-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 14/09/2011 in Bài viết
-
24 mẹo hay trị bệnh từ nhà bếp Những loại cây cỏ gia vị hay mật ong, trứng, lá ổi, dứa… vẫn được ưa dùng bởi sự an toàn và hiệu quả của nó. Dưới đây là tập hợp những mẹo hay bỏ túi giúp bảo vệ sức khoẻ mà không tốn tiền 1. Để giảm ho, lấy một lát mỏng hành tươi trộn với hai thìa mật ong, sau đó để khoảng 3 đến 4 tiếng thì bỏ miếng hành ra và ăn mật ong sẽ giúp giảm ho, rát họng đáng kể. 2. Nhai lá ổi sống để trị tiêu chảy một cách nhanh chóng và hiệu quả. 3. Để chữa ợ chua sau bữa ăn nên uống một cốc nước có pha một miếng đường thốt nốt (đường sống màu nâu chưa qua chế biến). 4. Bạn bị nấc? Hãy rang nóng hạt hồ tiêu sau đó hít thật sâu. Cách này sẽ giúp bạn hết nấc ngay. 5. Một cách khác để trị tiêu chảy là dùng hạt cỏ cà ri cho vào trong nửa cốc nước ấm để uống. 6. Cải thiện sức khoẻ gan bằng cách ăn một miếng dứa tươi đã được ướp lạnh nhúng trong mật ong, ngày ăn một lần. Bạn sẽ thấy sức khoẻ cải thiện trong vòng 15 ngày. 7. Để làm giảm tình trạng táo bón mãn tính hãy ăn nửa cốc rau bina. 8. Nhai đinh hương là một cách rất hay để bảo vệ răng và tránh được hôi miệng. 9. Bạn có cần chữa đau nhức cơ bắp? Hãy thử tắm với mù tạt. Lấy khoảng 15 đến 20 gam bột mù tạt cho vào trong một miếng vải, buộc chặt lại và nhúng vào một xô nước nóng khoảng 10-15 phút rồi dùng nước đó để tắm. Nó sẽ giúp bạn chữa đau nhức và chuột rút. 10. Bạn có biết bắp cải sống và nước ép bắp cải giúp phục hồi các niêm mạc bị tổn thương do quá trình co bóp thức ăn bên trong dạ dày và ruột không? Nếu có điều kiện hãy uống nước ép bắp cải nhé. 11. Giảm nọc độc do ong đốt, lấy một thìa cà phê nước ép củ hành xoa vào vùng bị ong đốt sau đó dùng nhíp gắp ngòi ra. Ngoài ra, có thể dùng aspirin xoa lên chỗ ong đốt để giảm đau. 12. Chữa hôi miệng bằng cách đun sôi một vài lá cỏ cà ri (khoảng 4-6 lá) trong một cốc nước sau đó súc miệng khi nước còn ấm. Hãy thử làm trong vòng 7 ngày, mỗi ngày hai lần bạn sẽ thấy tình hình cải thiện đáng kể. 13. Ngâm một thìa bột mỳ trong khoảng 150ml nước để qua đêm. Uống lớp nước trong thu được mỗi sáng sẽ giảm nồng độ axit và các vấn đề về dạ dày. 14. Nhai khoảng 5 lá húng quế vào lúc vừa ngủ dậy để giữ cho họng khỏi bị viêm nhiễm, các bệnh về miệng và nướu lợi. Thực hiện điều này như một thói quen thường xuyên đề tránh mắc các bệnh về họng. 15. Bạn cảm thấy khó tiêu? Một thìa nước ép từ cây bạc hà trộn với một lượng mật ong mật ong và nước chanh sẽ giải quyết vấn đề này nhanh chóng. Thử áp dụng trong 3 ngày sau bữa ăn chính, bạn sẽ cảm nhận được sự khác biệt. 16. Bạn muốn che giấu vết thâm, bầm tím để còn tham dự cuộc đi chơi quan trọng nào đó? Hãy dùng bông nhúng vào giấm nguyên chất và băng vùng bị thâm tím lại cho đến khô thì thôi. 17. Có thể dùng lòng trắng trứng để thay thế cho công dụng của thuốc mỡ. 18. Bị hen suyễn có thể dùng mật ong pha trong một cốc nước sôi uống hàng ngày. 19. Để thoát khỏi bệnh ho dai dẳng, hãy ăn một quả ổi đã được nướng trong lò vi sóng hoặc trên than củi. Áp dụng cho 4-5 ngày liền. 20. Dùng nước dừa non xoa lên da thường xuyên trong khoảng 6 tháng để làm giảm và xoá những sẹo nhỏ. 21. Uống nước ép từ tiểu mạch thảo (cỏ mỳ non) để bồi bổ sức khoẻ. Uống nước ép này hằng ngày giúp cơ thể cường tráng hơn. 22. Ngâm chân tay vào nước muối nóng trước khi ngủ để giảm bớt sự đau nhức. 23. Một thìa cà phê dầu thầu dầu uống với nước ấm vào sáng sớm (chưa ăn gì) để chữa bệnh khó tiêu đồng thời giảm đau nhức cơ bắp. 24. Giảm đau bụng kinh bằng cách dùng một vài nhánh tỏi rán qua bơ, để nguội thêm một ít đường rồi nuốt. Chỉ sau khoảng 15 phút bạn sẽ thấy đỡ ngay.1 like
-
Lão ăn mày ta luận thử xem đúng ko nhỉ? - Tên này hôm khóc chắc hạn rơi vào cung Thìn đây! Cung này có thân mệnh đóng ở đây cung đó là thiên la, lại có thiên khốc nên vừa khóc vừa la trời. Đà la nữa thì nhắm mắt mà khóc . Vũ khúc là trời mưa chăng ( Ồ lão ăn mày luận kiểu này chắc đúng 100%) Vừa khóc lại vừa hu...hu.. ( thiên hư đó ) dần dần thành hừ hừ . Mệnh cung lại cả Hỏa cả Linh nên nhỏ chắc đã phải rời đi nơi khác mà sống rồi ( Hỏa minh linh ám ...) Sát phá lang cách thiên về võ nghiệp nên hắn đứng giữa trời mưa bên bờ biển luyện công thì cũng là chuyện bình thường thôi bé à. Chuyện hắn luyện công phu như thế chắc cũng không nhiều. Theo Lão lần sau hắn có luyện thì bảo hắn luyện vừa thôi kẻo tẩu hỏa nhập ma1 like
-
Quán vắng!
Trần Phương liked a post in a topic by Thiên Sứ
Đại sứ Mỹ: 'Biển Đông là mối quan tâm lớn' "Mỹ có lợi ích quốc gia đối với hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như về an ninh hàng hải và tự do đi lại. Chúng tôi quan ngại về đe dọa vũ lực và Mỹ ủng hộ tiến trình ngoại giao giữa các nước có quan hệ trực tiếp", tân đại sứ Mỹ David Shear nêu quan điểm. Dưới đây là nội dung cuộc trả lời phỏng vấn trực tuyến với độc giả VnExpress chiều 14/9 của tân đại sứ Mỹ tại Việt Nam David B Shear. Tổng biên tập VnExpress Thang Đức Thắng chào đón Đại sứ Mỹ David Shear tại tòa soạn. Ảnh: Hoàng Hà. - Xin chào mừng ngài đến Việt Nam, xin hỏi ấn tượng mạnh mẽ nhất của ngài khi đến công tác tại đất nước chúng tôi? (Thu Mai, 24 tuổi, Hà Nội) - Tôi muốn quay trở lại năm 2007 khi tôi cùng vợ con tới Việt Nam với tư cách là khách du lịch. Khi đó, chúng tôi đã ở khu phố cổ Hà Nội, đi Hạ Long - Hải Phòng, Đà Nẵng - Hội An. Chúng tôi rất ấn tượng về sự nhiệt tình, hiếu khách của người Việt Nam, về sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Lúc đầu, chúng tôi hơi sợ về giao thông nhưng sau đó đã quen. Gia đình chúng tôi cũng rất thích ẩm thực, đặc biệt là đồ ăn Việt Nam. Do đó, chúng tôi quyết định sẽ trở lại Việt Nam một ngày gần nhất. Tôi rất vui khi trở thành đại sứ ở Việt Nam. Đây là thời kỳ rất thú vị của Việt Nam. Nếu các bạn đã xem video chào mừng tôi đến Việt Nam, chắc các bạn cũng biết sự phấn khởi của tôi khi tới nước các bạn. Cách đây ít hôm, tôi có đi máy bay tới Đà Nẵng. Có người ngồi cạnh tôi và hỏi: "Ông là đại sứ Mỹ mới tại Việt Nam. Tôi đã xem video của ông". Tôi rất vui vì điều đó. - Chào mừng ngài tới Việt Nam. Gia đình ngài phản ứng như thế nào khi biết ngài sẽ tới Việt Nam công tác? (Hoàng Anh, 27 tuổi, Hà Nội) - Gia đình tôi rất phấn khởi. Bản thân tôi thấy mình có vinh dự đặc biệt khi được chọn làm đại sứ và cá nhân tôi cũng cảm thấy rất vui khi làm việc tại đây. Có lẽ tôi chưa nói điều này trước công chúng bao giờ. Trong gia đình tôi có một người họ hàng gốc Việt. Họ rất vui khi biết tôi tới Việt Nam. - Những thách thức cũ và mới mà ông sẽ gặp phải khi nhậm chức tại Việt Nam? (Tran Quoc Tuan, 25 tuổi, Q Phú Nhuận) - Một trong những thách thức còn tồn tại là các di sản của chiến tranh. Chúng ta đều đã rút ra được rất nhiều kinh nghiệm khi cùng xử lý những vấn đề đó. Còn những thách thức mới đây là duy trì đà của quan hệ kinh tế trong bối cảnh có những bất ổn trên toàn cầu. Chúng tôi cần phải làm việc chặt chẽ với các đối tác của Việt Nam để đảm bảo rằng quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn vững mạnh và tự do. Tôi cam kết xây dựng quan hệ vững mạnh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi cũng tin rằng các đối tác của tôi cũng như vậy. Xin hỏi Bộ trưởng nào ở Việt Nam mà ông sẽ gặp đầu tiên trên cương vị đại sứ không kể Bộ trưởng Ngoại giao? Ông có ấn tượng gì về người đầu tiên ông gặp? (Thanh Lâm, 31 tuổi, Đà Nẵng) - Người đầu tiên tôi gặp gỡ ở phía Việt Nam là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ngày 29/8 khi tôi trình quốc thư. Tôi đã gặp thủ tướng và tổng bí thư vào buổi tiệc nhân ngày quốc khánh mùng 2/9. Tôi cũng sẽ có cuộc gặp xã giao với quan chức ở Hà Nội vào thời điểm thuận lợi với họ. Tôi đã gặp ông Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, khi đó ông là Thứ trưởng khi ông đi thăm Mỹ vào mùa xuân năm nay. Tôi cũng mong gặp lại ông ấy trên tư cách là đại sứ Hoa Kỳ. Tôi rất ấn tượng với các quan chức Việt Nam về năng lực và nhiệt huyết của họ trong việc thúc đẩy quan hệ hai nước. Thường họ nói tiếng Anh tốt hơn là tôi nói tiếng Việt nên tôi còn phải học hỏi nhiều. Đại sứ Mỹ David B. Shear (giữa) trong buổi phỏng vấn trực tuyến với độc giả VnExpress. Ảnh: Hoàng Hà. Quan hệ đối tác chiến lược - Theo như ngài nói, điều quan trọng nhất là phải xây dựng lòng tin giữa Mỹ và Việt Nam. Vậy hiện nay, lòng tin đã có hay chưa và nếu có thì ngài đánh giá khoảng bao nhiêu %? (Hoàng Chí Thành, 33 tuổi, Đồng Nai) - Tôi không biết bao nhiêu %. Tuy nhiên, tôi có thể nói quan hệ giữa hai nước đã có bước phát triển lớn. Lòng tin đó đang được xây dựng trên những mối quan tâm, lợi ích chung. Khi chúng ta có những mối quan tâm chung mạnh mẽ thì lòng tin cũng bắt đầu được xây dựng. Nền tảng tốt nhất là trên cơ sở những mối quan tâm, lợi ích chung. Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ tăng cường lòng tin và việc tìm hiểu những mối quan tâm chung, từ đó tôi hy vọng chúng ta có thể xây dựng lòng tin và cùng theo đuổi những lợi ích chung. - Quan hệ Việt - Mỹ đang tiến triển khá tốt đẹp, xin ngài cho biết cản trở lớn nhất cho việc hai bên trở thành đối tác chiến lược của nhau hiện nay là gì, liệu có phải là quá khứ hay khác biệt chính trị không? (Lương Hùng, 24 tuổi, TP HCM) - Tôi nghĩ những thách thức và cản trở với quan hệ hai nước ít liên quan tới quá khứ hay chính trị, mà đó là vấn đề chúng ta giải quyết hằng ngày như tăng xuất khẩu của Mỹ vào Việt Nam. Nó ít mang tính khái niệm và mang tính thực tiễn nhiều hơn. Đây là lúc các nhà ngoại giao thể hiện vai trò của mình. Các bạn có một đại sứ quán tốt ở Hoa Kỳ. Chúng tôi và đội ngũ nhân viên ngoại giao của chúng tôi ở Việt Nam rất nhiệt tình. Một phần trong nhiệm vụ của chúng tôi là khắc phục khó khăn đó để cải thiện quan hệ hai nước. - Người Việt Nam chơi với bạn bè bao giờ cũng tin tưởng tuyệt đối và chân thành hết mức, coi nhau như anh em. Ông có nghĩ quan hệ Việt - Mỹ sẽ đạt được tầm vóc ấy không? (Nguyễn Thế Hùng, 56 tuổi, Số 10, Đào Tấn, Hà nội) - Nếu như đối tác Việt Nam nghĩ về đất nước tôi và tôi với mức độ tin cậy như vậy thì chúng ta sẽ có khởi đầu rất tốt. Ngoại giao tốt là dựa trên lòng tin. Sự hợp tác trong ngoại giao dựa trên cơ sở trao đổi thông tin một cách chân thành. Tôi mong là sẽ làm việc với đối tác Việt Nam trên cơ sở như vậy. - Xin chào đại sứ. Việt Nam thực sự muốn là bạn của Mỹ, người Việt không còn cố chấp khi nghĩ lại đau thương trong chiến tranh. Xin hỏi ngài vấn đề mà Mỹ có vướng mắc trong vấn đề nhân quyền chiếm bao nhiêu phần trăm trong quan hệ với Việt Nam (Vũ Hải, 40 tuổi, 351 Lê Thánh Tông, TP Thanh Hóa) - Nhân quyền là vấn đề cơ bản trong cách người Mỹ nghĩ về thế giới. Vì vậy không có đại sứ Mỹ nào ở bất cứ nơi nào trên thế giới bỏ qua vấn đề nhân quyền. Đôi khi chúng tôi có bất đồng với đối tác của chúng tôi về vấn đề nhân quyền, song chúng tôi hy vọng sẽ củng cố đối thoại về vấn đề này. Cùng với việc quan hệ kinh tế và đối tác của chúng ta phát triển, chúng ta sẽ có khả năng nói một cách thoải mái hơn về vấn đề này song song với sự phát triển trong các lĩnh vực khác. - Trong thời gian gần đây, quan hệ thương mại giữa hai nước liên tục phát triển. Xin hỏi trong thời gian tới những mặt hàng nào Hoa Kỳ có nhu cầu cao mà Việt Nam có thể cung cấp? Hoa Kỳ có dành ưu đãi gì cho Việt Nam trong thời gian tới không? Xin cảm ơn. (Nguyễn Phương Trang, 39 tuổi, Hà Nội) - Quan hệ kinh tế giữa hai nước chúng ta dựa trên cơ sở hiệp định thương mại song phương được ký năm 2001. Khi chúng ta đạt thỏa thuận về hiệp định đó, con số kim ngạch thương mại hai chiều chỉ là 1,5 tỷ USD. Chỉ trong vòng 10 năm kể từ khi ký hiệp định, kim ngạch đã tăng lên 18,6 tỷ USD. Có sự mất cân đối trong cán cân thương mại có lợi cho Việt Nam. Cả hai bên đều hưởng lợi từ quan hệ thương mại này. Tôi hy vọng chúng ta có thể mở rộng hơn nữa mối quan hệ này trong thời gian tôi làm đại sứ. Tôi tin rằng có nhiều hàng hóa của Việt Nam có tính cạnh tranh cao và có thể xuất khẩu. Tôi thấy một điều thú vị là trị giá hàng nông sản mà hai bên xuất sang nhau đều đạt hàng tỷ USD. Mối quan hệ này sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho cả người Việt và người Mỹ. Chúng ta đang đàm phán hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương. Chúng tôi rất vui vì Việt Nam tham gia vào cuộc đàm phán này. Cũng như mọi cuộc đàm phán thương mại, đây là cuộc đàm phán khó khăn. Nhưng nếu chúng ta thành công, lợi ích sẽ rất to lớn, giống như tự do hóa thương mại hai chiều, tự do hóa đầu tư. Khi tôi làm đại sứ ở đây, tôi sẽ làm việc tích cực cho hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương. - Thưa ngài đại sứ, liệu Tổng thống Mỹ Barack Obama có thể thực hiện chuyến thăm đến Việt Nam trong nhiệm kỳ của ngài hay không? (Chau Van Mot, 27 tuổi, Ha Noi) - Tôi rất vui nếu Tổng thống Barack Obama có thể thăm Việt Nam. Một cuộc trao đổi cấp cao như vậy sẽ rất hữu ích. Tôi cũng hy vọng một chuyến thăm tương tự như vậy của Việt Nam tới Mỹ. Hợp tác quân sự và vấn đề Biển Đông - Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đã phát triển tốt đẹp trong 16 năm qua. Vậy ngài Đại sứ có cho rằng hai nước sẽ có kế hoạch tập trận chung như Mỹ đã làm với nhiều nước châu Á? (Lynnfield, 31 tuổi, California) - Khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates sang thăm Việt Nam vào cuối năm ngoái, ông có thoả thuận với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam rằng hai bên sẽ làm việc với nhau trong một số lĩnh vực quốc phòng. Quân đội hai nước đã đồng ý sẽ làm việc chặt chẽ hơn với nhau về lĩnh vực cứu trợ thiên tai và nhân đạo, cứu nạn và giữ gìn an ninh hàng hải. Chúng ta cũng đã có những cuộc thăm viếng của các tàu hải quân rất thành công gần đây. Chúng ta cũng có những cuộc thăm viếng giữa các quan chức quốc phòng rất tốt đẹp. Chúng ta sẽ sử dụng những nền tảng tốt như vậy để củng cố quan hệ quốc phòng. Sau đó, chúng ta sẽ đánh giá những bước đi tiếp theo. - Không ai muốn chiến tranh xảy ra, nhưng trong bối cảnh Biển Đông diễn biến căng thẳng, theo ông Mỹ sẽ phản ứng thế nào nếu xung đột xảy ra? (Thành Quang, 32 tuổi, Hà Nội) - Tôi nghĩ rằng khả năng xảy ra xung đột trực tiếp mang tính giả định rất nhiều. Không bên nào đưa ra những tuyên bố chủ quyền muốn có xung đột. Trung Quốc, Việt Nam và Mỹ đều không mong muốn chiến tranh. Mỹ ủng hộ ngoại giao hợp tác qua đó các bên có thể giải quyết được vấn đề. Chúng tôi rất quan ngại về những lời đe dọa sử dụng vũ lực. Chúng tôi theo dõi tình hình một cách chặt chẽ và mong muốn những vấn đề này được giải quyết trong phạm vi vấn đề ngoại giao. Chúng tôi sẽ làm việc trong các diễn đàn như ASEAN để những vấn đề này được giải quyết một cách hòa bình, hợp tác. - Theo ông, khả năng vấn đề Biển Đông được đưa ra bàn tại Hội nghị thượng đỉnh Đông Á mà Mỹ lần đầu tham gia vào tháng 11 này như thế nào? (Huỳnh Văn Phước, 48 tuổi, Đồng Nai) - Chúng tôi luôn mong có những cơ hội để thảo luận những vấn đề quan trọng như Biển Đông tại những diễn đàn quốc tế. Vấn đề Biển Đông sẽ được bàn thảo cụ thể như thế nào trong khuôn khổ Thượng đỉnh Đông Á là vấn đề mà các nhà ngoại giao chúng tôi sẽ thảo luận từ nay cho đến tháng 11. Tôi không thể nói vấn đề này được bàn thế nào trong Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, nhưng tôi có thể nói đây là vấn đề quan trọng đối với chúng tôi. Đây là mối quan tâm lớn của chúng tôi trong hội nghị thượng đỉnh Đông Á. -- Cảm nhận về quan chức Việt Nam, ngài vừa nói: "Thường họ nói tiếng Anh tốt hơn là tôi nói tiếng Việt... ", ngài thật hài hước và vui tính. Xin hỏi, ngài nghĩ thế nào về những phát ngôn và hành động của Trung Quốc xung quanh những va chạm với Việt Nam trong vấn đề Biển Đông thời gian gần đây. (Trần Văn Quang, 29 tuổi, Da Nang) - Như tôi đã nói ở trước, chúng tôi theo dõi với mối quan ngại về đe dọa vũ lực. Chúng tôi ủng hộ tiến trình ngoại giao có tính hợp tác giữa các nước có quan hệ trực tiếp. Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia lớn đối với hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông cũng như về an ninh hàng hải và tự do đi lại. Chúng tôi cũng ủng hộ nỗ lực các bên có chủ quyền để đạt được bản quy tắc ứng xử trên Biển Đông. - Theo tôi hiện châu Á chưa có một nước nào đủ khả năng dẫn dắt toàn khu vực về liên kết kinh tế, xã hội, vậy theo ông Mỹ sẽ giữ vai trò thế nào về lĩnh vực này ở khu vực châu Á? (Nguyễn Thanh, 43 tuổi, Hải Phòng) - Hoa Kỳ muốn có hòa bình, ổn định trong khu vực để tất cả các nước Đông Nam Á có sự thịnh vượng, hòa bình với mức độ linh hoạt tối đa. Chúng tôi thấy các điều kiện hiện nay trong khu vực mang lại cơ hội kinh tế rất lớn, cơ hội hội nhập hơn nữa, đặc biệt trong khu vực ASEAN. Chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ tiến trình đó và chúng tôi có lợi ích kinh tế, an ninh trong khu vực và chúng tôi muốn duy trì lợi ích, ảnh hưởng của chúng tôi trong khu vực. Tôi cho rằng Hoa Kỳ đóng góp rất lớn về kinh tế, chính trị, quân sự ở khu vực Đông Á và điều này đóng góp cho sự thịnh vượng ở khu vực. Chúng tôi mong muốn điều này sẽ tiếp tục. Hợp tác giáo dục, du lịch - Chúng tôi cảm thấy bất tiện khi mỗi năm lại phải gia hạn visa của mình khi học tại Mỹ. Xin hỏi tại sao các sinh viên Việt Nam học tại Mỹ chỉ được visa F1 có thời hạn một năm, trong khi sinh viên các nước khác lại được visa F1 có giá trị 5 năm? Ngài có giải pháp gì cho vấn đề này không? (Nguyen Duy, 27 tuổi, Hà Nội) - Chúng tôi cũng muốn gia hạn thời hạn visa F1 nhưng cách mà chúng tôi quyết định thời hạn visa được dựa trên cơ sở có qua có lại. Chúng tôi đã đề xuất với phía Việt Nam về việc cả hai nước cùng kéo dài thời hạn visa cho sinh viên trên cơ sở có qua có lại. Chúng tôi cho rằng nới rộng thời hạn visa cho sinh viên sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho việc đi lại của họ. Chúng tôi tôi đang thảo luận về vấn đề này. Thỏa thuận phải đạt được trên cơ sở có qua có lại. - Hi Mr. David Shear, Firstly, I would like to thank you for spending your precious time to answer our questions. Secondly, my question is: I know that the US is now facing with some certain difficulties. So will these adversely impact on your committed effort in providing educational assistance for Vietnamese students? (Nguyễn Thái Thanh, 28 tuổi, 12 Nguyen Thi Dinh, Trung Hoa, Cau Giay) (Thưa ngài, tôi xin cảm ơn ngài đã dành thời gian quý báu để trả lời câu hỏi của chúng tôi. Tôi được biết nước Mỹ hiện nay cũng có các khó khăn. Liệu những điều này có ảnh hưởng đến cam kết trợ giúp giáo dục cho sinh viên Việt Nam hay không?) - Về tình hình hiện nay của nước Mỹ thì nước Mỹ có nền kinh tế và xã hội kiên cường. Chúng tôi đã từng trải qua những khó khăn và sau đó đều phục hồi được. Chúng tôi rất nồng nhiệt chào đón các sinh viên Việt Nam theo học ở Mỹ. Chúng tôi cho rằng sự hiện diện của sinh viên Việt Nam ở Mỹ làm tăng cường mối quan hệ giữa hai nước chúng ta. Chúng tôi cho rằng có rất nhiều cơ hội lớn cho sinh viên Việt Nam tìm học bổng và các hỗ trợ khác khi theo học ở Mỹ. Các bạn có thể bắt đầu tìm kiếm các cơ hội đó bằng việc tới thăm trung tâm Hoa Kỳ và Trung tâm tư vấn giáo dục Hoa Kỳ (Education USA) của chúng tôi tại Đại sứ quán Mỹ. Chúng tôi có rất nhiều thông tin về đại học cao đẳng và học bổng ở đây. Chúng tôi hoan nghênh và chào đón bất cứ ai có tiềm năng đi thăm Mỹ. Chúng tôi cũng có hai trang web rất tốt của Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Mỹ tại TP HCM. Hai trang web đó có nhiều thông tin rất bổ ích. - Tôi đang thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về ADN, với chuyên đề xác nhận danh tính cho các liệt sỹ trong chiến tranh. Tôi rất muốn được tiếp cận với kỹ thuật này của khoa học Mỹ. Ông có thể giúp tôi điều kiện để thực hiện ý định này không?(Vũ Anh Tuấn, 33 tuổi, Hà Nội) - Giữa hai nước có sự hợp tác tích cực để tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến tranh và trên cơ sở hợp tác này chúng ta xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp như hiện nay. Đó là lý do tôi thăm Đà Nẵng, dự một lễ trao trả hài cốt của quân nhân Mỹ mất tích, tới một điểm khắc phục hậu quả chất da cam ở Đà Nẵng, thăm một bệnh viện chỉnh hình và phục hồi chức năng ở Đà Nẵng. Chúng tôi cũng giúp đỡ Việt Nam tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến tranh. Vào vào tháng 11/2010, chúng tôi đạt thỏa thuận với Việt Nam về việc cung cấp một triệu USD và kỹ thuật để trợ giúp Việt Nam tìm kiếm người mất tích. Vì vậy chúng tôi hoan nghênh mối quan tâm của anh trong lĩnh vực này. Chúng tôi hy vọng sự hợp tác trong tương lai và cám ơn sự quan tâm của bạn. - Tôi muốn hỏi sắp tới ông sẽ có chính sách nào dành cho người Việt Nam có nhu cầu du lịch Mỹ hay không? Hiện tại tôi vừa mới bị từ chối cấp thị thực vào Mỹ với mục đích tham quan du lịch. Tôi có việc làm và thu nhập ổn định, đã tốt nghiệp đi làm 4 năm Nhưng dường như chưa đủ, ngài có thể cho tôi một lời khuyên hay không? (Dang Khoa, 37 tuổi, Hà Nội) - Chúng tôi muốn có càng nhiều người Việt sang Mỹ du lịch, với tư cách doanh nhân, du học càng tốt. Lãnh sự của chúng tôi tại Hà Nội và TP HCM cũng làm việc tích cực để trả lời băn khoăn về visa. Nếu bạn bị từ chối một lần không có nghĩa bạn không bao giờ được vào nước Mỹ nữa. Nếu bạn có thể chứng minh củng cố cho trường hợp của mình thì tôi hoan nghênh bạn nộp đơn lần nữa. Cuộc sống cá nhân của Đại sứ - Tôi được biết là ngài có thể nói được nhiều ngoại ngữ khó như tiếng Trung, tiếng Nhật và giờ lại có ý định học thêm tiếng Việt. Vậy ngài có thể chia sẻ kinh nghiệm học ngoại ngữ được không, xin cảm ơn ngài! (Nguyễn Thị Liên, 33 tuổi, Hà Nội) - Điều tôi yêu thích nhất là học ngôn ngữ của những dân tộc khác và ngồi xuống cùng những người dân của những nước khác để lắng nghe những gì họ suy nghĩ và về quan hệ với nước Mỹ và đó cũng là nguyên nhân khiến tôi trở thành một nhà ngoại giao. Vì vậy tôi cũng mong sẽ ngồi cùng các đồng nghiệp Việt Nam để lắng nghe họ và giúp quan hệ Mỹ - Việt Nam mạnh mẽ hơn. Và để mà học giỏi tiếng Việt còn là quãng đường dài với tôi. Như tôi có nói thì ngài Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã thách thức tôi phải họp được với ông ấy bằng tiếng Việt khi tôi kết thúc nhiệm kỳ. Đó là một bài tập về nhà rất khó nhưng tôi chấp nhận lời thách thức đó. - Tôi được biết ông có tập môn kiếm đạo của Nhật Bản, vậy xin hỏi vì sao ông lại tập võ và ông có vệ sĩ riêng không? (Hoàng Nam, 36 tuổi, Berlin, Đức) - Tôi không có vệ sĩ. Tôi tập kiếm đạo 3 năm và tập 5 buổi sáng mỗi tuần cùng vợ trước khi tôi đi làm. Nếu có ai đó có thể là vệ sĩ thì đó là vợ của tôi. - Xin hỏi ông một câu hỏi riêng tư là hết giờ làm việc ông thường làm gì? (Lê Phan, 33 tuổi, TP HCM) - Do mới đến nhiệm sở nên tôi rất bận. Tôi thường phải làm việc từ sáng tới đêm khuya, lắng nghe nhân viên để tìm hiểu tình hình. Vì vậy tôi thường về nhà rất muộn và lên giường ngủ. Nhưng tôi luôn luôn cảm thấy hài lòng về những việc tôi làm. Và tôi cũng mong sẽ còn có cơ hội tiếp tục trao đổi ý kiến với các bạn Việt Nam thông qua cách thức này hoặc những cách khác. Đó cũng là điều khiến cho công việc của một nhà ngoại giao trở nên vui vẻ, thú vị và xứng đáng. Xin cảm ơn các bạn. VnExpress ======================== Nếu được hỏi thì tôi sẽ hỏi thế này:* Thí dụ có những chiếc tàu buôn của Hoa Kỳ chở hàng đi qua Hoàng Sa và Trường Sa thì Hoa Kỳ sẽ thông báo với Việt Nam hay Trung Quốc? ** Ngài có tìm hiểu về lịch sử dân tộc Việt không? Theo ngài Việt sử gần 5000 năm văn hiến hay chỉ khoảng 2700 năm tính đến ngày nay? Câu hỏi ** có lẽ thừa. Vì có thể ngài Đại sứ sẽ trả lời là: Hiện có nhiều ý kiến khác nhau về cội nguồn Việt sử. Tôi không phải nhà chuyên môn. Trong trường hợp này câu hỏi tiếp theo sẽ là: Truyền thống văn hóa sử Việt coi Việt sử gần 5000 năm văn hiến. Một số nhà nghiên cứu nhân danh khoa học đã phủ nhận những giá trị truyền thống này (Trong đó có cả nhà sử học Hoa Kỳ Taylo). Vậy theo ngài - khi những ý kiến chuyên môn chưa nhất trí, ngài có ý kiến gì về truyền thống văn hóa sử Việt với quan niệm Việt sử gần 5000 năm văn hiến?1 like -
Đâu có đâu! Tại xem lướt qua thấy vậy. Xem kỹ cũng hổng bít gì lun. Híc! Tuyetminhnguyen xem cho cô này đi.1 like
-
Luyện phương pháp luận quẻ LVDT
Guest liked a post in a topic by Hạt gạo làng
chính vì: Nhớ thương vương vấn vẫn còn Nên chờ nên đợi nước quay về nguồn Với quẻ này thì mội thời gian sau dài sẽ bất ngờ gặp lại, vạn sự, cũng còn tùy vào duyên nữa Thân mến1 like -
Quán vắng!
thanhdc liked a post in a topic by Thiên Sứ
Cà phê Buôn Ma Thuột bị cty TQ lấy mất thương hiệu BEE.net.vn 14/09/2011 15:22:44 Mới đây, một công ty luật quốc tế có chi nhánh tại Việt Nam đã phát hiện ra một doanh nghiệp Trung Quốc đã đăng ký sử dụng thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột trên lãnh thổ Trung Quốc. Buôn Ma Thuột được xem là “thủ phủ” của cà phê Việt Nam với sản lượng chiếm gần 1 nửa tổng sản lượng cà phê của cả nước. Năm 2005, cà phê Buôn Ma Thuột đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng chỉ dẫn địa lý và đây được xem là tài sản quốc gia. Các doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn này phải đáp ứng những quy định nghiêm ngặt. Tuy nhiên mới đây, một công ty luật quốc tế có chi nhánh tại Việt Nam đã phát hiện ra một doanh nghiệp Trung Quốc đã đăng ký sử dụng thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột trên lãnh thổ Trung Quốc. Điều này đồng nghĩa với việc cà phê Buôn Ma Thuột của Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với kiện cáo nếu có mặt tại thị trường này. Logo nhãn hiệu cà phê Buôn Ma Thuột bị đăng kí bảo hộ độc quyền tại Trung Quốc. Ảnh: CAND Online Điều đáng nói là, Trung Quốc nằm trong top 10 thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam. Và vụ việc có khả năng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu DN Trung Quốc này lợi dụng quyền sở hữu của mình để đăng ký sở hữu nhãn hiệu cà phê Buôn Ma Thuột trên toàn thế giới. Nhãn hiệu "Cà phê Buôn Ma Thuột" được công ty TNHH cà phê Quảng Châu - Buôn Ma Thuột, có trụ sở tại Trung Quốc đăng ký sở hữu tại nước này vào ngày 14/11/2010. Còn nhãn hiệu "Buôn Ma Thuột cà phê 1896", cũng bị doanh nghiệp này đăng ký vào ngày 14/6/2011. Cả 2 nhãn hiệu này đều được Trung Quốc bảo hộ trong thời hạn 10 năm. Nghĩa là, trong 10 năm tới, các DN cà phê mang chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột của Việt Nam có thể sẽ bị ngăn chặn nếu xuất khẩu vào Trung Quốc. Mất thương hiệu đồng nghĩa với việc mất thị trường. Luật sư Lê Quang Vinh, GĐ Bộ phận sở hữu trí tuệ Công ty Luật Bross & Partners nhận định: “Điều gì sẽ xảy ra nếu như chúng ta không xuất được hàng? Điều gì sẽ xảy ra nếu thương hiệu của chúng ta trong bao nhiêu năm, chỉ dẫn địa lý chúng ta phát triển như thế, gắn với hàng hóa như thế, mà chúng ta lại bị kiện ở nước ngoài? Chúng ta lại bị vướng vào những câu chuyện pháp lý của chính mình. Đấy là một điều phi lý. Nhưng, nghe thì phi lý, nhưng về câu chuyện pháp lý thì chúng ta phải chấp nhận vì rõ ràng họ đã đăng ký và theo Luật của họ thì họ có thể hưởng quyền độc quyền kể từ thời điểm đăng ký”. Cũng theo Luật sư Lê Quang Vinh, vào năm 1997, nhãn hiệu cà phê Đắk Lắk đã bị một doanh nghiệp tại Pháp đăng ký sở hữu toàn cầu và đã có 24 quốc gia công nhận cà phê Đắk Lắk là của Pháp chứ không phải của Việt Nam. Nếu chúng ta không hành động kịp thời, thì nguy cơ mất thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột rất dễ xảy ra. Còn theo Cục Sở hữu trí tuệ, đây là lần đầu tiên một chỉ dẫn địa lý - một tài sản quốc gia bị mất. Việt Nam có đủ cơ sở pháp lý để đòi lại nhãn hiệu từ doanh nghiệp Trung Quốc nếu cơ quan chức năng nhanh chóng vào cuộc. Ông Trần Việt Hùng, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KHCN): “UBND tỉnh với tư cách là cơ quan quản lý cao nhất của chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột, chắc chắn là phải tiến hành khiếu kiện đối với công ty đăng ký nhãn hiệu đó tại Trung Quốc. Cái khiếu kiện đó phải thông qua một đơn yêu cầu hủy bỏ nhãn hiệu của Trung Quốc để mình đòi lại nhãn hiệu. Và vụ khiếu kiện này sẽ phải tuân theo luật pháp của Trung Quốc”. Cà phê Buôn Ma Thuột hiện chiếm khoảng 50% sản lượng cà phê cả nước và được xuất khẩu ra 56 quốc gia, vùng lãnh thổ. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có một doanh nghiệp nào đăng ký sở hữu thương hiệu này ở nước ngoài. Ông Đoàn Triệu Nhạn, Hiệp hội Cà phê-Ca cao Việt Nam cho rằng: “Một mặt chúng ta phải nói lên cho quốc tế biết là chúng ta bị mất (cái đó là cần thiết). Phải nói cho thế giới biết là chúng ta bị mất cắp. Còn việc đăng ký thì rất tốn kém, nên chúng ta phải tính toán. Theo tôi, chúng ta phải đăng ký ở một số địa bàn, một số thị trường mà chúng ta xuất khẩu chủ yếu vào đó như Mỹ, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ…” Việt Nam là nước xuất khẩu nông sản với nhiều mặt hàng đứng số 1, số 2 trên thế giới, nhưng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ mới có khoảng 20% các sản phẩm này được đăng ký bảo hộ thương hiệu tại Việt Nam. (Theo VTV) ================================= Nếu luật Trung Quốc coi hành vi của Cty này là hợp pháp thì có mấy vấn đề cần xem xét: a/ Buôn ma Thuột là một địa danh của Việt Nam việc lấy địa danh của Việt Nam làm thương hiệu mà không được chính phủ Việt Nam đồng ý là một việc xâm phạm bản quyền quốc gia. Tương tự như xâm phạm bản quyền tác giả. Có điều là bản quyền tác giả thì là cả một cuốn sách, hoặc công trình nghiên cứu...vv.....Còn đây là một địa. danh. Nếu như thế giới này coi địa danh của một quốc gia bị lấy làm thương hiệu như là chuyện nhỏ và đúng luật - vì quốc gia đó không đăng ký địa danh như bản quyền quốc tế - thì điều này đồng nghĩa với việc thừa nhận sự ăn cắp bản quyền là hợp pháp. Thí dụ: Tôi dịch một cuốn sách của người Pháp ra tiếng Việt sẽ được coi là không ăn cắp bản quyền vì lý do tác giả không đăng ký bản quyền tiếng Việt tại Việt Nam. b/ Đất nước Trung Quốc khoe là giàu có, đến Mỹ còn phải nợ thì đây là hành vi "ăn cướp cơm chim" của doanh nghiệp Trung Quốc và doanh nghiệp Pháp (Với thường hiệu Daklak). c/ Nếu nước Pháp và Trung Quốc cho rằng: Thương hiệu Buôn Ma Thuột và Đak Lak chưa đăng ký bản quyền ở hai đất nước này, nên họ có quyền đăng ký ở đất nước họ thì: Tất cả các thương hiệu nổi tiếng thế giới đều có thể bị sử dụng ở những nước chưa đăng ký. Đề nghị chính phủ Trung Quốc tước giấy phép của doanh nghiệp Trung Quốc mạo danh này! Nước Pháp cũng vậy với doanh nghiệp của họ. Trước đây, ở Bến Tre có doanh nghiệp kẹo dừa Ngọc Mai đã sang tận Trung Quốc kiện một doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất kẹo dừa với nhãn hiệu Ngọc Mai. Tòa Trung Quốc xử doanh nghiệp Việt Nam thắng và bồi thường bằng cách đồng ý cho doanh nghiệp Ngọc Mai độc quyền bán kẹo dừa trên toàn cõi Trung Quốc trong vòng 10 năm. Các ngài nên lặp lại việc này với nhãn hiệu Buôn Ma Thuột của Việt Nam. Tôi nghĩ chính phủ Pháp và Trung Quốc cần chính danh với vị thế cường quốc của các ngài. Thưa các ngài! Đây là giai đoạn của sự hội nhập văn minh toàn cầu, chứ không phải thời kỳ "liên minh bộ lạc".1 like -
Tuổi đời cháu còn hơi ít ,nên tìm hiểu vấn đề chồng con sớm sẽ bị shock ,khi biết ra rằng không đúng với sự mơ ước của mình ; chỉ nói về công danh tài lộc ,nên đi về y-dược hay sư phạm mới đúng nghề sau nầy sẽ giàu nhờ chuyễn sang kinh doanh ,công danh chỉ bình thường ,muốn giàu thì phải đổi nghiệp hay làm thêm nghề khác , nhà cửa đất đai cũngkhá về dần sau thì tiêu hao bớt đi ,nhà cửa không đẹp ,củ lại mối mọt hư hao ,trong người có bệnh về lệch lạc tử cung mà khó đậu thai ,nếu sanh sớm con đầu lòng khó nuôi hay phải bỏ, con sinh nhiều nhưng dưỡng ít ,sau chỉ còn lại 2-3 , có đứa nên người có đứa ăn chơi , không gần cha mẹ .1 like
-
@ Co nguyet dong cung Trong cuộc đời có nhiều chuyện là duyên số Cũng nhiều chuyện do chính mình tạo nên ( hai câu trong một bài thơ mình làm) Chắc bạn cũng là một người giỏi thơ văn, thậm chí cũng từng làm thơ viết truyện Tại tính bạn có phần nhút nhát, lại ko thích tụ tập đông người, thích sống cô độc nên ảnh hưởng nhiều tới chuyện tình duyên. Mặc dù xung quanh bạn cũng có rất nhiều vệ tinh, nhiều người mê mệt đó. Mình nhiều khi cũng nên giao lưu gặp gỡ thêm mọi người âu cũng là một phần của cuộc sống Về số đào hoa của bạn: Đào Hồng thì tôi không sợ, Đào mà gặp Không thì cũng chỉ rộng lượng, thương người mà thôi, Đào gặp triệt thì tưởng có tiếng lại chả có miếng. Lại có Nhật sáng chói, hội đủ tứ đức thì không thể có ý làm bậy được. Tôi tin là trong tiềm thức của bạn cũng đã định hình được rồi nên ko cần lo nữa Cung Phúc đức của bạn rất sâu dày, làm việc hay được phần linh trợ giúp, nên hay gặp dữ hóa lành, chuyện to hóa chuyện nhỏ, chuyện nhỏ coi không có gì Ưu điểm lớn của bạn là: Rộng lượng, bác ái, nhân từ vị tha, thông minh tài trí. Nên phát huy, bạn thích thứ gì thì làm luôn đi, không đại thành thì cũng tiểu thành Nhược điểm lớn của bạn là: Tự cao tự đại (vì cũng có khả năng thật) có lúc kiêu ngạo, cứng đầu nóng tính, bất cần, thậm chí là bất mãn, khi chê bai thì rất cay độc, thâm thúy( híc)...Nhưng đó cũng chỉ là ý nghĩ nhất thời thôi phải không bạn? Tôi nghĩ là vậy. Về đường tình duyên: Cô Tuyết Minh ơi, Cung phu có: Nguyệt Đồng Cơ Lương đẹp vậy mà, cát tinh lại nhiều vô số kể. Cộng thêm những cái ko hay của mệnh cũng được hóa giải, Cháu nghĩ mặc dù Nhật Nguyệt cách cung đó nhưng cũng không đến nỗi phải đứt gánh giữa đường chứ??? Về chồng tương lai của bạn. Tính theo truyền tinh là người mệnh có Nguyệt Đồng Cơ Lương: thì người vừa tầm, không cao không thấp, da có thể trắng, mặt tròn, phần má phệ xuống như có mỡ thừa, đương nhiên là đẹp zai rồi, lại có trình độ học vấn nữa. Nói chung là tốt mà tôi nghĩ vậy. Mong rằng bạn sớm tìm được phu quân của mình. À mà sau này có ý đi tu thì liên hệ lại Tâm Giao nhé. Hai đứa cùng nhau tu luyên, nhất định không hổ thẹn với mình mà có thể ra tay giúp người, giúp đời.. He he1 like
-
Cháu chào các cô các bác các chúcác anh chị em Chào bạn Cơ nguyệt đồng cùng Mình hôm nay hơi rảnh, thấy lá số này rất hay nên cũng mạo muội tham gia góp vài ý kiến giải đoán Đương số có dáng người đường hoàng, bệ vệ có thể phần vai hơi bè to (Thái dương Vượng địa, Đà la). Là người có nhan sắc, cuốn hút người khác giới vừa bằng hình thức vừa bằng đời sống nội tâm (Hồng, Đào). Yêu cũng thì yêu hết mình và ko thiên về thể xác ( Hồng,Đào (triệt)). Lại là người có tài ăn nói, hùng biệt siêu việt ( Cự, Tấu thư,xương, khúc, lưu hà..). Nhưng chỉ khi thân thiết, hiểu nhau thì đương số mới nói, còn nếu chưa quen, chưa thông thì lại tỏ ra là người nhút nhát, ít thích giao tiếp với mọi người ( Cô, quả). Cũng vì Cô quả là đương số có thể sống cô đơn một mình mà ko thấy buồn. Trong cô quả lại có Đà la nên người này sống nội tâm thâm trầm (nhiều khi mọi người lại nghĩ là thâm hiểm).Nhưng quả thực không phải vậy, đây là người sống vô cùng vị tha, độ lượng, bác ái, ít để ít tới vật chất ( Nhật, Hồng, Không). Lại có tình thương con người vô cùng lớn ( Tứ đức). Mặc dù cô độc, ít giao thiệp bạn bè, đồng thời bạn bè cũng ít, chẳng mấy người tri âm, nhưng ra ngoài lại hay được người giúp đỡ, khi là họ hàng, khi là anh em. Đương số quả là người rất thông minh, học 1 biết mười, thông kim bác cổ nhưng cũng là học tài thi phận, hay phải thi lại, học lại mới qua. Chính vì vậy đương số ra trường muộn so với bạn bè cùng trang lứa (2 năm) nhưng trong kỳ cuối thì cũng đã đi làm rồi. Hì Cự Nhật ở Dần là số giàu ba đời (ông cha mình) nên xét tổng quan trên mặt bằng đương thời thì 3 đời, đời nào cũng nhà cao cửa rộng, uy thế hơn người Người này khi sinh ra được sự giúp đỡ lớn của dòng họ, Người mẹ bị tổn hao lớn trong quá trình mang thai (băng huyết) chính vì vậy mà họ hàng cũng đã bàn bạc để có nên giữ cái thai lại hay không! Thật may phúc đức thâm dày và đương số đã có mặt trên cõi đời này. Về bệnh tật, thì ít bệnh, khi có bệnh lại hay gặp thầy gặp thuốc, chữa một lần là khỏi ngay. Có thể bị bệnh dạ dày (đã đc chữa khỏi) và viêm mũi dị ứng. Hồi nhỏ đã chết hụt vài lần, cũng may được người giải cứu Bạn ơi bạn là người tốt lắm lắm ấy, tôi thích bạn, mặc dù cũng có lúc hơi bướng bình cứng đầu,nóng tính, cực đoan, tự cao tự đại bất cần, có ý niệm theo kiểu "được thì được không được về" " ko có mình thì chợ vẫn vui", "ko có mình làm thì có người khác làm") @ Cô Tuyết Minh Cháu đoán sau này, đương số có khả năng đi tu là rất cao ( Hồng không hội tứ đức, lại có Âm sát, nên có thể thành cao thủ về thông linh) Cháu nghĩ một người tốt như vậy không thể có cuộc sống khổ được! @ Co nguyet dong cung Mạo muội cho mình đoán Nhật hạn một chút đêm thứ hai ráng sáng ngày thứ 3 vừa rồi ( ngày 12, 13 tháng 9) bạn có phải uống thuốc gì đó không? Đi tu thì cũng có 8 vạn ngàn tư đường tu, đâu phải cứ cạo tóc lên chùa mới là tu... Rất vui được làm quen với bạn, lâu lâu rồi chưa gặp được người nào tốt thế này!1 like
-
Thì ra là chú kia khóc chứ không phải cô bé khóc! Cái này thì Sư Thiến tui cũng chịu. Hồi nhỏ tôi chỉ khóc vì ăn đòn.1 like
-
Sư phụ trông khỏe hơn được 1 chút rồi. Con chúc Sư phụ vạn thọ vô cương, phúc đức vô biên. Thấy mấy ACE ngoài đó offline xôm ghê :) Thân, NA1 like
-
Chia sẻ hình anh off-line Câo lạc bộ PTLV ngày 10/9/2011 tại Văn phòng Trung tâm Sư phụ và các AEC đang tâm sự trước giờ Thày giảng bài. Các AEC ổn định chỗ ngồi. Vợ chồng anh Cóc Vàng (lần này anh Cóc cẩn thận đưa cả Vợ sang thăm SP và dự buổi off-line Anh Mocmien dang lắng nghe. Lữ khách đang đọc cuốn Thông điệp cho tương lai Phamhung hý hoáy tìm lại phần lý thuyết để Thày giảng lại Sư phụ bắt đầu giảng bài Sư phụ cho thí dụ khó quá, yêu cầu tìm Sơn - Hướng - Tọa Khó hơn nữa nè1 like
-
151.- KHÍCH LỆ: Khi khích lệ quân sĩ, chẳng nên nhờ cậy vào pháp luật. Danh vọng được thêm thì kẻ cương dũng phấn khởi. Đem lợi lộc mà dẫn dụ thì kẻ nhẫn nại, quả quyết sẽ phấn khởi. Dùng thế lực mà bức bách, lấy nguy nạn mà vây hãm, dùng xảo thuật mà lừa dối thì kẻ nhu nhược cũng phấn khởi. Nếu tướng biết thi ân, thị uy thì lòng quân hòa hiệp, việc mưu đồ sẽ thành tựu, ắt là sĩ tốt trong ba quân sẽ giống như rồng cọp rình mồi, khi gặp địch thì khắc chế ngay mà lại có thể lập thế giúp oai nêu cao tiết khí, nếu có thua chạy cũng không mất nhuệ khí, tuy gặp nguy nan vẫn không sờn lòng, như thế bất kỳ ai, ở lúc nào cũng được phấn chấn. 152.- PHÁP LỆNH: Ràng buộc ngựa thì lấy giàm mà đóng vào đầu, muốn ràng buộc binh sĩ thì dùng pháp lệnh. Cho nên muốn hơn thiên hạ thì không thể bỏ pháp luật. Nhưng phải thi ân trọng hậu rồi mới có thể thi hành pháp luật. Hình phạt phải thi hành rồi sau mới lập uy được. Như thế kẻ giỏi dùng binh lấy tiêu chuẩn được, thua để định công tội, biết rõ ai đánh, ai chạy để cứu giúp kẻ tổn thương. Giết một người mà mọi người khiếp uy, phạt kẻ hèn nhát, chém kẻ thất bại, mà quân sĩ càng thêm phấn khởi. Đứng nghĩ lặng lẽ như núi non, chuyển động mau lẹ như băng đổ, khiến cho quân sĩ không dám khinh lờn phép tắc, cho nên chỉ thắng lợi mà không thất bại. 153.- DÙNG TÀI: Than tiếc rằng trời khó sinh nhân tài mà có kẻ sĩ trí mưu đến nhờ vả lại không được trọng dụng, có tướng chịu đi đánh địch mà ta lại ngăn cản. 154.- LO NGHĨ ĐẾN QUÂN SĨ: Kẻ làm tướng phải hỏi thăm việc hư hại, chẳng bao giờ sai khiến mà không thông cảm, đó là cách lo nghĩ bậc nhất đến quân sĩ. Khi quân sĩ phải mang giáp trụ trải nắng dầm sương, đói khát thiếu thốn, thân thể bị thương tích mà chẳng dám than khổ, gặp cơn hiểm nạn mà chẳng dám kêu mệt, cho nên kẻ giỏi dùng binh chẳng để quân sĩ của mình bị địch vây hãm, ai theo thì dùng, ai bỏ thì giết, đó là cách lo nghĩ đến quân sĩ vậy. 155.- NHUỆ KHÍ: Nuôi uy thì quý ở sẵn có, ứng biến thì quý ở mưu cao. Hai quân đang đánh nhau, nghe hô một tiếng thì phấn khởi, đó chỉ nhờ nhuệ khí mà thôi. Quân địch đông đảo đánh tới dữ dội, còn ta ít quân mà tới ngăn chặn chúng được, đó cũng là nhờ nhuệ khí. Giữa đám quân địch, quân ta ra vào, lui tới, xông xáo dọc ngang được, đó cũng là nhờ nhuệ khí. Tướng kiêu dũng, mạnh mẽ, dữ tợn, đó là tướng có nhuệ khí. Như gió, như mưa, làm rung chuyển núi rừng, đó là có nhuệ khí. Tướng đánh tới dữ dội, quân nhảy tới xông xáo, đó là tướng, quân đều có nhuệ khí. Dùng nhuệ khí không đúng chỗ thì vấp ngã, không có nhuệ khí thì suy. Có cơ trí mà có thể chu toàn, phát ra mà thâu lại được thì nhuệ khí không bao giờ hết. 156.- PHÉP CHIẾN ĐẤU: Phép chiến đấu là so sánh đạo nghĩa, lập tốt ngũ, định hàng cột, chỉnh đốn đường ngang lối dọc, xét danh thực. Khi đứng mà đi tới thì cúi xuống, khi ngồi mà đi tới thì quỳ gối. Sợ thì sắp cho dày, thấy nguy hiểm thì ngồi xuống. Ở xa mà nhìn thì không sợ, ở gần đứng nhìn thì không tan rã. Dưới ngôi vua, quân hai bên trái phải bỏ giáp ngồi xuống, thong thả thề nguyền. 157.- HỔ BÔN: Trong một toán quân, ắt có hạng hổ bôn (dũng sĩ) có sức gánh nổi vạc, khỏe chân chạy hơn ngựa nhung, đều đủ sức giật cờ giết tướng. Nếu được như thế, nên chọn riêng họ ra để mà thương yêu quí mến họ, đó gọi là quân lệnh. Chia họ ra năm thứ binh, có tài năng, có sức mạnh, có sức khỏe, nhanh nhẹn, nuôi chí nuốt địch. Ban thêm phẩm tước cho họ, để họ quyết thắng, chăm nom cha mẹ vợ con của họ, thưởng để khuyến khích họ, phạt để họ sợ uy, đó là phép bày trận vững chắc, có thể giữ gìn lâu dài. Biết xét liệu việc ấy thì có thể dấy binh gấp bội. 158.- CONG THẲNG: Võ Hầu nói rằng: Biết trước được cái kế cong thẳng thì sẽ thắng, đó là phép tranh giành. 159.- HIỆU LỆNH: Sách Quân Chính nói rằng: Nói mà không nghe nhau nên mới bày ra chiêng trống. Nhìn nhau mà không thấy nên mới bày ra cờ xí. Mọi người đã chuyên nhất nên kẻ mạnh dạn không được tiến tới một mình, kẻ khiếp sợ không dám đi lui một mình, đó là phép sử dụng số đông vậy. 160.- ĐIỀU TRÔNG MONG: Năm điều trông mong: - Mong sĩ tốt được tráng kiện - Mong cung tên bắn trúng - Mong tập luyện dao, dáo được tinh thục - Mong bộ ngũ bày trận được hợp độ - Mong dùng chiên trống cờ xí cho đúng tiết Không được làm điều gì bậy bạ vô ích. Cho nên nếu không trông mong ở công việc thì có thể trông mong thắng trận được sao? 161.- PHÂN CÔNG: Theo phép giao chiến thì kẻ ngắn cầm mâu kích, kẻ dài cầm cung nỏ, kẻ mạnh cầm cờ xí, kẻ dạn cầm chiêng trống, người yếu làm việc vặt vãnh và nuôi ăn, người trí làm chủ mưu, hàng xóm nương nhau, các đội thập đội ngũ che chở nhau. 162.- CHIÊNG TRỐNG: Nghe một tiếng trống thì sắp binh chỉnh tề, nghe hai tiếng trống thì tập trận, nghe ba tiếng trống thì đi ăn, nghe bốn tiếng trống thì làm việc nghiêm chỉnh, nghe năm tiếng trống thì vào hàng, nghe trống và chiêng cùng đánh một lần rồi mới đưa cờ lên. QUÂN LỄ VÀ THƯỞNG PHẠT 163.- LỄ NGHI: Muốn trị quân thì dùng lễ và giữ đầu cán trong tay mình. Theo phép trị quân thì nhỏ hay lớn đều phải giữ lễ nghi, lòng biết đủ phải thực hành ra. Trị quân mà không nhờ vào lễ nghi thì kẻ trợ tá sẽ xúc phạm tướng suý, tướng suý sẽ xúc phạm thiên tử, do đó sinh ra các việc họa hoạn. Quyền bính tối cao không thể không ở trong tay mình. Nếu quyền bính bị rơi vào tay kẻ dưới thì trên dưới có thế lực bằng nhau, trên chẳng sai khiến được dưới, dưới chẳng trình bẩm người trên, đó là bởi quyền bính tối cao không ở trong tay mình. Đời Hậu Đường quân sĩ giết Tiết Độ Sứ rồi giành luôn chức vụ của người bị giết. (Gần đây nhà Trịnh suy yếu không kiềm chế được người dưới, quân sĩ sinh kiêu căng đem đến cảnh loạn vong, trường hợp này cũng giống như trường hợp trước)*. * Đoạn này do người đời sau thêm vào, nhắc tới loạn "kiêu binh" thời Trịnh Khải. 164.- SĨ KHÍ: Trao kiếm dấy binh, giết trâu bò để đãi quân sĩ, an ủi và khích lệ sĩ tốt thì sĩ khí sẽ tăng gấp bội. Nên trọng thưởng công lao giữ gìn biên giới. 165.- GHI CHÉP CÔNG LAO NHỎ NHẶT: Nghe giặc xâm phạm biên giới, bọn gian bèn âm mưu làm loạn. Bậc nhân thần phụng mệnh ra quân để chỉnh đốn vương quốc, bảo tồn vương nghiệp, lập công trạng lớn lao. Binh pháp nói rằng: công lao nhỏ nhặt mà không được ghi chép thì chẳng nên thưởng công lao ngoài biên giới. 166.- MIỄN LỄ NGHI CHO QUÂN SĨ: Trong quân thì ráng sức mà tiến lên, trong hàng ngũ thì thi đua lấy thành quả. Mang giáp trụ thì không lạy, ngồi binh xa thì không làm lễ. Nên việc thì chẳng để sai chệch, gặp cảnh nguy nan chẳng sờn lòng. Cho nên lễ nghi và phép tắc là bề ngoài và bề trong, văn và võ là tay phải tay trái. 167.- TIẾP ĐÓN BỀ TRÊN: Nếu bề trên đi kiệu mà đến, thì đạo tôi con là phải giết trâu bò, rót rượu mà đãi đằng trăm quan, há dám vin cớ có giặc mà thiếu lễ với bậc vua, cha hay sao? 168.- TRỄ NÃI, ĐÀO NGŨ: Lính đến trại của đại tướng trễ sau tướng và lại sĩ một ngày thì cha mẹ vợ con cũng mang tội như nhau. Lính trốn về nhà một ngày mà cha mẹ vợ con chẳng bắt nộp hay không báo cáo thì mang tội như nhau. 169.- BỎ RƠI ĐỒNG NGŨ: Ham đánh mà quên cả tướng súy và lại sĩ hay là tướng súy và lại sĩ bỏ rơi quân lính mà chạy trốn một mình thì phải đem chém hết. Lại sĩ trước bỏ lính mình mà chạy, lại sĩ sau chém được lại sĩ trước và giữ lính lại thì được trọng thưởng. 170.- LIÊN ĐỚI TRÁCH NHIỆM: Ba quân đang đánh lớn, nếu đại tướng chết mà có trên 500 quân theo lại sĩ không chịu liều chết đánh lại quân địch thì phải chém hết, các quân lính theo hầu gần đại tướng ở giữa trận cũng phải chết chém. Ngoài ra các sĩ tốt có công trạng phải bị giáng xuống một cấp, sĩ tốt không có công trạng thì phải đi lính thú ba năm. Trong một ngũ có người thất lạc hay chết mà không lấy được thây, thì mọi người trong ngũ đều mất hết công trạng, nếu tìm được thây thì xá tội hết thảy. 171.- BA THẮNG LỢI: Nay dùng pháp luật để trừng trị sự bỏ trốn, ngăn ngừa sự giảm quân số, đó là thắng lợi thứ nhất về việc binh. Thập và ngũ nối liền nhau. Khi chiến đấu, lính và lại sĩ cứu nhau, đó là thắng lợi thứ hai của việc binh. Tướng giữ uy vũ, lính giữ tiết độ, hiệu lệnh tính thực, đánh hoặc giữ đều thành công, đó là thắng lợi thứ ba của việc binh. 172.- LỆNH NGĂN CẤM QUÂN SĨ: Nghe rằng người xưa trị quân, khi trời mưa, trong quân có người lấy của dân một cái nón để che đầu thì người ấy phải bị chém đầu để rao cho mọi người biết. Huống là chặt phá cây cối, dẫm nát ruộng nương của dân, phá hủy nhà cửa của dân, gian dâm, trộm cắp, chặt đầu của binh sĩ chết (?), giết con trai của giặc, làm nhục vợ của giặc, thậm chí giết thường dân bừa bãi rồi chặt đầu bảo là đầu giặc, như thế lý trời chẳng dung, phép vua chẳng tha. Ai mang tội ấy thì sẽ bị xét xử theo quân pháp. 173.- THƯỞNG NGƯỜI NHỎ, PHẠT NGƯỜI LỚN: Tướng lấy việc giết người lớn làm uy, thưởng người nhỏ làm sáng suốt. Bởi vì giết người đang ở địa vị quý trọng, đó là hình pháp cực nghiêm vậy. Thưởng cho kẻ chăn trâu, giữ ngựa, đó là sự tưởng thưởng thông suốt tới người dưới. Do đó mà tướng suý xây dựng được uy tín cho mình. 174.- DÙNG NGƯỜI: Lính chưa thân thiết với mình mà đã phạt chúng thì chúng không phục, nếu chúng không phục thì khó dùng. Khi lính đã thân thiết với mình mà sự trừng phạt không thi hành thì cũng không dùng được. Cho nên lấy văn mà sai khiến chúng, lấy võ mà sửa trị chúng, đó là phép dùng người. Mệnh lệnh mà mình đã tự thi hành rồi đem ra dạy dân thì dân sẽ phục, mệnh lệnh mà mình tự thi hành rồi đem ban bố cho dân thì sẽ được hợp ý. MẠC HẠ 175.- CHỌN LỰA NHÂN VIÊN CHO MẠC PHỦ (BỘ TƯ LỆNH): Chọn hai người cho việc thiên văn: Xem sao, xem lịch, xét phong thổ, khí hậu, chọn ngày giờ, quan sát các việc thiên tai quái dị. Chọn hai người coi việc địa lợi: xét hình thế đất đai lợi hại, xa gần, khó dễ. Chọn hai người coi việc coi việc binh pháp: giảng luận binh pháp, luyện tập việc binh. Chọn hai người coi việc thư toàn (kế toán): ghi chép lương hướng, quân số, khí giới. Chọn hai y sĩ: để điều trị quan nhân. Chọn ba du sĩ (điệp viên hay thám tử): để làm việc gián điệp, tuần thám. Chọn bốn người coi việc thư từ (công văn): để soạn thảo các từ, trát, chương, sớ, viết các bài tấu, biểu. 176.- DÙNG PHÉP KỲ (TRÁI VỚI PHÉP CHÍNH): Cầm quân mười vạn, biết bao nhiêu là sĩ tốt phải chết vì xông pha nguy hiểm, cho nên không thể dùng phép kỳ. Đem quân đi đường ngàn dặm, gặp biết bao nhiêu là gián điệp tài nghề thần diệu nên cũng không thể dùng phép kỳ. Ta xem các nhà chuyên dùng phép kỳ, hễ mưu kế lập sẵn rồi thì thành công, còn nếu gặp đánh bất ngờ thì phải thất bại, thực có trường hợp như thế. Há chẳng phải quân cảm tử chẳng giúp tướng súy, gián điệp chẳng được tưởng thưởng công khai! Ân huệ đã cảm động được lòng người, nghĩa khí đã kết thành, thế mà thường phải lo sợ không rằng được, huống hồ là tướng súy chẳng từng trải gian lao, huống hồ là lương hướng không sẵn sàng, bấy giờ gặp lúc cần kíp, nháy mắt còn chưa kịp, dẫu có dùng phép kỳ, đâu có thể mình tự dùng được hay sao? 177.- DÙNG NHÂN TÀI: Bậc vương giả có nhiều người làm tay chân, tai mắt, bậc đại tướng có lắm kẻ làm vây cánh giúp rập. Cho nên quân đội dùng nhân tài giống như triều đình. Có hạng trí sĩ (kẻ sĩ có mưu trí) coi việc tham mưu, việc tán hoạch, việc mưu lược, dùng ngay dưới trướng để quyết định việc quân cơ. Có hạng dũng sĩ (kẻ sĩ mạnh dạn) như là kiêu tướng, kiện tướng, mãnh tướng … chuyên lo việc quyết chiến, xung đột, dẫn quân đảm đương các việc nguy hiểm trước mọi người. Có hạng thân sĩ (kẻ sĩ thân cận) như là tư tướng, ốc tướng, nha tướng, cốt để hầu gần ở hai bên mình, tuyên bố mệnh lệnh, nắm giữ cơ quyền. Có hạng thức sĩ (kẻ sĩ biết rộng) hiểu trận nghi, biết biến hóa xem cảnh trí, thăm dò mây, nước, gió, mưa, xét đất đai, thấy rõ địch tình, biết được điều sâu kín, nhỏ nhặt, quyết định việc quân tới, lui, ngừng nghỉ. Có hạng văn sĩ (kẻ sĩ văn học) thông suốt việc xưa nay, hiểu rõ dịch lý, giữ gìn nghi tiết, soạn thảo các tờ hịch sớ, từ, chương … Có hạng thuật sĩ (kẻ sĩ biết pháp thuật) thông thạo các việc thần linh, âm dương, ngày giờ tốt xấu, bói toán, pháp thuật, để làm lợi cho mình, tổn hại cho địch. Có hạng số sĩ (kẻ sĩ coi về toán số), coi sổ sách kế toán, quân số, việc bổ dụng, thăng thưởng, quân nhu … Có hạng kỹ sĩ (kẻ sĩ khéo léo) như kiếm khách, cảm tử, giỏi việc trộm cướp, giỏi việc du thuyết, gián điệp, ra vào thành lũy của địch một cách dễ dàng… Có hạng nghệ sĩ (kẻ sĩ có nghề riêng) lo về tiền của, khí cụ, đào hào rãnh, tu bổ vật hư hỏng, sáng chế các máy móc lạ lùng… Ngoài ra, mỗi người đều có biệt tài, thí dụ như cười đùa, nhảy múa, chưởi mắng, ca hát, nấu nướng, giả dạng, chạy nhanh … 178.- TRÍ VÀ LỰC: Trời sinh ra người, nếu khí tụ tại trung hư thì sinh ra trí tuệ, nếu khí tan ra bốn tay chân thì mộc mạc. Mộc mạc thì có nhiều sức. Kẻ trí thì yếu ớt. Những kẻ trí dũng kiêm toàn ở trên đời không có nhiều. Cho nên ai hơn được một trăm người thì đứng đầu một trăm người, ai hơn được một ngàn người thì đứng đầu một ngàn người. Hơn một ngàn người thì thành một quân. Ai có tài ứng biến với thời cơ, có thể đương đầu với một cuộc tấn công thì đủ sức làm trưởng quân (cầm đầu một quân). Quân có lúc bị cô đơn, sai khiến tướng quân ắt mong dùng lấy một mình, cho nên nếu giỏi dùng nhân tài thì kẻ trợ tá cũng có thể làm đại tướng. BINH CỤ 179.- CÔNG DỤNG CỦA MỖI ĐỒ VẬT: Móc, dùi dùng để làm đất Búa, rìu, dao, cưa dùng để làm cây gỗ Thợ rèn dùng để làm đồ kim chất Trâu ngựa dùng để chuyển vận Gà chó dùng để dò xét Thợ may dùng để may áo trận Thuốc men dùng để chữa bệnh Chông gai để phòng lót đường bẫy giặc Giày da để phòng chạy gấp Lương khô đề phòng thiếu thức ăn 180.- PHÉP DỤ BẮT NGỰA GIẶC: Ngày xưa đời Hậu Đường, Sử Tư Minh làm phản. Hắn có ngàn ngựa hay, mỗi ngày đem ra sông Hà Chữ mà tắm rửa, làm tuần hoàn như thế để tỏ rằng mình có nhiều ngựa. Lý Quang Bật khiến tìm trong năm quân trăm ngựa đực, đánh vào đầu chúng ở trong thành, chờ khi ngựa giặc đến sông Hà Chữ, thì cho ngựa của mình đi ra hết. Đàn ngựa hí mãi không thôi. Ngựa giặc nghe tiếng hí bèn bơi qua sông đi hết vào trong thành. 182.- HỎA TIỄN: Hỏa tiễn có thế rất mạnh, quân địch sợ nó hơn là cung nỏ. Nếu chế hay, mỗi chiếc có thể bắn xa sáu bảy trăm bước. Phải nện thuốc súng chừng ba vạn cái mới dùng được, đầu trên dùng chất mồi lửa chừng hai phần mười. Gặp trường hợp hỏa tiễn quá mạnh mà buồm chiếu quá mỏng, hỏa tiễn bắn vào thì xuyên lút qua mà đi luôn thành thử không cháy được. Nếu sợ đi xuyên qua luôn, thì cách miệng chừng hai ba tấc, ta gắn một chữ thập bằng tre để chận nó lại. Chỗ tre và sắt tiếp nhau, người ta dùng giây vấn và sơn một lớp sơn cho kín. Dưới lớp sơn có thể dùng linh hoa để ngăn ẩm thấp. Ở phuơng nam người ta dùng tới ba trăm chiếc cho vào một ống, gọi là oa phong hay hỏa lung. Dùng chín chiếc thì gọi là cửu lung đồng. Thứ nhỏ gọi là dũng tiễn. Có thể ngồi trên ngựa mà phóng hỏa tiễn. 183.- HẦM CHÔNG GAI DÙNG ĐỂ BẪY NGỰA GIẶC: Đào hố vuông sâu chừng bốn thước, rồi đặt chông gai ở dưới, mặt trên gác cây, phù cỏ và đất cho bằng phẳng như là đất hoang. Nếu giặc xông tới đánh dinh trại thì sẽ sụp vào hố chông ấy. Người và ngựa của giặc bị thương sẽ bị phục binh của ta bắt giữ. HIỆU LỆNH 184.- QUÂN LỆNH: Một khi hiệu lệnh được phát ra, ba quân đều chấn động sợ sệt. Nghe trống thì tiến, nghe chiêng thì dừng. Nghe súng bắn thì đứng dậy, nghe chuông đánh thì ăn. Nghe đánh phẫu thì ráng sức, thấy vẫy cờ thì chạy mau. Gặp mưa không núp, gặp nóng không cởi giáp. Mệt không buông vũ khí. Thấy nguy nan không trở lui. Gặp tiền của không lấy. Hãm thành không giết bừa bãi. Có công trạng không khoe khoang. Dong ruỗi thì lặng lẽ. Bị đánh cũng không rúng động. Bị chấn áp cũng không sợ hãi. Bị đánh úp không bỏ chạy, bị đánh cắt ngang mà không phân tán. Đó gọi là binh nghiêm chỉnh. 185.- VIỆC QUẤY: Thánh hiền không thấy sai quấy thì miễn lỗi, binh pháp không thấy sai quấy thì ghi công. Cho nên kẻ giỏi dùng binh thì thi hành dối trá trái ngược, dấy nghịch lấy bậy. Trời luân hành theo thời, quỷ thần mượn thời mà hành động, mộng mị cũng theo thời mà hiện ra, các vật lạ cũng theo thời mà sinh ra, câu ca dao, lời sấm cũng theo thời mà nói, mọi việc sắp đặt cũng theo thời mà chia riêng, tiếng lời cũng theo thời mà phát biểu. Khuyến khích lòng quân, ngăn trở khí thế của địch, khiến người không thể liệu lường. Luân chuyển trừ bỏ điều quấy rồi lại dùng điều quấy. Vả lại điều hư quấy, ngay thẳng nhờ cậy vào nó thì không đủ, dả dối mượn dùng nó thì thường có dư. 186.- DÙNG PHỤ NỮ: Thường nghe bậc đại tướng ngày xưa cũng từng nhờ cậy vào sự mềm yếu của phụ nữ. Khi dùng văn thì khiến cho giặc vui chơi sướng khoái, khi dùng võ thì cỡi xe chiến đấu, cứu nạn giải nguy, tùy cơ ứng biến, đều có lợi cả. 187.- DÙNG VĂN ĐỂ DẠY ĐỀU ƯỚC CẤM LỆNH: Nghề võ chuyên luận về tánh dũng, nhưng cáo, hịch … thì cần văn. Có khi một lời nói mà có thể cứu nước, làm cho quân giặc phải đầu hàng. Sĩ tốt thì ít biết văn chương, chữ nghĩa. Bởi thế cho nên, khi nhàn hạ nên buộc sĩ tốt tập hò, tập hát, truyền tai nhau các điều ước, cấm lệnh, các bài chiếu giảng giải các điều nghĩa dũng và cái đạo của quân tử, của nho sĩ, tức là chẳng làm tổn hại người bề trên. Đó là binh pháp vậy. 188.- BAN BỐ ĐIỀU LỆNH: Con người lấy tâm mà định lời, định lời để ra lệnh. Bởi thế nên phấn khích tánh hào hùng, mưu lược, nói lời cứng cỏi, mạnh mẽ, giữ lòng sắt đá, chịu trải phong sương, sau đó mới ban bố hiệu lệnh, lập quân pháp nghiêm minh. Trước ba ngày, treo lệnh tại quân môn, khiến viên quan quân chính cầm ban tuyên bố giữa sáu quân. Nếu có ai trái lệnh thì khiến quan quân chính tập họp quân nhân, rồi theo lệnh mà hành hình để cho sáu quân đều biết rõ. 189.- TRỪNG PHẠT KẺ PHẠM QUÂN LỆNH (QUÂN PHÁP): Khi bậc đại tướng quân đã nhận mệnh, cầm hết quyền chinh chiến trong tay, làm lễ khao quân xong rồi mới ban bố mệnh lệnh. Ai trái lệnh sẽ bị giết. Nghe trống mà không tiến, nghe chiêng mà không dừng, thấy đưa cờ lên mà không đứng dậy, thấy hạ cờ mà không nằm nấp, đó là quân bội nghịch, phải chém chúng. Nghe gọi tên mà không đáp, được vời mà không tới, hoặc tới mà trễ nãi, cử động sai quy luật, đó là quân ngạo mạn, phải chém chúng. Ban đêm thì kháo chuyện gian dối, thường biếng nhác không hăng hái, trù tính sai lầm, hiệu lệnh không rõ ràng, đó là quân lười biếng, phải chém chúng. Thường nói lời oán vọng, không được thưởng thì giận hờn, được chủ tướng dùng thì tỏ ra cứng đầu khó trị, đó là quân ngang dọc, phải chém chúng. Tự xưng tên họ phẩm chức mà cười nói, như là trên mình chẳng có ai, bị ngăn cấm vẫn không chừa, đó là quân kiêu căng, phải chém chúng. Giữ khí giới mà để cung nỏ đứt dây, tên thì thiếu mũi hay thiếu lông đuôi, kiếm kích thì đùi lụt, cờ xí rách nát, đó là quân lừa dối, phải chém chúng. Nói lời dối trá bày đặt việc qủy thần, mượn chuyện mông mị, phỉnh gạt lại sĩ, đó là quân yêu nghiệt, phải chém chúng. Đến nơi nào thí phá phách nhân dân, hãm hiếp phụ nữ, đó là quân gian tà, phải chém chúng. Miệng lưỡi sắc bén, hay bàn phải trái, gieo oán giữa các lại sĩ, khiến họ chẳng hòa hiệp, đó là quân dèm pha, phải chém chúng. Trộm tiền của người để làm của mình, đoạt thủ cấp của người khác để dành công lao về phần mình, đó là quân trộm cắp, phải chém chúng. Khi tướng quân tụ họp để bàn mưu, mà đến gần trướng để nhìn trộm, nghe trộm sự tình, đó là quân dọ thám, phải chúng. Khi nghe được mưu kế và hiệu lệnh của quân mình, mà bắn tiếng ra ngoài để địch quân nghe được, đó là quân bội phản, phải chém chúng. Khi được sử dụng, mà câm miệng chẳng đáp, gục đầu ủ rũ làm ra vẻ khó nhọc, đó là quân hèn yếu, phải chém chúng. Chẳng giữ hàng ngũ, tranh giành trước sau, nói năng ồn ào, chẳng theo cấm lệnh, đó là quân lộn xộn, phải chém chúng. Giả vờ bị thương hoặc mang bệnh để tránh việc khó nhọc, giả vờ cứu giúp kẻ thương vong để lẩn xa, đó là quân dối trá, phải chém chúng. Khi giữ tiền của, đến lúc ban thưởng lại tây vị những người thân thuộc khiến cho lại và tốt hờn oán nhau, đó là quân thối nát, phải chém chúng. Thấy giặc mà không xét, xét giặc mà không biết rõ, giặc động mà nói không, giặc không động mà nói có, giặc nhiều mà nói ít, giặc ít mà nói nhiều, đó là quân lầm lạc, phải chém chúng. Tại chốn đồn trại, chẳng phải lúc khao quân mà bày ra uống rượu, đó là quân phóng đãng, phải chém chúng. Khi pháp lệnh trên đã lập xong, trong lại sĩ có ai phạm phép thì cứ theo phép mà xử chém. 190.- DÙNG BINH TRÊN TÁN ĐỊA (ĐỊA PHẬN CỦA MÌNH): Quân địch vào sâu trong nước ta, mà thành quách chưa hoàn bị, cỏ lương thiếu thốn, cố thủ thì không lơi. Bên ta nên hẹn nhau quyết chiến, còn nếu sợ sệt mà thối lui thì ắt chết. Ai bắt được gì, lấy được gì thì ban thưởng. Ai làm tướng quay lui cũng đem chém, gặp địch mà thân không định, số mục thay đổi cũng chém; có sắc mặt lo buồn, nghiêng ngả nhìn nhau mà nháy mắt bỏ bê chiêng trống chẳng ứng đối, đều phải chém hết. Được một thủ cấp cũng trọng thưởng, như thế mới có thể dùng binh trên tán địa được. 191.- THƯỞNG PHẠT THEO LỄ NGHI: Nếu bậc đại tướng cũng dùng lễ nghi để thi hành việc thưởng phạt thì sĩ tốt không hờn oán mà mọi người sẽ lo sợ. Một là các điều quân lệnh phải thật nghiêm khắc khi ra quân lần đầu để cho tai mắt quân sĩ phải thấm nhuần, khiến chúng phải tránh né không dám phạm vào. 192.- XỬ CHÉM: Một là giả vờ có bệnh, có ý muốn trốn. Đi nửa đường rồi bỏ trốn, thì phải chém. Một là cướp tiền của của nhân dân và hiếp dâm phụ nữ, thì phải chém. Một là đào bới mồ mả để lấy tiền của thì phải chém. Một là tự ý vào các đền, miếu để lấy các đồ vật thì phải chém. Một là ngầm giao thiệp riêng với quân địch, làm tiết lậu quân cơ thì phải chém. Một là bỏ đội ngũ, tự ý vào nhà dân mà ngủ nghỉ thì phải chém. Một là trong đêm vô cớ la ó khiến quân sĩ lo sợ, thì phải chém. Một là trong đêm đốt lửa không cẩn thận làm cháy dinh trại, thì phải chém. Một là canh giữ, tuần phòng sơ xuất để quân địch thừa cơ lẻn vào thì phải chém. Một là tự ý giết tướng và lính đến đầu hàng, thì phải chém. Một là làm cho cha con, chồng vợ của tướng lính đến đầu hàng phải xa nhau thì phải chém. Một là hiếp bức nhau, đánh nhau đến nỗi chết người, thì phải chém, quản viên cũng bị phạt. 193.- ĐÁNH ĐÒN: Một là cướp tiền của, chọc phá phụ nữ, thì phải đánh nhiều bằng gậy. Một là chửi bới nhau, trái với quân lễ thì phạt đánh bằng gậy. Một là trên dưới tranh giành nhau làm mất thứ tự, thì phải đánh nhiều bằng gậy. Một là nhận riêng rượu và thức nhắm đến nỗi ăn nhằm thuốc độc của quân địch thì quản viên chịu trọng tội. Một là giao thiệp riêng với thầy phù thủy, thầy bói, đồng cốt, bày đặt ra việc họa phúc, gieo nghi ngờ trong quân ngũ, thì phải đánh bằng gậy. Một là say rượu, nói bậy, chẳng giữ vị thứ, chờ tỉnh rượu xong sẽ đánh bằng gậy và giảng luận cho nghe. Một là phá phách nhà cửa của nhân dân, bẻ hái hoa quả thì phải đánh bằng gậy. 194.- KHẨU HIỆU: Một là phát hiệu lệnh: Buổi chiều trong quân ngũ hãy xét chung các nhân viên. Tề hầu, Tham tán tới biên lãnh khẩu hiệu. Mỗi canh đổi một khẩu hiệu. Một khẩu hiệu có hai chữ. Hỏi chữ này phải đáp chữ kia. Thí dụ: Hỏi võ thì đáp cường, hỏi dũng thì đáp an. 195.- ÁM HIỆU: Quân đi mà không thông đồng với nhau, ắt những nhóm bị phân chia không thể kết hợp với nhau, những nhóm ở xa không thể cứu ứng, đây đó đâu có thể hiểu nhau được, đó là đường lối thất bại. Nhưng thông đồng với nhau mà không kín đáo thì ngược lại bị địch mưu toan phá hoại. Cho nên nếu không dùng chiêng, cờ, không dùng ngựa chạy mang lệnh tiễn, không đốt lửa, phun khói, thì lấy gì mà thông báo những việc kinh động cấp bách? Hai quân gặp nhau thì nên dùng ám hiệu để liên lạc với nhau, đi xa ngàn dặm thì liên lạc bằng thư trắng (không đọc được) viết bằng chữ không ra chữ, dùng lời văn không hiểu được, không viết trên giấy. Kẻ mang thư cũng không hiểu gì, dầu có tìm tòi cũng không ra gốc tích. Thần diệu thay! Thần diệu thay! Hoặc bị địch ngăn cách, hoặc bị mất liên lạc, hoặc ở quá xa không kịp gặp nhau, ắt phải dùng cơ mưu để thông tin theo cách trên. 196.- HIỆU LỆNH LÀ GỐC: (Ngày xưa) Võ Vương hỏi rằng: Nếu binh của ta bị phân ra ở nhiều nơi, muốn chúng tụ hội đúng kỳ hạn, phải làm thế nào? Thái Công đáp: Theo phép dùng binh thì ba quân đông đảo phải biết cách biến hóa phân hợp. Bậc đại tướng trước hết phải định chỗ đánh và ngày đánh rồi mới truyền hịch cho tướng sĩ biết ngày hẹn đánh thành vây ấp, phải tụ hội nơi nào, ngày đánh phải nói rõ, giờ khắc phải đúng đắn. Đại tướng lập dinh, bày trận, xây dựng viên môn, dọn đường để chờ tướng sĩ tới, xem thử ai tới trước, ai tới sau. Ai tới trước hẹn thì thưởng, ai tới sau hẹn thì chém, như thế xa gần đều chạy lại, ba quân đều tới đủ để góp sức cùng đánh. Vua hỏi: Thái Công giảng bày sách Cấm Thư, phép thắng bại ngũ âm như thế nào? Thái Công đáp: Theo phép dùng binh, hiệu lệnh là tai mắt. Kẻ dùng binh mà không rõ hiệu lệnh cũng như người mù đi đêm. Hạ thần xem phép dùng binh trong kinh đều lấy hiệu lệnh làm gốc vậy. Trần Hưng Đạo1 like
-
Nữ mệnh lá số này tuy về tài quan sáng được phú lẫn quý nhưng về tình duyên lận đận, 2-3 đời chồng mới ổn định cuộc sống. Cung tật xấu, dễ vướng vào pháp luật hay tai nạn mang thương tích, sinh đẻ rất khó khăn. Con cái khó sinh phải đụng đến giao kéo, con đầu rất khó nuôi hay mang bệnh khó chữa. Nói chung suốt đời buồn khổ vì chồng con. Trong đầu có ý hướng đạo nhưng thân có đào hồng hỷ chắc chẳng tu được đâu Góp ý đôi chút cho chị chờ bác Hải Thiên Hà tư vấn cho chính xác1 like
-
Sự Tích Quả Dưa Hấu Xưa, đời Hùng Vương có viên quan tên là Mai An Tiêm, vốn là người ngoại quốc. Vua mua từ thương thuyền về làm nô bộc từ khi lên 7, 8 tuổi. Khi lớn lên, diện mạo đoan chính, nhớ thuộc sự vật, vua ban cho tên là Mai Yển, hiệu An Tiêm, lại ban cho một người thiếp. Tiêm sinh hạ được một trai một gái. Vua rất tin yêu, giao cho công việc, dần dần trở nên giàu có, ai nấy đều khiếp sợ, kẻ quyền cao chức trọng đều muốn đến làm thân, của cải rất nhiều. Sau Tiêm đâm ra kiêu căng ngạo mạn, thường nói rằng: “Đó đều do kiếp trước ta tu mà có, không có phải do ơn chủ đâu”. Vua nghe nói cả giận, phán: “Làm bề tôi mà kiêu căng ngạo mạn, không biết ơn chủ! (1). Nay ta đưa nhà ngươi ra một nơi không có người ở giữa bể, xem nhà ngươi có còn của cải kiếp trước nữa hay không?”. Bèn đày Mai Yển ra ngoài cửa bể huyện Thán Sơn (2), bốn bề toàn cát và nước không có vết chân người qua lại, ban cho một số lương thực đủ ăn bốn năm tháng để cho ăn hết thì chết. Vợ Tiêm than khóc “Tôi chết ở đây rồi, không thể sống được”. Tiêm cười mà bảo: “Trời sinh ta tất sẽ nuôi ta, sống chết bởi trời, ta đâu lo lắng”. Bỗng thấy một con chim màu trắng từ hướng Tây bay lại, đậu ở đầu núi, kêu lên 3, 4 tiếng, nhả xuống 6,7 hạt dưa rơi xuống cát, hạt nở thành dây, mọc lên um tùm rồi kết thành trái rất nhiều. An Tiêm mừng rỡ nói rằng: “Đây không phải là vật dị thường mà là trời cho để nuôi ta đó”. Bèn bổ ra mà ăn, thấy mùi vị thơm ngon, tinh thần sảng khoái, mới đem ra trồng, ăn không hết, đem đổi lấy gạo nuôi vợ con. Tiêm không biết gọi là trái cây gì, nhưng vì chim ngậm hạt từ hướng Tây bay tới nên gọi là trái dưa hấu (Tây Qua) (3). Bọn phường chài, phường buôn ăn đều cho là ngon, đều đến mua bán đổi chác. Những người ở thôn xóm xa gần đều mua hạt về làm giống, theo mùa trồng trọt khắp nơi. Sau vua nghĩ tới Tiêm, cho người đến xem còn sống hay đã chết. Người đó về tâu lại với vua, vua thở dài mà than rằng: “Hắn nói là do ở kiếp trước, điều đó quả thực không ngoa”. Bèn xuống chiếu gọi về (4), cho giữ chức cũ, lại cấp cho nô tỳ. Bãi cát Tiêm ở gọi là bãi An Tiêm, chỗ An Tiêm ở gọi là làng Mai, nay thuộc huyện Nga Sơn. Xưa, người ta tôn An Tiêm là cha mẹ của dưa hấu, nay còn tôn làm ông tổ về dưa hấu. Đó chuyện về dưa hấu, có từ đời An Tiêm vậy. Chú thích: 1) Bản A 2914 còn có thêm câu: “Lại còn nói là của cải kiếp trước của mình”. 2) Có bản viết là “Giáp Sơn 莢山”, “Nham Sơn 岩山” 3) Tây Qua: chữ Hán 西瓜có nghĩa là trái cây do hướng tây đưa tới, là trái Dưa hấu. 4) Bản A 2914 viết như sau: “Bèn cho sứ đến gọi An Tiêm trở về kinh. An Tiêm đem theo dưa hấu dâng lên cho vua. Vua cho giữ chức cũ, cấp cho nô bộc, tì thiếp, ruộng vườn. Đặt tên bãi cát Tiêm ở gọi là bãi An Tiêm, thôn Tiêm ở gọi là thôn Mai (Mai thôn), tương truyền nay thuộc làng An Tiêm, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. (Nguyễn Hữu Vinh dịch) Bình: Lễ hội Mai An Tiêm, Nga Sơn, Thanh Hóa • Truyện này nói về việc Phật giáo du nhập vào nước ta từ vùng Ấn Độ, phía tây Việt Nam, với thuyết nhân quả. Khởi đầu rất rõ ràng và giản dị với Mai An Tiêm là người ngoại quốc, và hai luồng tư tưởng khác nhau—người ngoại quốc An Tiêm tin vào nghiệp duyên các kiếp trước đưa lại ân phước kiếp này ; Hùng Vương tin rằng ân phước của An Tiêm là do chính vua ban.Thuyết nhân quả khẳng định được chỗ đứng của nó với thành công tự đến với An Tiêm và sự chấp nhận sau cùng của Hùng Vương, biểu tượng cho thế đứng quan trọng của Phật giáo trong văn hóa Việt Nam hơn hai ngàn năm nay. • Trái dưa hấu–xanh vỏ đỏ lòng–là biểu tượng cho lòng khiêm tốn. Dưa hấu—non, già, chín–khi nào cũng như nhau, chỉ một màu xanh bên ngoài, chẳng mùi chẳng vị, chẳng một tí phô trương. Tất cả ngon ngọt đỏ hồng dấu kín bên trong. Lòng khiêm tốn chính là thái độ “vô ngã” của nhà Phật. Vô ngã là một trong ba dấu ấn (Tam Pháp Ấn) của Phật pháp—vô thường, vô ngã, niết bàn. Nếu một giáo pháp thiếu một trong ba dấu ấn này thì đó không phải là Phật pháp. Chư Hành Vô Thường: Mọi thứ trên đời đều chuyển dịch, thay đổi, không cố định, không thường hằng Chư Pháp Vô Ngã: Mọi thứ trên đời đều không có một hiện hữu thật, tất cả chỉ là tạm thời và ảo tưởng (gần như người trên màn ảnh TV). Niết Bàn Tịch Tĩnh: Hoàn toàn tĩnh lặng thì ta sẽ thoát khỏi đau khổ do mê muội về bản chất vô thường và vô ngã của cuộc đời.• Trái dưa hấu còn là biểu tượng của Tâm trong Phật Pháp. Như lòng dưa hấu, tâm ta là gốc, là chủ. “Tâm dẫn đầu các pháp; tâm làm chủ, tâm tạo” (Kinh Pháp Cú). Đau khổ cũng do tâm ta mà ra, an lạc cũng do tâm ta mà ra. Tâm là hỏa ngục, tâm là niết bàn. Tâm là quỷ, tâm là Phật. • Vai trò quan trọng của dưa hấu trong ngày Tết nói lên vai trò quan trọng của tâm, khiêm tốn, và vô ngã trong văn hóa Việt. (Trần Đình Hoành bình) Truyện Man Nương Thời Hiến Đế nhà Hán, quan thái thú là Sĩ Nhiếp đóng đô thành ở bờ phía nam sông Bình Giang (nay là sông Thiên Đức). Phía Nam thành đó có chùa thờ Phật là chùa Phúc Nghiêm, có vị sư từ phương Tây tới, hiệu là Già La Đồ Lê trụ trì ở đấy, có phép đứng một chân, mọi người đều kính phục gọi là tôn sư, kéo nhau tới học đạo. Chùa Dâu (Chùa Pháp Vân), Bắc Ninh Hồi ấy có người con gái tên là Man Nương, cha mẹ đều đã mất, nghèo khổ vô cùng, cũng tới đó dốc lòng theo học Phật. Vì có tật nói lắp, không thể cùng chúng tụng kinh, thường ở dưới bếp, vo gạo, nhặt rau, nấu nướng cho các vị tăng trong chùa và khách tứ phương. Giữa tháng năm, đêm ngắn, Man Nương nấu cháo đã chín mà tăng chúng tụng kinh chưa xong, chưa tới ăn cháo được. Man Nương ngồi đợi bên cửa bếp, không ngờ ngủ quên đi mất. Tăng chúng tụng kinh xong đều về phòng riêng. Man Nương ngủ ở giữa cửa bếp, sư Già Lê bước qua mình Man Nương. Man Nương tự nhiên động thai. Có thai được ba bốn tháng, Man Nương xấu hổ bỏ về. Sư Già Lê cũng thẹn mà bỏ đi. Man Nương về tới một ngôi chùa ở ngã ba sông thì ở lại đó. Đầy tháng sinh ra một đứa con gái, tìm sư Già Lê mà trả. Đêm đến, bế đứa bé gái ấy tới gốc cây bên ngã ba đường nói: “Ta gửi con Phật, mi giữ lấy sẽ thành Phật đạo”. Sư Già Lê và Man Nương từ giã nhau ra về, Già Lê cho Man Nương một cây trượng và bảo: “Ta cho nàng vật này. Nàng về nhà, nếu gặp năm hạn hán thì lấy trượng cắm xuống đất, lấy nước cứu sinh dân”. Man Nương cung kính bái lĩnh, về ở trong chùa. Gặp năm đại hạn, nàng lấy trượng cắm xuống đất, tự nhiên nước cuồn cuộn chảy ra, dân được vì thế được nhờ. Khi Man Nương ngoài tám mươi tuổi, gặp lúc cây ấy bị đổ, trôi dạt đến bến sông trước cửa chùa, quanh quẩn ở đấy mà không trôi đi. Dân thấy thế, định bổ làm củi nhưng rìu nào cũng đều bị gãy, bèn cho hơn ba trăm người trong làng ra kéo cây gỗ lên mà không chuyển. Gặp lúc Man Nương xuống bến rửa tay, thử kéo chơi thì cây chuyển động. Mọi người đều kinh ngạc, bảo nhờ Man Nương kéo lên bờ, sai thợ tạc bốn pho tượng Phật. Khi xẻ cây gỗ đến chỗ đặt đứa bé gái thì thấy đã hóa thành một tảng đá rất cứng rắn, rìu đều bị mẻ cả. Họ liền vất tảng đá xuống vực sông, một tia sáng chói lên, hồi lâu đá mới chìm xuống nước. Bọn thợ đều chết cả. Dân bèn mời Man Nương đến bái lễ, nhờ dân chài lặn xuống nước vớt lên, rước vào trong chùa, thếp vàng cúng bái. Sư Già Lê đặt hiệu cho bốn tượng Phật là: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện (1). Thiện nam tín nữ ở khắp nơi đều thường tụ họp về chùa vui chơi ca múa, người đời gọi là hội Tắm Phật, ngày nay vẫn còn. Chú thích: 1) Bản VHV 1473 chép thêm rằng: “Gọi Man Nương là Phật mẫu. Ngày mồng 8 tháng 4, Man Nương không bệnh mà chết, chôn ở trong chùa. Người đời lấy ngày này làm ngày lễ Phật đản. (Nguyễn Hữu Vinh dịch) Bình: Tượng Pháp Vân chùa Dâu, phía trước là hộp đặt Thạch Quang Phật • Truyện này nói về việc phối hợp giữa văn hóa Việt thời cổ đại và văn hóa Phật giáo.Văn hóa Phật giáo biểu tượng bằng sư Già La Đồ Lê với cái tên rất ngoại quốc (Có bản nói là sư Khâu Đà La. Dù là tên gì thì cũng nghe rất ngoại quốc). Già La Đồ Lê có phép đứng một chân: Đây là ý nói về nhất nguyên luận của Phật giáo–tất cả mọi sự đều là Một, và Một đó là Không. (Nhất thiết pháp giai Không–tất cả mọi thứ đều là Không). Văn hóa Việt biểu tượng bằng Man Nương. Man là man di, man dã, tức là ngu si dốt nát. Nương là nàng. Già La Đồ Lê bước ngang Man Nương là biểu tượng của sự phối hợp giữa hai nền văn hóa, 5 người con là kết quả của phối hợp văn hóa này. • Việc dùng man nương làm biểu tượng văn hóa Việt có thể hiểu ở nhiều cấp độ và góc cạnh khác nhau: 1. Đây là chú tâm về văn hóa mẫu hệ, văn hóa mẹ, lấy mẹ làm chính. Bố chỉ là vai phụ trong truyện. Có 5 con thì 4 con là nữ, và một tảng đá. Chẳng có nam. 2. Nói rằng phụ nữ ngu dốt (Man Nương) có thể thành Phật là một cách mạng văn hóa về bình đẳng nam nữ trong Phật giáo. Trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy (Tiểu Thừa) ở Ấn Độ phụ nữ không được đi tu, và không thể thành Phật. 3. Man nương ngu dốt còn là biểu tượng của vô minh (si mê), gặp Phật pháp từ Già La Đồ Lê, mà giác ngộ thành Phật. • Man nương và Già La Đồ Lê phối hợp tạo nên một người con đầu tiên là con gái. Đây là một nhấn mạnh về truyền thống văn hóa mẫu hệ cổ truyền. • Đứa con gái này được Man Nương giao lại cho Già La Đồ Lê là biểu tượng cho sự nuôi dưỡng khôn lớn trong tinh thần Phật giáo. • Mang con bỏ vào trong hốc cây và được cây nuôi dưỡng gợi lại hình ảnh Phật Thích Ca thiền định dưới cội Bồ Đề và giác ngộ. Cây lại đứng ngay ngã ba, nơi ba đường chụm lại. Đây xem ra là biểu tượng của tam thừa chỉ là một. Trong phẩm Thí Dụ của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật có nói Phật dạy 3 thừa—thanh văn thừa, duyên giác thừa, Bồ tát thừa—thật ra cũng chỉ là một Phật thừa. Ba con đường cũng đều là đường đưa đến giác ngộ. • Tuy nhiên, cây cổ thụ ở đây còn có thể là tàn tính của tín ngưỡng đa thần xưa cũ. Vào thời cổ xưa phần đông các bộ tộc của loài người đều theo đa thần, trong đó cây cối, mưa, gió, núi, sông… đều là thần, hoặc đều có thần ngự trị. Man Nương nói với cây cổ thụ “Ta gửi con Phật, mi giữ lấy sẽ thành Phật đạo”, tức là cư xử với cây này như một vị thần cây. • Cây còn là biểu tượng của tổ quốc. Đất, đá, nước, cây đều là biểu tượng của non sông gấm vóc. Con của Man Nương được nuôi dưỡng trong Phật pháp và tinh khí núi sông. • Cây gãy, trôi theo dòng nước đến cửa chùa. Đây là văn hóa nước, văn hóa quê hương tổ quốc—nước của nguồn gốc dân tộc, Động Đình Hồ. Nước là tổ quốc. Chúng ta đã nói đến việc quan trọng của văn hóa nước trong Truyện Hồng Bàng và Truyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử. Pháp vân (2 ảnh trái), Pháp Vũ (2 ảnh phải) • Từ cây này tạo thành năm Phật: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện và Thạch Quang Phật (Phật Đá Sáng, hiện nay vẫn còn được tôn thờ trong Chùa Pháp Vân ở Bắc Ninh).Đây khá rõ là việc biến các thần cũ của thời đa thần thành Phật của nền văn hóa mới. Pháp là Phật pháp, vân là mây, vũ là mưa, lôi là sấm, điện là chớp, thạch là đá. Các thần mây, thần mưa, thần sấm, thần điện, thần đá (hay thần núi) của thời sơ khai nay được tôn thành Phật trong nền văn hóa mới. • Ngoại trừ đá Thạch Quang Phật không rõ giới tính, bốn Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện đều là phụ nữ, không có Phật nam. Một lần nữa nhấn rất mạnh văn hóa mẫu hệ xưa cũ. • Thạch Quang Phật, được xem là em út, không có hình dáng người, nhưng là đá, khác với các tượng Phật của các chị khắc từ cây. Đá thì chắc chắn bền vững hơn cây. Đá là núi là đất, là quê hương. Đá Thạch Quang Phật nổi trên mặt nước lâu rồi mới chìm là nhấn mạnh đến Núi(đá) Sông. “Khi xẻ cây gỗ đến chỗ đặt đứa bé gái thì thấy đã hóa thành một tảng đá rất cứng rắn, rìu đều bị mẻ cả”. Nghĩa là, đá Thạch Quang Phật là người con quan trọng nhất, là linh khí của bé gái. Phật Đá Sáng, Phật Đất Nước Núi Sông, do đó, là quan trọng nhất và bền vững chắc chắn hơn tất cả các Phật. Ở đây ta thấy tinh thần Phật giáo và tinh thần dân tộc quyện vào nhau thật chặt chẻ. Phật giáo, dù là từ Ấn Độ sang, khi đến Việt Nam nó quyện vào văn hóa dân tộc Việt rất khắng khít, để giúp văn hoá Việt phát triển mạnh mẽ và tự nhiên. Xem ra không có xung đột giữa văn hóa Phật giáo và văn hóa Việt cổ xưa. Và tinh thần dân tộc là một yếu tính tự nhiên của Phật giáo Việt Nam. • 5 Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện và Thạch Quang Phật: Từ góc độ triết lý Phật giáo, Phật pháp hiện diện trong tất cả mọi thứ, kể cả mây, mưa, sấm, chớp và đá. • Tại sao lại một Phật mẹ và năm Phật con, chúng ta không rõ. Nhưng cũng có thể đây là biểu tượng của văn hóa âm dương ngũ hành đã có trong văn hóa Việt Nam từ trước. Mẹ cha là âm dương và 5 con là ngũ hành – kim mộc thủy hỏa thổ. • Cây trượng sư Già La Đồ Lê tặng Man Nương là biểu tượng của Phật pháp, tương tự như cây gậy của Chử Đồng Tử, của thiền tổ Bồ Đề Đạt Ma, và của Phật Di Lặc và mà ta đã nói đến trong Truyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử. • Chùa Pháp Vân, còn gọi là Chùa Dâu, Diên Ứng Tự, hay Cổ Châu Tự, hiện nay vẫn còn ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là ngôi chùa được đánh giá là xưa nhất Việt Nam. Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi, chùa Dàn thờ Pháp Điện, và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ các nữ thần. Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. (Trần Đình Hoành bình)1 like
-
Quán vắng!
Red Hat liked a post in a topic by Thiên Sứ
11/9: Chuyến bay duy nhất cất cánh sau khủng bố Cập nhật 10/09/2011 06:10:00 AM (GMT+7) Sau khi các máy bay bị không tặc đâm vào tòa tháp đôi ngày 11/9/2001, tất cả giao thông đường không ở Mỹ bị đình lại ngoại trừ một chuyến bay được phép cất cánh. Đó là vấn đề sống chết. Hình ảnh đáng kinh ngạc về tưởng niệm 11/9 Mỹ công bố băng ghi âm nỗi khiếp đảm 11/9 10 năm vụ 11/9 - những hình ảnh choáng váng Chuyến bay duy nhất được phép cất cánh trong ngày 11/9 sau khi Mỹ bị tấn công khủng bố kinh hoàng là một chuyến bay xuyên đất nước nhằm cứu mạng một người đàn ông. Vài giờ sau khi các vụ tấn công khủng bố diễn ra ở New York và Washington, Lawrence Van Sertima, người huấn luyện rắn 40 kinh nghiệm, đã bị rắn cắn lần đầu tiên. Sertima huấn luyện một con rắn Taipan, một trong những loại rắn độc nhất thế giới, nhưng con vật bất ngờ trở nên bất hợp tác và cắn vào ngón tay cái của người đàn ông này. Sertima biết mình đã gặp rắc rối. Do toàn bộ các chuyến bay bị đình lại, ông không thể tới được bệnh viện bằng trực thăng. Để tới bệnh viện Baptist ở Miami mất khoảng 40 phút. Nọc độc của loại rắn đặc biệt này tấn công vào máu, cơ, thận và tim. Một trong những tình huống tồi tệ nhất diễn ra. Chỉ trong vòng vài giờ, Sertima rơi vào tình trạng nguy kịch và máu sẽ trào ra từ mắt và miệng người huấn luyện rắn này. Đơn vị cứu hộ Miami có một nhóm chữa rắn cắn tên là Nọc độc 1. Họ có 5 lọ nhỏ thuốc chữa rắn cắn nhiều hóa trị, chữa mọi loại rắn cắn. Loại thuốc này có thể cứu sống Sertima. Ông này cần thuốc chữa rắn cắn hóa trị 1, được làm từ nọc độc rắn Taipan càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, không may là chỉ có 2 nơi giữ bảo bối này, đó là ở New York và San Diego. Cơ hội để máy bay được phép cất cánh và bay tới New York là rất hiếm, do đó, họ thử San Diego. FAA ở Washington đã cấp phép cho chuyến bay cất cánh nhưng phải được 2 chiến đấu cơ đi tháp tùng. Trong vòng 45 phút máy bay hạ cánh, thuốc chữa rắn cắn được cung cấp. Van Sertima hồi phục và chỉ biết thông tin về các vụ tấn công khủng bố vài ngày sau đó. Hoài Linh (Theo BI, Secrets) ================================ Một con người có hành vi nhân bản chắc không có gì lạ. Nhưng cả một đất nước trong một tình trạng tồi tệ nhất vì khủng bố mà cố gắng cứu một con người nếu có thể thì xứng đáng là một nước hùng mạnh nhất hành tinh.1 like -
Nét Việt
Whisper liked a post in a topic by Thiên Sứ
5 cây thị cổ được trả giá 7 tỷ đồng Thứ bảy, 9/7/2011, 09:49 GMT+7 Gốc cây lớn, nhiều người ôm không xuể, thân xù xì với những hốc rỗng vài người ngồi lọt, quả thị to nặng tới một kg. Có đại gia đã trả giá 7 tỷ đồng cho cả 5 cây, nhưng chủ nhân nhất quyết không bán. Rừng lộc vừng 500 tuổi ở Huế Ông Lê Minh Thưởng, hậu duệ đời thứ 16 của họ Lê ở xã Nghi Thịnh (Nghi Lộc, Nghệ An), chủ nhân của 5 cây thị cho biết, theo gia phả, cách đây hơn 600 năm, một trận đại hồng thủy cuốn phăng các làng mạc, biến vùng đất ven biển xứ Nghệ này thành một bãi cát trắng. Trên bãi cát bạc màu ấy, 5 cây thị vẫn tươi tốt. Vào thế kỷ 15, một lần dẫn quân đi đánh giặc ngoại xâm, đô đốc Lê Văn Hoan dừng chân ở vùng đất trên, buộc voi vào 5 cây thị vừa để tuyển quân, vừa nghỉ ngơi. Đô đốc Lê Văn Hoan ăn thử một quả thị thấy rất ngọt. Sau lần đó, đoàn quân của đô đốc thắng lớn, Lê Văn Hoan được phong chức Đại nguyên soái Lê Quý Công. Mỗi lần vào thăm 5 cây thị ở vùng đất này, đoàn quân đánh giặc đều giành chiến thắng. Thấy lạ, nguyên soái đã để một số con cháu ở lại để sinh cơ lập nghiệp rồi lập miếu thờ 5 cây thị. Từ đó, con cháu họ Lê sinh sôi, phát triển và trở thành một trong những dòng họ lớn trong vùng. Cây thị Nu nằm ở góc vườn nhà ông Thưởng. Ảnh: Nguyên Khoa. Cũng theo gia phả và nhiều bậc cao niên trong làng kể lại, 5 cây thị cổ này chính là nơi mà đoàn quân của vua Quang Trung đã cột voi trong lần hội quân trước khi ra Thăng Long đánh tan quân Thanh năm 1789. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, 5 cây thị cũng là chứng tích lịch sử. Cụ Nguyễn Văn Nam, 80 tuổi ở xã Nghi Thịnh cho biết, từ nhỏ cụ và các bạn đồng lứa đã ngồi chơi dưới những gốc thị khổng lồ. Đến mùa quả chín, khắp làng trên, xóm dưới đều đến hái quả ở cây thị này. “Nạn đói quay quắt năm 1945 đã khiến nhiều người chết, tuy nhiên nhiều người dân vùng biển đã sống nhờ vào quả của những cây thị già này”, cụ Nam khẳng định. Khi giặc Mỹ ném bom bắn phá, vùng biển Nghệ An là một trong những vùng trọng điểm. Khi đó, một đơn vị phòng không của quân khu 4 đã đóng trong vườn nhà ông Thưởng. Ở dưới mỗi gốc thị là một căn hầm lớn, có giao thông hào thông nhau. Một số cây thị lớn được người dân và bộ đội khoét rỗng để làm bếp nấu và trú bom. “Chỉ huy phòng không của quân khu 4 từng ngồi trong hầm cây thị này để chỉ huy bắn hạ nhiều máy bay địch. Hàng chục đoàn quân khi vào Nam chiến đấu đã đi qua những hầm hào của 5 cây thị già”, một cựu chiến binh ở xã Nghi Thịnh cho biết. Trong suốt những năm chiến tranh gian khổ và cả sau đổi mới, 5 cây thị già bị nhiều người quên lãng. Năm 2006, một đoàn khách du lịch khi đi nghỉ ở Cửa Lò đã vào thăm 5 cây thị cổ của dòng họ Lê. Sau một hồi xem xét những khối u sần sùi, những cái hốc đen ngòm của 5 cây thị, một đại gia đã trả giá cây nhỏ nhất 30.000 USD, cây to giá cao hơn. “Tính ra tiền Việt lúc đó hơn 3 tỷ đồng, nếu tôi bán thì họ sẽ mang tàu biển vào cập cảng Cửa Lò rồi chở cây đi. Đến lúc đó, con cháu họ Lê mới biết dòng họ mình đang giữ bảo vật”, ông Thưởng cho biết. Sau nhiều lần tìm đến mua cây thị, nhưng không có kết quả, vị đại gia nọ đã nâng giá lên 7 tỷ đồng cho 5 cây nhưng ông Lê Minh Thưởng kiên quyết không bán vì “đây là báu vật của tổ tiên, là nguồn mạch phát triển của cả dòng họ”. Ông Thưởng bên cạnh gốc của một cây thị cổ. Ảnh: Nguyên Khoa. Năm 2007, những cây thị già của ông Thưởng được đưa vào chương trình “Chuyện lạ Việt Nam”, từ đó nhiều đoàn khách đã tới thăm, nhiều đại gia ở Nam Định, Quảng Ninh, Hà Nội đã tìm vào đòi mua nhưng ông cũng không bán. Năm 2010, một đoàn nghiên cứu về cây của Hội Bảo vệ thiên nhiên Việt Nam đến phân tích, thu mẫu và kết luận những cây thị này có tuổi đời gần 600 năm. Trong số 5 cây thị ở 5 góc vườn nhà ông Thưởng, cây lớn nhất được gọi là thị Nu. Gốc thị lớn 9-10 người ôm mới xuể, rễ thị cắm sâu vào lòng đất, chạy khắp cả khu vườn. Cũng như những cây khác, thân của cây thị này chi chít những hốc, những khối u sần sùi, da mốc meo với nhiều loại cây tầm gửi trong đó có cả hoa phong lan sinh sống. Mặc dù đều là những cây thị cổ nhưng mỗi cây lại có đặc điểm riêng. Cây thị Nu có quả rất lớn đến gần một kg. Sở dĩ được gọi là thị Nu bởi khi hái xuống thì chưa thể ăn ngay mà phải dấm đến vài ngày mới ăn được. Cây thị lớn thứ hai trong vườn gọi là thị Hồng, có quả chín màu hồng. Một cây khác gọi là thị bần, quả nhỏ, không có hạt và ăn rất thơm. Cây khác được gọi là thị Chàm… Cả 5 cây thị đều bị khoét rỗng ở phía trong với những vết cháy đen ngòm do việc nấu bếp bí mật và những căn hầm dã chiến trong chiến tranh, nhưng ở ngoài vỏ, những cành non mơn mởn cứ tiếp tục đâm chồi mạnh mẽ. “Dù đã rất già cỗi nhưng 5 cây thị là bảo vật thiêng liêng vô giá, là mạch sống của tổ tiên. Một số năm, các cây thị khác trong vùng có thể mất mùa nhưng cả 5 cây thị này đều trĩu quả. Ở tuổi gần đất, xa trời, ước mong lớn nhất của tôi và của nhân dân trong vùng là những cây thị này sẽ sớm trở thành cây di sản Việt Nam, con cháu sau này sẽ tiếp nối truyền thống cha ông, tiếp tục gìn giữ”, ông Lê Minh Thường vừa ôm lấy hốc cây thị già vừa nói. Đại diện chương trình Cây di sản Việt Nam thuộc Hội Bảo vệ Thiên nhiên & Môi trường Việt Nam cho biết, mặc dù các chuyên gia của hội đã biết đến 5 cây thị hiếm có này, tuy nhiên hội vẫn chưa nhận được đơn đăng ký cây di sản của ông Thưởng. Sau khi nhận được đơn, Hội sẽ lập đoàn kiểm tra, thẩm định để công nhận 5 cây thị là cây di sản Việt Nam. Hà Nguyên Khoa 5 cây thị cổ Cả 5 cây đều có đường kính lớn, được xác định tuổi thọ 600 năm với nhiều thế đứng nằm ở 5 góc vườn. Gốc những cây thị sần sùi, vỏ mốc trắng. Trên mỗi cây thị có rất nhiều hốc rỗng. Phía dưới gốc các cây thị đều bị khoét rỗng từ thời chiến tranh để làm bếp nấu và hầm tránh bom. Có những hốc cây rất rộng, đến vài người chui lọt. Phía trong những hốc cây thị đều bị đốt cháy đen vì khói bếp. Mỗi cây có một tư thế khác nhau nhưng cây nào cũng có nhiều cành, nhiều u sần sùi. Nhiều rễ nổi trên mặt đất được những lớp rêu xanh bao bọc, chạy khắp các góc vườn. Trên thân cây thị có rất nhiều loài tầm gửi sinh sống trong đó có cả hoa phong lan. Những cành thị lớn mọc trên các gốc cây khổng lồ vươn lên che bóng khắp khu vườn. Trận bão năm 2010 khiến một số cành thị bị gãy… Nhưng ngay dưới cành bị gãy và hốc cây sần sùi là những chồi thị non đang mọc. Nguyên Khoa1 like -
Cháu cảm ơn chú Huyencodieuly đã luận giải giúp lá số cho cháu. Cháu xin phản hồi thông tin để chú kiểm chứng ạ - Về ngoại hình thì cháu thấp bé, bị cận thị nặng (6 đi-ốp), cháu thích làm những công việc cần sự tỉ mỉ - Dễ hoà đồng với mọi người. - Cháu sống ở miền nam từ nhỏ, hiện nay cháu sống tại HN, cuối năm nay cháu lập gia đình, anh này sống tại HN. Như vậy cũng tính là lấy chồng xa chú nhỉ? - Cháu hiện đang làm hành chính trong một cơ quan nhà nước, cháu khá may mắn trong cuộc sống. - Cháu chỉ yêu một người và sẽ lập gia đình vào cuối năm, cũng khá vất vả bước đầu vì gia đình phản đối. Anh này tính gia trưởng, khó tính. Bọn cháu rất hay cãi nhau vặt chú ạ. Cháu phải nhường nhịn nhiều. - Hồi nhỏ cháu rất hay ốm nặng, do sốt. Năm lớp 11, cháu bị ngã xe máy, bị gẫy răng cửa :mellow: , tay chân có nhiều sẹo. Ngón tay thứ 4 cũng hơi có tật do bút viết đè lên, trông méo hơn rất nhiều so với các ngón khác. - Bên ngoại nhà cháu các bác cũng phải đi mổ vì hẹp van tim, cháu sẽ cẩn thận và thăm khám thường xuyên theo như chú đã dặn. Thưa chú, cháu muốn hỏi thêm chú một việc, hiện tại công việc của cháu tuy ổn định nhưng lại xa nhà, liệu cháu có cơ hội đi học và làm tiếp chuyên ngành đã được học không ạ hay vẫn tiếp tục làm việc tại cơ quan hiện tại (trái ngành)? Hay là học thêm bằng kế toán thì công việc sẽ thuận lợi hơn ạ? Cháu cảm ơn chú rất nhiều!1 like
-
Phản hồi bài viết ''Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?'' 09:10:05, 26/07/2004 báo Thanh Niên Hiện nay tôi đang là nghiên cứu sinh tiến sỹ thuộc đại học Oxford, Vương quốc Anh. Tôi tình cờ đọc được bài ''Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?'' của tác giả Nguyễn Thiếu Dũng về việc chứng minh nguồn gốc của Kinh Dịch. Tôi rất lấy làm vui mừng vì đã có những nhà nghiên cứu để tâm đến điều này.Những ngày còn học đại học, tôi đã có thời gian theo học võ thuật với một vị võ sư về võ Việt Nam (xin lưu ý đây không phải là Vovinam - Việt võ đạo). Môn phái được đặt tên là Huỳnh Long Tây Sơn. Khi tôi học đến giai đoạn trở thành huấn luyện viên thì được vị võ sư cho về nhà để dạy lý thuyết tập nội công và các đồ giải về huyệt đạo. Vị võ sư tên là Huỳnh Đức Thọ, nguyên là Thư ký Liên đoàn Võ cổ truyền TP Hồ Chí Minh. Theo ông, hệ thống huyệt đạo cũng như các lý thuyết về Kinh Dịch, về các bản Lạc thư và Hà đồ cũng như các can, chi đều xuất phát từ dân tộc Việt và có rất nhiều điểm khác so với giải thích của người Trung Hoa. Các hệ thống huyệt đạo và kinh mạch cũng hết sức rõ ràng và được phân bố rất có qui luật chứ không rối rắm như đồ hình của người Trung Hoa. Tôi không có thời gian để theo học ông lâu, nhưng biết rằng ông đang nắm giữ rất nhiều tài liệu gia truyền lâu đời giải thích về các lý thuyết liên quan đến Kinh Dịch cũng như nguồn gốc của Kinh Dịch (xin lưu ý rằng theo lý thuyết được xây dựng từ Kinh Dịch mà việc con người có thể phát nhân điện đo được qua các thiết bị đo là do luyện tập mà nên, không phải do khả năng kỳ lạ bẩm sinh. Vị võ sư này đã từng sang Italia biểu diễn và cho các bác sĩ đặt máy đo khi ông vận công phát nhân điện). Tôi viết bài này mong tòa soạn giúp cho tác giả bài viết về Kinh Dịch có thông tin để tìm đến trao đổi với vị võ sư ấy. Tôi rất kỳ vọng tác giả sẽ có được những thông tin bổ ích nhằm giúp cho chúng ta có cơ hội khôi phục lại những gì dân tộc Việt đã bị mất và giữ vững được sự độc lập không chỉ về lãnh thổ mà còn về nền văn hoá tinh hoa của ông cha ta để lại. Nguyễn Sỹ Lâm1 like
-
KINH DỊCH, DI SẢN SÁNG TẠO CỦA NGƯỜI VIỆT NAM? 16:40:40, 06/07/2004 báo Thanh Nien Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Kinh Dịch, trong số đó có một công trình đặt lại vấn đề " tác quyền" của bộ Kinh này. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều tìm tòi và nghiên cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam. Với sự thận trọng cần thiết, Thanhnien Online xin giới thiệu bài viết sau đây của học giả Nguyễn Thiếu Dũng để rộng đường tham khảo. Từ hai nghìn năm trước khi chúng ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá Việt Nam, nhờ thế trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam. Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã tiếp thu được Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận mình học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng. Trong vòng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn. Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch. 1) Chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một nghìn năm trước khi có mặt tại Trung Quốc: Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên mình nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió hòa, mong sao được sống một đời an bình không có họa thuỷ tai. Lôi Thuỷ Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hoá Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: ”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng hiện nay chúng ta đã có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hoá Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP (Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 + 80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93). Nếu tin vào các niên đại C14 này thì giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên... tương đương với văn hoá Thương ở Trung Quốc, thậm chí với giai đoạn sớm của văn hoá này (1, tr 578-579). Về phía Trung Quốc, tuy theo truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Quốc tạo ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này. Triết gia đầy uy tín của Trung Quốc Phùng Hữu Lan đã khẳng định trong Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch. Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là trên sách Tả Truyện thời Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đã có khắc hình quẻ Lôi Thuỷ Giải bằng 6 dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rõ ràng Kinh Dịch đã có ở Việt Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Quốc Kinh Dịch đã có ở nước ta trước Trung Quốc cả nghìn năm. Chuyện này chẳng khác chi chuyện tổ tiên ta đã biết trồng lúa nước nghìn năm trước Trung Hoa mà Trần Trọng Kim vẫn viết trong Việt Nam sử lược là người Trung Hoa có công dạy dân ta làm ruộng. 2) Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Quốc: Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Quốc muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được ghi chú rất rõ trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rõ. Tên tám quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên tìm mãi vẫn không lý giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là Lĩ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mã Vương Đôi thì lại ghi là La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rõ ràng đây là cách ghi của hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lĩ (Ly), một người lại ghi là lủa (La). Còn người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa thì lại dùng chữ lã làm âm. Cả ba âm Ly, La, Lã đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là lìa hay là dựa như người Trung Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đã dịch đúng nghĩa của nó. 3) Chứng lý đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu một hình đồ trọng yếu, trong khi hình đồ này đang được cất giấu tại Việt Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch. Đồ tượng và quái tượng (quẻ) là những hình tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch. Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để hình thành Kinh Dịch. Đọc Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ý đến Đồ là một thiếu sót đáng tiếc vì như thế là đã bỏ qua quá nửa phần tinh tuý của Dịch. Những ứng dụng quan trọng của Dịch đa phần đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Quốc thời kỳ phong kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong thuỷ, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Võ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng danh của Trung Quốc đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch thì phải có ba Đồ chính là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai nghìn năm nay, Trung Quốc chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung Hoa tuyệt nhiên không tìm ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay, rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đã có Tiên Thiên Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của Dịch học Trung Quốc mà cũng là cái may lớn nhất cho ta để từ chỗ sơ hở này ta tìm ra chứng lý quan trọng nhất, quyết định nhất để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ, một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy thì ai là chủ nhân Kinh Dịch? Câu hỏi đã được trả lời, bí ẩn hai nghìn năm đã được trưng ra ánh sáng. Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam. Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý: a) Con người sinh lý: Quẻ Càn tượng cho bán cầu não phải, Quẻ Khôn tượng cho bán cầu não trái. Khi một người bị tai biến mạch máu não ở bán cầu phải thì tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. Vì Càn thuộc dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và vì tay trái đã dương thì chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly âm. Trái lại, bán cầu não trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), trình bày năm 1986 tại hội nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải - trái trong nhân thể (2, tr 117). Hình đồ cũng thể hiện được y lý Đông Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận (Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác đã phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả. Con người siêu lý :wacko: Con người siêu lý: Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên. Con người đạo lý c) Con người đạo lý: Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích luỹ như núi (Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thuỷ tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạt được cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo). 4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn gọi là Thuỷ có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hoả có tượng là lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc). Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ. Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thuỷ phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thuỷ) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ. 5) Vai trò Trung Thiên Đồ trong việc hình thành văn bản Kinh Dịch: a) Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh, 32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nhìn vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm Dịch đã sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm, quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế số 63 và Hoả Thuỷ Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thuỷ giao hoán với quẻ Ly Hoả tạo thành. Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch, vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người thì khác, con người là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật. :wacko: Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc khi giải thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13 "Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xã hội nên hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh thành nếu muốn đồng thì nên tìm người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy thì không sát nghĩa và không đúng với lập ý của người làm ra Kinh Dịch. Có lẽ vì người Trung Quốc trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ đã bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn mình ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, tha nhân, vì thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lý thuộc tài thiên), tức là ở mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía Nam) thì không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá trình công phu trãi nghiệm của hành giả đã hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng đẳng công phu. c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, thì sẽ cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi thì khó khăn sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm thì càng bế tắc cùng đường. Đi ở phải hợp lý vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng thì mới có thể vượt qua kiển nạn,vì vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr 907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải như vậy không thể khớp với Dịch lý, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, hình tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người khơi dòng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông, Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền chặc). Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc thì quẻ của hai đồ hoàn toàn ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) thì ở Trung Thiên Đồ lại là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rõ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, vì không chính xác. Chỉ có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển. Trong khi đó lời hào ba quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam, Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng thực lời đó, đã hai lần chúng ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn còn là lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi. 6/ Kết luận: Chúng ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì ngườI đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Quốc đã sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong nhiều quẻ Dịch. Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được. Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Từ truyền thuyết này có thể tìm lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ còn được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả bài này sẽ công bố sau. Chúng tôi còn nhiều minh chứng khác để kiện toàn chứng lý cho kỳ án này. Không còn nghi ngờ gì nữa, Kinh Dịch chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt Nam. Sách tham khảo * Vũ Quỳnh - Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, Văn học, Hà Nội, 1990. * Nguyễn Hoàng Phương: Tích hợp đa văn hoá Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai, Giáo Dục, Hà Nội, 1995. * Trương Thiện Văn: Từ Điển Chu Dịch, bản dịch, Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1997. * Nguyễn Thiếu Dũng: Một phát hiện mới về Kinh Dịch: Trung Thiên Đồ,Thông tin khoa học ĐH DL Duy Tân tháng 05/1999 * Nguyễn Thiếu Dũng: Con đường Tây Nam, Thông tin khoa học Đại Học DL Duy Tân, tháng11/1999. * Nguyễn Thiếu Dũng: Chúng ta có một di sản hàng đầu thế giới Báo Lao Động, Trang miền Trung & Tây Nguyên số 32/99, ngày 13/12/1999. * Nguyễn Thiếu Dũng: Văn Lang cội nguồn Kinh Dịch, Khoa học & phát triển số 67, năm 2000. * Nguyễn Thiếu Dũng: Những con số ở vùng đất Tổ, Xưa & Nay,73b, tháng 03/2000. * Hồ Trung Tú: Dịch học sáng tạo của người Việt cổ, Tia Sáng, Xuân Nhâm Ngọ 2000. * Nguyễn Thiếu Dũng: Nhìn qua chữ số, Khoa học & phát triển số 74, tháng 3/01. * Hà Văn Tấn: Theo dấu các văn hoá cổ, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1998.1 like