• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 28/09/2011 in all areas

  1. Chân thành cảm ơn anh chị em đã chia sẻ niềm vui trong ngày sinh nhật của tôi. Dưới đây là một số hình ảnh của ngày sinh nhật, chia sẻ với anh chị em. Xin chúc anh chị em và gia đình hạnh phúc trọn vẹn, vạn sự an lành. Thiên Sứ và Biển Xanh Jimmy, Phoenix, Khôi Nguyên, Thiên Sứ, Sơn Cao, Thiên Đồng. Longphibaccai; Viethq22, Nòng Nọc; Khôi Nguyên; Phoenix; Thiên Sứ; Sơn cao, An Thanh, Biển Xanh; Yeuphunu.
    2 likes
  2. SINH NHẬT SƯ PHỤ THIÊN SỨ Chiều qua, 25/9/2011, thành viên lớp Phong thủy Lạc Việt của các lớp đã cùng đến chung vui, nâng ly mừng sinh nhật Sư Phụ Thiên Sứ trong không khí thân mật, ấm áp và sôi nổi.
    1 like
  3. Tình Mẹ Khi bạn 1 tuổi, mẹ đút từng miếng ăn và chăm sóc cho bạn. Bạn cám ơn mẹ bằng cách khóc suốt đêm dài. Khi bạn 2 tuổi, mẹ tập cho bạn đi. Bạn cám ơn mẹ bằng cách bỏ chạy đi khi mẹ gọi. Khi bạn 3 tuổi, mẹ làm cho bạn tất cả những bữa ăn với tình yêu thương. Bạn cám ơn mẹ bằng cách quăng bát đĩa xuống sàn. Khi bạn 6 tuổi, mẹ dắt tay bạn đến trường. Bạn cám ơn mẹ bằng cách la lên, “Con không đi”. Khi bạn 11 tuổi, mẹ dẫn bạn cùng bạn bè của bạn đi xem phim. Bạn cám ơn mẹ bằng cách xin ngồi ở hàng ghế khác. Khi bạn 12 tuổi, mẹ răn bạn không được xem những chương trình tivi nào đó. Bạn cám ơn mẹ bằng cách đợi cho đến khi mẹ rời khỏi nhà rồi bật lên xem. Khi bạn 13 tuổi, mẹ đề nghị bạn cắt tóc. Bạn cám ơn mẹ bằng cách bảo rằng: “Mẹ không biết thế nào là sành điệu”. Khi bạn 15 tuổi, mẹ đi làm về chờ đợi sự chào đón của bạn. Bạn cám ơn mẹ bằng cách khóa cửa phòng bạn. Khi bạn 18 tuổi, mẹ đã khóc trong ngày lễ tốt nghiệp của bạn. Bạn cám ơn mẹ bằng cách đi chơi với bạn bè đến chiều tối. Khi bạn 20, mẹ hỏi bạn đã gặp gỡ “ai” chưa. Bạn cám ơn mẹ bằng cách đáp,: “Đó không phải chuyện của mẹ”. Khi bạn 21, mẹ đề nghị bạn những nghề nghiệp nào đó cho tương lai. Bạn cám ơn mẹ bằng cách trả lời: “Con không muốn giống mẹ”. Khi bạn 24, mẹ gặp vị hôn phu của bạn và hỏi về những kế hoạch trong tương lai của bạn. Bạn cám ơn mẹ bằng cách giận dữ và càu nhàu:" Mẹ… con xin mẹ" Khi bạn 25, mẹ lo lễ cưới cho bạn, mẹ khóc và nói rằng: “Mẹ yêu con biết bao”. Bạn cám ơn mẹ bằng cách dọn đến sống ở một nơi xa. Khi bạn 30, mẹ gọi điện cho bạn khuyên bảo về việc chăm sóc trẻ con. Bạn cám ơn mẹ bằng cách nói rằng: “Mọi việc giờ đã khác xưa rồi mẹ”. Khi bạn 40, mẹ gọi để nhắc bạn nhớ sinh nhật của người thân. Bạn cám ơn mẹ bằng câu trả lời: “Bây giờ con thật sự bận lắm”. Khi bạn 50, mẹ ngã bệnh cần bạn chăm sóc. Bạn cám ơn mẹ bằng cách tìm đọc sách về “Cha mẹ trở thành gánh nặng cho con cái như thế nào”. Và rồi một ngày kia… mẹ lặng lẽ ra đi, tất cả những điều bạn chưa kịp làm cho mẹ sụp đổ tan tành. Nếu mẹ còn ở bên bạn, hãy luôn yêu thương và kính trọng mẹ. Nếu mẹ ra đi, những kỷ niệm yêu mến của mẹ và nuối tiếc của bạn sẽ ở lại. Vì cuộc đời bạn chỉ có một người MẸ mà thôi !!!
    1 like
  4. 1 like
  5. Cháu sanh giờ Mão ,với người thái dương cư Tý , cũng khá thông minh hiếu học dạng người trung bình hay thấp nhưng hơi gầy mặt hơi dài nhỏ da hơi xanh xám ,tính hay đa sầu sầu đa cảm suy tư , , thích văn chương thi phú ,thích nghiên cứu các lãnh vực tâm linh hay tâm lý ,... cung phụ mẫu ,cha mẹ rất khá giả và có chức vị ,bào đệ chỉ có em gái.
    1 like
  6. Theo tôi cháu sanh giờ Mão ; bởi vì người Thiên đồng ,khẳng định là người có khuôn mặt tròn ,trung bình cho tới thấp ,trông trẻ hơn cái tuổi ,tánh thì hơi trẻ con hay là thích mến trẻ ,với lá số nầy vì có quyền -tướng cho nên người có bắp tay chân to ,sức khỏe tốt ít hay đau yếu, trán vuông hay ở gần trán có cái gì đó ,vai ngang hay đầu vai to ,chân mày ngang ,người nở nang thường là phần hông nỡ nang hơn dạng người nầy rất dễ phì và bụng phệ ,đây là dáng của người tướng -quyền ,tính cách mạnh mẽquyết đoán , cung phụ mẫu nhờ có tuần mà cha mẹ yên bình và bình thường lúc thiếu thời thì hơi vất vã ,mệnh đóng nơi vị trí la võng và tuần nên số cũng khó đi xa hay lập nghiệp phương xa thường ở gần cha mẹ hay nơi chốn sinh ra.Nếu là lá số giờ Dần với vũ- Phá ,chắc khuôn mặt hơi dài và nhỏ hay choắt ,chân mày thấp và đậm dàng người gầy, tánh khí bất thường ,nóng nảy cau có hay có bệnh về thần kinh khí huyết và bị xưng khớp hay phong thấp ,sức khỏe kém hay thường đau bệnh ,với giờ nầy cha là người rất phong lưu ít ra cũng có phòng nhì hay phòng 3 ở bên ngoài là điều không tránh khỏi... chơi với bạn rất tốt nhưng thường hay bị người phản bội và vu khống ,cuộc đời phong trần trôi nổi lang bạt xa xứ ,tình duyên lận đận vì mênh tuần thân triệt thiếu bộ cơ-nguyệt-đòng-lương để giải ,cuộc đời đa đoan khổ hận về đường chồng và con ,sau xuất gia đầu phật vui cảnh thiền môn
    1 like
  7. love or hate cố gắng nhẫn lại đời vài hôm nữa xem sao .
    1 like
  8. Một trong hai thứ đó là được. Lọ lục bình không cần to lắm, như cái lọ cắm hoa đào là được. Chữ Phúc thì bằng đồng là tốt nhất. Phân cung để biết chữ Tân ở đâu thôi, cái này không dính dáng tới tuổi bố và hướng cửa. Thân mến
    1 like
  9. @ Tianang, Thưa anh Thiên Đồng: Bây giờ là 08 Th09 2011 01:36 PM theo đồng hồ của diễn đàn. Tia nắng sinh ngày 30/3/1980 . Chồng sinh ngày 14/6/1976. Hiện đang mang thai, dự kiến sinh cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 2012. Xin nhờ anh tư vấn giúp: 1. Em vừa mới chuyển sang nghề dạy học, nhưng vẫn thấy rất bế tắc, thấy mình không được trọng dụng. Nghề dạy học có phù hợp với tia nắng không a? nghề này phù hợp. có thể học tiến lên cao và nghiên cứu sâu. 2. Khi nào công việc của tia nắng sẽ đỡ hơn, được tín nhiệm và trọng dụng hơn ạ? -1 năm sau sẽ đỡ hơn, 5 năm sau sẽ có danh vị cao 3. Vợ chồng có ăn đời ở kiếp với nhau vui vẻ hanh phúc đến già không ạ? đến đầu bạc răng lung lay Xin cảm ơn anh. Xin chúc anh vạn sự vạn an. @Songtrang Anh Thiên Đồng cho em hỏi với! Em đã ngoài ba mươi mà long đong về tình duyên quá. - Tuổi Kỷ Mùi 1979 - Hỏi vào 08-09-2011(dương lịch) lúc 14:04PM Câu 1: Bao giờ thì em sẽ lập gia đình ? Nhanh thì tháng 4 năm Nhâm thìn, chậm thì năm Quý tị 2013. Câu 2: Người ấy là người như thế nào? Người dáng cao, 1.68-1.78. người mực thước, hơi bảo thủ, hay lo xa. Bỏ nhà xa sứ đi làm. Mắt sáng da ngâm đen Câu 3: Cuộc sống hôn nhân có ổn thỏa ko ? - thương nhau lắm cắn nhau đau. Em cảm ơn anh Thiên đồng và chúc quán của anh luôn luôn đông khách. @Tuấnn Kính chào bác Thiên Đồng, cháu xin mạn phép hỏi: Tuổi gì: Giáp Tuất Hỏi vào ngày 15 tháng 09 năm 2011 giờ 13h39 dương lịch. Câu hỏi 01: Bà nội cháu hiện đang bị bệnh, nằm liệt giường, liệu có sống thêm được vài năm với con cháu không ạ? Không đáng lo. Câu hỏi 02: Năm sau cháu thi đại học liệu có đỗ vào trường mình mong muốn không ạ? Đỗ vô trường không mong muốn. Câu hỏi 03: Cháu hiện đang thầm thương trộm nhớ 1 người, liệu có kết quả khả quan không ạ? Chủ động tấn tới thì khả quan. Cháu xin cảm ơn bác:). @Tịnh Tâm Up lại trang 11 nhờ chú thiên đồng xem giúp. Nam Bính dần (1986) Hỏi vào lúc: 19h35' pm, ngày 31/8/2011 Mong anh Thiên Đồng bớt chút thời gian quý báu xem giúp e, e sốt ruột và lo lắng vô cùng. Câu hỏi 1: Em và bạn gái em đã có đứa con trước giờ bạn gái em ở với bố mẹ vợ. Bố mẹ hai gia đình đã gặp nhau và nói chuyện nhiều về chuyện hai đứa tụi em nhưng do hai gia đình ở hai tỉnh khác nhau nên có phong tục khác nhau phía vợ nói gia đình em dù nó đã có con trước nhưng vẫn phải tổ chức cái lễ để cho bà con dòng họ đều biết chứ không không dẫn con gái "tui dề" không được trước khi làm cái lễ đó ba mẹ cháu phải ra nói chuyện trước và phải đem theo trầu câu để thưa chuyện...Phía em thì khác mấy người lớn trong họ cũng như phong tục hễ con gái có con rùi thì ba tháng mười ngày thì dẫn dề thui bởi vì bất đồng ý kiến đến bây giờ hai gia đình vẫn chưa thống nhất phải làm thế nào. Ba mẹ cô ấy nói nếu trong tháng 8 hay 9 âm lcij mà nhà em không ra thưa chuyện thì khỏi luôn, vì vậy làm em rất lo lắng không biết phải làm thế nào cả ? Anh xem thử gia đình em có đem trầu câu ra nhà bạn gái em thưa chuyện không ? Nếu đi thì tháng mấy âm lịch đi ? Cuộc nói chuyện có suông sẻ không và có kết quả tốt không ? hai đứa tụi em có đến được với nhau không? Nữ tuổi gì? Không cho biết tuổi thì làm sao tư vấn? Bên nhà trai nên trầu cau qua nói chuyện thì êm xuôi. Câu hỏi 2: Nếu thuận lợi thì hai đứa em tháng nào lấy nhau? Khi lấy nhau thì tổ chức thê nào có nhộn nhịp như đám cưới bình thường không hay tổ chức đơn giản ?. -sẽ linh đình Câu hỏi 3: Nếu hai em lấy nhau cha mẹ hai bên có hổ trợ thêm về mặc tài chính không? hai đứa định lấy nhau xong năm sau sẽ xây nhà và mở cửa hàng buôn bán không biết có như ý không? Em vừa xin được công việc nhà nước không biết có tốt và thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp của em sau này không? -Hai đứa tự lo tài chính. bên Nam có cho chút chút thôi. @ huyen nhung 1980 Kính gửi anh Thiên đồng! Em tuổi Canh Thân (1980) Hỏi lúc 10h25 ngày 16/9/2011. 1. Hiện tại em đang mong có bầu nhưng đã mấy tháng nay vẫn chưa có tin vui, vậy mong anh xem giúp trong năm này em có thể có bầu được không? Chậm nhưng sẽ được. Em rất mong sang năm (Nhâm thìn) sinh trong 6 tháng đầu năm theo tư vấn của các anh , các Bác nhưng bây giờ chỉ còn 2 tháng nữa không biết tình hình có được không, nếu có bầu mọi việc có tốt đẹp cả không? Nữ tuổi Canh Thân sinh nhâm thìn hay Quý Tị đều tốt. 2. Hiên nay em đang được đề nghị tăng lương không biết là có được cấp trên duyệt không? Chưa duyệt đâu, tháng 12 năm tân mão hay tháng giên năm Nhâm thìn mới được. 3. Có thể xem được cho chồng em trong năm này có thể có sự thay đổi công việc không? Không thay đổi đâu cả. Rất mong anh Thiên Đồng giúp đỡ, Cảm ơn anh. @Lynktran, Chào anh Thiên Đồng ( em xưng hô theo mấy anh chị trước, nếu không đúng anh bỏ qua cho e nhá ) Xem tuổi: Canh Ngọ (1990) Hỏi lúc: 21h10, 19/09/2011 Câu 1: Việc học hành trong năm nay có thuận lợi và đạt kết quả cao như mong muốn hay không? (Nếu không thì có cản trở gì đặc biệt không?) Việc học có nhiều trở ngại nên chú trọng sức khỏe tốt để học hành. Câu 2: sang năm em tốt nghiệp có được bằng giỏi hay không? Tốt khá giỏi chứ chư phải hạng giỏi. Kém nhất 8 điểm. Câu 3: dự định tốt nghiệp xin việc gần nhà có thành hay không? Xin việc ở xa nhà thì thành. Em cảm ơn anh đã giúp! @duybaobaby, Kính gửi anh Thiên Đồng nhờ anh xem giúp vợ chồng em một quẻ Em tuổi: Tân Dậu (sinh 20/01 ÂL, lúc 6h45') Chồng em (sinh năm Quý Hợi) và con trai sinh 21/07/2007 1. Anh xem giúp gia đình em : gia đạo hiện tại 3 thành viên có hạp không, hai vợ chồng em đến năm nào thì việc kinh doanh phát triển tốt và vững chắc? -Tuổi 3 người trong gia đình tương đối hợp. Tuy vậy con trai sức khỏe kém, khi mẹ sinh xong thì sức khỏe mẹ cũng có vấn đề. Từ năm 2010 nếu kinh tế khá thì từ đầu năm nay đến giờ chuyện nhà có lục đục. Nên sinh đứa Nhâm thìn hay Quý tị thì sự nghiệp phát triển tốt. 2. Hiện tại em đang có bầu và dự sanh tháng 04/2012 âm lịch. Em sinh đứa bé út này có thì gia đình em có tốt không? Vậy quá tốt. Nếu đúng vậy thì sinh bé ra thì rất khá. Tháng 5 năm đó thì rất phát. 3. Năm nay tụi em định mở thêm cửa hàng kinh doanh nữa thì có tốt không anh? nếu được anh xem dùm em ngày tháng nào khai trương tốt Không nên mở, sang năm sau tính lại. Mong anh tư vấn cho tụi em sớm để tụi em sắp xếp công việc. Rất cảm ơn anh Thiên Đồng nhiều. Không có gì. mệt. Thiên Đồng
    1 like
  10. Cháu đọc các bài Bác post và ý kiến của Bác rất hay,nhưng tại sao từ ngữ bác lại dùng từ sai chính tả?Bác đùa cho vui?hay là từ của tiếng nói của 3 miền?
    1 like
  11. Tử vi tui kém lắm, nên để cho các bác khác nhé!!!
    1 like
  12. Sinh Năm Giáp Ngọ là tốt rồi, con nào cũng tốt. Con út có thể sinh năm Bính Thân 2016, ưu tiên con trai, Canh Tý 2020 thì tàm tạm, nhưng Canh và Kỷ cha không hợp nên con và cha khó gần nhau. Thân mến.
    1 like
  13. Đúng sai tên gọi "Kỳ đài" của Cột cờ HN Không có chuyện cột cờ Hà Nội "bị đổi tên" thành “Kỳ đài” mà ngược lại, chính Kỳ đài Hà Nội đã bị đổi tên thành “Cột cờ”. Tên gọi "Kỳ đài Hà Nội" có xa lạ? Gần đây, một bài viết về tấm biển đề hàng chữ “Di tích Kỳ đài” trên đường Điện Biên Phủ được đăng tải trên một số báo và diễn đàn đã gây nên nhiều phản ứng trong dư luận. Tác giả bài viết cho rằng, Cột cờ Hà Nội nổi tiếng đã bị đổi tên thành “Kỳ đài” và đưa ra các ý kiến nhằm phủ nhận tên gọi “xa lạ” này. Tuy vậy, xét trên bình diện lịch sử, sự phủ nhận tên gọi Kỳ đài có đúng đắn hay không? Có một thực tế không ai có thể bác bỏ là hiện nay trên Cột cờ Hà Nội vẫn còn tấm biến đề hai chữ “Kỳ đài”. Tấm “biển tên” này đã có từ khi công trình được xây dựng cách đây tròn 200 năm. Chính sử triều Nguyễn, triều đại đã xây công trình này cũng không bao giờ dùng từ cột cờ khi nói về Kỳ đài Hà Nội. Sách Đại Nam nhất thống chí viết về Hoàng thành Hà Nội như sau: “Các cửa thành đều bắc cầu đá qua hào. Mặt trước chính giữa xây kỳ đài. Bốn phía trên mặt thành xây 24 pháo đài”. Trên bình diện dân gian, người Hà Nội lưu truyền bài thơ về Cột cờ Hà Nội như sau: “Kỳ đài năm thước vút trời cao/Thông đạt trong tâm có đường vào/Trong sáng muôn nơi dồn cả lại/Trung tâm thiên hạ đẹp biết bao!” Ở bài thơ này, tên gọi Kỳ đài mang hàm ý trang trọng, tự hào và chắc chắn không thể là một tên gọi xa lạ. “Kỳ đài” hay “Cột cờ” đều đúng Có thể khẳng định, không có chuyện Cột cờ Hà Nội bị đổi tên thành “Kỳ đài” mà ngược lại, chính Kỳ đài Hà Nội đã bị đổi tên thành “Cột cờ”. Việc quần chúng đặt thêm một tên gọi “bình dân” bên cạnh tên gọi gốc của một công trình lớn là hiện tượng bình thường ở Hà Nội. Tấm biển ghi tên "Kỳ đài" vẫn còn trên cột cờ Hà Nội. Có thể dẫn chứng một số trường hợp “đổi tên” điển hình như Bắc Môn gọi là Cửa Bắc, Nhà thờ Chính tòa Hà Nội gọi là nhà thờ Lớn, chùa Diên Hựu là chùa Một Cột. Đối với các công trình này, cả cách gọi tên nguyên gốc và tên dân gian đều đúng. Trong đó, tên gọi dân gian phù hợp phù hợp với ngôn ngữ bình dân, còn tên gọi nguyên gốc được sử dụng khi cần sự trang trọng, chính thống. Bởi vậy, việc tấm biến trên đường Điện Biên Phủ ghi tên gọi gốc của Cột cờ Hà Nội là “Kỳ đài” hoàn toàn không có gì sai. Trong cộng đồng mạng, nhiều ý kiến đã bày tỏ sự đồng tình với điều này. Thành vien Tran Le, chia sẻ trên một mạng xã hội: “Đã là người Hà Nội thì không thể không được biết về tên gọi gốc của Cột cờ Hà Nội. Tấm biển ghi tên Kỳ đài là một sự trân trọng lịch sử. Còn tên gọi Cột cờ thì chẳng cần trưng biển cũng sẽ mãi mãi được lưu giữ trong tâm trí người Hà Nội”. Trước ý kiến bài xích tên gọi “Kỳ đài” chỉ vì tên gọi này “không thuần Việt”, thành viên nick tmj27, trên một diễn đàn bình luận: “Thế tên em là Thanh Hải, giờ cho nó "thuần Việt" thì đổi tên thành "Biển Xanh", Thăng Long thì ta đổi thành "Rồng Bay", "Trường Chinh" thành "Đi đường dài" à? Thuần Việt thì thuần Việt, cái gì nó là tên riêng, ý nghĩa riêng thì cứ để nguyên nó cho đúng với lịch sử chứ. Còn vụ "Cột cờ Hà Nội", đấy là tên dân gian mình gọi như thế, gọi thành quen rồi thôi, chứ về mặt lịch sử là "Kỳ đài", phải để nguyên, hay cứ gọi quen rồi thì phản đối?”. Có ý kiến cho rằng, để tất cả mọi người cảm thấy thỏa mãn, nên ghi đồng thời cả hai cái tên trên biển di tích, ví dụ như “Di tích Cột cờ Hà Nội (tên gọi ban đầu là Kỳ đài)”. Viet Bao (Theo Đất Việt) ======================================== Cái thì buổi Oanh tạc nét này khiến cho ai biết đọc biết viết và gõ bàn phím là đều có điều kiện thể hiện khả năng hiểu biết của mình, mà không cần nghĩ đến đúng sai. Cột cờ và Kỳ Đài hoàn toàn khác nhau. Cái tên "Cột cờ" mới có khoảng ngót 80 năm nay - do người ta muốn Việt hóa cái tên nghe có vẻ Tàu tàu. Còn Kỳ Đài có từ hàng trăm năm trước. Vậy mà cũng tranh nuận, phản biện. Kỳ chính là tên gọi khác của cờ. Khái niệm cờ trong tiếng Việt là danh từ chung để chỉ tất cả các loại cờ. Kỳ là loại cờ nhỏ, hoặc có nội dung riêng. Đài là tháp cao, Cờ được treo trên tháp cao hoặc tháp cao dùng để treo cờ là Kỳ đài. Nếu "cột" và đài đồng nghĩa thì Đài kỷ niệm liệt sĩ trận vong có thể đổi thành "cột kỷ niệm liệt sĩ trận vong" à? Cột và Kỳ khác hẳn. Đừng có bảo "Kỳ" là ta mượn tiếng Tàu nhá. Gọi kỳ đài là đúng rùi và chính xác. Khỏi tranh nuận. Chiện lày làm tôi nhớ lại hơn 40 chục lăm về trước. Có một tay hủ nho lào đấy tự nhiên dở chứng phát biểu đường Cổ Ngư là do Tây nó viết nhầm phiên ấm tiếng Việt không có dấu thành Congu. Tay lày cho rằng: Con đường này thật tên là Cố Ngự tức là ráng giữ lấy chứ không phải Cổ Ngư. Thế là từ đó trở đi sách vở và những nhà thông thái đời sau cứ thế la lên rầm rầm là Cố Ngự, làm bi wờ cái tên Cổ Ngư biến mất trong thế hệ trẻ. Thực ra các địa danh Cổ Ngư, Cổ Lễ, Cổ Bi, Cổ Loa, Cổ Nhuế, Cổ Mễ...vv....là một loạt địa danh để ông cha ta gợi nhớ đến lịch sử văn hóa xa xưa của dân tộc. Đúng là buồn hai phút.
    1 like
  14. 1 like
  15. Xác nhận có 300,000 đ (ba trăm ngàn đồng) của Smile_at_life ủng hộ Quỹ từ thiện. Quỹ hiện có : 1,700,000 đ + 300,000 đ = 2,000,000 đ (hai triệu đồng)
    1 like
  16. chào bạn ! nữ mệnh , xương - khúc đa tình . cô thần , hội mệnh ! một mình , phòng không ! đến hồi , gặp được phú ông . đào hoa , lắm lắm ! chẳng trông mong gì ! lúc này , nên liệu đường quy . trời kia , chắc sẽ đền nghì cho em ! .....chào thân ái !
    1 like
  17. 1 like
  18. Cháu chào Bác Thiên Sứ ! Cháu mới tham gia diễn đàn LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG nhưng hầu như ngày nào ngồi vào máy là cháu lại vào diễn đàn đọc những tâm sự của mọi người , những giải đáp của Bác nên cũng khiến cháu hiểu ra được nhiều điều. Cháu thật sự rất kính trọng Bác và cháu nghĩ mọi người trong diễn đàn ai cũng có 1 suy nghĩ như cháu đó là thấy Bác rất gần gũi và rất có tâm với chúng cháu khi cần Bác giải đáp, cháu chẳng hiểu sao chẳng nói được cái mà mình nghĩ nữa..... Vì Cháu mới biết đến Diễn đàn nên cũng không biết hôm qua là sinh nhật Bác , Hôm nay cháu xin gửi lời chúc mừng sinh nhật muộn tới Bác, chúc Bác và gia đình luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và mọi điều tốt đẹp nhất!
    1 like
  19. Anh chỉ được thế là nhanh, em lỡ lời, trót dại Chú tha cho chị
    1 like
  20. Cháu chào bác Thiên Sứ. Cháu là thành viên mới của diễn đàn nhưng cháu rất biết ơn Bác và các cô chú, anh chị trong diễn đàn vì đã lập ra diễn đàn này để tư vấn cho mọi người. Vì không biết sinh nhật của Bác nên cháu đành phải chúc sinh nhật muộn vậy. Cháu chúc Bác luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, thành công trong cuộc sống và mãi là Thiên Sứ để đem đến hạnh phúc cho mọi người nha Bác. À Bác ơi, nhờ mấy cô chú, anh chị post hình sinh nhật Bác lên nên cháu đã thấy được Bác rồi hi... Chúc cho những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với Bác.
    1 like
  21. Chân thành cảm ơn anh chị em có lời chúc tốt đẹp với tôi nhân ngày sinh nhật. Xin chúc anh chị em và gia đình vạn sự an lành.
    1 like
  22. Từ năm đến năm 2016 muốn cưới năm nào cũng được, các năm tốt để sinh con : 2012, 2013, 2017, 2018. Thân mến. munkyxu hình như ngày xưa có học lớp PTCB phải không nhỉ? Con út theo TL nên sinh năm ĐInh Dậu cho đủ 2 âm 2 dương trong nhà, con trai càng tốt. Năm Bính Thân cũng là năm tốt. Năm 2017 thì phát tài hơn là phát công danh. Thân mến.
    1 like
  23. Search trên Google từ các trang Web Phái Mật Tông thì có hai hình ảnh như nhanqua bổ sung, nhưng Chú màu đỏ được truyền bá từ Đức Pháp Vương Garchen Triptrul Rinpoche dịp đến Việt Nam năm 2009 nên Cô nghĩ chú màu vàng được cải biên tuy nội dung giống nhau.
    1 like
  24. (Tiếp theo) Thần Thông và Nghiệp Lực Đa số Phật tử tu theo đạo Phật không nhiều thì ít đều có liên tưởng đến những hiện tượng huyền bí, đó là thần thông. Vậy thần thông có phải là cái chúng ta nương tựa, để cho chúng ta tin cậy, để cho chúng ta học hỏi luyện tập không? Khi Phật cón tại thế, Tôn Giả Mục Kiền Liên sau khi chứng quả A La Hán, Ngài có đủ lục thông. Song, đối với những vị chứng A La Hán như Ngài, Ngài là người ưu việt hơn cả. Nên Phật nói Tôn Giả Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử lớn của Phật. Vì thần thông siêu việt nên Tôn Giả có thể dùng thần thông đi từ thế giới này đến thế giới nọ trong chớp mắt, hoặc dùng thần thông hóa hiện tùy ý. Khi ấy Phật ngự trên một từng lầu, dưới tầng trệt các tỳ kheo nói chuyện ồn ào. Phật bảo Tôn Giả Mục Kiền Liên làm cho các tỳ kheo đó đừng làm ồn nữa. Tôn Giả liền duỗi chân ra thì cái nhà xoay tròn, chư tỳ kheo hoảng hốt không dám nói chuyện nữa. Với sức thần thông siêu việt như thế, vì lòng hiếu thảo Ngài dùng thiên nhãn thông tìm trong lục đạo coi mẹ Ngài sinh ở đâu, Ngài thấy bà đang mang thân ngạ quỉ khổ vô cùng. Ngài thương xót mẹ, nên đi khất thực được một bát cơm liền vận thần thông đem đến dâng cho mẹ. Khi được cơm, tay trái bà bưng bát cơm, tay mặt bốc cơm để vào miệng, cơm vừa tới miệng liền hóa thành lửa. Tôn Giả Mục Kiền Liên thấy mẹ ăn cơm không được khổ sở vô cùng, Tôn Giả rơi nước mắt. Chúng ta đặt lại vấn đề, nếu thần thông của Tôn Giả Mục Kiền Liên siêu việt thì khi mẹ Ngài ăn cơm, cơm hóa thành lửa, tại sao Ngài không dùng thần thông thổi tắt lửa để mẹ Ngài dùng cho no lòng, mà lại đứng khóc? Vậy, quý vị nghĩ sao về thần thông của Ngài và nghiệp ác mà mẹ Ngài gây ra? Để thấy, thần thông không cứu được nghiệp ác của người thân. Nếu tu để có thần thông, mà không cứu được ai hết thì có thần thông làm gì? Toàn chúng đệ tử Phật đều tôn xưng Ngài là người thần thông bậc nhất. Vậy mà trước cảnh khổ đau bi đát của mẹ, Ngài không có một phương tiện giải cứu, mà chỉ đứng khóc. Như vậy mới thấy thần thông không chi phối được nghiệp lực. Hai cái khác biệt nhau rõ ràng. Thần thông không đưa người đến sự an lạc vĩnh viễn mà cũng không giải cứu được ác nghiệp cho người đau khổ. Vậy, tu thiết tha mong cầu chứng đắc thần thông? hay tu cốt để đoạn các nghiệp ác, để tránh khỏi khổ đau đang chi phối cả kiếp người? Sau đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên trở về thuật lại cảnh khổ của mẹ Ngài và cầu xin Phật dùng phương tiện giải cứu. Phật dạy: -Mẹ người nghiệp ác quá nặng, sức người không thể cứu được. Người phải làm lễ Vu Lan thiết đãi chư Tăng. Sơn lâm thiền định Thọ hạ kinh hành Lục thông La Hán Nhờ oai lực của các vị này cầu nguyện, thì mẹ ngươi mới thoát được kiếp ngạ quỉ. Khi đó, Tôn Giả Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật sắm sửa trai diên, thỉnh chư Tăng đang thiền tịnh ở núi rừng, đang kinh hành dưới cội cây, là những bậc đã chứng lục thông A La Hán cùng trợ lực cầu nguyện thì mẹ Ngài thoát kiếp nga quỉ. Vì lý do Tôn Giả Mục Kiền Liên không đủ sức cứu mẹ, nên phải nhờ số đông chư Tăng đã chứng A La Hán trợ lực mới cứu được mẹ Ngài. Chính sự kiện này mà về sau hàng Phật tử noi theo gương hiếu thảo của Tôn Giả Mục Kiền Liên, là một bậc xuất gia tu hành chứng A La Hán, không quên công ơn cha mẹ, vẫn nhớ và muốn đền đáp. Nên hàng Phật tử sau mùa an cư tự tứ của chúng Tăng, đều làm lễ Vu Lan thỉnh chư Tăng cúng dường cầu siêu. Đó là việc làm đạo đức căn bản. Tuy nhiên chư Tăng hiện thời không phài là những bậc thiền định chứng lục thông A La Hán như Phật đã dạy Tôn Giả Mục Kiền Liên thỉnh cúng dường, cầu nguyện cho Ngài. Nên sự cầu nguyện của chư Tăng hiện thời không bảo đảm được như ý nguyện của Phật tử. Nhưng tại sao mỗi năm vào rằm tháng bảy Phật tử tụ hội về chùa làm lễ Vu Lan để làm gì? Điều này Phật tử nên hiểu cho tường tận. Với tấm lòng hiếu thảo của người Phật tử, mỗi khi nhớ lại gương sáng của đức Mục Kiền Liên, là người đã cắt ái lìa thân xuất gia hành đạo, quyên hết chuyện nhà mà vẫn không quyên ơn sanh dưỡng của cha mẹ, biết mẹ bị quả báo làm ngạ quỉ, tìm mọi phương tiện cứu mẹ thoát khổ của kiếp ngạ quỉ. Theo gương hiếu thảo của Tôn Giả Mục Kiền Liên, nên ngày nay Phật tử làm lễ Vu Lan để tỏ lòng hiếu thảo nhớ ơn cha mẹ, và mong cứu cha mẹ thoát khỏi cảnh khổ. Đến chùa vì hiếu nghĩa, vì nhớ ơn để cầu nguyện cho cha mẹ, đó là tinh thần từ thiện tốt đẹp. Nhưng nếu tin chắc cha mẹ thoát khổ thì không bảo đảm. Trong kinh A Hàm, Phật có nói: "Người biết ơn và đền ơn, dù ở xa ngàn dặm, cũng như hầu cận bên ta; ngược lại, người không biết ơn và không đền ơn dù ở hầu cạnh bên ta cũng cách xa ta ngàn dặm". Phật dạy đạo đức bắt nguồn từ chỗ biết ơn và đền ơn. Người lương thiện là người thọ ơn ai không bao giờ quên. Những lúc mình nguy khốn được người giúp đỡ, khi người hoạn nạn thì mình sẵn sàng giúp đỡ lại không ngại khó khổ gian lao. Trong kinh Ưu Bà Tắc giới, Phật có dạy: trời nắng người đi đường vào bóng cây núp mát, khi ra đi không được bẻ cành cây. Và trên đường đi được bóng cây hai bên đường che mát, Phật cấm không được bẻ lá cây, vì cây có cái ơn che mát cho chúng ta trên đường dài nóng bức. Đối với cái ân rất nhỏ của loài vô tri mà Phật còn không cho phép chúng ta quên ơn, huống là cái ơn sanh dưỡng lớn lao của cha mẹ. Nếu ơn sanh dưỡng sâu nặng mà chúng ta quên đi thì những cái ơn khác không dễ gì nhớ được. Ở đời cũng có lắm kẻ được người giúp đỡ qua cơn nguy khốn, sau đó đối với người ơn của họ, họ ngoảnh mặt làm kẻ xa lạ. Cũng như những đứa con ngỗ nghịch không tiếc lời nặng nhẹ khảo tra tiền của cha mẹ, cha mẹ đến tuổi già yếu đói no sướng khổ con cái không buồn nghĩ đến. Người như thế là người không biết ơn và đền ơn, không phải là người lương thiện. Thế nên, người đạo đức chân thật là người biết ơn và nhớ ơn sanh dưỡng của cha mẹ. Dù cha mẹ còn hay mất, mỗi mùa Vu Lan đến, người con hiếu thảo vì cha mẹ làm việc phước thiện để hướng tâm tưởng thiện lành đến với cha mẹ, mong cha mẹ được nhẹ nhàng hết khổ. Đó là kẻ biết ơn và đền ơn mà thế gian thường nói "Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây". Nhớ ơn cha mẹ là đạo đức căn bản vậy. Có một lần Phật đi khất thực ở vùng mất mùa, dân trong làng ai cũng nghèo đói. Phật đi từ sáng đến trưa không có người cúng dường, trong bát Phật không có thức ăn. Khi đó có một thầy tỳ kheo đem lá y mới của mình đổi được một bát cơm, vội vàng đem dâng Phật. Phật hỏi: -Ông còn cha mẹ không? Tỳ kheo trả lời: -Bạch Thế Tôn, con còn bà mẹ. Phật hỏi: -Mẹ ông sáng nay có ăn cơm chưa? Tỳ kheo đáp: -Bạch Thế Tôn, con đổi một lá y chỉ được một bát cơm, con dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn. Phật dạy: -Người đáng thọ nhận bát cơm này là mẹ của ông. Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Phật rất chú trọng đến đức hiếu thảo của con người. Nếu người tu hành không nhớ công ơn cha mẹ thì việc tu hành chỉ là việc làm ích kỷ, không có cơ bản đạo đức. Chúng ta tu là vì thương cha mẹ, thương thân bằng quyến thuộc, thương dân tộc, thương nhân loại, nên nỗ lực tu hành để rồi khuyên những người thân người sơ cố gắng tiến trên con đường đạo đức, làm đẹp cho người, làm đẹp cho quê hương xứ sở. Đâu phải vong ân cha mẹ, quên thân bằng quyến thuộc, phản bội quốc dân mà đi tu. Dù là người xuất gia hay cư sĩ tại gia đều phải lấy công ơn cha mẹ làm gốc để tu hành. Vì vậy, mỗi năm tới mùa báo hiếu, Phật tử qui tụ về chùa, trước là đem lòng thành kính nguyện Tam Bảo gia hộ cho cha mẹ sớm được về cõi Phật. Kế đó, vì cha mẹ mà làm lành tu thiện, cứu giúp người nghèo khổ và nhắc nhở khuyến khích hướng dẫn con cháu tiến trên con đường đạo. Đó là nền tảng đạo đức đời đời không quên. Tăng Ni hiện nay tuy không đủ tư cách như Phật dạy trong kinh Vu Lan, nhưng dù sao đi nữa, một người tu an chay, bỏ ác làm thiện cũng có chút công đức lành góp phần với quý vị Phật tử, cùng hồi hướng cùng cầu nguyện cho cha mẹ. Đó là cội nguồn của ngày lễ Vu Lan. Vì vậy nếu đã là đệ tử của Phật, phải nhớ rằng tu với Phật không bằng tu với cha mẹ. Vì Phật đã giải thoát mọi khổ đau, dù cho chúng ta có đảnh lễ tán thán đến đâu, Ngài vẫn bình thản mặc nhiên. Còn cha mẹ chưa hết phiền não nên mỗi khi con cháu tỏ lòng hiếu thảo, biết nghĩ tưởng đến thì cha mẹ hoan hỷ sung sướng. Thế nên chúng ta thường làm cha mẹ vui, Chẳng phải chỉ lo lạy Phật cúng Phật mà quên không lo phụng dưỡng hiếu kính cha mẹ. Người tu như thế thì chưa đúng với tinh thần của đạo Phật. Người Phật tử muốn đền đáp công ơn của cha mẹ, trường hợp thứ nhất khi cha mẹ còn sanh tiền, muốn cho cha mẹ an vui trong hiện đời và an vui trong mai hậu, ngoài việc cung phụng nuôi dưỡng cha mẹ về mặt vật chất, nếu cha mẹ chưa biết đạo, phải tạo duyên tốt khiến cho cha mẹ phát tâm tu hành bỏ ác làm lành. Vì người phát tâm làm lành mới khỏi đọa ba đường ác sanh vào cõi thiện được an vui. Cho cha mẹ ăn ngon, mặc đẹp, ở sang, tuy là hiếu thảo, nhưng hiếu thảo đó chỉ là tạm bợ không lâu dài, vì cha mẹ sẽ chết không còn hưởng dụng những thứ đó nữa. Tạo duyên lành cho cha mẹ hướng về đường thiện, thì chẳng những bảo đảm trong đời này ít khổ đau mà đời sau cũng hết đau khổ. Chính việc làm đó mới là cái hiếu chân thật. Vì vậy, quý Phật tử ai được vinh hạnh cha mẹ còn tại tiền, hãy ráng tạo điều kiện giúp cho cha mẹ tu hành, đó là cái hiếu lớn nhất. Trường hợp thứ hai là khi cha mẹ quá cố rồi. Chúng ta không làm gì khác được, nên mới cúng dường cầu nguyện hồi hướng phước lành cho cha mẹ được siêu thoát. Đó là việc làm cầu may chứ không bảo đảm kết quả như ý. Nhiều khi quý Phật tử nghĩ đến người chết mà quên hẳn người sống. Đến rằm tháng bảy cúng kiến cầu nguyện cho ông bà tổ tiên được siêu sanh tịnh độ mà ông bà cha mẹ tại tiền thì không để ý chăm sóc giúp đỡ để tiến tu. Như thế là không xứng đáng, không đúng với chữ hiếu trong đạo Phật. Trở lại, thần thông không cứu được khổ, khơng giải được nghiệp. Như chúng ta biết Tôn Giả Mục Kiền Liên đã từng dùng thần thông qua lại trong không gian từ cõi này đến cõi khác một cách tự do. Nhưng đối trước quả báo nghiệp ác của mẹ Ngài, Ngài đành bó tay đứng khóc chứ không cứu được, đó là trường hợp thứ nhất. Đến trường hợp thứ hai là chính bản thân Ngài khi trở về già, một hôm đi khất thực qua chân núi, ngoại đạo lăn đá cho rớt xuống đè Ngài chết. Bình thường có chuyện bất ổn xảy ra là Ngài dùng thần thông bay bổng, không ai hại được Ngài. Bây giờ nghiệp đến, thấy đá lăn từ trên xuống, Ngài dùng thần thông bay đi mà bay không được, nên bị đá đè chết. Để thấy thần thông bất lực trước quả báo nghiệp ác của Ngài, thần thông cũng không giải được nghiệp của chính mình khi quả báo đến. Như vậy luyện tập thần thông để làm gì? Song, tâm lý chung của Phật tử thì ưa thích thần thông với những tướng lạ thường. Giả sử bây giờ quý vị đang ngồi nghe tôi nói pháp, ngoài kia có người đang vận thần thông bay lên dạo chơi trong hư không, quý vị sẽ cùng đua nhau xem họ trình diễn thần thông, chớ không thể ngồi yên mà nghe pháp. Vì bản chất của con người là hiếu kỳ, ưa thích những điều khác lạ, còn những gì bình thường đơn giản thì không ưa chuộng. Tu, nếu bảo dùng nghiệp ác của thân của miệng của ý, chuyển thành ba nghiệp thiện thì thấy thường và khó làm. Còn, nếu nói tôi có thần thông, ai muốn được hết tội, tôi hóa ra nước Cam Lồ rưới sẽ hết phiền não, thì mọi người ham thích đua nhau xin nước Cam Lồ để tắm gội hay để uống cho hết tội. Vì người ta vừa hiếu kỳ vừa lười biếng, hễ thấy dễ khoẻ là làm, Vì vậy, nên dễ bị gạt và để rơi vào mê tín tà giáo. Thời Đức Phật còn tại thế, có bốn ngoại đạo tu chứng được ngũ thông: -Thiên nhãn thông là thấy tất cà người vật gần hay xa. -Thiên nhĩ thông là nghe khắp tất cà âm thanh lớn nhỏ gần xa. -Thiên tâm thông là biết được ý người khi mới vừa khởi nghĩ chưa nói ra lời. -Thần túc thông là biến hóa thân hình lớn nhỏ tùy ý, thăng thiên độn thổ không ngại. -Túc mạng thông là biết được vô số kiếp về trước. Bốn vị này biết mình sắp bị quỉ vô thường đến bắt đi, nên mỗi người tìm cách để trốn thoát thần chết. Vị thứ nhất dùng thần thông bay lên hư không núp trong đám mây xanh. Vị thứ hai vận thần thông lặn xuống đáy biển. Vị thứ ba dùng thần thông chui vô lòng núi. Vị thứ tư thì chui trốn ở trong lòng đất. Tất cả bốn vị đều nghĩ rằng chỗ mình trốn, quỉ vô thường không thể tìm được. Nhưng đến giờ thần chết đến thì vị thứ nhất ở trên mây hết thần thông rớt xuống nát thây. Vị thứ hai ở dưới đáy biển hết thần thông ngộp chết nổi lên. Vị thứ ba ở trong lòng núi hết thần thông đá nứt đè chết. Vị thứ tư ở trong lòng đất hết thần thông bị đất sụp chôn thây luôn. Để thấy, tu chứng được thần thông muốn thoát chết vẫn không thoát được. Tu mà chứng được ngũ thông là đã trải qua quá trình tu tập không phải ngắn và dễ dàng, thế mà muốn thoát chết cũng không thoát được. Lại một trường hợp nữa: Có một vị tu sĩ đạt đạo chứng được ngũ thông, thuyết giảng giáo lý rất hay cho đến trời Đế Thích cũng đến nghe. Một hôm, trời Đế Thích nghe giảng xong ra ngồi gốc cây khóc. Vị tu sĩ ấy lấy làm lạ hỏi: -Tại sao nghe giảng xong ông lại khóc, tôi giảng có chỗ nào ông không đồng ý? Đế Thích đáp: -Không, Ngài giảng rất hay, vì tôi thấy ngài sắp chết nên tôi thương khóc. Tu sĩ hỏi: -Vậy phải làm sao cho tôi khỏi chết? Đế Thích đáp: -Nếu Ngài muốn khỏi chết, hãy đến cầu cứu với Đức Phật Thích Ca. Tu sĩ hỏi: -Đức Phật Thích Ca là ai Đang ở đâu? Đế Thích đáp: -Ngài là một vị giác ngộ hoàn toàn sạch hết vô minh lậu hoặc, đang ở tịnh xá Trúc Lâm gần thành vương xá. Vị tu sĩ bèn vận thần thông bay đi tìm Phật. Đi dọc đường, ông nghĩ rằng đi cầu Phật dạy nên có lễ vật để cúng dường Ngài. Ông thấy bên đường có những cây ngô đồng đang trổ hoa thật đẹp, bèn nhổ và cầm đến cúng Phật. Khi tới tịnh xá Trúc Lâm, thấy Phật đang ngồi thuyết pháp cho chúng tỳ kheo nghe, ông vào quì xuống dâng hai cây ngô đồng lên Phật và thưa: -Thưa Thế Tôn, con xin cúng dường Ngài hai cây ngô đồng và cầu xin Ngài dạy cho con phương pháp tu để khỏi chết. Lúc đó Phật không dạy gì hết, chỉ bảo: -Buông ! Tu sĩ buông tay thứ nhất, ngã cây ngô đồng thứ nhất. Phật lại bảo: -Buông ! Tu sĩ buông tay thứ hai, ngã cây ngô đồng thứ hai. Phật nói tiếp: -Buông ! Tu sĩ sửng sốt thưa: -Hai tay con cầm hai cây ngô đồng, lần thứ nhất Phật bảo buông, lần thứ hai Phật bảo buông, con buông cây thứ hai là hết. Phật bảo con buông nữa con không biết buông cái gì? Phật nói: -Ta đâu có bảo ông buông hai cây ngô đồng. Lần thứ nhất ta bảo ông buông là đừng chạy theo ngoại cảnh. Lần thứ hai ta bảo ông buông là đừng chấp sáu căn là ngã. Lần thứ ba ta bảo ông buông là không chấp sáu thức là ngã. Nếu ông buông hết ba cái đó thì ông hết chết. Nghe Phật nói, tu sĩ nhận ra yếu chỉ, tu một thời gian chứng A La Hán. Hết chết là không còn nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử, chứ không phải thân tứ đại hiện đời không hoại, không chết, phải hiểu rõ chỗ này. Để thấy, dù có tu có luyện thần thông đến đâu, mà chưa buông xả được cảnh, thân và tâm thức thì cũng chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi. Lại một Đạo sĩ và một Thiền sư, hai vị cùng đi chung một con đường. Đạo sĩ hỏi Thiền sư: -Thầy tu lâu chưa? -Lâu rồi. -Thầy chứng thần thông chưa? -Tôi tu không có thần thông. Vậy đạo sĩ có thần thông không? - Có. Hai vị cùng đi tới một bến đò, Đạo sĩ muốn thi thố thần thông cho Thiền sư thấy bèn rủ: -Thôi chúng ta đi qua. Đạo sĩ qua sông mà không đi đò. Thiền sư nói: -Thôi, Đạo sĩ cứ qua đi. Đạo sĩ liền vén áo đi trên mặt nước qua bên kia bờ. Còn Thiền sư thì đến bến đò mua vé lên đò, qua sông. Khi qua bờ bên kia, Đạo sĩ gặp lại Thiền sư ra vẻ tự hào, nói: -Thầy thấy tôi không? -Đạo sĩ tập luyện thuật đi trên nước mất bao nhiêu năm? -Hết hai mươi năm. Thiền sư cười nói: -Công phu luyện tập 20 năm của Đạo sĩ đáng giá bằng hai xu tôi qua đò ! Tốn hai xu cũng đi qua sông được mà phải luyện tập hai mươi năm được thần thông cũng để qua sông, thì có giá trị gì??? Thiền Tông không trọng thần thông, coi đó chỉ là trò biểu diễn vui chơi, không giải cứu được khổ đau của con người. Thế mà người đời không biết, rất hâm mộ nể phục thần thông. Trở về nguồn, khi Thái tử Sĩ Đạt Ta tu sắp thành đạo dưới cội cây bồ đề, ma Ba Tuần biết Ngài sắp chứng đạo nên cùng nhau đến phá Ngài. Quân ma có tới 18 ức bao vây Ngài dưới cội bồ đề. Ma bảo: -Sa Môn mau đứng đậy. Thái tử lặng thinh không đáp, như thế đến ba lần. Ma hỏi: -Sa Môn sợ ta chăng? Thái tử đáp: -Ta không kinh sợ. Ma hỏi: -Sa Môn thấy bốn chúng binh của ta chăng? Ông chỉ một mình, không binh khí, đầu cạo, mặc y bày thân, lại nói không sợ? Thái tử đáp bằng bài kệ: "Giáp nhơn, cung tam muội Tay cầm tên trí tuệ Phước nghiệp làm binh khí Nay sẽ phá quân ngươi" Ma bảo: -Nếu không nghe theo lời ta, ta sẽ làm cho thân hình ông tan thành tro bụi. Thái tử nói: -Ta tự xem xét trên cõi người ma và thiên ma, nhơn và phi nhơn cùng bốn bộ chúng của ngươi không thể đụng được một mảy lông của ta. Ma nói: -Sa môn, nay muốn cùng ta giao chiến chăng? Thái tử đáp: -Muốn được giao chiến. Bấy giờ Thái tử mặc áo giáp nhơn từ, Ngài dùng cung tam muội, tên trí tuệ, và binh khí phước nghiệp để giao chiến với ma quân. Ngày nay, chúng ta tu một mình ở nơi vắng vẻ có nhiều ma, thì quý thầy dạy nên học thuộc các câu chú, về những là bùa để trừ tà ma, hoặc để con dao hay cái rựa bên cạnh phòng khi đối trị ma quái. Xưa Phật chiến đấu với ma quân Ngài mặc áo giáp từ bi, cầm cung thiền định, bắn tên trí tuệ và dùng phước đức làm binh khí để chiến đấu với quân ma. Chúng ta thấy Đức Phật đơn độc một mình chỉ và sử dụng có bốn loại khí giới là từ bi, thiền định, trí tuệ, và phước đức mà chiến thắng được ma quân một cách vẻ vang. Sở dĩ Phật chiến thắng đựơc ma quân là vì Ngài có tâm từ bi vô lượng vô biên không oán không thù ai, nên ma không hại được. Còn chúng ta thì lòng từ chưa bủa khắp, xử kỷ tiếp vật còn thân còn sơ nên ma tham ma sân có chỗ vào, vì vậy mà cứ mãi thua ma (dài dài); Đó là yếu tố thứ nhất. Yếu tố thứ hai là tâm Phật luôn luôn an định, dù ma có hiện hình tướng kỳ quái thô bạo dữ dằn đến đâu, Ngài vẫn mặc nhiên không run không sợ nên ma không hại được. Bây giờ nếu chúng ta tu nếu gặp ma hiện vằn mặt đỏ trong đêm tối, thì hoảng hốt chạy ra, không giữ được bình tĩnh đó là do tâm không an định, vì tâm không an định nên sợ và thua ma. Yếu tố thứ ba là với trí tuệ sáng suốt. Phật thấy rõ thân này không thật thì các tướng mạo của ma quỉ nào có thật! Nên không bị chi phối bởi ma, chúng ta vì trí tuệ chưa sáng, thấy thân này thật, ma cũng thật, sanh tâm kinh sợ nên bị ma hại. Yếu tố thứ tư là phước nghiệp, Đức Phật do công phu tu tập, làm lợi ích chúng sanh, phước đức kết nhóm nhiều đời nhiều kiếp nên ma không hại được. Chúng ta tu sở dĩ thường gặp chướng nạn ma nạn là vì phước đức mỏng, sức tu tập yếu nên bị ma nhiếp được dễ dàng. Tôi thường nói chúng ta tu đừng ỷ mình thông minh, đừng ỷ mình tài giỏi, cũng đừng ỷ mình khôn lanh là có thể hanh thông trên đường tu tiến, mà phải xét nét công hanh tu tập của mình. Nếu thấy phước đức mình cạn mỏng thì lo vun bồi cho được sâu dầy hầu giúp mình vượt qua mọi chướng nạn và tiến đến chỗ cứu cánh viên mãn. Vì có rất nhiều người khôn lanh thông minh tài giỏi mà không tránh được chướng nạn khổ đau. Ngược lại, người có nhiều phước đức thì vượt qua tất cả mọi chướng ngại, sự tu tập dễ dàng tiến mau nên được kết quả tốt. Chúng ta thấy, Đức Phật khi chiến đấu với ma quân, chỉ dùng có bốn loại binh khí: Nhân từ là do tự tâm phát khởi lòng thương yêu tất cả mọi loài. Chánh định là do lóng lặng tâm tư mà được thanh tịnh, nhờ tâm thanh tịnh nên trí tuệ phát sáng. Còn phước nghiệp là do công hạnh làm lợi ích cho mọi loài. Chính bốn đức ấy hóa giải sự nhiễu hại của ma quân ở chính mình. Như vậy, chúng ta vào đạo là phải giữ tâm không oán không thù lần lần để tâm lóng lặng cho trí tuệ phát sáng, và hành ngày làm việc thiện lành lợi ích cho mọi người. Đó là những điều căn bản không một người tu nào có thể thiếu được. Tóm lại, tu theo đạo Phật chủ yếu là tránh ba nghiệp ác của thân miệng ý và tạo ba nghiệp lành. Vì nghiệp có sức mạnh đưa người tới chỗ khổ hay vui. Nếu tu mà nghiệp thức còn thì dù có chứng thần thông siêu việt đến đâu cũng không giải cứu được khi nghiệp báo đến. Vì thế đạo Phật không trọng thần thông, mà sợ gây nghiệp ác, khuyên tạo nghiệp lành. Thế nên mọi hiện tượng huyền bí lạ lùng không phải là cái đích cho người tu Phật hướng đến. Người tu Phật chân chính là tự trau sửa mình để trở thành người tốt, nhân từ đức hạnh, tâm bình an, trí tuệ sáng suốt, hằng ngày làm lợi ích cho mọi người, đó là điều cơ bản, không hiếu kỳ, không lười biếng, không ỷ vào thần quyền ma lực, tu như thế mới đúng với tinh thần của đạo Phật. Bồ Tát Sợ Nhân, Chúng Sanh Sợ Quả Nhiều Phật tử đi chùa quy y đã lâu, biết tụng kinh niệm Phật, thế mà đối với lý nhân quả chưa đủ lòng tin. Nếu chưa đủ lòng tin nhân quả thì giáo lý Phật coi như chưa hiểu gì cả, vì lý nhân quả là nền tảng của Phật pháp. Tin lý nhân quả là điều thiết yếu nhưng không phải tin suông, tin mù quáng mà là một sự kiện thực tế, cụ thể ngay trong cuộc sống, rất sáng tỏ, không mơ hồ huyền hoặc.Thế nào là "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả"? Bồ Tát nguyên chữ Phạn là Bodhisattva, dịch âm là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch nghĩa là hữu tình giác. Tức là một chúng sanh đã giác ngộ và đang giúp cho những chúng sanh khác cũng được giác ngộ như mình, thì gọi là Bồ Tát. Nhờ đã giác ngộ thấu suốt được lý nhân quả trong ba đời, nên chỉ sợ nhân mà không sợ quả. Chúng sanh là loại hữu tình có sinh có tử còn vô minh nên đi mãi trong vòng luân hồi. Vì chưa giác ngộ, còn mê mờ không thông lý nhân quả nên chỉ sợ quả mà không sợ nhân. Vậy kiểm lại trong chúng ta, ai là người biết sợ nhân xấu đó là người giác, là Bồ Tát, ai sợ quả xấu là kẻ mê, là chúng sanh. Bồ Tát hay chúng sanh là tự chúng ta có thấy biết đúng sự thật hay không, chớ không phải Bồ Tát cỡi hạc hay cỡi sư tử đi trên hư không để cho người ngưỡng vọng lễ bái. Nếu giác, thấy đúng lẽ thật, nhận biết một cách chính xác nhân nào đưa đến quả khổ, nhân nào đưa đến quả an lạc. Do biết rõ, nên thấy nhân nào đưa đến quả khổ quyết định không làm, vì tạo nhân rồi thì không tránh được quả, đó là Bồ Tát sợ nhân. Ngược lại, cái nhân đưa đến quả khổ nếu chúng ta không biết để tránh, mà chỉ thấy quả khổ đến lo sợ tránh né, đó là chúng sanh sợ quả. Ví dụ người có tật nóng giận, mỗi khi có người trong nhà hay hàng xóm nói hoặc làm điều gì trái ý liền la lối đánh đập. Nếu chửi bới hay đánh đập vợ con trong nhà bị thương tích thì tốn tiền thuốc thang chữa trị, bị xóm giềng cười chê là đồ bất nghĩa bất nhân, khiến tâm ray rứt hối hận. Nếu đánh đập người ngoài xã hội có thương tích thì bị người đánh lại hay bị bắt bớ giam cầm. Khi đánh chửi thì không sợ, đến khi thấy vợ con đau bịnh hoặc bị người đánh lại, hay bị tù tội thì lo sợ. Đó là người mê hay tỉnh? Vì mê không biết nhân xấu ác sẽ đưa đến quả khổ, nên cứ làm rồi thọ quả khổ chừng đó mới sợ. Người có lòng tham, thấy của người dễ lấy, liền lấy đem về làm của mình, khi lén lấy của người thì không sợ mà chỉ thích thú là mình được của. Để khi chủ nhà hay mất của, báo nhà chức trách truy tìm lùng bắt kẻ trộm thì lo sợ. Đó là người mê, vì mê nên không biết tạo nhân xấu phải chịu quả khổ, cứ làm để rồi quả khổ đến thì hoảng kinh lo sợ. Có nhiều thiếu niên 14, 15 tuổi thấy người lớn hút thuốc nhả khói phì phà có vẻ oai vệ thư nhàn nên tập hút, hút một thời gian thì ghiền. Khi ghiền, nếu có thuốc hút thì tạm ổn, hôm nào không tiền mua thuốc thì ngáp dài chảy nước dãi thèm thuồng, chịu không nổi, tới người này, người kia năn nỉ mượn tiền mua thuốc hút, thật là khổ sở. Đó là cái quả chặng thứ nhất. Đến quả chặng thứ hai là hút tới lới tới già thì bị nám phổi, ung thư phổi, bịnh trầm kha, khốn khổ vô cùng. Lúc hút thuốc hồn lâng lâng quyện theo khói theo mây thì không sợ. Đến khi cơn ghiền hành hạ không tiền mua thuốc, bịnh hoạn bứt ngặt không tiền uống thuốc, không thuốc để điều trị, chừng khổ đến mới sợ. Lại có những chú bé mười lăm mười bảy tuổi thấy cha chú uống rượu bàn tán việc làng việc nước, việc cổ kim thời sự ra vẻ người hiểu biết sành đời, nên thích thú tập uống. Khi mới uống thì cảm thấy cay nóng, tập một thới gian trở thành dễ chịu và đi tới ghiền. Khi ghiền rồi thì mỗi ngày phải có rượu mới yên, nếu không rượu thì uạ ọc bực bội khó chịu. Đó là cái quả thứ nhất không rượu uống. Nếu gặp tiệc tùng anh em đông đảo, người chén thù người chén tạc, kết quả là say túy lúy, đi ngã bờ ngã bụi làm trò cười cho thiên hạ. Khi về đến nhà thì chửi đánh vợ con, ói mửa đầy đất hôi hám nhơ bẩn nhà cửa, khiến cho cha mẹ vợ con buồn chán. Đó là cái quả thứ hai, làm cho gia đình mất hạnh phúc. Đến cái quả thứ ba là chai gan, loét dạ dày... đau bịnh trầm kha vô cùng khốn khổ. Từ cái nhân nhỏ đưa tới cái quả thật to, mà người ta không thấy nên mới tạo, để rồi thọ quả vô cùng khốn khổ, hối hận thì không kịp. Vậy, người tập tành những thói hư tật xấu đó là giác ngộ hay mê? Bởi mê nên mới khổ. Nếu giác như Bồ Tát biết rõ hút thuốc uống rượu là cái nhân đưa tới nghiện ngập, bịnh hoạn nghèo khổ, gia đình mất hạnh phúc. Biết như vậy, nhất định không uống, không hút, dù người có cố tình mời mọc, dứt khoát không dùng. Đó là người sống có tính giác nên không khổ. Nếu sống mà không biết nhân nào đưa tới quả khổ, nhân nào đưa tới quả vui, mặc tình tạo tác để rồi quả đến thì kêu trời trách đất. Đó là người mê muội không biết tránh nhân, chỉ biết sợ quả nên bị khổ đau. Vậy chúng ta hiện có mặt ở đây tự xét lại coi mình là người giác hay kẻ mê? Ai cũng muốn mình là người giác, không bị khổ đau bứt ngặt thì nên tập hạnh của Bồ Tát là biết tránh nhân xấu, chớ không sợ quả xấu. Ở thế gian có nhiều trường hợp mới thoạt nhìn, thấy dường như rất tốt, nhưng nhìn kỹ thì chẳng tốt chút nào. Chẳng hạn người biết hút thuốc gặp người chưa biết hút thì mời ép cho hút, đến khi ghiền thuốc rồi, không tiền mua, xin thì kkhông cho. Hoặc người chưa biết uống rượu được người biết uống rượu mời mọc ép uống, đến khi ghiền rồi thì ít khi được mời uống. Vậy, những người bạn thuốc bạn rượu có thật thương thật tốt với chúng ta không??? Bạn thuốc bạn rượu không phải là người để chúng ta kết giao thân thiện. Lại có trường hợp Phật tử thường đi chùa tụng kinh lạy Phật. Một hôm có người nói: "Chị năm nay bị sao Kế Đô chiếu mạng, coi chừng bị tai nạn". Phật tử này không dám đi đâu, ngay cả đi chùa cũng không đi, ở nhà lo lắng buồn rầu... Phật tử đi chùa với tâm trạng như vậy, có hiểu lý nhân quả không? Sao Kế Đô đó do ai đặt ra. Nhà thiên văn địa lý nào đó đặt ra mỗi tinh tú có một cái tên, trong đó có một tinh tú mang tên Kế Đô và mỗi tinh tú vận hành theo luật thiên nhiên của vũ trụ, đâu có chủ yếu chiếu vào người nào để cho người đó thọ nạn? Theo lý nhân quả của Phật giáo thì do người chủ động tạo tác nhân (nguyên nhân tạo nên sự vật, khi sự vật thành hình gọi là kết quả) và quả cũng do người tạo tác nhận chớ không ai khác. Phật, trời, thánh, thần không định đặt cho con người khổ hay vui, mà do con người làm chủ; Nếu tạo nhân xấu là thọ quả xấu, nếu tạo nhân tốt thì thọ quả tốt. Vậy sợ là sợ cái gì? Giả sử có một Phật tử đúng vào năm sao hạn xấu mà tâm lúc nào cũng nghĩ tốt, nói năng thì vui vẻ nhã nhặn, đối với mọi người thì luôn luôn tử tế hài hòa, thì Phật tử ấy thường được người thương hay ghét? -Thương. Ngược lại, nếu có một Phật tử hay đi chùa được tuổi tốt sao hạn tốt mà tâm thường nghĩ quấy, nói năng thô lỗ cộc cằn, đối xử với mọi người thì hơn thua lấn lướt. Vậy Phật tử đó được thương hay bị ghét? -Ghét. Vậy, do tâm niệm xấu xa, ngôn ngữ cộc cằn thô lỗ, hành động bất hảo làm cho người ta ghét hay sao hạn làm người ghét? Và tâm niệm tốt đẹp, ngôn ngữ nhã nhặn, việc làm lương thiện khiến cho người thương hay sao hạn khiến cho người thương??? Nếu người thương thì được người hoan hỉ giúp đỡ, đó là phước. Nếu có người ghét thì bị hại đó là tội. Rõ ràng tội phước là do ý nghĩ lời nói hành động mà ra, ý nghĩ lời nói hành động tốt là gieo nhân lành, đã gieo nhân lành thì quả sẽ an vui tốt đẹp, ý nghĩ lời nói hành động xấu là gieo nhân ác thì gặt quả xấu khổ đau. Khổ hay sướng là do nhân tốt hay xấu chớ đâu do tuổi xấu sao hạn xấu? Đa số người Việt Nam đều ngại ngùng ngày mùng năm, mười bốn, hai mươi ba, đi đường thì không dám đi, làm việc thì không dám khởi công vào những ngày này, vì đó là những ngày xấu. Với những ngày xấu này, nếu quý Phật tử để dành tiền mua sắm phẩm thực vật dụng cần thiết để đem đi giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay già yếu thì ngày đó là ngày tốt hay ngày xấu?-Tốt. Trong những ngày mà đi giúp đỡ xoa dịu cho người bớt cơn nghèo túng đói khổ, không phải ngày tốt là gì? Còn những ngày khác được coi là tốt mà ra đường gặp ai cũng cãi cũng gây rồi đi tới đánh đập kiện cáo. Vậy ngày đó là ngày tốt hay xấu?-Xấu. Tại ngày đó xấu hay tại chửi lộn đánh lộn thành xấu? Tại mình không biết chế ngự thân miệng ý mới có chuyện đánh chửi xảy ra nên xấu. Như vậy, ngày được mọi người cho là tốt mà gieo nhân xấu thì ngày đó cũng trở thành xấu mà biết gieo nhân tốt thì ngày đó cũng trở thành tốt. Lỗi tại ngày giờ hay lỗi tại hành động con người? Nếu lời nói hành động con người gây tai họa hay được an vui, thì rõ ràng con người gieo nhân và cũng chính con người chịu quả, đâu phải ngày giờ sao hạn định tốt xấu cho con người. Đã là Phật tử, có còn sợ và tin ngày giờ, sao hạn tốt xấu nữa không? Nếu còn thì lòng tin nhân quả chưa có. Luật nhân quả "là một lẽ thực cụ thể", vì Phật tử không hiểu chưa tin nên nói mơ màng tưởng tượng ra lý này lẽ nọ để mà tin mà làm. Thế nên có nhiều Phật tử đã quy y mà vẫn tin những cái quàng xiên, mơ hồ không đúng lẽ thật. Ví dụ tromg gia đình hai vợ chồng có những quan điểm bất đồng nên gây cãi nhau, lần đầu không giải quyết ổn thỏa, ít hôm sau lại cãi nữa, và cứ cãi hoài đến năm bảy lần... rồi họ thắc mắc tại sao trong nhà cứ xào xáo hoài, họ cho rằng do cái cửa, cái bếp đặt không đúng hướng, nên đến chùa nhờ thầy giở lịch ra coi, rồi xây lại cái bếp sửa lại cái cửa. Nhưng, xây bếp sửa cửa xong họ lại cãi nữa... Hai người bất đồng ý kiến mà không chịu hóa giải cho đồng, cho có một hướng chung để xây dựng cuộc sống chung cho có hạnh phúc mà lo sửa bếp sửa cửa. Chỉ làm chuyện bên lề không đúng vào đâu. Chẳng hạn có cuộc cãi vã đó là do ông chồng đang có chuyện tình cảm riêng tư, nên người vợ buồn phiền sanh ra rầy rà. Muốn cho gia đình được êm ấm, thì người chồng phải tu chỉnh thói hư tật xấu, để trở thành người chồng tốt, người chồng có đủ tư chất. Còn cái bếp cái cửa vô tri có dính dáng gì với chuyện cãi vã của vợ chồng trong gia đình? Thế mà người ta vì không hiểu nên không thấy cái nhân gây ra cái dở cái xấu, để rồi trốn tránh trách nhiệm và đổ thừa cho ngoại cảnh. Quý vị có tự thấy mình mỗi khi làm điều gì hư dở là nêu lý do này lý do nọ, chứ không dám nhận cái hư dở là tại mình sơ thất và can đảm chịu trách nhiệm. Đó là do tâm hồn yếu đuối, không gan dạ nhìn nhận sự thật. Nếu người Phật tử hiểu được lý nhân quả, biết được mọi sự vật xảy ra giữa mình với người đếu do cái nhân từ trước, mà nhân đó chính mình tạo chớ không phải ngẫu nhiên mà có. Chẳng hạn đi đường gặp người quen vừa thấy mặt mình là họ xoay mặt đi chỗ khác, mình liền bực cho rằng họ khinh mình, bèn nói xa nói gần một hồi sanh ra gây chửi. Chửi rồi, về nhà nói rằng tôi không chọc ghẹo mà nó kênh với tôi nên tôi phải cho nó một bài học. Người nói như vậy là vô lý, vì trong sự tương giao, mình cũng như người chưa từng nói hay làm điều gì mích lòng nhau, vẫn đối xử với nhau tốt đẹp, thì có khi nào gặp nhau là khó chịu xoay mặt làm lơ? Không ai mà bất thường đến thế ! Chắc chắn là mình hoặc vô tình hay cố ý đã làm cho họ xúc não rồi, nên gặp mình là họ tránh né. Đó là do mình đã gây nhân không tốt với họ rồi, chớ đâu phải vô cớ. Quý vị xét kỹ lại xem trong gia đình ngoài xã hội từ vợ chồng con cái cho đến quyến thuộc anh em bằng hữu, nếu có chuyện không ổn xảy ra, đều do nguyên nhân không tốt, hoặc người này hay người kia tạo ra mà người trong cuộc không có gan nhận trách nhiệm tự nơi mình mà đổ thừa lý này lẽ nọ. Vì thế mới có thầy bói khai thác cái nhược điểm đó để ăn tiền. Nếu Phật tử mà tin sâu lý nhân quả thì không tốn tiền coi bói. Ngày xưa tôi có quen một ông thầy bói, ông nói cho tôi nghe cái thuật coi tướng số của ông mà tôi cười quá chừng. Ông nói coi tay đâu cần coi, chỉ nhìn dáng người là đoán đúng tâm lý. Chẳng hạn vợ ông cả ông chủ đến coi mà thấy người héo hon xanh xao, là biết bà đang bệnh gì rồi. Ông liền nói: Bà rất hiền lành, rất phúc hậu, trong nhà bà có người xen vô làm cho gia đình mất hạnh phúc, nên bà buồn rầu sinh bệnh hoạn... Bà khen ông coi rất hay nên trả tiền rất hậu. Còn nếu thanh niên nhờ xem vận mạng đen đỏ trong kỳ thi tới, thì ông nói: Không sao, cháu thế nào cũng đậu, nhớ ráng học, học giỏi thì sẽ thi đậu. Tới chừng thi, nếu đậu thì ông được khen và được thưởng, nếu rớt thì ông nói tại cháu không chịu ham học... Ông nói, bói là đánh vào tâm lý, đánh vào sở thích, nói cho người ta vừa lòng thì dù đúng hay không cũng thù lao tiền trọng hậu. Để thấy người coi bói là họ ve vuốt theo tình cảm, chúng ta thích cái gì thì họ cứ vuốt ngọt cái nấy để chúng ta vừa lòng, đã hài lòng thì dù nói dở cũng thành hay, nói trật cũng thành trúng. Đó là cái thuật mà người chuyên nghiệp họ kể lại cho chúng tôi nghe. Điếu cần thiết của họ là khéo mồm khéo miệng, nhờ khéo lời, nên người coi bói tốn tiền mà không lẩn tiếc, cứ đi coi hoài. Người băn khoăn lo lắng hậu vận của mình là người không tin nhân quả, nếu tin nhân quả thì có gì băn khoăn lo lắng? Muốn mai kia được sung sướng thì ngày nay cứ lo làm lợi ích cho mọi người. Muốn mai kia thi đậu vẻ vang thì ngày nay phải chăm học, học giỏi. Muốn cho mọi người ai thấy mình cũng mừng rỡ thì cứ đối đãi tử tế với mọi người. Mình đã tạo nhân thì quả sẽ đến, chớ không thể bỗng dưng mà có. Như vậy, quý Phật tử có nên đoán vận mệnh nữa không? Giả sử mỗi năm cần đoán hậu vận khoảng năm ba chục lần, thay vì làm việc đó, quý vị nên sắm phẩm thực vật dụng thuốc men cho cô nhi, người già, người bệnh, vì họ đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Châm ngôn Việt Nam có câu: "Tay cầm tiền quý bo bo, đem cho thầy bói mang lo cho mình". Làm ra tiền thì phải lao động tay chân hay trí óc cực nhọc nên quý nó lắm. Nhưng đem tiền đến thầy bói coi vận mạng, nếu họ nói năm này là năm tuổi, nhằm sao la hầu chiếu mạng, hậu vận không tốt... Coi xong về nhà lo rầu, không biết tai nạn gì sẽ đến với mình, rồi bỏ ăn mất ngủ. Đi coi bói chỉ thêm buồn thêm lo thôi, có lợi gì? Người tin nhân quả cứ tạo nhân lành thì quả tốt sẽ đến, còn tạo nhân ác thì dù cho có ai khen tốt khen hay, thì quả xấu vẫn cứ đến. Giả sử đối với một người nào đó mà mình ghét họ, khinh họ, nói xấu họ, chắc chắn là họ không quý mến mình. Ngược lại, đối với họ nếu mình cảm thông, chân tình giúp đỡ, dù không muốn họ quý mến mình, họ vẫn cứ mến. Nhân quả theo nhau không rời, rõ ràng mà nhiều người không tin, cứ tin những chuyện bâng quơ vô căn cứ. Như vậy, người Phật tử hiểu rõ lý nhân quả thì tránh nhân hay sợ quả? Nếu biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt thì quả xấu làm gì có? Người mà biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt là người tỉnh hay người mê? Đó là người tỉnh, người giác, là Bồ Tát con. Bồ Tát thì sáng suốt, biết tránh nhân xấu thì quả khổ không đến nên được an lạc, chúng sanh vì si mê, cứ tạo nhân xấu thì quả xấu cứ đến nên đau khổ. Người tránh nhân xấu thì không băn khoăn về chuyện thương chuyện ghét, không băn khoăn về hậu vận rủi may, cứ trải lòng thương đến mọi người và làm lợi ích cho mọi người, lòng không lẩn tiếc hay toan tính. Chúng ta thường có những bất công mà không tự thấy, không đem nguồn vui đến cho mọi người mà cứ mong mình luôn được vui sướng, điều này khó có thể xảy ra. Ví dụ muốn ráp một chiếc xe đạp toàn hảo vừa chắc chắn vừa đẹp, phải lựa mua những bộ phận cho thật tốt. Cần có đủ năm chục bộ phận mới ráp được chiếc xe vừa bền vừa đẹp, mà chúng ta chỉ có hai chục bộ phận hoặc mười bộ phận là đồ tốt, những bộ phận còn lại là đồ xấu, khi ráp xong chiếc xe, chiếc xe có được vừa ý không? -Không. Để thấy, muốn được chiếc xe hoàn hảo thì phải chọn các bộ phận của chiếc xe cùng hoàn hảo. Cũng vậy, con người ai cũng muốn đời mình hoàn toàn vui, không muốn chút khổ xen lấn, vậy mà khi tạo thì không chọn thuần nhân lành mà cứ để xen lấn những điều xấu, thì làm sao được quả vui hoàn toàn? Chẳng hạn như các ông muốn thân thể được khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, mà lại hút thuốc uống rượu gây cái nhân đau bịnh, thì làm sao được khỏe mạnh sáng suốt. Muốn cho thân khỏe tâm sáng thì phải sống có điều độ có thì giờ nghỉ ngơi tịnh dưỡng thân tâm. Còn các bà các cô ai cũng muốn tươi trẻ, vậy mà cứ buồn giận nhăn nhó quạu quọ hoài, thì làm sao tươi trẻ được. Muốn tươi trẻ thì phải sống lành mạnh vui vẻ, nhờ vui nên mới tươi, mà vui thì không giận. Vậy, nếu có ai lỡ làm phiền thì hoan hỷ bỏ qua, đó là tạo nhân tươi trẻ. Bằng ngược lại, cứ buồn giận, hết phiền người này ghét người kia, mà giận ghét thì lòng đâu có an ổn nhẹ nhàng, ăn không ngon ngủ không được, đó là cái nhân bệnh hoạn làm cho thân mình tiều tụy hốc hác. Nếu biết nhân xấu đưa tới quả xấu thì tránh, đừng muốn một đàng mà làm một nẻo thì không được như ý. Vậy, biết tu một ngày là làm cho mình được an vui một ngày, tu một măm là làm cho mình được an vui một năm và đồng thời cũng gây niềm vui cho mọi người. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy nhân quả giúp chúng ta nhìn đúng lẽ thật, sống an lành, trở thành người gan dạ mạnh mẽ không nhát nhúa yếu đuối. Ví dụ có một Phật tử vì không điều phục được cơn phiền giận nên lỡ đánh chửi người. Khi đánh chửi xong biết mình tạo nhân ác, chắc chắn là quả báo xấu sẽ đến. Nên khi bị người uy hiếp đánh đập lại thì gan dạ chịu chớ không kêu than hay trách cứ ai cả. Ngược lại, có người khi đánh chửi thì hăng hái, đến khi bị uy hiếp thì kêu trời kêu đất than trách đủ điều. Đó là người yếu đuối không thấy được nhân xấu mà mình đã tạo. Vậy muốn được an vui thì phải gan dạ bỏ những cái nhân xấu mà tạo nhân lành. Thường tạo nhân lành thì cái xấu ác sẽ yếu dần và hết hẳn. Hiểu được lý nhân quả thì đối với những sự việc bất tường xảy ra, chúng ta sẽ không trách người mà tự trách mình, do mình trước kia mê muội không tránh nhân xấu ác nên giờ này thọ quả xấu. Sẵn sàng đón nhận một cách gan dạ bình tĩnh. Chúng ta thường thấy trong một gia đình hai ba chị em sống chung, có một người lỡ làm bể một cái tô hay cái dĩa, sợ bị rầy nên phi tang. Đến khi má hay ba hỏi không ai nhận là mình làm bể, thái độ như thế là nhát nhúa không có tinh thần trách nhiệm, lỡ làm thì gan dạ thú nhận lỗi của mình để người khác không bị hàm oan, không bị vạ lây bởi cái dở của mình. Lý nhân quả giúp con người có tinh thần trách nhiệm, sáng suốt, biết lựa chọn nhân tốt để làm nhân xấu để tránh. và lỡ tạo nhân xấu rồi, thì sẵn sàng chấp nhận quả xấu một cách gan dạ không sợ sệt, không lẩn trốn. Vì không hiểu lý nhân quả nên mới nhát nhúa, sợ sệt, không có chánh tín, rồi làm xằng bậy sẽ đi vào con đường tà một cách dễ dàng. Hiện tại có một số Phât tử có cái lệ đầu năm đi chùa hái lộc, hay đi cúng thập tự để cầu cho trọn năm được bình an. Nhưng nếu nửa năm có xảy ra hoạn nạn thì thắc mắc tại sao mình đi cúng thập tự và đã cầu an mà vẫn còn hoạn nạn. Rồi cho rằng chùa cầu nguyện không linh, định năm sau sẽ không đi cúng chùa nữa. Quan niệm như vậy là không chánh đáng. Vì đi cúng chùa cầu xin Phật ban phước lành, đó chỉ là một ảo tưởng. Phật có bao giờ ban phước giáng họa cho ai đâu? Phật chỉ dạy cho ta việc nào để làm cho được an vui, việc nào nên tránh để khỏi bị khổ. Chúng ta nghe lời dạy của Ngài thực hành theo mới hết khổ. Phật không phải là một thần linh để ta tôn thờ lễ lạy và cầu xin phước lộc. Năm rồi có một Phật tử hỏi tôi: -Thưa thầy. có người nói bà Chúa Xứ ở Châu Đốc linh lắm, Đến miếu bà vay tiền về làm ăn sẽ phát đạt. Theo thầy thì quan niệm đó đúng hay sai? Tôi đáp: -Nếu vay tiền ở miếu bà về làm ăn phát tài, thì mọi người ở Châu Đốc đều giàu hết, vì ở đó gần, họ sẽ vay để làm giàu. Nhưng có nhiều gia đình ở chung quanh miếu bà, nhà còn lụp xụp có vẻ nghèo khó, họ dại gì không vô miếu vay mà làm giàu, để quý vị từ phương xa đến vay? Đó là một chuyện vô lý, vậy mà người ta vẫn cứ tin, tin một cách mù quáng. Người Phật tử không thấy được lẽ thật, tin hết chỗ này linh đến chỗ khác linh, đua nhau đi tìm sự linh hiển ở bên ngoài. Không thấy được linh hay không linh là cái nhân tốt hay xấu mà mình đã tạo, tạo nhân tốt thì gặp quả tốt, tạo nhân xấu thì gặp quả xấu. điều đó quá rõ ràng, vì chúng ta chưa định tĩnh nên không thấy đó vậy. Lại có người hỏi: -Thưa thầy, nhiều người đi biển gặp sóng to gió lớn, họ niệm Bồ Tát Quan Thế Âm, thấy Bồ Tát đến cứu họ được thoát nạn, họ cho rằng Bồ Tát linh thiêng. Theo thầy thì sự kiện đó như thế nào? Tôi đáp: Đã là Phật tử đi sông đi biển gặp sóng gió thì không ai tiếc hơi mà không niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhưng tại sao có người được cứu, vẫn có người bị chết chìm? Có phải Bồ Tát Quán Thế Âm thương người này mà không thương người kia không? Vì không hiểu lý nhân quả nên cho rằng người không bị nạn là nhờ niệm Bồ Tát. Bồ Tát linh giải cứu cho thoát nạn. Còn người bị nạn niệm Bồ Tát, mà Bồ Tát không linh nên không cứu. Tại sao đồng niệm Bồ Tát mà người niệm linh, người niệm không linh, làm sao cho rõ lẽ này? Người niệm danh hiệu Bồ Tát mà được thoát là vì chính người đó có nhiều nhân lành nhiều phước đức. Nên khi tâm khởi tưởng Phật, tưởng Bồ Tát thì thấy Phật và Bồ Tát hiện. Vì chủng nghiệp lành đã huân chứa sẵn đủ duyên liền khởi hiện hành (thấy Phật thấy Bồ Tát), Và vì do tích chứa nhiều nghiệp lành thì làm sao thọ quả khổ được? Còn người niệm danh hiệu Bồ Tát mà vẫn bị nạn, chính vì người đó thiếu phước không có tích lũy nghiệp lành (chủng tử Phật, Bồ Tát không có sẵn). Tuy có khởi niệm mà Phật và Bồ Tát vẫn không hiện. Và vì nhân ác đã có sẵn nên chiêu quả không lành. Để thấy, sự kiện trên cũng do nhân lành hay dữ mà chúng ta tạo, không phải do từ Phật hay Bồ Tát linh thiêng đến giúp. Thế nên người Phật tử tu hành đầu tiên là phải hiểu lý nhân quả, biết nhân nào nên làm nhân nào nên tránh, đó là chúng ta tiến vào con đường giác, mà người sống có tỉnh có giác thì hết khổ được vui, rõ ràng không nghi ngờ. Hằng ngày trong công việc làm ăn tuy có bận rộn giao tế nhiều với mọi người, nhưng nếu chúng ta biết tránh nhân dữ, chọn nhân lành, thì từ ý nghĩ, lời nói, việc làm lúc nào cũng lương thiện, vừa lợi mình vừa lợi người, đó là chúng ta đã tu. Chúng ta phải thường xuyên tu, tu từng phút, từng giờ, tu cả ngày... chớ đâu phải đợi tới giờ tụng kinh lạy Phật mới tu, ngoài giờ đó nếu có ai đụng chạm đến là ăn thua đủ, tu như vậy là không hiền. Lạy Phật thì lạy, tụng kinh thì tụng, chửi lộn vẫn cứ chửi, đánh lộn cũng dám đánh. Thế nên tu mà không hết khổ lỗi tại chỗ đó. Vì tu mà chỉ biết tu với Phật không chịu tu với chúng sanh, cũng không chịu tu với chính mình nữa. Phật đâu có cần chúng ta tu với Ngài, vậy mà cứ nghiêm trang lễ bái Phật, còn ra ngoài đời với mọi người thì không nhịn một lời, không nhường một bước, ăn thua đủ. Đối với Phật dù quý vị có khen hay chê, Ngài cũng không vui không buồn, cũng không nói một lời, Ngài cũng không cần chúng ta tu với Ngài. Còn chúng sanh thì dễ buồn giận, nên chúng ta mới tu với họ thì mình bớt khổ mà họ cũng bớt khổ. Biết tu với nhau là đem lại hạnh phúc cho nhau, đem sự bình an lại cho nhau. Phật dạy chúng ta tu là tu với mọi loài, chớ đâu có bảo tu với Ngài. Vậy mà đa số người chỉ biết tu với Phật, ngày ngày lễ bái Phật, dâng hương dâng hoa cúng Phật... Thậm chí có nhiều người nói hôm nay là ngày tôi ăn chay nên tôi tu, đợi ăn chay mới tu. Vậy những ngày ăn mặn không tu sao? Một tháng ăn chay có bốn ngày hoặc sáu ngày nên chỉ tu có bốn ngày hoặc sáu ngày, còn lại hai mươi bốn ngày hoặc hai mươi sáu ngày cứ tự do làm ác với mọi người sao? Nếu đợi đến trước tượng Phật mới tu, đợi tụng kinh mới tu, đợi ăn chay mới tu, tu như thế thì quá hạn chế. Tu là phải thường xuyên nhìn thấy từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ của mình, nếu tốt thì cho ra, xấu thì dừng lại, đó mới thật là tu. Tu như vậy mới đúng với tinh thần "Bồ Tát Sợ Nhân" và dù không muốn làm Bồ Tát thì quý vị cũng là Bồ Tát. Vì đã thực hành cái hạnh Bồ Tát ắt hẳn phải là Bồ Tát. Bồ Tát là giác, biết được nhân xấu không làm, nhân tốt thì làm đó là tỉnh giác, mà người hằng tỉnh hằng giác không phải là Bồ Tát là gì? Các Phật tử ở đây đều thuộc câu "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả". Vậy ai cũng biết cũng biết việc nào nên làm việc nào nên tránh rồi. Tôi mong rằng quý vị cố gắng tu hành để tương lai sẽ thành Bồ Tát, tập sống với quan niệm Bồ Tát, hành động theo Bồ Tát thì mai kia chúng ta sẽ là Bồ Tát. Còn nếu cứ sống theo quan niệm và hành động của phàm phu thì suốt kiếp chúng ta vẫn là phàm phu. Vậy, phàm phu và Bồ Tát không xa, chỉ có mê hay giác mà thôi. Nếu giác là Bồ Tát và được an vui, nếu mê là phàm phu và bị đau khổ (còn nữa)
    1 like