính hoàn chỉnh, nhưng đầy đủ tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri, thể hiện trong các phương pháp ứng dụng. Hay nói cách khác: Đây chính là hệ quả và những yếu tố phù hợp với tiêu chí khoa học cho một học thuyết khoa học. Cả thế giới đã chú ý đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã bốn lần tổ chức những cuộc hội thảo với qui mô hoàng tráng tại Bắc kinh - Thủ đô của nền văn minh Hoa Hạ - nơi được cả thế giới cho rằng là cội nguồn của nền văn minh Đông phương, nhưng họ đã không thu được kết quả nào từ những cuộc hội thảo hoàng tráng ấy. Người ta không thể lần ra manh mối những thực tại nào được phản ánh trong các khái niệm liên quan từ các bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. IV – KẾT LUẬN Như vậy, xét trên ba tiêu chí cho một lý thuyết khoa học là: Tính lịch sử, tính nhất quán và hợp lý trong nội dung, tính phản ánh thực tại khách quan đều không thể thỏa mãn cho việc Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch có cội nguồn từ văn minh Hán. Cho đến ngày nay, toàn bộ những di sản của thuyết Âm Dương Ngũ hành có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán vẫn dậm chân tại chỗ và không hề phát triển. Ngay tại Trung Quốc, nơi được coi là cội nguồn Lý học Đông phương thì chính các học giả Trung Quốc cũng lên tiếng đòi dep bỏ Đông y, coi Phong thủy chỉ là sự bịp bợm. Sự bế tắc cả hàng ngàn năm trong bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành là một minh chứng xác đáng tính mơ hồ và không có đủ khả năng phản ánh một thực tại khách quan trong các bản văn chữ Hán. Nên nó đã bị phủ nhận bởi chính người Trung Quốc và ngay cả những học giả uyên bác, cũng cho rằng: Lý học Đông phương chỉ truyền lại bởi trực giác và kinh nghiệm. Cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch không thuộc về nền văn minh Hoa Hạ thì nó từ đâu tới? Trong lịch sử văn minh Đông phương, ngay bên cạnh nền văn minh Hoa Hạ từ hơn 2000 năm trước, đã tồn tại một nền văn minh huyền vĩ với danh xứng văn hiến. Đó là quốc gia Văn Lang dưới triều đại của các vua Hùng có biên giới Bắc giáp Động Đình hồ; Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba thục và Đông giáp Đông Hải. Việc mình chứng cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về nền văn hiến Việt cũng chính là một minh chứng sắc sảo: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và biên giới Văn Lang một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương tử: Danh xưng văn hiến của dân tộc Việt chính bởi căn cứ vào một học thuyết xuyên suốt giải thích từ sự hình thành vũ trụ, cho đến mọi vấn đề liên quan đến con người, từ những thiên hà khổng lồ đến các hạt vật chất nhỏ nhất. Bạn đọc có thể coi như đây là một giả thuyết và sẽ được tiếp tục minh chứng ở các bài viết tiếp theo. ------------------------------------ Tài liệu tham khảo: - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại. Nxb VHTT 2002. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Nxb VHTT 2002. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt. Nxb VHTT 2002. Nguyễn Vũ Tuấn Anh. - Định mệnh có thật hay không? - http://www.lyhocdongphuong.org.vn1 like
-
Bị ngăn cản kết hôn vì không hợp tuổi Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. From: Xuân Thu Sent: Thursday, November 25, 2010 2:44 PM Kính gửi các anh chị Ban biên tập mục Tâm sự! Tôi viết câu chuyện của tôi với mong muốn duy nhất là có thể chia sẻ lòng mình cả với những người tôi không hề quen biết dù câu chuyện của tôi có lẽ đã thuộc vào đề tài quá cũ. Hơn 4 năm trước đây tôi đã gặp và nhận lời yêu người yêu tôi bây giờ. Tình cảm của chúng tôi đã trải qua rất nhiều sóng gió với hiểu lầm, không liên lạc và xa cách. Nhưng khi gặp lại nhau vào năm ngoái, cả hai chúng tôi đã quyết định quay lại. Chúng tôi là tình yêu đầu đời trong sáng và đã có rất nhiều kỷ niệm vui buồn, những lúc vượt qua khó khăn luôn ở bên nhau. Giờ đây khi cả hai có công việc ổn định và có thể tiến đến hôn nhân thì tình yêu của chúng tôi cũng đang đi đến lúc bế tắc vô cùng chỉ vì một lý do duy nhất: tôi và anh kỵ tuổi nhau. Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Đọc đến đây có thể rất nhiều người sẽ nói rằng thời buổi nào rồi mà còn coi trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nhưng có thể các anh chị nằm trong số ít không coi trọng chuyện này. Trong khi đó người Việt Nam rất xem trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nếu lấy nhau trong sự ngăn cản quyết liệt của gia đình 2 bên hẳn tôi và anh đều sẽ không thực sự hạnh phúc. Tôi có thể khẳng định chúng tôi yêu nhau rất nhiều và tình yêu đã đủ lớn, đã được thời gian chứng minh. Nhưng tôi cũng không hiểu sao giờ đây tôi đang quyết định không liên lạc với anh để chúng tôi suy nghĩ lại chuyện này. Tôi có cảm nhận rằng tình yêu của tôi sắp ra đi. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. Các anh chị ai đã có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này xin hãy chia sẻ cùng tôi. Hiện tại tôi cảm thấy hụt hẫng trong lòng. Rất mong Ban biên tập đăng bài viết này của tôi để tôi có thể tìm ra hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Chân thành cảm ơn anh chị! Thu http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/11/3BA237EF/ Hai mối tình của tôi đều tan vỡ vì không hợp tuổi Khi cô ấy nghe nói không hợp như vậy thì tinh thần yêu đương tan biến đi đâu mất và xoay 180 độ. Cô ấy nói thôi mình chỉ có duyên phận tới đó, dừng lại là đúng mức rồi. Tôi nghe mà không tin vào tai mình nữa. (Hung) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23EAB/ Đau khổ khôn nguôi sau mối tình kỵ tuổi Phải chia tay anh, tôi hụt hẫng, đau khổ, mất niềm tin. Hơn một năm đầu tiên tôi đã đi tìm anh, nấp ở một góc nào đó để đợi anh đi làm về, để thấy bóng dáng anh cho đỡ nhớ, cho đến ngày anh có người khác thì tôi không còn đến tìm anh nữa. (Hien) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23E2C/ -------------------------------------- Bài trả lời của TTNC Lý Học Đông Phương Kính gửi ban biên tập mục Tâm sự và quý bạn đọc, Mấy hôm nay chúng tôi theo dõi mục tâm sự và cảm thấy khá bức xúc vì các vấn đề về tuổi hợp hay không hợp trong hôn nhân. Là những người đã và đang nghiên cứu văn hóa truyền thống, nghiên cứu hệ thống lý học Phương Đông nên chúng tôi cũng muốn có đôi lời chia sẻ với quý bạn đọc.Chúng tôi viết bài này nhằm cung cấp cho quý vị quan tâm một cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tuổi và tương tác tuổi trong mối quan hệ nam nữ. Trong truyền thống văn hóa Á Đông, lúc cưới vợ gả chồng thì những người có tuổi trong gia đình đều quan tâm đến vấn đề luận tuổi. Nhưng qua thời gian cũng như thăng trầm của lịch sử, ngày nay, việc luận tuổi đã bi thất truyền dẫn tới những quan niệm chưa chính xác, lệch lạc và trở thành một nỗi lo sợ vô lý cho các cặp trai gái yêu nhau muốn tiến đến hôn nhân. Và cũng qua cả ngàn năm nay, sự thất truyền, tam sao thất bản đã dẫn đến những phương pháp luận tuổi không đầu không đuôi, gây ra những cảnh dở khóc dở cười, chia ly vô cớ và đầy nước mắt của những đôi yêu nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay đa số các “thầy” xem tuổi đều áp dụng phương pháp cung phy. Có 8 cung phi cho nam (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn) và 8 cung phi tương tự cho nữ, kết hợp lại sẽ cho ra 64 trường hợp, hay còn gọi là 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Khảm, Đoài – Ly, Cấn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ : Sinh Khí – Diên Niên – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy chỉ có 64 trường hợp tương tác tuổi. Chúng ta thử làm phép tính nhỏ, với nhân loại mấy tỷ người mà chỉ có 64 trường hợp để xem tốt xấu thì xác xuất giống nhau là rất lớn. Cứ 64 cặp thì có 1 cặp giống nhau. Có thể thấy rằng đây là điều thiếu logic. Ngoài ra, còn có phương pháp ít phổ biến hơn, đó là phương pháp Cao Ly Đồ Hình. Phương pháp này lấy 10 thiên can theo tuổi nam phối 12 địa chi theo tuổi nữ, sau đó sẽ có 1 bảng phân loại và định tuổi cát-hung. Nếu ta lấy 6 tỷ người trên thế giới và giả định có 1 tỷ cặp vợ chồng với trung bình có 4 con một cặp (ứng với 6 tỷ), đem chia cho 120 trường hợp thì ta sẽ có: 1000. 000. 000: 120 = Gần 8.300.000 triệu cặp vợ chồng có chung một hoàn cảnh. Chỉ cần 3/ 10 trong số 120 trường hợp phối cung đó chia ly hoặc chết thì ta sẽ có 8.300.000 x 36 = 298. 800. 000 cặp vợ chồng ly tan. Và hơn 1 tỷ trẻ em mồ côi trên thế gian này. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng trong dân gian vẫn lưu giữ và truyền miệng những câu như “Dần Thân Tỵ Hợi” “Tý Ngọ Mão Dậu” “Thìn Tuất Sửu Mùi” là Tứ hành xung, hoặc “Canh cô Mậu Quả”, “gái tuổi Dần”, nhưng người ta quên rằng đằng sau những câu trên là cả 1 hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh các mối quan hệ của Thiên can, Địa chi, mạng. Qua các phương pháp trên, các bạn cũng có thể nhận thấy thiếu sự hợp lý và khập khiễng trong phương pháp luận tuổi. Nhưng đáng tiếc là sự coi tuổi khập khiểng này đã tồn tại trên thực tế và ăn vào tiềm thức của các bậc ông bà cha mẹ, làm họ tin một cách mù quáng. Các phương pháp coi tuổi vợ chồng khập khiễng trên từ những vị thầy nửa mùa, chẳng hiểu thấu lý, nên vô tình đã để lứa đôi tan nát. Để thay đổi những quan niệm sai lầm trên, chúng tôi cần thấy phải có một phương pháp hoàn chỉnh, logic, nhằm giúp cho những đôi lứa yêu nhau đến được với nhau. Chính vì vậy chúng tôi, những người làm công việc nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã tổng hợp, nghiên cứu và kiểm nghiệm để có được một phương pháp luận tuổi đúng đắn, hợp lý và mang tính khái quát cao nhất. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Luận Tuổi Lạc Việt” với sự điều chỉnh mạng Thủy – Hỏa trong Lạc Thư Hoa Giáp so với Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc nhằm chứng mính cách so tuổi vợ chồng còn sót lại trong dân gian hiện nay chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hoàn chỉnh dẫn đến những sai lầm tai hại. “Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy” là quan điểm của chúng tôi. Ngoài ra, tương quan vợ chồng chỉ là những điều kiện ban đầu, khi gia đình có con thì tương quan này sẽ thay đổi tốt hoặc xấu phụ thuộc vào tuổi đứa con có hợp với cha mẹ hay không, đặc biệt là con út! Ông bà ta có câu “giàu con út, khó con út” Theo phương pháp này, tương tác giữa người với người xảy ra ở cả 3 yếu tố Thiên can, Địa chi và Mạng thông qua mối quan hệ về ngũ hành sinh khắc và nguyên lý âm dương. Như vậy, để dể hình dùng, ta có thể làm phép tính như sau : 60 tuổi nam phối 60 tuổi nữ, cùng với tuổi của 60 đứa con út có khả năng sinh ra theo tương quan tuổi vợ chồng, Tức là ta sẽ có: 60 x 60 x 60 = 216.000 trường hợp khác nhau. Xác xuất để tinh toán cao hơn nhiều lần so với các phương pháp trên. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến các cách cục tốt trong việc phối tuổi vợ chồng và con cái trong gia đình. Nhưng vấn đề không dừng lại ở những con số khô khan và phương pháp lạnh lùng. Phương pháp “Luận tuổi Lạc Việt” còn có tính nhân bản ở chỗ là nó khẳng định một cách hợp lý theo thuyết Âm Dương Ngũ hành về tình yêu nam nữ -"Yêu nhau cứ lấy" và sinh đứa con chính là nguồn hạnh phúc gia đình, dù tuổi cha mẹ có khắc nhau đi chăng nữa. Và một vấn đề chúng tôi cũng muốn chia sẻ với quý bạn đọc, đó là “tuổi tác” là một trong những điều kiện tương tác mang tính căn bản ảnh hưởng đến một hoặc nhiều mối quan hệ giữa người với người, chứ không có nghĩa tuổi tác sẽ quyết định mọi thứ diễn ra xung quanh bạn. Có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, mỗi gia đình như : hoàn cảnh gia đình, công việc, thu nhập, tính cách cá nhân… Chính vì vậy khi gặp các vấn đề nan giải trong cuộc sống, các bạn không nên quy hết vào lý do… không hợp tuổi, để rồi có những đáng tiếc xảy ra và xã hội lại tiếp tục duy trì những quan niệm không chính xác về việc xem xét tương quan tuổi giữa người với người! Xin chân thành cám ơn quý báo và quý bạn đọc. Thiên Luân Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.1 like
-
TRÙNG TANG LIÊN TÁNG - MỘT VÀI ĐIỀU CẦN BIẾT . 1/ KHÁI NIỆM TRÙNG TANG LIÊN TÁNG . Trùng tang liên táng là một hiện tượng có thật trong cuộc sống của chúng ta . Không có nhiều tư liệu viết về hiện tương này , nhưng trong dân gian vẫn truyền tụng với nhau những trường hợp chết phạm vào Trùng tang liên táng hết sức đau thương , thậm chí có nhà nhân đinh đông đúc là thế mà chỉ vài ba năm phải chịu cảnh tuyệt tự . Tại miền Bắc Việt Nam có một trung tâm nhốt Trùng lớn nhất nước : Đó chính là chùa Hàm Long ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh .Chùa được xây dựng vào thời Lý, tương truyền đây là nơi tu hành của Thiền sư Dương Không Lộ. Nơi đây từ ngày xưa , các vị sư tăng đã có những phương pháp Trấn Trùng rất huyền bí mà hiệu quả . Hàng ngày , vào buổi chiều , các sư ở đây phải nấu một nồi cháo to , cúng thí thực cho Trùng và vong bị nhốt ở đây, bữa nào quên là gà vịt của dân quanh vùng thay nhau chết la liệt . Ngoài ra , tại miền Bắc Việt Nam , từ xưa đã có các môn phái Pháp Sư theo Bắc Tông , Pháp sư các môn phái Phù thủy của đồng bằng bắc Bộ nhất là tại các tỉnh Bắc Ninh , Hải Phòng , Nam Định ... có khả năng hóa giải Trùng tang liên táng rất hay . Thông thường , các vị sư trong chùa chỉ học theo đạo Phật chứ ít khi học theo kiểu Pháp sư , Phù Thủy , thế nhưng đặc biệt ở chùa Hàm Long - Bắc Ninh , Liên Phái - Hà Nội và một vài chùa nữa lại có những bộ ván khắc in phù giải Trùng tang liên táng từ hàng trăm năm . Theo Nguyên Vũ đã viết : "Hàm long : Chỉ nghe tên thôi cũng đã gợi lên một điều gì đó về ngôi chùa rồi. Dọc theo đường quốc lộ số 1 chỗ rẽ đi Cẩm Phả, xuất hiện một dãy núi lớn, dài 3,4 cây, ta tìm đến đầu của dãy đó là nơi toạ lạc của chùa Hàm long. Nơi đây cũng là trường trung cấp Phật giáo của tỉnh Bắc ninh. Về thế đất Tân long, huyệt kết oa, Long, hổ hoàn mỹ, ngoại minh đường rộng rãi có sông lớn chảy qua nhưng không được đẹp. Ngoài ra còn có Tứ linh chầu vào. trong chùa còn có một cây tháp đá rất cổ, thường có nước rỉ ra từ đó. tương truyền nơi đây là nơi nhốt trùng rất lớn. Tôi có một người bạn thân đã từng tu hành ở đây nói với tôi " ngày nào chùa cũng phải nấu một nồi cháo to để cúng, nếu không gà chó của dân địa phương tự nhiên lăn ra chết rất nhiều. " Trùng tang liên táng thường có các dạng như sau : " *Trùng 3 ngày( tức là trong gia đình họ hàng sẽ có người chết theo ngay, tính từ lúc có người chết trùng cho đến 3 ngày sau. Nhiều khi người này chưa kịp chôn thì người tiếp theo đã chết.Đây là trùng tang nặng nhất, làm cho gia đình không kịp trở tay vì cũng chưa biết là có chết trùng. ). * Trùng tuần đầu( tính từ lúc chết cho đến hết tuần đầu, đây cũng là trùng tang khá nặng và có thể kéo dài đến 49 ngày- tức là cúng 49 ngày đó. * Nhẹ hơn nữa tức là xảy ra vào những ngày sau đó, kéo dài cho đến hết 3 năm và có thể hơn tuỳ thuộc vào thời gian bốc mộ lên mộ tròn. Nhiều khi sự việc xảy ra vào đúng ngày cuối cùng ngay trước hôm bốc mộ do gia đình không kiêng khem cẩn thận. Sở dĩ nói trùng này là nhẹ nhất vì gia đình có nhiều thời gian để đi cứu giải. - Việc trùng nặng hay nhẹ do giờ của người chết trùng quyết định. Việc này nên nhờ các ông thầy hoặc các nhà sư cao tay xem cho. Vì vậy khi nhà có người mất thường nên đi xem ngay để nếu không may chết trùng gia đình còn kịp xoay xở. *Cách giải: - Nhà có người chết trùng phải lập tức gửi người đó lên chùa, tuy nhiên không phải chùa nào cũng giữ được vong chết trùng. Nó phụ thuộc vào sự linh thiêng của chùa và mức độ cao tay của vị sư trụ trì. Nếu trùng nhẹ các bạn có thể gửi lên một ngôi chùa nào đó gần nhà, các nhà sư sẽ hàng ngày đọc kinh niệm phật cho vong hồn siêu thoát( hay nói đúng ra là nhốt vong vào trong ngục, không cho đi lung tung kẻo quỷ sứ bắt được nó sẽ tra tấn và khai ra tên họ người nhà, càng những người hợp với vong chết trùng càng dễ bị bắt). - Nếu trùng nặng, tôi khuyên chân thành bạn phải gửi ngay vào chùa Hàm Long, dù có ở trong Nam thì cũng nên cấp tốc đi máy bay ra mà gửi. Các chùa khác nổi tiếng về cái gì thì tôi không biết nhưng đệ nhất giữ vong phải là chùa Hàm Long ( Ở Thành phố Bắc Ninh). Đây là ngôi chùa cổ mấy trăm năm nằm trên sườn núi, địa thế rất đẹp. Chùa có những cây cổ thụ cực to, và cũng là một trong những nơi đào tạo các nhà sư ở Việt Nam. Từ trong nam ngoài bắc trùng tang đều đem về đó gửi. Hàng ngày vào buổi sáng tôi thấy các nhà sư tụng kinh niệm phật cúng vong rất cẩn thận. - Khi gửi vào chùa rồi, bạn có thể yên tâm ăn ngủ nếu thực hiện đúng các điều sau( các nhà sư chắc cũng sẽ nói lại cho bạn nếu bạn đến đó): 1- sau khi gửi lên chùa, ở nhà không được lập bàn thờ cúng bái người đã chết nữa kể cả ngày giỗ tết, vì có hương là có hồn, chỉ cần bạn đốt hương và đọc tên người chết thì đó coi như chìa khoá mở ngục cho vong thoát ra ngoài. 2- Khi đưa vong lên chùa phải nhờ người không phải là họ hàng, nếu nhờ được bạn bè là tốt nhất, còn nếu không cũng phải nhờ người bên họ ngoại. Vì vong chết trùng thường rất khôn ngoan, nếu thấy người quen đưa đi thì thường nó sẽ đi theo về hoặc tệ hơn là nó đã biết trước và không đi theo. Thế nên không nên bàn chuyện đưa tiễn vong lên chùa ở nhà người chết.3- sau khi nên mộ tròn tức là người chết đã về với tổ tiên, mới được thờ cúng lại bình thường. * Có một nhà sư đã nói đặc điểm của người chết trùng (không phải ai chết trùng cũng có đặc điểm này, tôi chỉ ví dụ để bạn tham khảo thôi)là : dù có ốm thập tử nhất sinh người đó vẫn luôn tin mình sẽ sống ( kể cả là ung thư giai đoạn cuối thì vẫn tin có phép tiên), nên nếu bạn có hỏi xem người ấy có muốn trăn trối gì không thì họ thường lảng tránh câu đó không muốn trả lời. Thêm nữa nếu mất trong khoảng giữa đêm hoặc gần 6h sáng thì cũng nên cẩn thận vì đó là giờ quan, nên đi xem xét cho cẩn thận kẻo bị trùng tang mà không biết. * Ở chùa Hàm Long có các lá bùa để gia đình đeo vào trong khoảng 3 năm để tránh tai hoạ, tôi thấy một mặt là chữ nho một mặt là phật bà. * Rất tiếc là tôi không nhớ địa chỉ cụ thể, tuy nhiên bạn có thể đi đường cao tốc về thành phố Bắc Ninh, có 1 cái cầu vượt, tay trái đi vào thị xã, tay phải đi về phía chùa. Tuy nhiên chùa ở núi nên còn đi vào khá xa, tôi chỉ nhớ là có đi qua nhà máy kính nổi. sau đó thì bạn hỏi đường tiếp nhé, vì nó khá nổi tiếng mà,với lại cũng có biển chỉ đường đi về chùa đó. Tôi đã đi nhiều chùa nhưng đó là ngôi chùa cổ u tịch nhất mà tôi biết, khi tôi đến đó thấy cả dãy dài ô tô từ tứ phương đổ về- thường là những người đi gửi vong chứ ít ai đi vãn cảnh chùa lắm có lẽ vì tâm lý đó là nơi giữ vong, mọi người đến thường xong việc đi luôn, chắc cũng vì sợ ở lâu chỉ thêm đau long do thương xót người đã mất. Các gia đình sau khi gửi vong thường chỉ thực hiện được một thời gian đầu những điều cần kiêng, sau vì thương tiếc người thân đã cúng lại vì sợ ma bị đói. Đây là điều cần hết sức tránh vì các nhà sư cúng bái còn cẩn thận hơn chúng ta nhiều. Có nhiều gia đình phải gửi đi gửi lại nhiều lần vì vong theo về, vì cúng khấn ở nhà. Vì vậy bạn nên tránh những điều tôi đã nói nhé. Bạn ạh, chết trùng hoàn toàn có thể khống chế được nếu làm đúng cách. Vài điều nhắn gửi, mong gia đình bạn bình an. " ( dienbatn quên nguồn ). "Theo quan niệm của lịch số Trung Hoa và trong dân gian nói chung thì ngày trùng tang là ngày đại kỵ trong việc an táng, chôn cất. Ngày này còn có tên là ngày cướp sát. Cách tính ngày trùng tang như sau: Đối với tuổi Thân, Tý , Thìn kỵ Tỵ. Có nghĩa là người chết tuổi Thân hay tuổi Tý hoặc tuổi Thìn mà mất vào năm Tỵ, tháng Tỵ, ngày Tỵ và giờ Tỵ là bị chết vào ngày trùng tang, tuyệt đối tránh an táng vào ngày Tỵ. Tương tự như thế đối với các tuổi Tỵ, Dậu, Sưủ kỵ Sưủ, Dần, Ngọ, Tuất kỵ Hợi, Hợi, Mão, Mùi kỵ Thân. Những ngày trùng tang này rất hiếm trong năm. Theo quan niệm dân gian, nếu chôn cất vào những ngày trùng tang này thì sau khi an táng xong, một thời gian ngắn sau có thể những người khác trong thân tộc sẽ chết theo. Trong trường hợp khoảng vài tuần, vài tháng hoặc trong vòng ba năm có nhiều người chết liên tiếp thì bị trùng tang liên táng. Ngày trùng tang (trùng nhật) là ngày Dần, Thân, Tỵ, Hợi cùng trùng ngày, trùng tháng và trùng năm. Như ngày Dần, tháng Dần và năm Dần; ngày Thân tháng Thân và năm Thân... gọi là những ngày trùng. Vào những ngày trùng, kiêng kỵ tẩm liệm, chôn cất và cải táng. Người chết với bất cứ tuổi nào cũng đều xung kỵ ngày này. Trong dân gian tin rằng nếu chôn cất vào ngày trùng ắt sẽ có một người thân bị chết theo, tuy vậy vẫn nhẹ hơn trùng tang liên táng. Đối với Phật giáo thì sống chết là chuyện thường nhiên, do nghiệp lực của tự thân mỗi người chi phối. Sống và chết chỉ là hai hiện tượng trong tiến trình luân hồi bất tận. Nghiệp tuy có chung và riêng, song nghiệp riêng vẫn giữ vai trò chủ động, quyết định và có tính cách độc lập, không ai có thể thay thế cho ai. Vì thế, Phật giáo không có quan niệm về ngày trùng tang, trùng nhật và hoàn toàn phủ nhận việc ngày giờ chôn cất của một người mà có thể ảnh hưởng đến sự sống chết của người khác. Tuy nhiên, vì tập tục này ăn sâu vào tâm thức mọi người nên một vài nơi, trong tinh thần phương tiện, nhà chùa vẫn khuyên các Phật tử không an táng thân quyến vào những ngày trùng, nhằm giúp họ an tâm để chu toàn tang lễ đồng thời nỗ lực cầu nguyện, khai thị, làm phước hồi hướng cho hương linh. Đây mới là những điều cần làm để " âm dương lưỡng lợi" theo quan điểm Phật giáo." ( dienbatn ghi lại từ nguồn - Tổ tư vấn báo Giác ngộ - UIA ) Trùng tang liên táng hoàn toàn có thật , bản chất của sự việc này ra sao thì chưa có một nghiên cứu nào khả dĩ có thể giải thích được . Trong quá trình nghiên cứu về hiện tượng này , dienbatn cho rằng đó tương tự như một loài vật sống ký sinh trên xác người chết phạm vào giờ trùng . Đó chính là một trường năng lượng xấu tồn tại cùng với trường năng lượng của người chết phạm trùng . Vì lý do " Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu " hay hiện tượng cộng hưởng tần số . . Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương :Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và tần số của Trùng ,nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào.Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống ,dòng họ.Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều,nên trong lý thuyết về Nhạc,loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia ).Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống. Chính điều này cũng giải thích được hiện tượng chỉ có những người cùng huyết thống với người chết phạm phải giờ trùng tang liên táng mới bị , còn những người khác và con Dâu , con Rể cùng sống trong gia đình không bị ảnh hường . CHÙA HÀM LONG - BẮC NINH Một tư liệu khác nữa dienbatn sưu tập : "Theo tín ngưỡng dân gian: Trùng tang là chêt trùng vào năm tháng ngày giờ. Theo tinh thần Phật giáo Chánh Tín: thì không kiêng cử ngày giờ. Mọi sự vật đều bị chi phối bởi luật nhân-quả. Bởi vì chúng ta còn là phàm nhân nên mọi người chúng ta cũng bị chi phối bởi các tín ngưỡng dân gian. Do đó, Đức Phật-Ngài không cho chúng Tăng xem bói, coi tướng ngày giờ. Nhưng để hóa độ chúng sanh, cho nên Chúng Tăng có vị đã làm những việc này, xem như là một phương tiện nưong vào đó để hóa độ chúng sanh vì chúng sanh tín ngưỡng như thế nên các Ngài mới phưong tiện mà độ để giúp cho họ có niềm tin vào Phật vào Chánh Pháp. Nhưng hỡi ơi! Vào thời này có vị lạm dụng những việc này để kiếm tiền làm ô danh cửa đạo. Thật đáng buồn thay! Trùng tang có phải xét trên nhiều yêu tố khác như: bị thư bị yếm, phong thủy......Nói chúng ta là những người học Phật tu nhân không tin những việc này, nhưng cũng cần biết để mà xử trí khi gặp phải các vấn đề này: như trường hợp nàng Ma Đăng Già dùng chú của Phạm Thiên cám dỗ Tôn Giả A Nan, Đức Phật Ngài thuyết Chú Lăng Nghiêm và Sai Ngài Văn Thù Sư Lợi dùng Chú Phật để hóa giải chú của Phạm Thiên mà giải cứu Ngài A Nan thoát khỏi vòng dây tình ái ( ai nhiều dâm dục hay để ngăn ngừa thì nên trì tụng Chú Lăng Nghiêm, do đó các Chùa thường hay trì tụng Chú này ). Tôi xin nói về vị nữ cư sĩ khơi nguồn Mật Tông cho tôi là Người Nam Vang ( Campuchia ), ba của vị này là Thầy tu sĩ Phật giáo Nam Tông chính thống, chính vị nữ cư sĩ này đã kể nhiều chuyện cho tôi nghe như: ở miền quê mé miền Tây, có một người ghét không thích gia đình nào đó, thế rồi họ liệng vô nhà đó, chỉ 1 tờ giấy trắng, rồi người trong nhà mở ra thế là lần lần cả nhà chết hết....còn nhiều chuyện dị kỳ. Dó đó, mọi sự việc phải xét nhiều mặt chứ không nên phiến diện một phía...... Trung Hoa không thích đất nước ta vì có nhiều Thánh nhân xuất hiện và có nhiều vị tướng tài. Do đó, họ đã dùng các nhà phong thủy phù thuật trấn ếm nguyền rủa nước ta bằng nhiều cách nhiều phương diện....Cũng như Ô Mã Nhi, một vị tương sang đánh nước ta từng có lời thề:" Đánh thua VN thì đội quần đàn bà ", do đó, phụ nữ ai mà bị rớt đồ xuống sông thừơng bị mắc đàn dưới. Thầy tôi đã ra tay chữa bệnh này rất nhiều và Thầy tôi cũng đã lập Đại trai đàn để giải lời thề cho Ô Mã Nhi cũng như anh em Ngô Đình Diệm.... thoát khỏi bị đọa ( Nếu vị nào am tường về binh pháp chắc biết Ô Mã Nhi ). Đàn này rất lớn xin nguyện lực sự gia trì lực của của Chư Tăng Ni hòa Thượng nhiều nơi ẩn mật tu luyệncùng Chư Phật Bồ Tát Thánh Hiền, dưới sự chẩn tế của các pháp sư....Do đó, một lời thề đến một lúc nào đó cũng bị phá vỡ, do nguyện lực niệm lực niềm tin Phật Pháp Tăng Tam Bảo chính thống, thì bị phá vỡ bởi sức mạnh của Diệu pháp nhằm lợi lạc cho nhân sinh. Mọi việc không qua luật nhân quả, không ngoài huyền cơ là vậy. ( dienbatn ghi từ Phổ Quảng ) 2/ CÁCH TÍNH TRÙNG TANG LIÊN TÁNG : CÁCH TÍNH TRÙNG TANG ( Nhớ tính theo tuổi âm lịch ) . KIỂM TRA TRÙNG TANG NGÀY MẤT : Theo sách “ Tam Giáo Chính Hội “ : Nam nhất thập khởi Dần thuận liên tiến,Nữ nhất Thập khởi Thân , nghịch liên tiến , Niên hạ sinh Nguyệt , Nguyệt hạ sinh Nhật , Nhật hạ sinh Thời . Ngộ Tý - Ngọ - Mão - Dậu Thiên di . Dần - Thân - Tỵ - Hợi Trùng tang . Thìn - Tuất - Sửu - Mùi Nhập mộ cát dã “. Từ 1 đến 9 tuổi không tính Trùng tang. " Xin ghi lại tính Trùng Tang theo cổ truyền: 1. Địa Chi trùng Trong 12 tuổi con giáp chết bất kỳ năm tháng nào cũng kỵ 4 ngày ần, Thân, Tỵ, Hợi. Mức độ "Trùng" nhẹ hay còn gọi "trùng phục" theo dân gian. Khi chôn cất hay cải táng cũng phải cữ ngày giờ trên. 2. Trùng tang liên táng 2.1 Tuổi Thân Tý Thìn chết năm tháng ngày giờ Tỵ. 2.2 Tuổi Dần Ngọ Tuất chết năm tháng ngày giờ Hợi. 2.3 Tuổi Tỵ Dậu Sửu chết năm tháng ngày giờ Dần. 2.4 Tuổi Hợi Mão Vị chết năm tháng ngày giờ Thân. Chết năm tháng ngày giờ trên gọi là trùng tang liên táng. Sợ nhất là Trùng Năm. Khi niệm, chôn người trong thân tộc cũng phải tránh những năm tháng ngày giờ trên ứng theo tuổi. Chết ngày giờ trên gọi là ngày giờ kiếp sát (theo Tứ trụ). Dân gian gọi là Cướp Sát. Nếu thân tộc bị vào trường hợp trên rất là kinh hoàng. Cần đến Thầy gấp. Nếu nhanh có thể là 3 giờ, 3 ngày, 3 tháng lâu thì 3 năm thì mới hết. 3. Kỵ tuổi khi niệm và chôn Có 3 tuổi phải kỵ. Con trai trưởng nam tuổi Dần; dâu trưởng nam tuổi Mão; cháu trưởng nam tuổi Thìn. Kỵ giờ Dần Mão Thìn khi niệm phải tránh đi. Người chết không có con, dâu và cháu trưởng trên thì cần tránh anh trưởng và cha mẹ. 1/. Trước tiên , ta khởi Đại -Tiểu -Số -liên -tiết , nam khởi tại Dần đi thuận , nữ khởi tại Thân đi nghịch , tính đến tuổi người mất thì dừng lại. VD : Người mất là nam 68 tuổi Tại Dần ta khởi 10 , Mẹo là 20 , Thìn là 30 , Tị là 40 , Ngọ là 50 , Thân là 60 , Dậu là 61 , Tuất là 62 , Hợi là 63 , Tý là 64 , Sừu là 65 , Dần là 66 , Mẹo là 67 , Thìn là 68. Đến đây là đã đến tuổi người mất , ta dừng lại , chờ...tính tiếp Bước II 2/. Kế tiếp , ta lấy cung kế đó khởi tháng giêng , tính đến tháng người mất VD tiếp : Giả như người mất ở trên là mất vào tháng 6 , ngày 9 , giờ Dần Ở trên ta đã đếm tới cung Thìn là tuổi người đó , vậy cung kế là cung Tị khởi tháng 1 , Ngọ là tháng 2 , Mùi là tháng 3 , Thân là tháng 4 , Dậu là tháng 5 , Tuất là tháng 6. Đến đây ta lại dừng lại...chờ xem tính tiếp thế nào nhé ! 3/. Ta lần lượt tính như thế với ngày , rồi giờ. VD tiếp :Ở trên ta đã có tháng 6 ở Tuất , vậy nhích tới Hợi là mùng 1 , Tý là mùng 2 , Sửu là mùng 3 , Dần là mùng 4 , Mẹo là mùng 5 , Thìn là mùng 6 , Tị là mùng 7 , Ngọ là mùng 8 , Mùi là mùng 9. Vậy thì tới cung Thân là giờ Tý , cung Dậu là giờ Sửu , cung Tuất là giờ Dần. Bây giờ ta chỉ việc tra vào xem các cung năm tháng ngày giờ rơi vào cung nào thôi : Các cung TÝ _ NGỌ _ MẸO _ DẬU là Thiên Di Các cung THÌN _ TUẤT _ SỬU _ MÙI là Nhập Mộ Các cung DẦN _ THÂN _ TỊ _ HỢI là Trùng Tang Vậy các cung của VD này là Nhập Mộ hết , vậy là người chết đó tận số rồi vậy. Như thế con cháu sau này sẽ làm ăn khấm khá. Thường thì có cung này có cung khác , hễ càng có nhiều cung Trùng Tang chừng nào thì việc Trùng càng bị nặng thôi." ( dienbatn ghi lại từ bạn đồng tu Pháp vân ). Theo duonghoainam61 : " Trong phép tính trùng tang ta phải biết tiên lượng :trùng ngày nặng nhất-Trùng thất xa. trùng tháng nặng nhì-Trùng tam xa. trùng giờ nặng 3-trùng nhị xa trùng năm nhẹ nhất -trùng nhất xa. Ngoài ra cứ chết vào năm tháng ngày giờ :lol:ần,thân,tỵ,hợi thì cũng bị trùng tang theo phương đồ trên .Năm tính năm,ngày tính ngày... Còn phải xem người chết chôn vào ngày nào nữa để tính, nếu chết chôn: -Tháng giêng:ngày 7-19 -Tháng 2,tháng ba:ngày 6-18-30. -Tháng tư:ngày 4-16-28. -Tháng năm,tháng sáu:ngày 3-15-27. -Tháng bảy:ngày 1-12-25. -Tháng tám,tháng chín:ngày 12-24. -Tháng mười :ngày 10-22. -Tháng 11-tháng chạp:ngày 9-21. Nếu người chết mà chôn vào các ngày trên thì trong vòng ba tháng hoặc là ba năm sẽ có cha mẹ ,con cháu,anh em ruột chết nữa.Bài này khá linh nghiệm xin nhớ kỹ. Khi thấy bị phạm những điều trên rồi ,gia chủ nên tìm thầy giải hạn ngay,nên tìm các thầy tu ,cao tăng,ngoài đời thường rất hiếm.Chớ coi thường. " Có thể nhìn bảng tính sau do dienbatn thực hiện , cũng thấy dễ dàng : LIÊN QUAN GIỮA CÁC TUỔI CẦN TRÁNH KHI PHẠM TRÙNG TANG . Sách cũng viết rằng : Trùng tang Nhất xa - Ba người chết theo . Trùng tang Nhị xa - Năm người chết theo , Trùng tang Tam xa - Bẩy người chết theo . Sinh năm Kỷ Dậu nên bị Phục tang tại Địa hộ Tỵ - Tam xa . Phục - Sự quay trở lại của Vong hồn . Trùng _ Sự nhập của Vong hồn vào người sống , bắt đi theo . Trùng tang ngày là nặng nhất . Trùng tang Tháng là nặng nhì . Trùng tang Giờ là nặng thứ ba . Trùng tang Năm là nhẹ nhất . KIÊNG KỴ : Người nhà kiêng người Tam hợp tuổi , kiêng tuổi xung , kiêng tuổi Hình với Vong mệnh . Kỵ Long - Hổ - Kê - Xà tứ sinh Nhân ngoại ( Người khách các tuổi Thìn - Dần - Dậu - Tỵ không được có mặt khi khâm liệm ) . Kiêng người có cung phi Bát trạch xung khắc với Vong mệnh . Kiêng khóc thành tiếng khi đang liệm . Một bài của Trường Minh ( NCD ) về Thần Trùng : VỤ 30 : THẦN TRÙNG . Cách này ở nhiều sách hay lầm lẫn với các ngày Trùng Tang , Tam Tang , Trùng Phục...Thần Trùng là trong gia quyến , thân chủ có người chết nhằm ngày đó , nếu không Nhương Ếm thì sẽ bị tai họa chết trùng , người ta gọi là Trùng Tang Liên Táng , trong thân sẽ có người chết tiếp. Những ngày đã nói ở trên không kỵ chết mà chỉ kỵ những việc an táng , tẩn liệm , mặc đồ tang , chôn cất , xả tang... Còn như chết nhằm ngày Thần Trùng mới đáng sợ. Sau đây là ngày Thần Trùng : _ Tháng 1,2,6,9,12 : Chết nhằm ngày Canh Dần hay Canh Thân là phạm Thần Trùng " Lục Canh Thiên Hình ". Nếu thêm thấy năm tháng cũng vậy là càng nặng. _ Tháng 3 : Chết nhằm ngày Tân Tị hay Tân Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Tân Thiên Đình " , nếu gặp thêm năm , tháng nữa càng nặng hơn _ Tháng 4 : Chết nhằm ngày Nhâm Dần hay Nhâm Thân là phạm Thần Trùng " Lục Nhâm Thiên Lao " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 5 : Chết nhằm ngày Quý Tị hay Quý Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Quý Thiên Ngục " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 7 : Chết nhằm ngày Giáp Dần hay Giáp Thân là pahm5 Thần Trùng " Lục Giáp Thiên Phúc " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 8 : Chết nhằm ngày Ất Tị hay Ất Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Ất Thiên Đức " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 10 : Chết nhằm ngày Bính Dần hay Bính Thân là phạm Thần Trùng " Lục Bính Thiên Uy ". nếu gặp thêm năm tháng càng nặng _ Tháng 11 : Chết nhằm ngày Đinh Tị hay Đinh Hợi là phạm Thần Trùng " Lục Đinh Thiên Âm " , nếu gặp thêm năm tháng càng nặng NCD 3/ CÁCH HÓA GIẢI TRÙNG TANG LIÊN TÁNG : ( Còn tiếp - dienbatn )1 like
-
1 like
-
Cái nhà này nhẹ thì mất mát phá sản, nặng hơn thì mất mạng. Không cần đợi 9 năm, theo tôi chỉ cần 1 năm nữa kết quả sẽ rõ. Giải pháp duy nhất giúp ông ta thoát khỏi rủi ro trên là ông ta phải thực tâm hiến tặng ngôi nhà này cho một múc đích xã hội nào đó, Tự nguyện hủy bỏ tất cả các quyền đối với ngôi nhà này.1 like
-
Theo mình thì năm sau bạn có cơ hội học tiếp, do có người giúp ( có thể là anh chị em trong nhà...) Công việc bạn sau này sẽ thay đổi chổ liên tục. Nhưng chỉ làm cấp thấp thôi.Công việc lận đận, mệt mỏi, có nhiều chuyện buồn. Bạn đang học bên ngành kinh tế thì cứ học tiếp đi ( để sau này có kinh nghiệm để kinh doanh)--->Để hậu vận khá giả hơn. Mình kinh nghiệm còn ít xem bạn chỉ tới đây thôi,để rõ hơn thì mời các bác có kinh nghiệm hơn vào xem.. Thân chào bạn.1 like
-
Vợ chồng cùng tuổi 1984 Giáp Tý. Mệnh Hải Trung Kim. Nguyên tắc hợp khắc tuổi con với cha mẹ như sau: Con phải hợp với Mẹ về Mạng và Địa chi, Con phải hợp với Cha về Thiên can. Có như vậy mới tốt. Nếu sinh 2012 Nhâm Thìn_ Hỏa. Như vậy Mạng con khắc cả mẹ lẫn cha. Xấu Địa chi Thân Tý Thìn tam hợp. Tốt Giáp Mộc Nhâm Thủy tương sinh. Tốt Nên không chọn năm 2012. Năm 2013 tương tự 2012 ------------------------------------------------- Nếu chọn năm 2016. Bính Thân mạng Thủy Mạng con hợp mạng mẹ, cha. Địa chi Thân Tí Thìn tam hợp Thiên can Bính Hỏa Giáp Mộc cũng tương sinh. Nếu sinh con trai sẽ tốt hơn sinh con gái.1 like
-
Những nghề sau đây thích hợp với cháu ;dược , designer hay máy móc kỷ thuật cao .1 like
-
Gia Cát Khổng Minh – từ chính sử đến tiểu thuyết Lê Thời Tân Trong giảng sử và tạp kịch Tống-Nguyên, Gia Cát Lượng trở thành nhân vật túc trí đa mưu có pháp thuật, nhuốm màu đạo sĩ thần kì. Giảng sử, bình thoại, hý khúc, kinh kịch - những thể loại nhắm tới đại chúng cũng thường thiên về tô đậm hình ảnh một vị quân sư thần mưu diệu toán, tiên phong đạo cốt, trong bất kỳ hoàn cảnh nguy nan nào cũng ung dung bình thản với cây quạt lông trên tay. Tác giả tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa đương nhiên cũng chú trọng khắc họa phong cách đó, thậm chí đã đẩy việc miêu tả phương diện thông minh tài trí lên đến một đỉnh cao điển phạm làm hình thành ấn tượng mà Mao Tôn Cương đã khái quát - ấn tượng về một đấng “tuyệt trí” bên cạnh một “tuyệt gian” Tào Tháo và “tuyệt nghĩa” Quan Công (Tam Quốc tam tuyệt).[1] Tuy thế ai từng đọc kỹ Tam Quốc Diễn Nghĩa đều phát hiện thấy việc đó dường như cũng chưa phải là trọng tâm của tác gia tiểu thuyết và rằng ấn tượng về một vị quân sư tài trí cơ mưu cũng chỉ là kết quả của một lối đọc thông tục thích thú quan tâm theo dõi cốt truyện li kỳ mà thôi. Việc đó cũng tương tự như cách hiểu thông tục về một Lưu Bị - nhân vật được xem là hình ảnh kết tinh lý tưởng một ông vua nhân nghĩa hay hình dung phổ biến về một Tào Tháo gian hùng đáng lên án từ đầu đến chân. Huống nữa, không thể không công nhận tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa dường như cũng đã phải trả giá ít nhiều cho việc biểu hiện cái “tuyệt trí” của nhân vật Gia Cát Lượng. Từ Hồ Thích buổi đầu thế kỉ XX cho đến Hạ Chí Thanh những năm giữa thế kỷ XX, nhiều học giả đều nhận thấy La Quán Trung trên thực tế vì để biểu hiện tài trí tuyệt vời của Khổng Minh nên vô hình trung biến các nhân vật đối thủ từ Chu Du, Lỗ Túc cho đến Tư Mã Ý về sau thành ra những kẻ ít nhiều ngây thơ và ngờ nghệch. Và cho dù là chính sử (từ chú giải Tam Quốc Chí của Bùi Tùng Linh cho đến Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang) đã xác nhận việc hỏa công nhờ gió đông trong trận Xích Bích thì việc cắt nghĩa trời trở gió bằng tình tiết cầu phong của Gia Cát Lượng dẫu sao vẫn gây ra ít nhiều khó chịu cho những độc giả đòi hỏi cao về nghệ thuật xử lý cốt truyện tiểu thuyết.[2] Gia Cát Lượng như sử sách kí tải hẳn là một nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc trong thời đại Tam Quốc. Tam Quốc Chí nhận định chung Gia Cát Lượng giỏi nhất việc việc trị quốc yên dân, kế đó mới là tài cầm quân, mà việc ứng phó với biến hoá trên chiến trường thì không phải là mặt mạnh của ông (“Ứng biến tướng lược phi kì sở trường”- xem Tam Quốc Chí, phần Gia Cát Lượng truyện thuộc Thục thư).[3] B.L.Riftin tỏ thái độ không đồng ý với tác giả bộ sử Tam Quốc Chí trong việc đánh giá tài năng quân sự của Gia Cát Lượng. Học giả người Nga viết trong Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc: “Những người nghiên cứu công trình của Trần Thọ tìm thấy trong thế giới quan của ông nhiều chỗ mâu thuẫn thường thường gắn liền với những lí do có tính chất cá nhân lộ liễu. Chẳng hạn người ta biết rằng Gia Cát Đản con trai Gia Cát Lượng khinh bỉ nói về Trần Thọ, và xem ra nhà sử gia trả thù anh ta khi viết: “Đản chỉ đọc sách, tiếng tăm của ông ta vượt xa những cống hiến thực tế của ông ta”. Ở trên đã nói đến sự quan tâm của Trần Thọ tới di sản của chính Gia Cát Lượng. Thọ thậm chí đã viết liệt truyện chi tiết của ông ta. Song những lời sau đây là của Trần Thọ: “Lượng không giỏi với tư cách một vị tướng và không đủ tài năng để chiến thắng kẻ thù”. Tính chất bất công của những lời đánh giá như vậy là hiển nhiên đối với các tác giả Tấn sử, là những người dẫn những lời trích dẫn này trong Trần Thọ liệt truyện, nhưng nhận xét rằng những đoạn như vậy ở nhà sử gia Tam quốc không phải là nhiều”.[4] Nhìn chung sử Tam Quốc Chí thiên về nhấn mạnh hoạt động quản lý quốc gia của một bậc tướng quốc hơn là quan tâm đến cuộc đời trận mạc của một vị quân sư. Tam Quốc Chí chép công kiến thiết, xây dựng nền hành chính của Khổng Minh ở Ba Thục khá tường tận. Sự nghiệp kinh bang tế thế của Gia Cát Lượng ở Thục Quốc (chủ yếu tại vùng Tây Xuyên lấy từ tay Lưu Chương, vùng mà Lưu Bị định đô và trở thành hậu phương của công cuộc bắc phạt sau ngày Quan Công để mất trọng địa Kinh Châu) mà chính sử chép để lại ấn tượng về một Khổng Minh nhà hoạt động chính trị kết hợp một cách nhuần nhuyễn Nho gia với Pháp gia. Trong đó yếu tố pháp trị dường như có phần nổi trội hơn. Điều đó cũng dễ hiểu trong tình hình đất mới thay chủ và quốc gia cần ổn định để chuẩn bị cho cuộc viễn chinh lên phía bắc thu phục Trung nguyên, khôi phục Hán triều. Tất cả những điều đó - tài trí siêu phàm và trị quốc hiệu quả của Gia Cát Lượng vẫn được tiếp tục biểu hiện trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa. Thế nhưng tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa đồng thời với việc tô đậm tài trí siêu phàm còn ra sức khắc sâu nội hàm nhân cách đạo đức cho nhân vật. Kết quả là người đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa không chỉ phục tài mà còn mến đức Gia Cát Lượng. Đức trung thứ, tâm hồn kiên trinh, cuộc đời liêm chính, cung cúc tận tụy, tri thiên mệnh mà vẫn gắng gỏi chuyện đời, độ tinh tế trong ứng xử các mối quan hệ nhân sinh…tất cả những nét nhân cách đó của Khổng Minh được tác giả bộ tiểu thuyết khắc hoạ rất nhuần nhã tạo nên một bề sâu hiếm thấy cho hình tượng thừa tướng nước Thục. Khác với lối trần thuật ngôn hành khô khan đơn điệu của chính sử, tự sự của tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa đã cho ta thấy một con người Khổng Minh sinh động khả cảm, khả ái. Nhiều tình tiết, câu chuyện mà bản thân chúng không hợp hoặc khó cho lối kể chuyện kiểu bình thoại, thuyết thư mà cũng không quan trọng lắm đối việc chép sử lại trở nên rất khả thủ trong tự sự tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa. Những tình tiết, mẩu chuyện đó rất giàu sức biểu hiện. Chúng khiến cho hình tượng vị quân sư được khắc họa một cách đầy đặn và chân thực hơn. Có thể tìm thấy những tình tiết như vậy từ trong những trần thuật của tác giả về mối quan hệ giữa Khổng Minh với Quan Công và Trương Phi - hai hiền đệ của chúa công nhưng đồng thời lại là đại tướng thuộc quyền chỉ huy của mình. Độc giả không khó phát hiện thấy thái độ bất phục tùng lúc công khai lúc ngầm ngầm, cố tình làm khó dễ của hai tướng Quan Trương đối với vị quân sư ngay từ những ngày đầu. Riêng đối Trương Phi thì từ thuở theo đại ca tam cố thảo lư đã từng đòi ném lửa đốt nhà xem tên thôn phu quèn có chịu dậy tiếp huynh trưởng hay không. Như tuồng vị quân sư trẻ tuổi dài lưng tốn vải vì chen ngang vào cái quan hệ tình cảm vườn đào kia mà suốt đời đã hứng lấy mối kỳ thị ghen tuông vô hình đến từ cả Quan Công lẫn Trương Phi. Còn chúa công Lưu Bị trong khi đã để toàn quyền cho Khổng Minh nhưng vẫn vì mối tình thân với riêng hai người em “không sinh cùng năm nhưng thề chết cùng ngày” mà thường đem lại những khó xử cho quân sư. Như ta đọc thấy, chẳng hạn khi Quan Công để mất Kinh Châu rồi chết về tay Đông Ngô, Lưu Bị bất chấp lời khuyên của Khổng Minh đã cất quân cả nước trả thù cho em. Kết quả là toàn bộ chiến lược của thừa tướng đã bị phá sản. Lưu Bị ăn năn đà đã muộn, nhuốm bệnh lâm chung. Thử đọc màn trần thuật cảnh Lưu Bị trối trăng cùng Khổng Minh: “(Lưu Bị đánh Đông Ngô báo thù cho Quan Công bại trận chạy về Bạch Đế thành, ốm nằm thấy Quan Trương đến báo mộng, tỉnh dậy biết mình không còn sống được bao lâu-LTT) Liền sai sứ về Thành Đô, mời thừa tướng và bọn thượng thư lệnh Lý Nghiêm đi gấp ngày đêm đến thành Bạch Đế nghe di mệnh. Khổng Minh cùng các quan đem con thứ Tiên Chủ là Lỗ Vương Lưu Vĩnh và Lương Vương Lưu Lý đến chầu ở cung Vĩnh An thăm bệnh, để Thái Tử Lưu Thiện ở lại coi Thành Đô. Khổng Minh đến cung Vĩnh An, thấy Tiên Chủ bệnh đã nguy kịch, vội vàng phủ phục cạnh long sàng. Tiên Chủ truyền mời ngồi lên cạnh mình, đưa tay vỗ vỗ vào lưng Khổng Minh mà bảo rằng: “Trẫm từ khi có được thừa tướng, may thành được đế nghiệp. Vì nỗi trí thức thiển lậu, không nghe lời thừa tướng, tự rước lấy thảm bại. Ân hận thành bệnh, chưa biết sống chết lúc nào. Con nối nghiệp thì ngu hèn, trẫm không thể không đem đại nghiệp mà ủy thác cùng thừa tướng.” Nói đoạn, nước mắt dàn giụa. Khổng Minh cũng khóc nói: “Mong bệ hạ bảo trọng long thể, để thỏa lòng trông đợi của thiên hạ.” Tiên Chủ đưa mắt ngó quanh một lượt thấy có Mã Tốc em của Mã Lương đang đứng gần cạnh, bèn truyền cho tạm lui. Mã Tốc lui ra. Tiên Chủ bảo cùng Khổng Minh rằng: “Thừa Tướng coi tài Mã Tốc ra sao?” Khổng Minh đáp: “Người này cũng là anh tài thời nay.” Tiên Chủ bảo: “Không phải, trẫm xem người này nói nhiều mà làm thì không được như lời, không nên dùng vào việc lớn. Thừa tướng phải xét cho kỹ.” Dặn dò xong, truyền gọi các quan lên điện, lấy giấy bút thảo xong di chiếu đưa cho Khổng Minh mà than rằng: “Trẫm không học hành sách vở được gì, chỉ biết đại khái mà thôi. Thánh nhân có câu “Con chim sắp chết, tiếng kêu ai oán; người ta sắp chết, lời nói khôn ngoan.” Trẫm vốn những mong cùng các khanh diệt giặc Tào chung phò nhà Hán. Không may nửa đường chia biệt. Vậy phiền Thừa Tướng cầm chiếu này trao cho Thái Tử Thiện, bảo nó chớ xem đó là lời nói thường. Phàm mọi việc còn mong thừa tướng dạy bảo thêm cho nó!” Khổng Minh cùng các quan khóc lạy dưới đất: “Xin bệ hạ tĩnh dưỡng long thể, chúng thần nguyện đem hết sức trâu ngựa để báo đền ơn tri ngộ!” Tiên Chủ sai nội thị dìu Khổng Minh dậy, một tay gạt lệ, một tay cầm lấy tay Không Minh mà rằng: “Trẫm chết đến nơi rồi, còn lời tâm phúc ngỏ cùng Thừa Tướng đây.” Khổng Minh nói: “Bệ hạ thánh dụ điều gì?” Tiên Chủ khóc nói: “Tài Thừa Tướng gấp mười Tào Phi, tất có thể an bang định quốc, hoàn thành nghiệp lớn. Con trẫm nếu phò trợ được thì làm, nhược bằng nó bất tài thì tiên sinh tự làm chủ nhân của Thành Đô vậy.”[5] Khổng Minh vừa nghe, tay chân rụng rời, mồ hồi đổ khắp mình, khóc lạy dưới đất: “Thần đâu dám không hết sức cạn lực, dốc niềm trung trinh cho đến chết mới thôi!” Dứt lời, rập đầu xuống đất đến chảy máu. Tiên Chủ bảo Khổng Minh ngồi lại lên gường, gọi Lỗ Vương Lưu Vĩnh, Lương Vương Lưu Lý đến trước mặt, dặn rằng: “Chúng mày phải nhớ lời trẫm: sau khi trẫm mất rồi, ba anh em mày phải coi Thừa Tướng như cha, không được khinh nhờn.” Nói đoạn, sai hai con cùng lạy Khổng Minh. Hai Vương bái lạy xong, Khổng Minh nói: “Thần dù gan óc lầy đất cũng không báo đáp được ơn tri ngộ này.” Tiên Chủ bảo các quan: “Trẫm đã giao con côi cho Thừa Tướng, bảo chúng coi Thừa Tướng như cha. Các khanh cũng chớ coi thường mà phụ lòng trông đợi của trẫm.” Lại dặn Triệu Vân: “Trẫm với khanh cùng nhau từ thuở gian nan, hoạn nạn vui buồn có nhau cho đến giờ, không ngờ chia biệt ở đây. Khanh nghĩ đến tình cố cựu mà sớm hôm trông nom con trẫm, chớ phụ lời trẫm!” Triệu Vân khóc lạy nói: “Thần há dám không hết sức khuyển mã.” Tiên Chủ lại bảo với các quan: “Bá quan các khanh, trẫm không thể dặn dò từng người một, chỉ mong mỗi người ai cũng bảo trọng!” Dứt lời vua băng, thọ 63 tuổi. Bấy giờ là ngày 24 tháng Tư, mùa hạ, năm Chương Võ thứ ba (công lịch 222 - LTT).”[6] Ngay cả với những độc giả quen nết đọc cho biết cốt truyện cũng không thế không thầm phục tài tự sự quán xuyến diễn biến toàn sách của tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa. Chi tiết Mã Tốc trong đoạn trên xem ra có vẻ hơi lạc lõng thế nhưng chỉ khi ta đọc đến hồi 95 kể chuyện Khổng Minh mắc sai lầm dùng Mã Tốc ở trận Nhai Đình thì mới bộc lộ tính đích đáng của nó. Tác giả Tam Quốc Diễn Nghĩa đã tô đậm đoạn “Tiên Chủ lâm chung phó thác con côi” thành một màn tự sự giàu sức biểu cảm. Trần thuật của tác giả cho thấy so với đoạn kí tải thuật kể sơ lược trong Tam Quốc Chí kịch tính của màn chuyện này được nâng cao lên rất nhiều. Khổng Minh dường như đã trở thành nhân vật chính của màn chuyện. Lưu Bị lâm chung ngoái đi ngoảnh lại cũng chỉ trực tiếp trối trăng dặn dò có mấy người. Không kể hai người con (đáng lẽ phải có con trưởng Lưu Thiện) thì chỉ có nói chuyện cùng Khổng Minh rồi Triệu Vân. Thái tử kế vị ngày nay chính là ấu chúa A Đẩu mà Triệu Vân bọc trước ngực tả xung hữu đột phá trùng vây quân Tào cứu ra năm xưa. Khi đó Lưu Bị “quẳng con xuống đất, nói Vì mày, suýt nữa ta mất một viên đại tướng” (hồi 42) thì giờ đây giao con cho Thừa Tướng, Lưu Bị còn dặn dò thêm Triệu Vân nữa. Lưu Bị năm xưa quăng con mà khiến cho Triệu Vân “dù gan óc lầy đất cũng không đủ báo đáp” thì giờ đây trao con lại “khiến cho Thừa Tướng nguyện “dốc lòng trung trinh đến chết mới thôi”. Đằng sau câu chuyện tình vua tôi, nghĩa quân thần cảm động lòng người, đằng sau sự thú vị của tình tiết được trình bày hết sức chọn lọc, một độc giả tinh tường sẽ còn đọc thấy biết bao ý vị nhân sinh và dư ba trong tâm tư. Chính điều đó làm nên chiều sâu nội tâm, đường nét nhân cách cho các hình tượng nhân vật, gợi lên sự sâu thẳm của cuộc đời nhân thế. Lưu Bị vì sao mà trối cùng Khổng Minh “Con trẫm nếu phò trợ được thì làm, nhược bằng nó bất tài thì khanh tự làm chủ nhân của Thành Đô vậy (Chúng tôi nhấn mạnh bằng in nghiêng- LTT)”? Còn Khổng Minh vì sao mà vừa nghe mấy lời đó đã “tay chân rụng rời, mồ hồi đổ khắp mình, khóc lạy” “rập đầu đến chảy máu”? Mĩ nhân đẹp cho người yêu mình, kẻ sĩ chết cho người tri kỉ. Thuật hoài, ngôn chí suy cho cùng cũng chỉ là bút mực lời chữ. Muốn tỏ được lòng trung trinh, lập trường kiên định nhiều lúc phải máu nhuộm cờ đào, gan óc lầy đất, gói thân da ngựa mới thỏa nguyện cam lòng. Thế giới nhân vật Tam Quốc là thế giới của gồm cả những minh quân hiền tướng năng thần lẫn hôn quân bạo chúa nịnh thần tặc tử cho chí vô số những anh tài trên các phương diện chính trị ngoại giao quân sự. Trong đó hạng mưu sĩ thuyết khách sớm Sở tối Tần - một đặc sắc của thời đại được mô tả khá sinh động. Có sử gia liên hệ đến tình trạng tự do lưu thông nguồn nhân lực trong một số khu vực trên thế giới ngày nay. Người ta cũng chú ý đến ngoài thường lệ chúa chọn bề tôi còn có hiện tượng anh tài chọn minh chủ trong Tam Quốc. Ai cũng thấy Trần Cung chọn thờ Lã Bố là sai, nhưng cũng có người tiếc Khổng Minh không theo phò Tào Tháo. Có thể vào thủa tam cố thảo lư, Lượng chưa thấu được cái tài diễn điều nhân của Bị nhưng cái sáng suốt của kẻ “nắm được xu thế của lịch sử” chắc đã khiến cho kẻ sĩ này ngần ngại khi rời Ngọa Long Cương. Thế nhưng nếu Khổng Minh không ra khỏi lều tranh thì Tam Quốc ai biết rồng ngọa Nam Dương? Vậy mà ở đời nhiều khi chỉ vì nặng một lời nguyền, một lời thác gửi đinh ninh của đồng chí mà cam lòng dấn thân làm đấng bậc giữa đời. Dù có khi biết sức không trì níu nổi cuộc cờ canh bạc hoặc biết rõ oan khốc lăng loàn sẽ đổ xuống giữa đầu. Nhưng bù lại họ đã có thể nhắm được mắt xuôi được tay, tâm hồn chính nhân an nhiên cùng cây cỏ. Khổng Minh chắc chắn là một người như thế. Tác giả Tam Quốc chí diễn nghĩa tìm cách nhấn mạnh màu sắc nho gia và ý vị bi kịch trong hình tượng Khổng Minh. Quả đúng như nhận xét tinh tường của Hạ Chí Thanh: “Việc Khổng Minh nhận gánh vác cái trách nhiệm giúp rập Lưu Bị - người được xem là thừa kế hợp pháp chính thống dòng dõi nhà Hán phục hưng Hán triều tỏ rõ lập trường nho gia của ông” (Trung Quốc cổ điển tiểu thuyết sử luận, Giang Tây nhân dân xuất bản xã, tr.56). Vốn định tiêu dao ngày tháng giữa sơn lâm, Khổng Minh từng phất tay áo bỏ đi khi Từ Thứ muốn giới thiệu ông ra giúp đời (hồi 36). Vậy mà cảm cái đức ân cần, ơn tri ngộ và tấm lòng thành khẩn của Hoàng thúc, Khổng Minh cuối cùng đã giã từ lều tranh Nam Dương. Cố tránh đường nhập thế phần lớn vì bản thân ông biết trước khó lòng xoay chuyển mệnh trời, mà rốt cuộc đành dấn thân cho sự nghiệp - ấy là phong độ của một kẻ sỹ biết rõ không thể làm mà gắng gỏi làm, cúc cung tận tụy tử nhi hậu dĩ - một lòng tận tụy cho sự nghiệp đến chết mới thôi. Không biết cho đến tận lúc quẩy lại gánh nặng non sông Thục Hán mà tiên chúa phó lại rồi trút hơi thở cuối cùng giữa đường hành quân thu phục Trung Nguyên, Khổng Minh có biết câu mà người bạn thời ẩn dật Nam Dương Tư Mã Huy nói khi Lưu Bị tìm đến Ngọa Long Cương năm xưa - “Khổng Minh tuy gặp chủ, nhưng không gặp thời, tiếc thay!”[7] hay không? Thành thử, đọc hết bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa độc giả phục tài thần mưu diệu toán của quân sư quân Thục quốc một phần mà càng cảm bội phần đức trung thứ, chí công vô tư, tinh thần hy sinh, xử thế nghĩa dũng, cuộc đời thanh bạch liêm khiết của vị thừa tướng Thục Hán. Đỗ Phủ dường như cũng chung phần cảm nghĩ khi viết câu bất hủ “Xuất sư vị tiệp thân tiên tử, Trường sử anh hùng lệ mãn khâm” (Sự nghiệp chửa thành quân sư đã sớm mất, Mãi khiến bậc anh hùng tiếc thương lệ đầm vạt áo).[8] Cùng với võ tướng Triệu Tử Long, quân sư Gia Cát Lượng là một nhân vật có lẽ giành được cảm tình trọn vẹn nhất của cả tác giả lẫn độc giả. Chúng ta thậm chí có quyền nghĩ tới việc cho đây là cặp nhân vật lý tưởng trong bộ tiểu thuyết trường thiên này.[9] Tài liệu tham khảo: 1. Trần Thọ, Tam Quốc chí (Bùi Tùng Linh chú), Trung Hoa thư cục, 1959. 2. La Quán Trung, Tam Quốc diễn nghĩa (thượng, hạ quyển), Nhân dân xuất bản xã, 2004. 3. La Quán Trung, Tam Quốc diễn nghĩa (ba tập), Phan Kế Bính dịch, Bùi Kỉ-Lê Huy Tiêu hiệu đính, Nxb. Văn Học, 2004. 4. La Quán Trung, Tam Quốc chí diễn nghĩa (2 tập), lời bình Mao Tôn Cương, dịch thuật Tử Vi Lang, Nxb. Văn hoá Thông tin, 2006. 5. La Quán Trung, Tam Quốc chí diễn nghĩa (hai tập), lời bình Mao Tôn Cương, dịch thuật Mộng Bình Sơn, Nxb. Văn hoá Thông tin, 2006. 6. Sử Ký của Tư Mã Thiên, Giản Chi & Nguyễn Hiến Lê giới thiệu, trích dịch và chú thích, Lá Bối in lần thứ nhất 1970, Saigon-Vietnam. 7. Claudine Salmon biên soạn, Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc tại Á châu, Trần Hải Yến dịch, Nxb. KHXH, 2004. 8. B.L.Riftin, Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc, Phan Ngọc dịch từ nguyên bản tiếng Nga, Nxb. Thuận Hoá – Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây. 9. Lỗ Tấn, Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, Bách Hoa văn nghệ xuất bản xã, bản in năm 2002. 10. Trung Quốc văn học thất luận - Seven Topics on Chinese Literature, Quảng Tây Sư phạm Đại học Xuất bản xã (Guangxi Normal Univ. Press). 11. Lưu Sóc, Tiểu thuyết khảo tín biên, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1997. 12. Chu Nhất Huyền, Tam Quốc diễn nghĩa tư liệu hội biên, Bách hoa văn nghệ xuất bản xã, bản in 1983. 13. Trịnh Chấn Đạc, Văn học đại cương -Literature compendium, Trung Hoa thư cục xuất bản lần đầu 1926, Quảng Tây sư phạm đại học xuất bản xã tái bản, 2003. 14. Hayden White, Hậu hiện đại lịch sử tự sự học, Trần Vĩnh Quốc–Trương Vạn Quyên dịch, Trung Quốc xã hội khoa học xuất bản xã xuất bản, bản in năm 2003. 15. Chu Nhất Huyền, Minh Thanh tiểu thuyết tư liệu tuyển biên, Tề Lỗ thư xã, bản in 1990. 16. Hoàng Sương-Hứa Kiến Bình, Nhị thập thế kỷ Trung Quốc cổ đại văn học nghiên cứu sử - Tiểu thuyết quyển, Đông Phương xuất bản trung tâm, 2006. 17. Andrew H. Plaks, Trung Quốc tự sự học, Bắc Kinh đại học xuất bản xã, bản in 1996. 18. Tôn Khải Đệ, Tam Quốc chí bình thoại dữ Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa, Văn Sử, quyển 1, 2 kì, 6/1934. 19. Hồ Thích cổ điển văn học nghiên cứu luận tập, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, bản in 1998. 20. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 1, Nxb. Lao động, 2006. 21. Minh Thanh tiểu thuyết nghiên cứu, Kỳ 1, năm 2000. 22. Hạ Chí Thanh, Trung Quốc tiểu thuyết sử luận (Hồ Ích Dân, Thạch Hiểu Lâm, Đơn Khôn Cầm dịch từ bản tiếng Anh The Classic Chinese Novel), Giang Tây nhân dân xuất bản xã, bản in 2001. 23. Chúc Tú Hiệp, Tam Quốc nhân vật tân luận, Thượng Hải, Quốc tế văn hóa phục vụ xã, 1948 24. Lỗ Tư Miễn, Tam Quốc diễn nghĩa nghiên cứu luận văn luận tập, Bắc Kinh, Tác gia xuất bản xã, 1957. Chú thích: [1]Lời Mao Tôn Cương: “Ngô dĩ vi Tam Quốc hữu tam kì, khả xưng tam tuyệt: Gia Cát Khổng Minh nhất tuyệt dã, Quan Vân Trường nhất tuyệt dã, Tào Tháo diệc nhất tuyệt dã” - Độc Tam Quốc Chí Pháp. [2] Cách nói Tam Quốc diễn nghĩa là một tập binh thư suy cho cùng cũng chỉ là một lối so sánh mà thôi. Những mưu mẹo trong bộ tiểu thuyết không phải là những khuôn mẫu luôn luôn đúng. Việc trình bày nó cũng không phải là kín kẽ hoàn toàn. Một độc giả đã từng đọc nhiều tiểu thuyết trinh thám hay truyện tình báo phương Tây chắc chắn sẽ bất mãn ít nhiều khi đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa. [3] Nguyên văn cả đoạn: “Khả vị thức trị chi lương tài. Quản, Tiêu chi á bỉ hĩ. Nhiên liên niên động chúng, vị năng thành công, cái ứng biến tướng lược, phi kì sở trường!” [4] B.L.Riftin, Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc (Bản dịch Phan Ngọc, Nxb. Thuận Hoá – Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây). [5] Tam Quốc Diễn Nghĩa lấy nguyên đoạn lời Lưu Bị từ Gia Cát Lượng truyện - Thục Thư - Tam Quốc Chí, chỉ thay đổi mấy chữ cuối cùng “Nhược kì bất tài, quân khả tự thủ” (Nếu con ta bất tài, khanh có thể tự mình tự làm chủ lấy) thành “Nhược kì bất tài, quân khả tự vi Thành Đô chi chủ”. Hàm ý đi từ chỗ mơ hồ (tự thủ - thay thế mà làm hoặc nói làm thay) chuyển sang rõ ràng xác định (tự là chủ nhân của kinh đô). Chả trách Khổng Minh nghe xong “tay chân rụng rời, mồ hồi đổ khắp mình, khóc lạy dưới đất”, đáp lời xong còn “rập đầu xuống đất đến chảy máu” (chúng tôi nhấn mạnh bằng in đậm-LTT). Xin nhớ là trong Gia Cát Lượng truyện (Tam Quốc Chí) không có các chi tiết đó! Mới biết hàm súc trong văn đâu phải là số chữ , số lời. Và cái sự thực, ý vị nhân sinh mà tiểu thuyết diễn tả đâu phải là thứ mà kí tải lịch sử (chí/thư/lục) phản ánh được! [6] Tam Quốc Diễn Nghĩa, Nhân dân văn học xuất bản xã, bản in lần thứ 13, 2004, hồi 85, quyển hạ, tr.697. [7] Nguyên văn: “Ngọa Long tuy đắc kì chủ, bất đắc kì thời, tích tai!”. Xem Tam Quốc Diễn Nghĩa, Nhân dân văn học xuất bản xã, bản in lần thứ 13, 2004, hồi 63, quyển thượng, tr.310. [8] Đỗ Phủ viết Thục tướng (Thừa tướng nhà Thục) vịnh Khổng Minh: Tam cố tần phiền thiên hạ kế, Lưỡng triều khai tế lão thần tâm. Xuất sư vị tiệp thân tiên tử, Trường sử anh hùng lệ mãn khâm Tạm diễn nghĩa: Ba lần đến thảo lư vời hỏi kế sách bình thiên hạ, Hai triều sáng nghiệp tấm lòng của lão thần. Sự nghiệp chửa thành quân sư đã sớm mất, Mãi khiến cho bậc anh hùng tiếc thương lệ đầm vạt áo. [9] Triệu Vân trên thực tế đã trở thành tùy tướng của Khổng Minh. Khổng Minh trước sau giữ một mối cảm tình nồng hậu đối viên tướng này. Trần thuật của tiểu thuyết cũng cho ta thấy Tử Long đáng gọi văn võ song toàn kiêm gồm trí dũng. Triệu cũng là một danh tướng đã để cho “nhân gian được thấy đầu bạc”, khác với phần đa những chiến tướng đã kết liễu đời mình ngoài cửa trận. Trần thuật về Triệu Vân và Gia Cát Lượng có thể nói dường như không có yếu tố gọi là “phúng dụ ngầm”.1 like
-
Tiền bạc dễ kiếm, được thụ hưởng từ gia đình khá nhiều, nhà cửa rộng rãi khang trang, nhưng về sau thì suy giảm. Trong nhà thường xảy ra chuyện gió trăng ngoài lề, hao tốn tiền bạc cho nhân tình khá nhiều.1 like
-
1 like
-
Chiếc Lá
nguoivosu liked a post in a topic by Lan Anh
Cảm ơn sư phụ vì những thông tin về "Chiếc lá cuối cùng". Đây cũng là 1 bài hát con yêu thích, hôm nay lại được biết thêm câu chuyện về sự ra đời của bài hát nữa. http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/1.gif Con thích nhất là nghe Lệ Quyên hát bài này. Khi lần đầu tiên nghe Lệ Quyên hát, con hoàn toàn ngạc nhiên vì ko nghĩ rằng cô ấy lại có thể hát được thể loại nhạc này, và con đã hoàn toàn bị cô ấy chinh phục bởi bài hát này. http-~~-//www.youtube.com/watch?v=SEH5fPIctY81 like -
Cảnh Tốc HỷNếu xét ra trường là 12/2011 thì hy vọng bạn sẽ ra trường vào khoảng thời gian đó. Theo cảm giác của mình thì phải đến tháng 3-4/2012 dương lịch mới graduate. Nếu muốn bằng khá chắc phải cố gắng nhiều hơn nữa, mình nghĩ là bạn xếp loại trung bình đến trung bình khá. Phổ điểm tổng kết của bạn có thể là từ 6.4 - 6.9 Tham khảo nhé. Cheer !1 like
-
1 like
-
số 42 xin nhờ bác xem dùm 2 lá số này chồng cháu : gia đình có 3 anh em tra , chồng cháu là con giữa , gia đình ko thương cho lắm :cao 1m84 nặng 85kg , vừa người da trắng mắt cận đeo kính thường xuyên , khuôn mặt thon tròn dài hồi trước có học công nghệ thông tin nhưng đi làm thường ko có lương chỉ là thực tập , xin việc làm khó khăn , nay chuyển qua học quả trị kinh doanh giống cháu , dự tính đi theo kinh doanh phân tích tài chính , chứng khoán http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 cháu : ba mẹ cháu chỉ có 1 mình cháu : cao 1m55 nặng 48kg , da ngăm đen , thân hình tròn. , khuôn mặt thon tròn dài cháu học quản trị kinh doanh , dự tính học tiếp để làm phân tích tài chính , chứng khoán http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 cháu và chồng cháu hiện chưa có việc làm còn đang đi học , đang có con dự đoán sanh 3/2012 ( nhăm thìn , con gái ) sao 2 vợ chồng lận đận quá ko có việc làm , tiền bạc gì cả chỉ sống nhờ ba mẹ , cho cháu hỏi 2 vợ chồng cháu chừng nào có việc làm ổn định và chúng cháu làm nghề gì là thích hợp , cảm ơn bác nhiều lắm . kính mong bác Huyencodieuly xem giúp 2 vợ chồng cháu1 like
-
1 like
-
bác xem giúp em với ạ. Đây là lá số tử vi của e http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 thêm một điều nữa,chồng em tên là Đào Mạnh Hải, sinh 22/07/1984(Duong lịch). Chả hiểu năm nay làm ăn rất khó khăn, không được viẹcc gì cả. Vậy vận hạn này bao giờ qua? Bác xem giúp em với ạ. Cảm ơn bác nhiều lắm a1 like
-
Giờ Tý: Dáng người cao vừa đầy đặn, nặng xương [xương to], nhìn vào có vẻ hơi thấp, tay chân dài, lưng dày, nhưng dáng đẹp, dáng đi thanh thoát, nói chuyện hay được lòng người khác, có thể cảm nhận được người khác cần gì, muốn gì. Bên ngoài xởi lởi nói cười, nhưng bên trong thường mang nỗi niềm riêng, người lãng mạn đa sầu đa cảm. Rất có máu me và luôn suy tính chuyện kinh doanh. Ít khi bệnh, thường hay bị đau nhức mình mẩy, hơi thiếu máu. Giờ Sửu: Dáng người cao vừa, hơi gầy, nhỏ xương, xương tay xương chân mỏng mảnh, mắt to hơi lộ, chân mày đậm hơi xếch ngược lên trên, mắt kém, độ cận không đều, da hơi xanh, vàng vọt, có bệnh về đường tiêu hóa đặc biệt là gan. Lời nói khó nghe, thường bị người khác xa lánh, không khéo giao tiếp. Lúc nhỏ khó sinh khó nuôi, có thể khi sinh bị tràng hoa quấn cổ?1 like
-
Quán vắng!
nguoivosu liked a post in a topic by Thiên Sứ
Người đàn bà nhặt rác và cái sụp lạy của lương tâm 19/10/2011 07:38 (VTC News) - 18 người đi qua, nhưng không ai dành một phút quan tâm cho cô bé 3 tuổi bị xe cán nằm bất động trên đường. Và nếu không có người thứ 19, có lẽ sinh linh bé bỏng ấy đã vĩnh viễn ra đi trong sự vô cảm đến vô lương của đồng loại. Người thứ 19 ấy, một phụ nữ cao tuổi bình dị ở thành phố Phật Sơn giờ đây đã được cư dân mạng Trung Quốc coi như biểu tượng cho tình người trong cái thời buổi mà người ta vẫn gọi là khủng hoảng giá trị này. Người phụ nữ ấy tên là Trần Hiền Muội, 58 tuổi, một người nhặt rác. Bà chỉ cao 1m40 và nặng 40kg. Thế nhưng, khi tấm ảnh cha mẹ cô bé Tiểu Duyệt sụp lạy ân nhân được đăng tải, thì hết thảy độc giả đều phải nghẹn ngào, và như bình luận của một cư dân mạng, bà đã cao hơn rất nhiều kẻ khác. Một cư dân mạng khác thốt lên: "Cái lạy ấy dường như cũng là cái sụp lạy thay mặt lương tri con người. Cảm ơn bà!" Bố mẹ cô bé Tiểu Duyệt sụp lạy ân nhân Trước những câu hỏi dồn dập về gia cảnh của mình, bà Trần thành thật trả lời: gia đình bà cũng ở mức đủ sống, nhưng bà vẫn làm công việc thu gom phế phẩm cho các cửa hàng và nhặt nhạnh những phế thải khác trên đường để kiếm thêm đồng ra đồng vào, chứ không muốn con cháu phải bận tâm, cũng không muốn tiêu tiền của con cháu. Tuy đôi lúc bị trêu ghẹo, coi thường, nhưng với bà, công việc này đã trở nên quen thuộc… Ngày ngày trước và sau khi đi làm, bà vẫn thường đưa đón cháu đi học. Bà Trần Hiền Muội đau xót chuyện bé Tiểu Duyệt Khi có phóng viên hỏi rằng: "Có người cho bà vì muốn nổi tiếng, muốn được thưởng nên đã cứu bé gái 3 tuổi nằm trên đường… bà nghĩ sao?", bà Trần ngạc nhiên đáp: “Tôi nghĩ là con người với nhau, khi nhìn thấy đồng loại bị thương, tất nhiên sẽ cứu giúp, chứ tôi thực sự chưa từng nghĩ tới việc cứu người để được nổi tiếng. Tôi chỉ muốn là người bình thường, yên phận làm người sống qua ngày đã tốt lắm rồi." "Tôi cần nổi tiếng để làm gì?!" Thực ra, tôi thấy việc này là hết sức bình thường, nhưng báo chí lại xôn xao phỏng vấn tôi về chuyện cứu bé Tiểu Duyệt. Tôi cũng từng đưa cháu tôi qua đường để tới trường, nhiều khi gặp cụ già qua đường bị ngã, tôi vẫn giúp đỡ như bình thường. Tôi nghĩ đó chỉ là bản năng cứu giúp đồng loại của mỗi người chúng ta." Bà kể lại, hai ngày qua, chỉ vì việc của Tiểu Duyệt, mà các phóng viên của các báo trong và ngoài nước đua nhau gọi điện xin phỏng vấn bà, đến cả lúc ăn cơm cũng phải liên tục điện thoại. Những cuộc điện thoại muốn phỏng vấn của giới truyền thông trong ngoài nước không ngừng gọi đến Làm người tốt lại khó vậy sao?! Kể lại câu chuyện thương tâm hôm trước, mắt bà Trần vẫn cứ rưng rưng: "Tôi còn nhớ hôm đó, tuy trời đã tối, nhưng cũng không đến mức không nhìn thấy Tiểu Duyệt đang nằm bên đường như những gì người qua đường nói, vì từ xa tôi đã thấy cô bé nằm bất động, không rõ sống hay chết, tôi vội tới gần thấy em khắp mình đầy máu, nước mắt đầm đìa, luôn miệng gọi mẹ, tôi liền bế cháu vào lề đường và tìm mẹ cháu. Lúc đó, tôi không nghĩ gì nhiều, chỉ muốn giúp đỡ cháu bé. Rất may ít phút sau, một phụ nữ đã hoảng hốt chạy đến, bế bé Duyệt đến bệnh viện cấp cứu… Nói thật, khi thấy gia đình bé Tiểu Duyệt khóc thương con gái mình, lòng tôi cũng đau như cắt, tôi ước mình có thể phát hiện ra Tiểu Duyệt sớm hơn thì cháu sẽ không nguy kịch như bây giờ, vì cháu còn quá nhỏ…" Miễn cưỡng nhận món tiền thưởng Theo gia đình Tiểu Duyệt, hiện tình trạng sức khỏe cô bé đã tạm thời ổn định. Nhắc về chuyện đã qua, họ bày tỏ vô cùng cảm ơn cộng đồng đã quan tâm giúp đỡ, và hi vọng xã hội sẽ có nhiều người hảo tâm như bà Trần Hiền Muội. Một cách cay đắng, họ cũng bày tỏ mong ước trong cuộc sống sẽ ngày càng ít những người nhiều tiền mà không có đức. Bố của Tiểu Duyệt cho biết, nếu tài xế xe tải không nhìn thấy Tiểu Duyệt mà tông phải, may ra họ có thể tha thứ… Cha mẹ cô bé bày tỏ, hiện nay, Tiểu Duyệt cần họ chăm sóc, nên dù rất đau khổ nhưng hai người sẽ cố gắng mạnh mẽ, dốc hết sức mình để con sớm ngày hồi phục. Bà Trần Hiền Muội và cháu trai Sau khi nghe tin đồn mẹ mình vì muốn nổi tiếng và muốn được khen thưởng nên mới cứu bé Tiểu Duyệt, con gái của bà Trần Hiền Muội đã rất buồn. Chị nói: “Lẽ nào làm người tốt khó vậy sao?”… Đó cũng là câu hỏi chung mà nhiều người đã đặt ra mấy ngày qua, sau những hình ảnh đáng căm phẫn và lên án của không chỉ 2 người lái xe vô lương mà cả những người qua đường vô cảm đến tàn nhẫn trước một em gái bé bỏng đang nằm chờ chết, cách họ chưa đến 2 bước chân. Một cư dân mạng cảm thán: "Chẳng lẽ đã đến lúc những điều tất nhiên và bình thường cũng trở nên phi thường và khó khăn với số đông như vậy rồi sao? Người ta càng ca ngợi bà lão, tôi lại càng thấy xót xa cho sự hiếm hoi của tình người trong xã hội bây giờ." Đỗ Hường ============================ Câu này nghe quen quen. Với cách lập luận này thì không lẽ người nào muốn tỏ ra khiêm tốn và không muốn nổi tiếng thì cần phải đi gam lờ với những nỗi thống khổ của đồng loại? Đúng là lũ tư duy "Ở trần đóng khố".1 like -
@ Minh Tiệp, Nếu bạn đã biết qua những kiến thức phổ thông cơ bản như Âm Dương Ngũ Hành, Thiên Can Địa Chi, Bát quái...thì bạn có thể đăng ký học lớp cơ bản ngay bây giờ, nhưng đóng trọn 2 học kỳ (tức phí 6 tháng học), bởi lớp đã học hơn 2 tháng và vừa qua phần phổ thông cơ bản đã nêu trên. Mến chào.1 like
-
Mọi đóng góp từ thiện liên quan đến trường hợp hai mẹ con nêu trên, xin chuyển vào tài khoản sau: Tài khoản TTNC Lý Học Đông Phương Chủ tài khoản : HÀ HỒNG NGA 1.Số tài khoản VND (Việt Nam Đồng): 10620424693010 2. Tài khoản USD: 106 204 246 93029 tại : Ngân hàng: TECHCOMBANK (chi nhánh Tân Bình). Lưu ý: Để thuận tiện cho việc kiểm tra và xác nhận, khi chuyển khoản hay dùng Ủy Nhiệm Chi, nên ghi rõ: -Nội dung nộp: “Quỹ từ thiện”. -Nick đăng ký trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. -Tên thật (nếu có nêu). Thiên Đồng1 like
-
============================Tôi đang ở Hanoi. Cá nhân tôi đóng góp 1.000. 000VND cho việc giúp mẹ con bà này. Hiện cô Tuyết - Wildlavender đi Nê Pan. Bởi vậy, tạm thời Thiên Đồng công bố tài khoản của bà Hà Hồng Nga để quí vị có lòng hảo tâm và anh chị em đóng góp gửi tiền vào đấy. Bà Hà Hồng Nga sẽ có trách nhiệm xác nhận số tiền gửi thông qua tài khoản và công bố ngay topic này. Tôi đang ở Hanoi, trước khi về lại Sài Gòn tôi sẽ đưa số tiền quyên góp được trao tận tay cho hai mẹ con trong bài viết trên. Chúng tôi sẽ bảo đảm tính minh bạch về chứng từ và hình ảnh xác định. Thiên Đông thân mến. Thiên Đồng nói bà Hà Hồng Nga gom tất cả thuốc bột Bạch Hoa Xà còn lại và gửi theo một xị Bạch Hoa Xà rượu ra Hanoi cho tôi. Loại thuốc này đã chứng tỏ tính hiệu nghiệm trong trường hợp tương tự.1 like
-
Kính mong bác Huyencolydieu tư vấn giúp cháu con đường công danh sự nghiệp. Cháu đang học thạc sĩ, đã từng làm trong ngành ngân hàng và trong năm tới, sau khi tốt nghiệp thạc sĩ cháu dự định vừa kinh doanh cùng bạn bè và vừa làm cho doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính. Cháu nhờ bác xem giúp con đường sự nghiệp của cháu trong tương lai. Năm tới cháu muốn hợp tác kinh doanh với người nam sinh năm 1984 (bằng tuổi) hoặc 1975 (cả nam và nữ) thi có thuận buồm xuôi gió không. Cháu mong bác tư vấn dùm. Cháu cảm ơn bác ạ. Đây là lá số của cháu ạ http://www.lyhocdongphuong.org.vn/apps/LaSoTuVi.php?name=VNT&date=1984,6,13,1,30&year=2011&gender=m&view=screen&size=21 like
-
Khổng Minh bắt Mạnh Hoạch ở đâu? Bách Việt Trùng Cửu Câu chuyện Khổng Minh bảy lần bắt Mạnh Hoạch có lẽ ai cũng biết từ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Nhưng cuộc chiến với Man Vương Mạnh Hoạch này đã xảy ra ở đâu? Hiện nay người ta chỉ dựa vào truyện Tam quốc diễn nghĩa mà … suy đoán, Mạnh Hoạch cầm đầu người Man, quấy rối nhà Thục Hán ở phía Nam, thì là vùng Vân Nam, Trung Quốc. Tuy nhiên, ở Việt Nam lại có ghi chép hoàn toàn khác về một cuộc đụng độ khá dài giữa Mạnh Hoạch và các vị quan đô hộ từ thời Đông Hán. Thần tích xã Hương Ngải, Thạch Thất, Hà Nội ghi rất tỷ mỉ chuyện này, tóm tắt như sau: Thời Hán Hiến Đế có ba anh em họ Chu là Chu Tuấn, Chu Hùng và Chu Kiệt, người ở Ba Trung (Ba Thục?). Khi họ ra làm quan cho nhà Đông Hán thì đổi tên thành Chu Cẩm, Chu Khiêm và Chu Đàm. Ba vị này được Hán Hiến Đế cử sang nước Việt để … chống Mạnh Hoạch vì khi đó “Tôn Quyền giận việc Lưu Bị cướp mất Kinh Châu liền bàn mưu với Mạnh Hoạch của nước Việt ta làm phản lại nhà Hán”. Khi 3 vị đến vùng Sơn Tây thì được tin “quan Chánh đô hộ cũ đã bị Mạnh Hoạch giết chết”. Ba vị liền đóng quân, chia nhau ở 3 trang ấp. Chu Cẩm đóng ở trang Cẩm Bào, nhận cháu của Sĩ Nhiếp, con Sĩ Cung, là Sĩ Năng làm Đệ nhất mưu sĩ, “đánh nhau với Mạnh Hoạch ở các xứ Tuyên Quang, Hưng Hóa”. Ba vị còn lập nhiều tuyến phòng thủ dọc từ Cẩm Bào tới Ái Châu. Khi Tào Tháo soán ngôi nhà Hán, Lưu Bị lên ngôi Hán Trung Vương, có cử “sứ giả nhà Hán đeo đai vàng” đến gặp, “phong cho ngài Cẩm làm Chánh đô hộ, ngài Khiêm và ngài Đàm cùng làm Phó đô hộ, để cùng giữ đất Nam Việt”. Được một thời gian Chu Cẩm ốm mất. “Mạnh Hoạch sai người theo đường tắt từ Ái Châu men theo hai bờ sông tiến ra”. Chu Khiêm, Chu Đàm chống trả Mạnh Hoạch, bị thua và chết trận. Phải đợi đến khi Gia Cát Khổng Minh dẫn quân Nam chinh mới thu phục được Mạnh Hoạch… Thần tích này hiện còn lưu tại đình làng Hương Ngải (Đình Giang). Hương Ngải là một xã có tiếng là hiếu học, nhiều người đỗ đạt và còn lưu nhiều nét văn hóa cổ như những chợ phiên chỉ bán một thứ đồ (lá dong, cá, gà, …) mỗi năm. Trong xã có đền thờ Tam Vị họ Chu, nay gọi là Quán Hương Ngải. Cổng đền có câu đối: Vạn lý công quang y Hán nhật Ức thu hạo khí phổ Nam thiên. Dịch: Vạn dặm ngời công theo triều Hán Nghìn thu hào khí phủ trời Nam. Cổng Đền Tam vị hay Quán Hương Ngải Các cụ cao tuổi ở Hương Ngải buổi chiều vẫn ra sân đền ngồi đánh cờ. Theo tư liệu này thì Mạnh Hoạch đã tấn công Giao Châu, giết quan đô hộ từ thời Đông Hán, khi cả Tôn Quyền lẫn Lưu Bị còn chưa làm chủ được Giao Châu. Vùng đất của Mạnh Hoạch có thể xác định khá rõ theo thần tích, là vùng giáp với “Tuyên Quang, Hưng Hóa” tới tận “Ái Châu”, hay là vùng Tây Bắc Việt Nam ngày nay. Mạnh Hoạch là người Mán ở Tây Bắc Việt Nam. Chuyện này nghe qua thấy quá kỳ lạ nhưng không phải không có căn cứ.Theo Tam quốc diễn nghĩa Gia Cát Lượng sau thu phục Mạnh Hoạch, lúc rút quân có dừng lại sông Lư Thủy, làm lễ tế cho các tử sĩ trong cuộc Nam chinh. Trong bài văn tế có câu: "Từ khi giặc xâm lăng cõi Thục Binh khởi đất Mường" “Đất Mường” ở đây cho thấy Man=Mường, Man Vương Mạnh Hoạch là người cầm đầu các tộc người Mường Mán ở Tây Bắc Việt Nam. Sông Lư Thủy có thể là sông Lô, chảy vào Việt Nam ở Hà Giang ngày nay. Lư và Lô là 2 cách phát âm khác nhau của cùng một chữ, chỉ dòng sông Lửa hay con sông chảy qua đất Đào thời Hồng Bang. Gia Cát Khổng Minh đã từ Vân Nam vượt sông Lô, tiến vào bình Mạnh Hoạch ở vùng rừng núi Tây Bắc nước ta. Trong thần tích Hương Ngải cũng nói rõ khi Lưu Bị lên ngôi Hán Trung Vương đã phong cho 3 vị họ Chu làm Chánh, phó đô hộ. Tức là khi đó “nước Việt ta” thuộc về triều Thục Hán của Lưu Bị. Vùng Tây Bắc nước ta sau khi Mạnh Hoạch đầu hàng Khổng Minh cũng thuộc về triều Thục. Như vậy hoàn toàn có thể Lưu Bị từng là một vị vua của nước Việt. Lưu Bị được sử Việt chép dưới tên Lý Bí hoặc Lý Phật Tử. Gia Cát Lượng nếu vậy thì không là ai khác mà là … Lý Phục Man, người đã bình định Man Vương Mạnh Hoạch ở vùng phía Nam của nước Thục. Chữ “Lý” trong Lý Phục Man chưa chắc đã có nghĩa là họ Lý, mà với nghĩa “ông lớn”, như trong tên Lý Ông Trọng hay Lý Khổng Lồ vậy. So sánh Hoa sử và Việt sử ta thấy có sự tương đồng. Lưu Bị (sử Việt gọi là Lý Phật Tử) cùng anh họ là Lưu Biểu (Lý Thiên Bảo) rút chạy từ Kinh Châu về Quí Châu (Cửu Chân). Sau đó chiếm Ích Châu của Lưu Chương. Lưu Bị tiến quân lên phía Bắc, được Khổng Minh bày mưu thắng Tào Tháo ở Tứ Xuyên (đất của Trương Lỗ trước đó). Tứ Xuyên là đất trung tâm cũ của Hưng đế Lưu Bang, nên Lưu Bị sau khi chiếm Tứ Xuyên đã xưng là Hán Trung Vương. Ích Châu là tên vùng đất của người Điền khi Hiếu Vũ Đế thu phục và sát nhập thành một quận của nhà Hiếu (khi Lộ Bác Đức diệt nhà Triệu Nam Việt?). Như vậy Ích Châu là vùng đất Điền Vân Nam. Sử Việt ghi là Lý Thiên Bảo cùng Lý Phật Tử xưng vương ở Ai Lao, tức là đất người Di Lão ở Vân Nam. Xem thế thì Vân Nam – Ích Châu đã nằm trong đất của nhà Thục Hán từ khi Lưu Bị khởi nghiệp. Mạnh Hoạch không thể hoành hành ở Vân Nam được mà chỉ có thể "binh khởi đất Mường" ở Tây Bắc nước ta. Tây Bắc, vùng đất của Mạnh Hoạch, cũng là vùng đất lập quốc của Nam Chiếu dưới thời nhà Đường. Chính vì thế mà Tam vị họ Chu ở Hương Ngải mới hiển linh, trợ giúp Cao Biền đánh Nam Chiếu. Thần tích Hương Ngải chép: “Đến năm Hàm Thông thứ 6 đời Ý Tông nhà Đường, sau khi họ Triệu ở nước Việt ta khởi binh, tự xưng là Nam Chiếu, vua Ý Tông cho Cao Biền làm đô hộ”. Cao Biền được ba vị họ Chu hiển linh phù trợ khi đánh quân Nam Chiếu. Cao Biền có bài thơ: Chu gia tam vị lẫm tinh thần Thích Hán kim Đường trước đại huân Thất thập nhi từ đô hiển thánh Ức niên thu hựu ức thiên xuân Dịch Họ Chu ba vị vững tinh thần Xưa Hán nay Đường lập đại huân Hơn bảy chục đến đều hiển thánh Trăm ngàn thu lại trăm ngàn xuân. Sau Bố Cái Phùng Hưng lịch sử các dân tộc Tây Bắc cần ghi nhận thêm một vị thủ lĩnh thời trung đại là Man Vương Mạnh Hoạch. Còn lịch sử Việt Nam cần phải nhìn nhận lại triều Thục của Lưu Bị như một triều đại chính thống của người Việt.1 like
-
Nhờ lại các cô các chú. Cháu rất cần ạ, mong dc các cô các chú giúp: Gửi cô/chú, nhờ cô/chú xem giúp cho cháu lá số của cháu con anh chị cháu với. http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 Xem tương lai bé sẽ như nào, nên theo ngành nghề nào ạ. Cháu cảm ơn cô/chú nhiều!1 like
-
Số 41 Kính Chào Bác Huyền Cơ Diệu Lý. Mong bác tư vấn giúp cháu đường công danh, sự nghiệp với ạ. Cháu sinh 12 giờ trưa ngày 26/05/1983 duơng li.ch. Chau ở Mỹ cháu là con lớn trong gia đình, có 1 em trai và chị nuôi Cháu dang học dại học, việc học của cháu học 10 năm rồi, mà chưa ra truờng, lam cháu chan quá. Cháu muốn hỏi 1. Cháu tín bỏ học nghành duợc sĩ và học nghanh sửa xe va làm kinh doanh sua xe hơị Có thành công không bác?? 2. Tiền va sự nghiệp giờ cháu chưa có gì cả, số cháu khi nào mới có tiền ? cháu có giàu nổi không ạ?? 3. Mây năm về truớc cháu nói vợ'i gia dình cháu là cháu muốn nghi học va cháu bị ếp phải di hoc. Giờ cháu thiếu nợ tiền nhà nuớc rât nhiềụ Cháu chán va muốn bỏ hoc di hoc nghề và sao này có tiền mở tiệm sua xẹ Đây là đường link lá số của cháu: http://www.lyhocdong...w=screen&size=2 Cháu cảm ơn bác.1 like
-
II - Văn minh Lạc Việt. Cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. I - Cội nguồn lịch sử của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nền văn minh Hoa Hạ đã được minh chứng không phải là cội nguồn Lý học Đông phương. Sự mơ hồ, mâu thuẫn trong nội dung và tình trạng bất hợp lý trong hình thành lịch sử từ những văn bản trong cổ thư chữ Hán, đã chứng tỏ điều này. Vậy thì phải có một nền văn minh, một xã hội là chủ nhân của nền văn minh này. Vì nó không thể từ trên trời rơi xuống. Đó là nền văn minh nào? Tìm trong những nền văn minh cổ gần gũi với văn minh Hoa Hạ trong suốt hàng ngàn năm lịch sử như: Cao Ly, Nhật Bản, Ấn độ, Tây Tạng không thể thấy được những dấu ấn khả dĩ mở bức màn huyền bí của Lý học Đông phương. Chỉ có một nền văn minh, tuy được nhắc đến một cách mơ hồ trong quá khứ, nhưng rất gần gũi và ngay sát biên giới với nền văn minh Hoa Hạ cổ. Đó chính là văn minh Văn Lang của người Việt cổ, bên bờ nam sông Dương tử - mà người Hoa Hạ sau này gọi là nước Ba và họ cho rằng đã biến mất một cách bí ẩn vào thế kỷ thứ III BC (Thời điểm sụp đổ của nền văn minh này theo chính sử Việt). Một giả thuyết ban đầu được đặt ra cho cội nguồn lịch sử đích thức của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về nên văn minh Bạch Việt xưa - trải gần 5000 năm văn hiến ở Nam Dương tử. Giả thuyết ấy đã được minh chứng, qua những di sản vật thể và phi vật thể còn lại của nền văn minh này, những tư liệu lịch sử, những bằng chứng khảo cổ đã minh chứng những dấu ấn của thuyết Âm Dương ngũ hành còn lại trong nền văn minh này và xác nhận chú quyền của nó. Cho dù những gì còn lại của nền văn minh Bách Việt ở Nam Dương tử chỉ còn lại những mảnh vụn, bởi sự tàn phá của thời gian lịch sử từ hơn 2000 năm qua. Nhưng nó lại chứng tỏ tính hợp lý, khách quan và nhất quán một cách sắc sảo hơn tất cả những di sản đồ sộ từ cổ thư chữ Hán. Những di sản còn lại của nền văn minh Việt ấy, cho thấy một nền tảng tri thức, văn hóa, xã hội làm nên những khái niệm cua thuyết Âm Dương Ngũ hành. Hoàn toàn có khả năng khám phá bức màn huyền bí của văn hóa Đông phương, phục hồi lại một cách hoàn chỉnh học thuyết này và làm sáng tỏ được một thực tại khách quan - từ những tri thức vũ trụ, thiên nhiên, xã hội, cuộc sống và con người mà lý thuyết đó phản ánh. Lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch, được minh chứng thuộc về người Lạc Việt ở Nam Dương tử, sẽ chẳng có tác dụng gì, nếu nó vẫn ngớ ngẩn với nguyên si nội dung mà sách Hán chuyển tải đến ngày nay, theo kiểu "Thái Cực tức là Vô cực"...Nó sẽ chỉ là một thứ tranh chấp bản quyền ngớ ngẩn, vì quyền lợi và thói hư danh của con người, như các vụ kiện xảy ra trên thế giới. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy... II - Nội dung thuyết Âm Dương Ngũ hành nhìn từ văn minh Lạc Việt. Nền văn minh Lạc Việt xác định khác hẳn về nguyên lý căn để của tất cả các phương pháp ứng dụng trong cổ thư chữ Hán. Đó là nguyên lý: "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt". Đây chính là chiếc chìa khóa mở ra tất cả những bí ẩn của nền văn minh Đông phương, một thời bí ẩn đến huyền vĩ. Nguyên lý này đã thay thế cho nguyên lý "Hậu Thiên Văn Vương phối Lạc Thư", mà văn bản chữ Hán miêu tả có nguồn gốc từ trên lưng con rủa ở sông Lạc Thủy.Từ nguyên lý căn để này, giải thích một cách hợp lý tất cả các vấn đề liên quan trong mọi phương pháp ứng dụng và điều quan trong hơn cả là nó đã thống nhất tất cả các phương pháp ứng dụng trong nguyên lý căn để này. Từ đó, nó xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là một học thuyết nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hợp lý nội tại, tính quy luật và tính khách quan - ngay từ sự hình thành nên nó - và khả năng tiên tri. Hay nói cách khác: Nội dung thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi nhân danh nền văn hiến Lạc Việt với lịch sử trải gần 5000 năm, hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học hiện đại cho một lý thuyết khoa học. Trên cơ sở này chính là điều kiện để thống nhất tất cả những cái gọi là "trường phái " Phong Thủy trong các giai đoạn phát triển khác nhau được coi là xuất phát từ văn minh Hán, trở về với cội nguồn đích thực của nó là một khoa ứng dụng nổi tiếng của nền văn minh Đông phương - Tôi gọi tên là Phong Thủy Lạc Việt để xác định lịch sử của nó và phân biệt với khái niệm phong thủy vốn lưu truyền sai lệch trong các bản văn chữ Hán. Phong thủy Lạc Việt là một thí dụ sinh động cho sự thay đổi và minh chứng một cách khoa học cho chính bộ môn này. Đó chính là sự tổng hợp một cách nhất quán, hoàn chỉnh và hợp lý tất cả những mảnh vụn bị Hán hóa của Phong thủy - quen gọi là trường phái và mâu thuẫn lẫn nhau. III - Khả năng phản ánh thực tại khách quan & giải thích hợp lý các vấn đề liên quan: Trân cơ sở nguyên lý căn để được xác định từ văn minh Lạc Việt - "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" - Thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ rất rõ nét một thực tại khách quan làm nền nền tảng nhận thức tạo ra nó. Đó chính là tri thức thiên văn cổ Đông phương và sự tương tác có tính quy luật của vũ trụ. Hòa toàn không hề mơ hồ và huyền bí như trong cổ thư chữ Hán. III - 1: Nó minh chứng rằng: Tử Vi chính là các hiệu ứng tương tác có qui luật từ các ngôi sao trên Thái Dương Hệ và trên bầu trời Thái Dương hệ So sánh tính chất Ngũ hành của Hà đồ với Thiên Bàn 12 cung Tử Vi Hậu thiên Lạc Việt phối Hà đồ Đồ hình thiên bàn 12 cung tử vi III - 2: So sánh Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt với mô hình qui ước tương quan trái Đất và bầu trời Hoàng Đạo. III - 3: So sánh vận động quĩ đạo chuyển động đảo biểu kiến khi quan sát các vì sao từ trái Đất với qui ước biểu kiến trong cách tính đại hạn của Tử Vi. Phương pháp tính lưu Đại Hạn trong Tử Vi Hiệu ứng chuyển động đảo biểu kiến quỹ đạo chuyển động của các vì sao khi quan sát từ Trái Đất. III - 4: Giải thích mối liên hệ của cửu tinh trên Thái Dương Hệ với Địa cầu (Được đặt tên theo Ngũ Hành - Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ...) vv......vv....... IV - Kết luận: Có thể nói rằng: Kể từ khi xác định cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, thuyết Âm Dương Ngũ hành đã chứng tỏ là một học thuyết khoa học nhất quán, hoàn chỉnh có khả năng miêu tả mọi điều trong vũ trụ và cuộc sống quanh ta bằng những khái niệm của nó và khả năng tiên tri. Đây không phải là một sự phủ nhận những giá trị học thuật và những phương pháp ứng dụng đã tồn tại hàng thiên niên kỷ với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Mà chỉ là sự hiệu chỉnh từ nguyên lý căn để và giải thích một cách hợp lý bằng một cách khác. Sự hiệu chỉnh này về cội nguồn lịch sử và nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và bát quái đã chứng tỏ tính phù hợp với tất cả mọi tiêu chí khoa học của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Học thuyết này - sau khí hiệu chỉnh nguyên lý căn để và giải thích bằng một cách khác, nhân danh cội nguồn thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến - đã giải thích từ sự hình thành vũ trụ cho đến mọi vần đề liên quan đến con người, từ những hạt vật chất đến các thiên hà khổng lồ có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Đây chính là tiêu chí của một lý thuyết thống nhất khoa học mà nhân loại đang mơ ước. Tri thức khoa học hiện đại đang tiếp tục tiến về phía trước. Nhưng lý thuyết khoa học mới nhất bây giờ và trong tương lai, có thể đúng và có thể sai. Nhưng tất cả những tri thức khoa học được thừa nhận là phản ánh chân lý khách quan, đều có thể tìm thấy những điểm tương đồng của nó trong thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Để kết luận bài viết này trên diễn đàn, tôi xin được nhắc lại câu nói nổi tiếng của SW Hawking: Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất, thì chính nó quyết định còn người có tìm ra nó hay không? Xin cảm ơn sự quan tâm của quí vị.(*). Còn tiếp -------------------------- * Chi tiết về những minh chứng này. Xin xem các sách đã xuất bản và các tiểu luận của Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn và trên trang chủ của diễn đàn1 like
-
Anh Vuivui thân mến. Anh đặt vấn đề: Anh Vuivui thân mến. Tôi đồng ý với anh điều này: Tức là nếu chỉ giới hạn ở sự phát hiện ra cái bất hợp lý thì vấn đề chắc cũng sẽ dừng lại từ lâu và chắc chắn là tôi đã không xuất hiện - lần đầu tiên - trên mạng ở tuvilyso.com. Chính vì để tiếp tục chứng minh cái đúng sai thuộc về khách quan , nên tôi đã liên tiếp viết để chứng minh điều này. Tôi cũng không phải là người đầu tiên phát hiện ra tính bất hợp lý trong hệ thống liên quan đến Lý học từ cổ thư chữ Hán. Trong suốt thời gian lịch sử văn minh Hán , đã có rất nhiều nhà nghiên cứu Hán từ hàng ngàn năm trước cũng đã nhận thấy điều này. Thí dụ như Bảo Ba đời Tống; hoặc cố gắng giải thích những bí ẩn của Lý học, như Chu Hy..vv...chẳng hạn. Các nhà nghiên cứu Lý học Việt Nam như Giáo sư Nguyễn Hữu Lượng, Nguyễn Hiến Lê...vv.... cũng nhận thấy tính mâu thuẫn bất hợp lý đó. Về việc chỉ ra cái bất hợp lý thì tôi không phải là người đầu tiên, mà phải nói rằng hàng ngàn học giả Đông Tây kim cổ cũng nhận thấy ở những khía cạnh khác nhau (Sự thống nhất của giới khoa học hiện đại - một thời - cho rằng Lý Học là mê tín, thể hiện sự huyền bí và bất hợp lý trong nhận định của họ). Tôi chỉ là người tổng hợp và hệ thống lại, cộng với những nhận định riêng của tôi bổ sung thêm mà thôi. Tuy nhiên, nếu như tôi cũng chỉ dừng lại ở sự chỉ ra tính bất hợp lý như các học giả Đông Tây Kim Cổ thì vấn đề chắc cũng không có gì để bàn. Vấn đề tiếp tục ở chỗ: Tôi đã hiệu chỉnh, minh chứng tính hợp lý của nó sẽ phải như thế nào. Đúng sai thuộc về sự phản ánh bản chất khách quan của sự việc. Và điều này đúng như đoạn nhận định của anh sau đây: Từ những cái bất hợp lý đó - nhưng lại có hiệu quả ứng dụng thật đáng kinh ngạc - mà tôi đã chỉ ra, dẫn tới sự hiệu chỉnh và minh chứng tính hợp lý của nó, mà anh và mọi người đều biết: "Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ" với việc hiệu chỉnh bản "Lục thập hoa giáp" thành "Lạc thư hoa giáp". Hoàn toàn không hề đặt dấu chấm hết cho nền văn minh Đông phương kỳ vĩ, mà tôi đang cố gắng chứng minh: Đó chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang tìm kiếm. Như vậy, rõ ràng không phải là "đặt dấu chấm hết " cho nền Lý học Đông phương, mà là làm sáng tỏ chân lý.Tuy nhiên, tôi không đồng ý với anh ở điểm này: Bởi vì, khỉ đã chỉ ra cái bất hợp lý - tất yếu phải chứng minh thế nào là hợp lý. Điều này tự thân nó đã không thể tiếp tục giữ lại những cái cũ. Mà bắt buộc phải hiệu chỉnh, hoặc thay thế phủ nhận cái cũ. Trong trường hợp của tôi chỉ là sự hiệu chỉnh. Còn nếu như nhận định của anh "không cần phải thay đổi những cơ sở của nó" thì điều này chỉ là sự giải thích nó bằng một cách khác. Thí dụ: "Con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng Hà là cơ sở của Tiên Thiên Bát quái" - Nếu không hiệu chỉnh hoặc phủ nhận vì tính bất hợp lý - thì phải được giải thích bằng cách khác. Cách giải thích mới này, không những cần hợp lý với chính nó, mà còn cần hợp lý với tất cả mọi vấn đề liên quan. Điều này, đã không xảy ra từ khi vua Phục Hy nhìn thấy con Long Mã đến bây giờ là ngót 6000 năm.Tôi hoàn toàn có cơ sở chính đáng để nói rằng: Lịch sử Lý học đã sang trang khi xác định: "Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái thuộc về nền văn hiến Việt một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử". Thế giới này muốn hòa nhập thì nó rất cần, rất rất cần một lý thuyết thống nhất. Nều xét về phương diện lý học và tiên tri thì những nhà tiên tri nổi tiếng đã nói về điều này: * Nhược đài sư tử thương. Thiên hạ thái bình phong. Trạng Trình. Sử tử, chính là hình tượng thật của con Long Mã và đó chính là biểu tượng của Hà Đồ - như tôi đã trình bày - Nguyên lý căn để của Lý học Đông phương. * Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại. Vanga Lý thuyết đó là lý thuyết nào? Chẳng có một lý thuyết nào phong phú trên thực tế ứng dụng thể hiện qua phương pháp luận của nó vượt ra ngoài thuyết Âm Dương Ngũ hành cho cuộc sống con người. Nhưng tất nhiên đó phải là một học thuyết nhất quán, hoàn chỉnh với một lịch sử rõ ràng, thỏa mãn tất cả những tiêu chí của khoa học hiện đại. Chứ không phải mơ hồ và bất hợp lý nhưng trong cổ thư chữ Hán ghi nhận. Vấn đề cuối cùng mà anh nói tới: Tôi nghĩ rằng điều đó chính là mục đích đang hướng tới của sự hiệu chỉnh này.1 like
-
Thưa chú Thiên Sứ, Rin86 và ACE Đây là bản dịch mà GOOGLE dịch sang tiếng Anh từ bài viết này, Rin86 hoặc ại đó nếu có thể hiệu chỉnh lại thì tốt biết bao, vì như thế thì loạt bài quan trọng này sẽ có song ngữ. Chỉ là một gợi ý mong được sự ủng hộ của các anh chị em. Trân trọng Nguyễn Thế Trung Original Source of I Ching and theory of Yin and Yang From the two civilizations of East-West exchanges in the historical development of mankind, the whole world have recognized that the I Ching system methodology and related theory of Yin Yang Five elements of a creating a critical look at the mysterious and legendary Great Eastern culture is completely deadlock. There are many different opinions about the history, content and nature of the I Ching Yin and Yang theory of Five, But all is not enough to convince. The article below is a summary of the book was published by Nguyen Vu Tuan Anh from the back here in 1998 to determine a view on the history, content and purpose of the I Ching Yin and Yang theory of Five administration. I - HISTORY OF THEORY IN STOCK Marble yang Han LETTER. I - 1: The problem of the theory of Yin and Yang Ching Ng. Ever, we can say that the majority of those who are dealing with business services and implicitly consider all methods of application related to the theory of Yin Yang Five of ancient civilizations with Huaxia thousands of text books written about it in kanji for millennia. People do not see a document other than Han in the thousands of books from this year related to the theory of Yin and Yang Ching Ng. From astronomy, history of, Oriental medicine, feng shui, divination methods ... ... Having a lot of research work related to the I Ching. The ancient texts Han identify the author, the time appears in the history of Huaxia civilization. And the effective application over time in the history of human development and through any office space with the ability to prophecy, has to justify the author and the origin of it. But, when there is a cultural exchange between East and West, people have noticed the mystery and ambiguity of the original value associated with calculated theoretical foundation of the theory of Yin and Yang Ching Ng . Oriental civilization became aware of the occult in modern scientific knowledge. There has been a long time, Western scholars to learn that Li brought the colors of Oriental religion and superstition. But recent decades, the Western scientific knowledge is dominant and is honored in modern human knowledge became interested in the culture of ancient Eastern wisdom and realize computer and put the issue about the science of it. Agencies United Nations cultural organization of four workshops was dealing with in Beijing to learn about the I Ching, but still no final conclusions about it. The mystery of the I Ching or more broadly of Oriental Philosophy which is the core theory of Yin Yang Five still not been cleared. The modern Chinese scholars in recent years, has raised quite a movement denying the value of Y and Feng Shui, so that it is vague, no body in science, so were unable to developed from thousands of years. Ching and more broadly theory of Yin Yang Five was still challenges humanity's knowledge by the ambiguity of the concepts and effective in practice since millennia. But can say the same for thousands of years, most research topics are implicitly considered the principle, recognized in the axioms Ching is not in dispute and took to find out the criteria mystery of its contents. Although the origin of these principles is the axiom that calculation is very mystical. Toys That Ha is determined by the Long code appears on the Yellow River on a card bearing their mark on the back twists. Based solely on the king of Fu Xi, considered the king of Thailand's ancient civilization history has established the Han Ha map Map image. From this map, the King has created the first map Thien trigrams. Started a culture of service learning mysterious Oriental country. Son of the legendary Long Code from 6000 years ago, has become an auspicious symbol for use in the family believe the effect of it brings good luck. Source: mynga.vn Ha map Map image point, is the director worked with his father Emperor - 5000 years after the Han cultural history confirm the time of its birth at King Fu Xi from the Long Code back up in the Yellow River . Map Image Available Thien Bat monster legend by King Fu Xi created based on Image Ha Long Code map on its back. Mystery not stop here. Stock Kanji letter also specified that: By the time King of Great Dance - 4000 year to now - when water in the river of Us - The veranda to see the Spirit. On top, back and tail marks tomorrow periods. The king was seen as a map image and pleasure. Based on correspondence he had invented the first Marble effect known as "Hong Pham permanent categories." Redrawing the turtle Figure illustrates the point on the river itself is Lac Qui Spirit and Letter of Map Image Communications. Also directed by the Emperor in his history published after the Han culture confirm the life history 3000 years. Nine categories structured by correspondence - Marble Tru talking about the first. A thousand years later, according to ancient Han wrote that letter: King Van King Zhou, at the time a vassal of the Great House as his head, had been locked up in prison Tru Vuong Ly example, has tested the Late Bat Demon Emperor and established the system of 64 hexagram service called intentional, Write From write - ie to explain the meaning of each hexagram 64 hexagram system Thien Hau trigrams. Then he was the son of Dan Chu Cong Hao wrote more words - ie to explain the meaning of each line in a hexagram. Maybe: It has been unable to find the right one from a false. Whatever appears on the world situation must be born of it. A theory must have the life history itself as a reasonable agreement with its content. Five of Yin Yang theory can not fall from the sky, so it can not be exceptions. And yet, a theory is considered to be complete, though they did not know right or wrong can not be immediately self-contradictory in its content structure. And if it is a scientific theory, it describes the actual pjhai objectively and rationally explain the reality associated with it predictability. On this basis, invite readers to review the same issues raised above to show the exact source Ching Yin and Yang theory of the Five. I - 2: The conflict in the history of unreasonable Ching Yin and Yang theory from ancient letter Ng Han. All who learn about the I Ching, if a little hard to reflect right properties have found unreasonable and inconsistent in the history of I Ching Yin and Yang Five theory of letter by the ancient Han. Point of time appears Ching Yin and Yang theory of Ng Han through the text, we easily see right time irrationality in its history. These events, ancient Han letter described as follows: - 6000 years ago, King Long Fu Xi see the code up on the Yellow River, on the spin Then I have thought of Ha Toys. Based on the Tien Thien Ha Furniture as trigrams. But, this is only historical events recorded in writing and 2khong know how to sign Tien Thien Ha Furniture trigrams and how the structure. The image map is only really appeared in his 5000 year Song later. - After 1000 years - 5000 in the News today - the Emperor was an enlightened king should be considered with great ethnic Han makes his book God: internal economic problems Emperor. - After the next 1000 years - 4000 in the News Today - King of Great Dance which is also a legendary king, go on river water of Lac Spirit has encountered a turtle dots on head, legs, Then think of tomorrow Lac Hong Pham Ninth Letter and writing categories. In Hong Pham Ngu Nine categories of concepts appear .. Nine categories of Hong Kong referred to in natural dancers Economic Letter. But the correspondence map is also not clear how and also announced in his Song, which is more than 3000 years after ancient letter referred to the event. - Next years 1000 - 3000 in the News Today - King Van Vuong Ly was jailed 7 years in prison for example, based on correspondence, rearranged into trigrams Tien Thien Hau Wang and Astronomy structure should hexagram 64 Late Heavenly. He was the son of Dan Chu Compose written word, from the 64 hexagram Hao Zhou Services. Map image Hau Thien Vuong Van trigrams, also announced in his 2000 year Song later. - Next 500 years later - how today's News in 2500 - at the age of Confucius, written cross Duc, from the commercial system, lower stories and stories monster theory - complete set intentionally begin today. In the writings of Confucius, said to Yin Yang, Tai Chi and athletic facilities. - 200 years - or about 2300 years to this day - Appeared Yin Yang derivative is considered in the development of the theory of Five. Five of the mark also found in the book La Thi Xuan collection, considered by Lü Buwei, a relatively King. The researchers said that the modern theory of Yin Yang and Five integrated into the Han Dynasty. - Anno Domini 1000 in the map image to appear - Ha Toys, Communications Letters, natural Hau, Tien trigrams natural - such as directed by Kang Xue Shao, Chen announced the Lao delegation and they acknowledge the author things This image belongs to Fu Xi, Dai Yu and Chu Van Vuong as described above. Chen Lao delegation also considered the author of the subject Astrology, Shao Kang Xue longer considered the author of United Services of Mai. During the more than 2000 years, the research, learn Ching Yin and Yang theory of the Five researchers Han grapes - potential out since then - starting from: Mao Dien Tho, Business Office, Manh Hy - Life Han ... etc. .. every team left the famous philosophers on the theory of Yin and Yang Ching Ng. The most notable achievements was his famous Soong Chu Greece with infinity theory and many people believe to this day. The Emperor said his own economic problems - the researchers appear to be from the second century BC to the I century AC - but the text describing the content Emperor quarterly dialogue with the devil and from 5000 year to date and fully use this methodology of the theory of Yin Yang Five - is considered a basic methodology of the Eastern Health can not be placed in any period in history that the Chinese civilization. Because with this content, it was verified that: Methodology of theory of Yin Yang Five appeared before all the authors considered invented this theory is the Great Yu, Confucius and Yin both parties Yang family (capital are thought to exist in the third century BC khaong. That is the time of his appearance Emperor internal trade than 5000 years?). as its methodology is applied in its content. Default of "Emperor of the internal economic problems," has denied all of the historical development of the theory of Yin Yang Five letters described in ancient Han. 1-3: Conclusions Any theory will have to be formed from the vivid visual perception to abstract thought and a general theory. Of course it must have a background knowledge to form social theory with the concepts that are common in civilizations created them. But the next thousand years have passed, The Huaxia civilization does not explain the concept of a theory which is considered by them. The contradictions in chronological form upon theory of Yin Yang and Ng Ching Han in ancient letter identified Huaxia civilization is not the source of the I Ching Yin and Yang theory of the Five. Want to historical theory of Yin and Yang Ching Ng belong Huaxia civilization must rewrite the entire agreement of origin under the said order, but the main text Han noted. But such self-denial that is the whole history of music theory and Yang Ching Ng from the ancient Han mail. II - CONTENT AND THEORY Marble yang Ching Han textual. A theory must have a reasonably content with itself, even for an appropriate form with the fake rules. So just to calculate conflict in history Ching Yin and Yang theory of Ng Han in ancient letters, duly proved Huaxia civilization can not be the owner of the I Ching Yin and Yang theory of the Five. When the pros characters in the history of the time it's completely irrational manner: "Having a child before birth father. Born children born before he was keeping house. " However, the problem does not just stop there. A more vivid evidence not least in and verify that the clearest way: Huaxia civilization can not be the owner of the theory of Yin and Yang Ching Ng is its content. Contradictions in the content of the theory of Yin Yang Ng Han in ancient letters shown in the following issues: II - 1: Background knowledge in popular culture and Han Yin Yang theory of the I Ching Ng. In fact, a theory must be matched on the basis of common knowledge that society can continue to the concept of it. But the theory of Yin and Yang Ching Ng handed down in ancient Han letter did not satisfy this condition. Right now, the U.S. lacked - was considered a human life begin 20th of Shao Kang Xue - a notable track the total number of published services Mai Hoa - also do not know where to base themselves on the Cross Continental United adjacent table. He admitted this in his work. At the same time determined that: Has been for centuries, the Chinese researchers also could not understand why a Continental cross table flower borders. It is extremely ridiculous, as a civilization itself as the source of the theory of Yin Yang Five but can not know their ancestry based on where the product key for applications passed. This in itself determine that: Society of China is not a knowledge base to form the theory of Yin and Yang Ching Ng. That is just one example. There are many vague concepts and contradictions in the content of this theory that the researchers Huaxia modern unexplained. Eastern Health Movement denied and feng shui that are the origin of the Huaxia Chinese scholars of modern redness of this. II - 2: Conflict between the principles to Five of the theory of Yin and Yang Ching-mail from the ancient Han. 2-1: Ha Tien natural toys and trigrams. Chart below describes the eternal also coordinate with Tien Thien Ha Furniture trigrams, is arguably the king of Hi Easter detected on the Long Code back up the Yellow River and came up with Tien Thien Ha Furniture Distribution trigrams. Map image and map contact Ha Tien Thien letter trigrams by ancient Han. Review this restaurant map - the evil nature of the letter handed over the ancient Han. Specifically, the book Mai Hoa Services, announced by Xue Shao Kang Sung in life - we find: * Qian (Heaven / Kim) is located at 7 Ocean of Fire / The Ha Nam on the map. So you carved Kim Martian monsters. * Rate (Kim) is located at No. 2 is Yin Fire / Ha Southeast on map. Thus, this case: Kim Martian monsters are carved. * Li (Fire) located at No. 3 Ocean Jupiter / The map of Ha Dong. Thus, this case: Jupiter Mars are born evil. * Chan (Jupiter) is situated at No. 8 hook / Ha map of the Northeast. Thus, this case: the Air Moc Moc monster. * Smart (Turkey) located at No. 1 Ocean Glass / The North of Ha map. Thus, the Turkish monster carved Cards. * Doi (Turkey / Mountain) located at No. 6 Sound Cards / Ha map of the North West. In this case: Turkey carving Cards are monsters. * Kham (Cards) located at No. 9 Ocean Kim / The map of Ha Tay. In this case, the student Thuy Kim monster. * Xun (Wind / Jupiter) is situated at No. 4 Yin Kim / Ha map of the Southwest. In this case, Kim Wood carving the monster. Mini Reviews on the phenomenon, we also noticed immediately that: There is no compatibility between the neck of the monster with the letter of the kanji on the Ha map. There are other books that guide placement on the basis of location - situated in the South is not correct which should located the North, Khon located on the Nam Ha map. Correlate the location of the monster in the first natural trigrams does not change. We've sorted the position set out above and shown in the following chart. Map image and map contact Ha Tien Thien trigrams Review this restaurant map - the evil nature of the letter handed over the ancient Han. Specifically, the book Mai Hoa Services, announced by us on Xue Kang Sung life. * Qian (Sun / Kim) located at No. 1 Ocean Marine / Main North * Rate (Kim) is located at No. 6 is Sound Cards / North West on the Ha map. Thus, this case: Kim monsters are born Cards * Li (Fire) located at No. 9 Ocean Kim / The map of Ha Tay. Thus, this case: Kim carved the Martian monsters. * Chan (Jupiter) is situated at No. 4 Yin Kim / Ha map of the Southwest. Thus, this case: Kim Wood carving the monster. * Smart (Turkey) is located at 7 Ocean of Fire / The Map of Ha Nam. * Doi (Turkey / Mountain) located at No. 2 Yin Fire / East of Ha Nam map. In this case: Martian monsters are born Turks. * Kham (Cards) located at No. 3 Ocean Jupiter / The map of Ha Dong. In this case, the Marine Carpentry monster born. * Xun (Wind / Jupiter) located at No. 8 hook / Ha map of the Northeast. In this case, Air Moc Moc monster like you. Mini Reviews on the phenomenon, we also noticed immediately that: There is no compatibility between the neck of the monster with the letter of the kanji on the Ha map has been changed as above. In fact, the correlation of the first map is natural trigrams words can turn even how well can not find the compatibility between you and the monsters on the basis of the Five and Five of the Ha map trigrams. To find the mystery continues over this question, we continue to review compliance by the ancient Han-mail is: "Late Edition Lac letter trigrams natural wild" (natural toys Later the trigrams from the Lac Chu Greek letter). Please see your interest in the image below: Nine map distorts the letter by the ancient Han mail Van Vuong Hau natural trigrams Contact Us mail messages by the ancient Han So, with even Hau trigrams which is a natural basis of the methods applied to cover all areas have also not compatible with pleasure. This is cause for scholar Nguyen Hien Le says: "Especially comparing it with the trigrams form the rich imagination to say that some can not adapt two trigrams that form the map. " (Ching - Director of Army death) Because any reasonable calculation of the relationship right from the base to the principles of Yin Yang theory of the Five "Ha Tien natural distribution map trigrams" and "Late Natural letter trigrams with Us" - was handed down in ancient text messages Han from thousands of years - simultaneously with the appearance of late to the incongruity of this map in the history of civilization than the Han Han texts on the appearance of it, has shown that conflict very basic right in the content of the Yin Yang Five 3thuyet under the ancient Han mail. Simultaneously it is also 2nguyen people to have false conclusions that: 1) Yin Yang in Ching Ng unrelated to the issue. 2) Yin Yang Five of the Vietnamese and the Bat is a monster of the Han people. Two integration theory of time. The failure of this argument because the researchers did not derive from the criteria and methodology of science. They only see visually from the content in text and not know that Han Han letter is not complete the basic theory of Yin Yang Five. From the mistakes from the main principle to the right in its content, making an effort to spread despite more than 2000 years, the Han people and the world still can not figure out the mysteries of Oriental Civilization . One can not find a right from a wrong. III - CONTENTS OF THEORY yang Marble textual Han INABILITY IN reflects the objective. Mcolumn theory of birth must be derived from an objective reality in the evolution of cognitive development - from birth affect visual perception of reality and finally the formation of abstract thought to Essential in general and the perception that progress to form a theory to explain phenomena aware. Whether it is what the theory, the name of religion, spirituality, wrong or right, the right part or all of it still have to reflect a reality that people are aware. For example, the religious interpretation of religious doctrine for the Interpretation of the formation of the universe - by the will of God, until the movement of galaxies, to all phenomena are ... by the will of God. Religious theories explain objective reality that people are aware. This religious theory is a systematic, consistent and explain it appropriately on the basis of its methodology. But it does not take computer science because of lack of rules, objectivity and ability to prophesy. Nobody can predict what God wants and God's desire not comply with the laws. But, in the Han texts related to theory of Yin Yang Five, we can not explain it reflects a reality that makes the prophet's ability to service departments and the prophets. The concept is very obscure: Que Qian is just heaven, just as his father, just a snail, a turtle just .... so .... Or ill than dread - in the wisdom of Feng Shui for the men, not women, mother ... etc ... as in service learning. So what is the nature of them? Or need a mountain, swamp .. rate is probably not formed before the universe has mountains, a swamp? This is also the question of researchers Service in the South before 1975. Or more accurately, people can not understand why there were links with the reality on the content of the hexagram is described in Han texts. But the ability to prophesy in the forecast method with the methodology of the theory of Yin Yang Five legendary extremely great. We can say that: There is no scientific theory is the most honored in the current era can make such methods prophet. However, we can say that: Although texts in Kanji, lacks the rationale for the interpretation of issues, lack of consistency, completeness, but full rules, objectivity and ability to prophesy, be methods in applications. In other words: This is the result of the factors and in accordance with scientific criteria for a scientific theory. The whole world was paying attention to the I Ching Yin and Yang theory of the Five. Agencies United Nations cultural organization has four seminars with lavish scale in Beijing - the capital of Huaxia civilization - where the whole world that is the source of oriental civilization , but they did not get any results from these workshops was lavish. One can not trace any clue what reality is reflected in the related concepts from the texts related to Han Ching Yin and Yang theory of the Five. One can not find a right from a wrong. IV - CONCLUSION Thus, considering the three criteria for a scientific theory is: The historical and logical consistency in content, reflect the objective reality are not satisfied for the theory of Yin Yang and Five Ching has roots in Han civilization. To this day, the whole legacy of theory of Yin Yang Five-mail originated from the ancient Han foot stomping in place and still not develop. Even in China, where Li was considered a source of Oriental Studies of the Chinese scholars also spoke out sandals Oriental medicine, as Feng Shui is just the trick. The impasse for thousands of years in texts related to Han Ching Yin and Yang Five thuyett is proof of justifiable calculated vague and not capable of reflecting an objective reality in the text words Han. It has been denied by the Chinese government and even the scholar, also said that the study of Oriental Li transmitted only by intuition and experience. Source theory of Yin and Yang Ching Ng does not belong Huaxia civilization it from? In the history of Oriental civilization, right next Huaxia civilization over 2000 years ago, has existed a civilization with a great title match suspension culture. It is a country stretching from the reign of King Hung border north Dongting Lake, Sun Lakes south, west and east Three Independent East China Sea. The source of their evidence coio theory of Yin and Yang Ching Ng belong to the cultures of Vietnam is also an evidence of Sharp: Vietnamese over a nearly 5000 years of culture and a border stretching from legendary great southern bank of Yangtze River in: The name of the ethnic Vietnamese culture by the theory based on a thoroughly explained from the formation of the universe, until all issues related to human, from the giant galaxy to the small particles of matter Best. You can read this is regarded as a hypothesis and will be further demonstrated in subsequent articles. ------------------------------------ Reference: - Time Hung Vuong through myth and legend. Culture Publishing House, 2002. Nguyen Vu Tuan Anh. - Find the original point I Ching. Culture Publishing House, 2002. Nguyen Vu Tuan Anh. - Ha Toys in Lac Vietnamese civilization. Culture Publishing House, 2002. Nguyen Vu Tuan Anh. - Fate is real or not? - http://www.lyhocdongphuong.org.vn Nguyen Vu Anh Tuan Source: Management Research Center of Oriental Studies1 like
-
Về chủ đề này tôi xin mạn phép có vài ý kiến. Qua chiêm nghiệm cũng như qua thực tiển mà bản thân tôi gặp phải, đúng là đời người có vận - hạn, có may mắn và xúi quẩy. Câu "Phúc bất trùng lai - Họa vô đơn chí" là điều đầu tiên tôi muốn nói đến. Khi gặp phúc hoặc những điều may mắn mong các bạn hảy ghi nhớ "Phúc bất trùng lai" mà nên cố gắng giữ cho tâm thật trong sáng để bình tâm mà hưởng phúc, bình tâm mà phát huy. Không nên vì quá đắc ý thành ra thách thức mà sanh ra di hận lên các mối quan hệ, tức là vô tình đã tạo nên mầm móng của những di họa mà chính mình hoặc người thân sẽ hứng lấy nó ngay sau đó rất đáng tiếc. Đây là những việc hết sức cụ thể, có hệ lụy cụ thể, không hề có yếu tố mơ hồ hay siêu hình nào can thiệp vào đây cả. Những đức tính khiêm tốn, tự tin, hợp tác, biết ơn và thân thiện là hết sức quí báu để phát huy "phúc ấm". Những tật tính như tự đắc, tự mãn, kiêu ngạo, coi trời bằng vung, chỉ có ta là khôn, là nhất, chỉ mình ta làm được, không cần ai hết, bất hợp tác, vô ơn... là điều cố gắng tránh vì chúng rất dễ lớn mạnh để thành lực lượng khống chế bản thân khi ta đang thành công, và sự di họa từ chúng là điều chắc chắn. Ngược lại, khi gặp họa hoặc những điều xúi quẩy hay ngay những năm được cho là xui rủi như "hạn tam tai"..., mong mọi người hảy ghi nhớ câu "Họa vô đơn chí" mà nên bình tâm tu thân dưỡng tánh, nghĩ thiện làm thiện, chủ động nhường nhịn để từng bước hóa giải tai họa, giảm thiểu thiệt hại. Không nên vì quá bất đắc chí hoặc quá lo lắng thành ra liều lĩnh mà sanh ra sân hận hoặc làm tăng thêm sự rối rắm, phức tạp không đáng có lên các mối quan hệ. Tức là vô tình đã tăng thêm nguy cơ làm tăng nặng và đa dạng, đa phương thêm hệ lụy của các tai họa, xúi quẩy... Để hóa giải tốt nhất phải học cách chấp nhận, nên xem đó là những thử thách của đời người để tu thân dưỡng tánh mà vượt khó. Cần phải tránh việc đổ thừa cho số phận hoặc chỉ nhìn thấy lỗi của người khác, của xã hội mà sinh ra thụ động, mê tín, hận đời, hận người, bất cần đời... Vì nếu làm như vậy vô tình ta đã nuôi dưỡng tai họa và giữ chúng ở lại với ta càng lâu hơn. Những câu nói hoặc hành động sân hận kiểu như "ngu sao chịu..., phải cho nó biết tay ...., tôi đâu có ngu..." trong những năm hạn hoặc lúc xúi quẩy hầu như chỉ góp phần đốt cháy thân chủ của nó. Thay cho hành động mê tín, cúng vái khắp nơi khi vào các năm hạn mà kết quả của nó vốn không ai có thể nắm chắc được, ta làm theo cách vạn năng và chắc chắn hơn nhiều đó là: "Học cách chấp nhân, bình tâm tu thân dưỡng tánh, suy nghĩ thiện, làm việc thiện, biết nhường nhịn, biết tha thứ, biết quên đi, biết vui vẻ với những cái mình đang có, thận trọng hơn trong mọi việc nhưng không lo lắng vu vơ và sống thân thiện với mọi người...". Làm được điều này không một tai họa hay điều xui rủi nào mà không hóa giải triệt để. Đó cũng là sự tu tập, hành thiện, tích thiện, là cách sống bản lĩnh thì khó khăn, thử thách nào mà không vượt qua được phải không các bạn... Thân mến1 like