• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 15/09/2011 in all areas

  1. Bài 22 : Điểm hạn và khả năng của hóa cục Y7 – Điểm hạn và khả năng của hóa cục 1 - Điểm hạn và các tính chất của hóa cục của các can chi 111/ – Trạng thái hành của hóa cục được xác định như 5 can dương. 112/ - Chỉ có 2 can hợp với nhau mới có khả năng hóa cục nếu có thần dẫn (xem câu 4 và 5 của phần II trong chương 6 hay xem giả thiết 108/(8;114)). 113/ - Các tổ hợp của các địa chi chỉ có thể hóa cục khi có thiên can dẫn hóa (xem câu 9 của phần III trong chương 6). 114/1- Điểm hạn của các hóa cục bằng chính tổng số các can hay chi có trong hóa cục đó nhân với ½ số điểm hạn của hành của hóa cục đó (trừ các chi trong tứ trụ đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành). 115/6 - Hóa cục là kỵ thần không sinh được cho hóa cục là hỷ dụng thần. 116/ - Hóa cục là hỷ dụng thần sinh cho hóa cục cũng là hỷ dụng thần như bình thường nhưng chúng có điểm hạn âm ? 117/24 - Mỗi can chi của hóa cục A sinh được cho hóa cục B ít nhất là 0,6đh chỉ khi hóa cục B là kỵ thần và hành của hóa cục B có 1đh và 0,3đh khi hành của hóa cục B có 0,5đh (can chi tiểu vận chỉ sinh được bằng ½). 118/25 - Thủy cục ở phía trên sinh cho Mộc cục là kỵ thần ở các địa chi trong tứ trụ, vì vậy Thủy cục này cũng có thể khắc Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ để gây ra đại chiến (ĐC). Giải thích: Thủy ở trên trời là những đám mây mang hơi nước, khi gặp lạnh chúng ngưng tụ thành những hạt nước rơi xuống đất và nuôi cho cây cối phát triển, vì vậy nó cũng có thể dập tắt được lửa. 119/10 - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm. 120/91 - Thủy cục của các chi có thể sinh cho lửa sấm sét cùng trụ, vì vậy tổng số lực khắc của lửa sấm sét này với các nạp âm khác được thêm 0,25đh chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không nhiều hơn tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 121/30 - Hóa cục của các chi (trừ hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh (?)) có thể sinh cho các nạp âm cùng trụ, vì vậy lực khắc của mỗi nạp âm này với các nạp âm khác được thêm tổng cộng max 0,25đk chỉ khi lực khắc của nạp âm này với các nạp âm khác có điểm khắc và tổng điểm khắc này khi thêm 0,25đk không vượt quá tổng điểm khắc khi can của nó vượng ở lưu niên. 122/13 - Giữa tứ trụ với tuế vận có hóa cục, nếu các chi trong tứ trụ của hóa cục mới này đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành với hành của hóa cục mới này thì chúng không có điểm hạn. 123/8 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hợp cục hay tam hội cục từ 4 chi trở lên mà hành của nó là kỵ 1 (hoặc sau khi tính lại hay tính thêm điểm vượng ở tuế vận) thì điểm hạn chính của hóa cục này được tăng gấp đôi và từ chi thứ 4 trở đi có điểm hạn, mỗi chi được thêm 0,25đh. 124/55 – Hóa cục giữa tứ trụ với tuế vận có 4 chi có điểm hạn, nếu điểm hạn của hóa cục này không được tăng gấp đôi thì nó không bị khắc bởi các can nhưng các can cùng hành với nó vẫn bị khắc như bình thường. 125/81 – Nếu hai hóa cục khắc nhau thì chúng có thể được tạo thành trong cùng một lúc nhưng hóa cục bị khắc không thể được tạo thành nếu nó có sau so với hóa cục là chủ khắc (vì nó bị cản phá bởi hóa cục là chủ khắc, trừ khi hóa cục chủ khắc quá yếu, xem ví dụ 86 và ĐC-1). 126/85 - Hóa cục ở can hay chi tiểu vận với can hay chi đại vận hay lưu niên chỉ có 1,5 chi (ở đây ta quy ước can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay 0,5 chi) mặc dù là chủ khắc và có trước nhưng nó quá yếu không thể cản phá được các hóa cục bị khắc có ít nhất 2 can chi mặc dù chúng có sau. 2 – Khả năng phá hợp của các tổ hợp a – Các quy tắc ưu tiên hợp và hóa của các địa chi 127/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có tam hội, tam hợp, bán hợp hay lục hợp không hóa thì tam hội sẽ được ưu tiên trước nhất sau đó mới đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu lực hợp của lục hợp không lớn hơn lực hợp của bán hợp) và cuối cùng mới đến lục hợp. 128/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có lục hợp, bán hợp, tam hợp hay tam hội có khả năng hóa thành cùng một hành thì tam hội được ưu tiên trước sau đến tam hợp rồi tới bán hợp (nếu bán hợp có lực hợp bằng hay lớn hơn lực hợp của lục hợp) và cuối cùng mới là lục hợp (kể cả các hóa cục của các chi trong tứ trụ từ khi mới sinh). 129/ – Nếu trong tứ trụ hay giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có các tam hợp cục hay các tam hội cục, khi các hóa cục này bị phá bởi các chi hay các thiên khắc địa xung... thì các quy tắc ưu tiên hợp và hóa với các chi của tam hợp hay tam hội này mới có hiệu lực. b – Khả năng phá hợp của các tổ hợp 130/ – Lục hợp cục hay bán hợp cục trong tứ trụ từ khi mới sinh chỉ bị phá khi : a/ – Chi của nó bị xung hay bị khắc bởi chi có lực xung hay lực khắc lớn hơn lực hợp với chi bị xung hay bị khắc (riêng với lực xung hay lực khắc của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp). Riêng các chi Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung gần nhau thì luôn luôn phá được, không cần tính lực xung. b/ - Theo quy tắc ưu tiên, đầu tiên là tam hội, sau đến tam hợp, cuối cùng mới đến bán hợp nếu hóa cục của chúng cùng một hành (riêng với bán hợp phải tính lực xung hay lực khắc và lực này chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp). c/88 – Tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận và tiểu vận nếu nó hợp được với ít nhất 1 chi trong hóa cục này. d/ – TKĐX với hóa cục này nếu 2 chi của nó không phải là Thổ. e/ - Nếu TKĐX và các hóa cục cùng xuất hiện từ khi mới sinh thì TKĐX có 2 chi là Thổ có thể không phá được các hóa cục này ? 131/(25;197) - Các bán hợp cục hay lục hợp cục bị phá khi lực hợp của các bán hợp hay lục hợp mới lớn hơn lực hợp của các bán hợp cục hay lục hợp cục cũ (riêng lực hợp của bán hợp chỉ cần bằng lực hợp của lục hợp), nhưng nếu chúng là các hóa cục của các địa chi trong tứ trụ từ khi mới sinh thì điều này chỉ đúng khi các tổ hợp mới này có thể hóa được cục có cùng hành với chúng. 132/ - Nếu hóa cục của can hay chi tiểu vận với tuế vận là chủ khắc chỉ có 1,5 can hay chi (vì can hay chi tiểu vận chỉ được tính là 0,5 can hay chi) thì nó không có khả năng cản được các hóa cục là bị khắc có ít nhất 2 can hay chi được tạo thành sau. 133/88 - Hóa cục chỉ có 2 can là chủ khắc có trước không cản phá được tam hợp cục hay tam hội hóa cục có ít nhất 4 chi là bị khắc có sau (xem thêm giả thiết 126/85). 3 - Các hóa cục khắc nhau 134/79 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 2 hóa cục khắc nhau được gọi là Ðại Chiến (ÐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn có dấu dương. 134a/(147;212) – Nếu có 3 hóa cục là A, B và C mà A có thể sinh được cho B và B có thể sinh được cho C thì chúng không có khả năng gây ra ÐC nhưng nếu A phải ngăn cản (khắc) sự tạo thành của C (tức A phải được tạo thành trước C) thì nó không có khả năng sinh cho B và khi đó C vẫn được tạo ra nhưng không có điểm hạn và C không có khả năng nhận được sự sinh từ B (?). 134b/91 – Nếu giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận có 3 hóa cục A, B và C mà A có thể khắc B và B có thể khắc C thì chỉ có A và B gây ra ÐC còn B có thể khắc C nhưng không có điểm hạn, vì vậy C không thể sinh được cho A (?). 135/ - Điểm hạn của can hay chi ở tiểu vận tham chiến (nó được gọi là can hay chi phụ tham chiến) chỉ bằng ½ đh của các can chi khác tham chiến. a - Đại chiến 136/79 - Nếu giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận có ít nhất 2 hóa cục khắc nhau thì chúng được gọi là Đại Chiến (ĐC) và điểm hạn của các hóa cục này luôn luôn dương. b - Điểm hạn của Đại chiến 137/91 - Nếu hóa cục có 1,5 can chi khắc hóa cục cũng chỉ có 1,5 can chi (tức 2 hóa cục này cùng ở tiểu vận) thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh và hóa cục bị khắc vẫn khắc được các hóa cục khác nhưng lực khắc này không thể gây ra được các loại Ðại Chiến nhưng nó vẫn đủ khả năng khống chế các hóa cục đó không sinh được cho hóa cục khắc nó (?). 138/84 – Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là kỵ thần khắc hóa cục có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can hay chi tham chiến là 0,15đh 139/85 - Nếu hóa cục ở tiểu vận có 1,5 can chi là hỷ dụng thần khắc hóa cục cũng là hỷ dụng thần có từ 2 can chi trở lên thì nó vẫn chỉ gây ra ĐC và điểm hạn của mỗi can chi tham chiến là 0,15đh. 140/ – Nếu hóa cục có từ 2 can chi trở nên khắc hóa cục chỉ có 1,5 can chi thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là ...0,4đh (?). 141/79 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà ít hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,2đh. 142/80 – Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà nhiều hơn tổng số can chi của các hóa cục bị khắc cũng có từ 2 can chi trở lên thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,4đh. 143/81 - Nếu các hóa cục chủ khắc có từ 2 can chi trở lên mà bằng tổng số can chi của các hóa cục bị khắc thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến là 0,3đh. 144/81 - Nếu một hóa cục của ĐC là chủ khắc khi nó bị khắc mà điểm hạn của nó không bị mất hết thì điểm hạn của ĐC không thay đổi (?). 145/(61;84;87) - Nếu các chi trong tứ trụ của các hóa cục tham gia ĐC đã hóa cục từ khi mới sinh có cùng hành thì chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó và chúng cũng không có điểm hạn trong đại chiến, trừ trường hợp nếu các hóa cục này không hợp với tuế vận thì mặc dù các chi của chúng không có điểm hạn trong các hóa cục đó nhưng chúng vẫn có điểm hạn trong Đại Chến. (Chú ý : Tất cả can chi trong các hóa cục tham gia đại chiến đều được tính để xác định tổng số can chi tham chiến của mỗi bên). 146/87 - Các hóa cục của các chi trong tứ trụ không có khả năng khắc các hóa cục ở phía trên và ngược lại, trừ Thủy cục ở phía trên khắc được Hỏa cục của các địa chi trong tứ trụ gây ra ĐC và điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được thêm ít nhất 0,01đh (vì nước mưa rơi xuống đất có thể dập tắt lửa và đại chiến ở đây là nước với lửa không phải là hơi nước với lửa). 147/88 - Nếu cung phối hôn hợp với tam hợp cục hay tam hội cục của tuế vận với tiểu vận gây ra đại chiến thì điểm hạn của đại chiến này có thêm ít nhất 0,25đh (trừ cung phối hôn đã hóa cục có cùng hành từ khi mới sinh?). 148/(114;206) - Các hóa cục của các can trong tứ trụ có từ khi mới sinh không bị mất khi hành của lệnh tháng thay đổi cũng như chúng không có khả năng cản được các hóa cục được tạo thành sau nhưng chúng vẫn có khả năng gây ra Đại Chiến và mặc dù các hóa cục này không có điểm hạn nhưng các can của chúng vẫn có điểm hạn trong ĐC như bìng thường. 149/158 - Nếu ĐC được gây ra bởi tam hội cục là chủ khắc có thái tuế và hành của nó cùng hành với hành của cả can và chi của lưu niên khi chúng chưa hóa cục thì điểm hạn cho mỗi can chi tham chiến được tăng thêm 0,2đh nếu hóa cục chủ khắc có số can chi nhiều hơn 1 can chi so với tổng số can chi của hóa cục bị khắc, 0,4đh nếu nó nhiều hơn là 2 can chi, 0,6đh nếu nó nhiều hơn 3 can chi,... (tôi chưa có thêm ví dụ để kiểm tra giả thiết này). c - Đại chiến 1 và điểm hạn của nó 150/89 - Nếu hóa cục của tiểu vận là hỷ dụng thần có 1,5 can chi khắc hóa cục là kỵ thần có từ 2 can chi trở lên thì nó được gọi là đại chiến 1 (ĐC-1). Nếu hành của hóa cục bị khắc có 0,5đh thì điểm hạn của ĐC-1 là tổng số của các can chi tham gia ĐC-1 nhân với : 0,65 nếu các hóa cục bị khắc có tổng số 2 can chi. 0,7 ......................................................3 ............ 0,75.....................................................4 ............ 0,8 ......................................................5 ............ 0,85.....................................................6 ............ 0,9 ......................................................7 ........... (Chú ý : Điểm hạn của can hay chi tiểu vận tham chiến chỉ bằng ½). 151/90 - Nếu hành của hóa cục bị khắc có 1đh thì điểm hạn của ĐC-1 giống như giả thiết 150/89 ở trên nhưng các trường hợp tương tự được thêm 0,05đh. 152/92 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 25%đh của nó thì điểm hạn của mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,25đh. 153/93 - Nếu hóa cục chủ khắc trong ĐC-1 bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì mỗi can hay chi tham chiến được thêm 0,38đh. d - Đại chiến 2 và điểm hạn của nó 154/94 - Nếu hóa cục bị khắc trong ĐC là hỷ dụng thần, khi nó bị các can trong tứ trụ khắc mất 50%đh của nó thì ĐC trở thành đại chiến 2 (ĐC-2) và điểm hạn của ĐC-2 bằng tổng điểm hạn của ĐC và ĐC-1 khi 2 hóa cục này có số can chi bằng nhau, trong đó điểm hạn của ĐC-1 được xác định bởi số can chi của hóa cục chủ khắc. 155/ - Nếu tổng «số can chi tham chiến của các hóa cục bị khắc và chủ khắc trong ĐC-2 là khác nhau hay điểm hạn của hóa cục là hỷ dụng thần chỉ bị khắc mất 25%đh thì điểm hạn của ĐC-2 là …? Hy vọng bạn đọc có thể giúp tôi trả lời các câu hỏi này Ví dụ minh họa : Ví dụ 90 : Tháng 3/1967 là năm Đinh Mùi thuộc đại vận Tân Tị và tiểu vận Đinh Dậu. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn ít nên dụng thần đầu tiên phải là quan sát Canh tàng trong Thân trụ ngày (vì quan sát chỉ có 3 can chi, còn tỷ kiếp có 4 can chi và nắm lệnh). Mộc là kỵ vượng 2 – Trong tứ trụ có ngũ hợp của Giáp với Kỷ và tam hội Thân Dậu Tuất đều không hóa. Vào đại vận Tân Tị và năm Đinh Mùi có: Bán hợp của Tị đại vận với Dậu tiểu vận hóa Kim. Tam hội Thân Dậu Tuất trong tứ trụ hóa Kim. Bán hợp của Mão trụ tháng với Mùi thái tuế hóa Mộc (vì mặc dù Mộc cục có sau nhưng Kim cục của tiểu vận chỉ có 1,5 chi và tam hội Kim trong tứ trụ đều không có khả năng ngăn cản được nó). Do vậy Kim cục ở tiểu vận và Mộc cục đã tạo thành ĐC-1 (vì Kim cục là hỷ dụng thần có 1,5 chi còn Mộc cục là kỵ thần có 2 chi). Vì vậy bán hợp Kim có 1đh và tam hội Kim có 1,5đh, Mộc cục có 0,5đh và Mùi thái tuế hóa Mộc có 0,5đh kỵ vượng (chú ý : Hóa cục của các chi trong Tứ Trụ không có khả năng tham gia Đại Chiến, trừ khi nó là Hỏa cục bị Thủy cục phía trên khắc). Nếu sử dụng giả thiết 150/89 thì điểm hạn của ĐC-1 là (3.0,65 + 0,33)đh = 2,28đh (vì Mộc cục là hóa cục bị khắc có 2 chi và hành của nó có 0,5đh). 3 - Dụng thần Canh tàng trong Thân của tam hội cục Kim trong tứ trụ không hóa có 0đh (vì khi tam hội Thân Dậu Tuất hợp với tuế vận hóa Kim có hành giống với hành của dụng thần Canh) và Canh vượng ở lưu niên có -1đh (xem giả thiết 38/1). 4 - Nhật can Giáp mộ ở lưu niên có 1 đh. 5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu niên có -0,5đh và khắc Tân đại vận có 1đh. Đinh có 1 cát thần có -0,25đh Đinh tiểu vận vượng ở tiểu vận nên khắc Tân đại vận có 1đh và Tân có 1 cát thần có -0,13đh. Ất trụ năm được lệnh nhưng chỉ vượng ở đại vận nên có -0,25đh và Ất có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc). Giáp trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên có -0,5đh và Giáp có 0,5đh kỵ vượng (vì bị Tân đại vận khắc). 6 – Tân của lưu niên là Thương quan vượng ở lưu niên, vì vậy nó gặp Ất của đại vận là Quan có 1đh (theo lý thuyết của tôi - cũng như của cụ Thiệu - thì các ví dụ thực tế đã chứng minh rằng Thương và Quan không ở trong hợp thì mới có thể gặp nhau và khi đó mới có thể có điểm hạn Thương gặp Quan. Điều này khác hẳn với các sách từ Cổ tới Kim là họ cho chúng gặp nhau tuốt kể cả khi chúng đã hóa thành cục, thật là "Khủng" ...). 7 - Đất trên thành trụ tháng có Kỷ thất lệnh nhưng vượng ở lưu nên khắc nước mưa lưu niên có 1đh nhưng can chi của nạp âm đều bị hợp trong đó chỉ có Mão hợp với tuế vận hóa cục nên bị giảm 25%đh còn 0,75đh. Nước mưa lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được lửa đỉnh núi trụ giờ có 1đh nhưng bị đất trên thành khắc mất 75%đh còn 0,25đh. Tổng số có 9,15đh. Nếu ta sử dụng giả thiết 269/48 (nay đã thành quy tắc chính thức) thì tam hội cục trong tứ trụ không có 3 chi liền nhau nhưng có 2 trụ động nên tổng điểm hạn được giảm 1/3 còn 9,15.2/3.đh = 6,10đh. Số điểm này chấp nhận được. Các nguyên nhân chính gây ra hạn này bởi các điểm hạn của ĐC-1, nạp âm, Hỏa khắc Kim và Mộc quá vượng đã chống lại Kim. Do vậy ta phải dùng Kim để giải cứu. Trong tứ trụ có Mão hợp với Mùi thái tuế hóa Mộc gây ra ĐC- 1 và Kim (Tân) bị Hỏa (2 Đinh) khắc, vì vậy tai họa đã xẩy ra vào tháng Mão và nó thuộc mùa Xuân là mùa mà Hỏa và Mộc vượng, còn Kim ở tử tuyệt. Tai họa này dễ liên quan tới 2 hành là Kim và Mộc.
    2 likes
  2. ĐÀO HOA TRẬN Một trong những mối quan tâm trong quan hệ xã hội chính là quan hệ nam nữ, quan hệ xã giao. Nhưng vấn đề này có liên quan đến một hiện tượng tương tác gọi là Đào Hoa trong Tử Vi. Hay nói cách khác là cung Đào Hoa trong vận số của con người. Một người lớn tuổi mà vẫn chưa có cho mình một ai ưng ý để làm bạn đời, trong trường hợp này cấn ứng dụng "Đào Hoa trận"; hoặc những ông chồng bà vợ có những mối quan hệ với người khác giới, trên mức tình cảm thông thường khiến cho gia đình có nguy cơ đổ vỡ, rất cần có "Đào Hoa Sát" để giữ lại hạnh phúc gia đình. Phương pháp ứng dụng này trong Phong thủy liên quan đến một phương pháp còn bí truyền gọi là "Tử Vi Phong Thủy" (Ứng dụng Tử Vi Lạc Việt) và "Lạc Dịch phong thủy". Những nguyên lý của phương pháp này sẽ được học sâu hơn vào cuối khóa - khi anh chị em đã nắm vững những kiến thức về phong Thủy Lạc Việt. Nhưng trong bài giảng chuyên đề này, tôi sẽ trình bày với anh chị em về một trong những ứng dụng cụ thể của phương pháp "Tử Vi Phong Thủy" trong Phong Thủy Lạc Việt. Đó là một trong những phương pháp có hiệu quả trong điều kiện của nó trong môn "Tử Vi Phong Thủy". Trong khoa Tử Vi - mà tôi đã minh chứng rằng: Đó chính là những quy luật vận động tương tác của những thiên thể gần trái đất lên Trái Đất, cuộc sống và con người. Và con người của nền văn minh xa xưa đó đã có những qui ước mang tính biểu kiến những tương tác trên thực tế của vũ trụ trên qua lá Tử Vi Đông phương. Những phương vị trên 12 cung Tử Vi Đông phương cũng là phương vị trên phong thủy với 12 Sơn Địa chi. Bởi vậy căn cứ trên 12 sơn Phong thủy phù hợp với 12 cung số Tử Vi, người ta dùng để khống chế các sao xấu và tăng độ số của sao tốt, nhằm nâng độ số của số phận. Một trong những nguyên lý đó chính là phương pháp Đào hoa trận, mà tôi trình bày trong bài này. Trong phương pháp Đào Hoa trận có hai loại là: Vượng Đào Hoa và Trảm Đào Hoa. I - VƯỢNG ĐÀO HOA. Trong Tử Vi, Đào hoa tinh tùy theo tuổi mà nằm ở các cung sau đây: * Tuổi Thân Tý Thìn: Đào Hoa nằm ở cung Dậu. Ứng với sơn Dậu trên La Kinh. * Tuổi Hợi Mão Mùi: Đào Hoa nằm ở cung Tý. Ứng với sơn Tý trên La Kinh. * Tuổi Dần Ngọ Tuất: Đào Hoa nằm ở cung Mão. Ứng với sơn Mão trên La Kinh. * Tuổi Tỵ Dậu Sửu: Đào Hoa nằm ở cung Ngọ. Ứng với sơn Ngọ trên La Kinh. Cung tướng ứng này trên La Kinh gọi là Đào Hoa Sơn. Trên cơ sở này chúng ta cần những bước sau đây: * Xác định Đào Hoa sơn chứa Đào Hoa Tinh của người cần Vượng Đào Hoa, theo cách tính trên. Thí dụ: Người tuổi Dần, Đào Hoa tại sơn Mão. * Tùy theo mạng tính theo tuổi của người cần Vượng Đào Hoa mà chúng ta cần một bình hoa có màu thích hợp. Thí dụ: Người Bính Dần (Bất luận nam nữ), có tính duyên trắc trở. Chúng ta xác định được sơn có sao Đào Hoa là sơn Mão theo bảng trên. Tại tường hoặc phương vị của sơn này trong nhà, đặt một bình hoa có màu thích hợp với mạng của người tuổi Bính Dần là Thủy - Theo Lạc Thư Hoa giáp (Sách Tàu là Hỏa) - tức là chúng ta dùng bình màu xanh dương nhạt, hay đậm (Không dùng màu đen. Vì ở Hậu Thiên, màu đen còn là Tượng của Thổ - sao Nhị Hắc). Bình hoa này sẽ được đặt tại phương vị có sơn Mão. Đặt sát tường hay chỉ ở phương vị sơn này là tùy theo tính hợp lý với cảnh quan. * Chọn số hoa và màu hoa tương sinh với bình hoa thích hợp vớí độ số cung phi. Thí dụ: Người nữ Bính Dần có cung phi là Khảm thuộc Thủy. Thủy trên Hà Đồ có độ số 1 - 6. Số lượng hoa sẽ là 1 bông hoa to và 5 bông hoa nhỏ. Tương sinh ra thủy là hành Kim. Vậy chúng ta dùng hoa màu trắng. Lưu ý: Đào Hoa sợ nhất sao Thiên hình. Sao Thiên Hình thuộc hành Kim, có cung bản nguyên là Dậu và cung đối xung là Mão. Bởi vậy, trong bình hoa nên có nước đầy để hóa giải sao Thiên hình. và tốt nhất dùng bình thủy tinh trong. Nay mùa Xuân đang đến. Nên tranh thủ mùa Hoa Đào - Biểu tượng gần gũi nhất của Đào Hoa tinh, đặt ngay một nhánh Đào vào vị trí Đào hoa Sơn với bình hoa có màu thích hợp. Trong trường hợp đặc biệt này, do dùng chính Hoa Đào là biểu tượng của Đào Hoa tinh thì không cần tương sinh với bản mệnh - Hoa càng nhiều, càng rực rỡ càng tốt. II - TRẢM ĐÀO HOA. Có nhiều phương pháp "Trảm Đào Hoa". Sau khi tính được Đào Hoa sơn của "Đức ông chồng", hoặc "Bà xã yếu quí", đang có nguy cơ theo dấu chân ai. Ứng dụng những biện pháp sau: 1 - Dùng bình hoa có màu thích hợp với bản mệnh và số hoa thích hợp với cung phi của người đó. Màu hoa cũng tương sinh cho màu bản mệnh. Nhưng dùng một con dao nhỏ, cắt ngang những cành hoa trước khi cắm vào bình. Nhưng lưu ý là không cắt lìa. Đặt bình hoa này vào vị trí Đào Hoa Sơn và gác con dao phía trên các cành hoa. (Dao nhựa, dao gỗ đều được). Không có nước trong bình hoa. 2 - Mua một tranh gà trống của dòng tranh Đông Hồ (Loại chỉ vẽ một con duy nhất và không có chữ Đại Cát), treo ở Đào Hoa sơn. Tranh dân gian Việt Nam có tác dụng trấn yểm phong thủy rất mạnh. Hiện hình thành một phương pháp trần yểm bằng tranh dân gian Việt Nam. Sẽ học sau. 3 - Mua một tượng con gà trống bằng đồng , hoặc bằng bất cứ vật liệu gì, đặt ở Đào Hoa sơn của người cần "Trảm Đào Hoa". Gà Trống là biểu tượng của cung Dậu - Cung của sao Thiên Hình, bởi vậy có tác dụng khắc chế Đào Hoa tinh. Lưu ý: Trong trường hợp dùng phương pháp "Trảm Đào Hoa" - nếu có hiệu quả thì phải hủy, không nên tiếp tục để lâu dài. Anh chị em thân mến. Anh chị em cần lưu ý rằng: Tất cả những chiêu thức, trấn yểm trong Phong Thủy - kể cà Đào Hoa Trận - chỉ có tác dụng khi ngôi gia vượng khí mới có tác dụng. Còn nếu không vượng khí - dù hướng tốt hay xấu, thì mọi sự trấn yểm và chiêu thức đều không có giá trị. Vương khí này bao gồm cả Dương khí do sự chuyển động của con người và phương tiện và Âm khí do vị thế hình thể của cuộc đất với môi trường. Chúng ta đang tiếp tục tham khảo về Khí và các vấn đề liên quan. Bài viết của Thầy Thiên Sứ
    1 like
  3. Trước tiên xin kính chào các quý ông quý bà cùng toàn thể quý cô chiêu và quý cậu ấm. Hiện nay, mục Tử vi luận giải này rất đông khách, đại bộ phận khách khứa là quý cậu ấm và quý cô chiêu, mới 19 đôi mươi nên còn nhiều sự đời chưa hiểu, thiết tưởng mình đỗ đại học đã là nhớn, biết Hun đã là khôn nhưng khi lạc vào thế giới tiên đoán thì đúng là một kiến thức mới. Hiện nay, theo như tôi quan sát, hầu hết các anh chị, cô bác luận giải ở diễn đàn đều dùng từ ngữ tân thời, rất ít từ ngữ cổ hoặc cũ. Nhưng xem ra nhiều người Trẻ không hiểu và nhiều người xấu số (lá số không đẹp như ý) hay hỏi đi hỏi lại, người này trả lời không ưng thì tưng tưng chạy qua hỏi người khác. Giá mà khi đi học mà chăm chỉ chịu khó như thế thì tốt cho nước nhà quá. Vì vậy tôi xin mạn phép mở ra mục này để các cô bác, anh chị luận giải lá số đóng góp các kiến giải vào đây để các quý ông bà, quý cô ấm cậu chiêu đọc hiểu một vài vấn đề cơ bản. Với các quý vị nhờ bình giải lá số thì chỉ nên đọc hiểu chứ đừng View như người Anh. Bởi quý vị viết vài dòng cảm xúc vào đây thì sẽ có nhiều điều không cần thiết. Nếu thấy nhất thiết phải viết thì nên đọc kỹ trước khi đặt tay gõ phím hỏi về vấn đề mình chưa hiểu. Rào trước, Chắn sau như vậy thiết nghĩ cũng đã cạn lẽ. Xin phép quý vị cho tôi vào thẳng vấn đề cần vào như sau: 1/ Không còn là trinh nữ trước khi động phòng hoa trúc: Việc này không nhất thiết cứ phải là quan hệ với người ngoài rồi mới lấy chồng. Hoàn toàn có thể quan hệ với người chồng trước khi cưới và đăng ký kết hôn. 2/ Phải lập gia đình muộn mới tránh được hình khắc chia ly: Muộn là từ tầm 30 tuổi trở đi, Sớm là từ 24 tuổi trở về trước, Trung bình là tự hiểu. 3/ Giải pháp để tránh hình khắc ly dị: muộn lập gia đình, làm lẽ, cưới hỏi dở dang người này rồi lấy người khác, cưới đi và cưới lại 4/ Cưới đi và cưới lại: Là việc hi hữu, ví như vì ở xa nhau nên phải tổ chức cưới ở 2 nơi, bái gia tiên 2 lần, hoặc cưới chui trước khi cưới thật, tức là ra phường làm đăng ký kết hôn hoặc lấy được giấy đăng ký kết hôn rồi về nhà làm lễ bái gia tiên ở 1 trong 2 họ, Hiện nay thiên hạ rất chuộng cái vụ cưới đi rồi cô dâu lẳng lặng bỏ về nhà đẻ, sau đó chú rể mới lóc cóc đi đón dâu về lần nữa. Để gọi là qua 2 lần đò đểu. Vì là đò đểu nên chẳng có gì đảm bảo cái sự giả dối cố ý được biện hộ là chữa mẹo với chẳng méo này có tác dụng gì cả. Chồng 5 thê 7 thiếp vẫn cứ diễn ra, vợ thì có cả bộ sưu tập người tình thì vẫn chẳng tránh khỏi. Thế thì chọn giờ lành tháng tốt làm gì hay tại thầy bói dốt? 5/ Kim lâu đối với nữ nên không được lấy chồng: 1 lần ân ái cũng nên vợ chồng, nếu nói dại chỉ 1 lần nghịch dại mà có thai, vậy lúc nghịch dại ấy ai xem ngày xem giờ cho? Yêu thì Cưới, đó là nét văn hóa của dân tộc Việt, "Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên?", "Ngày xưa ai cấm duyên bà, mà nay bà già bà cấm duyên tôi?", "Hùng Vương kén rể thời nay: Xe bốn bánh, Cánh 2 bên, Lên thang máy (nhà biệt thự cao hơn 5 tầng phải đi thang máy chứ ko phải loại trung cư vớ vỉn) Như vậy Kim lâu hay không, không quan trọng trong việc cưới chồng, bởi nếu quan trọng thế thì sao lúc đẻ con ko tính chuyện kim lâu, chồng thì chỉ sống được vài chục năm cùng mình (lâu hơn cha mẹ mình) nhưng thường thì chồng không sống lâu hơn con mình (Ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con cái). Vậy rõ ràng cái chuyện trăm năm kia là sống với con, con cái lo ma chay - hiếu hỉ cho cha mẹ, quan trọng thế sao không Kiêng? hay sướng quá nên quên mất việc kiêng cữ? 6/ Cải số: Quả có vài trường hợp lá số phán Tử vong, đương số quả nhiên có nhìn thấy Quỷ Môn Quan. Nhưng được cứu giải. Nên không phải xuống mười mấy tầng địa ngục an dưỡng. Đó là những trường hợp hi hữu và không phải tất cả những người có cùng ngày, cùng tháng, cùng năm đó đều được cứu giải như thế. Mình không chết thì người khác chết, số trời đã định ngày hôm đó Tử thần với lưỡi hái Đầu lâu phải gom đủ 3000 đầu lâu vào cái túi đen ngòm, nếu không đủ thì bị phạt, không nhẽ cái lão Sư cọ mốc với lưỡi hái dài ngoằng đó nhận hối lộ của quý vị để giết người khác thế thân cho quý vị hoài? Rõ là không rồi. Như vậy việc cải số cũng giống như việc thi Hoa hậu thế giới vậy, cả năm chỉ có 1 người đăng quang ngôi vị cao nhất mà thôi. Chứ cải được số thì sao không làm cho lá số đẹp cả 12 cung số luôn đi, chỉ cải mỗi cái cung Phu Thê hay Tử tức xấu hoắc để làm gì? vậy cung này tốt lên thì cung nào sẽ xấu đi đây? Tử vi không phải là cái để mọi người xoay chuyển càn khôn mà chỉ để con người nhìn vào đó để chuẩn bị tâm lý cũng như cách ứng xử sao cho tốt nhất trong hoàn cảnh đó mà thôi. Nhưng không có nghĩa là khoanh tay chịu trói, Tức biết được tháng này mình bị mất tiền có thể do bị cướp hoặc bị vay đểu. Thì mình phải tự đưa ra đối xách là cướp thì phải truy hô, vay đểu thì chỉ cho vay ít thôi. 7/ Giầu có đừng vội mừng, nghèo khó đừng vội lo: Biết số mình nghèo, bon chen cũng chẳng lợi gì thì đừng lấy đó làm buồn, mà hãy nghĩ đến việc mình sống có hạnh phúc không, người ta giầu có mà con cái ăn tàn phá hại thì có hạnh phúc không? kiếm tiền nhiều để vợ chồng nem chả mà vẫn chung giường, con cái hút sách mà vẫn đi du học thì khi về già có sướng không? Giầu mà không sang chẳng bằng nghèo khó mà đứng đắn. Sống ở trên đời, cần có 1 cái tâm cùng với cái tầm chứ không phải tiền bạc và địa vị. 8/ Tuổi còn trẻ quá (dưới 25) thì không nên tìm hiểu quá sâu về tương lai xa: Tầm tuổi này chỉ nên biết tương lai gần trong 5 năm tới chứ đừng tham lam mà hỏi thông cả đến lúc vào hòm. Cuộc đời này chỉ có 18% là những điều tuyệt vời, với 2% may mắn, còn lại có đến 80% những điều không may. Vì thế hầu hết xem số nói về điềm gở nhiều và dễ hơn điềm lành. Nhưng với số lượng điềm lành nhỏ bé ấy lại làm lên cả 1 kỳ tích về cuộc sống con người. Vì vậy, hãy nhìn gần để dễ làm, đừng nhìn xa quá mà thêm mệt mỏi. 9/ Tỷ phú tại Thiên, Triệu phú nhờ tích góp, đổi giờ sinh để làm gì?: Giầu không phô, nghèo không xấu hổ. Nếu đã biết số mình nghèo thì cố mà tích góp, để một mai mưa gió đau ốm còn có cái dùng, chứ nợ nần là tự mình bán danh dự của mình đi rồi. Bởi nhỡ một mai chết đi, gánh nợ đó đổ lên đầu ai nếu ko phải là người thân ruột thịt trong nhà? Vì vậy dù giầu hay nghèo thì cũng nên khiếm tốn. Đừng xừng sực đổi giờ sinh, ngày sinh. Nếu đã không biết thì cần làm rõ trước, khi đăng tin lên cần kiểm tra lại kẻo đến lúc người giải đã luận giải cả tràng rất dài rồi mà cuối cùng là sai giờ sinh. Nếu quý vị đi xem mất phí, sẽ có bao nhiêu người nhìn quý vị? người ta đang xếp hàng chờ đến lượt mà lại bị 1 kẻ lãng nhách xếp trước. Như thế là không lịch sự. Đổi giờ sinh, chắc gì đã có lá số tốt hơn 10/ Vợ chồng có ngày xa cách: Xa cách không có nghĩa là ly dị, nhưng lại có ý nghĩa là chia ly tạm thời. vì dận nhau hoặc vì công tác, không thể luận giải chính xác được là vì sao. 11/ Bị làm sao đó: Làm sao là làm sao thì có nhiều trường hợp, nhưng tựu chung là muốn biết nguyên nhân và kết quả, Tử vi không thể chỉ rõ được vấn đề, ví như đụng xe hay đâm xe? đụng thì chỉ là va quệt nhẹ, còn đâm xe thì nặng rồi. Nhưng ai đâm ai và xe đâm là xe gì thì chịu nhé, chỉ có Chúa mới biết nó là cái gì và như thế nào. Khoa học cũng như Tử vi không bao giờ trả lời Tại sao mà chỉ giải thích như thế nào. Đừng hỏi tại sao con người lại sinh ra trên trái đất này mà không phải là ở 1 Ngôi sao cô đơn nào đó trong vũ trụ. Không ai và không bao giờ bạn có câu trả lời. 12/ Sao này và sao kia: Nếu quý vị chưa thông tường hoặc chưa thuộc được ý nghĩa cũng như sự phối kết hợp giữa các sao thì không nên đưa ra những câu hỏi về các vì tinh tú này để tránh chuyện tranh cãi nhiều hơn là trao đổi học thuật. Người luận giải thực sự không có hứng thú đàm đạo với quý vị về vấn đề này (hầu hết là thế) 13/ Học giỏi không đồng nghĩa với giầu có và ngược lại: Cuộc đời là thế đó, quý vị có 1 quá khứ học hành siêu việt, nhưng chẳng có gì đảm bảo là quý vị có 1 tương lai sáng về tiền bạc cả. Tiền và Tài không phải lúc nào cũng song hành với nhau Ngày hôm nay có thu nhập cao thì đừng vội mừng, bao giờ nghỉ hưu ở tuổi 60 thì hãy phán xét việc bói toán là trò nhảm nhí. 14/ Giầu nứt đố đổ vách mà không bền: Ai cũng có 1 thời kỳ 10 năm phát đạt, nhưng không phải cả 10 năm đều phát mà có năm được năm hòa. Nhưng tổng kết là tốt và rất tốt. Cái ngưỡng 10 năm tốt đó nó thể hiện ở con số dưới đáy và ở giữa mỗi cung số. Quý vị có thể xác định được cho mình ở khoảng tuổi nào, ví như Mệnh là số 3 và khoảng thời gian tốt nhất cho mọi vấn đề của cuộc sống có thể là từ 23 đến 32 tuổi bởi cung kế tiếp là cung 33, nếu vận hạn tốt ở cung 43 thì thời kỳ tốt đẹp đó là từ 43 đến 52 tuổi. v.v... Đời người thường chi có 1 thời ký 10 năm này thôi, thường thì chỉ có một vài trường hợp đắc cách mới có 2 vận tốt, có thể là ở cung 33 và cung 53 tuổi, tức cung 43 tuổi ko tốt hoặc hơi xấu so với bình thường. 15/ Mất điện thoại có tìm lại được không? hay các câu hỏi đại loại như thế: Vậy mất người yêu có lấy lại được không? đâu cần bói toán gì cũng đoán được mà. Rất ít trường hợp Tử vi có thể đoán được, nên đi tìm các phương pháp tiên đoán khác thì hơn. Mong các quý vị giải số tiếp phím
    1 like
  4. Theo tôi nghĩ năm nay thì chưa, năm sau có thể cưới nhưng cẩn thận đề phòng có biến, có kẻ xen vào...
    1 like
  5. Tôi đã update link cho Thiên Luân đến bài viết đó rồi đấy. :)
    1 like
  6. Hiện tại có lớp cơ bản 07 đã mở được 1 tháng, vẫn đang cho đăng ký học viên, xem thông tin ở đây!http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/20836-chieu-sinh-lop-phong-thuy-co-ban-07-2011/
    1 like
  7. Có nốt ruồi trên chân mày thì tình duyên trắc trở, khó kiếm được tri kỷ!
    1 like
  8. Hiện tại trung tâm chỉ có lớp dạy phong thủy online. Vậy sẽ hen CCB dịp khác, có duyên thì sẽ có lúc được học thôi!
    1 like
  9. Thứ nhất : sinh con gái thì sẽ giảm cái khắc so với sinh con trai, con trai - mẹ là 1 mối liên hệ mạnh nên hợp thì rất hợp, khắc thì rất khắc. Thứ hai : vì sao lại phát tài, cái này để dành cho học viên Luận Tuổi nhé CCB. Sắp tới (đầu tháng 11) TL sẽ tổ chức 1 CLB Luận Tuổi, hy vọng CCB sẽ tham gia!
    1 like
  10. Chào bạn Tâm Giao, mệnh thân mà có đào hồng, làm sao mà tránh hai lần đạp chông?, cung mệnh có hồng loan+ thiên không+kiếp sát cũng có ý nghĩa tình duyên trắc trở, thêm Đà La là cách ám lệ trường lưu suốt đời buồn khổ về chồng con. Kết hợp cung phu có Kỵ+đào+không nói ra đây vài điều khá tế nhị ... TG tự tìm hiểu. Chị này hay có ý nghĩ muốn tu hành theo ý của TM là do tình duyên lận đận chả ra gì mới nghĩ đến chuyện tu hành, trốn tránh nợ đời cho bớt khổ, nhưng cung thân có đào hồng hỷ không Kỵ kiếp, có lẽ muốn trốn nhưng không được còn bận lắm bụi trần khó lòng chuyên tu.
    1 like
  11. @ Rin86, Cách lập quẻ của ông tây đó là tuân thủ theo nguyên tắc sau đây: Mặt đồng tiền dương bằng 3 điểm Mặt đồng tiền âm bằng 2 điểm Tung một lượt 3 đồng tiền thì 8 = 2+3+3 8 = 2+3+3 6 = 2+2+2 (3 hào này toàn âm là âm động) ___________ (gạch ngang là cho phân biệt quẻ trên và dưới) 8 = 2+3+3 7 = 2+2+3 7 = 2+2+3 Như vậy quẻ chủ là Địa Trạch Lâm động hào 4, quẻ biến là Lôi Trạch Quy Muội Theo anh, giải đoán hai quẻ này là nên hiểu rỏ chân nội lực và khả năng của mình đợi đúng thời cơ mà thể hiện, việc lớn ắt thành. Nói về mưu cầu hôn nhân, hôn nhân tuy chậm nhưng chớ vội, nên hiểu giá trị của mình mà đặt sự chọn lựa cho xứng đáng, việc đến chậm nhưng xứng đáng, xứng đôi. Chúc muội thành công Thiên Đồng
    1 like
  12. Anh chị em thân mến! Cô Matsuri chỉ cần anh chị em giúp tư vấn online thì anh chị em cố gắng giúp. Không nên khuyên người ta nhờ tư vấn trực tiếp, mọi người vào xem có thể hiểu lầm, mang tiếng. Hatgaolang và anh chị em giúp cô ấy, nếu cần phải minh họa bằng bản vẽ thì đến bảo Thiên Anh, hoặc Thiên Đồng minh họa giúp.
    1 like
  13. Chào bạn ! Nếu bạn ở Hà Nội thì cũng tiện đó ,ở Hà Nội cũng có một đội ngũ chuyên gia PT hùng mạnh không kém gì TPHCM và các tỉnh khác đâu . Theo tôi bạn nên nhờ anh em ở văn phòng ở Hà Nội đến tận nơi tư vấn cho ,như thế nó mới chính xác và triệt để được . Tôi trước kia cũng tập toạng đọc sách PT có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán rồi tự làm PT cho nhà mình ,ở mấy năm chẳng cải thiện được ít nào ... Năm kia gặp được một PT gia lão luyện theo cổ thư chữ Hán ,mừng quá mời đến tư vấn luôn - Mất khối cả tiền công và tiền sửa chữa .... Hơn năm sau thấy nhiều việc dở hơi hơn nên không tin phong thủy nữa . Đang bế tắc....... nên chán quá cứ lang thang trên các diễn đàn thì lại gặp ngay mấy ông trên PT gia trên diễn đàn Văn Hóa Phương Đông , cũng hỏi hỏi han han thấy cũng toàn lý luận như cái ông đã đến tư vấn cho nhà mình thế là lại càng thêm chán . Đã định thôi thì vô tình nghe được chằng cháu ruột nói là bây giờ ở diễn đàn Lý Học Đông Phương đang nhận PT là của người Việt Nam ,thế là vì yêu dân tộc mà lọ mọ vào diễn đàn . Lúc đầu cũng chẳng hiểu gì nhưng càng đọc sách của Thiên Sứ ở trang chủ càng thấy có lý thế là theo luôn . Lúc đầu cũng như bạn : Cứ nhờ tư vấn qua diễn đàn ,tả tới tả lui và các anh ấy cũng rất nhiệt tình hướng dẫn ,thậm chí cứ tối đến là mình lại loay hoay vác cái đèn dầu ra cổng rồi bò sát xuống mặt đất để đo hướng cổng , nhưng rút cục vẫn chẳng biết cổng nhà mình bao nhiêu độ cả ........ Mãi vẫn chẳng nói với các anh ấy là nhà,đất và cổng bao nhiêu độ nên cũng chán ..... Cảm cái sự nhiệt tình và vô tư của các anh ấy nên muốn nhờ đến tận nơi tư vấn cho ..... nhưng lại kinh tốn tiền ..... Mãi.... đến lúc thấy tình hình gia đình sập xệ quá mới mạnh dạn liên hệ với văn phòng số 1A Đặng Dung tạ Hà Nội ,được anh Hoàng Triệu Hải đến tận nơi tư vấn tận tình cho mà tiền công lại ít đến bất ngờ .... Từ đó thấy anh em bạn bè là mình lại khuyên nên tìm đến với phong thủy Lạc Việt . Nói mãi thì nó dài dòng nhưng mình sửa theo PT Lạc Việt tháng trước thì tháng sau gia đình đã có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực ..... khỏi phải nói giờ thì mình tin PT Lạc Việt tới mức nào ! Bạn nên quyết cái Rụp mà làm đi ,không tốn lắm đâu mà lại hiệu quả nhanh chóng ,chứ để lâu thì chỉ thêm vất vả hơn rồi cuối cùng vẫn phải làm . Nếu sau này mà bạn thấy tôi nói đúng thì cho tôi xin địa chỉ ,lúc nào có dịp đi qua cho lão Cóc này ly cà phê hạ giá ... Chúc thành công !
    1 like
  14. Dĩ nhiên là bếp và tủ đồ ăn mà đối diện với cửa WC thì xấu rồi. Đặt trước cửa phòng vệ sinh một chậu cây nhé Thân mến
    1 like
  15. Bài 21: Điểm hạn và khả năng của Thiên Khắc Địa Xung (TKĐX) Y8 - Điểm hạn và khả năng của TKĐX A - Điểm hạn của TKĐX hoàn toàn phụ thuộc vào can chủ khắc của nó như sau : 156a/ - 1 trụ TKĐK (có can và chi của nó đều là chủ khắc) với 1 trụ khác: Nếu can chủ khắc của nó vượng ở lưu niên thì nó có 1đh. Nếu can chủ khắc của nó chỉ vượng ở đại vận thì nó chỉ có 0,75đh. Nếu can chủ khắc của nó ở tuế vận mà nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,5đh. Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì nó có 0,5đh. Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ mà thất lệnh và nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,25đh. 156b/(42;53a;70) - Điểm hạn của TKĐX bị giảm 2/3 nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 1 lực có 1đh (vd 42 ;157c) và TKĐX là vô dụng nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 2 lực cùng có 1đh (vd 70). Ðiểm hạn của TKĐX bị giảm 1/4 nếu can chủ khắc của nó bị khắc it nhất bởi 2 lực cùng có 0,7đh (vd 53a). 157/ – Nếu 1 trụ TKĐX (có can của nó là chủ khắc nhưng chi của nó chỉ là chủ xung hay các chi của nó là Thổ (hành của nó là Thổ)) với 1 trụ khác thì điểm hạn của nó hoàn toàn tương tự như các trường hợp TKĐK nhưng nó bị giảm ½ . 158/(68;161) – TKĐX* (có chi là Thìn và Tý) chỉ có khi các chi của nó ở gần nhau và các chi này không cùng ở trong tam hợp, khi đó điểm hạn của TKĐX* chỉ bằng 2/3 điểm hạn của TKĐX. 159/(12...) - Giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận nếu có các TKĐX (kể cả TKĐX*) thì ngoài điểm hạn chính của chúng, chúng còn được thêm điểm hạn phụ như sau: Nếu chúng có 2 trụ TKĐX với nhau thì chúng có thêm 0,05đh. Nếu .............. 3 ................. .............................................0,1đh. Nếu................4 .............................................................. 0,3đh. Nếu................5 .............................................................. 0,3.2đh. Nếu................6 .............................................................. 0,3.5đh Nếu ...............7 ...............................................................0,3.8đh ? B - Các tính chất của TKĐX 159a/ Một trụ TKĐX (là nói chung cho cả TKĐK, TKĐX* và TKĐK*) với tam hợp hay tam hội có X chi, nghĩa là tổ hợp này có tổng cộng X chi, còn với lục hợp hay bán hợp có X chi thì có nghĩa là chỉ có X-1 chi trong tổ hợp hợp với chi này. 160/(12) - Nếu đại vận hay lưu niên TKĐX với tiểu vận thì điểm hạn của nó bị giảm ¾. 160a/27 - Nếu tiểu vận TKĐX với đại vận hay lưu niên thì điểm hạn của nó được tính như bình thường. 160b/7 – 1 trụ có khả năng TKĐX với các bán hợp và ngũ hợp (ví dụ 125) hay các tam hợp và tam hội không hóa có từ 3 chi trở lên (ví dụ 53a) nhưng nó không có khả năng TKĐX với tam hợp cục hay tam hội cục có ít nhất 4 chi. (Chú ý : TKĐX với bán hợp hay tam hợp là chỉ tính chi của trụ TKĐX với các chi hợp với nó, còn TKĐX với tam hợp hay tam hội là tính tất cả các chi có trong tổ hợp đó). 161/55 – Nếu có it nhất 2 trụ giống nhau mà chúng chỉ TKĐX với 1 trụ khác thì điểm hạn của mỗi TKĐX được tăng ¼ . 162/(55;113;157a) – Một trụ (hay nhiều trụ giống nhau) TKĐX với ít nhất 2 trụ giống nhau thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm ¼ và nếu can chủ khắc khắc được 2 can của 2 trụ giống nhau này có điểm hạn thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm thêm ít nhất ¼ đh.. 163/62 - Nếu tuế vận cùng gặp hay 2 trụ giống nhau ở trong tứ trụ TKĐK với các trụ khác giống nhau thì điểm hạn chính của mỗi TKĐK này được tăng gấp đôi, khi đó các trụ khác giống với hai trụ này TKĐK với các trụ đó điểm hạn cũng được tăng gấp đôi (hay 25% , 50% ?). 164/ - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm. 165/55 – Nếu 1 trụ TKĐX với các trụ có các chi giống nhau của một tam hợp hay tam hội thì chúng chỉ được coi là TKĐX với 1 trụ của tam hợp hay tam hội đó. 166/(55;60;115) - Nếu lưu niên và trụ trong tứ trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực xung hay khắc tới trụ này đều được tăng gấp đôi (riêng với lực của TKĐX được tính cả 2 chiều), nhưng nếu can của lưu niên là chủ khắc mà nhược ở tuế vận thì điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này không được tăng gấp đôi (trừ khi có thêm ít nhất 1 trụ giống với lưu niên TKĐX với trụ đang mang vận hạn (?)). 167/ - (bỏ vì sai). 168/ – Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX* với nhau thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này được tăng gấp đôi ? (chưa có ví dụ để chứng minh). 169/128 - Tại năm sinh nếu trụ năm và lưu niên TKĐX với 1 trụ thì điểm hạn của các TKĐX này không được tăng ¼ (nhưng 1 trụ TKĐX với trụ năm và lưu niên vẫn bị giảm ¼ ?) 170/129 – Nếu tại năm sinh có một trụ trong tứ trụ và trụ năm (là trụ đang mang vận hạn) TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực tác động vào trụ năm được tăng gấp đôi (kể cả các lực hình, tự hình và hại) 171/134 - Dưới 12 tháng tuổi nhưng khác năm sinh nếu trụ năm bị 1 trụ trong tu tru TKĐX thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ năm chỉ được tăng ½. 172/59 - TKĐX là vô dụng khi nó có ít nhất 1 can của nó là tranh hợp thật hay can chủ khắc của nó hóa cục. C – Các chi của TKĐX hóa cục 173/(74;157b) - Nếu 4 trụ tạo thành hai cặp TKĐX khác nhau mà 4 chi của chúng hợp với nhau hóa thành 2 cục cùng một lúc và khắc nhau thì các TKĐX này chỉ phá được các hóa cục (trừ tam hội cục) nhưng vẫn còn các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn, trừ trường hợp 2 cặp TKĐX này có ít nhất 1 chi của chúng là Thổ thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hội cục) và các TKĐX vẫn có các điểm hạn như bình thường (riêng tam hợp cục vẫn còn tổ hợp nếu nó chỉ bị TKĐX bởi 2 cặp TKĐX này). 174/146 - 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục có hành giống hành của chi của chúng, nếu TKĐX và 2 hóa cục này cùng xuất hiện một lúc thì các cục bị phá (trừ tam hợp cục và tam hội cục) nhưng còn lại các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn. 175/57 - Nếu 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục nhưng ít nhất có một hóa cục có hành không giống hành của chi của nó thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hợp và tam hội) và điểm hạn của TKĐX vẫn có như bình thường. 176/61 - Nếu hai chi của TKĐK không là Thổ hóa thành 2 cục có hành giống hành của các chi của chúng thì TKĐX thành vô dụng khi trong chúng có ít nhất 1 hóa cục có trước TKĐX này. 177/89 – Nếu 2 chi của TKĐK không phải Thổ hóa cục có hành giống hành của các chi của chúng thì các hóa cục này không bị phá mà điểm hạn TKĐX được tăng gấp đôi chỉ khi TKĐX xuất hiện trước 2 hóa cục này hay cùng với một hóa cục nhưng trước hóa cục kia. D - Khả năng phá hợp của TKĐX 177a/ - Nếu các tổ hợp và các thiên khắc địa xung cùng xuất hiện thì các tổ hợp luôn luôn được tạo thành trước, sau đó chúng mới bị thiên khắc địa xung bởi các trụ. 178/(37;42) – 1 trụ TKĐX với bán hợp cục hay lục hợp cục có thể phá được cục nhưng vẫn còn tổ hợp của nó và phá được tổ hợp nếu nó không hóa cục nhưng nó không thể phá được các hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh nếu 2 chi của TKĐX này là Thổ. 179/60 – 2 trụ thiên khắc địa xung giữa tuế vận với Tứ trụ hay giữa tuế vận (kể cả tiểu vận) với nhau chỉ có thể phá được tam hợp không hóa có 3 chi giữa Tứ trụ với tuế vận nếu 2 chi của thiên khắc địa xung này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu còn nếu 2 chi này là Dần với Thân hay Tị với Hợi hoặc 2 chi này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu xung cách ngôi trong Tứ Trụ thì lực xung này phải không nhỏ hơn lực hợp. 180/(64;125) - Nếu 1 trụ TKĐK với 1 trụ mà chi của nó hợp với 3 chi giống nhau hóa cục thì TKĐX phá được cục này nhưng vẫn còn hợp và TKĐX phá được tổ hợp nếu chi này hợp với ít nhất 4 chi giống nhau không hóa. 181/136 - Nếu can của ngũ hợp ở tuế vận là chủ khắc hợp với can ở tuế vận và can trong tứ trụ thì liên kết của can chủ khắc với can ở tuế vận bị phá khi trụ của can bị khắc ở tuế vận TKĐX với trụ khác 182/ - (bỏ vì sai) 183/66 - Tam hợp cục bị phá cả cục lẫn hợp của nó khi có ít nhất 3 trụ TKĐX với nó. 184/55 – Nếu 2 trụ TKĐX với 1 trụ của tam hợp cục có 3 hay 4 chi (còn 5, 6...chi ?) thì chúng chỉ phá được cục nhưng vẫn còn hợp của nó và phá được hợp nếu nó không hóa cục. 185/157 - 2 trụ TKĐX với 2 trụ của tam hợp cục phá được cả cục và tổ hợp của nó. 186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó. 187/146– Từ 3 trụ trở lên TKĐX với ít nhất 2 trụ của tam hội cục trong tứ trụ mới có thể phá được cả cục và hợp của nó. 188/(69;113) - Chỉ có 2 trụ TKĐX* với nhau không phá được bán hợp của Tý với Thìn tại các chi của TKĐX* và TKĐX* này không có điểm hạn nếu 2 chi của nó hóa Thủy nhưng nếu có 2 trụ TKĐX* (hoặc 1 trụ TKĐX và 1 trụ TKĐX*) với 1 trụ của bán hợp này thì chúng phá được cả cục và hợp tại chi của trụ đó. Ví dụ minh họa Ví dụ 49 (Giải Mã Tứ Trụ): Đây là Tứ Trụ của cụ Thiệu Ung (Thiệu Khang Tiết) một đại sư lừng danh của Trung Quốc (mà cụ Thiệu Vĩ Hoa là cháu nội đời thứ 29) do nick LingLingLing đã đưa ra thách đố tôi dự đoán trong chủ đề “Uyên Hải Tử Bình - Thiệu Vĩ Hoa” tại mục Tử Bình bên trang web tuvilso.com (nay là tuvilyso.org) vào khoảng đầu năm 2007. Xét hạn năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu tức tuế vận gặp nhau. Sơ đồ mô tả các điểm hạn như sau: Năm cụ Thiệu Ung 46 tuổi là năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu, tiểu vận Đinh Hợi và Bính Tuất. Ta xét tiểu vận Bính Tuất. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn đủ, quan sát cũng đủ nên dụng thần đầu tiên phải là thực thương Đinh tàng trong Tuất ở trụ giờ. 2 – Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. 3 – Năm Đinh Dậu và đại vận Đinh Dậu tức tuế vận cùng gặp có 1đh (vì đinh vượng ở lưu niên). 4 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 5 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh. 6 – Đinh đại vận và Đinh lưu niên đều vượng ở lưu niên có -1đh và khắc 2 Tân, vì vậy mỗi lực có 0,7đh. 2 Tân thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên, vì vậy mỗi Tân có -0,5đh nhưng bị 2 Đinh khắc còn -0,5.0,3.0,3đh = .0,05đh. Dậu thái tuế và Dậu đại vận, mỗi Dậu có 1 hung thần có 0,25đh. Tuất tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh. 7 - Dậu đại vận tự hình Dậu thái tuế có 1đh, hại Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì nó là lực thứ 3). Dậu thái tuế bị hình nên vẫn hại được Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì là lực thứ 3 bởi Dậu thái tuế và Dậu đại vận tự hình với nhau). 8 - Nạp âm Lửa dưới núi ở tuế vận có can Đinh vượng ở lưu niên nên khắc kim trang sức trụ năm, đất trên tường trụ tháng và đất mái nhà tiểu vận, vì vậy mỗi lực khắc có 1.1/3đh = 0,33đh (vì Đinh đã sử dụng 1,5đk), riêng lực khắc nạp âm tiểu vận chỉ có 0,33.1/4đh = 0,08đh (khắc nạp âm tiểu vận bị giảm 3/4 đh). Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên khắc đất trên tường và kim trang sức, vì vậy mỗi lực chỉ có 0,5đh . 9 – 2 Đinh ở tuế vận là Thương quan gặp Quan là Tân trụ năm nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). Tổng số là 9,81đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) : “270/49 - Nếu 3 chi của tam hội trong Tứ Trụ liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm ½ chỉ khi có ít nhất 2 trụ của nó động”. Nếu sử dụng giả thiết này thì ở đây trụ năm và trụ tháng động (vì có 2 can Tân hay 2 nạp âm của nó bị khắc, còn trụ ngày tĩnh vì can, chi và nạp âm của nó không tác động với bên ngoài), do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 9,81.1/2dp = 4,91đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Cụ Thiệu Ung là một nhà dịch học nổi tiếng nên biết cách giải cứu. Thực tế gia phả của nhà cụ có viết “Mặc dù được vua mời ra làm quan trong triều đình nhưng cụ đã khước từ. Mãi đến khi qua năm Đinh Dậu cụ mới nhận lời và ra làm quan“. Qua đây chúng ta thấy đại vận Đinh Dậu là đại vận Thương quan (Đinh) gặp Quan (Tân ở trụ năm và tháng) và lại là đại vận có hình và hại (bởi vì có Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ và tự hình Dậu thái tuế). Do vậy cụ biết đến năm Đinh Dậu tuế vận cùng gặp là năm hạn rất nặng, nên cụ vẫn chưa ra làm quan mà ở nhà để giải hạn (có thể cụ đã vào chùa hay sống ẩn dật trên núi cao hay rừng sâu để giải hạn). Ta xét năm Đinh Tị Cụ Thiệu Ung mất khi 66 tuổi, đó là năm Đinh Tị thuộc đại vận Ất Mùi, tiểu vận Mậu Thìn và Đinh Mão. 1 - Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. Vào đại vận Ất Mùi và năm Đinh Tị có Tị thái tuế xung hợi trụ năm và thêm Mùi đại vận xung Sửu trụ tháng cũng như giả sử đại vận Ất Mùi TKĐX với trụ tháng Tân Sửu và lưu niên ĐinhTị TKĐX với trụ năm Tân Hợi cũng không thể phá được tam hội này. 2 – Ta đã biết từ 65 tuổi đến 85 tuổi trụ mang vận hạn lại trở về trụ năm, nên tất cả các lực xung hay khắc vào trụ năm đều được tăng gấp đôi. Do vậy Lưu niên Đinh Tị TKĐK trụ năm Tân Hợi có 2.0,5đh (vì Đinh vượng ở lưu). Trụ tháng Tân Sửu TKĐX với đại vận Ất Mùi có 0,13đh (vì can Tân thất lệnh lại còn nhược ở tuế vận). Có 4 trụ TKĐX với nhau nên có thêm 0,3đh. 3 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 4 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh. 5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu nên có -1đh can động và khắc 2 Tân nên mỗi lực có 0,7đh, nhưng lực khắc Tân trụ năm được tăng gấp đôi thành 1,4đh. Ất đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh can động và khắc Mậu tiểu vận có 1.1/2.1/2 đh = 0,25đh (vì khắc trái dấu và khắc vào can tiểu vận). Ất còn có 1 cát thần có -0,25đh. 6 – Mùi đại vận hình Tuất trụ giờ có 1đh. 7 - Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên chỉ khắc được đất trên tường trụ tháng và kim trang sức trụ năm có 1đh, vì vậy mỗi lực có 0,5đh, riêng lực khắc kim trang sức của trụ năm được tăng gấp đôi thành 1đh. Cát trong đất lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được kim trong cát của đại vận có 1đh. 8 – Đinh lưu niên là Thương quan gặp Quan là Tân ở trụ năm và trụ tháng nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). Tổng số có 6,91.1/2đh = 3,96đh (vì tam hội trong tứ trụ có 2 trụ của nó động). Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dị này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) : "186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó". Nếu sử dụng giả thiết này thì tam hội Hợi Tý Sửu trong tứ trụ bị phá. Tổng số là 8,61đh (số điểm hạn được mô tả ở sơ đồ trên) và nó không được giảm ½ (vì tam hội cục đã bị phá). Vì số điểm hạn quá cao nên cách đây vài trăm năm nhà mệnh học Thiệu Ung đã không tự giải cứu được.
    1 like
  16. Cố GS Nguyễn Đoàn Tuân có giảng cho tôi nghe về chữ Quốc ngữ : Hệ thống chữ Quốc ngữ như ngày nay chúng ta sử dụng do một nhóm Nhân sĩ người Việt sáng tạo ra, dựa trên Bộ chữ ghi âm chuẩn còn được lưu trữ từ thời đại Vua Hùng. Và mượn sự tiện dụng hệ thống ký hiệu chữ La tinh đương thời. Để hệ thống chữ viết ghi âm bằng ký hiệu chữ La tinh thành chữ Quốc ngữ Việt Nam thì, cách tốt nhất phải để cho Ngài Alexandre de Rhodes đứng tên chủ công trình. Và chỉ có Ngài Alexandre de Rhodes mới có đủ uy tín từng bước được giới "Hủ Nho" chấp nhận. Cảm nghĩ chữ Triều Tiên cũng tương tự như vậy. PhapVan
    1 like
  17. Nếu anh thật sự muốn học và đọc chữ Khoa Đẩu thì hãy đến Phú Thọ gặp thàỳ Đỗ Văn Xuyền học.
    1 like