-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 22/09/2011 in all areas
-
Quán vắng!
tranlong07 and 3 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tranh chấp Biển Đông: Hết sức tránh vũ lực Cập nhật lúc :8:24 AM, 22/09/2011 (Đất Việt) Nếu dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp Biển Đông sẽ gây ra điều bất lợi với tất cả các bên, không loại trừ Trung Quốc. Để giải quyết vấn đề này, các bên phải khẩn trương cùng nhau thương lượng dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và thừa nhận hiện trạng. Đây là một trong những nhận định được đưa ra tại hội thảo quốc tế Hợp tác vì hòa bình an ninh và phát triển khu vực trong bối cảnh mới, do Viện KHXH Việt Nam tổ chức ngày 21.9. Hội thảo đã thu hút rất nhiều học giả đến từ các nước trong khu vực, trao đổi giải pháp có thể giải quyết những tranh chấp ở khu vực biển Đông một cách hòa bình, tránh xẩy ra xung đột trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Các học giả tại hội thảo. Trung Quốc đang làm “nóng” biển Đông Tới từ Philipines, GS Renato Cruz De Castro, thuộc ĐH DeLa Salle, cho rằng nếu nhìn lại cách tiếp cận của Trung Quốc (TQ) ở biển Đông chứng tỏ họ đã sử dụng các thủ thuật ngoại giao dưới vỏ bọc tuyên bố hòa bình để đạt được mục đích là tuyên bố chủ quyền trên biển của mình với yêu sách đường chữ U, bất chấp lợi ích của quốc gia khác và lợi ích quốc tế. “Tình hình biển Đông trở nên tồi tệ hay khả quan đều phụ thuộc vào cách ứng xử của TQ”, ông Renato nói . Đến từ Viện Okazaki, Nhật Bản, ông Tetsuo Kotani cho biết trong lịch sử trước đây, những người trị vì TQ không mấy quan tâm tới các vùng biển. Ngày nay, TQ đang tập trung nhiều nguồn lực để xây dựng sức mạnh trên biển vì mục đích an ninh năng lượng và an ninh tuyến đường biển. “Sự ổn định tại đông Á phụ thuộc vào sự cân bằng giữa thế lực trên đất liền TQ, Nga và Ấn Độ và thế lực trên biển là Mỹ và Nhật. Sự bành trướng trên biển của TQ có thể làm bất ổn định sự cân bằng này. Càng tìm sự thống trị đối với các đường biển quốc tế thì TQ càng chỉ thu hút thêm sự thù dịch”, ông Tetsuo Kotani nói. Thừa nhận khu vực biển Đông đang chứng kiến áp lực gia tăng về vấn đề tiếp cận nguồn tài nguyên biển, bà Xu Fang, Viện nghiên cứu Biển Đông (Hải Nam, TQ) cũng cho rằng: “Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của những quốc gia tiếp giáp biển Đông đã thúc đẩy nhu cầu về các nguồn tài nguyên như dầu và khí đốt. Một số quốc gia đã bắt đầu tiếp cận nguồn tài nguyên giàu tiềm năng trong khu vực tranh chấp, tạo ra nguy cơ không nhỏ đe dọa đến hòa bình và ổn định khu vực”. Sự vô lý của “bản đồ hình chữ U” Bàn về sự vô lý của yêu sách đường bản đồ 9 đoạn mà TQ tuyên bố, GS Barry Wain, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Singapore), khẳng định: “TQ cần phải được nhắc nhở về bản đồ đường chữ U. Mặt khác nhà lãnh đạo TQ cũng phải tỏ rõ quan điểm về bản đồ này trước dư luận thế giới”. Từ yêu cầu trên, bà Xu Fang cho biết tại TQ hiện nay, quan điểm về đường chữ U không còn được coi là phổ biến. Theo đó, ngay cả những nhà lãnh đạo nước này cũng đang tỏ ra lo ngại về bản đồ chữ U nên chưa đưa ra kết luận cuối cùng về vấn đề này. Bà Xu Fang nhấn mạnh: “Bản thân TQ cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề bất ổn nội bộ. Chính vì thế nếu ai đó cho rằng TQ sẽ dùng vũ lực để giải quyết vấn đề tranh chấp trên biển Đông thì quả là ý tưởng mơ hồ và rất khó trở thành hiện thực. Chúng ta cần có niềm tin về quan hệ giữa TQ với các nước Đông Nam Á, sẽ hợp tác chia sẻ lợi ích một cách công bằng trong khu vực”. Đồng tình với quan điểm này GS Võ Đại Lược (nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam) cho rằng nếu dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp biển Đông sẽ gây ra điều bất lợi với tất cả các bên, không loại trừ TQ. “Để giải quyết vấn đề này, các bên phải khẩn trương cùng nhau thương lượng dựa trên cơ sở luật pháp Quốc tế và thừa nhận hiện trạng. Ngoài ra, cuộc thương lượng này cần có sự góp mặt của các quốc gia bên ngoài khu vực tranh chấp”, GS Lược nói. Tuy nhiên theo GS Nguyễn Duy Long, Chuyên viên cao cấp Viện nghiên cứu Đông Nam Á, giải quyết xung đột trên nằm ở vấn đề là phải tìm ra lợi ích tổng thể giữa TQ với Đông Nam Á. Mặt khác, bản thân TQ cũng phải nhìn lại mối quan hệ tổng thể của mình với tất cả các nước Đông Nam Á, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn về chính trị, văn hóa… “Tại sao chúng ta chỉ nhấn mạnh tới bất đồng mà bỏ qua sự tương đồng rất lớn giữa các bên? Nếu không nhìn thấy sự tương đồng thì không thể tìm ra những kiến giải cho những xung đột và tranh chấp hiện nay trong khu vực”, GS Long nhận định. Tuyết Trịnh ========================== Không thể đem chủ quyền biển đảo quốc gia để bàn được! Vớ vẩn! Tương đồng là tương đồng cái gì về chủ quyển biển đảo của Việt Nam? Đừng có xập xí xập ngầu. Nhìn thấy tương đồng rồi thì làm sao? Chia đôi biển đảo với họ à? Thừa nhận hiện trạng là thế nào? Vớ vẩn! Có nghĩa là cái gì Trung Quốc đã chiếm của Việt Nam thì để nguyên đấy àh? Vậy thì khi họ chiếm hết nước Việt cũng thừa nhận hiện trạng à! Ở đây là những vùng biển đảo bị mất, chưa lấy lại được thì kiên quyết phản đối! Nhờ quốc tế lên tiếng ủng hộ, cho đến khi nào lấy lại được. Không có vấn đề thừa nhận hiện trạng. Đúng là loại tư duy "ở trần đóng khố!". Không dùng vũ lực để giải quyết sự tranh chấp biển đảo ở biển Đông là thích hợp trong hoàn cảnh hiện nay.Nhưng không phải mọi chuyện không có giới hạn của nó. Cá nhân tôi không có gì để gọi là thừa nhận hiện trạng và đi tìm điểm tương đồng với những kẻ chiếm biển đảo của Việt Nam.4 likes -
Chào anh Vudang! Cho em có vài dòng góp ý với anh. Anh em mình người ngoài 40 và em cũng gần 40. Trước đây em chưa tiếp xúc được với các anh bên Trung tâm nghiên cứu Lý học Phương Đông (LHPĐ) ở ngoài diễn đàn. Sau một thời gian vài tháng theo dõi diễn đàn dưới dạng khách. Lúc dưới dạng khách, em chỉ thích đọc các mục về thông tin văn hóa hơn là về phong thủy của diễn đàn. Vì em cảm thấy phong thủy trên các sách báo và mạng vẫn in bán và quảng cáo tràn lan nó cứ như ma trận. Vì bản thân em và bà xã (BX) đều thích ứng dụng phong thủy. Rồi năm 2005 em tập tành ứng dụng phong thủy vào ngôi nhà của em. Tất nhiên em chỉ ứng dụng màu sắc, bố trí vật dụng kê chỗ này đặt chỗ kia thôi, sỏi đá, bể cá treo tường, trồng cây, gương bát quái, đèn đóm linh tinh thôi (làm theo sách bán ngoài chợ). Nói chung là làm loạn cả lên. Vì lúc đó làm ra tiền mà anh, nên sửa cứ như phim vậy đó. Đến nỗi hàng xóm còn khen chịu khó sửa sang nhà cửa. Không biết ứng dụng thế nào từ các sách bán ngoài chợ theo mấy bác Phang-sủi (Fengsui - Phengsui) bên Tàu có tốt lên không. (mặc dù BX em là dân Tàu chính hiệu ở Hòa Mã - HN và em chưa hề biết gì àh là Việt Nam mình có một hệ thống Phong thủy Lạc Việt xa xưa như thế đâu). Em kể hơi tỉ mỉ một chút mong anh chịu khó đọc cho em. BX em đang làm chức trưởng phòng một phận khá tốt, thê là đâu sau vài tháng chỉnh sửa đó. Thì, BX em mất chức đó. Bị chuyển sang bộ phận khác nhàn hơn cũng là trưởng phòng nhưng không có màu. Còn em lúc đó đang làm ở một cơ quan công quyền cũng đang ngon lành cành đào thì trở thành vô duyên. BX em thì cứ tưởng tại phe cánh không hạp lên mới thế. Nhưng lúc đó em đã linh tính thấy những điều mình làm là có gì đó sai rồi. Nhưng không dám nói ra, nói ra thì sợ BX em buồn. Thế là em lại đổi màu nhà lần nữa, lại di chuyển đồ đạc, lại tăng thêm gương bát quái vào các cửa. Rồi bê thêm mấy cục đá ở suối về để vào trong nhà theo hướng mà sách Phangsui Tàu chỉ. Rồi cứ thế là làm gì thiệt cái nấy. Thế là ở mãi mà chẳng thấy thay đổi. Bố Mẹ thấy thương con nên giúp phụ thêm cho em mua căn nhà khác. Thế là em cẩn thận hơn trong việc ứng dụng phong thủy. Em bắt đầu đi tìm thầy xem PT, và rồi tìm được Trung tâm NCLHPĐ này. Sau một thời gian theo dõi. Em thấy Trung tâm do Chú Thiên Sứ sáng lập và Chủ trì đúng là đúng Thầy đúng việc rồi. Không còn chần chừ gì nữa. Em điện thoại lên ngay Trung tâm xin lên gặp ngay ai có thể tư vấn cho em được. Ngày đầu lên em gặp mấy anh em còn trẻ em cũng hơi nghĩ ngợi. Nhưng rồi tan biến ngay khi họ bảo em vẽ và mô tả sơ qua căn nhà em. Và từng bước từng bước một anh em tư vấn ngay. (Đúng luật là gieo quẻ là ăn tiền ngay) Nhưng các anh em rất lịch sự tiền nong khoan vội tính, nếu có tính thì cũng rất mềm. Tư vấn cho khách hàng thấy cái đã. Giờ em hiểu tại sao em sai. Mà cái sai này thì chỉ có những người Mệnh Thủy và Hỏa biết thôi. Vì em cứ như mọi người nghĩ mình mệnh Thủy nên cứ đè những cái gì sinh hoặc dưỡng thủy mang vào áp dụng. Rốt cuộc đúng đâu không thấy, thấy tơi bời hoa lá luôn. Thà không áp dụng còn hơn. Do đó những người mệnh Thủy và Hỏa theo như em biết có sự thay đổi ngoạn mục này từ TT-NCLHPĐ này phải cẩn thận áp dụng Phang-sủi Tàu. Vài dòng tâm sự đến anh. Em có lời khuyên anh Vudang nên mời các anh em bên Trung tâm đến tư vấn trực tiếp cho mình là tốt nhất. Vì khi tiếp xúc với mình, các anh em bên Trung tâm sẽ cho mình thấy thêm nhiều cái. Mà trên diễn đàn này không thể tiện nói ra hết được. Do đó em không ủng hộ lắm các anh, chị đã có nhà riêng, văn phòng, công ty hoặc làm chủ gia đình xin tư vấn đến tận cùng của vấn đề. Em chỉ góp ý với các anh chị lớn tuổi hơn em mà thôi. BĐG3 likes
-
1 like
-
anh cứ bình tính nhé!Hạt gạo làng sẽ tư vấn cho anh để tốt nhất là vẫn ở đó mà không phải chuyển đổi. Thân mến1 like
-
Sống lâu : Đêm 7, ngày 3, vào ra không kể . MƯỜI NGUYÊN TẮC THỌ THÊM NHIỀU TUỔI Xin Quý vị chỉ cần nhớ : * Ðêm Bảy : ngủ trên 7 giờ trong một đêm * Ngày Ba : một ngày ăn ba bữa hay nhiều hơn. * Vô ra không tính : mỗi lần đi ra hoặc đi vô, nhớ uống nhiều nước. 1. Câu châm ngôn thứ nhất: “Trongthiên hạ, không có chuyện làm biếng màcó thể có một thân thể khỏe mạnh.” 2. Câu châm ngôn thứ hai: -Ðối với những việc không vui vẻ của dĩ vãng và nghịch cảnh, không thấy khó chịu. -Ðối với những ngày sắp tới không có ước vọng quá cao, nhưng luôn cầu bình an hạnh phúc. 3. DƯỠNG 1. Bảo dưỡng. 2. Dinhdưỡng. 3. Tu dưỡng. 4. QUÊN 1. Quên tuổi tác. 2. Quên tiền tài. 3. Quên con cái. 4. Quên buồn phiền. 5. PHÚC 1. Có thân thể mạnh khỏe, gọi làphúc. 2. Có vui thú đọc sách, gọi là phúc. 3. Có bạn bè tri kỷ, gọi là phúc. 4. Có người nhớ đến anh, gọi là phúc. 5. Làm những việc mà mình thích làm, gọi là phúc. 6. VUI 1. Một vui là hưu nhưng không nghĩ. 2. Hai vui là con cái độc lập. 3. Ba vui là vô dục tắc cương. 4. Bốn vui là vui vẻ vấn tâm mà không xấu hổ.. 5. Năm vui là có nhiều bạn hữu. 6. Sáu vui là tâm tình không già. 7. SUNG SƯỚNG 1. Biết đủ thường sung sướng. 2. Biết giải trí khi nhàn rỗi. 3. Biết đắc chí tìmniềm vui. 4. Khi cấp thời biết tìm niềm vui. 5. Biết dùng người làm vui. 6. Biết vui khi hành thiện. 7. Bình an là vui nhất. 8. CHÚT XÍU 1. Miệng ngọt ngào thêm một chút nữa. 2. Ðầu óc hoạt động thêm một chút nữa. 3. Nóng giận ít thêm một chút nữa. 4. Ðộ lượng nhiều hơn một chútnữa. 5. Lòng rộng rãi thêm một chút nữa. 6. Làm việc nhiều thêm một chút nữa. 7. Nói năng nhẹ nhàng thêm chút xíu nữa. 8. Mĩm cười nhiều thêm chút nữa. 9. THƯỜNG 1. Răng thường ngậm. 2. Nước miếng thường nuốt. 3. Mũi thường vê. 4. Mắt thường động. 5. Mặt thường lau. 6. Chân thường xoa (bóp). 7. Bụng thường xoay. 8. Chi thường vươn. 9. Hậu môn thường co bóp. 10. NGUYÊN TẮC KHỎE MẠNH 1. Ít thịt, nhiều rau. 2. Ít mặn, nhiều chua. 3. Ít đường, nhiều trái cây. 4. Ít ăn, nhai nhiều. 5.Ít áo, tắm nhiều. 6. Ít nói, làm nhiều. 7. Ít muốn, bố thí nhiều. 8. Ít ưu tư, ngủ nhiều hơn. 9. Ít đi xe, đi bộ nhiều. 10. Ít nóng giận, cười nhiều hơn. Lưu ý 10 điều trên nếu thấy quá nhiều và khó nhớ ! Xin Quý vị chỉ cần nhớ : * Ðêm Bảy : ngủ trên 7 giờ trong một đêm * Ngày Ba : một ngày ăn ba bữa hay nhiều hơn. * Vô ra không tính : mỗi lần đi ra hoặc đi vô, nhớ uống nhiều nước.1 like
-
Ảnh chụp ở Hoa Kỳ hồi năm 2008/ 2009 góp vui với anh chị em.1 like
-
cam ơn anh hgl ! tôi cũng chỉ , sơ sơ như thế , để xem sao thôi ! tôi hiểu ý anh nói mà ! còn lập tử vi , thì tôi biết , chứ không phải cop py từ đâu ra cả ! trong phong thủy , tôi thấy , người ta chú ý đến hai vấn đề là ! loan đầu {thể } và lý khí { dụng } . ở đây , ta không biết , khu đât có nhà anh ta ở ra sao , chỉ biết , hướng mà anh ta cho biết mà thôi { tức là vấn đề về lý khí } . mà vấn đề này , thì : cả dương trạch và âm trạch , đều phải coi trọng mà ! sách viết về phong thủy của thánh tả ao , cũng dậy như vậy ! đặc biệt ở phần : luận về thủy pháp , người ta cũng chỉ ra những gì , liên quan đến , vòng sao tràng sinh đó thôi ! v.v. thôi nhé , cùng trong nghề cả , không cần phải tranh luận nhiều , đúng không anh ! tôi vẫn luôn luôn theo dõi ở diễn đàn , để học hỏi , có gì anh cứ góp ý nha ! chào anh !1 like
-
chào anh ! anh sinh 1966 - bính ngọ ! cung phi của anh là : đoài - , quái số : 7 , thất xich kim ! thuộc nhóm người : tây tứ trạch ! nếu hướng nhà anh , thuộc : hướng bấc { nằm trong cung tý } , thì thuộc hướng : họa hại ! { trong bát quái -cửu cung } . do vậy ! tuy không hợp , so với tuổi của anh , song cũng không đến lỗi quá nguy đâu ! lại thêm , trước hướng nhà , có nhà khác cao tầng , che chắn như vậy , chắc có ảnh hưởng đến vận khí , trước khi vào nhà mình , rồi ! lại còn , ban thờ ở trên gác 2 , cùng theo hướng nhà như vậy , thì cũng chưa được ! hướng nhà anh { bắc - tý } , rơi vào cung : sao mộc dục , trong vòng tràng sinh của anh { giờ : ngọ , 17/4/ bính ngọ , mộc tam cục , dương nam , tràng sinh , khởi ở : hợi , đi thuận } , cũng chỉ là : tạm tạm được ! sơ bộ , như vậy đã nhé ! rõ ràng là cần hóa giải hướng nhà rồi ! song cần chút thời gian , nghiên cứu kĩ hơn , sau đó , mới tư vấn cho anh , cách hóa giải được ! chờ lần sau , gặp lại ! chào anh !1 like
-
Nhà này phạm tiểu không vong nên mọi việc đều bị xáo trộn như vậy nếu đúng là đo được 7 độ bắc.Nhà tuy hợp hướng chính do bị tiểu không vong nên như vậy Anh đưa vào topic của tôi - tư vấn phong thủy - Hạt gạo làng, tôi sẽ xem giúp cho anh. http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/21864-tu-van-phong-thuy-hat-gao-lang/page__st__180 Thân mến1 like
-
Thưa SP, có ai dám gọi Nhật Bản là nước nhỏ không? hay gần hơn là Singapore? hay người ta gọi Singapore là nước bé. Chúng ta nên gọi là nước bé hay nước yếu thì đúng hơn Việt nam không phải là nước nhỏ. Đây là cách mà VL thấy về mặt ngoại giao các cán bộ ta hay nói Trung quốc nước lớn còn chúng ta nước nhỏ. Như thế ngay trong tư tưởng đã thua người ta rồi. Đệ tử cũng thấy rằng muốn Việt nam vươn mình ra thế giới trước hết phải có tư tưởng chúng ta là một nước lớn (ko phải dân số, diện tích) thì lúc đó mới đua ganh được với thế giới.1 like
-
Quán vắng!
Trần Phương liked a post in a topic by thaochau
Đau lòng con cuốc cuốc khi nghe thấy nhận định của mấy Giáo Xư bên trên hiến kế. Haizzzzzzzzzzzz Nếu mà lãnh đạo theo mấy cái kế này chắc chú Thiên Sứ "chỉ" cái cho động đất biến luôn 2 đảo đó còn hơn là để bọn khựa mất dạy cậy lớn ăn hiếp bé ngang nhiên cắt cáp, bắt tàu cá ...của dân ta.1 like -
Chồng: Nhâm Tý : mộc Vợ: Bính Thìn: thổ Con trai: Giáp Thân: hỏa Con gái: Nhâm Thì: hỏa nhà chị nói chung là rất tốt. Mệnh Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ Thân-Tý-Thìn là Tam hợp. thiên can con gái với bố ở mức bình thường, ko khắc.1 like
-
Khi Bách Việt tan tác bởi sự xâm lược của Hán tộc phía Bắc thì những cư dân Văn Lang - (Gồm nhiều dân tộc, nhưng đông nhất và là dân tộc chủ đạo tạo dựng quốc gia Văn Lang vẫn là dân tộc Việt) di tản ra nhiều vùng đất xung quanh - Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, và các nước vùng Đông Nam Á khác như Phi Luật Tân, Thái Lan, Indo....Bởi vậy, những di sản văn hóa Việt cổ - cả vật thể lẫn phi vật thể - vẫn có thể tìm thấy ở những vùng đất này. Cuộc đàn áp khốc liệt nhất theo tôi chính là cuộc xâm lược của Mã Viện với triều đại Hai Bà Trưng. Tôi cho rằng đây là giai đoạn di tản ồ ạt của Việt tộc và các dân tộc khác trên đất Văn Lang xưa ra các đảo ngoài khơi phía Tây Thái Bình Dương.1 like
-
- Nhà này nếu đo la bàn đúng thì là hướng Tây chứ không phải là Tây Bắc. - Bếp vẫn đặt vậy, nhưng đặt xéo góc, hướng bếp quay về phía Tây Bắc, chữ Kiền (Đinh màu đỏ). - Hầm cầu đặt ở vị trí dưới gầm cầu thang trong vùng có chữ Giáp Mão Ất màu xanh lá cây. Không được đào phạm vào vạch là đường mũi tên chạy dọc theo nhà. Thân mến1 like
-
Bài 23 - Điểm hạn và các tính chất của nạp âm Nói chung phần nạp âm này hầu như tôi chỉ dựa vào các ví dụ trong thực tế để xác định điểm hạn của chúng, mặc dù có giải thích một vài trường hợp nhưng chắc cũng chỉ là gượng ép, chưa có tính thuyết phục. Nhiều cái đến giờ tôi vẫn không hiểu được nó là cái gì như Lửa Dưới Núi chẳng hạn cũng như tại sao sách cổ viết về nạp âm của gỗ Lựu là “Gỗ Lựu gặp Lửa Mặt Trời có thể tốt mà cũng có thể xấu” ? Các ví dụ thực tế đã chứng minh chúng đúng là phức tạp như vậy.... Một điều mà ai ai cũng cảm thấy vô lý là sách cổ chỉ nói “Gỗ Đồng Bằng sợ Kim Lưỡi Kiếm” còn các loại gỗ khác không hề sợ, trong khi thực tế thì dao, kiếm, rìu, máy cưa...có ngán loại gỗ nào đâu... Y10 - Điểm hạn và tính chất của các nạp âm Chúng ta quy ước gọi nạp âm B có can hay chi C, can hay chi C của nạp âm B, nó có nghĩa là can hay chi C và nạp âm B ở trong cùng trụ. Điểm hạn của nạp âm khắc các nạp âm khác hoàn toàn phụ thuộc vào độ vượng hay suy theo can của nó như sau : 195/5 - Nếu can của nạp âm vượng ở lưu niên thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác max là 2,5đk để có thể gây ra max 2,5đh, nhưng nạp âm này chỉ được sử dụng phần hiệu số của 2đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng. 196/16 - Nếu can của nạp âm ở tuế vận chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác có max 0,75đk để có thể gây ra max 0,75đh, nhưng nạp âm này chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,75đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng 197/58 - Nếu can của nạp âm được lệnh (tức nó ở trong tứ trụ) nhưng chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của nạp âm và can của nó với các nạp âm và các can khác max là 1,75đk để có thể gây ra max 1,75đh. Mặc dù nạp âm này chỉ được sử dụng max 1,5đk để có thể gây ra 1,5đh nhưng nó chỉ được sử dụng phần còn lại của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ. 198/1 - Nếu can của nạp âm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì tổng lực khắc của can và nạp âm của nó với các nạp âm và các can khác max là 1đk để có thể gây ra max 1đh. Mặc dù nạp âm này có thể sử dụng 1đk để có thể gây ra 1đh, nhưng nó chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ. 199/(11;30) - Nếu can của nạp âm thất lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận thì tổng lực khắc của can và nạp âm của nó với các nạp âm và các can khác max là 0,75đk. Mặc dù nạp âm này có thể sử dụng max 0,75đk để có thể gây ra 0,75đh nhưng nó chỉ được sử dụng phần hiệu số của 0,5đk trừ đi điểm khắc mà can của nó đã sử dụng để khắc các nạp âm ở tuế vận, phần còn lại nó khắc các nạp âm trong tứ trụ. 200/ - Nếu can của nạp âm thất lệnh và nhược ở tuế vận hay can của nạp âm ở tuế vận mà nhược ở tuế vận thì nạp âm này không có khả năng khắc các nạp âm khác. 201/(93;95,157) – Nạp âm là vô dụng (nó không khắc được các nạp âm khác) chỉ khi chi của nạp âm là Ngọ hay Mão bị khắc, trừ lực khắc của lửa mặt trời với các nạp âm khác chỉ bị giảm 50%đh (hay nó không bị giảm ?) 202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc trừ giả thiết 201/. 202a/91– Thủy cục của các chi có thể sinh cho lửa sấm sét cùng trụ ...(tương tự như giả thiết 202 /30). 202b/30- - Hóa cục của các chi có thể sinh cho các nạp âm cùng trụ, vì vậy lực khắc của mỗi nạp âm này với các nạp âm khác được thêm tổng cộng max 0,25đk chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không vượt quá tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 203/(8;42) – Nếu can của nạp âm bị khắc bởi ít nhất 1 lực có 1đh thì nạp âm trở thành vô dụng còn nếu can của nó bị khắc ít nhất bởi 1 lực có 0,7đh thì điểm hạn của nạp âm khắc các nạp âm khác bị giảm ít nhất 3/4. 204/78 – Nạp âm là vô dụng khi can của nó bị khắc bởi 4 can, nếu mỗi lực này có ít nhất 0,5đh. 205/60 - Nếu lửa đỉnh núi không khắc được nước khe núi thì nước khe núi mới khắc được lửa đỉnh núi, các lực này có max 0,5đh. 206/(47;53;62) - Gỗ lựu gặp Lửa mặt trời có khoảng từ -1đh tới +1đh (vì theo sách cổ để lại thì gỗ lựu gặp lửa mặt trời có thể tốt nhưng cũng có thể xấu). Điểm hạn này phụ thuộc vào hành Kim là hành của can chi của nạp âm gỗ lựu (Canh Thân, Tân Dậu) : a - Nếu Kim là hỷ dụng thần thì điểm hạn của gỗ lựu gặp lửa mặt trời có dấu dương, nó là xấu (bởi vì nó giúp lửa mặt trời mạnh thêm để khống chế hỷ dụng thần Kim). b - Nếu Kim khắc hành của hỷ dụng thần thì điểm hạn này có dấu âm, nó là tốt (bởi vì Kim bị khống chế là tốt cho hỷ dụng thần). c - Nếu can và chi của gỗ lựu ở trạng thái tĩnh hay can của gỗ lựu thất lệnh và nhược ở tuế vận hay gỗ lựu bị khắc bởi một lực có 1 đh thì điểm hạn này có thể là 0đh (?). 207/1 - Mặt trời khắc đất trên tường, lửa đèn, gỗ liễu, kim trang sức, mỗi lực có max 1đh. Lửa sấm sét khắc Kim lưỡi kiếm, đất trên thành....mỗi lực có max 1đh (xem bảng phía dưới). 208/37 - Gỗ đồng bằng khắc gỗ dâu có max 0,25đh. 209/13 - Đất ven đường, đất dịch chuyển, đất trên thành, đất mái nhà và đất trên tường khắc nước mưa, mỗi lực có max 1đh. 210/38 - Mỗi nạp âm khắc các nạp âm khác có max 2đh. 211/7 – Các loại nạp âm có hành là Thủy không khắc được lửa dưới núi. Lửa dưới núi không khắc được kim trang sức. Nước khe và nước suối khắc nước sông, mỗi lực có 0,25đh, còn nước mưa và nước sông khắc nước sông, mỗi lực có ... ? 212/11 - Đất trên thành, đất ven đường, đất mái nhà và đất trên tường khắc nước khe núi, mỗi lực có max 0,5đh, riêng đất dịch chuyển khắc nước khe núi có max 0,75đh Giải thích: Nước khe núi thực chất bởi 2 phần, phần ở phía trên vẫn còn là xương mù, còn phần ở dưới là phần xương mù đã ngưng tụ thành các hạt nước rơi xuống tạo thành các dòng nước nhỏ chẩy ở vách đá và dưới khe núi. Cho nên đất trên thành, đất trên tường, đất ven đường hay đất mái nhà chỉ khắc được phần nước chẩy ở vách núi và khe núi còn phần xương mù phía trên không khắc được, do vậy chỉ gây ra 0,5đh là hợp lý. Chỉ có đất dịch chuyển (có thể coi như là bụi và dung nham của núi lửa (?)) khắc nước khe có 0,75đh (vì là bụi và dung nham của núi lửa dịch chuyển, nên phần bụi khắc được một phần sương mù phía trên nên có thêm 0,25đh). 213/30 - Đất trên thành, đất ven đường, đất mái nhà đất, trên tường và đất dịch chuyển khắc nước sông và suối, mỗi lực có max 1đh. 214/47a - Nếu can và chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có can của nạp âm hợp với tuế vận mà nó có hành giống với hành của nạp âm và nó không bị khắc bởi chi cùng trụ thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác bị giảm 1/2 đh (?). 215/127 - Tại năm sinh, nạp âm của trụ năm và lưu niên khắc các nạp âm khác bị giảm ½ đh. 216/(6;46) - Nếu can và chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có can hay chi của nó hợp với tuế vận và tổ hợp này phải hóa cục thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác mới bị giảm ¼ đh, nhưng nếu chi của nó hợp với tuế vận hóa cục có cùng hành với nạp âm này thì lực khắc này không bị giảm. 217/(9;24) – Nếu can và chi của nạp âm đều bị tuế vận hợp thì lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác bị giảm ½ điểm hạn nhưng nếu chi của nó hợp với tuế vận hóa cục có hành giống với hành của nạp âm này thì lực khắc này không bị giảm. 218/(4;31;16) – Nạp âm tiểu vận khắc nạp âm đại vận bị giảm ½ đh và nạp âm đại vận hay lưu niên khắc nạp âm tiểu vận bị giảm ¾ đh 219/46 - Nếu các nạp âm của nước sông và nước suối trong tứ trụ có các can của chúng được lệnh và vượng ở lưu niên hay chúng ở tuế vận mà vượng ở tuế vận thì lực khắc của chúng với các nạp âm khác không bị giảm mặc dù chúng bị khắc bởi các nạp âm khác. Giải thích: Nếu can của các nạp âm là nước suối hay nước sông thất lệnh hay không vượng ở lưu niên nên chúng có ít nước, khi chúng bị các con đê chặn lại (bị khắc bởi các loại nạp âm là Thổ) thì chúng không thể tràn qua các con đê để khắc được các nạp âm khác như lửa đỉnh núi. 220/50 - Nếu nạp âm của 1 trụ bị khắc nhưng không có điểm hạn thì trụ đó được xem như nó không bị khắc. 221/(33;105) – Nếu không có lửa đèn tác động tới các nạp âm là gỗ thì khi các nạp âm là gỗ khắc kim giá đèn có 0,5đh chỉ khi can của chúng ở các trạng thái Lộc hay Kình Dương tại lưu niên (trừ gỗ lựu, có thể lực khắc của gỗ lựu bị giảm bởi vì can chi của gỗ lựu cùng có hành kim), còn nếu các nạp âm này ở trong tứ trụ mà các can của chúng nhược ở tuế vận thì chúng khắc kim giá đèn ở trong tứ trụ có 0,5đh chỉ khi các can của chúng phải ở trạng thái Lộc hay Kình Dương của lệnh tháng (trừ gỗ lựu). Ngoài 2 trường hợp này chúng khắc kim giá đèn chỉ có max 0,25đh. Bảng điểm hạn của các nạp âm khắc nhau Chú ý : 1 – Kim giá đèn * xem giả thiết 221/(33;105). 2 - Dấu * của Gỗ Lựu có thể từ -1đh tới +1đh. 3 - Các điểm hạn trong bảng này là lớn nhất khi chúng khắc nhau (tức can của chúng vượng ở lưu niên) mà tôi đã tìm ra được từ trong các ví dụ đã xẩy ra trong thực tế, tuy nhiên số ví dụ để kiểm tra chúng là quá ít, vì vậy các điểm hạn này có thể chưa chính xác. 4 - Ở đây tôi mới tìm được 1 trường hợp của nạp âm gỗ lựu gặp lửa mặt trời trong một vài trường hợp có điểm hạn âm. Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi tìm thêm các điểm hạn mang dấu âm và dương mới cũng như kiểm tra lại tất cả các điểm hạn trong cuốn sách này. Ví dụ minh họa Ví dụ 46 - trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ": Tứ trụ của minh tinh màn bạc Hollywood Christopher Reeve (thủ vai Superman). Ngày 27/5/1995 là năm Ất Hợi thuộc đại vận Quý Sửu và tiểu vận Quý Sửu. 1 - Mệnh này Thân nhược mà Kim là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn/ Nhâm ở trụ năm. 2 – Trong tứ trụ có ngũ hợp của Giáp với Kỷ không hóa, lục hợp của Thìn với Dậu hóa Kim và bán hợp của Ngọ với Tuất không hóa (với nam, trong tứ trụ có 3 tổ hợp thường là người nổi tiếng). Vào đại vận Quý Sửu và đến năm Ất Hợi có ngũ hợp của Ất trụ giờ với Canh ở lưu niên hóa Kim nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng của tuế vận, kỵ thần Kim có 18,1đv, còn các hành khác không thay đổi. Do vậy Kim là kỵ vượng, vì vậy Kim cục có 0,5đh, Ất và Canh mỗi can và chi có 0,5đh kỵ vượng. 3 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh . 4 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh . 5 - Lửa đỉnh núi của trụ ngày có Giáp vượng ở lưu niên khắc được đất dịch chuyển của trụ tháng có 1đh, vì vậy đất dịch chuyển thành vô dụng (vì sao thì tôi chưa giải thích được, chỉ thấy áp dụng như vậy thì mới đúng cho các ví dụ tương tự khác). Lửa đỉnh núi của lưu niên có Ất nhược ở tuế vận nên thành vô dụng. Đất ven đường của trụ giờ có Canh được lệnh nên khắc được nước sông có 1đh nhưng vì can chi của nạp âm đều bị hợp nhưng chỉ có Canh hợp với tuế vận hóa Kim, nếu sử dụng giả thiết 216/6 thì lực khắc này chỉ bị giảm ¼ đh còn 1.3/4.đh = 0,75đh. Nếu sử dụng giả thiết 219/46 thì nước sông có Nhâm được lệnh và vượng ở lưu niên khắc lửa đỉnh núi của trụ ngày và lưu niên mỗi lực có 1đh 6 – Trong tứ trụ đã có Thìn, Dậu và Ngọ đến năm Hợi có đủ tứ tự hình nên có 1đh. Tổng số có 5đh. Số điểm này có thể chấp nhận được (vì các bác sĩ giỏi cấp cứu kịp thời, sự giải cứu này tương đương với khoảng -0,1đh, vì vậy anh ta mới thoát chết). Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của các nạp âm, tứ hình và do Kim quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu (vì Thân Mộc là nhược) và kết hợp với giải cứu về tứ hình (giống như hình và hại). Hạn đã xẩy ra vào tháng Tân Tị bởi vì nó TKĐK với lưu niên Ất Hợi và nó là tháng và mùa mà dụng thần Thủy ở tử tuyệt, còn Kim bắt đầu vượng, vì vậy Thủy không có khả năng làm dụng thần thông quan để hóa Kim sinh cho Thân (Mộc). Christopher Reeve mất ngày 10/10/2004, đó là năm Giáp Thân thuộc đại vận Giáp Dần, tiểu vận Quý Hợi. 1 – Trong tứ trụ có: Lục hợp của Thìn với Dậu hóa Kim: Ngũ hợp của Giáp với Kỷ và bán hợp của Ngọ với tuất là không hóa. Vào đại vận Giáp Dần có: Tam hợp Dần Ngọ Tuất không hóa. Ngũ hợp của Giáp đại vận và Giáp trụ ngày với Kỷ trụ tháng. Đến năm Giáp Thân có: Tam hội Thân Dậu Tuất hóa Kim (vì theo quy tắc ưu tiên lục hợp Kim bị phá bởi tam hội Kim là cùng hành và tam hợp Dần Ngọ Tuất bị phá vì nó không hóa cục). Lục hợp của Hợi tiểu vận với Dần đại vận không hóa bởi vì Kim cục có trước đã ngăn cản. Bởi vì Kim cục trong tứ trụ bị phá và chi Dậu của nó hợp với tuế vận hóa cục nên phải tính lại điểm vượng vùng tâm. Sau khi tính lại và tính thêm điểm vượng của tuế vận, kỵ thần Kim có 29,9đv, còn hỷ thần Mộc có 18,47đv. Do vậy Kim có điểm kỵ vượng. Tam hợp Kim cục có 0,75đv và Thân thái tuế có 0,5đh kỵ vượng. Lục hợp Kim cục có 2 chi trong tứ trụ bị phá có -0,5đh, chi Thìn có 1đh và chi Dậu có 0,5đh. 2 - Dụng thần Nhâm vượng ở lưu niên có -1đh. 3 - Nhật can Giáp vượng ở lưu niên có -1đh. 4 – Giáp đại vận và Giáp lưu niên chỉ vượng ở đại vận nên mỗi Giáp có -0,25đh can động và khắc Kỷ, vì vậy mỗi lực khắc có 0,25đh. Giáp trụ ngày thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và khắc Kỷ có 0,25đh. 5 - Lửa đỉnh núi của trụ ngày có Giáp thất lệnh chỉ vượng ở đại vận nên chỉ khắc được đất dịch chuyển của trụ tháng có 0,25.1/2.đh = 0,13đh (bởi vì Giáp đã dùng mất 0,5đh và can chi của nạp âm đều hợp với tuế vận). Nếu sử dụng giả thiết 213/30 thì đất dịch chuyển của trụ tháng có Kỷ được lệnh và vượng ở lưu niên khắc được nước sông của trụ năm và nước suối của đại vận, mỗi lực có 1.1/2.87%đh = 0,44đh (vì can chi của nạp âm đều hợp với tuế vận và bị lửa đỉnh núi khắc mất 13%đh). Đất ven đường của trụ giờ có Canh được lệnh và vượng ở lưu niên khắc được nước sông và nước suối, vì vậy mỗi lực có 1đh. Nếu sử dụng giả thiết 219/46 thì nước sông của trụ năm có can Nhâm được lệnh lại vượng ở lưu khắc lửa đỉnh núi của trụ ngày có 1đh (mặc dù nó bị khắc bởi các loại nạp âm là Thổ). Nước suối của đại vận có Giáp chỉ vượng ở đại vận nên nó không thể khắc được lửa đỉnh núi (vì nó bị khắc 1đp bởi đất ven đường). Tổng số có 6,26đh. Tam hội kim cục ngoài tứ trụ có 2 chi khác nhau trong tứ trụ, vì vậy điểm hạn được giảm 1đh. Do vậy tổng số chỉ còn 5,26đh. Số điểm này chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của các nạp âm và Kim quá vượng. Do vậy ta phải dùng Thủy để giải cứu. Trong tứ trụ có Dậu và Tuất hợp với Thân thái tuế hóa Kim cục đã gây ra tai họa, vì vậy tai họa dễ xẩy ra vào các tháng Dậu hay Tuất. Ở đây, tại sao tai họa không xẩy ra vào tháng Quý Dậu mà lại xẩy ra vào tháng Giáp Tuất ? Có thể giữa tứ trụ với tuế vận có 3 Giáp hợp với Kỷ trụ tháng, vì vậy vào tháng Giáp Tuất, có thêm Giáp đã tác động tới Kỷ thì tai họa mới xẩy ra (?)1 like
-
Được một lúc thì trời đổ mưa, tình huống này chúng tôi không lường trước vì khi đên trời còn chói chang nắng....chúng tôi di chuyển thùng quà để bảo vệ nó qua một xe nước mía ven đường, dòng người túa theo chúng tôi, khung cảnh thật quá tầm kiểm soát của chúng tôi các chị em ai cũng ướt, hình ảnh ấy như đoạn phim hoạt hình tận dụng tất cả cái gì che được để làm nắp cho thùng thức ăn và bánh mì, ngay lúc này đây tôi chạnh lòng nghĩ ngợi sao đời người khổ quá ! Chỉ 1 ổ bánh mì có nhân mà con người ta vẫn chờ đợi để được nhận đúng tiêu chuẩn của mình. Lý do mà có con số 330 ph là bởi vì khi đặt bánh mì với số lượng lớn chúng tôi được tặng 30 ổ, thế là phải thêm 30 phần nhân Xíu mại và 30 phần nước V Fresh. Quả là không dễ khi mọi việc luôn là ẩn số phía trước khi đi vào thực tế chúng ta vẫn phải có những phép toán ngoài kế hoạch, lò bánh mì mà chúng tôi hợp đồng đến khoảng 13g 30 họ báo lại không cung ứng đủ số lượng... a di đà phật. Lại có lỗi kỷ thuật rồi ! Không đươc phép để cho những người khốn khó ấy chờ đợi, tôi phải tìm nhanh 1 lò bánh khác với tiêu chí ngon ra bánh đúng số lượng và đúng giờ...nan giải đây thử thách cũng là đây! Trời không phụ lòng người với 1 địa bàn không thông thuộc mà tôi nhanh chóng tìm được lò bánh ngon đủ số lượng và đúng giờ...phù :P khỏe một mẻ mừng một mẻ. Cứ như thế đảm bảo hoàn thành kế hoạch mong muốn ACE ai cũng vui dù ướt mưa dù bị chen lấn xố đẩy mà vẫn có nụ cười, hình như chúng ta không cần phải làm những điều to tát chỉ cần những công việc nhỏ nhoi 1 giá trị cũng nhỏ nhoi nhưng với tất cả tấm lòng yêu tha nhân thì nơi cho và nơi nhận đều hoan hỷ. Chuyến từ thiện này đối với chúng tôi thật thiết thực thật ý nghĩa và cũng thật xót lòng! Các bạn đừng thắc mắc vì sao không thấy hình ảnh của Wild trong hoạt động này bởi vì phải nhận nhiệm vụ ghi ảnh và giải thích cho họ về công năng của thần chú giải thoát và cũng kiêm luôn vãn hồi kêu gọi trật tự.1 like
-
Bài 22 : Điểm hạn và khả năng của hóa cục Y7 – Điểm hạn và khả năng của hóa cục 1 - Điểm hạn và các tính chất của hóa cục của các can chi 111/ – Trạng thái hành của hóa cục được xác định như 5 can dương. 112/ - Chỉ có 2 can hợp với nhau mới có khả năng hóa cục nếu có thần dẫn (xem câu 4 và 5 của phần II trong chương 6 hay xem giả thiết 108/(8;114)). 113/ - Các tổ hợp của các địa chi chỉ có thể hóa cục khi có thiên can dẫn hóa (xem câu 9 của phần III trong chương 6). 114/1- Điểm hạn của các hóa cục bằng chính tổng số các can hay chi có trong hóa cục đó nhân với ½ số điểm hạn của hành của hóa cục đó (trừ các chi trong tứ trụ đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành). 115/6 - Hóa cục là kỵ thần không sinh được cho hóa cục là hỷ dụng thần. 116/ - Hóa cục là hỷ dụng thần sinh cho hóa cục cũng là hỷ dụng thần như bình thường nhưng chúng có điểm hạn âm ? 117/24 - Mỗi can chi của hóa cục A sinh được cho hóa cục B ít nhất là 0,6đh chỉ khi hóa cục B là kỵ thần và hành của hóa cục B có 1đh và 0,3đh khi hành của hóa cục B có 0,5đh (can chi tiểu vận chỉ sinh được bằng ½). 118/25 - Thủy cục ở phía trên sinh cho Mộc cục là kỵ thần ở các địa chi trong tứ trụ, vì vậy Thủy cục này cũng có thể khắc Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ để gây ra đại chiến (ĐC). Giải thích: Thủy ở trên trời là những đám mây mang hơi nước, khi gặp lạnh chúng ngưng tụ thành những hạt nước rơi xuống đất và nuôi cho cây cối phát triển, vì vậy nó cũng có thể dập tắt được lửa. 119/10 - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm. 120/91 - Thủy cục của các chi có thể sinh cho lửa sấm sét cùng trụ, vì vậy tổng số lực khắc của lửa sấm sét này với các nạp âm khác được thêm 0,25đh chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không nhiều hơn tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 121/30 - Hóa cục của các chi (trừ hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh (?)) có thể sinh cho các nạp âm cùng trụ, vì vậy lực khắc của mỗi nạp âm này với các nạp âm khác được thêm tổng cộng max 0,25đk chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không vượt quá tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 122/13 - Giữa tứ trụ với tuế vận có hóa cục, nếu các chi trong tứ trụ của hóa cục mới này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của hóa cục mới này thì chúng không có điểm hạn. 123/8 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hợp cục hay tam hội cục từ 4 chi trở lên mà hành của nó là kỵ 1 (hoặc sau khi tính lại hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận) thì điểm hạn chính của hóa cục này được tăng gấp đôi và từ chi thứ 4 trở đi có điểm hạn, mỗi chi được thêm 0,25đh. 124/55 – Hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận có 4 chi có điểm hạn, nếu điểm hạn của hóa cục này không được tăng gấp đôi thì nó không bị khắc bởi các can nhưng các can cùng hành với nó vẫn bị khắc như bình thường. 125/81 – Nếu hai hóa cục khắc nhau thì chúng có thể được tạo thành trong cùng một lúc nhưng hóa cục bị khắc không thể được tạo thành nếu nó có sau so với hóa cục là chủ khắc (vì nó bị cản phá bởi hóa cục là chủ khắc, trừ khi hóa cục chủ khắc quá yếu, xem ví dụ 86 và ĐC-1). 126/85 - Hóa cục ở can hay chi tiểu vận với can hay chi đại vận hay lưu niên chỉ có 1,5 chi (ở đây ta quy ước can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay 0,5 chi) mặc dù là chủ khắc và có trước nhưng nó quá yếu không thể cản phá được các hóa cục bị khắc có ít nhất 2 can chi mặc dù chúng có sau. 2 – Khả năng phá hợp của các tổ hợp a – Các quy tắc ưu tiên hợp và hóa của các địa chi 127/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hội, tam hợp, bán hợp hay lục hợp không hóa thì tam hội sẽ được ưu tiên trước nhất sau đó mới đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu lực hợp của lục hợp không lớn hơn lực hợp của bán hợp) và cuối cùng mới đến lục hợp. 128/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có lục hợp, bán hợp, tam hợp hay tam hội có khả năng hóa thành cùng một hành thì tam hội được ưu tiên trước sau đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu bán hợp có lực hợp bằng hay lớn hơn lực hợp của lục hợp) và cuối cùng mới là lục hợp (kể cả các hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh). 129/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có các tam hợp cục hay các tam hội cục, khi các hóa cục này bị phá bởi các chi hay các thiên khắc địa xung... thì các quy tắc ưu tiên hợp và hóa với các chi của tam hợp hay tam hội này mới có hiệu lực. b – Khả năng phá hợp của các tổ hợp 130/ – Lục hợp cục hay bán hợp cục trong tứ trụ từ khi mới sinh chỉ bị phá khi : a/ – Chi của nó bị xung hay bị khắc bởi chi có lực xung hay lực khắc lớn hơn lực hợp với chi bị xung hay bị khắc (riêng với lực xung hay lực khắc của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp). Riêng các chi Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung gần nhau thì luôn luôn phá được, không cần tính lực xung. b/ - Theo quy tắc ưu tiên, đầu tiên là tam hội, sau đến tam hợp, cuối cùng mới đến bán hợp nếu hóa cục của chúng cùng một hành (riêng với bán hợp phải tính lực xung hay lực khắc và lực này chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp). c/88 – Tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận và tiểu vận nếu nó hợp được với ít nhất 1 chi trong hóa cục này. d/ – TKĐX với hóa cục này nếu 2 chi của nó không phải là Thổ. e/ - Nếu TKĐX và các hóa cục cùng xuất hiện từ khi mới sinh thì TKĐX có 2 chi là Thổ có thể không phá được các hóa cục này ? 131/(25;197) - Các bán hợp cục hay lục hợp cục bị phá khi lực hợp của các bán hợp hay lục hợp mới lớn hơn lực hợp của các bán hợp cục hay lục hợp cục cũ (riêng lực hợp của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp), nhưng nếu chúng là các hóa cục của các địa chi trong tứ trụ từ khi mới sinh thì điều này chỉ đúng khi các tổ hợp mới này có thể hóa được cục có cùng hành với chúng. 132/ - Nếu hóa cục của can hay chi tiểu vận với tuế vận là chủ khắc chỉ có 1,5 can hay chi (vì can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay chi) thì nó không có khả năng cản được các hóa cục là bị khắc có ít nhất 2 can hay chi được tạo thành sau. 133/88 - Hóa cục chỉ có 2 can là chủ khắc có trước không cản phá được tam hợp cục hay tam hội hóa cục có ít nhất 4 chi là bị khắc có sau (xem thêm giả thiết 126/85). 3 - Các hóa cục khắc nhau 134/79 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 2 hóa cục khắc nhau được gọi là Ðại Chiến (ÐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn có dấu dương. 134a/(147;212) – Nếu có 3 hóa cục là A, B và C mà A có thể sinh được cho B và B có thể sinh được cho C thì chúng không có khả năng gây ra ÐC nhưng nếu A phải ngăn cản (khắc) sự tạo thành của C (tức A phải được tạo thành trước C) thì nó không có khả năng sinh cho B và khi đó C vẫn được tạo ra nhưng không có điểm hạn và C không có khả năng nhận được sự sinh từ B (?). 134b/91 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 3 hóa cục A, B và C mà A có thể khắc B và B có thể khắc C thì chỉ có A và B gây ra ÐC còn B có thể khắc C nhưng không có điểm hạn, vì vậy C không thể sinh được cho A (?). 135/ - Điểm hạn của can hay chi ở tiểu vận tham chiến (nó được gọi là can hay chi phụ tham chiến) chỉ bằng ½ đh của các can chi khác tham chiến. a - Đại chiến 136/79 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có ít nhất 2 hóa cục khắc nhau thì chúng được gọi là Đại Chiến (ĐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn dương. b - Điểm hạn của Đại chiến 137/91 - Nếu hóa cục có 1,5 can chi khắc hóa cục cũng chỉ có 1,5 can chi (tức 2 hóa cục này cùng ở tiểu vận) thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh và hóa cục bị khắc vẫn khắc được các hóa cục khác nhưng lực khắc này không thể gây ra được các loại Ðại Chiến nhưng nó vẫn đủ khả năng khống chế các hóa cục đó không sinh được cho hóa cục khắc nó (?). 138/84 – Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là kỵ thần khắc hóa cục có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can hay chi tham chiến là 0,15đh 139/85 - Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là hỷ dụng thần khắc hóa cục cũng là hỷ dụng thần có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn của mỗi can chi tham chiến là 0,15đh. 140/ – Nếu hóa cục có từ 2 can chi trở nên khắc hóa cục chỉ có 1,5 can chi thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là ...0,4đh (?). 141/79 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà ít hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,2đh. 142/80 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà nhiều hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc cũng có từ 2 can chi trở lên thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,4đh. 143/81 - Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà bằng tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh. 144/81 - Nếu một hóa cục của ĐC là chủ khắc khi nó bị khắc mà điểm hạn của nó không bị mất hết thì điểm hạn của ĐC không thay đổi (?). 145/(61;84;87) - Nếu các chi trong tứ trụ của các hóa cục tham gia ĐC đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành thì chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó và chúng cũng không có điểm hạn trong đại chiến, trừ trường hợp nếu các hóa cục này không hợp với tuế vận thì mặc dù các chi của chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó nhưng chúng vẫn có điểm hạn trong Đại Chến. (Chú ý : Tất cả can chi trong các hóa cục tham gia đại chiến đều được tính để xác định tổng số can chi tham chiến của mỗi bên). 146/87 - Các hóa cục của các chi trong tứ trụ không có khả năng khắc các hóa cục ở phía trên và ngược lại, trừ Thủy cục ở phía trên khắc được Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được thêm ít nhất 0,01đh (vì nước mưa rơi xuống đất có thể dập tắt lửa và đại chiến ở đây là nước với lửa không phải là hơi nước với lửa). 147/88 - Nếu cung phối hôn hợp với tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận với tiểu vận gây ra đại chiến thì điểm hạn của đại chiến này có thêm ít nhất 0,25đh (trừ cung phối hôn đã hóa cục có cùng hành từ khi mới sinh?). 148/(114;206) - Các hóa cục của các can trong tứ trụ có từ khi mới sinh không bị mất khi hành của lệnh tháng thay đổi cũng như chúng không có khả năng cản được các hóa cục được tạo thành sau nhưng chúng vẫn có khả năng gây ra Đại Chiến và mặc dù các hóa cục này không có điểm hạn nhưng các can của chúng vẫn có điểm hạn trong ĐC như bìng thường. 149/158 - Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được tăng thêm 0,2đh nếu hóa cục chủ khắc có số can chi nhiều hơn 1 can chi so với tổng số can chi của hóa cục bị khắc, 0,4đh nếu nó nhiều hơn là 2 can chi, 0,6đh nếu nó nhiều hơn 3 can chi,... (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này). c - Đại chiến 1 và điểm hạn của nó 150/89 - Nếu hóa cục của tiểu vận là hỷ dụng thần có 1,5 can chi khắc hóa cục là kỵ thần có từ 2 can chi trở lên thì nó được gọi là đại chiến 1 (ĐC-1). Nếu hành của hóa cục bị khắc có 0,5đh thì điểm hạn của ĐC-1 là tổng số của các can chi tham gia ĐC-1 nhân với : 0,65 nếu các hóa cục bị khắc có tổng số 2 can chi. 0,7 ......................................................3 ............ 0,75.....................................................4 ............ 0,8 ......................................................5 ............ 0,85.....................................................6 ............ 0,9 ......................................................7 ........... (Chú ý : Điểm hạn của can hay chi tiểu vận tham chiến chỉ bằng ½). 151/90 - Nếu hành của hóa cục bị khắc có 1đh thì điểm hạn của ĐC-1 giống như giả thiết 150/89 ở trên nhưng các trường hợp tương tự được thêm 0,05đh. 152/92 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 25%đh của nó thì điểm hạn của mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,25đh. 153/93 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,38đh. d - Đại chiến 2 và điểm hạn của nó 154/94 - Nếu hóa cục bị khắc trong ĐC là hỷ dụng thần, khi nó bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì ĐC trở thành đại chiến 2 (ĐC-2) và điểm hạn của ĐC-2 bằng tổng điểm hạn của ĐC và ĐC-1 khi 2 hóa cục này có số can chi bằng nhau, trong đó điểm hạn của ĐC-1 được xác định bởi số can chi của hóa cục chủ khắc. 155/ - Nếu tổng «số can chi tham chiến của các hóa cục bị khắc và chủ khắc trong ĐC-2 là khác nhau hay điểm hạn của hóa cục là hỷ dụng thần chỉ bị khắc mất 25%đh thì điểm hạn của ĐC-2 là …? Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi trả lời các câu hỏi này Ví dụ minh họa : Ví dụ 90 : Tháng 3/1967 là năm Đinh Mùi thuộc đại vận Tân Tị và tiểu vận Đinh Dậu. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là quan sát Canh tàng trong Thân trụ ngày (vì quan sát chỉ có 3 can chi, còn tỷ kiếp có 4 can chi và nắm lệnh). Mộc là kỵ vượng 2 – Trong tứ trụ có ngũ hợp của Giáp với Kỷ và tam hội Thân Dậu Tuất đều không hóa. Vào đại vận Tân Tị và năm Đinh Mùi có: Bán hợp của Tị đại vận với Dậu tiểu vận hóa Kim. Tam hội Thân Dậu Tuất trong tứ trụ hóa Kim. Bán hợp của Mão trụ tháng với Mùi thái tuế hóa Mộc (vì mặc dù Mộc cục có sau nhưng Kim cục của tiểu vận chỉ có 1,5 chi và tam hội Kim trong tứ trụ đều không có khả năng ngăn cản được nó). Do vậy Kim cục ở tiểu vận và Mộc cục đã tạo thành ĐC-1 (vì Kim cục là hỷ dụng thần có 1,5 chi còn Mộc cục là kỵ thần có 2 chi). Vì vậy bán hợp Kim có 1đh và tam hội Kim có 1,5đh, Mộc cục có 0,5đh và Mùi thái tuế hóa Mộc có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Hóa cục của các chi trong Tứ Trụ không có khả năng tham gia Đại Chiến, trừ khi nó là Hỏa cục bị Thủy cục phía trên khắc). Nếu sử dụng giả thiết 150/89 thì điểm hạn của ĐC-1 là (3.0,65 + 0,33)đh = 2,28đh (vì Mộc cục là hóa cục bị khắc có 2 chi và hành của nó có 0,5đh). 3 - Dụng thần Canh tàng trong Thân của tam hội cục Kim trong tứ trụ không hóa có 0đh (vì khi tam hội Thân Dậu Tuất hợp với tuế vận hóa Kim có hành giống với hành của dụng thần Canh) và Canh vượng ở lưu niên có -1đh (xem giả thiết 38/1). 4 - Nhật can Giáp mộ ở lưu niên có 1 đh. 5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu niên có -0,5đh và khắc Tân đại vận có 1đh. Đinh có 1 cát thần có -0,25đh Đinh tiểu vận vượng ở tiểu vận nên khắc Tân đại vận có 1đh và Tân có 1 cát thần có -0,13đh. Ất trụ năm được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và Ất có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc). Giáp trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có -0,5đh và Giáp có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc). 6 – Tân của lưu niên là Thương quan vượng ở lưu niên, vì vậy nó gặp Ất của đại vận là Quan có 1đh (theo lý thuyết của tôi - cũng như của cụ Thiệu - thì các ví dụ thực tế đã chứng minh rằng Thương và Quan không ở trong hợp thì mới có thể gặp nhau và khi đó mới có thể có điểm hạn Thương gặp Quan. Điều này khác hẳn với các sách từ Cổ tới Kim là họ cho chúng gặp nhau tuốt kể cả khi chúng đã hóa thành cục, thật là "Khủng" ...). 7 - Đất trên thành trụ tháng có Kỷ thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên khắc nước mưa lưu niên có 1đh nhưng can chi của nạp âm đều bị hợp trong đó chỉ có Mão hợp với tuế vận hóa cục nên bị giảm 25%đh còn 0,75đh. Nước mưa lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được lửa đỉnh núi trụ giờ có 1đh nhưng bị đất trên thành khắc mất 75%đh còn 0,25đh. Tổng số có 9,15đh. Nếu ta sử dụng giả thiết 269/48 (nay đã thành quy tắc chính thức) thì tam hội cục trong tứ trụ không có 3 chi liền nhau nhưng có 2 trụ động nên tổng điểm hạn được giảm 1/3 còn 9,15.2/3.đh = 6,10đh. Số điểm này chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của ĐC-1, nạp âm, Hỏa khắc Kim và Mộc quá vượng đã chống lại Kim. Do vậy ta phải dùng Kim để giải cứu. Trong tứ trụ có Mão hợp với Mùi thái tuế hóa Mộc gây ra ĐC- 1 và Kim (Tân) bị Hỏa (2 Đinh) khắc, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Mão và nó thuộc mùa Xuân là mùa mà Hỏa và Mộc vượng, còn Kim ở tử tuyệt. Tai họa này dễ liên quan tới 2 hành là Kim và Mộc.1 like
-
Không đơn giản như vậy đâu.Chính cái nhẫn nước nổi tiếng của Sinhgapore đặt đúng một huyệt vị độc đáo của nước này. Một số công trình nhân tạo - như hai cái cầu bắc qua sông được phụ họa thêm để có cấu trúc giống hình thể của một bộ phận nhạy cảm trong cơ thể người trên huyệt đạo này. Ngoài ra, thủ phủ của đảo quốc này nằm gần đường biểu kiến trung tâm (Chứ không phải chính tâm theo Phong thủy Lạc Việt) hoàn toàn theo hình cái ấn - nếu nhìn từ vệ tinh xuống.1 like
-
@ nangxuan kỳ thi này khá nặng đô hồi họp lo lắng khi vô bốc đề nhưng sẽ hâm hở ra về gặp ngay bài tủ sướng tê quá trời bài viết, vấn đáp như chơi qua cuộc khảo thí hết hơi nhưng mừng qua thi chiêu đãi tưng bừng quẻ nghiệm như thế nangxuan đợi nào Thiên Đồng1 like
-
Oh. Đúng rồi! Anh nói tôi mới để ý. Chính nó đấy! Tôi đã từng chữa phong thủy cho 4 anh em nhà kia ở đường Phan Đình Phùng / Sài gòn (Lâu quá tôi ko nhớ nhà). Nhà diện tích 10x 12. Họ xây chung một ngôi nhà 5 tầng và làm một cái cột tròn ở giữa, to khoảng 7/80 cm. Xây xong năm đầu tiên ông anh cả chết. Quý Mùi. Sang năm ông thứ 2 chết, hình như Bính Tuất. Khi họ mời tôi đến thì người thứ 3 Giáp Ngọ, chống gậy xuống tiếp tôi mặc dù nhỏ hơn tôi 6 tuổi. Người thứ 4 Đinh Dậu ngồi xe lăn vì hoại tử xương hông. Tôi phải hóa giải cái cột này bằng cách gọt nhỏ lại và xây một phòng quây xung quanh. Nhưng tôi đề nghị tất cả bếp trong bốn tầng trên (Mỗi tầng là một gia đình) phải đưa xuống tầng trệt nấu. Bà dâu trưởng (Chồng Quí Mùi , đã chết) không chịu . Sáu tháng sau cũng đi luôn. Lạy Chúa! Đây là kỷ niệm của tôi với cái cột giữa nhà!1 like
-
Tôi thì thấy cái cột tròn ở giữa nhà là kinh hồn nhất anh Thiensu ahj, anh nhìn kỹ sẽ thấy vì ảnh chụp hơi mờ, nếu thực tế cái cột này ở giữa nhà thì đây đúng là một trường hợp ứng nghiệm đáng sợ.1 like