• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 14/10/2011 in all areas

  1. Vẫn còn tối như đêm 30 ,năm tới dễ thở hơn có thây đổi việc cũng tốt ,nhưng sức khỏe song thân thì kém .
    2 likes
  2. Tôi cũng nghĩ như anh nguyên đoàn, sang năm người này có thể kết hôn, nhưng có thể không chính thức hay chính quy mà theo dạng bỏ trốn với người này đi nơi khác hoặc ko đc gia đình hai bên chấp nhận, nói chung gặp rất nhiều khó khăn cản trở cả về vật chất lẫn tinh thần, nhiều lúc áp lực thấy tủi thân và đơn độc muốn quyên sinh, phải tới gần cuối năm mới đỡ... Cung mệnh đương số này có cách đào hồng phục binh + không kiếp, hay bị oan trái vì tình hay phải cẩn thận bị lùa tình, hãm hiếp... Nhưng có lẽ không phải năm tới. Đương số cũng nên suy nghĩ thật chín chắn và có trách nhiệm với hành động của mình, bạn còn trẻ nên chú ý tới lời khuyên của bác haithienha và TM ở trên, coi chừng bị gạt nhé.
    2 likes
  3. Thôi miên và áp vong: Sự khác biệt từ bản chất đến hình thức http://ktcatbd.com.v...-cht-n-hinh-thc Gần đây có nhiều bài báo đăng tải ý kiến cho rằng Áp vong thực chất là hiện tượng thôi miên. Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương đã đặt vấn đề này với ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhà nghiên cứu Lý học, Giám đốc Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Toàn bộ trả lời phỏng vấn của ông như sau: Nhà nghiên cứu Lý học Đông phương, Nguyễn Vũ Tuấn Anh Theo ông hiện tượng thôi miên và áp vong tìm mộ giống và khác nhau thế nào? Theo tôi việc áp vong tìm mộ và thuật thôi miên tuy có vẻ gần giống về hình thức ban đầu ứng dụng hai phương pháp này, nhưng bản chất của chúng khác hẳn nhau. Giống nhau: * Khi bắt đầu áp vong và Thôi miên thì người bị thôi miên và được Áp vong đều ở trạng thái không điều khiển được ý thức của mình. Thuật thôi miên có thể thôi miên tập thể, hoặc cá nhân bởi một người sử dụng thuật này. Thuật Áp vong cũng có thể áp vong tập thể bởi một nhà ngoại cảm. Khác biệt: *Thuật thôi miên chỉ dừng lại ở sự tương tác với tiềm thức và ý thức của đối tượng được thôi miên qua những hành vi bất thường của họ. Đây là sự khác biệt căn bản, nhưng không thấy các bài báo và nhà thôi miên Nguyễn Mạnh Quân nói tới sự khác biệt này. * Về nội dung thì nhà ngoại cảm giải thích là do vong của những người trong gia đình nhập vào những người được Áp vong. Tức là - với cách giải thích này - những người được vong nhập không chịu sự tương tác trực tiếp từ nhà ngoại cảm mà chịu sự tương tác của một hay nhóm vong tương ứng với từng nhóm gia đình khác nhau. Còn với thuật thôi miên thì chỉ chịu sự tương tác duy nhất bởi người thôi miên cho một hay nhiều người bị thôi miên. * Những vong nhập vào từng gia đình có thể kể chuyện về mối quan hệ quá khứ của vong với người thân trong gia đình đó. Qua câu chuyện vong, những người trong gia đình có thể thẩm định đó chính là vong của người thân hay không. Đây là điểm khác biệt đầu tiên mặc dù hiện trạng không kiểm soát ý thức giống nhau của người bị vong nhập và người bị thôi miên. Người bị thôi miên không thể nói chuyện có tính riêng tư và trao đổi tình cảm với tư cách một người đã từng chung sống với người thân. * Sau khi vong nhập thì vong đó có thể chỉ ra chỗ hài cốt mà họ đang nằm và có thể kiểm chứng bằng thực tế - Tức là đào chỗ đó lên có cốt hay không. Ở đây, tôi xin lưu ý là: Tôi chưa bàn đến vấn đề cốt tìm được đó có đúng là của người chết cần tìm không. Còn thuật thôi miên không thể hiện được điều này. Quan điểm của tôi là: Khi nghiên cứu khoa học thì phải thừa nhận hiện tượng khách quan tồn tại. Thuật thôi miên là một thực tế khách quan đang tồn tại, được chứng tỏ bằng những người bị thôi miên không điều khiển được ý thức của mình. Áp vong cũng là một thực tế đang tồn tại và được chứng thực bằng một hệ quả khách quan là tìm được hài cốt sau đó. Vấn đề còn lại để gọi là nghiên cứu khoa học đích thực chính là tìm hiểu cơ chế tương tác nào là nguyên nhân của những thực tại khách quan trên, hoặc một cách giải thích hợp lý phù hợp với tiêu chí khoa học cho một luận điểm nhân danh khoa học. Người bị thôi miên và tự kỷ ám thị Người tự kỷ ám thị và người thôi miên để người ta tự kỷ ám thị là hai vấn đề khác nhau. Có người không cần thôi miên, mà do họ tự kỷ ám thị. Ví dụ như người bị hoang tưởng hay tâm thần cũng rơi vào trường hợp tự kỷ ám thị. Sự tự thân tự kỷ ám thị phụ thuộc vào môi trường nhận thức. Thí dụ ở phương Đông, người tự kỷ ám thị có thể nhận là con Ngọc hoàng thượng đế. Nhưng ở phương Tây là người tự kỷ ám thỉ có thể nhận là cháu của chúa Jesu, bởi vì họ không biết Ngọc hoàng thượng đế là ai. Tự kỷ ám thị bị ảnh hưởng bởi tri thức nền tảng của môi trường xã hội mà họ đang sống và họ tự cho là họ có khả năng gì đó, ở người tâm thần cũng có hiện tượng này. Cho nên chúng ta cũng không loại trừ có những người tự kỷ ám thị là họ có khả năng áp vong. Những người này có thể quảng cáo khả năng của họ, nhưng lại không ứng dụng được trên thực tế. Trường hợp thôi miên thì cũng là một dạng tự kỷ ám thị , nhưng do tương tác trực tiếp của nhà thôi miên và lệ thuộc vào sự tác động này. Ngoại cảm và người vong nhập tìm mộ. Khi xảy ra hiện tượng được các nhà ngoại cảm gọi là "vong nhập" thì xuất hiện hiện tượng giống như hiện tượng bị thôi miên mà tôi đã nói ở trên. Nhưng người bị tự kỷ ám thị do thôi miên không bao giờ có khả năng chỉ được ở chỗ nào đó có bộ xương được coi là của vong người chết đã nhập. Việc chỉ ra chỗ vong nằm - có thể coi như một lời dự báo và lời dự báo này có thể kiểm chứng bằng cách đào lên có cốt hay không (Tôi nhắc lại là tôi chưa bàn đến việc cốt đó có đúng là của người chết đã hiện về báo hay không? Vấn đề này cần những biện pháp thẩm định sẽ nói sau). Điều này, những nhà ngoại cảm thực sự đã thể hiện trên thực tế nhiều năm qua ở Việt Nam. Còn những nhà ngoại cảm giả hiệu và những người tự kỷ ám thị tự cho mình có khả năng này và họ sẽ bị loại trừ ngay vì tính hiệu quả không có của họ. Bởi vậy, cá nhân tôi không tin rằng một Trung Tâm ngoại cảm giả hiệu có thể tồn tại lâu nếu như thực sự không có khả năng. Bản thân tôi đã ba lần chứng kiến hiện tượng ngoại cảm tìm mộ. Tôi xác định rằng hiện tượng người có khả năng áp vong và ngoại cảm tìm mộ là thực tế khách quan xuất hiện trong tiềm năng con người. Bởi vậy, theo tôi không nên nhầm lẫn giữa ngoại cảm, áp vong tìm mộ với thuật thôi miên. Mặc dù về hình thức ban đầu của hai phương pháp có vẻ gần giống nhau , như tôi đã nói ở trên. Nhưng hiện tượng ngoại cảm , áp vong tìm mộ đưa ra một kết quả có thể kiểm chứng trên thực tế: Đào chỗ "vong " nằm có hài cốt hay không?! Thí dụ như những nhà ngoại cảm có khả năng áp vong thực sự đã được khảo nghiệm như NNC Hoàng Thị Thiêm..vv.. kết quả của những lần áp vong ấy là đưa ra vị trí hài cốt có thể đào lên để kiểm chứng. Khi đào lên, cốt được xác định là xương người chứ không phải xương của động vật hay người ngoài hành tinh. Đây chính là sự khác biệt giữa ngoại cảm và thôi miên. Người bị thôi miên hoàn toàn không có khả năng này. Ông định nghĩa thế nào là thôi miên? Theo tôi, thôi miên là phương pháp ứng dụng đã xuất hiện ở những nền văn minh cổ xưa. Đó là một phương pháp có thể truyền đạt và người học rèn luyện để có khả năng tác động tới ý thức người bị thôi miên. Do phương pháp thôi miên được ứng dụng chủ động của nhà thôi miên, nên họ có thể ngưng, hoặc tiếp tục đối với người bị thôi miên. Phương pháp thôi miên là một thực tế đang tồn tại, nhưng người ta cũng chỉ giải thích trên cơ sở thực tại khách quan đó và chưa xác định được cơ chế tương tác cụ thể như thế nào. Ông định nghĩa thế nào là áp vong? Về vấn đề này có những đối tượng liên quan cần tổng hợp để định nghĩa - khác với thôi miên - Đó là: Vong - người được áp vong và nhà ngoại cảm (Khác với thôi miên chỉ có hai đối tượng và tương tác một chiều). Nên tôi phải nói hơn là: * Về khái niệm "Vong": Cá nhân tôi không quan niệm "vong" là linh hồn người chết có hình thức giống hệt người đó khi còn sống hiện về và - hoặc là nhập vào người sống, hoặc hiển thị cho người sống nhìn thấy...vv....Về khái niệm linh hồn (vong) tôi có xu hướng quan niệm gần giống - hoặc chí ít cũng là một khái niệm để suy xét - với khái niệm "A Lại Gia Thức" theo minh triết Phật giáo. * Về hiện tượng vong nhập: Người được coi là bị vong nhập là người do tương tác của nhà ngoại cảm không kiểm soát được ý thức và thân xác bị chi phối của một dạng tồn tại gọi là vong. * Về nhà ngoại cảm: Là người có khả năng tự thân đặc biệt được phát triển trong cuộc sống của họ để có thể làm trung gian trong mối liên hệ giữa vong và người còn sống. Trên cơ sở này tôi định nghĩa "áp vong" là: Mối liên hệ giữa vong và người còn sống qua tác động của nhà ngoại cảm. Ông vui lòng cho biết quan điểm của ông về thuật áp vong và thôi miên?Có nên sử dụng phương pháp áp vong để tìm mộ không, thưa Ông? Cá nhân tôi cũng rất tin vào thuật thôi miên và theo tôi nó có nguồn gốc từ những nền văn minh cổ xưa và không thuộc về tri thức của khoa học hiện đại. Hiện nay cũng chưa có một lý thuyết khoa học nào giải thích được cơ chế của thuật thôi miên. Thôi miên là một phương pháp ứng dụng tồn tại trên thực tế. Cho nên nó cũng tùy thuộc vào mục đích của người sử dụng. Áp vong thì không phải là một phương pháp , mà nó phụ thuộc vào khả năng cá nhân xuất hiện tự nhiên của con người. Người có khả năng áp vong thực sự so với người tự nhận có khả năng áp vong để lừa bịp, hoặc tưởng mình có khả năng áp vong đều có thể kiểm chứng trên thực tế, mặc dù về hiện tượng chưa giải thích được cơ chế tương tác của nó. Bởi vậy, nói những nhà ngoại cảm dùng khả năng của mình đi lừa bịp là rất khó xảy ra. Tất nhiên với những kẻ tự cho mình là có khả năng áp vong và mang tính lừa bịp thì đây là việc của luật pháp không nằm trong phạm vi ý kiến của tôi. Áp vong tìm mộ là điều cần thiết Quan điểm của tôi là trên thế giới này - ngoài việc xử dụng phương pháp ngoại cảm áp vong - thì tôi chưa thấy một phương pháp khoa học, hoặc một phương tiện kỹ thuật nào có khả năng chỉ ra một vị trí mà dưới đó có một bộ xương, ngoài cách áp vong tìm mộ của các nhà ngoại cảm thực sự. Bởi vậy, trên thực tế cho thấy sự áp vong tìm mộ là điều cần thiết. Còn việc bộ xương tìm được có đúng là của người đã mất cần tìm hay không - như vấn đề được đặt ra gần đây - thì có nhiều phương pháp. Tôi cho rằng việc kiểm tra ADN là cần thiết, nhưng không phải là phương pháp duy nhất đúng có thể kiểm chứng. Nó chỉ cần thiết trong trường hợp mộ chôn tập thể, xương cốt lẫn vào nhau và cần phân biệt. Tôi cho rằng: Chính khả năng dự báo của những nhà ngoại cảm với những sự kiện liên quan trong quá trình tìm mộ và sự xác định có tính tiên tri những di vật khi đào được mộ đủ để xác minh tính đúng đắn và chính xác của việc áp vong tìm mộ. Khả năng tiên tri là một trong những tiêu chí để xác định phương pháp hoặc một lý thuyết khoa học. Xin cảm ơn ông! Hoàng Dung
    1 like
  4. Phá tướng cả cuộc đời vì hình xăm không đúng chỗ? Xăm hình còn được gọi là Thích thanh (dùng mực xanh chích lên người) là tục người xưa thường dùng khắc chữ lên mặt hoặc lên người phạm nhân... Xăm hình còn được gọi là Thích thanh (dùng mực xanh chích lên người) là tục người xưa thường dùng khắc chữ lên mặt hoặc lên người phạm nhân. Trước đây, chỉ những thành phần ra tù vào khám, “tiền án nhiều hơn tiền túi” mới xăm trổ đầy mình, vì vậy khi thấy ai đó có hình xăm trên người là bị liên tưởng ngày đến những thành phần bất hảo trong giới giang hồ. Ngày nay, hình xăm thậm chí còn được coi là mốt của 1 số bạn trẻ, nhưng ít ai biết có quan niệm cho rằng nếu xăm không đúng chỗ sẽ là một kiểu phá tướng. Mạng nhỏ đòi gánh… rồng Theo quan niệm của một số bạn trẻ ngày nay, hình xăm thậm chí đã trở thành một trào lưu trong giới trẻ, là một hình thức thẩm mỹ, gây ấn tượng, thể hiện đẳng cấp, ghi dấu tình yêu của các bạn trẻ hoặc xua đuổi vận hạn… Thế nhưng, một nhà nghiên cứu cho biết, nếu bạn nghĩ rằng mình có thể tùy tiện xăm lên cơ thể bất kỳ hình thù gì mình muốn thì nên bỏ ngay suy nghĩ đó, vì nó hoàn toàn sai lầm trong quan niệm của thuật phong thủy và nhân tướng học: Xăm hình thường là xấu nhiều tốt ít, xăm hình mà không thận trọng, hậu quả tai hại sẽ theo mình suốt đời. Bởi vậy, có người xăm hình xong thì mọi việc hanh thông thuận lợi (số này rất ít), có người xăm xong thì làm gì cũng gặp rắc rối, nhẹ thì có chút khó khăn rồi cũng qua, nặng thì tai nạn xe cộ phạm đến thân thể. Một nam thanh niên từng đến than thở với một chủ tiệm hình xăm tại Hà Nội: “Từ lúc xăm hình con rồng này, cháu thấy mình số đen lắm, làm gì cũng “chết”, chắc tại con rồng nhỏ quá. Chú xem cháu đang định sửa con rồng to hơn, xăm từ bắp tay đến ngực luôn có được không”. Chủ tiệm nhìn thoáng qua đã có thể nói được ngay, vấn đề ở chỗ không phải con rồng to hay nhỏ, mà chẳng qua vì mạng của bạn không thể gánh nổi con rồng đó thôi. Nói không gánh được tức là mệnh lý khắc, xăm lên xong không những không đem lại may mắn, mà ngược lại toàn đem đến những điều đen đủi. Vì vậy, dù sao mọi người cũng nên suy nghĩ trước vì xăm thì dễ mà xóa thì khó. Kỳ thực, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cuộc sống của một con người, trên đây chỉ là một cách nhìn về hình xăm trên góc độ phong thủy học và nhân tướng học. Nói về xăm hình, không đơn thuần chỉ là người thợ xăm dán hình xăm lên người bạn rồi chấm mực di mũi kim mà nó có nguyên lý của nó, nguyên lý ấy là giữa người xăm và hình xăm. Theo những người trong nghề, trong dòng xăm chính thống, khó xăm nhất là hình Quan Công, Thanh Long, Tà Long vì không phải ai cũng gánh được mấy hình này. Có người xăm hình Thanh Long quá vai chưa đến 1 tháng thì bị ngã xe gãy tay, mọi ngày chạy bạt mạng thì không sao, hôm ấy chỉ đi từ từ một tay rút cái điện thoại trong túi quần, không để ý quệt vào đuôi xe đằng trước, ngã rất nhẹ mà gẫy tay. Một người khác sau khi xăm hình cá chép hóa rồng trên vai bỗng nhiên làm ăn rất thuận lợi, chưa đến 1 năm gặp lại mà đã mua nhà, mua xe. Nhưng từ khi xăm chữ nhẫn ở sau lưng thì lại xuống dốc không phanh, tài sản hầu như tiêu tán hết, may là còn giữ được cái mạng.Trước khi xăm, người này đã được cảnh báo là không hợp với chữ nhẫn nhưng không tin, thấy thích thì cứ xăm lên, giờ lại phải xóa hình đi, người chằng chịt vết xóa. Phải đến lúc đó, người này mới đi tìm hiểu và biết được ý nghĩa của chữ nhẫn: bên trên là cây đao đè lên tim, nhúc nhích là đao đâm vào tim ngay. Với những người tính hay vội vàng, dễ kích động và hơi có chút giảo hoạt không nên xăm chữ này. “Trước khi xăm chữ nhẫn tuyệt đối phải nên xem tính cách của mình có hợp với ý nghĩa hay không”, một nhà nghiên cứu phong thủy cho biết. Suýt chết vì “phạm thượng” Theo một chủ tiện xăm lâu năm am hiểu về phong thủy, hình xăm phải tương thích với thực lực, tính cách, mệnh lý của từng người, nếu không hiểu biết thì may mắn và đại họa chỉ cách nhau gang tấc. “Cách đây không lâu có một thanh niên cùng bạn đến tiệm nằng nặc đòi xăm hình “Quan âm ngồi đài sen” trên lưng, tôi hỏi liệu cậu có gánh được không, người thanh niên quát bảo tôi có tiền thích xăm gì chẳng được, ông cứ xăm cho tôi, không phải lằng nhằng. Lúc ấy, tôi nói không phải do vấn đề tiền nong mà thấy cậu còn trẻ giống một anh bạn giang hồ mới nổi chỉ nên xăm hình “hổ hạ sơn” là hợp lý, ra ngoài gặp giang hồ cộm cán thấy cậu chỉ là con hổ mới xuống núi, vừa bước chân vào xã hội thì họ cũng không gây khó dễ cho cậu. Cậu thanh niên kia nhất quyết không chịu, còn đe dọa quậy phá để cho tôi đóng cửa tiệm để xăm hình bằng được mới thôi, tôi cũng đã cảnh báo trước nếu có chuyện gì xảy ra thì đừng trách không nói trước”, vị chủ tiệm này kể lại. Hôm đó, xăm mất 8 tiếng đồng hồ mới xong, chủ tiệm cũng đã nhắc nhở thanh niên đó phải tắm rửa sạch sẽ, thắp hương chay tịnh 1 tuần rồi sau làm gì thì làm. Ai ngờ, 4 hôm sau anh ta đi mát xa, thư giãn, đến lúc dẫm lưng bỗng nhiên thanh sắt là tay bám bên trên tuột ốc rơi xuống, cô gái mát xa trượt chân ngã, khuỷu tay của cô gái chống thẳng vào gáy cậu thanh niên kia. Hậu quả ai cũng đoán ra, cậu thanh niên đó bị tổn thương đốt sống cổ, điều trị hơn 3 tháng mới đỡ. Vị chủ tiệm xăm giải thích: “Anh thử nghĩ xem liệu có thể dẫm lên mặt Quan âm được không, như vậy là bất kính với Phật. Tuy cậu thanh niên kia đã xăm hình Phật lên người nhưng trong tâm niệm không có thần phật tồn tại, thường hay tà niệm, tính tình ngang ngược vốn đã không có duyên với Phật rồi, tôi đã biết trước thế nào cũng có ngày xảy ra chuyện nhưng cậu thanh niên kia không tin”. Một chủ tiệm xăm khác tại Hà Nội cũng cho rằng: “Chỉ lấy một vài ví dụ đa phần mang tính trùng hợp này để chứng minh thì không có tính thuyết phục lắm, bạn có thể tin hoặc không tin, chỉ muốn nhắc nhở các bạn rằng không phải cứ thích xăm hình gì là xăm, vì có nhiều cái mệnh của bạn không hợp, may mắn không thấy đâu, có khi còn bị nó…vật”. Ông giải thích: “Nghĩa là người như thế nào thì xăm hình ấy, không thể tùy tiện, cái này một phần có nguyên lý bắt nguồn từ Chu Dịch. Ví dụ người mệnh kim thì dương khí tương đối vượng nên không thể xăm Thanh Long (thuộc tính dương), nếu xăm lên sẽ thành ra lửa cộng lửa, âm dương không điều hòa, sớm muộn gì cũng tự… đốt chết mình. Một số quan niệm về xăm hình trong phong thủy và nhân tướng học Xăm hình “tứ thú” có thể gây tổn nguyên khí: Nhiều bạn trẻ lý giải về xăm hình “tứ thú” trong thuật phong thủy và cho rằng khi đã xăm thì phải là: tả Thanh Long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ (bên cánh tay trái xăm hình rồng xanh, cánh tay phải xăm hình hổ trắng, ngực trước xăm hình chim công, sau lưng xăm hình Huyền vũ (Huyền vũ là một trong tứ tượng của thiên văn học Trung Quốc, là linh vật thiêng liêng có tượng là hình con rắn quấn quanh con rùa màu đen)). Nhưng trước khi xăm, bạn nên cân nhắc kỹ vì tuy nó là 4 linh vật thánh đem lại may mắn nhưng không phải cho tất cả mọi người, chỉ một số người gánh được 4 linh vật này, còn lại với đa số người thì được coi là hung. Xăm ngực hoặc phần dưới cơ thể dễ loạn hậu thế: Hiện nay có nhiều người xăm vào ngực, bụng, eo, đùi,… quả thật những hình xăm rất tinh tế, nhưng trong quan niệm của thuật phong thủy thì những hình xăm phá tướng đó khiến phần hạ thế, nơi cất giữ phong khí lớn nhất của con người bị tổn hại, khí thoát ra ngoài nên nếu chưa có gia đình thì ảnh hưởng đến tình duyên, nếu không thì sau này ảnh hưởng đến sinh nở hoặc sẽ phát sinh rắc rối trong mối quan hệ giữa con cái và bản thân. Xăm hình ở ngón tay sẽ khắc chồng, khắc vợ. Nữ xăm hình ở ngón tay của cánh tay trái, chồng bạc duyên; xăm ở ngón tay của cánh tay phải thì nhân duyên kém; con trai thì ngược lại. Xăm vào mông có thể gặp nhiều điều thị phi: Theo vị lý học phong thủy thường đề cập đến các “luân đầu”, phần mông trên cơ thể người là nơi “luân đầu” quan trọng nhất của con người, một khi luân đầu này bị “tấn công”, bị cắt đứt, thị phi cũng theo đó mà đến (giống như bị triệt long mạch). Đi đến đâu bạn cũng sẽ gặp “quỷ con – chỉ vận hạn nhỏ nhưng thường xuyên”, khó mà dứt ra được. Xăm hoa văn bên đùi khiến đường đời gập ghềnh: Nếu bạn vốn có vận may rất tốt bỗng nhiên trở nên gặp khó khăn sau khi xăm hình trên đùi thì có thể bạn bị phạm rồi. Xăm hình để che vết sẹo: Nhiều bạn vì trên cơ thể có vết sẹo xấu nên xăm hình nhằm che đi chỗ xấu ấy nhưng lại không biết rằng sẹo trong phong thủy vốn dĩ đã là chỗ gây tổn hại đến khí, xăm hình lên chỗ sẹo thành ra là loạn lại càng thêm loạn; nếu vết sẹo không ảnh hưởng nhiều thì không nên can thiệp. Xăm ở vai, ở cổ gây mệnh khổ: Xăm hình sau lưng biểu thị cả đời lúc nào cũng vất vả, gánh vác, áp lực lớn. Trong nhân tướng học, vai, cổ là đại diện cho hệ thống hô hấp vì vậy khi xăm hình lên bộ phận này dễ gặp vấn đề liên quan đến hệ hô hấp. Xăm hình động vật dễ gây hỗn loạn trong tâm tưởng: Xăm hình nhân vật, động vật hoặc côn trùng biểu thị suốt đời bị người khác sai khiến, chỉ huy, không có chủ kiến. Đồng thời khi xăm hình động vật cần chú ý đến vấn đề xung khắc các con giáp. Người tuổi Thìn, Tuất, Mão, Hợi đặc kị xăm hình Rồng; người tuổi Thân, Tỵ đặc kị xăm hình Hổ; người tuổi Mão, Dậu, Tuất đặc kị xăm hình bướm. Xăm thực vật, cây cỏ: Thực vật thuộc hành Mộc, da thuộc hành Thổ, Mộc khắc Thổ vì vậy dễ gây ra sự cố bất thường, tai bay vạ gió, bị thương tích. Xăm hình thần phật: Một số người thích xăm hình thần phật trên người vì nghĩ rằng làm như vậy sẽ luôn được thần phật bên cạnh phù hộ, nhưng thử nghĩ xem, lúc tắm rửa, đi vệ sinh và các hoạt động phòng the thì sao? Thực ra là toàn cho thần “xơi” những thứ xú uế, trần tục. Xăm lên xong mà không biết chay tịnh, kiềm chế thì ắt rước họa vào thân. Xăm lên tay chân gây điều tiếng thị phi: Khi xăm lên tay chân, bất kể là màu sắc gì đều đem lại thị phi suốt đời, phong ba luôn ập tới bất ngờ, làm việc gì cũng không được thuận lợi. Xăm ở bắp chân trở xuống dễ gây tranh chấp trong chuyện tình cảm nam nữ, luôn trong trạng thái bị áp lực, căng thẳng, tài vận đi xuống. Tục xăm hình xuất hiện cách đây vài chục ngàn năm, tồn tại song song cùng nhiều làn sóng văn minh nhân loại. Xăm hình không chỉ thể hiện sự nhận dạng sắc tộc, mà trong nhiều trường hợp còn là phương cách chữa bệnh. Tại eo biển Bering, nhà dân tộc học George B. Gordon từng gặp nhiều người ở đảo Diomede với vết xăm ở gò má và thái dương đó là những sẹo nhỏ sau khi người ta châm ra hút máu độc. Ở Alaska, hiện vẫn có tục chích da để “rút máu độc” cho vài căn bệnh. Dân Chugach Eskimo cũng có cách chữa tương tự. Khi bị đau mắt, họ chích ra lấy máu ở chóp mũi và thái dương…. (Theo Pháp luật & Thời đại)
    1 like
  5. Luyện tập gõ ngón chân Tập cho khỏe vốn có nhiều Nên chọn một kiểu, tập đều thường xuyên Gõ ngón chân, kiểu dễ làm Một vị trưởng lão nước Hàn làm qua Người ta quá bảy chục già Cổ chân, đầu gối thường là yếu suy Đi lại lỡ ngã thì nguy Tập gõ chân, lại tức thì trẻ ra: Mắt tinh, óc tỉnh, hết già, Phản xạ nhanh nhậy như là thanh niên Bài này cứ tập thường xuyên Trong nhà, lúc rảnh, chẳng phiền thời gian Mười phút gõ được một ngàn Nhiều, nhanh càng tốt, cứ làm cho chăm Lúc đầu gõ khoảng một trăm Quen rồi nâng đến hai trăm là vừa Năm tháng sau thấy không thừa Gõ liền nghìn cái cũng vừa sướng chân: Ngồi, hai tay chống sau lưng, Thân thẳng, buông lỏng, mà không cúi chùng, Hai chân duỗi thẳng song song, Hai gót là đế, hai bàn chân vuông, Xòe cánh quạt mở hai bàn, Rồi gõ hai ngón cái liền chạm nhau, Mở càng rộng, tốc càng mau Càng có hiệu quả sướng đầu ngón chân Mở ra, dập lại nhiều lần Lúc đầu miệng đếm được gần một trăm Sau rồi cứ vậy làm chăm Đủ mười phút tức được gần nghìn thôi. Gõ ngón chân thực có lời: Mạch máu dãn nở, máu thời lưu thông, Hỏa khí trên não xuống dần, Óc được tỉnh táo, sắc thần nhậy nhanh Da dẻ cũng đẹp dần dần Người già cải lão hoàn đồng, dẻo dai. Tập này khuyên khắp mọi ai Học sinh, trí thức , thường ngồi ghế lâu Gõ ngón chân, thoáng cái đầu Đi thi dễ đỗ, làm giàu dễ ra Thường xuyên cứ tập trong nhà Tránh được bệnh tật với là thuốc thang.
    1 like
  6. Sức ép năm tới với cô nầy thật nặng nề về phía cha hay người yêu ,có thể cô ta chọn 1 cách để vẹn toàn cho cả 2 bên ? ,cung tật bác thấy cô nầy hội đủ linh-xương-đà-vũ +liêm-đà-kỵ
    1 like
  7. T uổi còn nhỏ mà muốn biết chuyện nầy sớm thì khổ tâm lo lắng thôi !
    1 like
  8. Lá số của bạn mệnh rất tốt, sau sẽ trở lên giàu có. Công danh trắc trở, chức vụ bình thường. Nếu có điều kiện nên đi về kinh doanh tư nhân sau sẽ trở lên giàu có. Phu thê thì lận đận lắm, vài lần lập gia.
    1 like
  9. 1 like
  10. Sao không chịu đọc lời chỉ dẫn trước khi xin được tư vấn ?
    1 like
  11. Không biết giờ sinh chính xác khó xem được .Nếu theo giờ sinh trên ,bạn hiện có phòng nhì bên ngoài ?
    1 like
  12. 1 like
  13. Muốn làm gì thì cũng phải đợi đến năm tị thôi anh ah . đến lúc đó anh quay lại hỏi cũng không muộn ,giờ e hơi sớm
    1 like
  14. Bạn hỏi gì thì nên đặt câu hỏi cụ thể không ai có thời gian trả lời nhiều cho bạn . Cho nguyen doan hỏi bạn mấy câu hỏi này . bạn có hay bị đau đầu không ? bạn có hay bị nhủ mơ không ? Có phải bạn bị bệnh về dạ dày không ? bạn bị cận nữa thì phải mà bạn nên lấy thêm lá số giờ ngọ nữa để so sánh chứ giữa 2 giờ .
    1 like
  15. Cõi Ta-bà : Sống, Chết và Tái sinh Cõi ta-bà Ta-bà là chu kỳ sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu. Bám víu vào sự sống là một sự hão huyền Thật hoài công khi muốn bám víu vào sự hiện hữu này, dù sống đến trăm tuổi ta cũng phải chết một ngày nào đó. Hơn nữa giây phút ra đi không thể biết trước được, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Dù là người giàu có, dù được những người chung quanh chăm sóc, sự sống này sớm muộn cũng chấm dứt, không cứu vãn được. Của cải chẳng giúp được gì, cái chết của một người tỉ phú không khác cái chết của một con thú hoang. Vô thường Trong chu kỳ hiện hữu, trên dòng nối tiếp bất tận của vô số kiếp tái sinh và trong khoảng thời gian của mỗi kiếp, bất thần tất cả vụt biến đổi. Tuy không có gì báo trước, thế nhưng hình như tất cả bỗng nhiên được tháo gỡ, địa vị xã hội sụp đổ, đoàn tụ trở thành chia ly, sự sống trở thành cái chết. Hạnh phúc trôi nhanh. Tất cả những gì thuộc sở hữu của ta trở nên vô thường. Tất cả những gì trước đây ta xem là thật cũng chỉ là vô thường. Sân khấu của vô thường Tái sinh không phải là một cách tránh né cái chết. Trái lại, mỗi chúng ta trong từng ngày nhích lại gần hơn với cái chết, tương tợ như những con vật bị đưa đến lò sát sinh. Trong vũ trụ này, bất cứ gì đều bị chi phối bởi quy luật vô thường và sẽ tan rã. Ngài Đạt-lai Lạt-ma thứ VII có nói như sau : "Những người còn trẻ,cường tráng và khoẻ mạnh nhưng chết sớm chính là những vị thầy thuyết giảng cho chúng ta về vô thường. Vô thường tương tợ như một sân khấu, sau một màn trình diễn các diễn viên trở vào hậu trường thay y phục và sau đó lại trở ra ". Nguồn gốc của sự sống hiện tại và tương lai Kinh sách Phật giáo giảng rằng tâm thức (esprit - spirit) không có khởi thủy, do dó sự tái sinh cũng không có khởi thủy. Phân tích cẩn thận và nghiêm túc sẽ thấy rằng tri thức (conscience - consciousness) không hề là nguyên nhân thực thể của vật chất, ngược lại vật chất cũng không phải là nguyên nhân thực thể của tri thức. Giả thuyết duy nhất có thể chấp nhận được là nguyên nhân của tri thức là một tri thức khác đã có từ truớc.Đấy là một cách chứng minh và giải thích nguồn gốc của sự sống trong quá khứ và tương lai [sự tiếp nối của sự sống]. Tái sinh làm người là một sự quý hiếm Hãy tưởng tượng một cái ách [dùng cho bò kéo cày] bằng gỗ nạm vàng trôi dạt trong một đại dương mênh mông. Có một con rùa già mù lòa sống trong đáy đại dương, cứ cách một trăm năm lại nổi lên mặt nước để thở một lần. Vậy thì cơ may khiến con rùa chui đầu vào cái ách bằng vàng ấy là bao nhiêu? Đức Phật giảng rằng được tái sinh dưới thể dạng con người cũng hiếm hoi như thế. [cái ách nạm vàng thật quý giá tượng trưng cho sự tái sinh làm người, thế nhưng đồng thời nó cũng tượng trưng cho sự trói buộc và nhọc nhằn]. Tái sinh và đầu thai Chư Phật bảo rằng tái sinh là một sự thật. Chính thế, đây là một sự thật hiển nhiên. Chúng ta tin rằng có một thứ tri thức (consciuosness) thật tinh tế làm nguồn gốc phát sinh ra đủ mọi thứ mà chúng ta gọi là sự sáng tạo. Tri thức tinh tế ấy hiện hữu trong mỗi cá thể từ lúc khởi thủy tiếp tục cho đến khi đạt được Phật tính. Đấy là gì mà người ta gọi là sự "hiện hữu" (être - being). Nó có thể mang nhiều hình tướng khác nhau, chẳng hạn như một con thú, một con người hoặc cũng có thể là một vị Phật. Đấy là nguyên tắc căn bản của giả thuyết tái sinh.Theo dòng thời gian từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, tâm thức tinh tế chuyển đổi từ hình tướng này sang hình tướng khác và tìm cách đạt được Phật tính. Nếu tái sinh là một sự bắt buộc đầu thai là một sự chọn lựa. Quyền được chọn lựa dành riêng cho một số cá thể xứng đáng, chủ động được sự tái sinh của mình trong tương lai, đấy là trường hợp của chư Phật và một số người khác nữa.Khi tâm thức đạt được một cấp bậc phẩm tính nào đó mà chúng ta gọi là tri thức tinh tế, tâm thức không còn chết nữa, ít nhất là theo ý nghĩa thông thường của chữ này. Tâm thức đó hàm chứa khả năng giúp nó có thể chọn lựa một thân xác khác để đầu thai. Đấy là trường hợp đặc biệt của các vị bồ-tát (boddhisattva). Dù đang đứng ở ngưỡng cửa của niết-bàn (nirvana), người bồ-tát cũng không bước vào, vì họ nhất quyết lưu lại trong cõi ta-bà tức là chu kỳ hiện hữu để giúp đỡ chúng ta. Dưới cái nhìn của chúng tôi [những người Phật giáo], tái sinh và đầu thai là một điều hiển nhiên, một hiện tượng vật lý, có thật như những hạt nguyên tử. Sự chối bỏ Tất cả mọi cảm nhận - thích thú hay hạnh phúc trong chu kỳ hiện hữu - dù mãnh liệt hay tuyệt vời đến đâu đều chấm dứt một cách thảm thương. Hãy nghĩ đến bản chất hư ảo của chúng để hiểu rằng nên chấm dứt ngay cái vòng lẩn quẩn đó, dù cố gắng tiếp tục thêm cũng chẳng lợi ích gì. Vì thế hãy phát động trong lòng sự ghê tởm sâu xa về chuỗi dài thử thách đó [tức chu kỳ hiện hữu] và quyết tâm từ bỏ nó. Vậy chúng ta thử tìm hiểu thật chính xác xem đâu là nguyên nhân mang lại các nỗi khốn khổ và đớn đau ấy. Sự tin tưởng do bản năng về một cái tôi độc lập Khổ đau không phải vô cớ xảy ra, thế nhưng nó cũng không phải là tác phẩm của một vị Trời toàn năng nào cả. Đấy là sản phẩm phát sinh từ những lầm lẫn và những hành động thúc đẩy bởi các thể dạng tâm thức không chủ động được của chính mình. Nguyên nhân trước hết của khổ đau là vô minh, đấy là sự hiểu biết sai lạc về bản chất của mọi hiện tượng, tự xem mình hiện hữu một cách tự tại. Vô minh phóng đại cương vị của các hiện tượng và tạo ra các ranh giới phân biệt ta với người khác. Tự xem mình quý giá nhất trong vũ trụ khiến ta đối xử với người khác như chính ta là một vị Phật. Trên thực tế thái độ đó chưa bao giờ mang lại hạnh phúc lâu bền. Tính cách lừa phỉnh của các thể dạng bên ngoài Khi nào ý thức được các hiện tượng chỉ là sự lừa phỉnh khi đó ta mới đủ khả năng để hiểu là chúng không hàm chứa một sự hiện hữu tự tại nào. Sự phủ nhận đó không có nghĩa là loại bỏ một thứ gì đã từng hiện hữu trước đây, đấy chỉ là cách đơn giản thừa nhận những gì chưa bao giờ hiện hữu sẽ đương nhiên không hiện hữu. Vì lầm lẫn chúng ta xem các thể dạng bên ngoài là thật. Thế nhưng các thể dạng bên ngoài không tương quan với bất cứ một thực thể nào. Ảo giác khiến ta tưởng lầm sợi giây thừng là con rắn Hãy lấy thí dụ một cuộn giây thừng vào lúc nhá nhem tối, ta tưởng lầm đấy là một con rắn. Sự nhận biết sai lầm cho rằng sợi giây thừng là con rắn gây ra trong tâm thức một số phản ứng chẳng hạn như sự sợ hãi, sợ hãi làm phát sinh ra hành động thí dụ như tông cửa phóng chạy hoặc tìm cách giết con rắn. Tất cả các hành động ấy xảy ra chỉ vì một sự lầm lẫn nhỏ nhặt. Cũng thế chúng ta tưởng lầm thân xác và tâm thức của mình hàm chứa một cái tôi nào đó, từ đấy sinh ra mọi thứ sai lầm khác chẳng hạn như dục vọng, giận dữ. Từ thái độ ích kỷ tức bám víu vào một cái tôi ta phân biệt mình với người khác. Tất cả đều thuộc vào một tổng thể Nếu một vật thể nào đó không thể phân tách ra nhỏ hơn nhất định vật thể ấy mang tính cách độc lập, thế nhưng chẳng có bất cứ gì không thể phân chia được. Bất cứ gì lệ thuộc vào các thành phần tạo ra nó đều được chỉ định dựa vào thể dạng tương kết giữa các thành phần ấy, và sự xác định ấy chỉ hiện hữu xuyên qua ý niệm của ta. Nếu như tất cả các thành phần hiện hữu một cách cụ thể [đúng như chúng đã hiển hiện ra], hiện thực phải được xác nhận một cách minh bạch bằng các phương pháp phân giải. Thí dụ, theo quy ước người ta chấp nhận sự hiện hữu của "cái tôi" biết biểu lộ vui thích và cảm nhận được đớn đau, thế nhưng khi sử dụng phép phân giải để khảo sát và tìm kiếm "cái tôi" ấy thì không thấy nó đâu cả. Dù có xoay chiều đổi hướng phép phân giải ta cũng không thể tìm thấy "cái tôi" ở bất cứ nơi nào. Không có một tổng thể nào khác hơn các thành phần tạo ra nó, [câu này có nghĩa là không tìm thấy một thành phần nào tượng trưng cho "cái tôi" trong một tổng thể, trong số tất cả các thành phần tạo ra một cá thể (tổng thể) con ngưởi gồm thân xác và tâm thức không tìm được một thành phần nào gọi là "cái tôi"]. Sự tiếp nối liên tục của tri thức Dù thân xác chỉ là tổng hợp của nhiêu thành phần hóa học và vật lý, thế nhưng vẫn có một tác nhân tinh tế rạng ngời và tinh khiết tạo ra sự sống của các sinh linh. Tác nhân ấy không mang tính cách vật chất nên không cân đo được, thế nhưng không phải vì thế mà nó không hiện hữu. Theo quan điểm Phật giáo, tri thức(consciousness) được hiểu là phi-vật-chất. Nhất định phải có một nguyên nhân sinh ra tri thức, nguyên nhân ấy thuộc bản thể tinh anh tạo ra sự sống, do đó tri thức cũng có cùng một bản thể với sự sống. Nếu không có một khoảnh khắc tri thức xảy ra trước đó sẽ không có một tri thức nào xảy ra tiếp theo sau, dù bất cứ dưới hình thức nào, [khi nào có một khoảnh khắc tri thức xảy ra trước, sau đó mới có một khoảnh khắc tri thức khác tiếp nối theo sau]. Tri thức không phát sinh từ hư vô, nó cũng không tan biến để trở thành hư vô. Vật chất cũng không thể trở thành tri thức. Khi nào hiểu được không có một sự dừng lại [chấm dứt] nào của sự tiếp nối tri thức trong một kiếp sống, khi đó ta mới nhận thấy tính cách hợp lý (lôgic) của luận cứ cho rằng sau cái chết còn có một sự sống khác. [tri thức tiếp nối liên tục hết kiếp nay sang kiếp khác không ngưng nghỉ, khái niệm đó cho thấy các kiếp sống (chết - tái sinh) thay nhau hiển hiện trên dòng tiếp nối đó, vì thế sự tiếp nối liên tục của tri thức không thể đứt đoạn (ngưng nghỉ) trong một kiếp sống] Tâm thức là gì ? Khảo sát cẩn thận sẽ thấy tâm thức (esprit - spirit) là một thứ gì đó tương tợ như một không gian trong suốt, hoàn toàn trống không, trong đó tất cả mọi sự hiển hiện (appartions -appearances) đều đình chỉ [có nghĩa là tất cả mọi tư duy và xúc cảm đều là những sự hiển hiện, do đó chúng không phải là các thành phần tự tại của tâm thức, người ta thường lầm tưởng những sự hiển hiện ấy là "cái tôi"]. Tư duy là gì Đối với cá nhân tôi, tôi tin chắc tất cả mọi hiện tượng trước hết đều phát sinh từ tư duy (pensée - thought) [chủ trương của học phái Duy thức]. Tư duy tạo ra nhiều tác động hơn hẳn so với vật chất. Theo triết học Phật giáo,tư duy dù kỷ cương hay không đều làm phát sinh ra nghiệp (karma), nghiệp nhất thiết ảnh hưởng đến các yếu tố bên trong, các yếu tố này sau đó mới tác động vào các yếu tố bên ngoài. Nghiệp là gì ? Nghiệp (karma) có nghĩa là một "hành động". Nghiệp tác động bằng ba cách : thân xác, ngôn từ và tâm ý [khái niệm về ba cửa ngõ trong giáo lý Phật giáo : thân, khẩu, ý]. Nghiệp tạo ra ba thứ hậu quả : đạo hạnh, không đạo hạnh và trung hòa. Quá trình vận hành của nó gồm hai giai đoạn : thí dụ ta suy tính trong đầu sẽ làm một việc gì đó, đấy là một hành động duy ý ; sau đó sự suy tính chuyển thành hành động trên thân xác hoặc ngôn từ, đấy là hành động thực thi đã được suy tính trước [cố tình]. Những hành động tiêu cực nhất định mang lại khổ đau, các hành động tích cực đương nhiên mang lại tốt đẹp. Các hành động tạo nghiệp theo đuổi chúng ta từ kiếp này sang kiếp khác. Tích lũy được các hành động tích cực sẽ mang lại lợi ích trong tương lai và các kiếp sống về sau, ngược lại nếu liên tiếp phạm vào những hành động tai hại nhất định ta sẽ phải nhận lãnh các hậu quả phát sinh từ những hành động đó. Quy luật nguyên nhân và hậu quả Nếu muốn biết ta đã làm những gì trước đây chỉ cần nhìn vào thân xác ta hôm nay sẽ rõ [thân xác đó xinh đẹp, khoẻ mạnh, thông minh..., hay xấu xí, bệnh tật, đần độn...?] Nếu muốn biết sau này ta sẽ ra sao, hãy quan sát xem tâm thức ta đang vận hành như thế nào. Thích thú và đớn đau Thích thú và đớn đau là hậu quả. Bản chất khác biệt và đa dạng của chúng cho thấy chúng lệ thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế muốn tìm thấy sự thích thú, ta phải tạo ra các nguyên nhân làm phát sinh ra nó, muốn lẫn tránh khổ đau ta cũng phải tìm cách loại bỏ nguyên nhân làm phát sinh ra khổ đau. Khi một nguyên nhân mang lại khổ đau được ghi khắc trên dòng tiếp nối liên tục của tri thức, dù muốn tránh xa khổ đau cách mấy ta cũng sẽ phải đối đầu với nó. Lầm lỗi kéo theo sự trừng phạt Hậu quả của các hành động tai hại tùy thuộc vào cường độ của ảo tưởng (illusion) làm phát sinh ra chúng. Hậu quả tương xứng với nguyên nhân của nó. Thí dụ, tái sinh trong một cõi thấp hơn vì vi phạm vào hành động sát nhân chẳng hạn, kể cả trường hợp vẫn còn giữ được thể dạng con người đi nữa thì sự hiện hữu đó sẽ rất ngắn. Phạm vào hành động trộm cắp sẽ tái sinh trong cảnh thiếu thốn, phạm vào hành vi dục tính thiếu đạo hạnh sẽ gặp người phối ngẫu ngoại tình ; lầm lỗi kéo theo sự trừng phạt, bất hòa đưa đến chia rẽ giữa bạn bè, cứ như thế mà tiếp tục. Quán nhận sai lầm sẽ tạo ra tình trạng hoang mang bất định hướng. Hanh phúc hay khốn cùng trong hiện tại là hậu quả của những hành động mà ta thực thi trong quá khứ, không hơn không kém. Quy luật chi phối sự tái sinh Vô số kiếp tái sinh đang chờ đợi ta, các kiếp ấy có thể tốt hay xấu. Không thể tránh được hậu quả của nghiệp. Không thể đảo ngược các hành động. Ta sẽ gặt hái hậu quả một ngày nào đó. Khi một hành động được thực thi, nguyên nhân sẽ sinh ra, nó hiện hữu và tăng trưởng cho đến khi nào tạo ra hậu quả. Hành động dù được thực thi từ nhiều kiếp trước, tác động của nó vẫn luôn tiềm tàng, dù trải qua những khoảng thời gian thật lâu dài. Chìa khoá mang lại sự may mắn và kém may mắn Các thành phần cá nhân rất khác biệt nhau trong tập thể con người. Nhiều người luôn gặt hái được thành công, một số khác chỉ gặp toàn thất bại. Một số người dù không mong muốn nhưng cứ gặp đủ mọi thứ bất hạnh, trái lại một số khác tưởng chừng khó tránh khỏi những chuyện tệ hại, thế nhưng chẳng có gì xảy ra. Nêu lên các sự kiện trên đây để thấy rằng không bắt buộc mọi chuyện phải xảy ra theo như ý mình muốn. Đôi khi ta cố gắng tìm đủ mọi cách để mang lại thành công thế nhưng chỉ thấy toàn thất bại. Người ta nghĩ rằng có người may mắn có người không, thế nhưng may mắn phải có một lý do tức phải có một nguyên nhân nào đó tạo ra nó. Theo Phật giáo đấy là hậu quả mang lại từ các việc đã làm trong kiếp trước hay trong kiếp sống hiện tại. Kể cả trường hợp phải đối đầu với nghịch cảnh, thế nhưng nếu tiềm năng [của nghiệp tích cực mang lại sự "may mắn"] đã chín, sức cố gắng sẽ mang lại thành công. Trách nhiệm Hậu quả phát sinh từ nghiệp thật sự chỉ có ý nghĩa tốt đẹp khi nào chúng mang lại lợi ích góp phần vào sự cải thiện đời sống xã hội và giúp chống lại các kẻ thù nguy hiểm nhất tức vô minh, bám víu và hận thù. Dù tin hay không tin, trên thực tế quy luật nhân quả luôn tác động vào cuộc sống thường nhật của ta. Khi tất cả mọi người đều ý thức được tính cách chặt chẽ của quy luật nhân quả, có lẽ khi đó cũng không cần đến cảnh sát vì tâm thức sẽ đóng vai trò đó. Vì thế, phương pháp hiệu quả nhất ngăn ngừa sát nhân là tự mình phải cảnh giác lấy mình. Khi nào ý thức được tương lai hoàn toàn nằm trong tay mình, khi đó ta sẽ không phạm vào tội sát nhân [có thể áp dụng cho những người gây ra chiến tranh và điều khiển các cuộc tàn sát]. Biến cải nội tâm sẽ giúp tránh được các hành động phạm pháp mang lại sự an bình trong xã hội, thế nhưng muốn biến cải nội tâm phải hiểu được bản chất của chính mình là gì. Tất cả đều bắt nguồn từ tâm thức Các sự kiện, các biến cố nhất thiết tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy làm phát sinh ra chúng. Hãy lấy bối cảnh gia đình để làm thí dụ : nếu mọi người đều cư xử tốt đẹp với nhau không khí gia đình sẽ êm ấm, nếu một người bực dọc tức thời căng thẳng sẽ phát sinh. Dù bữa cơm có thịnh soạn, chương trình truyền hình buổi tối thật lý thú cũng không đủ sức mang lại sự an bình trong gia đình. Bối cảnh tùy thuộc vào thể dạng tâm thức bên trong nhiều hơn các điều kiện môi trường bên ngoài. Cộng nghiệp Nhiều chúng sinh lệ thuộc vào các bối cảnh thời gian và không gian khác nhau, thế nhưng họ có thể tích lũy một thứ nghiệp tương tợ nhau. Họ tái sinh chung trong một thời đại và trong cùng một nơi chốn. Khổ đau mà họ gánh chịu là kết quả mang lại từ cộng nghiệp của họ [thí dụ nhiều cá thể cùng tái sinh trong một xứ sở nào đó, họ chịu chung những đại nạn xảy ra cho xứ sở ấy, đấy gọi là cộng nghiêp. Ở một mức độ nhỏ hơn chẳng hạn như tai nạn máy bay, hành khách thật đa dạng thế nhưng tất cả gánh chịu một hậu quả giống nhau] Tác động do mỗi người tạo ra đối với môi trường chung Nói một cách tổng quát người ta có thể bảo rằng sự tiến hóa của vũ trụ nhất thiết liên hệ với nghiệp của chúng sinh. Sự kiện này thật vô cùng phức tạp, thế nhưng ta thử lấy thí dụ về sự thay đổi khí hậu chẳng hạn. Hãy tưởng tượng ra một tập thể con người bị chi phối bởi hận thù và giận dữ, tôi nghĩ rằng thể dạng xúc cảm tiêu cực đó tác động vào môi trường chung quanh tạo ra nóng bức và khô cằn [Trung đông ?]. Nếu sự bám víu và ham muốn của tập thể quá mạnh và lan rộng sẽ tạo ra ẩm thấp hoặc ngập lụt [Trung quốc, Nam Mỹ, Á châu...?]. Tôi chỉ muốn nêu lên các suy diễn trên đây thế thôi và không khẳng định gì cả. Dù là một cá thể hay một tập thể, sự sinh hoạt, thái độ và tâm thức của từng người, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác đều góp phần tác động vào môi trường chung. Ai tạo ra vũ trụ Hiện tượng tiến hóa nhất định phải có một nguyên nhân, thế nhưng sự giải thích nguyên nhân đó lại có hai cách khác nhau. Hoặc ta chấp nhận vũ trụ do Trời sáng tạo, điều đó mang lại nhiều mâu thuẫn vì nhất thiết khổ đau và những gì xấu xa cũng phải do Trời sáng tạo. Hoặc có thể giải thích là tiềm năng cộng nghiệp của vô tận chúng sinh có giác cảm làm phát sinh ra vũ trụ, tượng trưng cho một môi trường chung thích nghi với sự hiện hữu của các sinh linh ấy. Vũ trụ mà chúng ta đang sống được tạo dựng từ các hành động và tham vọng của chính chúng ta. Và cũng chính vì thế mà chúng ta đang hiện diện tại nơi này. Ít ra điều đó cũng tỏ ra hợp lý (lôgic). [một cách giải thích vô cùng cao siêu, cần mở thật rộng tâm thức vượt lên trên định kiến và các khái niệm quy ước mới nắm vững được chiều sâu của cách lý luận trên đây, nên liên tưởng đến học thuyết Duy thức]. Bản chất không tì vết của tâm thức Nếu các thứ nọc độc của tâm thức - như bám víu, hận thù và vô minh - là những thành phần tự tại của tâm thức, sẽ không có cách nào loại bỏ chúng khỏi tâm thức, và nếu đúng như thế hận thù chẳng hạn sẽ thường xuyên ngự trị trong ta, nó chỉ chấm dứt khi nào tri thức chấm dứt ; đối với các trường hợp bám víu và dục vọng cũng thế. Thật ra thì không đúng, ta có thể loại trừ tận gốc bám víu, hận thù và vô minh bởi vì chúng không thuộc vào thành phần tự tại của tri thức, điều đó cho thấy bản thể của tâm thức không hề bị các khiếm khuyết [bám víu, hận thù và vô minh] làm cho sứt mẻ. Bản chất rạng người của tâm thức Tâm thức mang bản chất hoàn toàn rạng ngời và "sáng suốt", vì thế sự giải thoát có thể thực hiện được. Tìm thấy bản thể đích thật của tâm thức có nghĩa là đạt được sự giải thoát. Tánh không Con người sinh ra và chết đi. Khổ đau, hạnh phúc đến với họ rồi cũng ra đi. Các biến đổi ấy hiện ra và biến mất. Nếu khổ đau và phúc hạnh đúng là những sự kiện độc lập chúng sẽ bất biến, tức không đổi thay. Nếu phúc hạnh, khổ đau và ba thứ nọc độc là bám víu, hận thù và vô minh không lệ thuộc vào những nguyên nhân bên ngoài, chúng sẽ giữ nguyên như thế không hề biến đổi. Thế nhưng [không đúng như thế] tất cả các hiện tượng ấy chỉ có thể quan niệm được bằng thể dạng tánh không và vô ngã của chúng. Do đó tất cả mọi hiện tượng đều được tạo dựng bởi thực thể trống không, [nói cách khác] sự tạo dựng đó chỉ là các biểu tượng hay cách hiển hiện của thực thể trống không. Tánh không và con số 0 Tánh không tương quan với sự trống không, sự vắng bóng hoàn toàn của bất cứ một sự hiện hữu nội tại nào. Tôi thường giải thích tánh không tương tợ như con số không (0). Con số 0 có nghĩa là không có gì cả, thế nhưng nếu không có nó ta không thể tính toán gì được. Vì thế con số 0 là một thứ gì đó, đồng thời cũng không có gì cả. Sự trống không cũng tương tợ như thế. Trống không là trống không, thế nhưng đồng thời nó cũng là nền móng của tất cả. Không gian và vụ nổ lớn Big Bang Rất nhiều triết gia Đông phương, đặc biệt là các triết gia Phật giáo, nêu lên bốn yếu tố : đất, nước, lửa và khí, kèm theo với chúng là không gian. Bốn yếu tố đầu tiên sở dĩ tồn tại là nhờ vào yếu tố thứ năm tức không gian làm cơ sở chuyển tải cho chúng. Theo một số kinh sách Phật giáo chẳng hạn như kinh Kalachakra Tantra [kinh Thời luân], không gian hay không trung (ether) không phải là một sự trống không hoàn toàn hay một sự trống rỗng không có bất cứ gì trong đó. Không gian được cấu hợp bởi những "hạt vi tế trống không". Các hạt vi tế trống không làm phát sinh ra bốn yếu tố dưới các thể dạng vật chất tiên khởi thật tinh tế và sau đó mới trở nên thổ thiển hơn (tức là khí, lửa, nước và đất), người ta gọi đấy là quá trình của sự hình thành. Sau đó chúng tan biến dần, bắt đầu từ thể dạng vật chất thô thiển nhất (đất, nước, lửa và khí) chuyển sang các thể dạng vật chất thật tinh tế để hội nhập trở lại với các hạt vi tế trống không, đấy là quá trình của sự tan biến. Không gian hay tánh không toàn cầu làm cơ sở vận hành cho cả hai quá trình Vụ nổ lớn Big Bang tượng trưng cho sự hình thành của vũ trụ cho thấy có những điểm tương đồng với tánh không toàn cầu [trong Phật giáo]. Các hạt vi thể tinh tế nhất do các ngành khoa học vật lý tân tiến khám phá cho thấy khá tương đồng với những gì mà chúng ta [những người Phật giáo] gọi là các "hạt vi tế trống không". Vì thế tôi thấy hết sức quan trọng phải nghiên cứu về các sự tương đồng trên đây. Nguồn gốc của vũ trụ Phật giáo cho rằng thế kỷ chúng ta đang sống là hậu quả để lại từ các thế kỷ trước, có thể tiếp tục sự suy luận trên đây ngược về khởi thủy của thời gian, tức cách nay khoảng hai mươi hay hai mươi lăm tỉ năm. Thế nhưng tại sao và bằng cách nào vụ nổ Big Bang đã xảy ra ? Điều đó không ai trả lời được. Đối với tôi có hai cách giải thích tuy cả hai không thể chấp nhận được. Cách thứ nhất cho rằng không có nguyên nhân nào cả, mọi sự vật tự nó xảy ra như thế. Theo tôi thì cách giải thích này không hiểu nổi. Đối với Phật giáo bất cứ một hiện tượng nào cũng phải có một nguyên nhân làm phát sinh ra nó. Cách giải thích thứ hai mang tính cách thần thánh : vào một ngày đẹp trời nào đó Trời quyết định sáng tạo ra thế giới. Chúng ta cũng không thể chấp nhận sự giải thích này. Theo kinh sách Phật giáo những hạt vi thể tinh tế hiện hữu từ trước trong không gian, trước khi vũ trụ được hình thành, và hiện thời chúng vẫn đang hiện hữu. Các hạt vi thể tinh tế mang đặc tính tinh thần cấu tạo ra các sinh linh và làm phát sinh ra Big Bang. Tại sao ? Bằng cách nào ? Bất cứ một vũ trụ nào sau khi được phát sinh sẽ biến mất sau đó. Vô số chu kỳ [sinh diệt] tiếp nối nhau bất tận. Thế nhưng vũ trụ trong tổng thể của nó tức là "vũ-trụ-tâm-thức" vẫn luôn hiện hữu. Người ta cũng có thể cho rằng "tâm-thức-tinh-tế" trên đây ["vũ-trụ-tâm-thức"] hàm chứa một sức mạnh [tiềm năng] vô song, đấy chính là nguyên tắc sáng tạo nguyên thủy. Một số chúng sinh vào một lúc nào đó có thể tận hưởng sự hiện hữu của vũ trụ ấy [khi đã đạt được giác ngộ]. Vì thế mà vũ trụ ấy đang hiện hữu. [giác ngộ là khả năng hội nhập với sức mạnh vô song của "vũ-trụ-tâm-thức"]. "Hình tướng là trống không, trống không là hình tướng" Chúng ta là trống không, hay ít ra các chất liệu cấu tạo ra chúng ta là trống không. Cũng cần nhắc lại là chữ trống không không có nghĩa là "hư vô". Một số người hiểu sai cho rằng Phật giáo chủ trương chủ nghĩa "hư vô" ("nihilism"). Theo Phật giáo, thế giới trong đó gồm có chúng ta là một thể chất lưu chuyển, một dòng chảy của các thể dạng. Điều đó không có nghĩa là không có gì cả. Tất cả mọi sự vật đều lệ thuộc vào nhau. Không có gì hiện hữu riêng biệt được. Các vật thể này gánh chịu tác động của các vật thể khác, khiến chúng xuất hiện, hiện hữu, biến mất và lại hiện ra. Thế nhưng tự chúng chúng không thể tự hiện hữu. Vì thế hình tướng là "trống không", có nghĩa là hình tướng không thể tách rời một cách riêng rẽ ra được, nó không thể độc lập. Hình tướng này lệ thuộc vào vô số hình tướng khác [để hiện hữu] Trống không là hình tướng bởi vì bất cứ hình tướng nào cũng bắt buộc hình thành trong cái trống không đó, tức trong thể dạng vắng mặt của sự hiện hữu nội tại. Trống không tham gia vào việc hướng dẫn hình tướng, (Hình tướng là trống không, trống không là hình tướng" là một trong những câu nổi tiếng nhất trong Bát nhã Tâm kinh). Con đường trực tiếp : thuyết thần bí, du-già, thiền định và thể dạng xuất thần. Tư duy thuộc lãnh vực khái niệm mang tính các hạn hẹp, như chúng ta đều biết. Chính vì thế hầu hết các tín ngưỡng trên đường dò tìm sự hiểu biết [bằng khái niệm] đều vấp phải thật nhiều khó khăn nan giải, vì thế tất cả đều tìm cách dựa vào một "con đường trực tiếp" hơn. Trên con đường đó người ta thấy xuất hiện đủ các phương pháp như : thần bí, du-già, một số hình thức thiền định, sự xuất thần với mục đích mang lại sự giác ngộ. Phương pháp tiếp cận trực tiếp của Phật giáo Tây tạng dựa vào "kinh nghiệm" có thể đưa chúng ta trở về cội nguồn của thế giới, thế nhưng phương pháp này thật vô cùng gay go, đòi hỏi phải có một tâm thức thật tinh luyện đạt đến cấp bậc cao nhất của sự tinh tế, giúp nó tách rời ra khỏi các chu kỳ thời gian [thời gian theo Phật giáo mang tính cách chu kỳ, chu kỳ thời gian nêu lên trong câu trên đây ám chỉ các chu kỳ sinh diệt của các vũ trụ nối tiếp nhau, xin xem lại mục Nguồn gốc của vũ trụ trình bày trên đây]. Một số bạn hữu của tôi hiện còn sống đã đạt được thể dạng ấy [Đức Đạt-lai Lạt-ma không bao giờ tuyên bố là Ngài thực hiện được bất cứ một điều gì "siêu nhiên", Ngài chỉ là một nhà tu hành rất bình dị và Ngài chỉ kể ra các phép mầu nhiệm mà người khác làm được]. Sự xuất thần và phúc hạnh Khi xuất thần ta đạt được một trạng thái tâm linh thật tinh tế ; khi cường độ của nó đạt đến điểm tột đỉnh ta có thể cảm nhận với tất cả niềm hân hoan thể dạng vắng bóng của sự hiện hữu nội tại, tức là tánh không, sự trống không. Thân xác và chiêm bao Thừa hưởng hậu quả từ nghiệp của mình trong quá khứ, một số người thực hiện được những việc khác thường trong kiếp sống hiện tại. Chẳng hạn như các trường hợp tâm thức xuất khỏi thân xác, sở dĩ đạt được khả năng đó là nhờ vào các thành quả tu tập từ các kiếp trước. Các khả năng trên đây phát lộ như là năng khiếu sẵn có. Tuy nhiên trong một số trường hợp đấy là kết quả do sự tu tập ngay trong kiếp sống này mang lại. Thiết nghĩ cũng nên xác nhận rõ ràng "thân ảo mộng" [hiện tượng "xuất hồn"] không phải là một sự quán thấy tâm thần nhưng đấy là một thân xác tinh tế thật sự, có khả năng tách rời khỏi thân xác thông thường và cảm nhận được thế giới bên ngoài đúng như chúng ta cảm nhận trong trạng thái bình thường. Đây là một đường hướng khảo cứu quan trọng nên quan tâm. Khoa học và tri thức Các khảo cứu khoa học sở dĩ tiến hành được là nhờ vào các dụng cụ và máy móc. Các khảo cứu mang tính cách tâm linh trái lại tiến hành nhờ vào các kinh nghiệm nội tâm và thiền định. Thiết nghĩ cần phải phân biệt thật minh bạch giữa những gì khoa học bó tay và những gì khoa học chứng minh là không hiện hữu. Phải hiểu rõ có vô số hiện tượng rất thần bí. Giác quan của con người có khả năng cảm nhận thật giới hạn, vì thế ta không thể bảo rằng bên ngoài khả năng nhận biết của ngũ giác không có gì cả. Đối với việc tìm hiểu tri thức (consciousness), rất nhiều sinh linh [ám chỉ các sinh linh ngoại lệ, các thánh nhân] kể cả một số người, từ thật nhiều thế kỷ trước đã từng cảm nhận trực tiếp được tri thức, thế nhưng ngày nay chúng ta vẫn còn mù tịt không hiểu tri thức là gì [tức không hiểu phương thức vận hành và bản chất của tri thức là gì]. Các sự nhận biết của tri thức không mang hình tướng, không màu sắc, đấy là các hiện tượng không thể nhận biết bằng các phương pháp thông thường dùng để khảo sát các hiện tượng bên ngoài. Phật giáo có phải là một khoa học tâm linh hay không ? Các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mở rộng thêm không gian cho chúng ta. Thật tuyệt vời ! Từ thuở nhỏ tôi đã say mê lãnh vực khảo cứu khoa học này ; các khám phá về không gian thật vô cùng lợi ích cho nhân loại. Thế nhưng các khảo cứu nội tâm cũng đáng cho chúng ta chú ý. Trong lãnh vực tâm thức còn nhiều khoảng không gian rộng lớn chờ được khám phá. Nhiều khoa học gia không xem Phật giáo như một tôn giáo cứng nhắc mà họ đánh giá Phật giáo như một ngành khoa học, và cũng nên hiểu đấy là một ngành khoa học vô cùng phức tạp. Phương pháp tiếp cận của Phật giáo căn cứ vào thực nghiệm giống như tất cả các ngành khoa học khác. Niết-bàn là gì ? Niết-bàn là một thứ " phẩm tính nào đó của tâm thức". Bản chất con người chỉ bị ô nhiễm tạm thời. Sự giao tiếp bình thường giữa chúng ta với cái mà chúng ta gọi là hiện thực hoàn toàn bị lệch lạc. Luôn nên nhớ đến sự kiện này. Vì căn cứ trên ảo giác nên sự tương giao đó [giữa ta và hiện thực] sai lầm từ căn bản. Chỉ khi nào chúng ta ra thoát được mọi ảo giác khi ấy chúng ta mới thấy sự kiện trên đây là một sự thật. Phải loại bỏ sự ô nhiễm đó [tức là sự cảm nhận sai lầm về hiện thực] ra khỏi tâm thức, và điều đó có thể thực hiện được như chúng ta đều biết [tức là đạt được giác ngộ, mục đích tối thượng của Phật giáo]. Sau khi thực hiện được sự tinh khiết hóa gọi là giác ngộ trên đây, tâm thức sẽ đạt được thể dạng phẩm hạnh cao nhất gọi là niết-bàn.Trong thể dạng đó tâm thức biến thành trí tuệ và thoát ra khỏi các chu kỳ hiện hữu. Đã từng có rất nhiều vị hiền triết đạt được niết-bàn và họ chỉ cần tu tập trong một kiếp sống duy nhất. Cái chết và ánh sáng trong suốt Cái chết nhất định sẽ đến với ta một ngày nào đó không sai chạy. Nếu phí phạm những giây phút tốt đẹp nhất đời mình vào những việc phù phiếm, không chuẩn bị cho cái chết, khi giây phút cuối cùng đã đến ta sẽ mất hết khả năng suy nghĩ vì chỉ biết lo âu. Quá sợ hãi ta không còn đủ trầm tĩnh để tu tập nữa. Khi giây phút cuối cùng gần kề ta phải tập trung tư duy vào những gì thiết thực. Thể dạng tâm thức đúng vào lúc đó sẽ quyết định cho những gì xảy ra sau này. Những giây phút cuối cùng hàm chứa một sức mạnh quan trọng hơn cả những gì xứng đáng mà ta thu góp trong suốt cuộc sống. Vì thế phải sử dụng thiền định để tìm hiểu quá trình của cái chết và tập cho quen dần với nó. Chính tôi thường xuyên tu tập theo cách ấy. Mỗi ngày tôi sử dụng thiền định để vượt qua tám giai đoạn tan biến của cái chết. Quá trình của cái chết khởi đầu bằng sự tan biến của cấu hợp hình tướng ; các thành phần đất suy yếu, thành phần nước thay thế và trở thành cơ sở chống đỡ cho sự hiểu biết bình thường. Người hấp hối có cảm giác như thân xác bị lún sâu xuống đất [cảm thấy thân xác cứng đơ và rất nặng]. Hai mắt hoa lên [khả năng thị giác suy yếu]. Người hấp hối có cảm giác nhìn thấy một ảo ảnh nào đó bên trong nội tâm. Sau đó cấu hợp xúc giác tan biến [không còn cảm thấy quần áo mặc trên người, lưng chạm xuống giường cũng không biết, người khác hay vật gì va chạm vào thân xác cũng không hay biết]. Tiếp theo đó sức mạnh của thành phần nước giảm xuống, thay vào đó thành phần lửa trở nên lấn lướt hơn. Miệng khô, mắt đờ đẫn. Nội tâm quán thấy những hình ảnh giống như khói.Trong giai đoạn thứ ba, cấu hợp của khả năng nhận biết tan biến. Thể dạng lửa không còn chuyển tải được tri thức, thể dạng khí thay thế vai trò đó và trở nên quan trọng hơn. Đối với môi trường chung quanh người hấp hối không còn nhận biết được người thân. Nội tâm quán thấy những hình ảnh giống như đom đóm, tương tợ như các đốm lửa bắn ra từ một chiếc pháo bông. Trong giai đoạn thứ tư, các cấu tạo tâm thần tan biến. Thể dạng gió (khí) yếu dần không còn chuyển tải được tri thức. Triệu chứng bên ngoài là ngưng thở. Triệu chứng bên trong là cảm giác nhìn thấy một ngọn lửa màu đỏ nhạt. Thông thường vào giai đoạn này các bác sĩ y khoa xác định quá trình của cái chết đã kết thúc theo tiêu chuẩn y khoa. Thế nhưng theo chúng tôi [những người Phật giáo Tây tạng] quá trình của cái chết chưa chấm dứt, tuy rằng bắt đầu từ thời điểm này khả năng cảm nhận của các giác quan đã mất, thế nhưng tri thức vẫn hoạtđộng, điều đó không có nghĩa là người hấp hối có thể hồi tỉnh lại được. Bốn cấp bậc thô thiển và tinh tế vẫn còn tiếp tục tồn tại trong giai đoạn này, chúng chỉ tan biến sau này khi bốn giai đoạn cuối cùng bắt đầu diễn tiến [tất cả là tám giai đoạn]. Cấp bậc thô thiển nhất [thứ năm, tức giai đoạn đầu của bốn giai đoạn cuối cùng] tan biến trước nhất, dấu hiệu bên trong là sự quán thấy một màu trắng tương tợ như bầu trời mùa thu thật tinh khiết chan hòa ánh trăng rạng rỡ. Bên ngoài không còn một dấu hiệu nào phát hiện. Sự quán thấy màu trắng và khí lực hay "gió" chuyển tải nó tan biến [giai đoạn thứ sáu]. Một sự quán thấy khác tinh tế hơn xuất hiện : đó là một màu đỏ rực rỡ tỏa rộng, tương tợ như bầu trời mùa thu trong suốt chan hòa ánh sáng màu đỏ của mặt trời. Trong giai đoạn thứ bảy, phát sinh một sự quán thấy khác, tinh tế hơn các cấp bậc trước : đó là sự quán thấy một màu đen bóng loáng gần như dầy đặc. Hình ảnh này tương tợ như bầu trời mùa thu thật tinh khiết vào lúc gần nửa đêm. Trong phần đầu của giai đoạn này, người chết vẫn còn ý thức, thế nhưng khả năng yếu dần và cuối cùng lắng vào một trạng thái vô tri. Khi sự cảm nhận màu đen bóng loáng và dầy đặc cùng với năng lực chuyển tải nó tan biến, một sự cảm nhận tinh tế hơn hết so với tất cả các cảm nhận trước đây hiển hiện : đấy là "ánh sáng trong suốt của cái chết". Thể dạng cảm nhận đó tương tợ như bầu trời bình minh vào mùa thu, trong vắt không một gợn mây. Người ta gọi đấy là tri thức nguyên thủy, bởi vì nó là nguồn gốc làm phát sinh ra tất cả các thể dạng tri thức khác. Đấy chính là lúc sự sống chấm dứt thật sự. Đối với những người bình thường, giai đoạn trên đây hoàn toàn vô thức, tương tợ như bất tỉnh. Riêng đối với những người luyện tập du-già thì đấy lại là giây phút phải đem ra ứng dụng các kết quả tu tập của mình trước khi các tế bào trong cơ thể thoái hóa [trong giai đoạn này các cơ quan trong cơ thể không còn dùng được để ghép cho các bệnh nhân khác]. Người du-già có khả năng nhận biết được thể dạng tinh tế cao nhất trên đây : đấy là "tri thức ánh sáng trong suốt", [người luyện tập ý thức được thể dạng ánh sáng trong suốt và hội nhập với ánh sáng đó, không chuyển sang quá trình thô thiển của sự tái sinh] Ba cấp bậc tri thức Tri thức được phân chia thành ba cấp bậc tinh tế khác nhau : thể dạng đang trong lúc thức (hay thể dạng thô thiển của tri thức), thể dạng chiêm bao (tinh tế hơn) và thể dạng ngủ thật say (tinh tế hơn hết, hoàn toàn không còn chiêm bao). Người ta có thể so sánh ba thể dạng ấy với ba giai đoạn sinh, chết trên phương diện vật chất và thể dạng trung gian gọi là bardo [trung ấm hay trung hữu] trước khi xảy ra sự tái sinh [thụ thai]. Ba giai đoạn vừa kể [sinh, chết và trung gian] được phân biệt thành ba cấp bậc khác nhau, căn cứ vào ba cấp bậc tri thức tinh tế của chúng. Trong khi xảy ra quá trình của cái chết, người đang chết lắng thật sâu vào tri thức tinh tế. Thế nhưng sau khi đã chết, và sau giai đoạn trung gian hay bardo, cá thể ấy lại bị chi phối trở lại bởi sự tái sinh, theo đó tri thức cũng dần dần trở nên thô thiển hơn. Tri thức càng lúc càng trở nên dầy đặc trong quá trình diễn tiến của sự tái sinh và đầu thai. Rất nhiều tập sách thuật lại trường hợp nhiều người nhớ lại kiếp trước của mình. Nghiên cứu thêm về các hiện tượng trên đây sẽ mang lại nhiều lợi ích và mở rộng thêm kiến thức cho nhân loại. Phép luyện tập du-già Đối với một số người phép luyện tập du già quá khó, tạo ra đau đớn và chẳng giúp ích được gì cho tâm thức. Đối với một số người khác đó là một phương pháp đơn giản và tự nhiên, giúp mang lại sự thoải mái trên phương diện tổng quát. Tuy nhiên phương tiện dùng để tinh khiết hóa tâm thức vẫn chính là tâm thức. Nếu cảnh giác cẩn thận, theo dõi các quá trình vận hành của tâm thức, ta sẽ vô cùng ngạc nhiên nhận thấy tầm quan trọng vô song của nó. Tâm thức chính là trung tâm của tất cả [từ các biến cố và hiện tượng cho đến sự giải thoát và giác ngộ]. Con đường trí tuệ Trí tuệ cần thiết cho việc tìm hiểu sự thật sâu xa hay tối thượng, tức là tánh không - trí tuệ dùng để cảm nhận sự vắng mặt của cái ngã - nó có thể mang tính cách trực tiếp hay gián tiếp. Trí tuệ dựa vào sức mạnh duy nhất của nó và được bổ khuyết thêm một số khả năng khác - sự tin tưởng, sự tập trung và cố gắng - có thể phá tan được sức mạnh của ảo giác. Sự tiếp cận hợp lý (lôgic) đối với hiện thực Những người tu tập Phật giáo luôn chú tâm vào chủ đích tìm kiếm sự thật hay hiện thực. Thế nhưng đồng thời họ cũng khẳng định không nên hoàn toàn tin tưởng vào sự cảm nhận của mình đối với hiện thực, bởi vì có một sự cách biệt giữa các thể dạng hiển hiện của các sự vật và phương cách hiện hữu của chúng. Tuy nhiên sau đây là các phương pháp tốt nhất có thể sử dụng để tiếp cận và tìm hiểu hiện thực : phương pháp suy luận căn cứ trên sự hợp lý (lôgic), phương pháp suy diễn (phân tích), tam đoạn luận mang lại sự hiển nhiên, đấy là ba thứ khí cụ chính yếu được sử dụng để chứng minh sự hợp lý (lôgic). Đấy là các modus operandi [tiếng La-tinh, tạm dịch là các "phương thức hành động] giúp chuyển một sự quán nhận sai lầm trở thành một sự cảm nhận vững chắc, [Phật giáo xem các hiện tượng chỉ là ảo giác không phải hiện thực, bản chất của hiện thực là tánh không, muốn quán nhận được tánh không rất khó, phải dựa vào nhiều phương pháp khác nhau]. Sự hợp lý (lôgic) và trí tuệ tự tại Trí tuệ dùng để quán nhận sự vắng mặt của cái ngã. Sự quán nhận đó được căn cứ vào sự hợp lý (lôgic) thật vững chắc và khi ta đã quen với quá trình phân tích sự vững chắc của nó [tức sự vắng mặt của cái ngã] trí tuệ tự tại sẽ phát hiện để loại bỏ vô minh. Không những trí tuệ có thể tự hiển hiện mà còn có thể tỏa rộng đến vô biên nếu ta biết phát huy nó. Khi trí tuệ nẩy nở sẽ khiến các ý nghĩ về sự hiện hữu tự tại suy yếu dần và sau cùng sẽ hoàn toàn biến mất. Mọi sự khổ nhọc và lầm lẫn sẽ tan biến khi tiếp xúc với hiện thực. Chúng không còn lưu lại một dấu vết nào trong bầu không gian của hiện thực tinh khiết, kết quả thực tiễn là trong trường hợp đó ta không còn tạo nghiệp [phát huy được trí tuệ, quán nhận được tánh không, loại bỏ được vô minh, nhìn thấy được bản chất vô ngã của mọi hiện tượng, ta không còn tạo nghiệp nữa và đấy cũng là thể dạng giải thoát]. Tu tập Đạo Pháp mang lại sự an bình Đạo Pháp giải thích tại sao lại có nhiều cấp bậc khổ đau khác nhau. Theo thuyết nhân quả nghiệp chi phối hành động và hậu quả của nó, dựa vào đó chúng ta tin có kiếp sau [nếu không có kiếp sau không thể giải thích sự bất hạnh quá ư khác biệt giữa các cá thể con người]. Sự tin tưởng đó góp phần mang lại cho chúng ta một sự an bình trong cuộc sống và giúp chúng ta chấp nhận các biến cố tiếp nối nhau xảy ra trong cuộc đời mình. Chúng ta hiểu rằng mọi sự lo âu và toan tính đều hoàn toàn vô ích, không nên quá âu sầu về những nỗi khổ đau của mình, [vì đó là hậu quả do chính mình tạo ra]. Dù quán nhận được bản chất khổ đau có tính cách tạm thời thế nhưng không nên khinh thường hoặc nghĩ rằng : "chẳng có gì quan trọng". Khả năng ý thức được sự khổ đau đúng với bản chất của nó [vì đôi khi ta hiểu lầm khổ đau là hạnh phúc, chẳng hạn như sự thích thú do giác cảm mang lại] là một phẩm tính giúp khơi động niềm khát vọng loại bỏ nó, [vì khổ đau mang tính cách tạm thời không phải tự tại và vĩnh viễn, vì thế phải ý thức được điều đó để loại bỏ nó]. Bốn sự thực cao quý Đức Phật dạy rằng : "Đây là khổ đau đích thực, đây là nguyên nhân đích thực, đây là con đường đích thực".Ngài nói thêm : "Hãy ý thức khổ đau, loại bỏ những nguyên nhân của nó, đạt được sự chấm dứt khổ đau, bước theo con đường đúng đắn" [tức là bát chánh đạo]. Đức Phật lại giảng thêm : "Hãy ý thức được khổ đau, mặc dù chẳng có gì để ý thức, hãy từ bỏ các nguyên nhân mang lại khổ đau, mặc dù chẳng có gì để từ bỏ, hãy xa lánh thế tục một cách nghiêm túc, mặc dù chẳng có gì để xa lánh" [có nghĩa tất cả đều là tánh không, nắm vững tánh không của mọi hiện tượng mới có thể đạt được giác ngộ tối thượng, loại bỏ khổ đau chỉ là sự giải thoát]. Đấy là ba thể dạng của bản thể tự tại, của hành động và kết quả tối thượng của Tứ Diệu Đế.
    1 like
  16. Năm tới sẽ có cơ hội thay đổi việc làm ,nhưng vẫn chưa phải là suôn sẻ còn vất vã thiếu trước hụt sau ,đến năm 2013 mới bắt đầu khấm khá .
    1 like
  17. ...Đàm thì đàm, lấn thì lấn... Trong một diễn biến đáng chú ý khác, cùng lúc hai ông Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào chứng kiến lễ ký kết thỏa thuận về Biển Đông, Hải quân Trung Quốc loan báo vừa thiết lập một trạm xá quân y gần một đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc gọi là đảo Vĩnh Thử (Yongshu Reef), còn Việt Nam gọi là Đá Chữ Thập. Đây là vị trí gần nơi xảy ra cuộc hải chiến Trường Sa năm 1988, trong đó gần 70 chiến sỹ hải quân Việt Nam bị Trung Quốc bắn thiệt mạng. Đảo Chữ Thập đã bị Trung Quốc chiếm giữ từ đầu năm 1988 tới nay, và Tân Hoa Xã dẫn nguồn Hải quân Trung Quốc nói trạm xá mới sẽ chăm sóc y tế cho quân và dân của nước này đang sinh sống ở Trường Sa, mà Bắc Kinh coi là "phần lãnh thổ không thể tách rời" của Trung Quốc, thuộc quyền quản lý của tỉnh Hải Na Trích BBC
    1 like
  18. Chồng không hơn nhiều tuổi, chắc sẽ lấy chồng xa nếu không sau cũng phải xa nhau một thời gian, miền bắc hay nam thì không biết!
    1 like
  19. 1 like
  20. Năm tới thấy anh nầy có vận đi xa ,đừng kỳ vọng quá nhiều vào anh nầy vì cung quan của anh ta không tốt ,kiếm nghề gì cho anh ta đi buốn ,quan trường không thuận lợi .
    1 like
  21. Vì lắm thầy thì rối ma mà... hai người hai suy nghĩ khác nhau. TM cũng mong là mình sai...
    1 like
  22. Thưa ACE diễn đàn, hiện nay co một số kẻ đã tấn công tài khoản Yahoo. Chính tôi đã bị kẻ đó lấy đi mật khẩu, và hiện tại không vào được nick của mình Mong mọi người chú ý. Cách lấy của bọn chúng: Đưa cho chúng ta một địa chỉ có giao diện giống hệt yahoo, sau đó chúng ta login vào thế là nó biết Trân trọng thông báo!
    1 like
  23. Xin sửa lại giả thiết 28/ và 30/ trong Bài 24 như sau: D - Các trường hợp ngoại lệ 27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên. 28/ – Bỏ vì sai. Giả thiết này không sai nhưng phải sửa lại như sau: 28/100 – Thân nhược và khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận, Kiêu Ấn trở thành kỵ thần có 0,5đh, nếu nó lớn hơn Thân ít nhất 20đv. Nhưng nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm, Kiêu Ấn chỉ được thêm không quá 10đv mà nó đã lớn hơn Thân 20đv thì Kiêu Ấn trở thành kỵ thần chỉ có 0,38đh và Kiêu Ấn trở thành kỵ vượng.... giống như giả thiết 27/12. 29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu). 30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng ít nhất ¼ lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, ít nhất ½ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, ¾ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 30đv trở lên, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 40đv trở lên (?)....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược và ngược lại)). Giả thiết 30/(18;158), tôi diễn đạt không rõ nghĩa xin sửa lại như sau: 30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng 5/4 nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, 3 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 30đv, 4 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 40đv, 5 lần nếu....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược hay ngược lại)).
    1 like
  24. 1 like
  25. Xin hỏi một câu có điều chi không phải mong chị bỏ qua, có phải chị đang có mối quan hệ ngoài hôn nhân với một người đồng nghiệp? Việc này bắt đầu từ khoảng cuối năm ngoái?
    1 like
  26. Đại vận này có thể bị mắc lừa mất của, dẫn tới phá sản khánh kiệt, có thể dính dấp tới pháp lýĐại vận tiếp đó tả hữu+không kiếp: đi lừa ngừoi ta dẫn tới kiện tụng tù tội, tiền tài hao tổn, bệnh tật triền miên... Không có cách hóa giải, nhưng biết vậy rồi thì nên làm ăn chính đáng, chứ đừng nghĩ tới chuyện kiếm tiền mờ ám...
    1 like
  27. Thưa Thầy, đúng vậy, cần quảng bá cho mọi người biết về khu vực thái tuế của từng năm để tránh động thổ, em quan sát trong các năm và em chủ tâm theo dõi thì những nhà có hướng toạ bị thái tuế đều xảy ra chuyện, nặng nhất là mất người, trong năm nay em đã thấy 4 - 5 trường hợp rồi, còn nhiều trường hợp nữa em đang coi động tĩnh từ đây đến cuối năm.
    1 like
  28. 1 like
  29. Bé ngoan Đi trốn Nó đâu ấy nhỉ? Đi tìm Mình leo lên đây thế mà nó không biết!
    1 like
  30. Bài này từ lâu ai đó đã đưa lên trang web này. Tôi tin rằng ít nhất cũng có vài người xem được.
    1 like
  31. Cư dân mạng rớt nước mắt vì “Thư gửi con” 09/10/2011 21:55 (VTC News) - “Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu cho bố mẹ”. Mấy ngày nay, trên các trang mạng xã hội, các diễn đàn xôn xao bàn tán về một bức thư của cha mẹ gửi đến những đứa con thân yêu của mình. VTC News xin trích lại bức thư giản dị nhưng khiến những người làm con phải nhìn nhận lại chính mình. "Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu cho bố mẹ." “Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vung vãi... Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc... Xin con hãy bao dung!Con hãy nhớ những ngày, giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé. Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ... mà hãy lắng nghe! Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ... và bố mẹ đã làm vì con. Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ. Con hãy nhớ... lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm. Khi con thấy sự ít hiểu biết của bố mẹ trong đời sống văn minh hiện đại ngày hôm nay, đừng thất vọng mà hãy để bố mẹ thời gian để tìm hiểu. Bố mẹ đã dạy dỗ con bao điều... từ cái ăn, cái mặc cho đến bản thân và phải biết đương đầu với bao thử thách trong cuộc sống. Nếu như bố mẹ có đãng trí hay không nhớ hết những gì con nói... hãy để bố mẹ đôi chút thời gian để suy ngẫm lại và nhỡ như bố mẹ không tài nào nhớ nổi, đừng vì thế mà con bực mình mà tức giận... vì điều quan trọng nhất đối với bố mẹ là được nhìn con, đưọc gần bên con và được nghe con nói, thế thôi! Nếu như bố mẹ không muốn ăn, đừng ép bố mẹ!... vì bố mẹ biết khi nào bố mẹ đói hay không. Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa... hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời. Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng... bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi. Con đừng oán giận và buồn khổ... vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con. Hãy cố hiểu và chấp nhận, đến khi về già, sống mà không còn hữu ích cho xã hội mà chỉ là gánh nặng cho gia đình!... và sống chỉ là vỏn vẹn hai chữ "sinh tồn". Một ngày con lớn khôn, con sẽ hiểu rằng, với bao sai lầm ai chẳng vướng phải, bố mẹ vẫn bỏ công xây dựng cho con một con đường đi đầy an lành. Con đừng nên cảm thấy xót xa buồn đau, đừng cho rằng con bất lực trước sự già nua của bố mẹ. Con chỉ cần hiện diện bên bố mẹ để chia sẻ những gì bố mẹ đang sống và cảm thông cho bố mẹ, như bố mẹ đã làm cho con tự khi lúc con chào đời. Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều... Hãy giúp bố mẹ trong phút sống còn lại trong yêu thương và nhẫn nại... Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con. Thương con thật nhiều... Bố mẹ..." Tác giả: PIERRE ANTOINE (Việt kiều Pháp) Khởi Nguyên (sưu tầm)
    1 like
  32. @ngocanh1407 Anh Thiên Đồng ơi, em cũng muốn nhờ anh tư vấn giúp em. Tuổi: sinh ngày 12/01/1987 (Đinh Mão) (Âm lịch) Hỏi ngày 10 tháng 10 năm 2011 lúc 14h30 E đamh gặp rắc rối trong cả chuyện công việc , gia đình lẫn tình cảm, em muốn hỏi anh. câu 1: em có gắn bó lâu dài với công việc này không? Sẽ ra đi. câu 2: khi nào em sẽ kết hôn, người chồng tương lai của em như thế nào ạ Nhanh thì 2 tháng nữa, chậm thì cuối 2013. Nói nhiều làm ít. người xét nét. câu 3: gia đạo nhà em có được bình an không ạ Bình an, không gì đáng lo. Nếu có lục đục, bệnh hoạn thì do phong thủy nhà. em cám ơn anh nhiều lắm @hajiwon, Chú Thiên Đồng ơi! Còn cháu nữa kìa chú bỏ qua mất rồi. Mong chú xem giúp Cháu xin post lại bài nếu chú không thấy: Tuổi: Giáp tý (16/12/1984 âm lịch - 06/01/1985 dương lịch) Hỏi vào ngày 07 tháng 10 năm 2011 giờ: 13:54 dương lịch. Câu hỏi 1: Cháu tính đi học tiếng Anh, Tiếng Hàn Quốc - Nếu học 2 thứ tiếng này cháu có thể học giỏi và nghe nói lưu loát không? (Chú xem dùm nếu không được thì cháu khỏi đi học vì anh văn học từ nhỏ đến giờ mà cháu chẳng học vô) Học tiếng Hàn thì được. Học tiếng Anh đủ dùng. Câu hỏi 2: Cháu có thể kiếm được việc làm mới trong tháng này hay không? Nếu không thì lúc nào cháu sẽ kiếm được việc làm. Giữa tháng 10 âm có người gọi. Câu hỏi 3: Lúc nào công việc cháu làm sẽ ổn định, làm tại 1 cty thôi không nhảy việc từ cty này qua cty khác (tại tính cháu thích làm ơ đâu là làm 1 nơi à không thích nhảy việc cty khác) tháng 3 âm 2012. Xin cảm ơn chú Cháu mong tin chú. Thiên Đồng
    1 like
  33. Chào bạn, Những năm tới của hai vợ chồng bạn vận đều khá tốt, rieng bạn thì sau 30 trở đi đường công danh rất thuận lợi. Số bạn khá đẹp nếu làm trong lĩnh vực tài chính thì đi lên khá nhanh, nhưng dễ có giai đoạn sang làm kiểm toán, kiểm tra thì rất hợp. Số này đường nghề lên nhanh và thường hay phải đi xa, công tác. Huyencodieuly
    1 like
  34. Vũ Phương Lan 16/02/1993 - 01649780861 ==> Số điện thoại này xấu, không nên dùng Là con thứ trong gia đình ( không phải con đầu ), ít bạn bè, các mối quan hệ không được bền vững do tính. Nên đổi số điện thoại khác.
    1 like