• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 05/10/2011 in Bài viết

  1. Phàm ở đời, chỉ có bậc thầy mới chê học trò. Những cũng không thiếu kẻ chê người khác để tỏ ra mình là cao. Hiếm có những trí giả thực sự khen chê đúng chỗ. Ngay cả những người có tâm thật sự tốt, nhưng do thiếu hiểu biết vẫn cứ chê một cách phiến diện. Người viết bài này thuộc loại chê một cách phiến diện, còn cái tâm có mang tính quảng cáo không thì chưa biết. Sự thật Khổng Minh có thật là người tốt hay không? Lưu Bị có thật là người tốt hay không? Hay đó chỉ là do tác giả La Quán Trung tán tụng vậy thì chúng ta cũng có thể suy luận được, nhưng chưa bàn. Tuy nhiên, tài của Khổng Minh mà đem ra chê thì đúng là tác giả bài này cứ chê để tỏ ta đây là cao trí, âu cũng chỉ là một thứ quảng cáo mà thôi. Khổng Minh mới 28 tuổi mà danh tiếng đã nổi khắp thiên hạ vì tài năng. Khi ra phò giúp Lưu Bị vốn cũng nổi tiếng vì đánh Đông dẹp Bắc, nhưng thực chất lúc bấy giờ Lưu Bị cững mới chỉ quản lý cỡ một huyện, hoặc một tỉnh thành. Vậy mà sau này nổi cơ đồ chia ba thiên hạ làm nên một cục diện lịch sử thời Tam Quốc. Khi dựng nên cơ đồ, mọi việc đang thuận lợi, khiến Tào Tháo phải dời độ thì sự phản bội của Đông Ngô tấn công Kinh Châu giết Quan Vũ. Điều này đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cục diện Tam Quốc sau này, như là một định mệnh đã an bài. Mặc dù Thục thua lớn ở Đông Ngô, Lưu Bị chết ở Bạch Đế thành. Và sau đó thì Quân Tào hùng mạnh chia năm ngả tấn công Thục. Vậy mà một tay ông xoay chuyển tình thế, hóa giải các mũi tấn công của Tào Tháo và phản công lại Tào Tháo với 6 lần xuất quân ở Kỳ Sơn. Nếu ông ta không chết đột ngột thì chưa biết lịch sử sẽ đi về đâu? Mưu lược và tài năng như vậy quả là xuất chúng. Sự thất bại của Khổng Minh là do định mệnh - hiểu theo nghĩa quy luật của tự nhiên và vũ trụ tương tác chi phối con người - đã an bài, chứ không phải tài năng của ông kém cỏi. Ngay lời mở đầu cuốn Tam Quốc, La Quán Trung đã viết một mệnh đề có tính triết lý làm tư tưởng chủ đạo của câu chuyện: "Thế lớn trong thiên hạ tan lâu thì lại hợp, hợp lâu tất phải tan". Tất cả những chi tiết trong Tam Quốc chỉ là những diễn biến cụ thể để minh chứng cho mệnh đề có tính triết lý này. Ngay cả trước khi Khổng Minh bước ra khỏi lều tranh thì Tư Mã Đức Tháo đã than : "Khổng Minh tuy gặp chủ, nhưng không gặp thời! Thật tiếc lắm thay!". Cuối cùng Không Minh chết ở gò Ngũ Trượng, để lại một sự nghiệp còn dang dở. Nếu ông ta còn sống thì chưa biết lịch sử sẽ đi về đâu? Bởi vậy, đem những tiểu tiết như "gọi gió Đông Nam, rút đất hành quân....vv.....mà chê bai một bậc trưởng thượng xuất chúng như Khổng Minh thì đúng chỉ có thế là cái nhìn thiển cận của gã hủ nho mới có thể làm được.
    2 likes
  2. 2 bạn nên cưới vào năm nay hoặc sang năm 2012, qua 2013 là hạn Tam Tai của tuổi Nam nên cử cưới hỏi, phải đến 2016 mới hết. 2 tuổi này theo Luận Tuổi Lạc Việt thì rơi vào trường hợp Thiên Khắc (Quý Thủy khắc Bính Hỏa), Mạng Xung (Nam Hỏa, nữ Thủy theo sách Việt), nhưng Dần và Hợi là Nhị Hợp. Cưới nhau về sẽ khó khăn trong 1 thời gian ít nhất đến lúc sinh con, hay khắc khẩu nhau nhưng vợ chồng rất thương yếu nhau. Quan điểm ở đây là yêu nhau cứ lấy, vì tuổi vợ chồng chỉ là yếu tố đầu vào, sau này khi sinh con thì tương tác sẽ thay đổi. Vì vậy chọn tuổi sinh con tốt, hợp cha mẹ thì sẽ hóa giải luôn xung khắc của cha mẹ. Bạn yên tâm nhé. Các năm Tốt có thể sinh con : 2014 Giáp Ngọ, 2015 Ất Mùi, nhưng con út thì chỉ nên chọn năm 2018 Mậu Tuất để hóa giải triệt để xung khắc vợ chồng nhé, con trai thì càng tốt. Các năm khác các năm trên chỉ nên sinh con gái. Sau khi sinh 2018 thì không nên sinh nữa, gia đình sẽ ổn định và khá giả về lâu về dài, Chúc 2 bạn hạnh phúc nhé. Thân mến.
    1 like
  3. Mọi người nên tìm thêm quyển "Phong Thủy Sư Gia Cát Lượng" về đọc, là tiểu thuyết thôi nhưng cũng khá là thú vị, thú vị chưa hẳn là hay nhé. Trong truyện vừa lồng vào các giai thoại Phong Thủy, vừa theo diễn tiến của Tam Quốc...
    1 like
  4. Đúng quá chú à, ông tác giả này giống như ông thầy bói xem voi quá chú ạ. Theo thiển ý của cháu những bậc kỳ tài như Khổng Minh họ đều có thiên mệnh. Sự xuất hiện của họ tuân theo tự nhiên, theo sự tạo hoá và các quy luật của vũ trụ. Nếu không có KhổngMinh ở thời kỳ đó thì Tào Tháo dễ dàng bình định được Trung Nguyên vẫn là thừa tướng của nhà Hán không giải quyết hết vấn đề của nhà Hán thời bấy giờ; vì bộ máy cai trị vẫn là bộ máy đó, vẫn là các con người có tư tưởng cũ, vẫn cách điều hành như vậy. Và hệ quả tất yếu là vẫn xảy loạn giặc khăn vàng tiếp theo và những sự việc khác. Trong khi đó vận khí của nhà Hán đã quá suy, quá mất cân bằng cần phảicó sự cải tổ triệt để thì xã hội Trung Hoa mới phát triển. Có tam quốc thì các nước phải mở rộng thêm lãnh thổ của mình, phải nghiên cứu phát triển vũ khí và các công cụ sản xuất, tập trung vào phát triển kinh tế trong lãnh thổ của mình…….. Cá nhân cháu nghĩ mỗi chúng ta, mỗi loài cây, mỗi loài vật đề có một sư mệnh của thiên nhiên của tạo hóa. Sứ mệnh đó gây mất cân bằng âm dương tạo nên sự vận động phát triển để cân bằng lại hay sư mệnh đó là cân bằng lại âm dương để nó về trạng thái trung dung. Sứ mệnh mỗi người, mỗi loài mỗi khác, những bậc tài trí như Khổng Minh thì sứ mệnh của họ lớn lao lên ảnh hưởng của họ lên xã hội lớn hơn. Nhân tiện bài này cháu trình bày quan điểm của mình về định mệnh như trên, có gì mong các cô chú, anh chị chiếu cố chỉ bảo thêm ạ.
    1 like
  5. Thông thường mỗi người trong 2 bàn tay căn bản cần có 3 đường chỉ chính là ,mạng,trí và tâm đạo ,trên tay trái của cháu thiếu 1 đường trí đạo ,đầu trí đạo lại dính sát vào mạng đạo ,tay phải tâm đạo cũng đứt nát ở cuối và rẻ ở 2 ngón /theo sách nói đây là người tánh tình quái dị ,hay sẽ bị bệnh về tâm thần hay thần kinh ; thiếu 1 trong 3 đường căn bản trên là số người không thọ sự nghiệp không bền hay bị bệnh tật chết bất đắc kỳ tử , nhưng chỉ tay có thể thay đổi từ 6 tháng cho các đường phụ 1 năm trở đi cho các đường lớn ,nói chung cháu nên lập đức tích phúc để số mạng có thể thay đổi sau này .
    1 like
  6. Cấp cứu bệnh tim Ai thường bị nghẽn cơ tim Sẵn hai viên Asperin đầu giường Vài triệu chứng chớ coi thường: Hàm dưới đau dữ, lạnh lường mồ hôi Cơ tim dù chớm nghẽn rồi Vẫn chưa cảm giác ngực người đau đau Bệnh tim phát lúc ngủ sâu Đa phần người ngủ vẫn rầu ngủ mê Chỉ khi đau ngực ê chề Mới bị thức tỉnh, dầm dề mồ hôi Bấy giờ phải vội ngậm ngay Hai viên thuốc đã sẵn bày Asperin Ngậm tan rồi, uống nước liền, Gọi xe cấp cứu đưa miền Nhà thương Ngồi tựa ghế, chớ nằm giường ! Báo bác sĩ biết đã dùng Asperin. Thông tin này đã đưa lên Bạn chuyển ngay rộng, nhân lên gấp mười Ít ra cứu được một người Bí quyết cấp cứu, giúp đời nhân duyên.
    1 like
  7. Bạn thân mến ! Cá nhân tôi cho rằng năm nay hay năm sau cũng xấu như nhau thôi, lần đầu tư này e rằng rủi ro cũng không kém đâu. Lá số của bạn không tốt lắm, hiện tại đang có gia đình hỗ trợ, vào những thời điểm khó khăn sau này trong cuộc đời bạn sẽ phải làm sao ? Hãy giữ vững và giữ chắc những gì đang có đã là tốt rồi ! Những lời này của tôi có lẽ sẽ là thừa với bạn, dù thế nào , tôi mong bạn bình an !
    1 like
  8. Năm nay hay năm tới đều có cơ hội kết hôn, nhưng tôi nghĩ năm sau bạn mới cưới. Tháng này có thể làm một chuyến đi xa, ra Bắc? Tháng 11 âm lịch có chỗ ở mới hay chỗ làm mới, nhưng ban đầu không thuận có gặp một vài khó khan kìm kẹp trong công việc bị lời ra tiếng vào. Năm sau mới khá hơn, cẩn thận nhé. Năm nay sức khỏe kém lắm, bệnh tâm khí hay phải lo nghĩ nhiều, hay bị người khác mắng vốn không đâu và dính nhiều chuyện thị phi... nên ẩn nhẫn chờ qua năm tới thì sáng hơn và dần ổn định Những việc trên dù đúng hay sai tới tháng 11 âm lịch bạn lên phản hồi lại giúp tôi tích lũy thêm kinh nghiệm nhé, cảm ơn!
    1 like
  9. @nokia Chào anh Thiên Đồng Nhờ anh xem giúp em 1 quẻ tuổi : kỷ mùi, nữ giờ xin quẻ 9g48p, ngày 5/10/2011 1. Sức khỏe của em chừng nào mới khỏe hẳn, bình thường lại ? - Nhanh thì sau 1 tháng, chấm thì tháng giêng năm Nhâm thìn 2012. 2. Em có sống thọ không? Rất thọ. 3. Từ giờ tới cuối năm em có tài lộc gì không? Hao tốn, chưa chưa thấy tài lộc. Cảm ơn anh Thiên Đồng nhiều. Chúc an lành hạnh phúc Thiên Đồng
    1 like
  10. TÌNH YÊU THỜI BẤT ĐỘNG SẢN Ong yêu bướm tha thiết. Nhưng bướm lại yêu ốc sên. Ong buồn lắm nói với bướm: - Trời ơi! Sao em lại nỡ đi yêu một tên ốc sên xấu xí và bẩn thỉu, người đầy nhớt như vậy? Em phải biết rằng mối tình của chúng ta đã đi vào hình tượng văn học của nhân loại - mối tình ong bướm. Em hãy nghĩ lại đi. Anh vẫn yêu em. - Anh không được xúc phạm đến người yêu của em. Xấu đẹp gì thì anh ta vẫn là người mà em đã yêu. Anh nên nhớ rằng anh ta có một ngôi nhà cho riêng mình. Còn anh, anh vẫn ở nhà chung cư, chật chội thấy mà ớn! TS Sưu tầm và biên tập lại.
    1 like
  11. Con đầu chưa hợp tuổi, nhất là với mẹ, nhưng là con gái nên không phải lo gì. Cháu hơi bướng, dễ bệnh. Chỉ nên sinh con sau năm 2013 thôi nhé, sinh trong 6 tháng đầu năm là hợp cách. Quan trọng là được năm tốt là tốt rồi. Thân mến.
    1 like
  12. Đại vận chỉ có từ 26 đến 35 được vào năm 28 -29 tuổi mà thôi. Nên thay đổi tính tình kẻo có ngày mất ko còn gì. Tính tình ương ngạnh tiền hậu bất nhất - lập trường không vững ......
    1 like
  13. Năm Quý TỴ 2013 là năm tốt nhất để sinh trong khoảng 6 năm tới. Tân sinh Quý, Nhâm Hợp Quý, địa chi tam hợp, mạng mẹ dương Hỏa và con Quý Tỵ Âm Hỏa (theo sách Việt) hợp nhau. Sinh con năm này thì gia đình sẽ khá giả hơn so với hiện nay. Thân mến. Nhâm Thìn sinh rất tốt đấy bạn. Ngoài ra có năm Mậu Tuất 2018, các năm ở giữa không tốt, mẹ con khắc nhau. Nên cố gắng sinh Nhâm Thìn nhé. Thân mến. Nếu như theo ý chị thì có năm 2017 Đinh Dậu là rất tốt để sinh, tốt hơn 2013 nhiều, vì các cặp khác sợ tuổi cao nên chọn năm 2013. Nếu chị không ngại tuổi cao thì cứ sinh 2017, đảm bảo gia đình sẽ phát lên nhiều đấy, nhất là về đường tài lộc. Thân mến.
    1 like
  14. Tôi xin dẫn giải những điều đúng như sách vỡ ,còn luận giải thì tùy quan điễm và kiến thức tử vi của mỗi người .Nếu giờ Mão mệnh cư Thìn Phá quân thủ mệnh ; đắc địa là người thấp , mẫu người nầy da hồng hào chan mày lợt .giờ Sửu da xanh nhợt hay xám [thien riêu] về cung bào đệ thì tôi không thấy có sao nào chứng tỏ là có anh chị em dị bào [mão , anh chị em lại ít chỉ có 2 ]; riêng giờ Sửu thì có sao Thiên phúc ,là có anh chị em dị bào anh chị em cùng cha khác mẹ và cùng mẹ khác cha [ tả-hửu,xương-khúc ] có đông anh chị em [trường sinh ] giờ sửu năm sinh con có dấu hiệu của sinh khó hay sinh mỗ ,sát- hổ ,còn sanh trai gái thì rất khó đoán chính xác ,trong sách vẫn giải phân 2 ,nếu nam đẫu thì sinh con trai ,bắc đẫu thì sinh con gái ,nhưng nếu sinh ra không đúng với thì đúa trẻ đó rất khó nuôi. Vấn đề xét giờ sinh ,thì xem hạn xảy ra để dựa vào đó xác định thì không mấy chính xác ,lý do thay đổi giờ sinh nhưng tiểu hạn và các lưu vẫn không thay đổi ,cho nên dẫu có khác giờ sinh thì có thể hạn xảy ra gần giống nhau .
    1 like
  15. 1 like
  16. - nhà có ae trai - năm rồi vừa mới ra trường nhận được bằng cấp chứng chỉ? - Được bố mẹ tậu nhà đất, xin việc cho hả?
    1 like
  17. Lại một lần nữa xin sửa lại khái niệm về Ít, Nhiều và Đủ như sau: Nói chung sau khi ứng dụng vào các ví dụ trong thực tế thì khái niệm này phải sửa đổi sao cho nó càng phù hợp với càng nhiều ví dụ thì càng tốt. Ý sửa đổi lần này hiểu đơn giản là các can chi phải có ít nhất 6đv trong vùng tâm khi xét chúng không bị xung, khắc, sinh, hợp... bởi các can chi khác. Hy vọng khái niệm đưa ra lần này là đúng theo bản chất khách quan của "Phương Pháp Tính Điểm Hạn" này.
    1 like
  18. Bài viết để tham khảo LamPhong đã viết trong chủ đề “Tổng kết các case đoán“ trong mục Tử Vi bên trang web tuvilyso.org): “Case 1: - Chủ thớt: Thienkyquy - Đề: Đây là số của người cầm tù vợ trong nhà vì tính ghen và tính chiếm hữu, khi vợ trốn về nhà mẹ ở miền Tây, đã rượt theo và bắn 5 phát vào ngực và đầu ngày 13 tháng 9 năm 1947 lúc 9:30 sáng. Sau đó bắn vào đầu mình tự sát lúc 9:30 sáng và đến chiều lúc 16:03 thì chết. Nam sinh năm tháng ngày giờ Âm Lịch Bính Ngọ (1906) ngày 26 tháng 9 giơ gì???? (lá số lập từ giấy khai sinh). Chúng ta thử tìm xem có thể tìm đúng giờ sinh này không? Kết quả: Giờ Hợi“ Và đây là chủ đề “Chồng giết vợ“ của ThienPhucThienQuan (cũng trong mục Tử Vi bên tuvilysso.org): “Hồ sơ Chồng giết Vợ xong rồi tự sát quả thật lý thú vì tôi truy cập thêm tin tức và biết ngày giờ tháng năm sinh của người vợ. Lập lá số thấy rùng mình vì lá số của người vợ quá trùng khớp với lá số chồng, càng xác định chồng sinh giờ Thân. Tôi sẽ trình làng sự luận giải dùng phép Lưu Cung và Thái Tuế Nhập Quái để cho thấy biến cố dữ dội xãy ra không phải là vô cớ, nhất là sự trùng cung và sự truyền tinh thể hiện quá sắc nét qua cặp hồ sơ hi hữu này. Vợ người Mỹ, sinh ngày 16 tháng 11 DL, 1912, giờ Mão Chồng nguời Mỹ, sinh ngày 12 tháng 11 DL, 1906, giờ Thân Lá số vợ: http://www.lyso.vn/d...47/Vobigiet.jpg Trích: American homicide victim who was shot five times in the head and chest by her jealous husband at her mom's home where she had taken refuge on 9/13/1947, 9:30 PST, Los Angeles, CA. The husband then turned the gun on himself; he died later that day. Born on 16 November 1912 at 05:30 (= 05:30 AM ) Sửa bởi ThienPhucThienQuan: 14/09/2011 - 07:40 AM“ Vậy thì trong 2 giờ, Hợi và Thân thì giờ nào đúng? Theo phương pháp tính điểm hạn của tôi thì sơ đồ tính điểm hạn của năm Đinh Hợi (1947) theo giờ Hợi như sau: Ngày 13/9/1947, đó là năm Đinh Hợi thuộc đại vận Quý Mão và tiểu vận Mậu Thìn. 1 - Ta thấy Thân vượng mà Thực Thương Thủy nhiều (có 2 Hợi được lệnh), vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh Mộc tàng trong Hợi trụ tháng. 2 – Ta thấy Nhâm đại vận hợp với 2 Đinh và Dần đại vận hợp với 3 Hợi đều không hóa (vì lực hợp của Ngọ trụ năm với Dần đại vận cũng như lực xung của Thân trụ ngày với Dần đại vận nhỏ hơn lực hợp của 3 Hợi với Dần). 3 - Dụng thần Giáp tàng trong Hợi trụ tháng hợp với tuế vận có 1đh, và nó vượng ở lưu niên có -1đh. 4 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh. 5 – Nhâm đại vận vượng ở lưu niên có -0,5đh và khắc 2 Đinh, vì vậy mỗi lực khắc có 1,4.1/2.1/2 đh = 0,35đh. 3 Hợi trong tổ hợp không hóa nên chúnh tự hình với nhau như bình thường. Hợi trụ tháng và Hợi trụ giờ tự hình Hợi thái tuế, mỗi lực có 1đh. Do vậy Hợi trụ tháng tự hình Hợi trụ giờ có 0,5.1/2 đh = 0,25đh (vì cách 1 ngôi). 6 - Đất mái nhà ở trụ giờ và lưu niên có Đinh thất lệnh (với Đinh trong Tứ Trụ) và nhược ở tuế vận nên không khắc được nước mưa ở trụ năm. Tổng điểm hạn chỉ có 2,45đh. Nếu không xét đến các yếu tố tác động từ bên ngoài thì với số điểm này không thể gây ra bất kỳ một tai họa nào cả. Và với sơ đồ trên thì tôi không thể “BÓI“ ra được 1 giả thiết nào để cho số điểm hạn tăng thêm. Còn theo giờ Thân thì sơ đồ tính điểm hạn của năm Đinh Hợi như sau: Theo giờ Thân thì tai họa xẩy ra ở tiểu vận Ất Sửu. 1 - Ta thấy Thân vượng mà Kiêu Ấn và Thực Thương ít, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát Đinh tàng trong Ngọ trụ năm. 2 - Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì Dần đại vận hợp với Hợi trụ tháng và Hợi lưu niên hóa Mộc có -0,75đh. Nhâm đại vận hợp với Đinh lưu niên hóa Mộc có -0,5đh. 3 - Dụng thần Đinh nhược ở lưu niên có 0đh. 4 - Nhật can Canh nhược ở lưu niên có 0đh. Tổng điểm hạn là -1,25đh. Số điểm này càng không thể gây ra bất kỳ 1 tai họa nào cả (nếu không tính đến các tác động ở bên ngoài). Nếu chúng ta đưa ra giả thiết là phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì sau khi tính lại, ta thấy chỉ có Thực Thương (Thủy) mất 3đv còn điểm của Tài Mộc tăng từ 1,6đv thành 4,6đv. Số điểm này không làm cho Thân và dụng thần thay đổi. Đến đây nếu ta đưa tiếp ra giả thiết là phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận thì Mộc có 4,6đv được thêm (9 + 2.6).1/3 đv = 7đv; 2.10đv của Hợi thái tuế; 9đv của Nhâm đại vận và 2.4,1đv của Đinh lưu niên, vì vậy Mộc có tới 48,8đv. Theo như bình thường thì sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn của ngũ hành không thay đổi. Nhưng nếu như vậy thì hành Mộc vẫn có điểm hạn âm thì tổng điểm hạn vẫn là số âm nên cũng không thể chấp nhận được. Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải “BÓI“ ra giả thiết : “2/ - Nếu tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận thì phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận, và nếu sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà Thân mới bị thay đổi thì dụng thần và điểm hạn của ngũ hành được xác định như bình thường“. (Tôi đã sửa lại giả thiết số 2/ trong Bài 24 cho ngắn gọn và chính xác hơn). Nếu sử dụng giả thiết này thì Thân sẽ là nhược mà Tài tinh Mộc là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp/ Canh tàng trong Thân ở trụ ngày. Mộc là kỵ vượng và điểm kỵ vượng được tăng gấp đôi (vì nó lớn hơn hỷ dụng trên 20đv). Bán hợp Mộc có 0,75đh. Lục hợp Mộc có 0,5đh. Các can chi Nhâm, Đinh, Dần và Hợi ở tuế vận, mỗi can chi có 2.0,5đh kỵ vượng. Dụng thần Canh và Nhật can Canh đều nhược ở lưu niên nên đều có 0đh. Tổng điểm hạn là 5,25đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Từ ví dụ này tôi mới đưa ra giả thiết số 2/ này, vì vậy nó chưa có gì là chắc chắn cả, cần phải có nhiều ví dụ tương tự để kiểm tra. Nhưng về lý thì giả thiết này có thể đúng vì theo Tử Bình, Mộc của Tứ Trụ này là Tài mà Tài đại diện cho Tiền, Vợ và Cha. Mà rõ ràng tai họa này gây ra bởi số điểm hạn toàn là của hành Mộc và thực tế đúng là ông ta chết vì gen tuông vợ. Do vậy Tài gây ra tai họa ở đây không phải Tiền hay Cha mà chính là liên quan tới Vợ của ông ta. Nếu như không tính đến các điểm hạn do bên ngoài gây ra thì dĩ nhiên sinh giờ Thân mới có thể giải thích được tai họa này.
    1 like
  19. Các ví dụ minh họa : Ví dụ 18: Bé trai sinh ngày 6/1/1983 lúc 0,00’ sáng. Chết vào tháng 7 năm 1983. Tháng 7/1983 là năm Quý Hợi thuộc đại vận Quý Sửu (tiểu vận Quý Sửu). 1 - Tứ trụ này có Thân vượng và kiêu ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Mậu tàng trong Tuất trụ năm. Thủy là kỵ vượng. 2 - Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158), 105/18 và 123/6 thì vào đại vận Quý Sửu và năm Quý Hợi, giữa tứ trụ với tuế vận có tam hội Hợi Tý Sửu hóa Thủy cục có 4 chi có (1.2 + 0,25)đh = 2,25đva, Sửu và Hợi ở tuế vận, mỗi chi có 0,5.5/4đh = 0,63đh kỵ vượng (bởi vì Ngọ trụ ngày xung gần 2 Tý trong tứ trụ không thể phá được tam hội có 4 chi, cũng như điểm hạn của Thủy cục được tăng gấp đôi và điểm kỵ vượng được tăng 1/4) 3 - Dụng thần Mậu tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh. 5 – 2 Quý ở tuế vận, mỗi Quý có 1 cát thần có -0,25đh. 6 - Nước biển ở trụ năm và lưu niên có Nhâm và Quý vượng ở lưu niên khắc kim trong cát, mỗi lực có 1đh. Tổng số là 5,01đh. Số điểm này là chấp nhận được. Từ ví dụ này chúng ta khẳng định tam hội cục ngoài tứ trụ chỉ có 2 chi trong tứ trụ mà 2 chi này giống nhau thì điểm hạn không được giảm (giả thiết 267/(26;18). Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thủy là quá vượng. Do vậy ta phải dùng Hỏa và Thổ, nhất là Thổ để giải cứu (năm 1983, đứa bé này phải được đưa về phương nam và sống trong....như câu 2 phần II ở chương 18). Năm Quý Hợi là năm mà Thủy vượng còn có thêm tam hội Thủy, Thủy là quá vượng, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Thân bởi vì nó là tháng mà Hỏa và Thổ bắt đầu suy yếu còn Thủy bắt đầu vượng khắc Hỏa và sinh cho Thân (Mộc). Thân (Mộc) càng thêm vượng khắc dụng thần Thổ. Chị của bé trai đã kể : “Trước đây rất nhiều người bảo phải bán khoán đứa em này cho nhà chùa thì mới nuôi được. Tuy nhiên bố mẹ tôi không tin nên hậu quả là khi bị bệnh rồi thì không còn kịp nữa. Em của tôi bị bệnh mà các bác sỹ không chuẩn đoán ra bệnh gì. Nó khóc 23 hôm thì mất”. Nếu theo tứ trụ này thì chúng ta nhận thấy vào năm Quý Hợi xuất hiện tam hội Hợi Tý Sửu, nó đại diện cho các vị thần linh, vì vậy nó thường là tốt. Nhưng ở đây nó hóa Thủy mà trong tứ trụ Thủy là kỵ thần đã quá vượng và không có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ nên điểm hạn không được giảm, vì vậy nó trở thành cực kỳ xấu cho cháu bé (nghĩa là các vị thần đã xuất hiện nhưng lại muốn mang cháu bé đi theo họ chăng ?). Ví dụ 158 : Ngày 15/4/1912 Tầu Titanic bị tai nạn. Nghĩa của từ Titanic là khổng lồ, vĩ đại, vì vậy nó mang tính của phái mạnh tức đàn ông. Ngày 15 tháng 4 năm 1912 là năm Nhâm Tý thuộc đại vận Mậu Tuất (tiểu vận đầu tiên). 1 - Mệnh này Thân vượng kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Giáp tàng trong Hợi trụ năm. 2 – Vào đại vận Mậu Tuất và năm Nhâm Tý có. Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý trụ tháng hóa Hỏa (xuất hiện trước, năm 1911) và tam hội Hợi Tý Sửu có 4 chi hóa Thủy (xuất hiện sau, năm 1912), vì vậy Hỏa cục và Thủy cục đã gây ra đại chiến. Vì có Quý ở trụ tháng hợp với tuế vận hóa cục nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Thổ có 20đv bị mất 10đv của Sửu còn 10đv. Thủy có 5đv được thêm 10đv của Sửu thành 15đv. Điểm hạn và điểm vượng vùng tâm đã thay đổi như sau : 1............0,5..........-1.........-0,5............0,5 Mộc......Hỏa........Thổ..........Kim............Thủy #4,8.........2.........10............9,8.............15 Thân trở thành nhược và thực thương Thủy là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn Kỷ ở trụ giờ. Thủy là kỵ 1 (động) nên phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 2đv được thêm 2,62đv của Quý trụ tháng và 4,1đv của Mậu đại vận, thành 8,72đv. Thủy có 15đv bị mất 2,62đv của Quý trụ tháng, thêm 2.10đv của Tý thái tuế và 2.10đv của Nhâm lưu niên thành 52,38đv. Do vậy Thủy lớn hơn hỷ dụng thần Thổ và Kim trên 40đv. Điểm hạn của tam hội Thủy cục có 4 chi có 1.2đh +0,25đh (vì Thủy là kỵ 1). Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158) thì điểm kỵ vượng của Tý thái tuế được tăng gấp 4 lần có 4.0,5đh = 2đh. Hỏa cục có 0,5đh và điểm hạn của ĐC có 6.0,4đh = 2,4đh. 3 - Trụ tháng Quý Tị TKĐK với trụ giờ Kỷ Hợi có (0,25 + 0,05)đh = 0,3đh (vì Kỷ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). 4 - Dụng thần Kỷ tuyệt ở lưu niên nên có 1đh. 5 - Nhật can Tân vượng ở lưu nên có -1đh. 6 - Kỷ trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có 1đh và khắc Nhâm lưu niên có 0đh (vì Thủy cục có 4 chi có điểm hạn và điểm hạn được tăng gấp đôi - giả thiết 80/(32;36;55) - “Các can trong tứ trụ không khắc được một hóa cục có 4 hay 5 chi nhưng các can cùng hành với hóa cục này vẫn bị khắc như bình thường nếu hóa cục này không có ít nhất 2 chi có điểm hạn và điểm hạn này phải được gấp đôi”. 7 - Đất trên tường trụ ngày có Tân vượng ở lưu nên khắc nước sông trụ tháng có 1đh, vì vậy nước sông không khắc được kim trang sức ở trụ năm. Gỗ đồng bằng trụ giờ có Kỷ được lệnh nên khắc được gỗ dâu lưu niên có 0,25đh. Tổng số là 10,2đh. Tam hội 4 chi ngoài tứ trụ mà trong tứ trụ có 3 chi mà có 2 chi khác nhau nên điểm hạn được giảm 1,25đh và 2 trong 3 chi này là Hợi cùng hành với Thủy cục. Do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn (10,2 -1,25).1/2.đh = 4,48đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 149/158: “Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến có 0,5đh nếu hóa cục chủ khắc có 1 can chi nhiều hơn so với can chi của hóa cục bị khắc, 0,6đh nếu nó có 2 can chi nhiều hơn, 0,7đh nếu nó có 3 can chi nhiều hơn,...” (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này). (Chú ý: Tôi vừa mới sửa lại giả thiết này nên nó có khác một chút với Bài 22). Nếu áp dụng giả thiết này thì tam hội Thủy cục là chủ khắc có nhiều hơn Hỏa cục 2 chi nên điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,6đh. Vì vậy điểm hạn của ĐC này là 6.0,6đh = 3,6đh. Tổng số là (11,4 -1,25).1/2.đh = 5,08đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Có Thủy khắc Hỏa và trong tứ trụ có Hợi và Sửu hợp với thái tuế hóa Thủy gây ra ĐC, do vậy vào các tháng Hợi và Sửu của mùa Đông tai họa dễ xẩy ra. Nhưng đại vận Mậu Tuất của năm Nhâm Tý (từ 4/2/1912 tới 31/5/1912) chỉ có các tháng Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn và Ất Tị. Trong đó chỉ có tháng Ất Tị là xấu nhất bởi vì nó TKĐX với trụ giờ Kỷ Hợi và nó là tháng và mùa mà Hỏa vượng còn Thủy ở tử tuyệt. Nhưng ở đây tai họa đã xẩy ra vào tháng Giáp Thìn. Tại sao như vậy ? Có thể tháng Giáp Thìn TKĐX với đại vận Mậu Tuất và nó là tháng mà Hỏa vượng còn Thủy nhập Mộ. Các nguyên nhân chính gây ra hạn ở đây là các điểm hạn của ĐC và nạp âm thì hiện giờ Tôi chưa có cách nào để ngăn chặn. Hy vọng thời gian tới, tôi hoặc ai đó sẽ tìm được giờ sinh khác hoặc cách chứng minh khác cho tai họa của con tầu Titanic có tính thuyết phục hơn cách chứng minh này.
    1 like
  20. Bài 24 – Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng Y1 – Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng Đây là phần quan trọng nhất của phương pháp tính điểm hạn này. Thường thì các can chi trong tứ trụ không thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm của chúng không thay đổi, nhưng vào một năm nào đó can chi trong tứ trụ có sự hợp hóa thành hành khác thì điểm vượng vùng tâm của chúng có thể bị thay đổi. Trong một số trường hợp can chi trong tứ trụ thay đổi hành của chúng thì điểm vượng vùng tâm của các hành phải được tính lại. Sau đó ta phải xác định lại dụng thần và điểm hạn của các hành. Tiếp theo có thể ta phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận và tiểu vận để xác định chính xác độ lớn của các hành ở năm đó (điểm vượng tính thêm ở tuế vận này không có khả năng làm thay đổi dụng thần cũng như điểm hạn của các hành, trừ một vài trường hợp ngoại lệ). A – Hành kỵ 1 và hành kỵ vượng Nếu 1 hành là kỵ thần có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại hoặc tính thêm các can và chi động ở tuế vận) lớn hơn các kỵ thần khác thì nó được gọi là hành kỵ 1 và nếu nó lớn hơn các hành là hỷ dụng thần từ 10đv trở lên thì nó được gọi là hành kỵ vượng và can hay chi của nó trong một số trường hợp có điểm hạn và các điểm hạn này được gọi là các điểm kỵ vượng. B - Tính lại điểm vượng trong vùng tâm Cách tính lại các điểm vượng trong vùng tâm là lấy chính điểm vượng trong vùng tâm của các can hay các chi này từ khi mới sinh (điểm vượng này được tính từ khi mới sinh nên chúng không bao giờ thay đổi). Do vậy nếu 1 can hay 1 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của can hay chi này thì hành của hóa cục đó được thêm số điểm của các can hay chi này còn hành của các can hay chi này bị giảm đi số điểm như vậy. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành thay đổi, vì vậy dụng thần hay điểm hạn của các hành trong vùng tâm có thể thay đổi. Đối với các sách cổ về mệnh học thì dụng thần thay đổi là phần khó nhất, nhưng với phương pháp này thì nó không phải là quá khó. 1B - Điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại trong các trường hợp sau : 1/(10;35;86;206) - Nếu có ít nhất 1 can trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục. Khi đó các can chi động trong tứ trụ được tính như bình thường và các điểm vượng ở lưu niên của các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục cũng được tính vào trong vùng tâm, nhưng các điểm vượng ở lưu niên của các chi ở tuế vận hợp với các chi trong tứ trụ hóa cục không được tính vào trong vùng tâm. 2/ - Tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận (?). Riêng trường hợp này thì sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành được xác định như từ khi mới sinh (nghĩa là các can chi ở tuế vận hóa cục được xem như ở trong Tứ Trụ từ khi mới sinh). 3/30 - Nếu các can của tuế vận và can tiểu vận hóa cục mà có thêm hóa cục của các địa chi có cùng hành liên kết giữa tứ trụ với tuế vận. 4/13 - Trong tứ trụ có hóa cục từ khi mới sinh nếu nó hợp với tuế vận hóa cục có cùng hành. 5/6 - Giữa tứ trụ với tuế vận có các hóa cục, trong đó có ít nhất 2 chi ở trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành của chúng. 6/29 - Hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh bị phá mà có ít nhất 1 chi của nó hợp với tuế vận hóa cục. 7/9 – Các chi tuế vận đều hóa cục có cùng hành và có tổ hợp của thiên can liên kết tứ trụ với tuế vận. 2B - Điểm vượng vùng tâm không phải tính lại 8/28 - Nếu các chi trong tứ trụ ở trong hay ở ngoài các tổ hợp không hóa thì khi chúng hợp với tuế vận hóa cục mà trong chúng chỉ có 1 chi trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành. 9/53 - Các tổ hợp của các địa chi trong tứ trụ không hợp với tuế vận hóa cục (khi có thần dẫn ở tuế vận) hoặc chúng bị phá (kể cả chúng hóa cục từ khi mới sinh). 3B – Tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận (Các can chi ở tuế vận và tiểu vận được xem là động khi nó xung, khắc hay hợp với các can chi khác) 10/6 – Sau khi tính lại các điểm vượng trong vùng tâm (chỉ xét các can chi trong tứ trụ và các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục) nếu hành kỵ thần 1 ở trạng thái động thì phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận (viết tắt là tính thêm điểm vượng ở tuế vận), nếu hành kỵ 1 là tĩnh thì không phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận (trừ một vài trường hợp ngoại lệ như câu 11/30...). 11/30 - Sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm nếu một hành là kỵ thần nhưng không phải là kỵ 1 hay hành kỵ 1 là tĩnh, mà các hóa cục của nó có tổng cộng từ 6 can chi trở lên thì phải tính thêm điểm vượng tuế vận (đây là một trường hợp ngoại lệ). 11a/ - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân vượng thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, quan sát không bao giờ là kỵ 1 hay kỵ vượng cho dù nó lớn hơn các hành khác từ 10đv trở lên. 12/50 - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân thay đổi hay không thay đổi thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn của các hành sẽ không thay đổi (trừ các trường hợp ngoại lệ: 2/ ; 12a/215; 29/(98;99) ;...), nói chung hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần, nhưng nếu nó có tam hợp hay tam hội cục trong Tứ Trụ thì các điểm kỵ vượng của nó chỉ bị giảm 50% nếu điểm vượng của hành kỵ vượng này không nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần 10đv (?). 12a/215 - Nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà cách "Lưỡng Vượng" (kể cả các cách độc vượng (?)) bị phá thì sau khi tính thêm các điểm vượng ở tuế vận điểm hạn của ngũ hành mới có thể được thay đổi như bình thường. 4B - Cách tính thêm điểm vượng ở tuế vận 13a/ - Điểm vượng của can đại vận cũng như can và chi của lưu niên chính là điểm vượng của chúng tại lưu niên (nghĩa là tại chi của lưu niên (thái tuế) và xem thái tuế như lệnh tháng), chúng được viết ngắn điểm vượng của chúng tại lưu niên, nhưng với chi của lưu niên thì số điểm vượng này được tăng gấp đôi, trừ trường hợp trong tứ trụ không tồn tại hành của nó (kể cả can tàng là tạp khí) - (ví dụ 197), còn với can lưu niên thì số điểm vượng này cũng được tăng gấp đôi, trừ khi nó hợp với can trong tứ trụ hóa cục (ví dụ 212). 13b/ - Điểm vượng của can tiểu vận chính là điểm vượng của nó tại tiểu vận (nghĩa là tại chi của tiểu vận và xem chi tiểu vận như lệnh tháng). 13c/ – Điểm vượng của chi đại vận và chi tiểu vận là điểm vượng trung bình của chúng tại đại vận (nghĩa là tại chi của đại vận và xem chi đại vận như lệnh tháng) và 2 lần điểm vượng của chúng tại lưu niên (thái tuế). 13d/208 - Nếu Nhật can hợp với tuế vận hóa thành cục nhưng điểm hạn của hóa cục này bị các can khắc mất hết hoặc chúng hóa thành cục có hành khác với hành của Nhật can thì điểm vượng trong vùng tâm từ khi mới sinh của Nhật can không bị mất và hành mới hóa cục không được thêm số điểm này. . 13e/ - Nếu các can là tranh hợp thật thì các can này không có điểm vượng (?). 13f/10 - Nếu điểm hạn của hóa cục bị khắc mất x% thì chỉ có các điểm vượng của các can (hay các chi ?) có điểm hạn của hóa cục này mới bị giảm x%, nhưng các điểm kỵ vượng của chúng (nếu có) không bị giảm. Ví dụ : Nếu đại vận là Bính Thân, tiểu vận là Kỷ Dậu và năm Nhâm Ngọ thì điểm vượng của các can chi này ở năm Nhâm Ngọ được tính như sau: 1 - Kỷ tiểu vận có 6đv tại Dậu tiểu vận . 2 - Bính đại vận có 10đv tại Ngọ của lưu niên (thái tuế). 3 - Nhâm lưu niên có 4,1đv tại Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 4,1.2đv, nếu Nhâm hợp với can trong tứ trụ hóa cục thì điểm vượng này không được gấp đôi. 4 - Ngọ lưu niên có 10đv tại chi Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 10.2đv 5 - Dậu tiểu vận có 10đv tại Thân của đại vận và 4,8đv tại Ngọ của lưu niên nhưng nó được gấp đôi thành 2.4,8đv, vì vậy điểm vượng của Dậu ở lưu niên là (10đv + 4,8.2đv).1/3 đv = 6,53đv. 6 – Thân đại vận có 9đv tại Thân của đại vận và 7.2đv = 1,4đv tại Ngọ của lưu niên, vì vậy điểm vượng của Thân ở lưu niên là (9đv + 7.2đv).1/3 = 7,67đv. C – Hành và điểm kỵ vượng 14/6 - Nếu một hành là kỵ 1 có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại điểm vượng của vùng tâm hoặc sau khi tính thêm điểm vượng của tuế vận) lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv (sai số có thể từ -0,05đv tới +0,05đv) trở lên thì hành đó được gọi là hành kỵ vượng và nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv đến 19,99đv thì mỗi can hay chi (trừ các chi trong tứ trụ) của hành kỵ vượng có thể có điểm (hạn) kỵ vượng bằng đúng điểm hạn của hành của nó (chú ý điểm kỵ vượng của can hay chi tiểu vận chỉ bằng ½ ), còn nếu nó lớn hơn từ 20đv trở lên thì mỗi can chi của nó có thể có điểm kỵ vượng gấp 2 lần số điểm hạn của hành của nó, trừ các giả thiết 14a/135; 22/17; 23/8; 24/11...).. 14a/135 - Nếu dưới 12 tháng tuổi thì điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi mặc dù hành kỵ vượng lớn hơn hỷ dụng thần 20đv trở lên. 15/9 - Nếu can đại vận là kỵ vượng khi khắc được can trong tứ trụ mới có điểm kỵ vượng (kể cả khi nó bị hợp), khi đó các can kỵ vượng ở các vị chí khác có điểm kỵ vượng chỉ khi chúng ở trong các trạng thái động. 16/(12;176) - Các can trong tứ trụ là kỵ vượng bị can đại vận khắc thì chúng mới có điểm kỵ vượng, khi đó các can kỵ vượng khác ở trong trạng thái động mới có điểm kỵ vượng. Điểm kỵ vượng của các can bị khắc giảm tỷ lệ thuận theo các lực khắc chúng. 17/67a - Nếu can đại vận là kỵ vượng hợp với can trong tứ trụ thì nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó bị khắc bởi can trong tứ trụ có hành của dụng thần, khi đó các can khác trong tổ hợp này là kỵ vượng mới có điểm kỵ vượng. 18/12 - Nếu các chi trong tứ trụ, tuế vận và tiểu vận là kỵ vượng xung khắc nhau thì chỉ có các chi ở tuế vận, tiểu vận mới có điểm kỵ vượng. Các điểm kỵ vượng của các chi không bị giảm khi chúng bị xung hay bị khắc. 19/10 - Nếu các can ở trong các hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận hay giữa tuế vận và tiểu vận mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng. 20/8 - Nếu các chi ở tuế vận hay tiểu vận ở trong các hóa cục mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng. 21/(10;101) - Điểm kỵ vượng của các can hay các chi trong hóa cục không bị giảm khi điểm hạn hóa cục của chúng bị khắc. 22/17 - Một hành sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mới là kỵ 1 và nếu nó là kỵ vượng thì các điểm kỵ vượng này không được tăng gấp đôi mặc dù nó có 20đv nhiều hơn hỷ dụng thần 23/8 - Nếu sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà một hành mới là kỵ 1 và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, các điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi. 24/11 - Nếu điểm vượng vùng tâm của kỵ 1 từ khi mới sinh không lớn hơn điểm vượng vùng tâm của hỷ dụng thần và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi. 25/210a – Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của các hành là hỷ dụng thần hoặc nó nhỏ hơn hành kỵ thần mới (sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận) ít nhất 10đv. 26/15 - Nếu điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi cả khi tính lại điểm vượng vùng tâm thì khi tính thêm điểm vượng tuế vận nếu điểm vượng của hỷ dụng thần không lớn hơn điểm vượng của kỵ vượng thì điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi. D - Các trường hợp ngoại lệ 27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên. 28/ – Bỏ vì sai. 29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu). 30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng ít nhất ¼ lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, ít nhất ½ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, ¾ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 30đv trở lên, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 40đv trở lên (?)....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược và ngược lại)). Ví dụ minh họa. Ví dụ 6 : Nam sinh ngày 25/9/1990 lúc 13,00’. Tháng 7/1991 bị mổ u não may thoát chết. Tháng 8/1991 là năm Tân Mùi thuộc đại vận (tức tiểu vận) Kỷ Mùi. 1 - Mệnh này Thân nhược mà Quan Sát Thổ là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Canh ở trụ năm. 2 – Trong tứ trụ có Tị hợp với Dậu và Ất hợp với Canh đều hóa Kim. Vào đại vận Kỷ Mùi và năm Tân Mùi, 2 Mùi hợp với 2 Ngọ hóa Thổ (bởi vì bán hợp Kim của Tị với Dậu trong tứ trụ không bị phá nên tam hội Tị Ngọ Mùi không thể được tạo thành). Nếu sử dụng giả thiết 5/6 thì trong Thổ cục có 2 chi Ngọ ở trong tứ trụ thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm phải được tính lại. Thổ có 4đv được thêm 1,5đv của Ngọ trụ năm và 1,8đv của Ngọ trụ giờ thành 7,3đv. Hỏa có 3,3đv, nó bị mất hết (vì hóa thành Thổ). Vì vậy Thổ vẫn là kỵ 1. Bán hợp Thổ cục có 1đh và có thêm 0,25đh (vì Thổ cục có chi thứ 4). Nếu sử dụng giả thiết 114/6 thì Thổ cục là kỵ thần không sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần. 3 - Dụng thần Canh vượng ở lưu nên có -1đh. 4 - Nếu sử dụng giả thiết 61/6 thì Nhật can Quý mộ ở đại vận có 1đh (vì Thân nhược) và Quý mộ ở lưu niên có 1đh. 5 – Tân lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh. 6 - Nếu sử dụng giả thiết 216/6 thì đất ven đường của trụ năm có Canh được lệnh nên khắc nước sông của trụ ngày có 1đh (không bị giảm ¼ đh, vì mặc dù can và chi của nạp âm này đều bị hợp nhưng có chi Ngọ của nó hợp với tuế vận hóa Thổ có hành giống với hành của nạp âm). Đất trên tường đại vận có Kỷ vượng ở lưu niên khắc nước sông có 1đh. Tổng số là 4,00đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng giả thiết 10/6 thì sau khi tính lại điểm vượng vùng tâm Thổ vẫn là kỵ 1 và động nên phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Thổ có 7,43đv được thêm 8đv của Mùi đại vận và 8.2đv của Mùi lưu niên, vì vậy (hành) Thổ tại năm Tân Mùi có 7,43đv +24đv = 31,43đv (can Tân và Kỷ ở tuế vận không động nên điểm vượng của chúng không được tính). Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng tiếp các giả thiết 13a/ và 14/6 thì Thổ là kỵ vượng, vì vậy mỗi chi Mùi ở tuế vận có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Nếu điểm vượng tại lưu niên của Mùi thái tuế không được tăng gấp đôi thì Thổ không phải là kỵ vượng). Tổng số là 5,00đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được (vì phương pháp này có sai số từ -0,1đh đến +0,1đh). Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thổ quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu, bởi vì Thủy là hành của Thân và nó có thể hóa Kim (Kim khá mạnh đủ để hóa Thổ để sinh cho Thủy, vì vậy nó không cần thêm) để sinh cho Mộc, Mộc trở thành vượng mới có thể chế ngự được kỵ thần Thổ (bởi vì Mộc là kỵ thần nhưng nó quá yếu mà Thổ thì quá vượng). Trong tứ trụ có Ngọ hợp với Mùi thái tuế hóa Thổ gây ra hạn cho nên tai họa dễ xẩy ra vào tháng Ngọ nhưng ở đây nó đã xẩy ra vào tháng Mùi bởi vì tháng Mùi là tháng mà Mộc nhập Mộ và nó đã tác động với 2 Ngọ trong tứ trụ làm cho tai họa xẩy ra. Ất (Mộc) trong tứ trụ ở trạng thái tử tuyệt và nó bị hóa thành Kim mà Kim là quá vượng còn được Thổ cục sinh cho, vì vậy nó cực vượng còn Mộc nhập mộ 3 lần (ở đại vận, lưu niên và tháng Mùi). Do vậy người này bị khối u ở não (vì Mộc đại diện cho đầu, thần kinh, gan...). Qua ví dụ này chúng ta nhận thấy nếu một hành quá nhược thì nó không cần phải bị khắc hay bị phản khắc bởi một hành khác, nó vẫn có thể gây ra tai họa liên quan tới hành đó. - Nếu không có điểm kỵ vượng thì điểm hạn quá thấp nên không thể chấp nhận được. - Nếu tam hội Tị Ngọ Mùi phá được Kim cục thì cũng không hóa được Hỏa (vì không có thần dẫn) thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được. - Nếu Thổ cục là kỵ thần sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được. - Nếu lực khắc của nạp âm vẫn bị giảm ¼ thì tổng điểm hạn là 4,75 có thể là hơi thấp.
    1 like
  21. Lời tiên tri chỉ nói chung thôi. Còn đây là trường hợp diễn đạt cụ thể. Cách luận của Engineer có vẻ chắc chắn đấy.Học LVDT - và tất cả các bộ môn lý học nói chung - phải có kiến thức rộng để có thể suy luận trên sự hướng dẫn của quẻ.
    1 like
  22. Ví dụ mẫu về tranh hợp thật hay giả Sau đây là ví dụ trong chủ đề “Giải đoán tb nhiều pháp….vui học làm chính…“ của Tyty trong mục Tử Bình bên trang web tuvilyso.org. Tyty đã viết: “Có ai thích giải vài tứ trụ mẫu... theo pp của mình...? sao cũng được, miễn là ... đoán trúng ! :Thumb Up (đoán sai càng tốt, học hỏi là chính...) (1) Nam nhân bị xử án tử hình trong vận Sát/Kiêu! Hỏi: Năm nào trong đại vận này bị thọ án (xử bắn)? Tứ trụ: Đinh Mùi - Ất Tị - Bính Tý - Quí Tị đại vận: 2 tuổi Giáp Thìn, 12 tuổi Quí Mão, 22 tuổi Nhâm Dần lưu niên trong vận Nhâm Dần: 89 Kỉ Tị, 90 Canh Ngọ, 91 Tân mùi, 92 Nhâm Thân, 93 Quí Dậu, 94 Giáp Tuất, 95 Ất hợi, 96 Bính Tí, 97 Đinh sửu, 98 Mậu Dần. Luận theo Manh phái: "Nhật chủ quá vượng, cùng Quan Sát đối kháng, nhất định là mệnh phạm quan. Tòng thế mạnh của Quan Sát là bệnh, mục đích của nhật chủ là muốn chế phục Quan Sát thành ra cường lực của mình, vì Tý nằm ở chũ vị (trụ ngày). Vì vậy mà năm ??? xung khứ quan tinh mà phạm án, năm ??? thì có tượng hợp bán lộc mà bị chộp sau khi phạm tội giết người. Đến năm ??? thì bị xử bắn." mấy chỗ " ??? " là câu hỏi... điền vào chỗ trống! nào nào, mời các chư huynh đệ... leo núi, xuống đèo, ra khơi...đi thôi... :D (cùng các bạn Tử Vi ghé qua đây chơi...: người này sinh ngày âm lịch: 4 tháng 4 năm Đinh mùi 1967). Sửa bởi tyty: 22/09/2011 - 09:20 PM Nguồn: http://tuvilyso.org/forum/index.php?/topic/4543-giai-doan-tb-nhieu-phap/page__pid__56502#entry56502 Copyright © TuViLySo.org Sau đây là đáp án của Tyty: “ tyty thấy giải cho rồi... vì chắc kô còn ai thích chơi với mình...hihi himama đoán trúng năm bị chích chết: là năm Nhâm Thân! như thế này, trong bài thí dụ đó có 1 điểm chính yếu khi luận chết... đó là ở câu: "năm ??? thì có tượng hợp bán lộc mà bị chộp.." MP coi Lộc là thọ tinh, nếu Lộc bị phạm thì coi chừng tính mạng!“ tên gian ác kia bắt đầu vận Nhâm Dần đã thấy có mòi phạm tội... vì Nhâm Sát tinh ló ra, là quyền lực bắt đầu manh nha... Sát là Khách đến khắc Chủ là Bính... Dần hình Tị là động lộc vị của nhật chủ (Bính lâm quan ở Tị, đó là lộc vị)... Thường là đại vận có xung động thì mấy năm đầu động rất nhanh... năm Kỉ Tị thì nhờ Kỉ thương quan chế quan mà chắc là chỉ tính toán trong bóng tối... năm Canh Ngọ thì hành động... vì NGỌ xung TÝ, Ngọ lại hợp Mùi mà Đinh trong Mùi thông lộc ở Ngọ ... (thông lộc là kô phải chủ vị mà chỉ rằng 1 thiên can đi thông gốc lâm quan ở 1 địa chi) mấy cái này mâu thuẩn nhau... gây ra án mạng. trốn chui nhủi được ở năm Tân Mùi... tới năm Nhâm Thân thì bị chộp, vì thêm 1 Sát tinh cùng Thân hợp Tị (bán hợp Lộc)... hết đường chạy thoát...cùng trong năm đó bị xử chết luôn! ban đầu bao giờ cũng phải có gốc có nguồn...như có lửa có khói... mệnh muốn xung quan sát, mà lại quá vượng...thì khi ứng kỳ (quan sát lên), nội tình đầu óc xáo trộn...mà phạm quan. nhưng kô phải ai cũng giết người... có thể người khác thì thụt két, hay ẩu đả với xếp văng luôn cái ghế ngồi ... hihi bài học: khi động Lộc vị hoặc thọ tinh nào khác : nên ăn chay ngồi thiền là rất phải a! :Thumb Up Nguồn: http://tuvilyso.org/forum/index.php?/topic/4543-giai-doan-tb-nhieu-phap/page__pid__56502#entry56502 Copyright © TuViLySo.org“ Đây là ví dụ mẫu trong một cuốn sách của “Manh Phái“ mà tyty đang dịch. Ở đây tôi không quan tâm tới cách luận của “Manh Phái“ mà tôi chỉ cần lấy thông tin của ví dụ này là người này bị tử hình vào năm Nhâm Thân để hoàn thiện lý thuyết của tôi. Sơ đồ điểm hạn năm 1992 khi giả thiết về tranh hợp thật đã được sửa đổi theo phương pháp của tôi như sau: Năm 1992 là năm Nhâm Thân thuộc đại vận Nhâm Dần, tiểu vận Mậu Thìn và Đinh Mão. 1 - Tứ trụ này có Thân vượng mà kiêu ấn ít, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Quý ở trụ giờ. 2 – Nếu theo giả thiết về tranh hợp thật thì vào vận Nhâm Dần và năm Nhâm Thân có 2 Nhâm ở tuế vận là can chủ khắc hợp với Đinh trụ năm ở tiểu vận Mậu Thìn và hợp thêm với Đinh tiểu vận ở tiểu vận Đinh Mão đều là tranh hợp thật cũng như 2 Tị trong Tứ trụ là chi chủ khắc hợp với Thân thái tuế cũng là tranh hợp thật. Các can chi tranh hợp thật đều là vô dụng hay coi như chúng không xuất hiện. Ta thấy chỉ có nước khởc trụ ngày khắc nước sông trụ giờ có 0,25đh và Dần đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Số điểm này quá thấp không thể gây ra một tai họa nào cả. Vậy thì tại sao người này bị chết? Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải sửa lại giả thiết về tranh hợp thật như sau: Tranh hợp thật của thiên can và địa chi: 1 - Nếu chỉ có 2 can dương giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong Tứ Trụ hợp với can đại vận hay can lưu niên thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật, khi đó các can này được xem như vô dụng. 2 - Nếu 2 can tuế vận là dương giống nhau mang hành chủ khắc hợp với can tiểu vận hay với một can trong Tứ Trụ thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật, khi đó các can này cũng được xem như vô dụng. 3 - Nếu chỉ có 2 chi dương giống nhau mang hành chủ khắc ở trong Tứ Trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật, khi đó các chi này được xem như vô dụng. 4 - Nếu 2 chi tuế vận là dương giống nhau mang hành chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một chi trong Tứ Trụ thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên các chi này cũng được xem như vô dụng (?) (câu này có thể sai bởi vì điểm vượng (tức thế lực) của chúng ở lưu niên không bằng nhau). Nếu chúng ta áp dụng giả thiết mới sửa đổi này thì ở tiểu vận Mậu Thìn tổng điểm hạn rất thấp vì 2 Nhâm ở tuế vận hợp với Đinh trụ năm là tranh hợp thật. Còn ở tiểu vận Đinh Mão, 2 Nhâm hợp với 2 Đinh nên không phải là tranh hợp thật, cũng như 2 Tị là chi mang dấu âm nên mặc dù là chủ khắc hợp với Thân thái tuế nhưng không phải là tranh hợp thật. (Giải thích: 2 Tị là chi mang dấu âm (đại diện cho phái nữ) là chủ khắc, tức nó đại diện cho những bà thống trị chồng mà chúng ta thường gọi họ là “Sư Tử Hà Đông“). Qua sơ đồ chúng ta thấy lực hợp của 2 Tị với Thân thái tuế có 2.6,75đv là lớn hơn lực xung của Dần đại vận với Thân thái tuế chỉ có 5,07đv và lực hợp của Tý trụ ngày với Thân thái tuế chỉ có 4,98đv. Do vậy 2 Tị hợp với Thân hóa Thủy. Vì trong Tứ Trụ có 2 chi hớp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 2 chi này nên phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Hỏa có 14,27đv bị mất 2,81đv của Tị trụ giờ và mất 3,6đv của Tị trụ tháng, vì vậy nó còn 7,86đv. Thủy có 6,38đv được thêm 2,81đv và 5,6đv của 2 Tị thành 12,79đv. Thân trở thành nhược mà Quan sát là kỵ thần số 1 nên dụng thần đầu tiên lúc này phải là Kiêu Ấn/ Ất ở trụ tháng. Vì Thủy là kỵ thần số 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Thủy có 12,79đv được thêm 2.9đv của Thân thái tuế, 2.6đv của Nhâm lưu niên và 6đv của Nhâm đại vận thành 48,79đv. Hỏa có 7,86đv được thêm 4,8đv của Đinh tiểu vận thành 12,66đv. Thủy lớn hơn Hỏa trên 20đv nên Thủy là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi (vì Thủy không phải là kỵ thần số 1 từ khi mới sinh). Thủy cục có 0,75đ h và Thân thái tuế hóa Thủy có 0,5đh kỵ vượng. Nhâm đại vận là kỵ vượng hợp và khắc Đinh trong Tứ Trụ nên có 0,5đh kỵ vượng, khi đó Nhâm lưu niên động (khắc Đinh) nên mới có 0,5đh kỵ vượng. Nhâm ở tuế vận vượng ở lưu niên nên mỗi Nhâm có 0,5đh can động và khắc 2 Đinh nên mỗi lực có 1,4.1/2.1/2 đh = 0,35đh nhưng mỗi lực khắc Đinh tiểu vận bị giảm thêm ½ còn 0,35.1/2 đh = 0,18đh.. Dần đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Nước khe trụ ngày có Bính được lệnh nên khắc nước Sông trụ giờ có 0,25đh. Tổng cộng có 4,81đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa tiếp một giả thiết nữa là: “Nước mưa khắc nước sông có ít nhất là 0,25đv khi can của nó được lệnh hay vượng ở đại vận hoặc lưu niên (vì nước khe núi còn khắc được nước sông có 0,25đh). Nếu sử dụng giả thết này thì tổng điểm hạn là 5,06đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Vì trong Tứ Trụ có 2 Tị hợp với Thân thái tuế hóa Thủy là nguyên nhân chính gây ra tai họa nên có thể vào tháng Tị người này bị tóm cổ, tháng Thân bị tuyên án tử hình và vào mùa Đông là mùa mà Thủy vượng thì bị tử hình (?). Các giả thiết tính điểm hạn hoàn toàn được đưa ra từ các ví dụ trong thực tế và chúng sẽ được kiểm tra, sửa đổi sao cho càng ngày càng phù hợp với càng nhiều ví dụ trong thực tế càng tốt. Trên đây chỉ là 1 ví dụ để chứng minh “Phương pháp tính điểm hạn“ của tôi được xây dựng lên như thế nào. Qua đây tôi hy vọng có nhiều người sẽ hiểu rõ và cùng tôi nghiên cứu để nhanh chóng hoàn thiện phương pháp tính điểm hạn này.
    1 like
  23. Đồ Họa Tuyệt Đẹp Về Anh Hùng Sử Việt (Facebook) Từ lâu nay, trên các diễn đàn về game và đồ họa trong nước đã lưu truyền những tác phẩm đồ họa tuyệt đẹp tái hiện hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử, truyền thuyết của Việt Nam như Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thạch Sanh… Với những nét vẽ điêu luyện trên tông màu tối kỳ ảo, những tác phẩm này được cộng đồng mạng đánh giá là không hề thua kém những tác phẩm đồ họa nổi tiếng của các nghệ sĩ nước ngoài nổi tiếng. Tác giả của chúng là thành viên có nick Marooned, một nhân vật “đình đám” trên nhiều diễn đàn như Gamedev.vn, Zidean.com… Ngoài đời, Marooned có tên thật là Phan Vũ Linh, một chàng trai sinh năm 1975 tại Hà Nội. Là một họa sĩ, anh từng tốt nghiệp ĐH Mỹ Thuật TP HCM và Học viện nghệ thuật (Academy of Art University) ở San Francisco, Mỹ. Theo Phan Vũ Linh, trường phái vẽ của anh khá ít người theo và cũng không có đào tạo chính quy trong nhà trường, chỉ vì yêu thích mà anh theo đuổi, tự rèn luyện đi theo con đường này. Các tác phẩm của anh được thực hiện bằng các phần mềm đồ họa thông dụng như Photoshop, Corel Painter. Những bức vẽ công phu phải mất trên 10 giờ mới hoàn thành, trong khi những bức đơn giản ở dạng phác thảo thì 2-3 giờ là xong. Trong công việc cũng hiếm khi anh có dịp vẽ kiểu này, bởi chỉ cần vẽ đơn giản bằng 30% là cũng đủ đáp ứng yêu cầu khách hàng. Dù thể loại nghệ thuật mình đam mê vẫn chưa phổ biến ở Việt Nam, nhưng chàng họa sĩ tin rằng tương lai của thể loại này sẽ rất phát triển, đi theo xu hướng phát triển của đồ họa game, hoạt hình, điện ảnh… Phan Vũ Linh chia sẻ, từ lâu anh đã nung nấu ý tưởng hình thành một bộ sách thần thoại và cổ tích Việt Nam, qua đó mô tả lại những câu chuyện quen thuộc của dân tộc một cách sống động và công phu qua nét vẽ của mình. Điều này không chỉ bắt nguồn từ sở thích, đam mê mà còn còn là ý muốn khơi lại niềm tự hào dân tộc của giới trẻ. Thạch Sanh trong cuộc chiến với Trăn Tinh,một tác phẩm của họa sĩ Phan Vũ Linh. Lạc Long Quân với chiến công tiêu diệt quái vật Hồ Ly và Ngư Tinh. Hình ảnh cận cảnh của Sơn Tinh. Thủy Tinh. Những loài vật đại diện cho hai lực lượng đối lập của đất và nước. Cưỡi ngựa sắt và dùng thân tre làm vũ khí, Thánh Gióng chôn vùi giặc Ân xâm lược. Thạch Sanh tiêu diệt yêu tinh đại bàng để cứu công chúa Quỳnh Nga. Những chiến công của Thạch Sanh được tái hiện trong một bức vẽ đầy chất sử thi. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và những chiến công lẫy lừng trên sông Bạch Đằng. Tùy tướng Yết Kiêu trước cuộc chiến với thủy quân Nguyên Mông. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với bàn tay bóp nát quả cam và là cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân”.
    1 like
  24. Ấy! tại đang học phong thủy của sư phụ mà nên mới dám gọi vậy đấy chứ, thôi lượn qua bên world cup xem thế nào
    1 like