• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 24/09/2011 in Bài viết

  1. Quyền bắt buộc các hộ dân phải treo đèn lồng đỏ có được ghi nhận trong hiến pháp và pháp luật không? Nếu có thì quyền này có thể bắt những người dân phải viết bảng hiệu bằng tiếng Trung Quốc không vậy? Nếu không thì vấn đề là ai ký lệnh này? Về quan niệm của tôi thì hình ảnh chiếc đèn lồng đỏ và màu đỏ là của phương Nam - theo thuyết Âm Dương Ngũ hành - nguồn gốc của nó thuộc về văn hiến Việt mà văn hóa Hán tiếp thu được. Nhưng trải hơn 2000 năm phát triển độc lập, sự tiếp thu nguồn gốc ban đầu ấy đã phát triển thành những giá trị văn hóa riêng của từng dân tộc. Việc treo đèn mang dấu ấn Việt chính là cái đèn xếp của Rằm Tháng Tám. Tại sao không có những lệnh ký treo đèn xếp để góp phần vực dạy một nghề truyền thống góp phần nhỏ vào kinh tế nước nhà và tạo việc làm, mà lại ký mua đèn lồng Tàu nhỉ?
    2 likes
  2. Suất ăn cho bệnh nhân Ung Bướu. Chiều ngày 17/8 Wild cùng chị em đến Khoa Nội E bệnh viện Ung bướu để trao 330 phiếu quà tặng trong đó có 1 phần ăn gồm 1 ổ bánh Mì + 2 viên Xíu mại + 1 lon nước uống V Fresh trị giá 11,000 đ (mười một ngàn đồng) 14g30 ngày 8/8/2011 Chúng tôi gồm có 10 thành viên thường xuyên tham gia từ thiện đã tập trung ở ngã ba Nguyễn Huy Lượng & Nơ Trang Long xéo cổng BV Ung Bướu để phân những phần quà đến những bệnh nhân mà chúng tôi đến tận khoa phòng phát phiếu trước đó 1 ngày. Dự kiến kết hợp dịp này chúng tôi trao tặng họ (những người đang đối mặt với căn bệnh quái ác) thần chú Kalachakra với ước muốn phần nào giúp họ vượt qua bệnh tật và hóa giải nghiệp chướng. Mặc dù phiếu nhận quà là 15g30 nhưng chúng tôi đến đã có họ ở đó với tấm phiếu trên tay... Dù chưa đến giờ nhưng họ vẫn chờ đợi... Còn nhiều hình ảnh nữa nhưng máy Wild download chậm quá, hẹn sẽ post tiếp vào ngày mai!
    1 like
  3. Thiên Lang và anh chị em thân mến. Sự việc có thể đi quá đà, nếu chúng ta tiếp tục bình luận về các vấn đề liên quan. Cái mà chúng ta cho là đúng thì người khác có thể cho là sai. Cũng như việc tôi đổi chỗ Tốn Khôn và phối Hà Đồ minh chứng văn hiến Việt chính là cội nguồn của Lý học Đông phương, rất nhiều người cũng nhao nhao phản đối. Nhưng chân lý thì chỉ có một mà thôi và nó không phụ thuộc vào số đông hoặc quyền lực. Cá nhân tôi không có quyền buộc người khác phải theo ý mình. Trang lyhocdongphuong.org.vn là nơi duy nhất minh chứng cho văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử - trước cả một cơn Đại Hồng Thủy phủ nhận văn hiến Việt trên thế giới. Những kẻ phủ nhận văn hiến Việt đã công khai xác định quan điểm của họ được "hầu hết những nhà khoa học trong nước " và "cộng đồng khoa học thế giới " công nhận. Bởi vậy, để bào vệ công cụ này trước những sự cố không đáng có - tôi đề nghị với tư cách cá nhân: Chúng ta nên hạn chế bình luận những sự kiện tương tự. Hoặc chúng ta chỉ bình luận trong giới hạn của tri thức Lý học. Tôi luôn ủng hộ những người yêu nước và tôn trọng những bậc tiền nhân đã hy sinh vì dân tộc Việt. PS: Có lẽ tôi cần phải nói thêm rằng: Mọi chuyện trên thế gian đều có giới hạn của nó và câu này tạm thời giành cho riêng tôi, một cách rất chủ quan. Mặc dù có thể nó là chân lý khách quan.
    1 like
  4. TP Lào Cai: Cưỡng bức dân treo cao đèn lồng đỏ? Nhân dịp 20 năm tái lập tỉnh Lào Cai, TP Lào Cai khởi động chương trình "đèn lồng đỏ treo cao" tại hàng loạt tuyến phố... Nhân dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh Lào Cai (1/10/1991 - 1/10/2011), thành phố Lào Cai đã bắt đầu khởi động chương trình chỉnh trang đô thị, trong đó có việc thắp đèn lồng tại các công sở và nhà dân trên một số tuyến phố. Năm phường nội thị là Cốc Lếu, Lào Cai, Phố Mới, Kim Tân, Duyên Hải được chọn làm điểm, mỗi phường có ít nhất 1 tuyến phố thắp đèn lồng từ dịp Quốc khánh 2/9/2011. Tại phường Kim Tân, phố Trần Nhật Duật (từ quảng trường cũ tới đầu đường Trần Hưng Đạo), từ dịp Quốc khánh trở lại đây, vào mỗi tối, người dân lại đồng loạt thắp đèn lồng đỏ trước hiên nhà đã gây sự tò mò của nhiều người. Đèn lồng trên phố Trần Nhật Duật (phường Kim Tân). Ngoài đèn lồng, đèn trang trí cũng được thắp trên các rặng cây cảnh quan tại khu vực quảng trường cũ và một số công sở, khiến cảnh quan về đêm thêm lộng lẫy. Tại phường Lào Cai, trên phố Nguyễn Huệ từ đầu cầu Cốc Lếu qua khu vực Cửa khẩu Quốc tế đến Đền Thượng, các công sở đồng loạt treo đèn nháy trên cây phía trước trụ sở. Hơn 10 hộ dân giáp chùa Tân Bảo cũng đã thắp đèn lồng đỏ từ dịp Quốc khánh 2/9. Đèn treo trên phố Hoàng Liên (khu vực phường Cốc Lếu) có kích cỡ quá nhỏ Theo bà Lưu Thị Nụ, Chủ tịch UBND phường Kim Tân thì từ tối 25/9, tuyến phố Trần Nhật Duật (đoạn từ đầu đường Trần Hưng Đạo đến đường Quy Hoá), các hộ dân sẽ đồng loạt thắp đèn lồng. Bà Nụ cho biết, việc thắp đèn trang trí trên 3 tuyến phố chính thuộc địa bàn phường là việc nên làm trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh để nâng cao mỹ quan đô thị, làm đẹp thêm hình ảnh thành phố biên cương trong mắt người dân và du khách. Không được người dân đồng thuận Vừa qua, thành phố Lào Cai đã có công văn triển khai tới các phường, từ đó các tổ dân phố, chi bộ tổ chức họp lấy ý kiến nhân dân về việc treo đèn lồng. Tuy vậy, chương trình treo đèn lồng đã không hoàn toàn nhận được sự đồng thuận của người dân. Dù sao, thành phố Lào Cai vẫn quyết tâm để chủ trương này được triển khai trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh và từ 25/9/2011 sẽ triển khai đồng loạt trên những tuyến phố chính. Anh Phạm Đình Sơn, tổ 14 phường Kim Tân nói: "Treo đèn lồng trông không phù hợp. Chiếc đèn lồng này có giá gần 200.000 đồng. Ông Trần Ngọc Dân, tổ trưởng tổ 14, phường Kim Tân khẳng định: "Hầu hết các hộ dân trong tổ không đồng tình với chủ trương treo đèn lồng.Tổ 14 có 65 hộ dân nằm dọc tuyến đường Lý Công Uẩn. Trong buổi họp tổ (16/9/2011) để lấy ý kiến nhân dân về thực hiện chủ trương của thành phố treo đèn lồng nhân kỷ niệm 20 năm ngày tái lập tỉnh Lào Cai thì hầu hết các hộ dân không đồng tình vì cho rằng treo đèn lồng là không phù với văn hóa người Việt Nam cũng như cảnh quan, không gian, kiến trúc ở tổ dân phố nên dễ gây phản cảm. Với trách nhiệm, tổ cũng chỉ tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia, đối với cán bộ, đảng viên thì phải gương mẫu thực hiện chủ trương của thành phố". Theo chị Huệ, số nhà 411, đường Nguyễn Huệ, phường Phố Mới: Tổ dân phố bắt buộc các hộ dân trên địa bàn mua đèn lồng Thông báo về chủ trương treo đèn lồng tại các hộ dân "Tổ dân phố không tổ chức họp dân lấy ý kiến về chủ trương treo đèn lồng mà chỉ gửi giấy thông báo và cho người mang đèn lồng đến yêu cầu các hộ dân phải mua để treo, nên người dân bất bình. Nếu ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn thì treo cờ Tổ quốc là phù hợp nhất, chứ nhà cửa như thế này treo đèn lồng sẽ gây phản cảm và lãng phí. Mỗi vỏ chiếc đèn lồng có giá 125 nghìn đồng, nhưng để treo và thắp sáng được, mỗi chiếc phải đầu tư thêm gần 100 nghìn đồng để mua bóng điện, dây, phích cắm, mà không phải gia đình nào cũng có điều kiện cả". Chúng tôi sẽ tiếp tục đăng tải các thông tin tiếp theo về việc này. Theo B.T GDVN Lào Cai: Dừng ngay việc treo đèn lồng trên các tuyến phố (Dân trí) - Tiếp thu ý kiến của nhân dân và một số cơ quan báo chí, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai vừa có văn bản đề nghị UBND thành phố Lào Cai chỉ đạo dừng ngay việc treo đèn lồng trên các tuyến phố. Việc treo đèn lồng không được lòng dư luận. Lý do đưa ra là việc treo đèn lồng như của Trung Quốc là không phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bởi thành phố tỉnh lỵ Lào Cai nằm ở sát biên giới Việt - Trung, có rất nhiều du khách trong và ngoài nước thường xuyên tới tham quan, du lịch. Mới đây, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai đã có công văn số 608/SVHTTDL-NVVH gửi UBND thành phố về việc phối hợp triển khai thực hiện chỉnh trang đô thị trên địa bàn nhân kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh và đề nghị UBND thành phố chỉ đạo nhân dân không trang trí, treo đèn lồng Trung Quốc trên các tuyến phố. Thanh tra Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai đã kiểm tra thực tế một số tuyến phố treo đèn lồng và nhận thấy đèn đều có chữ Trung Quốc; không đề cao được bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Phạm Ngọc Triển http://dantri.com.vn...c-tuyen-pho.htm
    1 like
  5. TP Lào Cai bắt dân treo đèn lồng: Nô dịch văn hóa hay để làm vui lòng quan khách TQ *** TP Lào Cai: Một số tuyến phố khởi động việc thắp đèn lồng Nhân dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh Lào Cai (1/10/1991 – 1/10/2011), thành phố Lào Cai đã bắt đầu khởi động chương trình chỉnh trang đô thị, trong đó có việc thắp đèn lồng tại các công sở và nhà dân trên một số tuyến phố. Đèn lồng trên phố Trần Nhật Duật (phường Kim Tân). Năm phường nội thị là Cốc Lếu, Lào Cai, Phố Mới, Kim Tân, Duyên Hải được chọn làm điểm, mỗi phường có ít nhất 1 tuyến phố thắp đèn lồng từ dịp Quốc khánh 2/9/2011. Tại phường Kim Tân, phố Trần Nhật Duật (từ quảng trường cũ tới đầu đường Trần Hưng Đạo), từ dịp Quốc khánh trở lại đây, vào mỗi tối, người dân lại đồng loạt thắp đèn lồng đỏ trước hiên nhà đã gây sự tò mò của nhiều người. Ngoài đèn lồng, đèn trang trí cũng được thắp trên các rặng cây cảnh quan tại khu vực quảng trường cũ và một số công sở, khiến cảnh quan về đêm thêm lộng lẫy. Tại phường Lào Cai, trên phố Nguyễn Huệ từ đầu cầu Cốc Lếu qua khu vực Cửa khẩu Quốc tế đến Đền Thượng, các công sở đồng loạt treo đèn nháy trên cây cảnh quan phía trước trụ sở. Hơn 10 hộ dân giáp chùa Tân Bảo cũng đã thắp đèn lồng đỏ từ dịp Quốc khánh 2/9. Đèn treo trên phố Hoàng Liên (khu vực phường Cốc Lếu) có kích cỡ quá nhỏ. Theo bà Lưu Thị Nụ, Chủ tịch UBND phường Kim Tân thì từ tối 25/9, tuyến phố Trần Nhật Duật (đoạn từ đầu đường Trần Hưng Đạo đến đường Quy Hoá), các hộ dân sẽ đồng loạt thắp đèn lồng. Bà Nụ cho biết, việc thắp đèn trang trí trên 3 tuyến phố chính thuộc địa bàn phường là việc nên làm trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh để nâng cao mỹ quan đô thị, làm đẹp thêm hình ảnh thành phố biên cương trong mắt người dân và du khách. Vừa qua, thành phố Lào Cai đã có công văn triển khai tới các phường, từ đó các tổ dân phố, chi bộ tổ chức họp lấy ý kiến nhân dân về việc treo đèn lồng. Tuy vậy, chương trình treo đèn lồng đã không hoàn toàn nhận được sự đồng thuận của người dân. Chiếc đèn lồng này có giá gần 200.000 đồng. Dù sao, thành phố Lào Cai vẫn quyết tâm để chủ trương này được triển khai trong dịp kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh và từ 25/9/2011 sẽ triển khai đồng loạt trên những tuyến phố chính. * Anh Phạm Đình Sơn, tổ 14 phường Kim Tân: Treo đèn lồng là không phù với kiến trúc và văn hóa Việt Nam Là hộ tham gia hoạt động kinh doanh dịch vụ giải trí trên địa bàn nên gia đình rất ủng hộ chủ trương làm đẹp của thành phố. Tuy nhiên, tôi không đồng tình với chủ trương đưa đèn lồng vào treo ở một số tuyến đường trên địa bàn, bởi treo đèn lồng không phù hợp với điều kiện kiến trúc của thành phố, phong tục, tập quán, văn hóa của người Việt. Đơn cử, trên tuyến đường Trần Nhật Duật, hầu hều các hộ dân đã treo đèn lồng, nhưng nhiều gia đình do xây dựng không có sự thống nhất về thiết kế (nhà thò ra, nhà thụt vào, nhà cao, nhà thấp…), nên treo đèn lồng trông không phù hợp. Hơn nữa, nhiều nhà không thiết kế hệ thống điện, nên chỉ treo làm vì, trong khi đó đèn lồng phải được thắp sáng mới đẹp. Cũng với giá thành ấy, nên chăng thành phố tiến hành làm một biểu tượng hoặc hình thức khác phù hợp hơn… * Ông Trần Ngọc Dân, tổ trưởng tổ 14, phường Kim Tân: Hầu hết các hộ dân trong tổ không đồng tình với chủ trương treo đèn lồng Tổ 14 có 65 hộ dân nằm dọc tuyến đường Lý Công Uẩn. Trong buổi họp tổ (16/9/2011) để lấy ý kiến nhân dân về thực hiện chủ trương của thành phố treo đèn lồng nhân kỷ niệm 20 năm ngày tái lập tỉnh Lào Cai thì hầu hết các hộ dân không đồng tình vì cho rằng treo đèn lồng là không phù với văn hóa người Việt Nam cũng như cảnh quan, không gian, kiến trúc ở tổ dân phố nên dễ gây phản cảm. Với trách nhiệm, tổ cũng chỉ phố tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia, đối với cán bộ, đảng viên thì phải gương mẫu thực hiện chủ trương của thành phố. * Chị Huệ, số nhà 411, đường Nguyễn Huệ, phường Phố Mới: Tổ dân phố bắt buộc các hộ dân trên địa bàn mua đèn lồng Tổ dân phố không tổ chức họp dân lấy ý kiến về chủ trương treo đèn lồng mà chỉ gửi giấy thông báo và cho người mang đèn lồng đến yêu cầu các hộ dân phải mua để treo, nên người dân bất bình. Nếu ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn thì treo cờ Tổ quốc là phù hợp nhất, chứ nhà cửa như thế này treo đèn lồng sẽ gây phản cảm và lãng phí. Mỗi vỏ chiếc đèn lồng có giá 125 nghìn đồng, nhưng để treo và thắp sáng được, mỗi chiếc phải đầu tư thêm gần 100 nghìn đồng để mua bóng điện, dây, phích cắm, mà không phải gia đình nào cũng có điều kiện cả. Thông báo về chủ trương treo đèn lồng tại các hộ dân. * Ông Hà Văn Hòa, Tổ trưởng tổ 23, phường Phố Mới: Đây là chủ trương của thành phố, người dân phải chấp hành Cho dù một số hộ không đồng ý, nhưng đây là chủ trương của thành phố nên bắt buộc các hộ dân trong tổ dân phố phải nghiêm túc chấp hành. Do điều kiện về thời gian nên thay vì phải tổ chức họp dân, tổ dân phố đã gửi thông báo xuống các hộ dân về việc treo đèn lồng, đồng thời hướng dẫn người dân cách thức, quy cách treo đèn. Đến nay, tổ đã phát đèn cho 60/65 hộ dân trong tổ để sẵn sàng treo đồng loạt vào tối ngày 29/9. Nhóm PV Thời sự http://www.hennhausaigon2015.com
    1 like
  6. BÍ ẨN VỀ KHÍ CHẤT CỦA NGƯỜI THEO BÁT QUÁI I. – Phân loại khí chất con người bát quái Chu dịch và ý nghĩa lâm sàng. Bát quái Chu dịch tượng trưng 8 loại thuộc tính vật chất, tức quẻ Càn là trời, tính mạng; quẻ Khôn là đất, tính nhu; quẻ Chấn là sấm, tính cứng; quẻ Tốn là gió, tính thuận; quẻ Khảm là nước, tính nhu; quẻ Ly là lửa, tính nóng; quẻ Cấn là núi, sâu đậm; quẻ Đoài là đầm, tính thuận, tuy là Bát quái thực ra là 5 thuộc tính ngũ hành kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Trong đó, quẻ Ly thuộc tính hoả, vì Ly là mặt trời, vì Khảm Đoài đều là thuỷ, tính nhu; Chấn là sấm, Tốn là gió đều thuộc mộc; Khôn là đất, Cấn là núi đều thuộc thổ; quẻ Càn là trời, thuộc Kim. Vì vậy người Bát quái có thể tổng quát là năm loại người, cụ thể phân tích như sau: 1. người quẻ Ly và ý nghĩa lâm sàng của nó a. Khí chất quẻ Ly là mặt trời, khí hoả, Chu dịch - Thuyết quái viết: “ Ly là hoả, là mặt trời”. Dịch- Ly quái- thoán viết: “ Ly là sáng, mặt trăng, mặt trời chiếu sáng bầu trời, Khảm là mặt trăng”. Dịch – Ly quái - tượng cũng viết: “ Đại nhân tiếp tục chiếu sáng bốn phương”. ý nói mặt trời ở trên đỉnh cao soi chiếu muôn nơi, cho nên người giữ quẻ Ly có được quang nhiệt của dương khí trời , tất tính dương thịnh vượng khí hoả sung túc. Tính hoả bốc lên, tính hoả vượt ra ngoài, vì vậy khí chất người thuộc quẻ Ly hướng ngoại cao độ. Người mặt đỏ, nhiệt tình, kích động, hăng hái, đi như bay, việc làm mang tính bạo phát, tư duy nhanh như chớp, có tố chất của nhà phát minh, ánh mắt sắc bén, cho nên Dịch- Thuyết quái viết: “ Ly là mắt”, chịu lạnh mà ghét nóng, đúng là : “ ngọn lửa trong mùa đông”. Nhưng người này dễ tự cao huênh hoang, kiêu ngạo, hiếu chiến, dã tâm… b. Hình dáng dạng người này đầu nhỏ ( nhọn) mặt đỏ, thân hình vạm vỡ, mạnh khoẻ, mạch phần lớn biểu hiện sác hoặc hồng đại. Mắt không to, nhìn như sao băng. c. Bệnh tật Người thuộc loại Ly hoả, khí hoả nhiều, khí hoả thông ở tâm, tâm là tạng hoả, tâm là chủ huyết mạch, cho nên dạng người này dễ mắc bệnh huyết quản, bệnh động mạch vành, bệnh xơ cứng động mạch. Vì hoả động sinh ra phong, tổn đến huyết, dạng người này còn dễ mắc bệnh trúng phong, xuất huyết não. Dạng người này khí dương thịnh vượng, dương vượng thì nóng dễ sinh ra các bệnh về nhiệt, nhiệt đốt khô âm dịch vì vậy dễ có mối nguy hiểm dương cang âm hư. về mặt bệnh tinh thần dễ phát sinh chứng điên cuồng. d. Tuổi thọ Dạng người này khí dương thiên thịnh, khí dương hao tán quá lớn, lửa đốt khô âm dịch, cho nên tuổi thọ ngắn, dễ mắc bệnh cấp tính và chết đột ngột. Dịch – Ly quái - Tượng viết: “Đột nhiên xuất hiện, cũng như bỗng nhiên thiêu đốt, cũng như bỗng nhiên mất đi”. 2.Người quẻ Khảm và ý nghĩa lâm sàng của nó a.Khí chất Người quẻ Khảm là thuỷ, nẵm giữ khí thuỷ của trời, tính rất ấm nhu. Dịch- Thuyết quái viết: “ Khảm là thuỷ”. “ Dịch- Thuyết quái” viết: “ Khảm là chỗ hiểm vậy”, tức là một hào dương nằm giữa hai hào âm, hay nói khác đi, khảm là nước, tính nước trầm xuống, vì vậy người quẻ Khảm hướng nội cao độ. dịch- Khảm quái- Thoán: “ Tập khảm có nghĩa là trùng Khảm, hai lần Khảm”. Dịch- Khảm quái- Tượng viết: “ Hào 1 âm, hai lần hiểm sụp vào hố sâu, xấu”, biểu thị quẻ Khảm âm lặp lại mà gặp hiểm, vì vậy quẻ Khảm âm nhiều mà trầm tĩnh, thành phủ rất sâu, người quẻ Khảm trầm tĩnh, giỏi mưu chước, tâm kế, có tố chất của nhà tham mưu. Người thuộc loại này tính cách thuỷ khí tưong đối nặng tính nước( thuỷ) ẩn kín, vì vậy chất người quẻ Khảm âm nhiều mà không biểu lộ, bề ngoài tĩnh lặng như hộ nước. Dịch- Thuyết quái viết: “ Khảm là tai”, vì vậy tai người quẻ Khảm đặc biệt nhạy cảm, giỏi phân biệt âm thanh. Dạng người này cũng có thể có những tính cách xấu như: suy sút (ý chí), hậm hực, lạnh nhạt, tê liệt về tình cảm, âm hiểm. Dịch- Khảm quái- Tượng còn viết: “ Nước chảy mà không đầy, đi đến chỗ hiểm mà không mất điều tin, duy trì ý chí, cứng rắn, hành vi cao thượng, luôn có công”, hàm ý rất sâu sắc, cho rằng người quẻ Khảm như nước chảy long đong, thậm chí có khả năng từng trải nơi hiểm trở, vì vậy vô cùng giữ chữ tín, và giàu cương nghị ở bên trong. Tóm lại người quẻ Khảm cho dù không thuận lợi, nhưng trăm nghìn trắc trở cũng không sờn lòng kiên trì mãi cuối cùng sẽ thành công. “ dịch- Khảm quái- Tượng viết: “ Người quân tử nên theo cái đức chảy hoài không ngừng của nước mà giữ bền đức hạnh và tu tĩnh không ngày nào quên”. Người quẻ Khảm như nước chảy hoài không ngớt lại như nước suối lặng lẽ chảy mãi nuôi dưỡng vạn vật, âm thầm dâng hiến. b.Hình dáng Dạng người này mặt đen, người gày, hình dáng trung bình, mạch trầm, mắt sâu, tai lớn. c.Bệnh tật Người quẻ Khảm thuộc thuỷ, thuỷ tính lạnh, khí lạnh thông ở thận, vì vậy dễ mắc các bệnh liên quan đến thận, như: phù, thũng, đau lưng, hôn mê, không mang thai, ngũ canh tả ( tiêu chảy vào lúc sáng sớm). Tính lạnh ngưng trệ, kinh lạc tắc nghẽn, hơn nữa thuỷ tính lạnh, đông lại làm thương tổn khí dưong, vì vậy dương khí không đủ, âm khí thiên thịnh dễ gây bệnh thận dương hư suy, mệnh hoả không đủ. Về mặt bệnh tâm thần dễ mắc bệnh trầm uất. d.Tuổi thọ Dạng người ngày thọ lâu. Do âm nhiều khí dương hao tổn ít. 3. Ngưòi quẻ Khôn và ý nghĩa lâm sàng của nó a.Khí chất Quẻ Khôn tượng trưng địa, tính âm mà chất thuận. Như Dịch- Thuyết quái: “ Khôn là đất, là mẹ”. Dịch- Khôn quái- Thoán: “ Nhu thuận lợi chính”. Dịch- Thuyết quái: “ Khôn là thuận vậy”, có ý nói chất quẻ Khôn dày nhu thuận; Dịch- Khôn quái- Thoán: “ Ngưòi quân tử lấy đức dày che chở vạn vật”. “ Dịch- Thuyết quái” viết: “ Quẻ Khôn cất giữ” trình bày quẻ Khôn cất giữ không lộ ra ngoài, vì vậy người quẻ Khôn trên cơ bản thiên về hướng nội. “ Dịch- Khôn quái- thoán” viết: “ Quân tử lấy đức dày của khôn để chở vật”, vì vậy ngưòi quẻ Khôn khoan dung độ lượng, cần mẫn chăm chỉ, ung dung khiêm tốn, có tố chất của người thực nghiệp. Bên cạnh đó, Khôn thuộc thổ, thổ tính thấp, thấp tính dính trệ, nặng đục. cho nên khí huyết người quẻ Khôn vận hành chậm, khí chất ổn định như núi, nhưng dạng người này phản ứng chậm, lời nói việc làm chậm chạp, ít nhạy cảm với sự việc mới, dễ có hiện tượng an nhiên tự tại, không tranh giành. b.Hình dáng Chất người quẻ Khôn mặt vàng đầu to, người thấp chắc nịch, mạch hoãn, môi dày mũi to. c.Bệnh tật Quẻ Khôn thuộc thổ, thuộc âm, thấp, khí thấp thông ở tỳ, cho nên dạng người này thường mắc bệnh về Tỳ, như đau bụng, thổ tả, phù thũng…do tính thấp trọng trọc, dính ứ cho nên dạng người này khí huyết vận hành chậm nên dễ tích thấp sinh đàm, hay có những bệnh như đàm ẩm, tích tụ, phù thũng… và dễ mắc bệnh sa nội tạng. d.Tuổi thọ Dạng người này khí huyết vận hành chậm, khí cơ thể thiên về âm, ít bệnh cấp tính nên trường thọ. 4.Người quẻ Càn và ý nghĩa lâm sàng của nó A.Khí chất Quẻ Càn tượng trưng cho trời, thuộc khí Kim, cho nên tính mạnh mẽ, cứng rắn. Dịch- Thuyết quái viết: “ Càn là trời, là ngọc, là kim”, “ Càn là mạnh vậy”. Dịch - Thuyết quái còn viết: “ Càn là trời”, Dịch- Càn quái- Thoán viết: “Đức của trời lớn vậy thay, vạn vật bắt đầu này nở, thống lĩnh thiên hạ”. cho nên người quẻ Càn tính tình rộng rãi, nhìn xa trông rộng, biết tự kiềm chế, biết tổ chức, có tố chất của ngưòi lãnh đạo. Dịch- Thuyết quái viết: “ Càn là vua”, “ càn là cha”. Dịch- Thuyết quái còn viết: “ Càn là đầu”. Vì vậy mẫu người này phần lớn thông minh, có phong độ làm tưóng, lòng dạ rộng rãi bao la. Tính chất của dạng người này thường mạnh mẽ, không ngừng vươn lên. Dịch- Càn quái- Tượng viết: “ Trời vận hành mạnh, người quân tử không ngừng vươn lên”. Nhưng dạng người này giả dối háo danh, lòng tự ái quá mạnh, thậm chí có tư tưởng chỉ mình là nhất. b.Hình dáng Ngưòi quẻ Càn trán rộng, mặt vuông và trắng, xưong to cứng, dáng người vừa, mạch đại hữu lực. c.Bệnh tật Ngưòi quẻ Càn giữ khí kim táo, khí dưong thiên thịnh, khí kim nhiều, khí dương chủ nhiệt, khí kim táo, khí táo thông ở phế, cho nên dạng ngưòi này dẽ mắc các chứng bệnh có liên quan với phế, đặc biệt là các bệnh về nhiệt táo như ho, viêm phế quản mãn tính, bón, tiêu khát, táo dễ đốt khô chất dịch, cho nên thường có bệnh âm tân bất túc. d.Tuổi thọ Người qủe Càn nói chung là trường thọ, nhưng do khí dương táo làm thưong tổn âm dịch, vì vậy tuổi thọ chỉ thuộc loại trung bình. 5.người quẻ Tốn va ý nghĩa lâm sàng cua nó a.Khí chất Quẻ Tốn tượng trưng cho gió, nắm giữ khí phong cua trời, Dịch- Thuyết quái viết: “ Quẻ Tốn là mộc, là gió”, tính phong thuộc dương chủ động, Dịch- Thuyết quái viết: “ Gió làm vật toả ra”, cho nên loại người này thiên về tính dương. Quẻ Tốn thuộc mộc, khí phong làm tản đi, tính mộc điều đạt, gió lại chủ động, nên loại người này hiếu động, tính gấp, nhanh nhẹn được việc, tư duy minh mẫn, giỏi về ngoại vụ, có tố chất của nhà ngoại giao. Người quẻ Tốn đến đi vội vàng giống như cơn gió, nhưng tính phong nhiều biến đổi, vì vậy người quẻ Tốn phần đông không ổn định, khi thì giống như cuồng phong, khi thì giống như gió thoảng, lúc thì nhu thuận, lúc thì mạnh mẽ. Dịch- Tốn quái- Thoán viết: “ Nhu điều thuận”. Quẻ Tốn cứng mạnh ở bên trong rất ý chí. Ngoài ra, người quẻ Tốn đa nghi, đố kỵ, lòng dạ hẹp hòi. b.Hình dáng Dạng người này mặt xanh, người gầy, thân hơi cao, hoặc xinh xắn, mạch huyền. c.Bệnh tật Người quẻ Tốn nhiều khí phong, khí phong thông ở Can, cho nên dạng người này có khuynh hướng mắc bệnh liên quan về gan, tính phong thích động, dễ mắc các bệnh như cao huyết áp, trúng phong các bệnh về dị ứng...Tính phong nhiều thay đổi vì vậy dạng người này hệ thống thần kinh phần nhiều không ổn định, dễ mắc các chứng bệnh rối loạn thần kinh, như buồn bực, chứng điên, thần kinh… d.Tuổi thọ Mẫu người này hiếu động, khí dương hao tán nhanh, nên tuổi thọ ngắn. Người thuộc Bát quái chia thành 5 loại như ở trên đã trình bày, bà quẻ Cấn, Đoài, Chấn đều nhập chung vào 5 quẻ trên, như quẻ Cấn trên thực tế thuộc loại hình quẻ Khôn, vì Cấn tượng trưng cho núi. Dịch- Thuyết quái: “ Cấn là núi” cũng thuộc thổ, tính đậm chắc như núi, chủ thuận điều hoà, có đức thiện tự, thoả mãn với cái mà mình có, như Dịch- Cấn quái- Truyện viết: “ Cấn là dừng lại”. Sách Dịch- Thuyết quái ghi: “ Cấn là thuyết”. Thuyết là hoà nhã, vì vậy tính chất của Cấn cũng giống như quẻ Khôn nhu thuận đức dày. Quẻ Đoài tượng trưng cho đầm, đầm tính thấp, cũng là tính của âm thuỷ, sách Dịch- Đoài quái- Truyện viết rằng: “ Bên trong cương cứng mà bên ngoài nhu mềm”. Sách Dịch- Thuyết quái viết: “Đoài là thuyết”, vì vậy tính của Đoài quái chất âm mà nội hướng, giống như tính chất của quẻ Khảm. Quẻ Chấn thuộc sấm sét chủ động, như sách Dịch- Thuyết quái viết: “Chấn là động vậy”, sách Dịch- Chấn quái - Tượng viết: “ Chấn là hai lần sấm sét đến liên tục, một lần sấm sét vừa đi, lại một sấm sét khác đến” , nghĩa là nói tính chất của Chấn thuộc dương chủ động, tính chất của Chấn là trong cương có nhu, tuy chấn động nhưng hiền lành. Như sách Dịch- Chấn quái- Truyện viết: “ Tiếng sấm chấn động đến cả trăm dặm, mà đa số người đều sợ hãi”, sách Dịch- Chấn quái- Tượng viết: “ Ngưòi quân tử đối nhân xử thế đều nên cảnh giác đề phòng”, nói rõ tính chất của quẻ Chấn và quẻ Tốn cơ bản giống nhau. Bởi vậy, khí chất của ngưòi Bát quái thuộc khí chất ngũ hành. Người phân chia theo Bát quái ngoài nhân tố bẩm sinh và nhân tố xã hội ra, cũng rất quan hệ với hoàn cảnh địa lý. Như ở phương Nam ứng với mặt trời và hoả nên người quẻ Ly nhiều; ở phương Bắc nhiều âm thuỷ nên người quẻ Khảm nhiều; ở phương Đông gió lớn của biển, nên người quẻ Tốn nhiều; ở phương Tây trời ráo dữ người quẻ Càn nhiều, ở trung ưong là thấp thổ và nhiều núi nên người quẻ Khôn nhiều. Người thuộc Bát quái tuy qui nạp thành 5 loại : ngưới chất Ly, người chất Khảm, người chất Khôn, người chất Càn và người chất Tốn, nhưng người xã hội hiện đại giao lưu rất nhiều, hậu thiên chất quẻ đơn thuần và điển hình cực kỳ ít, đaih đa số biểu hiện tổng hợp. Như laọi hình đơn thuùân cuủa laọi hình quẻ Ly ít thấy, loại thường gặp hình kết hợp người Phong hoả. Tương tự loại hình khác cũng như vậy, vì vậy phán đoán một hình quẻ của mọi người phải tham khảo toàn diện. người thuộc chất bát quái như trình bày ở trên đều có giá trị quan trọng ở các mặt nhân loại học, xã hội học, tâm lý học và y học lâm sàng. 6. Đặc điểm khí chất Bát quái a.Khí chất Bát quái là điển phạm về kết hợp âm dưong với ngũ hành Khí chât Bát quái Chu dịch thể hiện kêt hợp hữu cơ của âm dương và ngũ hành như chất của Ly ( hoả ) thuộc loại hình dương thịnh; chất quẻ Khảm, Đoài (thuỷ) thuộc loại hình âm thịnh, chât quẻ Càn( Kim) thuộc loại hình âm dương cân bằng thiên về dương; chất quẻ Tốn , quẻ Chấn ( phong) thuộc loại hình dương, chất của quẻ Khôn, Cấn ( Thổ) thuộc về loại hình âm dương cân bằng thiên về âm, như bảng Khí chất bát quái Ngũ hành Âm dương Khảm, Đoài Thuỷ Âm thịnh Ly Hoả Dương thịnh Càn Kim Âm dương cân bằng nghiêng về dương Tốn, Chấn Mộc Nghiêng về dương Khôn, Cấn Thổ Âm dương cân bằng nghiêng về âm. b.Khí chất Bát quái tồn tại đồng khí tương cầu Khí chất Bát quái có đặc điểm riêng của mỗi quẻ. Dịch- Thuyết quái viết: “ Sấm làm nó động, gió làm nó tản, mưa tưói nhuần nó, mặt trời chiếu sáng nó, Cấn thu gặt nó, Đoài là vui vẻ, Càn là vua, Khôn cất giữ nó”. Khí chất Bát quái có qui tắc cùng tính tương xu như “Dịch- Càn quái- Văn ngôn viết: “Đồng khí tương cầu, nước chảy ẩm thấp, lửa làm khô táo”. Người cùng, khí chất dễ gần, dễ hợp tác, như người quẻ Khôn ( thổ ) và ngưòi quẻ Khảm ( thuỷ) đều thuộc âm, khí chất gần nhau, cho nên dễ hợp. Người quẻ Tốn ( gió) và ngưòi quẻ Ly ( lửa) đều thuộc dương, khí chất thông nhau, nên dễ gần. Ngưòi quẻ Khôn ( thổ) và người quẻ Tốn ( mộc) không muốn gần nhiều, bởi vì khí chất khác nhau, tính phong chủ động, tính thổ kết dính, một bên chậm chạp nên thường không hợp nhau, người mô hình quẻ Khảm ( thuỷ) và người quẻ Ly ( hoả) nước lửa không đi đôi với nhau, vì vậy hai mẫu người này khó ở với nhau, đó chính là “ bát tự bất hợp” mà người Trung Quốc hay nói. c.Khí chất Bát quái tuy khác nhau, nhưng đều có thể hoà hiệp cùng tồn tại. Dịch- Thuyết quái viết: “ Núi đầm cùng thông hơi với nhau, sấm gió cùng xô xát nhau, nước lửa chẳng cùng diệt nhau”. Biểu thị bất luận giới tự nhiên hoặc xã hội con người tuy tính khác nhau, nhưng hoàn toàn có thể hài hoà cùng ở với nhau, cho dù vật chất hoặc người có tính chất trái ngược nhau, cũng có thể hợp thành một thể thống nhất. Theo Gs Dương Lực
    1 like
  7. Để giải trình xin mời bạn xem phần trả lời Tictictac : Với ý kiến của bác TS, Wild nhận thức theo hiện tình nếu thực hiện mỗi phong bì 30 ngàn đồng không khả thi bởi: Với 30,000 đ họ không làm được gì mà người có điều kiện tốt họ cũng sẽ không chối từ phần này, còn với hơn 10,000 đ, chúng ta đem đến được 1 bữa ăn no bụng tuy ít nhưng chia sẽ được nhiều người. Về việc lo sợ thức ăn bị nhiễm khuẩn! Chúng tôi tiếp thu ý này, W đã đặt ra và quan tâm nghiên cứu. Wild vẫn tiếp tục chờ và nhận ý kiến đóng góp của tất cả ACE tham gia .
    1 like
  8. Đào Hoa Trận của PTLV mình là người đã từng áp dụng,và hiệu quả không ngờ tới.Mình cũng đã viết 1 bài chứng thực tính hiệu quả của PTLV đó.Các cách của bạn mình đã từng tham khảo qua rồi,không có tác dụng gì cả bạn ah.Với lại khi áp dụng Đào Hoa Trận của PTLV,bạn chú ý đừng để hoa bị héo khô,nếu không bạn sẽ thấy hậu quả của sự lười biếng thay hoa mới.(mình từng bị nhiều lần rồi cũng vì tội làm biếng,hic.Tởn không dám làm biếng nữa)
    1 like
  9. Tôi muốn nói rõ thêm về sự giống nhau và khác biệt của thuật Thôi miên và Áp vong như sau: Giống nhau: * Khi bắt đầu áp vong và Thôi miên thì người bị thôi miên và được Áp vong đều ở trạng thái không điều khiển được ý thức của mình. * Thuật thôi miên có thể thôi miên tập thể, hoặc cá nhân bởi một người sử dụng thuật này. Thuật Áp vong cũng có thể áp vong tập thể bởi một nhà ngoại cảm. Khác biệt: * Về nội dung thì nhà ngoại cảm giải thích là do vong của những người trong gia đình nhập vào những người được Áp vong. Tức là họ chịu sự tương tác của một hay nhóm vong tương ứng với từng nhóm gia đình khác nhau. Còn với thuật thôi miên thì chỉ chịu sự tương tác duy nhất bởi người thôi miên cho một hay nhiều người bị thôi miên. * Những vong nhập vào từng gia đình có thể kể chuyện về mối quan hệ quá khứ của vong với người thân trong gia đình đó. Qua câu chuyện vong, những người trong gia đình có thể xác định đó chính là vong của người thân hay không. Đây là điểm khác biệt đầu tiên mặc dù hiện trạng không kiểm soát ý thức giống nhau của người bị vong nhập và người bị thôi miên. Người bị thôi miên không thể nói chuyện có tính riêng tư và trao đổi tình cảm với tư cách một người đã từng chung sống với người thân. * Sau khi vong nhập thì vong đó có thể chỉ ra chỗ hài cốt mà họ đang nằm có thể kiểm chứng bằng thực tế - Tức là đào chỗ đó lên có cốt hay không. Tôi nhắc lại là tôi chưa bàn đến vấn đề cốt đó có đúng là của người chết cần tìm không. Còn thuật thôi miên không thể hiện được điều này. Quan điểm của tôi là: Khi nghiên cứu khoa học thì phải thừa nhận hiện tượng khách quan tồn tại. Thuật thôi miên là một thực tế khách quan đang tồn tại, được chứng tỏ bằng những người bị thôi miên không điều khiển được ý thức của mình. Áp vong cũng là một thực tế đang tồn tại và được chứng thực bằng một hệ quả khách quan là tìm được hài cốt sau đó. Vấn đề còn lại để gọi là nghiên cứu khoa học đích thực chính là tìm hiểu cơ chế tương tác nào là nguyên nhân của những thực tại khách quan trên, hoặc một cách giải thích hợp lý phù hợp với tiêu chí khoa học cho một luận điểm nhân danh khoa học. Khoa học là gì? Một trong những yếu tố cấu thành khái niệm này chính là sự khám phá những gì mà con người chưa biết trong vũ trụ mênh mông này. Nếu như những hiện tượng khách quan chưa giải thích được đều là "mê tín dị đoan" và cần phải loại trừ thì đây chính là một hành vi mà giáo sư Nguyễn Văn Hiệu cho rằng khoa học Việt Nam đang tự sát. Tính mê tín dị đoan cần phải loại trừ chính là quan niệm mê tín dị đoan, hoặc cách giải thích mê tín dị đoan, chứ hiện tương khách quan luôn là đối tượng nghiên cứu khoa học. Tôi thí dụ như hiện tượng Đức Mẹ khóc - tức là có dòng nước giống nước mắt chảy từ mắt tượng Đưc Mẹ. Đấy là hiện tương khách quan. Còn cách giải thích thì tùy. Có người thì bảo Đức mẹ khóc là do buồn chuyện thế nhân; cũng có người bảo do bụi vào mắt.... Đại khái vậy.
    1 like
  10. Dạ thưa sư phụ! Để Thiên Anh vẽ lại cho chính xác đã ạ. Còn việc hóa giải thì con đã có cách rồi ạ. Kính! Hạt gạo làng
    1 like
  11. HGL và Thiên Anh xem kỹ lại: Nhà này ở giữa 3 ngôi nhà cao hơn. Tốt xấu gì bên trong chưa bàn, nhưng dễ bị cách Thiên Trảm sát.
    1 like
  12. Chào Ntpt. Vẫn khỏe chứ? Thien Tho xin lỗi chưa hoàn thành lời hứa. Nhưng hứa nhất định làm.
    1 like
  13. Chào Tictictac! Wild xin nhận hết mọi ý kiến đóng góp kể cả comment của bạn Hà Ngọc Sang trên đây, nhưng có một thực tế rất không thuận lợi và không dễ dàng chủ động theo điều kiện của mình. Trường hợp thứ nhất : Xin Phép ban Lãnh Đạo BV ? Sẽ nhận được cái hẹn cho1 ngày nhất định, không thể thay đổi nếu giờ chót có sự cố mà điều này tình huống nào cũng có thể xảy ra...mà đối với Wild bị & gặp nhiều rồi. Trường hợp thứ hai: Vào tận nơi Khoa Nhi, Trưởng khoa Phòng lập danh sách gia đình con em khó khăn mời lên Phòng hành chánh chúng ta phát theo thứ tự gọi tên...đối với Wild ...bị ám ảnh bởi những đôi mắt không quà, thật tội nghiệp! Trường hợp thứ ba: Số quà có hạn mà đối tượng nào cũng đáng được giúp gây ra phần quà bị mỏng đi chia đều thật khó. Mô hình vừa qua Wild copy được từ 1 nhóm từ thiện đi trước, tổ chức suất ăn trưa cho ngày chủ nhật vì ngày này bếp ăn từ thiện không phục vụ, tiền trạm trước một ngày trao tận tay những người lưu trú lâu dài lấy bv làm nhà mỗi giường được 2 phiếu ngay tại phòng điều trị chen chút chật chội, người nào điều kiện tốt hơn họ sẽ từ chối nhận phiếu trước những người cùng khoa. Thế là phương án du kích này được thực thi và qua trãi nghiệm tương đối công bằng và đúng đối tượng. Vài lời chia sẽ mong nhận thêm các ý kiến đóng góp khác cho mục đích từ thiện ngày càng hoàn hảo hơn.
    1 like
  14. Bài 23 - Điểm hạn và các tính chất của nạp âm Nói chung phần nạp âm này hầu như tôi chỉ dựa vào các ví dụ trong thực tế để xác định điểm hạn của chúng, mặc dù có giải thích một vài trường hợp nhưng chắc cũng chỉ là gượng ép, chưa có tính thuyết phục. Nhiều cái đến giờ tôi vẫn không hiểu được nó là cái gì như Lửa Dưới Núi chẳng hạn cũng như tại sao sách cổ viết về nạp âm của gỗ Lựu là “Gỗ Lựu gặp Lửa Mặt Trời có thể tốt mà cũng có thể xấu” ? Các ví dụ thực tế đã chứng minh chúng đúng là phức tạp như vậy.... Một điều mà ai ai cũng cảm thấy vô lý là sách cổ chỉ nói “Gỗ Đồng Bằng sợ Kim Lưỡi Kiếm” còn các loại gỗ khác không hề sợ, trong khi thực tế thì dao, kiếm, rìu, máy cưa...có ngán loại gỗ nào đâu... Y10 - Điểm hạn và tính chất của các nạp âm Chúng ta quy ước gọi nạp âm B có can hay chi C, can hay chi C của nạp âm B, nó có nghĩa là can hay chi C và nạp âm B ở trong cùng trụ. Điểm hạn của nạp âm khắc các nạp âm khác hoàn toàn phụ thuộc vào độ vượng hay suy theo can của nó như sau : 195/5 - Nếu can của nạp âm vượng ở lưu niên thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác max là 2,5đk để có thể gây ra max 2,5đh, nhưng nạp âm này chỉ được sử dụng phần hiệu số của 2đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng. 196/16 - Nếu can của nạp âm ở tuế vận chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác có max 0,75đk để có thể gây ra max 0,75đh, nhưng nạp âm này chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,75đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng 197/58 - Nếu can của nạp âm được lệnh (tức nó ở trong tứ trụ) nhưng chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác max là 1,75đk để có thể gây ra max 1,75đh. Mặc dù nạp âm này chỉ được sử dụng max 1,5đk để có thể gây ra 1,5đh nhưng nó chỉ được sử dụng phần còn lại của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ. 198/1 - Nếu can của nạp âm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì tổng lực khắc của can và nạp âm của nó với các nạp âm và các can khác max là 1đk để có thể gây ra max 1đh. Mặc dù nạp âm này có thể sử dụng 1đk để có thể gây ra 1đh, nhưng nó chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ. 199/(11;30) - Nếu can của nạp âm thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của can và nạp âm của nó với các nạp âm và các can khác max là 0,75đk. Mặc dù nạp âm này có thể sử dụng max 0,75đk để có thể gây ra 0,75đh nhưng nó chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ. 200/ - Nếu can của nạp âm thất lệnh và nhược ở tuế vận hay can của nạp âm ở tuế vận mà nhược ở tuế vận thì nạp âm này không có khả năng khắc các nạp âm khác. 201/(93;95,157) – Nạp âm là vô dụng (nó không khắc được các nạp âm khác) chỉ khi chi của nạp âm là Ngọ hay Mão bị khắc, trừ lực khắc của lửa mặt trời với các nạp âm khác chỉ bị giảm 50%đh (hay nó không bị giảm ?) 202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc trừ giả thiết 201/. 202a/91– Thủy cục của các chi có thể sinh cho lửa sấm sét cùng trụ ...(tương tự như giả thiết 202 /30). 202b/30- - Hóa cục của các chi có thể sinh cho các nạp âm cùng trụ, vì vậy lực khắc của mỗi nạp âm này với các nạp âm khác được thêm tổng cộng max 0,25đk chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không vượt quá tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 203/(8;42) – Nếu can của nạp âm bị khắc bởi ít nhất 1 lực có 1đh thì nạp âm trở thành vô dụng còn nếu can của nó bị khắc ít nhất bởi 1 lực có 0,7đh thì điểm hạn của nạp âm khắc các nạp âm khác bị giảm ít nhất 3/4. 204/78 – Nạp âm là vô dụng khi can của nó bị khắc bởi 4 can, nếu mỗi lực này có ít nhất 0,5đh. 205/60 - Nếu lửa đỉnh núi không khắc được nước khe núi thì nước khe núi mới khắc được lửa đỉnh núi, các lực này có max 0,5đh. 206/(47;53;62) - Gỗ lựu gặp Lửa mặt trời có khoảng từ -1đh tới +1đh (vì theo sách cổ để lại thì gỗ lựu gặp lửa mặt trời có thể tốt nhưng cũng có thể xấu). Điểm hạn này phụ thuộc vào hành Kim là hành của can chi của nạp âm gỗ lựu (Canh Thân, Tân Dậu) : a - Nếu Kim là hỷ dụng thần thì điểm hạn của gỗ lựu gặp lửa mặt trời có dấu dương, nó là xấu (bởi vì nó giúp lửa mặt trời mạnh thêm để khống chế hỷ dụng thần Kim). b - Nếu Kim khắc hành của hỷ dụng thần thì điểm hạn này có dấu âm, nó là tốt (bởi vì Kim bị khống chế là tốt cho hỷ dụng thần). c - Nếu can và chi của gỗ lựu ở trạng thái tĩnh hay can của gỗ lựu thất lệnh và nhược ở tuế vận hay gỗ lựu bị khắc bởi một lực có 1 đh thì điểm hạn này có thể là 0đh (?). 207/1 - Mặt trời khắc đất trên tường, lửa đèn, gỗ liễu, kim trang sức, mỗi lực có max 1đh. Lửa sấm sét khắc Kim lưỡi kiếm, đất trên thành....mỗi lực có max 1đh (xem bảng phía dưới). 208/37 - Gỗ đồng bằng khắc gỗ dâu có max 0,25đh. 209/13 - Đất ven đường, đất dịch chuyển, đất trên thành, đất mái nhà và đất trên tường khắc nước mưa, mỗi lực có max 1đh. 210/38 - Mỗi nạp âm khắc các nạp âm khác có max 2đh. 211/7 – Các loại nạp âm có hành là Thủy không khắc được lửa dưới núi. Lửa dưới núi không khắc được kim trang sức. Nước khe và nước suối khắc nước sông, mỗi lực có 0,25đh, còn nước mưa và nước sông khắc nước sông, mỗi lực có ... ? 212/11 - Đất trên thành, đất ven đường, đất mái nhà và đất trên tường khắc nước khe núi, mỗi lực có max 0,5đh, riêng đất dịch chuyển khắc nước khe núi có max 0,75đh Giải thích: Nước khe núi thực chất bởi 2 phần, phần ở phía trên vẫn còn là xương mù, còn phần ở dưới là phần xương mù đã ngưng tụ thành các hạt nước rơi xuống tạo thành các dòng nước nhỏ chẩy ở vách đá và dưới khe núi. Cho nên đất trên thành, đất trên tường, đất ven đường hay đất mái nhà chỉ khắc được phần nước chẩy ở vách núi và khe núi còn phần xương mù phía trên không khắc được, do vậy chỉ gây ra 0,5đh là hợp lý. Chỉ có đất dịch chuyển (có thể coi như là bụi và dung nham của núi lửa (?)) khắc nước khe có 0,75đh (vì là bụi và dung nham của núi lửa dịch chuyển, nên phần bụi khắc được một phần sương mù phía trên nên có thêm 0,25đh). 213/30 - Đất trên thành, đất ven đường, đất mái nhà đất, trên tường và đất dịch chuyển khắc nước sông và suối, mỗi lực có max 1đh. 214/47a - Nếu can và chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có can của nạp âm hợp với tuế vận mà nó có hành giống với hành của nạp âm và nó không bị khắc bởi chi cùng trụ thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác bị giảm 1/2 đh (?). 215/127 - Tại năm sinh, nạp âm của trụ năm và lưu niên khắc các nạp âm khác bị giảm ½ đh. 216/(6;46) - Nếu can và chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có can hay chi của nó hợp với tuế vận và tổ hợp này phải hóa cục thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác mới bị giảm ¼ đh, nhưng nếu chi của nó hợp với tuế vận hóa cục có cùng hành với nạp âm này thì lực khắc này không bị giảm. 217/(9;24) – Nếu can và chi của nạp âm đều bị tuế vận hợp thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác bị giảm ½ điểm hạn nhưng nếu chi của nó hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của nạp âm này thì lực khắc này không bị giảm. 218/(4;31;16) – Nạp âm tiểu vận khắc nạp âm đại vận bị giảm ½ đh và nạp âm đại vận hay lưu niên khắc nạp âm tiểu vận bị giảm ¾ đh 219/46 - Nếu các nạp âm của nước sông và nước suối trong tứ trụ có các can của chúng được lệnh và vượng ở lưu niên hay chúng ở tuế vận mà vượng ở tuế vận thì lực khắc của chúng với các nạp âm khác không bị giảm mặc dù chúng bị khắc bởi các nạp âm khác. Giải thích: Nếu can của các nạp âm là nước suối hay nước sông thất lệnh hay không vượng ở lưu niên nên chúng có ít nước, khi chúng bị các con đê chặn lại (bị khắc bởi các loại nạp âm là Thổ) thì chúng không thể tràn qua các con đê để khắc được các nạp âm khác như lửa đỉnh núi. 220/50 - Nếu nạp âm của 1 trụ bị khắc nhưng không có điểm hạn thì trụ đó được xem như nó không bị khắc. 221/(33;105) – Nếu không có lửa đèn tác động tới các nạp âm là gỗ thì khi các nạp âm là gỗ khắc kim giá đèn có 0,5đh chỉ khi can của chúng ở các trạng thái Lộc hay Kình Dương tại lưu niên (trừ gỗ lựu, có thể lực khắc của gỗ lựu bị giảm bởi vì can chi của gỗ lựu cùng có hành kim), còn nếu các nạp âm này ở trong tứ trụ mà các can của chúng nhược ở tuế vận thì chúng khắc kim giá đèn ở trong tứ trụ có 0,5đh chỉ khi các can của chúng phải ở trạng thái Lộc hay Kình Dương của lệnh tháng (trừ gỗ lựu). Ngoài 2 trường hợp này chúng khắc kim giá đèn chỉ có max 0,25đh. Bảng điểm hạn của các nạp âm khắc nhau Chú ý : 1 – Kim giá đèn * xem giả thiết 221/(33;105). 2 - Dấu * của Gỗ Lựu có thể từ -1đh tới +1đh. 3 - Các điểm hạn trong bảng này là lớn nhất khi chúng khắc nhau (tức can của chúng vượng ở lưu niên) mà tôi đã tìm ra được từ trong các ví dụ đã xẩy ra trong thực tế, tuy nhiên số ví dụ để kiểm tra chúng là quá ít, vì vậy các điểm hạn này có thể chưa chính xác. 4 - Ở đây tôi mới tìm được 1 trường hợp của nạp âm gỗ lựu gặp lửa mặt trời trong một vài trường hợp có điểm hạn âm. Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi tìm thêm các điểm hạn mang dấu âm và dương mới cũng như kiểm tra lại tất cả các điểm hạn trong cuốn sách này. Ví dụ minh họa Ví dụ 46 - trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ": Tứ trụ của minh tinh màn bạc Hollywood Christopher Reeve (thủ vai Superman). Ngày 27/5/1995 là năm Ất Hợi thuộc đại vận Quý Sửu và tiểu vận Quý Sửu. 1 - Mệnh này Thân nhược mà Kim là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn/ Nhâm ở trụ năm. 2 – Trong tứ trụ có ngũ hợp của Giáp với Kỷ không hóa, lục hợp của Thìn với Dậu hóa Kim và bán hợp của Ngọ với Tuất không hóa (với nam, trong tứ trụ có 3 tổ hợp thường là người nổi tiếng). Vào đại vận Quý Sửu và đến năm Ất Hợi có ngũ hợp của Ất trụ giờ với Canh ở lưu niên hóa Kim nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng của tuế vận, kỵ thần Kim có 18,1đv, còn các hành khác không thay đổi. Do vậy Kim là kỵ vượng, vì vậy Kim cục có 0,5đh, Ất và Canh mỗi can và chi có 0,5đh kỵ vượng. 3 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh . 4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh . 5 - Lửa đỉnh núi của trụ ngày có Giáp vượng ở lưu niên khắc được đất dịch chuyển của trụ tháng có 1đh, vì vậy đất dịch chuyển thành vô dụng (vì sao thì tôi chưa giải thích được, chỉ thấy áp dụng như vậy thì mới đúng cho các ví dụ tương tự khác). Lửa đỉnh núi của lưu niên có Ất nhược ở tuế vận nên thành vô dụng. Đất ven đường của trụ giờ có Canh được lệnh nên khắc được nước sông có 1đh nhưng vì can chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có Canh hợp với tuế vận hóa Kim, nếu sử dụng giả thiết 216/6 thì lực khắc này chỉ bị giảm ¼ đh còn 1.3/4.đh = 0,75đh. Nếu sử dụng giả thiết 219/46 thì nước sông có Nhâm được lệnh và vượng ở lưu niên khắc lửa đỉnh núi của trụ ngày và lưu niên mỗi lực có 1đh 6 – Trong tứ trụ đã có Thìn, Dậu và Ngọ đến năm Hợi có đủ tứ tự hình nên có 1đh. Tổng số có 5đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (vì các bác sĩ giỏi cấp cứu kịp thời, sự giải cứu này tương đương với khoảng -0,1đh, vì vậy anh ta mới thoát chết). Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của các nạp âm, tứ hình và do Kim quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu (vì Thân Mộc là nhược) và kết hợp với giải cứu về tứ hình (giống như hình và hại). Hạn đã xẩy ra vào tháng Tân Tị bởi vì nó TKĐK với lưu niên Ất Hợi và nó là tháng và mùa mà dụng thần Thủy ở tử tuyệt, còn Kim bắt đầu vượng, vì vậy Thủy không có khả năng làm dụng thần thông quan để hóa Kim sinh cho Thân (Mộc). Christopher Reeve mất ngày 10/10/2004, đó là năm Giáp Thân thuộc đại vận Giáp Dần, tiểu vận Quý Hợi. 1 – Trong tứ trụ có: Lục hợp của Thìn với Dậu hóa Kim: Ngũ hợp của Giáp với Kỷ và bán hợp của Ngọ với tuất là không hóa. Vào đại vận Giáp Dần có: Tam hợp Dần Ngọ Tuất không hóa. Ngũ hợp của Giáp đại vận và Giáp trụ ngày với Kỷ trụ tháng. Đến năm Giáp Thân có: Tam hội Thân Dậu Tuất hóa Kim (vì theo quy tắc ưu tiên lục hợp Kim bị phá bởi tam hội Kim là cùng hành và tam hợp Dần Ngọ Tuất bị phá vì nó không hóa cục). Lục hợp của Hợi tiểu vận với Dần đại vận không hóa bởi vì Kim cục có trước đã ngăn cản. Bởi vì Kim cục trong tứ trụ bị phá và chi Dậu của nó hợp với tuế vận hóa cục nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng của tuế vận, kỵ thần Kim có 29,9đv, còn hỷ thần Mộc có 18,47đv. Do vậy Kim có điểm kỵ vượng. Tam hợp Kim cục có 0,75đv và Thân thái tuế có 0,5đh kỵ vượng. Lục hợp Kim cục có 2 chi trong tứ trụ bị phá có -0,5đh, chi Thìn có 1đh và chi Dậu có 0,5đh. 2 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh. 3 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh. 4 – Giáp đại vận và Giáp lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên mỗi Giáp có -0,25đh can động và khắc Kỷ, vì vậy mỗi lực khắc có 0,25đh. Giáp trụ ngày thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Kỷ có 0,25đh. 5 - Lửa đỉnh núi của trụ ngày có Giáp thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên chỉ khắc được đất dịch chuyển của trụ tháng có 0,25.1/2.đh = 0,13đh (bởi vì Giáp đã dùng mất 0,5đh và can chi của nạp âm đều hợp với tuế vận). Nếu sử dụng giả thiết 213/30 thì đất dịch chuyển của trụ tháng có Kỷ được lệnh và vượng ở lưu niên khắc được nước sông của trụ năm và nước suối của đại vận, mỗi lực có 1.1/2.87%đh = 0,44đh (vì can chi của nạp âm đều hợp với tuế vận và bị lửa đỉnh núi khắc mất 13%đh). Đất ven đường của trụ giờ có Canh được lệnh và vượng ở lưu niên khắc được nước sông và nước suối, vì vậy mỗi lực có 1đh. Nếu sử dụng giả thiết 219/46 thì nước sông của trụ năm có can Nhâm được lệnh lại vượng ở lưu khắc lửa đỉnh núi của trụ ngày có 1đh (mặc dù nó bị khắc bởi các loại nạp âm là Thổ). Nước suối của đại vận có Giáp chỉ vượng ở đại vận nên nó không thể khắc được lửa đỉnh núi (vì nó bị khắc 1đp bởi đất ven đường). Tổng số có 6,26đh. Tam hội kim cục ngoài tứ trụ có 2 chi khác nhau trong tứ trụ, vì vậy điểm hạn được giảm 1đh. Do vậy tổng số chỉ còn 5,26đh. Số điểm này chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của các nạp âm và Kim quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu. Trong tứ trụ có Dậu và Tuất hợp với Thân thái tuế hóa Kim cục đã gây ra tai họa, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào các tháng Dậu hay Tuất. Ở đây, tại sao tai họa không xẩy ra vào tháng Quý Dậu mà lại xẩy ra vào tháng Giáp Tuất ? Có thể giữa tứ trụ với tuế vận có 3 Giáp hợp với Kỷ trụ tháng, vì vậy vào tháng Giáp Tuất, có thêm Giáp đã tác động tới Kỷ thì tai họa mới xẩy ra (?)
    1 like
  15. Di Lạc kịp ghi hình ảnh trật tự lúc ban đầu. Ổn định nơi này, nơi kia hổn loạn Cơn mưa bất chợt.... Tìm được nơi có mái che ...ACE tiếp tục trao quà Còn có những người không nhận quà và chỉ muốn nhận Thần Chú.
    1 like
  16. Chi tiết : Xíu mại 2500 đ/ v X 660 v = 1,650,000 đ (một triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng Nước trái cây V Fresh 3500 đ /h X 330 h = 1,155,000 đ (một triệu một trăm năm mươi lăm ngàn đồng) Bánh mì . 2500 đ ổ X 300 ổ = 750,000 đ (bảy trăm năm mươi ngàn đồng) Bao bì : 67,000 đ (sáu mươi bảy ngàn đồng) Tương nêm : 24,000 đ (hai mươi bốn ngàn đồng) Tổng : 3,646,000 đ (ba triệu sáu trăm bốn mươi sáu ngàn đồng)
    1 like
  17. Được một lúc thì trời đổ mưa, tình huống này chúng tôi không lường trước vì khi đên trời còn chói chang nắng....chúng tôi di chuyển thùng quà để bảo vệ nó qua một xe nước mía ven đường, dòng người túa theo chúng tôi, khung cảnh thật quá tầm kiểm soát của chúng tôi các chị em ai cũng ướt, hình ảnh ấy như đoạn phim hoạt hình tận dụng tất cả cái gì che được để làm nắp cho thùng thức ăn và bánh mì, ngay lúc này đây tôi chạnh lòng nghĩ ngợi sao đời người khổ quá ! Chỉ 1 ổ bánh mì có nhân mà con người ta vẫn chờ đợi để được nhận đúng tiêu chuẩn của mình. Lý do mà có con số 330 ph là bởi vì khi đặt bánh mì với số lượng lớn chúng tôi được tặng 30 ổ, thế là phải thêm 30 phần nhân Xíu mại và 30 phần nước V Fresh. Quả là không dễ khi mọi việc luôn là ẩn số phía trước khi đi vào thực tế chúng ta vẫn phải có những phép toán ngoài kế hoạch, lò bánh mì mà chúng tôi hợp đồng đến khoảng 13g 30 họ báo lại không cung ứng đủ số lượng... a di đà phật. Lại có lỗi kỷ thuật rồi ! Không đươc phép để cho những người khốn khó ấy chờ đợi, tôi phải tìm nhanh 1 lò bánh khác với tiêu chí ngon ra bánh đúng số lượng và đúng giờ...nan giải đây thử thách cũng là đây! Trời không phụ lòng người với 1 địa bàn không thông thuộc mà tôi nhanh chóng tìm được lò bánh ngon đủ số lượng và đúng giờ...phù :P khỏe một mẻ mừng một mẻ. Cứ như thế đảm bảo hoàn thành kế hoạch mong muốn ACE ai cũng vui dù ướt mưa dù bị chen lấn xố đẩy mà vẫn có nụ cười, hình như chúng ta không cần phải làm những điều to tát chỉ cần những công việc nhỏ nhoi 1 giá trị cũng nhỏ nhoi nhưng với tất cả tấm lòng yêu tha nhân thì nơi cho và nơi nhận đều hoan hỷ. Chuyến từ thiện này đối với chúng tôi thật thiết thực thật ý nghĩa và cũng thật xót lòng! Các bạn đừng thắc mắc vì sao không thấy hình ảnh của Wild trong hoạt động này bởi vì phải nhận nhiệm vụ ghi ảnh và giải thích cho họ về công năng của thần chú giải thoát và cũng kiêm luôn vãn hồi kêu gọi trật tự.
    1 like
  18. Ngay cả Thần Chú cũng được nhận với tinh thần tôn kính khi được biết cũng mang đến cho họ phần lợi lạc Cô gái này với nhiệt tâm từ thiện vẫn có đủ sức bê vác thùng V Fresh Họ đã đến đông và trật tự.... Đến giờ nhận quà, chúng tôi 10 người phục vụ không xuể dù có những người đại diện nhận thay 5 hay 6 phần cho người cùng khoa. Giới chuyên môn gọi cảnh này là bát nháo, nhưng không sao chúng tôi vẫn làm tốt công việc của mình vì khâu tổ chức khá ổn. Có lẽ cũng phải rút kinh nghiệm cho những lần sau để tránh sự chen lấn như thế này...
    1 like
  19. Tôi nghĩ bạn sinh vào giờ Thân, công danh khá tốt và thuận lợi, trong công việc hay được cấp trên tin tưởng giao trọng trách. Thiếu thời vất vả hay phải chạy đôn đáo nay đây mai đó, về lúc đứng tuổi sự nghiệp vững bền. Trong mấy năm tới công việc tiền bạc còn nhiều khó khăn lắm. Gia đạo: vợ sau có dạng người cao vừa hơi gầy, mặt dài, da trắng, tóc dày chân mày thanh sắc, có nhan sắc tính nóng nảy hay ghen, gia đạo thường xuyên lục đục cãi vã dễ vài lần lập gia. Năm sau có cơ hội kết hôn nếu muốn, tình cảm trong năm tới gặp rất nhiều trở ngại buồn phiền nếu có tiến tới hôn nhân cũng nhiều cản trở cãi vã...Trong 3 năm tới còn gặp nhiều khó khăn buồn phiền không như ý, năm nay phải cẩn thận sức khỏe, gia đạo cũng có người đau yếu bệnh thuộc bên nội hay có tang của người trong họ
    1 like
  20. Bài 22 : Điểm hạn và khả năng của hóa cục Y7 – Điểm hạn và khả năng của hóa cục 1 - Điểm hạn và các tính chất của hóa cục của các can chi 111/ – Trạng thái hành của hóa cục được xác định như 5 can dương. 112/ - Chỉ có 2 can hợp với nhau mới có khả năng hóa cục nếu có thần dẫn (xem câu 4 và 5 của phần II trong chương 6 hay xem giả thiết 108/(8;114)). 113/ - Các tổ hợp của các địa chi chỉ có thể hóa cục khi có thiên can dẫn hóa (xem câu 9 của phần III trong chương 6). 114/1- Điểm hạn của các hóa cục bằng chính tổng số các can hay chi có trong hóa cục đó nhân với ½ số điểm hạn của hành của hóa cục đó (trừ các chi trong tứ trụ đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành). 115/6 - Hóa cục là kỵ thần không sinh được cho hóa cục là hỷ dụng thần. 116/ - Hóa cục là hỷ dụng thần sinh cho hóa cục cũng là hỷ dụng thần như bình thường nhưng chúng có điểm hạn âm ? 117/24 - Mỗi can chi của hóa cục A sinh được cho hóa cục B ít nhất là 0,6đh chỉ khi hóa cục B là kỵ thần và hành của hóa cục B có 1đh và 0,3đh khi hành của hóa cục B có 0,5đh (can chi tiểu vận chỉ sinh được bằng ½). 118/25 - Thủy cục ở phía trên sinh cho Mộc cục là kỵ thần ở các địa chi trong tứ trụ, vì vậy Thủy cục này cũng có thể khắc Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ để gây ra đại chiến (ĐC). Giải thích: Thủy ở trên trời là những đám mây mang hơi nước, khi gặp lạnh chúng ngưng tụ thành những hạt nước rơi xuống đất và nuôi cho cây cối phát triển, vì vậy nó cũng có thể dập tắt được lửa. 119/10 - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm. 120/91 - Thủy cục của các chi có thể sinh cho lửa sấm sét cùng trụ, vì vậy tổng số lực khắc của lửa sấm sét này với các nạp âm khác được thêm 0,25đh chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không nhiều hơn tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 121/30 - Hóa cục của các chi (trừ hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh (?)) có thể sinh cho các nạp âm cùng trụ, vì vậy lực khắc của mỗi nạp âm này với các nạp âm khác được thêm tổng cộng max 0,25đk chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không vượt quá tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 122/13 - Giữa tứ trụ với tuế vận có hóa cục, nếu các chi trong tứ trụ của hóa cục mới này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của hóa cục mới này thì chúng không có điểm hạn. 123/8 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hợp cục hay tam hội cục từ 4 chi trở lên mà hành của nó là kỵ 1 (hoặc sau khi tính lại hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận) thì điểm hạn chính của hóa cục này được tăng gấp đôi và từ chi thứ 4 trở đi có điểm hạn, mỗi chi được thêm 0,25đh. 124/55 – Hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận có 4 chi có điểm hạn, nếu điểm hạn của hóa cục này không được tăng gấp đôi thì nó không bị khắc bởi các can nhưng các can cùng hành với nó vẫn bị khắc như bình thường. 125/81 – Nếu hai hóa cục khắc nhau thì chúng có thể được tạo thành trong cùng một lúc nhưng hóa cục bị khắc không thể được tạo thành nếu nó có sau so với hóa cục là chủ khắc (vì nó bị cản phá bởi hóa cục là chủ khắc, trừ khi hóa cục chủ khắc quá yếu, xem ví dụ 86 và ĐC-1). 126/85 - Hóa cục ở can hay chi tiểu vận với can hay chi đại vận hay lưu niên chỉ có 1,5 chi (ở đây ta quy ước can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay 0,5 chi) mặc dù là chủ khắc và có trước nhưng nó quá yếu không thể cản phá được các hóa cục bị khắc có ít nhất 2 can chi mặc dù chúng có sau. 2 – Khả năng phá hợp của các tổ hợp a – Các quy tắc ưu tiên hợp và hóa của các địa chi 127/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hội, tam hợp, bán hợp hay lục hợp không hóa thì tam hội sẽ được ưu tiên trước nhất sau đó mới đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu lực hợp của lục hợp không lớn hơn lực hợp của bán hợp) và cuối cùng mới đến lục hợp. 128/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có lục hợp, bán hợp, tam hợp hay tam hội có khả năng hóa thành cùng một hành thì tam hội được ưu tiên trước sau đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu bán hợp có lực hợp bằng hay lớn hơn lực hợp của lục hợp) và cuối cùng mới là lục hợp (kể cả các hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh). 129/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có các tam hợp cục hay các tam hội cục, khi các hóa cục này bị phá bởi các chi hay các thiên khắc địa xung... thì các quy tắc ưu tiên hợp và hóa với các chi của tam hợp hay tam hội này mới có hiệu lực. b – Khả năng phá hợp của các tổ hợp 130/ – Lục hợp cục hay bán hợp cục trong tứ trụ từ khi mới sinh chỉ bị phá khi : a/ – Chi của nó bị xung hay bị khắc bởi chi có lực xung hay lực khắc lớn hơn lực hợp với chi bị xung hay bị khắc (riêng với lực xung hay lực khắc của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp). Riêng các chi Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung gần nhau thì luôn luôn phá được, không cần tính lực xung. b/ - Theo quy tắc ưu tiên, đầu tiên là tam hội, sau đến tam hợp, cuối cùng mới đến bán hợp nếu hóa cục của chúng cùng một hành (riêng với bán hợp phải tính lực xung hay lực khắc và lực này chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp). c/88 – Tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận và tiểu vận nếu nó hợp được với ít nhất 1 chi trong hóa cục này. d/ – TKĐX với hóa cục này nếu 2 chi của nó không phải là Thổ. e/ - Nếu TKĐX và các hóa cục cùng xuất hiện từ khi mới sinh thì TKĐX có 2 chi là Thổ có thể không phá được các hóa cục này ? 131/(25;197) - Các bán hợp cục hay lục hợp cục bị phá khi lực hợp của các bán hợp hay lục hợp mới lớn hơn lực hợp của các bán hợp cục hay lục hợp cục cũ (riêng lực hợp của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp), nhưng nếu chúng là các hóa cục của các địa chi trong tứ trụ từ khi mới sinh thì điều này chỉ đúng khi các tổ hợp mới này có thể hóa được cục có cùng hành với chúng. 132/ - Nếu hóa cục của can hay chi tiểu vận với tuế vận là chủ khắc chỉ có 1,5 can hay chi (vì can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay chi) thì nó không có khả năng cản được các hóa cục là bị khắc có ít nhất 2 can hay chi được tạo thành sau. 133/88 - Hóa cục chỉ có 2 can là chủ khắc có trước không cản phá được tam hợp cục hay tam hội hóa cục có ít nhất 4 chi là bị khắc có sau (xem thêm giả thiết 126/85). 3 - Các hóa cục khắc nhau 134/79 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 2 hóa cục khắc nhau được gọi là Ðại Chiến (ÐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn có dấu dương. 134a/(147;212) – Nếu có 3 hóa cục là A, B và C mà A có thể sinh được cho B và B có thể sinh được cho C thì chúng không có khả năng gây ra ÐC nhưng nếu A phải ngăn cản (khắc) sự tạo thành của C (tức A phải được tạo thành trước C) thì nó không có khả năng sinh cho B và khi đó C vẫn được tạo ra nhưng không có điểm hạn và C không có khả năng nhận được sự sinh từ B (?). 134b/91 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 3 hóa cục A, B và C mà A có thể khắc B và B có thể khắc C thì chỉ có A và B gây ra ÐC còn B có thể khắc C nhưng không có điểm hạn, vì vậy C không thể sinh được cho A (?). 135/ - Điểm hạn của can hay chi ở tiểu vận tham chiến (nó được gọi là can hay chi phụ tham chiến) chỉ bằng ½ đh của các can chi khác tham chiến. a - Đại chiến 136/79 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có ít nhất 2 hóa cục khắc nhau thì chúng được gọi là Đại Chiến (ĐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn dương. b - Điểm hạn của Đại chiến 137/91 - Nếu hóa cục có 1,5 can chi khắc hóa cục cũng chỉ có 1,5 can chi (tức 2 hóa cục này cùng ở tiểu vận) thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh và hóa cục bị khắc vẫn khắc được các hóa cục khác nhưng lực khắc này không thể gây ra được các loại Ðại Chiến nhưng nó vẫn đủ khả năng khống chế các hóa cục đó không sinh được cho hóa cục khắc nó (?). 138/84 – Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là kỵ thần khắc hóa cục có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can hay chi tham chiến là 0,15đh 139/85 - Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là hỷ dụng thần khắc hóa cục cũng là hỷ dụng thần có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn của mỗi can chi tham chiến là 0,15đh. 140/ – Nếu hóa cục có từ 2 can chi trở nên khắc hóa cục chỉ có 1,5 can chi thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là ...0,4đh (?). 141/79 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà ít hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,2đh. 142/80 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà nhiều hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc cũng có từ 2 can chi trở lên thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,4đh. 143/81 - Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà bằng tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh. 144/81 - Nếu một hóa cục của ĐC là chủ khắc khi nó bị khắc mà điểm hạn của nó không bị mất hết thì điểm hạn của ĐC không thay đổi (?). 145/(61;84;87) - Nếu các chi trong tứ trụ của các hóa cục tham gia ĐC đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành thì chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó và chúng cũng không có điểm hạn trong đại chiến, trừ trường hợp nếu các hóa cục này không hợp với tuế vận thì mặc dù các chi của chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó nhưng chúng vẫn có điểm hạn trong Đại Chến. (Chú ý : Tất cả can chi trong các hóa cục tham gia đại chiến đều được tính để xác định tổng số can chi tham chiến của mỗi bên). 146/87 - Các hóa cục của các chi trong tứ trụ không có khả năng khắc các hóa cục ở phía trên và ngược lại, trừ Thủy cục ở phía trên khắc được Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được thêm ít nhất 0,01đh (vì nước mưa rơi xuống đất có thể dập tắt lửa và đại chiến ở đây là nước với lửa không phải là hơi nước với lửa). 147/88 - Nếu cung phối hôn hợp với tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận với tiểu vận gây ra đại chiến thì điểm hạn của đại chiến này có thêm ít nhất 0,25đh (trừ cung phối hôn đã hóa cục có cùng hành từ khi mới sinh?). 148/(114;206) - Các hóa cục của các can trong tứ trụ có từ khi mới sinh không bị mất khi hành của lệnh tháng thay đổi cũng như chúng không có khả năng cản được các hóa cục được tạo thành sau nhưng chúng vẫn có khả năng gây ra Đại Chiến và mặc dù các hóa cục này không có điểm hạn nhưng các can của chúng vẫn có điểm hạn trong ĐC như bìng thường. 149/158 - Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được tăng thêm 0,2đh nếu hóa cục chủ khắc có số can chi nhiều hơn 1 can chi so với tổng số can chi của hóa cục bị khắc, 0,4đh nếu nó nhiều hơn là 2 can chi, 0,6đh nếu nó nhiều hơn 3 can chi,... (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này). c - Đại chiến 1 và điểm hạn của nó 150/89 - Nếu hóa cục của tiểu vận là hỷ dụng thần có 1,5 can chi khắc hóa cục là kỵ thần có từ 2 can chi trở lên thì nó được gọi là đại chiến 1 (ĐC-1). Nếu hành của hóa cục bị khắc có 0,5đh thì điểm hạn của ĐC-1 là tổng số của các can chi tham gia ĐC-1 nhân với : 0,65 nếu các hóa cục bị khắc có tổng số 2 can chi. 0,7 ......................................................3 ............ 0,75.....................................................4 ............ 0,8 ......................................................5 ............ 0,85.....................................................6 ............ 0,9 ......................................................7 ........... (Chú ý : Điểm hạn của can hay chi tiểu vận tham chiến chỉ bằng ½). 151/90 - Nếu hành của hóa cục bị khắc có 1đh thì điểm hạn của ĐC-1 giống như giả thiết 150/89 ở trên nhưng các trường hợp tương tự được thêm 0,05đh. 152/92 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 25%đh của nó thì điểm hạn của mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,25đh. 153/93 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,38đh. d - Đại chiến 2 và điểm hạn của nó 154/94 - Nếu hóa cục bị khắc trong ĐC là hỷ dụng thần, khi nó bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì ĐC trở thành đại chiến 2 (ĐC-2) và điểm hạn của ĐC-2 bằng tổng điểm hạn của ĐC và ĐC-1 khi 2 hóa cục này có số can chi bằng nhau, trong đó điểm hạn của ĐC-1 được xác định bởi số can chi của hóa cục chủ khắc. 155/ - Nếu tổng «số can chi tham chiến của các hóa cục bị khắc và chủ khắc trong ĐC-2 là khác nhau hay điểm hạn của hóa cục là hỷ dụng thần chỉ bị khắc mất 25%đh thì điểm hạn của ĐC-2 là …? Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi trả lời các câu hỏi này Ví dụ minh họa : Ví dụ 90 : Tháng 3/1967 là năm Đinh Mùi thuộc đại vận Tân Tị và tiểu vận Đinh Dậu. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là quan sát Canh tàng trong Thân trụ ngày (vì quan sát chỉ có 3 can chi, còn tỷ kiếp có 4 can chi và nắm lệnh). Mộc là kỵ vượng 2 – Trong tứ trụ có ngũ hợp của Giáp với Kỷ và tam hội Thân Dậu Tuất đều không hóa. Vào đại vận Tân Tị và năm Đinh Mùi có: Bán hợp của Tị đại vận với Dậu tiểu vận hóa Kim. Tam hội Thân Dậu Tuất trong tứ trụ hóa Kim. Bán hợp của Mão trụ tháng với Mùi thái tuế hóa Mộc (vì mặc dù Mộc cục có sau nhưng Kim cục của tiểu vận chỉ có 1,5 chi và tam hội Kim trong tứ trụ đều không có khả năng ngăn cản được nó). Do vậy Kim cục ở tiểu vận và Mộc cục đã tạo thành ĐC-1 (vì Kim cục là hỷ dụng thần có 1,5 chi còn Mộc cục là kỵ thần có 2 chi). Vì vậy bán hợp Kim có 1đh và tam hội Kim có 1,5đh, Mộc cục có 0,5đh và Mùi thái tuế hóa Mộc có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Hóa cục của các chi trong Tứ Trụ không có khả năng tham gia Đại Chiến, trừ khi nó là Hỏa cục bị Thủy cục phía trên khắc). Nếu sử dụng giả thiết 150/89 thì điểm hạn của ĐC-1 là (3.0,65 + 0,33)đh = 2,28đh (vì Mộc cục là hóa cục bị khắc có 2 chi và hành của nó có 0,5đh). 3 - Dụng thần Canh tàng trong Thân của tam hội cục Kim trong tứ trụ không hóa có 0đh (vì khi tam hội Thân Dậu Tuất hợp với tuế vận hóa Kim có hành giống với hành của dụng thần Canh) và Canh vượng ở lưu niên có -1đh (xem giả thiết 38/1). 4 - Nhật can Giáp mộ ở lưu niên có 1 đh. 5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu niên có -0,5đh và khắc Tân đại vận có 1đh. Đinh có 1 cát thần có -0,25đh Đinh tiểu vận vượng ở tiểu vận nên khắc Tân đại vận có 1đh và Tân có 1 cát thần có -0,13đh. Ất trụ năm được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và Ất có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc). Giáp trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có -0,5đh và Giáp có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc). 6 – Tân của lưu niên là Thương quan vượng ở lưu niên, vì vậy nó gặp Ất của đại vận là Quan có 1đh (theo lý thuyết của tôi - cũng như của cụ Thiệu - thì các ví dụ thực tế đã chứng minh rằng Thương và Quan không ở trong hợp thì mới có thể gặp nhau và khi đó mới có thể có điểm hạn Thương gặp Quan. Điều này khác hẳn với các sách từ Cổ tới Kim là họ cho chúng gặp nhau tuốt kể cả khi chúng đã hóa thành cục, thật là "Khủng" ...). 7 - Đất trên thành trụ tháng có Kỷ thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên khắc nước mưa lưu niên có 1đh nhưng can chi của nạp âm đều bị hợp trong đó chỉ có Mão hợp với tuế vận hóa cục nên bị giảm 25%đh còn 0,75đh. Nước mưa lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được lửa đỉnh núi trụ giờ có 1đh nhưng bị đất trên thành khắc mất 75%đh còn 0,25đh. Tổng số có 9,15đh. Nếu ta sử dụng giả thiết 269/48 (nay đã thành quy tắc chính thức) thì tam hội cục trong tứ trụ không có 3 chi liền nhau nhưng có 2 trụ động nên tổng điểm hạn được giảm 1/3 còn 9,15.2/3.đh = 6,10đh. Số điểm này chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của ĐC-1, nạp âm, Hỏa khắc Kim và Mộc quá vượng đã chống lại Kim. Do vậy ta phải dùng Kim để giải cứu. Trong tứ trụ có Mão hợp với Mùi thái tuế hóa Mộc gây ra ĐC- 1 và Kim (Tân) bị Hỏa (2 Đinh) khắc, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Mão và nó thuộc mùa Xuân là mùa mà Hỏa và Mộc vượng, còn Kim ở tử tuyệt. Tai họa này dễ liên quan tới 2 hành là Kim và Mộc.
    1 like
  21. Bạn sinh vào giờ Sửu, có năng lực nhưng đường quan lộ lận đận, công danh chức vị nhỏ thấp. Lận đận còn dài, đến ngoài 35t mới khá hơn được. Năm nay công việc không thuận lợi, tháng này cẩn thận giấy tờ sổ sách nhầm lẫn tranh cãi với đồng nghiệp. Sang năm tới chuyển việc, công việc suôn sẻ thuận lợi hơn, cũng trong năm tới mới có người yêu, năm nay lòng cứ muốn mà duyên chưa tới được...
    1 like
  22. Bài 21: Điểm hạn và khả năng của Thiên Khắc Địa Xung (TKĐX) Y8 - Điểm hạn và khả năng của TKĐX A - Điểm hạn của TKĐX hoàn toàn phụ thuộc vào can chủ khắc của nó như sau : 156a/ - 1 trụ TKĐK (có can và chi của nó đều là chủ khắc) với 1 trụ khác: Nếu can chủ khắc của nó vượng ở lưu niên thì nó có 1đh. Nếu can chủ khắc của nó chỉ vượng ở đại vận thì nó chỉ có 0,75đh. Nếu can chủ khắc của nó ở tuế vận mà nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,5đh. Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì nó có 0,5đh. Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ mà thất lệnh và nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,25đh. 156b/(42;53a;70) - Điểm hạn của TKĐX bị giảm 2/3 nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 1 lực có 1đh (vd 42 ;157c) và TKĐX là vô dụng nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 2 lực cùng có 1đh (vd 70). Ðiểm hạn của TKĐX bị giảm 1/4 nếu can chủ khắc của nó bị khắc it nhất bởi 2 lực cùng có 0,7đh (vd 53a). 157/ – Nếu 1 trụ TKĐX (có can của nó là chủ khắc nhưng chi của nó chỉ là chủ xung hay các chi của nó là Thổ (hành của nó là Thổ)) với 1 trụ khác thì điểm hạn của nó hoàn toàn tương tự như các trường hợp TKĐK nhưng nó bị giảm ½ . 158/(68;161) – TKĐX* (có chi là Thìn và Tý) chỉ có khi các chi của nó ở gần nhau và các chi này không cùng ở trong tam hợp, khi đó điểm hạn của TKĐX* chỉ bằng 2/3 điểm hạn của TKĐX. 159/(12...) - Giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận nếu có các TKĐX (kể cả TKĐX*) thì ngoài điểm hạn chính của chúng, chúng còn được thêm điểm hạn phụ như sau: Nếu chúng có 2 trụ TKĐX với nhau thì chúng có thêm 0,05đh. Nếu .............. 3 ................. .............................................0,1đh. Nếu................4 .............................................................. 0,3đh. Nếu................5 .............................................................. 0,3.2đh. Nếu................6 .............................................................. 0,3.5đh Nếu ...............7 ...............................................................0,3.8đh ? B - Các tính chất của TKĐX 159a/ Một trụ TKĐX (là nói chung cho cả TKĐK, TKĐX* và TKĐK*) với tam hợp hay tam hội có X chi, nghĩa là tổ hợp này có tổng cộng X chi, còn với lục hợp hay bán hợp có X chi thì có nghĩa là chỉ có X-1 chi trong tổ hợp hợp với chi này. 160/(12) - Nếu đại vận hay lưu niên TKĐX với tiểu vận thì điểm hạn của nó bị giảm ¾. 160a/27 - Nếu tiểu vận TKĐX với đại vận hay lưu niên thì điểm hạn của nó được tính như bình thường. 160b/7 – 1 trụ có khả năng TKĐX với các bán hợp và ngũ hợp (ví dụ 125) hay các tam hợp và tam hội không hóa có từ 3 chi trở lên (ví dụ 53a) nhưng nó không có khả năng TKĐX với tam hợp cục hay tam hội cục có ít nhất 4 chi. (Chú ý : TKĐX với bán hợp hay tam hợp là chỉ tính chi của trụ TKĐX với các chi hợp với nó, còn TKĐX với tam hợp hay tam hội là tính tất cả các chi có trong tổ hợp đó). 161/55 – Nếu có it nhất 2 trụ giống nhau mà chúng chỉ TKĐX với 1 trụ khác thì điểm hạn của mỗi TKĐX được tăng ¼ . 162/(55;113;157a) – Một trụ (hay nhiều trụ giống nhau) TKĐX với ít nhất 2 trụ giống nhau thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm ¼ và nếu can chủ khắc khắc được 2 can của 2 trụ giống nhau này có điểm hạn thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm thêm ít nhất ¼ đh.. 163/62 - Nếu tuế vận cùng gặp hay 2 trụ giống nhau ở trong tứ trụ TKĐK với các trụ khác giống nhau thì điểm hạn chính của mỗi TKĐK này được tăng gấp đôi, khi đó các trụ khác giống với hai trụ này TKĐK với các trụ đó điểm hạn cũng được tăng gấp đôi (hay 25% , 50% ?). 164/ - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm. 165/55 – Nếu 1 trụ TKĐX với các trụ có các chi giống nhau của một tam hợp hay tam hội thì chúng chỉ được coi là TKĐX với 1 trụ của tam hợp hay tam hội đó. 166/(55;60;115) - Nếu lưu niên và trụ trong tứ trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực xung hay khắc tới trụ này đều được tăng gấp đôi (riêng với lực của TKĐX được tính cả 2 chiều), nhưng nếu can của lưu niên là chủ khắc mà nhược ở tuế vận thì điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này không được tăng gấp đôi (trừ khi có thêm ít nhất 1 trụ giống với lưu niên TKĐX với trụ đang mang vận hạn (?)). 167/ - (bỏ vì sai). 168/ – Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX* với nhau thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này được tăng gấp đôi ? (chưa có ví dụ để chứng minh). 169/128 - Tại năm sinh nếu trụ năm và lưu niên TKĐX với 1 trụ thì điểm hạn của các TKĐX này không được tăng ¼ (nhưng 1 trụ TKĐX với trụ năm và lưu niên vẫn bị giảm ¼ ?) 170/129 – Nếu tại năm sinh có một trụ trong tứ trụ và trụ năm (là trụ đang mang vận hạn) TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực tác động vào trụ năm được tăng gấp đôi (kể cả các lực hình, tự hình và hại) 171/134 - Dưới 12 tháng tuổi nhưng khác năm sinh nếu trụ năm bị 1 trụ trong tu tru TKĐX thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ năm chỉ được tăng ½. 172/59 - TKĐX là vô dụng khi nó có ít nhất 1 can của nó là tranh hợp thật hay can chủ khắc của nó hóa cục. C – Các chi của TKĐX hóa cục 173/(74;157b) - Nếu 4 trụ tạo thành hai cặp TKĐX khác nhau mà 4 chi của chúng hợp với nhau hóa thành 2 cục cùng một lúc và khắc nhau thì các TKĐX này chỉ phá được các hóa cục (trừ tam hội cục) nhưng vẫn còn các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn, trừ trường hợp 2 cặp TKĐX này có ít nhất 1 chi của chúng là Thổ thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hội cục) và các TKĐX vẫn có các điểm hạn như bình thường (riêng tam hợp cục vẫn còn tổ hợp nếu nó chỉ bị TKĐX bởi 2 cặp TKĐX này). 174/146 - 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục có hành giống hành của chi của chúng, nếu TKĐX và 2 hóa cục này cùng xuất hiện một lúc thì các cục bị phá (trừ tam hợp cục và tam hội cục) nhưng còn lại các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn. 175/57 - Nếu 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục nhưng ít nhất có một hóa cục có hành không giống hành của chi của nó thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hợp và tam hội) và điểm hạn của TKĐX vẫn có như bình thường. 176/61 - Nếu hai chi của TKĐK không là Thổ hóa thành 2 cục có hành giống hành của các chi của chúng thì TKĐX thành vô dụng khi trong chúng có ít nhất 1 hóa cục có trước TKĐX này. 177/89 – Nếu 2 chi của TKĐK không phải Thổ hóa cục có hành giống hành của các chi của chúng thì các hóa cục này không bị phá mà điểm hạn TKĐX được tăng gấp đôi chỉ khi TKĐX xuất hiện trước 2 hóa cục này hay cùng với một hóa cục nhưng trước hóa cục kia. D - Khả năng phá hợp của TKĐX 177a/ - Nếu các tổ hợp và các thiên khắc địa xung cùng xuất hiện thì các tổ hợp luôn luôn được tạo thành trước, sau đó chúng mới bị thiên khắc địa xung bởi các trụ. 178/(37;42) – 1 trụ TKĐX với bán hợp cục hay lục hợp cục có thể phá được cục nhưng vẫn còn tổ hợp của nó và phá được tổ hợp nếu nó không hóa cục nhưng nó không thể phá được các hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh nếu 2 chi của TKĐX này là Thổ. 179/60 – 2 trụ thiên khắc địa xung giữa tuế vận với Tứ trụ hay giữa tuế vận (kể cả tiểu vận) với nhau chỉ có thể phá được tam hợp không hóa có 3 chi giữa Tứ trụ với tuế vận nếu 2 chi của thiên khắc địa xung này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu còn nếu 2 chi này là Dần với Thân hay Tị với Hợi hoặc 2 chi này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu xung cách ngôi trong Tứ Trụ thì lực xung này phải không nhỏ hơn lực hợp. 180/(64;125) - Nếu 1 trụ TKĐK với 1 trụ mà chi của nó hợp với 3 chi giống nhau hóa cục thì TKĐX phá được cục này nhưng vẫn còn hợp và TKĐX phá được tổ hợp nếu chi này hợp với ít nhất 4 chi giống nhau không hóa. 181/136 - Nếu can của ngũ hợp ở tuế vận là chủ khắc hợp với can ở tuế vận và can trong tứ trụ thì liên kết của can chủ khắc với can ở tuế vận bị phá khi trụ của can bị khắc ở tuế vận TKĐX với trụ khác 182/ - (bỏ vì sai) 183/66 - Tam hợp cục bị phá cả cục lẫn hợp của nó khi có ít nhất 3 trụ TKĐX với nó. 184/55 – Nếu 2 trụ TKĐX với 1 trụ của tam hợp cục có 3 hay 4 chi (còn 5, 6...chi ?) thì chúng chỉ phá được cục nhưng vẫn còn hợp của nó và phá được hợp nếu nó không hóa cục. 185/157 - 2 trụ TKĐX với 2 trụ của tam hợp cục phá được cả cục và tổ hợp của nó. 186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó. 187/146– Từ 3 trụ trở lên TKĐX với ít nhất 2 trụ của tam hội cục trong tứ trụ mới có thể phá được cả cục và hợp của nó. 188/(69;113) - Chỉ có 2 trụ TKĐX* với nhau không phá được bán hợp của Tý với Thìn tại các chi của TKĐX* và TKĐX* này không có điểm hạn nếu 2 chi của nó hóa Thủy nhưng nếu có 2 trụ TKĐX* (hoặc 1 trụ TKĐX và 1 trụ TKĐX*) với 1 trụ của bán hợp này thì chúng phá được cả cục và hợp tại chi của trụ đó. Ví dụ minh họa Ví dụ 49 (Giải Mã Tứ Trụ): Đây là Tứ Trụ của cụ Thiệu Ung (Thiệu Khang Tiết) một đại sư lừng danh của Trung Quốc (mà cụ Thiệu Vĩ Hoa là cháu nội đời thứ 29) do nick LingLingLing đã đưa ra thách đố tôi dự đoán trong chủ đề “Uyên Hải Tử Bình - Thiệu Vĩ Hoa” tại mục Tử Bình bên trang web tuvilso.com (nay là tuvilyso.org) vào khoảng đầu năm 2007. Xét hạn năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu tức tuế vận gặp nhau. Sơ đồ mô tả các điểm hạn như sau: Năm cụ Thiệu Ung 46 tuổi là năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu, tiểu vận Đinh Hợi và Bính Tuất. Ta xét tiểu vận Bính Tuất. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn đủ, quan sát cũng đủ nên dụng thần đầu tiên phải là thực thương Đinh tàng trong Tuất ở trụ giờ. 2 – Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. 3 – Năm Đinh Dậu và đại vận Đinh Dậu tức tuế vận cùng gặp có 1đh (vì đinh vượng ở lưu niên). 4 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 5 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh. 6 – Đinh đại vận và Đinh lưu niên đều vượng ở lưu niên có -1đh và khắc 2 Tân, vì vậy mỗi lực có 0,7đh. 2 Tân thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên, vì vậy mỗi Tân có -0,5đh nhưng bị 2 Đinh khắc còn -0,5.0,3.0,3đh = .0,05đh. Dậu thái tuế và Dậu đại vận, mỗi Dậu có 1 hung thần có 0,25đh. Tuất tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh. 7 - Dậu đại vận tự hình Dậu thái tuế có 1đh, hại Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì nó là lực thứ 3). Dậu thái tuế bị hình nên vẫn hại được Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì là lực thứ 3 bởi Dậu thái tuế và Dậu đại vận tự hình với nhau). 8 - Nạp âm Lửa dưới núi ở tuế vận có can Đinh vượng ở lưu niên nên khắc kim trang sức trụ năm, đất trên tường trụ tháng và đất mái nhà tiểu vận, vì vậy mỗi lực khắc có 1.1/3đh = 0,33đh (vì Đinh đã sử dụng 1,5đk), riêng lực khắc nạp âm tiểu vận chỉ có 0,33.1/4đh = 0,08đh (khắc nạp âm tiểu vận bị giảm 3/4 đh). Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên khắc đất trên tường và kim trang sức, vì vậy mỗi lực chỉ có 0,5đh . 9 – 2 Đinh ở tuế vận là Thương quan gặp Quan là Tân trụ năm nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). Tổng số là 9,81đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) : “270/49 - Nếu 3 chi của tam hội trong Tứ Trụ liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm ½ chỉ khi có ít nhất 2 trụ của nó động”. Nếu sử dụng giả thiết này thì ở đây trụ năm và trụ tháng động (vì có 2 can Tân hay 2 nạp âm của nó bị khắc, còn trụ ngày tĩnh vì can, chi và nạp âm của nó không tác động với bên ngoài), do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 9,81.1/2dp = 4,91đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Cụ Thiệu Ung là một nhà dịch học nổi tiếng nên biết cách giải cứu. Thực tế gia phả của nhà cụ có viết “Mặc dù được vua mời ra làm quan trong triều đình nhưng cụ đã khước từ. Mãi đến khi qua năm Đinh Dậu cụ mới nhận lời và ra làm quan“. Qua đây chúng ta thấy đại vận Đinh Dậu là đại vận Thương quan (Đinh) gặp Quan (Tân ở trụ năm và tháng) và lại là đại vận có hình và hại (bởi vì có Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ và tự hình Dậu thái tuế). Do vậy cụ biết đến năm Đinh Dậu tuế vận cùng gặp là năm hạn rất nặng, nên cụ vẫn chưa ra làm quan mà ở nhà để giải hạn (có thể cụ đã vào chùa hay sống ẩn dật trên núi cao hay rừng sâu để giải hạn). Ta xét năm Đinh Tị Cụ Thiệu Ung mất khi 66 tuổi, đó là năm Đinh Tị thuộc đại vận Ất Mùi, tiểu vận Mậu Thìn và Đinh Mão. 1 - Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. Vào đại vận Ất Mùi và năm Đinh Tị có Tị thái tuế xung hợi trụ năm và thêm Mùi đại vận xung Sửu trụ tháng cũng như giả sử đại vận Ất Mùi TKĐX với trụ tháng Tân Sửu và lưu niên ĐinhTị TKĐX với trụ năm Tân Hợi cũng không thể phá được tam hội này. 2 – Ta đã biết từ 65 tuổi đến 85 tuổi trụ mang vận hạn lại trở về trụ năm, nên tất cả các lực xung hay khắc vào trụ năm đều được tăng gấp đôi. Do vậy Lưu niên Đinh Tị TKĐK trụ năm Tân Hợi có 2.0,5đh (vì Đinh vượng ở lưu). Trụ tháng Tân Sửu TKĐX với đại vận Ất Mùi có 0,13đh (vì can Tân thất lệnh lại còn nhược ở tuế vận). Có 4 trụ TKĐX với nhau nên có thêm 0,3đh. 3 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 4 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh. 5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu nên có -1đh can động và khắc 2 Tân nên mỗi lực có 0,7đh, nhưng lực khắc Tân trụ năm được tăng gấp đôi thành 1,4đh. Ất đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh can động và khắc Mậu tiểu vận có 1.1/2.1/2 đh = 0,25đh (vì khắc trái dấu và khắc vào can tiểu vận). Ất còn có 1 cát thần có -0,25đh. 6 – Mùi đại vận hình Tuất trụ giờ có 1đh. 7 - Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên chỉ khắc được đất trên tường trụ tháng và kim trang sức trụ năm có 1đh, vì vậy mỗi lực có 0,5đh, riêng lực khắc kim trang sức của trụ năm được tăng gấp đôi thành 1đh. Cát trong đất lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được kim trong cát của đại vận có 1đh. 8 – Đinh lưu niên là Thương quan gặp Quan là Tân ở trụ năm và trụ tháng nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). Tổng số có 6,91.1/2đh = 3,96đh (vì tam hội trong tứ trụ có 2 trụ của nó động). Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dị này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) : "186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó". Nếu sử dụng giả thiết này thì tam hội Hợi Tý Sửu trong tứ trụ bị phá. Tổng số là 8,61đh (số điểm hạn được mô tả ở sơ đồ trên) và nó không được giảm ½ (vì tam hội cục đã bị phá). Vì số điểm hạn quá cao nên cách đây vài trăm năm nhà mệnh học Thiệu Ung đã không tự giải cứu được.
    1 like
  23. Ví dụ minh họa về khả năng tranh phá hợp của các địa chi. Sau đây là ví dụ trong chủ đề "Khả năng tranh phá hợp của các địa chi" tại mục "Tử Bình-Bát Tự" này. "Đây là ví dụ thứ 3 trong "Kỳ 4. Lấy lộc là tài" cuốn "Bát Tự Trân Bảo" của Đoàn Kiến Nghiệp được dịch bởi Phiêu Diêu trong mục Tử Bình bên trang web: "Huyền Không Lý Số". "Ví dụ. Khôn tạo Đinh Mùi - Kỷ Dậu - ngày Tân Sửu - Tân Mão Mệnh này rất nhiều người lấy tài làm dụng thần, mão mộc cực suy, không có nguyên thần sanh trợ, về lý không thể làm dụng thần. Lấy lộc làm dụng thần, tài sát là kỵ thần. Vận quý sửu, năm canh thìn, cùng với người khác hợp tác đầu tư sản xuất dụng cụ chữa bệnh, kiếm rất nhiều tiền. Sửu thổ sanh kim, thìn thổ sanh kim, canh kim cũng không phải là kỵ thần lắm, là hợp tác với nhiều người đa phần về tiền bạc mà thôi." Qua đoạn dịch này tôi không hiểu khi ông Đoàn Kiến Nghiệp đã "Lấy lộc làm dụng thần, tài sát là kỵ thân" thì dĩ nhiên ta phải hiểu Kiêu Ấn (Thổ) và Tỷ Kiếp (Kim) phải là hỷ dụng nhưng câu sau ông ta lại viết "canh kim cũng không phải là kỵ thần lắm" . Vậy thì ở đây phải hiểu như thế nào khi ông ta lấy Dậu (Kim) là Lộc làm dụng thần thì Canh không phải là Kim thuộc hành của dụng thần hay sao ? Sau đây tôi sẽ chứng minh điều ông ta luận "Sửu thổ sanh kim, Thìn thổ sanh kim" nên phát Tài xem có đúng hay không ? Sơ đồ minh họa "Vận quý sửu, năm canh thìn" như sau: Trong tứ trụ có bán hợp của Sửu trụ ngày với Dậu trụ tháng hóa Kim nhưng trụ ngày bị trụ năm thiên khắc địa xung nên Kim cục bị phá chỉ còn tổ hợp. Do vậy điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm như trên. Năm Canh Thìn thuộc đại vận Quý Sửu, tiểu vận Giáp Tý và Ất Sửu. Ta xét tiểu vận Giáp Tý. 1 - Tứ trụ này có Thân quá vượng mà Kiêu Ấn lại nhiều nhưng không thể là cách Kim độc vượng bởi vì có Đinh trụ năm được lệnh là Quan Sát của Thân Kim, vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất tàng trong Mão trụ giờ. 2 - Theo sơ đồ trên ta thấy lực hợp của Sửu đại vận với Tý tiểu vận là (3 (của Sửu đại vận tại Sửu đại vận) + 2.5,1 (2 lần tại Thìn lưu niên)).1/3 (lấy điểm trung bình).1/2 đv (vì Sửu phải hợp với Dậu trụ tháng) = 2,2 đv là nhỏ hơn lực hợp của Thìn thái tuế với Tý tiểu vận là 8 (của Thìn tại Thìn thái tuế).1/2 đv (vì Thìn cũng phải hợp với Dậu trụ tháng) = 4 đv. Ta xét tiếp lực hợp của Tý tiểu vận với Thìn lưu niên là (5,1 (của Tý tại Sửu đại vận) + 2.3 (2 lần tại Thìn thái tuế)).1/3 (lấy điểm trung bình).1/2 đv (vì Tý phải hợp với Sửu đại vận) = 1,85 đv là lớn hơn lực hợp của Dậu trụ tháng với Thìn thái tuế là (9 (của Dậu tại lệnh tháng) + 4,2 (tại Sửu đại vận) + 2.3 (2 lần tại Thìn thái tuế).1/4 (lấy điểm trung bình). 1/3 (vì Dậu hợp với 2 Sửu và Thìn thái tuế) đv = 1,6 đv. Xin sửa lại đoạn này như sau: Lực xung của Mùi trụ năm với Sửu đại vận là (6 (tại lệnh tháng) + 3 (tại Sửu đại vận) + 2.5,1 (tại lưu niên)).1/4 đv (tính điểm vượng trung bình).1/2 đv (vì Mùi phải hợp với Mão trụ giờ)= 2,4 đv là lớn hơn lực hợp của Dậu với Sửu đại vận. Lực xung của Mùi với Sửu trụ ngày bị giảm thêm 1/3 (vì cách 1 ngôi) và giảm 2/3 (vì Mùi phải sinh cho Dậu gần), vì vậy nó chỉ còn 2,4.2/3.1/3 đv = 0,53 đv là nhỏ hơn lực hợp của Dậu với Sửu trụ ngày. Lực xung của Mão trụ giờ với Dậu trụ tháng là (3,1 + 5,1 + 2.8).1/4 (điểm trung bình).1/2 (vì Mão hợp với Mùi trụ năm).1/3 (vì Mão phải khắc Sửu gần).2/3 (vì Mão xung Dậu cách 1 ngôi) đv = 0,67 đv là nhỏ hơn lực hợp của 2 Sửu với Dậu. Do vậy Thìn thái tuế hợp được với Tý tiểu vận hóa Thủy còn Dậu trụ tháng chỉ hợp được với Sửu trụ ngày không hóa được Kim vì trụ năm Đinh Mùi thiên khắc địa xung với trụ ngày Tân Sửu và đại vận Quý Sửu nhưng nó vẫn còn bán hợp (vì 2 Sửu trong 2 trụ của bán hợp bị thiên khắc địa xung giống nhau). Từ đây ta thấy chính Thủy cục này có tác dụng xì hợi Thân vượng để sinh cho Tài mộc, vì vậy mà người này đã phát tài (Kỷ trụ tháng mặc dù được lệnh nhưng suy nhược ở tuế vận nên lực khắc của nó với Quý đại vận và Thủy cục không mạnh (lực khắc này bị giảm 3/4), vì vậy Quý vẫn khắc được Đinh trụ tháng và cùng Thủy cục có thể sinh cho Tài mộc). Qua ví dụ này chứng tỏ ông Đoàn Kiến Nghiệp không hề biết đến cách tính các lực tranh phá hợp của các địa chi nên mới ngộ nhận lấy Lộc (Kim) làm dụng thần cho Tứ Trụ này mà Thân kim đã quá vượng còn thêm "Sửu thổ sinh Kim, Thìn thổ Sinh Kim", Kim cực vượng thì phát tài kiểu gì khi Tứ Trụ không phải cách Kim Độc Vượng?". Chú ý: Một chi khắc với một chi hay với nhiều chi thì các lực khắc này không bị giảm và chúng bằng nhau (trừ khi khắc chi cách ngôi hay phải sinh hay khắc với chi....như lý thuyết đã đề cập), còn một chi hợp với nhiều chi thì lực hợp của chi này với mỗi chi chỉ bằng phần thương của lực khắc của nó chia cho số chi mà nó phải hợp và riêng mỗi lực hợp này bị giảm thêm nếu .....(như lý thuyết đã đề cập).
    1 like
  24. 1 like
  25. THIÊN SỨ ĐẢ HỔ. Có một hôm, Thiên Sứ tôi len lỏi vào rừng để tầm long điểm huyệt. Đang say sưa nhìn ngó, chợt một bóng con thú to lớn đang vun vút lại gần. Tôi giật mình nhìn lại thì ra là một con cọp cực lớn, to bằng ba con bò mộng. Trời phen này chết chắc! Bản năng sinh tồn khiên tôi nghĩ ngay: "Phải dùng mẹo, sức mạnh không thể chơi lại với con cop này!". Con cọp từ từ đến gần, mắt nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi lập tức thủ tấn theo thế "Bạch Hạc đạp tuyết", một chân co lên, hai tay vươn dài, bàn tay cúp xuống. Con cọp dừng lại cách tôi khoảng hơn 10m, có vẻ quan sát . "Chắc mày tưởng tao là loài chim hả? Có lẽ mày đang suy tính vồ tao khi tao bay lên hả?". Nói thì chậm nhưng tôi suy nghĩ rất nhanh. Tôi bèn chuyền sang thế "Đại bàng vồ mồi", xoay người nghiêng sang một bên, hai chân hơi nghiêng sang phải vì khuỵu chân phải và lùi về phía sau, thân trện và đầu cổ hướng về phía trước. Hai tay hơi hạ xuống thấp hơn vai, bàn tay vẫy nhẹ và vẫn hơi cụp xuống. "Giống chim chưa?". Con cọp dừng lại, chân sau hơi khuỵu xuống, chân trước chống thẳng rất uy dũng, đuôi hơi đâp đập. "Cha! Mày lại vẫy đuôi mừng tao hà?" - Không phải - trí nhớ của tôi phục hồi rất nhanh - những câu chuyện xem từ thời niên thiếu về xứ sở của núi rừng nhắc tôi rằng: "Con cọp chuẩn bị vồ!". Thôi thì đàng nào cũng chết, tôi chuẩn bị dùng thế "Kim thuyền thoát xác" biến khỏi chỗ đứng, như con ve lột nhô lên, rồi bất ngờ thụp xuống, chuyển thành thế "mãnh xà đoạn hang" lao cả thân hình thẳng cứng vào ngay miệng cọp cho nó nghẹn thở, cả hai đếu chết. Con cọp gần lên một tiếng vang đông cả núi rừng rồi nhẩy tới vồ vào người tôi. Con cọp chưa kịp phóng lên thì tôi hơi nhô người lên rồi chuyển thành thế "mãng xà đoạn hang" lao tới. Nhưng có lẽ do sức yếu, tôi chúi hơi thấp. Con cọp vọt qua đầu. Nhanh như cắt. tôi xoay người lại. Con cọp cũng vừa chồm tới đất. chóp đuôi con cọp vươn dài quyệt vào mặt tôi, rát như ăn tát. Tôi chợt nhìn thấy trên mông con cọp có một vết loét to bằng cái bát đang mưng mủ. Không bỏ lỡ thời cơ, Tôi hết lên một tiếng "Ki..a" rồi phóng người dùng thế "song long xuất hải", chơi ngay hai phi cước như trời giáng vào thẳng cái mụn to ở mông con cọp. Trước sức mạnh 50 cân móc hàm của tôi công với lực bay tới, con cọp gầm lên một tiếng, lạng hẳn người sang một bên. Tôi định lao tới dùng thế "Đại bàng độc lập", đạp ngay một cước vào cổ họng con cọp rồi muốn ra sao thì ra. Nhưng con cọp oằn người lại rất nhanh, rồi phóng ra phía trước. Nó chạy bạt mạng với chân sau cà nhắc, vừa chạy vừa la lên: "Thằng này chơi ăn gian, đạp trúng cái mụn của ông! Ông mà không bị đạp trúng cái mụn ở mông ông thì ông sẽ mày biết tay!". Kinh chưa? Lần đầu tiên tôi nghe con cọp nói vậy đấy. Tôi biết rằng tôi có nói ra cũng chẳng ai tin. Thôi nhưng thoát chết cũng may rồi.
    1 like