• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 01/10/2011 in all areas

  1. Cá nhân Trực Giác không sai. Vì Trực giác chỉ xác định trận động đất lớn xảy ra ở phía Đông Nam Việt Nam và đúng như vậy - Trên 7 độ richter. Nhưng vì tôi xác định rõ là trên 8.5 độ richter nên tôi sai.Sai thì nhận là sai. Tôi không phải là thánh để đoán cái gì cũng đúng. Thông thường khi người ta thành công đến đỉnh cao thì dừng lại để giữ lại hào quang của mình. Đỉnh cao của tôi về lý học chính là xác định đúng thời tiết 10 ngày trong Đại lễ 1000 năm Thăng Long. Có một giai thoại thế này: Người nghệ sĩ tạc bức tượng "Vệ nữ ở Milo" đã tự sát khi tạc xong bức tượng. Vì ông ta biết rằng sau đó ông ta không thể tạc được bức tượng nào hơn như thế. Nhưng tôi không tán thành cách nghĩ này và cho rằng: Những người như vậy đã đặt danh vọng là mục đích cuộc đời họ (Mục đích này còn cao thương hơn nhiều kẻ khác). Mục đích của tôi là chứng minh và vính danh Việt sử 5000 năm văn hiến với thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là Lý thuyết thống nhất. Bởi vậy, nếu ngay bây giờ tôi không thể tiên tri chính xác thì tôi cũng không buồn. Tuy nhiên tôi sẽ ngưng những lời tiên tri về những mặt mà tôi thấy không còn có khả năng tiên tri chính xác. Điều này không phải vì phương pháp tiên tri sai, mà là cá nhân tôi thấy mình không còn tập trung vào những việc làm đó nữa. Bởi vậy tôi vẫn ủng hộ anh chị em và bất cứ ai có ý muốn tiếp tục tìm hiểu và chứng nghiệm những phương pháp tiên tri. Nếu Trực Giác thấy môn dự đoán cổ Đông phương - bất cứ môn nào , kể cả ngoài Lạc Việt độn toán - tôi hết sức ủng hộ. Riêng với môn Lạc Việt độn toán thì tôi hứa sẽ cố gắng giúp theo hiểu biết của tôi.
    3 likes
  2. 2 likes
  3. Chữa bệnh ung thư bằng cách niệm Phật Trạng thái tâm lý của mình Ảnh hưởng miễn dịch, lập trình thành chương Tâm niệm là cái tối cường Là sức quyết định con đường tồn vong Sống một ngày, học trong lòng Sống một hôm biết vui trong mọi thì “Phải Vui Thật” gọi là gì? Đó chính là “Phật” bởi vì vô lo “Bút” xưa từng đã “Viết” cho Nặng thành “Bụt Việt”, chẳng mò mà tri: Mình mà nóng giận, tức thì Sản sinh độc tố khác gì hổ mang May mà còn có lá gan Lọc hết nọc độc, khỏi làm mạng toi. Công năng giải độc kém rồi Do cao huyết áp, tim thời đang suy Độc chẳng lọc hết, tức thì Đủ để giết mạng, chỉ vì giận gây. Hoa Kỳ nghiên cứu đủ dầy: U to, u nhỏ, ung ngay chỗ nào, Nặng, nhẹ chửa thấm vào đâu Cái Tâm mới chính là đầu nguyên nhân Bệnh nhân thắng được trăm phần Là do tâm niệm mà mần thành công. Tâm lý nóng giận, lo buồn Công năng miễn dịch nó liền giảm suy Thuốc vào cũng chẳng ích gì Công năng không có, đâu đi được hành. Tâm niệm – sức mạnh lòng thành Niệm Phật, tâm sáng, khiến mình an vui Sức miễn dịch lại sục sôi Thuốc vào trợ giúp, bệnh thời khỏi ngay. An nhiên niệm Phật ngày ngày Chẳng cho gì khác chen giày vò ta Tế bào não đẻ thêm ra Như thêm cảnh vệ để mà đấu tranh Ung thư sẽ bị teo nhanh Đúng như Phật đã dạy thành một câu: “Tâm tạo vạn pháp” là đầu “A Di Đà Phật !” nhiệm mầu yên vui Hít sâu vào, niệm “A Di” Tiếp niệm “Đà Phật” khi thì thở ra Tâm tưởng vui vẻ an hòa “Mình còn sống mãi” đó là thuốc Tiên. Đừng để tâm lý gây phiền, Tưởng tượng, tự dọa nó nghiền bản thân. Tâm niệm khơi dậy lòng tin Tế bào phấn chấn, cái nhìn lạc quan Giống như thai phụ gian nan Mang thai – u lớn, nhưng hòa toàn vui Nhìn bao bà chửa đấy thôi Thai lớn, sinh đẻ, làm vui cuộc đời. Ung thư cũng giống vậy thôi Vui vẻ niệm Phật, nó thời tự qua Như cây đu đủ ấy mà Khẳng khiu cây nhỏ, la đà quả sây Kiên cường cây để quả đầy Như người, ung bướu nó dầy trong thân Chịu đựng là đức phải cần Vui vẻ xử lý là phần niềm tin: Con người – vô tận tiềm năng Cơ thể thay đổi là trong mỗi ngày Mỗi cơ quan mỗi bắt tay Xử lý mọi việc đâu hay đợi mình Giỏi giang khéo léo quá chừng Ta đối cơ thể vô cùng biết ơn: Quả tim vốn đập không ngừng Từ nhỏ đến lớn chưa từng đình công Ai làm chu đáo vậy không? Ta đối tim phải tỏ lòng biết ơn Thấy tim mệt chớ có hờn Từ bi, thông cảm sẽ làm tim vui. Chứng ung thư cũng vậy thôi Tế bào vốn dĩ không tồi trong ta Do bị bức ép, thế là Tế bào phân hóa thành ra sai lầm Cơ thể thấy vậy chặn ngăn Công năng mà yếu, chặn ngăn khó toàn Đừng nên mổ, cắt tràn lan Không tận trừ được nguyên nhân hình thành Ta phải vận dụng cái Tâm Tế bào tự sửa, lại thành tốt hơn Niệm Phật mầu nhiệm phi thường Cảm thông tâm niệm, mở đường sửa sai Bào ung thư tự đổi thay Quay về hướng đúng, chẳng hoài tràn lan. Niệm Phật chẳng phải lan man Niệm Phật chẳng phải ai làm thay ta Niệm Phật, nước bọt tiết ra Lục phủ ngũ tạng như là nhuần tươi Thân tâm thư thái, yên vui Sóng âm xoa bóp khắp nơi tế bào Công năng huy động được cao Nâng cấp miễn dịch, bệnh nào cũng tan Ngay cả trước lúc cơm ăn Vui vẻ cầu nguyện phúc lành chúng sinh Ung dung nhai kỹ cho mình Thức ăn chuyển hóa dưỡng lành thân tâm.
    1 like
  4. Hỏi xí lấy kinh nghiệm nha: dáng di em có nhanh như chạy hay dáng đi nhón gót, gót ko chạm đất không?
    1 like
  5. Nếu thế thì 2013 chị sinh nhé. 6 tháng đầu năm. rồi 2017 sinh bé nữa cũng được. Đẻ 2013 xong sợ bố cháu yếu đi 1 chút về công danh và sức khỏe. Chịu khó tích đức, cầu phật, phóng sinh vậy chị nhé.
    1 like
  6. Năm 2016 cũng sinh tốt, còn trước đó không có năm nào đâu! 2017, 2018 cũng là lựa chọn tốt. Thân mến.
    1 like
  7. chào bạn ! cung phu cũng tương tự như vận của bạn , mà ! ông chồng có khí thế lắm đó ! còn tính đào hoa thì tự thân đã biết còn gì ! chúc vui vẻ !
    1 like
  8. Giữ lời hứa, chúng tôi sẽ trở lại BV ung bướu vào chiều nay và chọn 1 khoa khác để thực hiện việc phát phiếu cho 360 phần quà của ngày mai. Theo như góp ý của Bác Thiên Sứ chúng tôi tiến hành đặt thực phẩm của Big-C gồm có đùi gà chiên bơ và nữa ổ bánh mì Big-C. 1 phần nước V Fresh, Số tiền chi phí được tổng kết vào ngày mai sau khi hoàn thành.
    1 like
  9. hoạnh phát hoạnh phá , mưu sự gì ám muội cũng thành công ,nhưng sau đó cũng bị họa bay đến ,bệnh tật cũng phát sinh ,nhưng khi nguy hiểm cận kề sẽ thoát nạn.
    1 like
  10. - Thê: vợ có dạng người hơi cao nở nang, mặt vuông vắn đầy đặn, nước trắng hồng hào, mũi gãy hay thấp, tiếng nói hơi to có dạng nam tính, khá đảm đang nhưng háo thắng, không chịu thua ai, bảo thủ, khá cục, có linh cảm rất tốt như giác quan thứ 6, mang bệnh gì khó chữa trong ngừoi về xương khớp. Vợ chồng có thể qua lại với nhau rồi mới cưới, vợ có thể nhiều tuổi hơn, sống với nhau hình khắc gây gổ nhau suốt ngày. Năm Tỵ kết hôn, số anh lấy sớm thì cũng được 2-3 người vợ - Tài bạch: số anh không thể giầu được, chỉ ở mức khá giả dư ăn dư mặc, ngoài 43 tiền bạc mới dư dả sung túc nhưng lúc có tiền thì cẩn thận dễ dính dấp tới pháp lý. Đi xa lập nghiệp sau này có được nhiều đất đai rất thịnh vượng. - Quan lộc: sau này có danh chức cũng khá, hay được cấp trên nâng đỡ, nhưng bởi vì thế mà đồng nghiệp/ kẻ dưới ghen ghét đố kỵ luôn tìm cách hãm hại dèm pha, nên lưu tâm cẩn thận
    1 like
  11. Lúc tước tôi đã xác định là giờ Sửu ,bây giờ cũng có nhiều người tham gia góp thêm ý ; nhưng tôi vẫn giữ quan điễm là giờ Sửu .ở đây tôi sẽ tổng hợp lại những gì ghi nhận qua các quan điễm trình bày của những người trên mà tôi cũng dựa vào căn bản là sách vở , giờ Sửu vì có hóa Kỵ trong sách có nói là người hay nghi kỵ , hay lầm lẫn ,lại hay mắc khẩu thiệt cũng do từ lời nói ngôn từ của chính mình mà ra ,dù bất cứ ở vị trí nào cự môn không nên đồng cung với hóa kỵ , cự- cơ hóa kỵ là người hơi cao vừa nhưng gầy sắc da có màu trắng xanh hay xám ,môi mõng miệng hơi rộng ,tánh tình ưa thích sạch sẽ , vén khéo và nề nếp vì mệnh có y-riêu đắc địa . Tôi đưa ra những điều trong giờ Dần để cháu so sánh với 2 giờ . Nếu là giờ Dần ,người có dáng vóc cao to nở nang và hơi tròn người,vì có hóa lộc chỉ bị tiểu hao chiết bớt 1 ít không nhiều nên không thể nói là người ốm hay gầy, sách có câu nữ mệnh Tham lang đa tật đố hay là tham lang độc thủ đa hư thiểu thực ,thêm nữa tham lang đi cùng song hao là người khoát lát và hay nói dối [ trích trong VũTài Lục ] tham lang là sao háo sắc + SONG HAO+ trường sinh là cách người có cuộc đời miệt mài truyhoan ,thiên mã + hao là hao mã . Bàn về cách thanh long + hóa kỵ , tôi thấy trong sách nói rằng cách nầy chỉ tốt chỉ khi nào nằm ở tứ mộ. Nếu cháu sanh giờ Dần thì sẽ đúng như anh QUYNHNGUYEN nói ,vì tham lang + hóa lộc là người có nhiều râu ria ,nếu là nam chắc là người có râu quai nón . Năm nay tiểu hạn của cháu có hóa kỵ -cự môn ,đại hạn có đại hao ,chắc phải chia tay người đó rồi ,nhưng vẫn còn luyến tiếc là do thiên riêu .
    1 like
  12. con gái đầu thiên can hợp bố nhưng mệnh thì khắc cả bố và mẹ, rất xấu. 2012 cũng ko phải năm tốt đâu. Dù mệnh con hợp với mẹ, nhưng thiên can và mệnh lại khắc bố. Nhiều con xung khắc mệnh bố quá ko tốt. tốt nhất là 2017 sinh con út. 2018 cũng được nhưng ko = 2017 đâu.
    1 like
  13. chào " mão ! " mệnh này thì có mà hai , ba lần sập giàn mướp cũng chẳng sao " . bởi , mệnh thì " vượng phu , ích tử " , lại có : thiên giải , cư mệnh . thân cư cung mão [ cung phu ] , được hội vào tứ linh là : hổ - long - phượng - cái ! lại thêm : thái tuế , cư thân , lên : không sợ , hung tinh , ác sát . cứ mỗi khi gặp khó khăn , lại được : thần linh , gia tiên , quí nhân , bạn bè trợ giúp ! cung tử , thì : hết trê luôn ! có cả , khoa - lộc - quyền , tài - việt - long - bật - đức , hội hợp cùng quốc ấn ! số này , ưa hoạt động , lại nhờ vào khả nãng thiên bẩm của mình là : thông minh , hoạt bát , cho lên , tiền của kiếm được cũng khá nhưng vì một lỗi : chi tiêu cũng phóng khoáng cho nên : tích lũy không được nhiều , cần phải chú ý điều này thì mới sung túc được ! bên cạnh đó , tính đào hoa luôn có sẵn , cần biết lường , hạn chế , chớ quá xa đà " mơ màng " thì hỏng mệnh ! năm 23 - 24 tuổi , đã qua một cái hạn " khá đậm " rồi thì phải . còn năm 27-28 nữa , cần chú ý nha ! trong năm nay , có ba lần gặp khó khăn , buồn phiền rồi , là : - hồi cuối tháng 1 - sang nửa đầu tháng 2 ! - hồi : cuối tháng 5 - sang đầu tháng 6 ! - và hồi tháng 8 , vừa qua nữa ! [ tôi luận như vậy , có đúng hay không cũng được , chả sao , vì đây là dự báo mà ! ] sang tháng 9 này , gặp may , thuận lợi ngay cho mà xem , { vì nguyệt vận , đang hành đến cung ngọ , gặp thiên hỉ , mà ! ], tháng 10 , 11 , cũng thuận ! tháng 12 có thể gặp buồn phiền chút ít , không sao ! cho nên , mọi dự định , kế hoạch cứ thực hiện tự nhiên sẽ được , không lo ! với tài năng , trí tuệ sẵn có , bạn , hợp cả với nghề công chức nhà nước, hoặc doanh nhân tư nhân cũng được mà ! sang năm thìn - 2012 , mệnh hành đến cung : tý ! nhìn chung , là thuận ! chỉ lưu ý như sau : cuối tháng 3 - sang nửa đầu tháng 4 ! cuối tháng 6 - sang tháng 7 ! và tháng 10 ! còn chuyện gì xẩy ra thì cũng khó mà nói chính xác được ! đại vân của bạn , đang ở cung mùi , cung phúc đức , lại có nhiều cát tinh , chắc mọi việc đều thuận lợi ! mệnh này cũng khá thọ đấy ! chúc vui vẻ nha ! [ đó là tôi luận chi tiết về bài thơ mà tôi đã giải ở trên ] ! tặng " mão , một chùm hoa mướp vàng , lấy may này ! " . chào bạn !
    1 like
  14. Bộ môn kiến trúc và xây dựng trong kiến thức khoa học hiện đại bảo đảm tính kết cấu kỹ thuật và tính thẩm mỹ của ngôi nhà. Nhưng khoa phong thủy xác định tính quy luật của tự nhiên tương tác ảnh hưởng đến con người ở ngôi gia đó. Kỹ thuật hiện đại và khoa phong thủy cuả nền văn minh Lạc Việt cổ xưa không hề mâu thuẫn với nhau. Ngược lại, nó bổ sung cho sự khiếm khuyết của tri thức hiện đại về quy luật tự nhiên tác động tới ngôi nhà. Bốn quy luật cơ bản tương tác đến ngôi nhà - mà người Hoa Hạ gọi là những trường phái rời rạc, mâu thuẫn - được nền Lý học Việt hiểu chỉnh, tổng hợp và phục hồi thành một hệ thống hoàn chỉnh, nhất quán là:- Quy luật tương tác của từ trường trái đất. - Quy luật tương tác của môi trường xung quanh. - Quy luật tương tác của bản thân cấu trúc ngôi nhà. - Quy luật tương tác của sự vận động vũ trụ. Một ngôi nhà hoàn chỉnh theo phong thủy Lạc Việt phải là một ngôi nhà có cấu trúc hợp lý hài hòa với cảnh quan và đẹp về thẩm mỹ.
    1 like
  15. Chỉ cần đảm bảo con út 2017 hoặc 2018 là được, còn trước đó muốn sinh bao nhiêu cũng được. Quan trong là sức khỏe có cho phép sinh liên tục hay không thôi. Chúc gia đình may mắn và hạnh phúc nhé. Thân mến.
    1 like
  16. Các ví dụ minh họa : Ví dụ 18: Bé trai sinh ngày 6/1/1983 lúc 0,00’ sáng. Chết vào tháng 7 năm 1983. Tháng 7/1983 là năm Quý Hợi thuộc đại vận Quý Sửu (tiểu vận Quý Sửu). 1 - Tứ trụ này có Thân vượng và kiêu ấn nhiều, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Mậu tàng trong Tuất trụ năm. Thủy là kỵ vượng. 2 - Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158), 105/18 và 123/6 thì vào đại vận Quý Sửu và năm Quý Hợi, giữa tứ trụ với tuế vận có tam hội Hợi Tý Sửu hóa Thủy cục có 4 chi có (1.2 + 0,25)đh = 2,25đva, Sửu và Hợi ở tuế vận, mỗi chi có 0,5.5/4đh = 0,63đh kỵ vượng (bởi vì Ngọ trụ ngày xung gần 2 Tý trong tứ trụ không thể phá được tam hội có 4 chi, cũng như điểm hạn của Thủy cục được tăng gấp đôi và điểm kỵ vượng được tăng 1/4) 3 - Dụng thần Mậu tử tuyệt ở lưu niên có 1đh. 4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh. 5 – 2 Quý ở tuế vận, mỗi Quý có 1 cát thần có -0,25đh. 6 - Nước biển ở trụ năm và lưu niên có Nhâm và Quý vượng ở lưu niên khắc kim trong cát, mỗi lực có 1đh. Tổng số là 5,01đh. Số điểm này là chấp nhận được. Từ ví dụ này chúng ta khẳng định tam hội cục ngoài tứ trụ chỉ có 2 chi trong tứ trụ mà 2 chi này giống nhau thì điểm hạn không được giảm (giả thiết 267/(26;18). Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thủy là quá vượng. Do vậy ta phải dùng Hỏa và Thổ, nhất là Thổ để giải cứu (năm 1983, đứa bé này phải được đưa về phương nam và sống trong....như câu 2 phần II ở chương 18). Năm Quý Hợi là năm mà Thủy vượng còn có thêm tam hội Thủy, Thủy là quá vượng, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Thân bởi vì nó là tháng mà Hỏa và Thổ bắt đầu suy yếu còn Thủy bắt đầu vượng khắc Hỏa và sinh cho Thân (Mộc). Thân (Mộc) càng thêm vượng khắc dụng thần Thổ. Chị của bé trai đã kể : “Trước đây rất nhiều người bảo phải bán khoán đứa em này cho nhà chùa thì mới nuôi được. Tuy nhiên bố mẹ tôi không tin nên hậu quả là khi bị bệnh rồi thì không còn kịp nữa. Em của tôi bị bệnh mà các bác sỹ không chuẩn đoán ra bệnh gì. Nó khóc 23 hôm thì mất”. Nếu theo tứ trụ này thì chúng ta nhận thấy vào năm Quý Hợi xuất hiện tam hội Hợi Tý Sửu, nó đại diện cho các vị thần linh, vì vậy nó thường là tốt. Nhưng ở đây nó hóa Thủy mà trong tứ trụ Thủy là kỵ thần đã quá vượng và không có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ nên điểm hạn không được giảm, vì vậy nó trở thành cực kỳ xấu cho cháu bé (nghĩa là các vị thần đã xuất hiện nhưng lại muốn mang cháu bé đi theo họ chăng ?). Ví dụ 158 : Ngày 15/4/1912 Tầu Titanic bị tai nạn. Nghĩa của từ Titanic là khổng lồ, vĩ đại, vì vậy nó mang tính của phái mạnh tức đàn ông. Ngày 15 tháng 4 năm 1912 là năm Nhâm Tý thuộc đại vận Mậu Tuất (tiểu vận đầu tiên). 1 - Mệnh này Thân vượng kiêu ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là tài tinh Giáp tàng trong Hợi trụ năm. 2 – Vào đại vận Mậu Tuất và năm Nhâm Tý có. Ngũ hợp của Mậu đại vận với Quý trụ tháng hóa Hỏa (xuất hiện trước, năm 1911) và tam hội Hợi Tý Sửu có 4 chi hóa Thủy (xuất hiện sau, năm 1912), vì vậy Hỏa cục và Thủy cục đã gây ra đại chiến. Vì có Quý ở trụ tháng hợp với tuế vận hóa cục nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Thổ có 20đv bị mất 10đv của Sửu còn 10đv. Thủy có 5đv được thêm 10đv của Sửu thành 15đv. Điểm hạn và điểm vượng vùng tâm đã thay đổi như sau : 1............0,5..........-1.........-0,5............0,5 Mộc......Hỏa........Thổ..........Kim............Thủy #4,8.........2.........10............9,8.............15 Thân trở thành nhược và thực thương Thủy là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn Kỷ ở trụ giờ. Thủy là kỵ 1 (động) nên phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Hỏa có 2đv được thêm 2,62đv của Quý trụ tháng và 4,1đv của Mậu đại vận, thành 8,72đv. Thủy có 15đv bị mất 2,62đv của Quý trụ tháng, thêm 2.10đv của Tý thái tuế và 2.10đv của Nhâm lưu niên thành 52,38đv. Do vậy Thủy lớn hơn hỷ dụng thần Thổ và Kim trên 40đv. Điểm hạn của tam hội Thủy cục có 4 chi có 1.2đh +0,25đh (vì Thủy là kỵ 1). Nếu sử dụng giả thiết 30/(18;158) thì điểm kỵ vượng của Tý thái tuế được tăng gấp 4 lần có 4.0,5đh = 2đh. Hỏa cục có 0,5đh và điểm hạn của ĐC có 6.0,4đh = 2,4đh. 3 - Trụ tháng Quý Tị TKĐK với trụ giờ Kỷ Hợi có (0,25 + 0,05)đh = 0,3đh (vì Kỷ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). 4 - Dụng thần Kỷ tuyệt ở lưu niên nên có 1đh. 5 - Nhật can Tân vượng ở lưu nên có -1đh. 6 - Kỷ trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có 1đh và khắc Nhâm lưu niên có 0đh (vì Thủy cục có 4 chi có điểm hạn và điểm hạn được tăng gấp đôi - giả thiết 80/(32;36;55) - “Các can trong tứ trụ không khắc được một hóa cục có 4 hay 5 chi nhưng các can cùng hành với hóa cục này vẫn bị khắc như bình thường nếu hóa cục này không có ít nhất 2 chi có điểm hạn và điểm hạn này phải được gấp đôi”. 7 - Đất trên tường trụ ngày có Tân vượng ở lưu nên khắc nước sông trụ tháng có 1đh, vì vậy nước sông không khắc được kim trang sức ở trụ năm. Gỗ đồng bằng trụ giờ có Kỷ được lệnh nên khắc được gỗ dâu lưu niên có 0,25đh. Tổng số là 10,2đh. Tam hội 4 chi ngoài tứ trụ mà trong tứ trụ có 3 chi mà có 2 chi khác nhau nên điểm hạn được giảm 1,25đh và 2 trong 3 chi này là Hợi cùng hành với Thủy cục. Do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn (10,2 -1,25).1/2.đh = 4,48đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 149/158: “Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến có 0,5đh nếu hóa cục chủ khắc có 1 can chi nhiều hơn so với can chi của hóa cục bị khắc, 0,6đh nếu nó có 2 can chi nhiều hơn, 0,7đh nếu nó có 3 can chi nhiều hơn,...” (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này). (Chú ý: Tôi vừa mới sửa lại giả thiết này nên nó có khác một chút với Bài 22). Nếu áp dụng giả thiết này thì tam hội Thủy cục là chủ khắc có nhiều hơn Hỏa cục 2 chi nên điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,6đh. Vì vậy điểm hạn của ĐC này là 6.0,6đh = 3,6đh. Tổng số là (11,4 -1,25).1/2.đh = 5,08đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Có Thủy khắc Hỏa và trong tứ trụ có Hợi và Sửu hợp với thái tuế hóa Thủy gây ra ĐC, do vậy vào các tháng Hợi và Sửu của mùa Đông tai họa dễ xẩy ra. Nhưng đại vận Mậu Tuất của năm Nhâm Tý (từ 4/2/1912 tới 31/5/1912) chỉ có các tháng Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn và Ất Tị. Trong đó chỉ có tháng Ất Tị là xấu nhất bởi vì nó TKĐX với trụ giờ Kỷ Hợi và nó là tháng và mùa mà Hỏa vượng còn Thủy ở tử tuyệt. Nhưng ở đây tai họa đã xẩy ra vào tháng Giáp Thìn. Tại sao như vậy ? Có thể tháng Giáp Thìn TKĐX với đại vận Mậu Tuất và nó là tháng mà Hỏa vượng còn Thủy nhập Mộ. Các nguyên nhân chính gây ra hạn ở đây là các điểm hạn của ĐC và nạp âm thì hiện giờ Tôi chưa có cách nào để ngăn chặn. Hy vọng thời gian tới, tôi hoặc ai đó sẽ tìm được giờ sinh khác hoặc cách chứng minh khác cho tai họa của con tầu Titanic có tính thuyết phục hơn cách chứng minh này.
    1 like
  17. Bài 24 – Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng Y1 – Tính lại điểm vượng trong vùng tâm và điểm kỵ vượng Đây là phần quan trọng nhất của phương pháp tính điểm hạn này. Thường thì các can chi trong tứ trụ không thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm của chúng không thay đổi, nhưng vào một năm nào đó can chi trong tứ trụ có sự hợp hóa thành hành khác thì điểm vượng vùng tâm của chúng có thể bị thay đổi. Trong một số trường hợp can chi trong tứ trụ thay đổi hành của chúng thì điểm vượng vùng tâm của các hành phải được tính lại. Sau đó ta phải xác định lại dụng thần và điểm hạn của các hành. Tiếp theo có thể ta phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận và tiểu vận để xác định chính xác độ lớn của các hành ở năm đó (điểm vượng tính thêm ở tuế vận này không có khả năng làm thay đổi dụng thần cũng như điểm hạn của các hành, trừ một vài trường hợp ngoại lệ). A – Hành kỵ 1 và hành kỵ vượng Nếu 1 hành là kỵ thần có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại hoặc tính thêm các can và chi động ở tuế vận) lớn hơn các kỵ thần khác thì nó được gọi là hành kỵ 1 và nếu nó lớn hơn các hành là hỷ dụng thần từ 10đv trở lên thì nó được gọi là hành kỵ vượng và can hay chi của nó trong một số trường hợp có điểm hạn và các điểm hạn này được gọi là các điểm kỵ vượng. B - Tính lại điểm vượng trong vùng tâm Cách tính lại các điểm vượng trong vùng tâm là lấy chính điểm vượng trong vùng tâm của các can hay các chi này từ khi mới sinh (điểm vượng này được tính từ khi mới sinh nên chúng không bao giờ thay đổi). Do vậy nếu 1 can hay 1 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của can hay chi này thì hành của hóa cục đó được thêm số điểm của các can hay chi này còn hành của các can hay chi này bị giảm đi số điểm như vậy. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành thay đổi, vì vậy dụng thần hay điểm hạn của các hành trong vùng tâm có thể thay đổi. Đối với các sách cổ về mệnh học thì dụng thần thay đổi là phần khó nhất, nhưng với phương pháp này thì nó không phải là quá khó. 1B - Điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại trong các trường hợp sau : 1/(10;35;86;206) - Nếu có ít nhất 1 can trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục. Khi đó các can chi động trong tứ trụ được tính như bình thường và các điểm vượng ở lưu niên của các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục cũng được tính vào trong vùng tâm, nhưng các điểm vượng ở lưu niên của các chi ở tuế vận hợp với các chi trong tứ trụ hóa cục không được tính vào trong vùng tâm. 2/ - Tất cả các can chi của tuế vận hóa cục có cùng hành mà có hóa cục liên kết giữa Tứ Trụ với tuế vận (?). Riêng trường hợp này thì sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành được xác định như từ khi mới sinh (nghĩa là các can chi ở tuế vận hóa cục được xem như ở trong Tứ Trụ từ khi mới sinh). 3/30 - Nếu các can của tuế vận và can tiểu vận hóa cục mà có thêm hóa cục của các địa chi có cùng hành liên kết giữa tứ trụ với tuế vận. 4/13 - Trong tứ trụ có hóa cục từ khi mới sinh nếu nó hợp với tuế vận hóa cục có cùng hành. 5/6 - Giữa tứ trụ với tuế vận có các hóa cục, trong đó có ít nhất 2 chi ở trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành của chúng. 6/29 - Hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh bị phá mà có ít nhất 1 chi của nó hợp với tuế vận hóa cục. 7/9 – Các chi tuế vận đều hóa cục có cùng hành và có tổ hợp của thiên can liên kết tứ trụ với tuế vận. 2B - Điểm vượng vùng tâm không phải tính lại 8/28 - Nếu các chi trong tứ trụ ở trong hay ở ngoài các tổ hợp không hóa thì khi chúng hợp với tuế vận hóa cục mà trong chúng chỉ có 1 chi trong tứ trụ của các hóa cục này thay đổi hành. 9/53 - Các tổ hợp của các địa chi trong tứ trụ không hợp với tuế vận hóa cục (khi có thần dẫn ở tuế vận) hoặc chúng bị phá (kể cả chúng hóa cục từ khi mới sinh). 3B – Tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận (Các can chi ở tuế vận và tiểu vận được xem là động khi nó xung, khắc hay hợp với các can chi khác) 10/6 – Sau khi tính lại các điểm vượng trong vùng tâm (chỉ xét các can chi trong tứ trụ và các can ở tuế vận hợp với các can trong tứ trụ hóa cục) nếu hành kỵ thần 1 ở trạng thái động thì phải tính thêm điểm vượng của các can chi động ở tuế vận (viết tắt là tính thêm điểm vượng ở tuế vận), nếu hành kỵ 1 là tĩnh thì không phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận (trừ một vài trường hợp ngoại lệ như câu 11/30...). 11/30 - Sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm nếu một hành là kỵ thần nhưng không phải là kỵ 1 hay hành kỵ 1 là tĩnh, mà các hóa cục của nó có tổng cộng từ 6 can chi trở lên thì phải tính thêm điểm vượng tuế vận (đây là một trường hợp ngoại lệ). 11a/ - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân vượng thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, quan sát không bao giờ là kỵ 1 hay kỵ vượng cho dù nó lớn hơn các hành khác từ 10đv trở lên. 12/50 - Nếu tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân thay đổi hay không thay đổi thì khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, điểm hạn của các hành sẽ không thay đổi (trừ các trường hợp ngoại lệ: 2/ ; 12a/215; 29/(98;99) ;...), nói chung hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần, nhưng nếu nó có tam hợp hay tam hội cục trong Tứ Trụ thì các điểm kỵ vượng của nó chỉ bị giảm 50% nếu điểm vượng của hành kỵ vượng này không nhỏ hơn điểm vượng của hỷ dụng thần 10đv (?). 12a/215 - Nếu tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà cách "Lưỡng Vượng" (kể cả các cách độc vượng (?)) bị phá thì sau khi tính thêm các điểm vượng ở tuế vận điểm hạn của ngũ hành mới có thể được thay đổi như bình thường. 4B - Cách tính thêm điểm vượng ở tuế vận 13a/ - Điểm vượng của can đại vận cũng như can và chi của lưu niên chính là điểm vượng của chúng tại lưu niên (nghĩa là tại chi của lưu niên (thái tuế) và xem thái tuế như lệnh tháng), chúng được viết ngắn điểm vượng của chúng tại lưu niên, nhưng với chi của lưu niên thì số điểm vượng này được tăng gấp đôi, trừ trường hợp trong tứ trụ không tồn tại hành của nó (kể cả can tàng là tạp khí) - (ví dụ 197), còn với can lưu niên thì số điểm vượng này cũng được tăng gấp đôi, trừ khi nó hợp với can trong tứ trụ hóa cục (ví dụ 212). 13b/ - Điểm vượng của can tiểu vận chính là điểm vượng của nó tại tiểu vận (nghĩa là tại chi của tiểu vận và xem chi tiểu vận như lệnh tháng). 13c/ – Điểm vượng của chi đại vận và chi tiểu vận là điểm vượng trung bình của chúng tại đại vận (nghĩa là tại chi của đại vận và xem chi đại vận như lệnh tháng) và 2 lần điểm vượng của chúng tại lưu niên (thái tuế). 13d/208 - Nếu Nhật can hợp với tuế vận hóa thành cục nhưng điểm hạn của hóa cục này bị các can khắc mất hết hoặc chúng hóa thành cục có hành khác với hành của Nhật can thì điểm vượng trong vùng tâm từ khi mới sinh của Nhật can không bị mất và hành mới hóa cục không được thêm số điểm này. . 13e/ - Nếu các can là tranh hợp thật thì các can này không có điểm vượng (?). 13f/10 - Nếu điểm hạn của hóa cục bị khắc mất x% thì chỉ có các điểm vượng của các can (hay các chi ?) có điểm hạn của hóa cục này mới bị giảm x%, nhưng các điểm kỵ vượng của chúng (nếu có) không bị giảm. Ví dụ : Nếu đại vận là Bính Thân, tiểu vận là Kỷ Dậu và năm Nhâm Ngọ thì điểm vượng của các can chi này ở năm Nhâm Ngọ được tính như sau: 1 - Kỷ tiểu vận có 6đv tại Dậu tiểu vận . 2 - Bính đại vận có 10đv tại Ngọ của lưu niên (thái tuế). 3 - Nhâm lưu niên có 4,1đv tại Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 4,1.2đv, nếu Nhâm hợp với can trong tứ trụ hóa cục thì điểm vượng này không được gấp đôi. 4 - Ngọ lưu niên có 10đv tại chi Ngọ lưu niên nhưng nó được tăng gấp đôi thành 10.2đv 5 - Dậu tiểu vận có 10đv tại Thân của đại vận và 4,8đv tại Ngọ của lưu niên nhưng nó được gấp đôi thành 2.4,8đv, vì vậy điểm vượng của Dậu ở lưu niên là (10đv + 4,8.2đv).1/3 đv = 6,53đv. 6 – Thân đại vận có 9đv tại Thân của đại vận và 7.2đv = 1,4đv tại Ngọ của lưu niên, vì vậy điểm vượng của Thân ở lưu niên là (9đv + 7.2đv).1/3 = 7,67đv. C – Hành và điểm kỵ vượng 14/6 - Nếu một hành là kỵ 1 có điểm vượng vùng tâm (hay sau khi tính lại điểm vượng của vùng tâm hoặc sau khi tính thêm điểm vượng của tuế vận) lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv (sai số có thể từ -0,05đv tới +0,05đv) trở lên thì hành đó được gọi là hành kỵ vượng và nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 10đv đến 19,99đv thì mỗi can hay chi (trừ các chi trong tứ trụ) của hành kỵ vượng có thể có điểm (hạn) kỵ vượng bằng đúng điểm hạn của hành của nó (chú ý điểm kỵ vượng của can hay chi tiểu vận chỉ bằng ½ ), còn nếu nó lớn hơn từ 20đv trở lên thì mỗi can chi của nó có thể có điểm kỵ vượng gấp 2 lần số điểm hạn của hành của nó, trừ các giả thiết 14a/135; 22/17; 23/8; 24/11...).. 14a/135 - Nếu dưới 12 tháng tuổi thì điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi mặc dù hành kỵ vượng lớn hơn hỷ dụng thần 20đv trở lên. 15/9 - Nếu can đại vận là kỵ vượng khi khắc được can trong tứ trụ mới có điểm kỵ vượng (kể cả khi nó bị hợp), khi đó các can kỵ vượng ở các vị chí khác có điểm kỵ vượng chỉ khi chúng ở trong các trạng thái động. 16/(12;176) - Các can trong tứ trụ là kỵ vượng bị can đại vận khắc thì chúng mới có điểm kỵ vượng, khi đó các can kỵ vượng khác ở trong trạng thái động mới có điểm kỵ vượng. Điểm kỵ vượng của các can bị khắc giảm tỷ lệ thuận theo các lực khắc chúng. 17/67a - Nếu can đại vận là kỵ vượng hợp với can trong tứ trụ thì nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó bị khắc bởi can trong tứ trụ có hành của dụng thần, khi đó các can khác trong tổ hợp này là kỵ vượng mới có điểm kỵ vượng. 18/12 - Nếu các chi trong tứ trụ, tuế vận và tiểu vận là kỵ vượng xung khắc nhau thì chỉ có các chi ở tuế vận, tiểu vận mới có điểm kỵ vượng. Các điểm kỵ vượng của các chi không bị giảm khi chúng bị xung hay bị khắc. 19/10 - Nếu các can ở trong các hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận hay giữa tuế vận và tiểu vận mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng. 20/8 - Nếu các chi ở tuế vận hay tiểu vận ở trong các hóa cục mà hành của các hóa cục này là kỵ vượng thì chúng có điểm kỵ vượng. 21/(10;101) - Điểm kỵ vượng của các can hay các chi trong hóa cục không bị giảm khi điểm hạn hóa cục của chúng bị khắc. 22/17 - Một hành sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mới là kỵ 1 và nếu nó là kỵ vượng thì các điểm kỵ vượng này không được tăng gấp đôi mặc dù nó có 20đv nhiều hơn hỷ dụng thần 23/8 - Nếu sau khi tính lại điểm vượng trong vùng tâm mà một hành mới là kỵ 1 và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, các điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi. 24/11 - Nếu điểm vượng vùng tâm của kỵ 1 từ khi mới sinh không lớn hơn điểm vượng vùng tâm của hỷ dụng thần và khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận mà nó vẫn là kỵ 1 thì mặc dù nó lớn hơn hỷ dụng thần từ 20đv trở lên, điểm kỵ vượng của nó không được tăng gấp đôi. 25/210a – Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận, hành kỵ vượng sẽ mất nếu điểm vượng của nó nhỏ hơn điểm vượng của các hành là hỷ dụng thần hoặc nó nhỏ hơn hành kỵ thần mới (sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận) ít nhất 10đv. 26/15 - Nếu điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi cả khi tính lại điểm vượng vùng tâm thì khi tính thêm điểm vượng tuế vận nếu điểm vượng của hỷ dụng thần không lớn hơn điểm vượng của kỵ vượng thì điểm kỵ vượng vẫn được tăng gấp đôi. D - Các trường hợp ngoại lệ 27/12 – Nếu tứ trụ nó có Thân nhược và kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì kiêu ấn là kỵ thần có +0,5đh và nó là kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên. 28/ – Bỏ vì sai. 29/(98;99) - Nếu Thân nhược mà Nhật can bị khắc hay bị hợp, khi kiêu ấn có 1 hóa cục có ít nhất 6 chi thì ta phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm và tính thêm điểm vượng ở tuế vận (kể cả khi kỵ 1 là tĩnh), khi đó nếu kiêu ấn lớn hơn Thân từ 20đv trở lên thì nó trở thành kỵ thần có +0,5đh, và nó có điểm kỵ vượng chỉ khi nó lớn hơn kỵ 1 từ 10đv trở lên và các điểm kỵ vượng này được tăng gấp đôi nếu nó lớn hơn Thân từ 30đv trở lên (các bán hợp hay lục hợp hóa cục của Kiêu Ấn có từ 6 chi trở lên thì chưa có ví dụ để nghiên cứu). 30/(18;158) – Nếu hành của tam hội cục có thái tuế là kỵ 1 mà nó có hành giống với hành của can và chi của lưu niên (khi chúng chưa hóa cục) thì điểm kỵ vượng của nó được tăng ít nhất ¼ lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất 10đv, ít nhất ½ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng ít nhất 20đv, ¾ lần (?) nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 30đv trở lên, 2 lần nếu nó lớn hơn hỷ dụng thần ít nhất từ 40đv trở lên (?)....(kể cả khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận và tính lại điểm vượng vùng tâm mà Thân bị thay đổi (nghĩa là Thân từ vượng trở thành nhược và ngược lại)). Ví dụ minh họa. Ví dụ 6 : Nam sinh ngày 25/9/1990 lúc 13,00’. Tháng 7/1991 bị mổ u não may thoát chết. Tháng 8/1991 là năm Tân Mùi thuộc đại vận (tức tiểu vận) Kỷ Mùi. 1 - Mệnh này Thân nhược mà Quan Sát Thổ là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Canh ở trụ năm. 2 – Trong tứ trụ có Tị hợp với Dậu và Ất hợp với Canh đều hóa Kim. Vào đại vận Kỷ Mùi và năm Tân Mùi, 2 Mùi hợp với 2 Ngọ hóa Thổ (bởi vì bán hợp Kim của Tị với Dậu trong tứ trụ không bị phá nên tam hội Tị Ngọ Mùi không thể được tạo thành). Nếu sử dụng giả thiết 5/6 thì trong Thổ cục có 2 chi Ngọ ở trong tứ trụ thay đổi hành của chúng nên điểm vượng vùng tâm phải được tính lại. Thổ có 4đv được thêm 1,5đv của Ngọ trụ năm và 1,8đv của Ngọ trụ giờ thành 7,3đv. Hỏa có 3,3đv, nó bị mất hết (vì hóa thành Thổ). Vì vậy Thổ vẫn là kỵ 1. Bán hợp Thổ cục có 1đh và có thêm 0,25đh (vì Thổ cục có chi thứ 4). Nếu sử dụng giả thiết 114/6 thì Thổ cục là kỵ thần không sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần. 3 - Dụng thần Canh vượng ở lưu nên có -1đh. 4 - Nếu sử dụng giả thiết 61/6 thì Nhật can Quý mộ ở đại vận có 1đh (vì Thân nhược) và Quý mộ ở lưu niên có 1đh. 5 – Tân lưu niên có 1 cát thần có -0,25đh. 6 - Nếu sử dụng giả thiết 216/6 thì đất ven đường của trụ năm có Canh được lệnh nên khắc nước sông của trụ ngày có 1đh (không bị giảm ¼ đh, vì mặc dù can và chi của nạp âm này đều bị hợp nhưng có chi Ngọ của nó hợp với tuế vận hóa Thổ có hành giống với hành của nạp âm). Đất trên tường đại vận có Kỷ vượng ở lưu niên khắc nước sông có 1đh. Tổng số là 4,00đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng giả thiết 10/6 thì sau khi tính lại điểm vượng vùng tâm Thổ vẫn là kỵ 1 và động nên phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Thổ có 7,43đv được thêm 8đv của Mùi đại vận và 8.2đv của Mùi lưu niên, vì vậy (hành) Thổ tại năm Tân Mùi có 7,43đv +24đv = 31,43đv (can Tân và Kỷ ở tuế vận không động nên điểm vượng của chúng không được tính). Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra áp dụng tiếp các giả thiết 13a/ và 14/6 thì Thổ là kỵ vượng, vì vậy mỗi chi Mùi ở tuế vận có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Nếu điểm vượng tại lưu niên của Mùi thái tuế không được tăng gấp đôi thì Thổ không phải là kỵ vượng). Tổng số là 5,00đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được (vì phương pháp này có sai số từ -0,1đh đến +0,1đh). Các nguyên nhân chính gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của nạp âm và Thổ quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu, bởi vì Thủy là hành của Thân và nó có thể hóa Kim (Kim khá mạnh đủ để hóa Thổ để sinh cho Thủy, vì vậy nó không cần thêm) để sinh cho Mộc, Mộc trở thành vượng mới có thể chế ngự được kỵ thần Thổ (bởi vì Mộc là kỵ thần nhưng nó quá yếu mà Thổ thì quá vượng). Trong tứ trụ có Ngọ hợp với Mùi thái tuế hóa Thổ gây ra hạn cho nên tai họa dễ xẩy ra vào tháng Ngọ nhưng ở đây nó đã xẩy ra vào tháng Mùi bởi vì tháng Mùi là tháng mà Mộc nhập Mộ và nó đã tác động với 2 Ngọ trong tứ trụ làm cho tai họa xẩy ra. Ất (Mộc) trong tứ trụ ở trạng thái tử tuyệt và nó bị hóa thành Kim mà Kim là quá vượng còn được Thổ cục sinh cho, vì vậy nó cực vượng còn Mộc nhập mộ 3 lần (ở đại vận, lưu niên và tháng Mùi). Do vậy người này bị khối u ở não (vì Mộc đại diện cho đầu, thần kinh, gan...). Qua ví dụ này chúng ta nhận thấy nếu một hành quá nhược thì nó không cần phải bị khắc hay bị phản khắc bởi một hành khác, nó vẫn có thể gây ra tai họa liên quan tới hành đó. - Nếu không có điểm kỵ vượng thì điểm hạn quá thấp nên không thể chấp nhận được. - Nếu tam hội Tị Ngọ Mùi phá được Kim cục thì cũng không hóa được Hỏa (vì không có thần dẫn) thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được. - Nếu Thổ cục là kỵ thần sinh được cho Kim cục là hỷ dụng thần thì điểm hạn quá thấp cũng không thể chấp nhận được. - Nếu lực khắc của nạp âm vẫn bị giảm ¼ thì tổng điểm hạn là 4,75 có thể là hơi thấp.
    1 like
  18. Ví dụ mẫu về tranh hợp thật hay giả Sau đây là ví dụ trong chủ đề “Giải đoán tb nhiều pháp….vui học làm chính…“ của Tyty trong mục Tử Bình bên trang web tuvilyso.org. Tyty đã viết: “Có ai thích giải vài tứ trụ mẫu... theo pp của mình...? sao cũng được, miễn là ... đoán trúng ! :Thumb Up (đoán sai càng tốt, học hỏi là chính...) (1) Nam nhân bị xử án tử hình trong vận Sát/Kiêu! Hỏi: Năm nào trong đại vận này bị thọ án (xử bắn)? Tứ trụ: Đinh Mùi - Ất Tị - Bính Tý - Quí Tị đại vận: 2 tuổi Giáp Thìn, 12 tuổi Quí Mão, 22 tuổi Nhâm Dần lưu niên trong vận Nhâm Dần: 89 Kỉ Tị, 90 Canh Ngọ, 91 Tân mùi, 92 Nhâm Thân, 93 Quí Dậu, 94 Giáp Tuất, 95 Ất hợi, 96 Bính Tí, 97 Đinh sửu, 98 Mậu Dần. Luận theo Manh phái: "Nhật chủ quá vượng, cùng Quan Sát đối kháng, nhất định là mệnh phạm quan. Tòng thế mạnh của Quan Sát là bệnh, mục đích của nhật chủ là muốn chế phục Quan Sát thành ra cường lực của mình, vì Tý nằm ở chũ vị (trụ ngày). Vì vậy mà năm ??? xung khứ quan tinh mà phạm án, năm ??? thì có tượng hợp bán lộc mà bị chộp sau khi phạm tội giết người. Đến năm ??? thì bị xử bắn." mấy chỗ " ??? " là câu hỏi... điền vào chỗ trống! nào nào, mời các chư huynh đệ... leo núi, xuống đèo, ra khơi...đi thôi... :D (cùng các bạn Tử Vi ghé qua đây chơi...: người này sinh ngày âm lịch: 4 tháng 4 năm Đinh mùi 1967). Sửa bởi tyty: 22/09/2011 - 09:20 PM Nguồn: http://tuvilyso.org/forum/index.php?/topic/4543-giai-doan-tb-nhieu-phap/page__pid__56502#entry56502 Copyright © TuViLySo.org Sau đây là đáp án của Tyty: “ tyty thấy giải cho rồi... vì chắc kô còn ai thích chơi với mình...hihi himama đoán trúng năm bị chích chết: là năm Nhâm Thân! như thế này, trong bài thí dụ đó có 1 điểm chính yếu khi luận chết... đó là ở câu: "năm ??? thì có tượng hợp bán lộc mà bị chộp.." MP coi Lộc là thọ tinh, nếu Lộc bị phạm thì coi chừng tính mạng!“ tên gian ác kia bắt đầu vận Nhâm Dần đã thấy có mòi phạm tội... vì Nhâm Sát tinh ló ra, là quyền lực bắt đầu manh nha... Sát là Khách đến khắc Chủ là Bính... Dần hình Tị là động lộc vị của nhật chủ (Bính lâm quan ở Tị, đó là lộc vị)... Thường là đại vận có xung động thì mấy năm đầu động rất nhanh... năm Kỉ Tị thì nhờ Kỉ thương quan chế quan mà chắc là chỉ tính toán trong bóng tối... năm Canh Ngọ thì hành động... vì NGỌ xung TÝ, Ngọ lại hợp Mùi mà Đinh trong Mùi thông lộc ở Ngọ ... (thông lộc là kô phải chủ vị mà chỉ rằng 1 thiên can đi thông gốc lâm quan ở 1 địa chi) mấy cái này mâu thuẩn nhau... gây ra án mạng. trốn chui nhủi được ở năm Tân Mùi... tới năm Nhâm Thân thì bị chộp, vì thêm 1 Sát tinh cùng Thân hợp Tị (bán hợp Lộc)... hết đường chạy thoát...cùng trong năm đó bị xử chết luôn! ban đầu bao giờ cũng phải có gốc có nguồn...như có lửa có khói... mệnh muốn xung quan sát, mà lại quá vượng...thì khi ứng kỳ (quan sát lên), nội tình đầu óc xáo trộn...mà phạm quan. nhưng kô phải ai cũng giết người... có thể người khác thì thụt két, hay ẩu đả với xếp văng luôn cái ghế ngồi ... hihi bài học: khi động Lộc vị hoặc thọ tinh nào khác : nên ăn chay ngồi thiền là rất phải a! :Thumb Up Nguồn: http://tuvilyso.org/forum/index.php?/topic/4543-giai-doan-tb-nhieu-phap/page__pid__56502#entry56502 Copyright © TuViLySo.org“ Đây là ví dụ mẫu trong một cuốn sách của “Manh Phái“ mà tyty đang dịch. Ở đây tôi không quan tâm tới cách luận của “Manh Phái“ mà tôi chỉ cần lấy thông tin của ví dụ này là người này bị tử hình vào năm Nhâm Thân để hoàn thiện lý thuyết của tôi. Sơ đồ điểm hạn năm 1992 khi giả thiết về tranh hợp thật đã được sửa đổi theo phương pháp của tôi như sau: Năm 1992 là năm Nhâm Thân thuộc đại vận Nhâm Dần, tiểu vận Mậu Thìn và Đinh Mão. 1 - Tứ trụ này có Thân vượng mà kiêu ấn ít, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Quý ở trụ giờ. 2 – Nếu theo giả thiết về tranh hợp thật thì vào vận Nhâm Dần và năm Nhâm Thân có 2 Nhâm ở tuế vận là can chủ khắc hợp với Đinh trụ năm ở tiểu vận Mậu Thìn và hợp thêm với Đinh tiểu vận ở tiểu vận Đinh Mão đều là tranh hợp thật cũng như 2 Tị trong Tứ trụ là chi chủ khắc hợp với Thân thái tuế cũng là tranh hợp thật. Các can chi tranh hợp thật đều là vô dụng hay coi như chúng không xuất hiện. Ta thấy chỉ có nước khởc trụ ngày khắc nước sông trụ giờ có 0,25đh và Dần đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Số điểm này quá thấp không thể gây ra một tai họa nào cả. Vậy thì tại sao người này bị chết? Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải sửa lại giả thiết về tranh hợp thật như sau: Tranh hợp thật của thiên can và địa chi: 1 - Nếu chỉ có 2 can dương giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong Tứ Trụ hợp với can đại vận hay can lưu niên thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật, khi đó các can này được xem như vô dụng. 2 - Nếu 2 can tuế vận là dương giống nhau mang hành chủ khắc hợp với can tiểu vận hay với một can trong Tứ Trụ thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật, khi đó các can này cũng được xem như vô dụng. 3 - Nếu chỉ có 2 chi dương giống nhau mang hành chủ khắc ở trong Tứ Trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật, khi đó các chi này được xem như vô dụng. 4 - Nếu 2 chi tuế vận là dương giống nhau mang hành chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một chi trong Tứ Trụ thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên các chi này cũng được xem như vô dụng (?) (câu này có thể sai bởi vì điểm vượng (tức thế lực) của chúng ở lưu niên không bằng nhau). Nếu chúng ta áp dụng giả thiết mới sửa đổi này thì ở tiểu vận Mậu Thìn tổng điểm hạn rất thấp vì 2 Nhâm ở tuế vận hợp với Đinh trụ năm là tranh hợp thật. Còn ở tiểu vận Đinh Mão, 2 Nhâm hợp với 2 Đinh nên không phải là tranh hợp thật, cũng như 2 Tị là chi mang dấu âm nên mặc dù là chủ khắc hợp với Thân thái tuế nhưng không phải là tranh hợp thật. (Giải thích: 2 Tị là chi mang dấu âm (đại diện cho phái nữ) là chủ khắc, tức nó đại diện cho những bà thống trị chồng mà chúng ta thường gọi họ là “Sư Tử Hà Đông“). Qua sơ đồ chúng ta thấy lực hợp của 2 Tị với Thân thái tuế có 2.6,75đv là lớn hơn lực xung của Dần đại vận với Thân thái tuế chỉ có 5,07đv và lực hợp của Tý trụ ngày với Thân thái tuế chỉ có 4,98đv. Do vậy 2 Tị hợp với Thân hóa Thủy. Vì trong Tứ Trụ có 2 chi hớp với tuế vận hóa cục có hành khác với hành của 2 chi này nên phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Hỏa có 14,27đv bị mất 2,81đv của Tị trụ giờ và mất 3,6đv của Tị trụ tháng, vì vậy nó còn 7,86đv. Thủy có 6,38đv được thêm 2,81đv và 5,6đv của 2 Tị thành 12,79đv. Thân trở thành nhược mà Quan sát là kỵ thần số 1 nên dụng thần đầu tiên lúc này phải là Kiêu Ấn/ Ất ở trụ tháng. Vì Thủy là kỵ thần số 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở tuế vận. Thủy có 12,79đv được thêm 2.9đv của Thân thái tuế, 2.6đv của Nhâm lưu niên và 6đv của Nhâm đại vận thành 48,79đv. Hỏa có 7,86đv được thêm 4,8đv của Đinh tiểu vận thành 12,66đv. Thủy lớn hơn Hỏa trên 20đv nên Thủy là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được tăng gấp đôi (vì Thủy không phải là kỵ thần số 1 từ khi mới sinh). Thủy cục có 0,75đ h và Thân thái tuế hóa Thủy có 0,5đh kỵ vượng. Nhâm đại vận là kỵ vượng hợp và khắc Đinh trong Tứ Trụ nên có 0,5đh kỵ vượng, khi đó Nhâm lưu niên động (khắc Đinh) nên mới có 0,5đh kỵ vượng. Nhâm ở tuế vận vượng ở lưu niên nên mỗi Nhâm có 0,5đh can động và khắc 2 Đinh nên mỗi lực có 1,4.1/2.1/2 đh = 0,35đh nhưng mỗi lực khắc Đinh tiểu vận bị giảm thêm ½ còn 0,35.1/2 đh = 0,18đh.. Dần đại vận có 1 hung thần có 0,25đh. Nước khe trụ ngày có Bính được lệnh nên khắc nước Sông trụ giờ có 0,25đh. Tổng cộng có 4,81đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa tiếp một giả thiết nữa là: “Nước mưa khắc nước sông có ít nhất là 0,25đv khi can của nó được lệnh hay vượng ở đại vận hoặc lưu niên (vì nước khe núi còn khắc được nước sông có 0,25đh). Nếu sử dụng giả thết này thì tổng điểm hạn là 5,06đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Vì trong Tứ Trụ có 2 Tị hợp với Thân thái tuế hóa Thủy là nguyên nhân chính gây ra tai họa nên có thể vào tháng Tị người này bị tóm cổ, tháng Thân bị tuyên án tử hình và vào mùa Đông là mùa mà Thủy vượng thì bị tử hình (?). Các giả thiết tính điểm hạn hoàn toàn được đưa ra từ các ví dụ trong thực tế và chúng sẽ được kiểm tra, sửa đổi sao cho càng ngày càng phù hợp với càng nhiều ví dụ trong thực tế càng tốt. Trên đây chỉ là 1 ví dụ để chứng minh “Phương pháp tính điểm hạn“ của tôi được xây dựng lên như thế nào. Qua đây tôi hy vọng có nhiều người sẽ hiểu rõ và cùng tôi nghiên cứu để nhanh chóng hoàn thiện phương pháp tính điểm hạn này.
    1 like