-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 12/09/2011 in Bài viết
-
Thân gửi ACE trung tâm, Hôm nay TT đọc được bài này trên blog phamvietdao, và thấy rất lo ngại. Có lẽ chúng ta nên làm việc gì đó, ít nhất là thống kê các đền, đài, đình thờ các nhân vật thời vua Hùng để mọi người cùng được biết và bảo vệ. Thông tin này có thể tổng hợp dễ dàng trên Internet nếu có người nhiệt tình làm. Trân trọng Thế Trung “ ĐỀN ĐÁ” THỜ 3 VỊ TƯỚNG THỜI HÙNG VƯƠNG Ở NAM ĐỊNH BỊ TRỘM HẾT BÀI VỊ, SẮC PHONG VÀ KIỆU BÁN SANG TRUNG QUỐC? Thưa chú Đào, Tuần trước cháu về quê ăn giỗ: xã Nam Thịnh, huyện Nam Trực, Nam Định. Có tin là đêm hôm trước có trộm vào Đền Đá lấy trộm hết bài vị, sắc phong, kiệu v.v. (chắc phải có ô tô chuyên trở). Dân tình đồn đại rằng những thứ bị ăn trộm này sẽ được bán sang Trung Quốc. Tại xã Nam Thịnh trước đây 1 năm, 1 đền khác cũng bị ăn trộm kiểu này. Cho rằng những lời đồn đại là có thể, cháu tự hỏi: TQ mua những thứ này làm gì? Nếu thực sự là ý đồ của TQ thì có lẽ hậu quả sẽ là khủng khiếp, nhưng tiếc là cháu không thể giải thích được tại sao. Cháu chỉ về có 1 ngày, nên cũng không hỏi được nhiều thông tin thêm nữa. Kính mong chú chỉ giáo. Nếu chú quan tâm, cháu xin được dẫn bác về quê thu thập chứng cứ, hoặc số ĐT của xã hoặc người thân để chú liên lạc và để biết thêm thông tin. Đây là thông tin vắn tắt về Đền Đá: "Đền đá: thôn Nam Hà, xã Tân Thịnh huyện Nam Trực, thờ 3 vị tướng thời Hùng Duệ Vương. Tương truyền xưa có ông Vũ Sơn người Châu Ái (Thanh Hóa) chuyên làm thuốc và dạy học, bỏ quê hương tìm đường sinh sống. Khi đến làng Kim Âu, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường, nay là xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực thấy phong cảnh hữu tình, dân cư đông đúc đã xin ở lại làm ăn. Ông lấy bà Hoàng Thị Loan người địa phương, sau sinh được hai người con đặt tên là Gia Sửu và Chính Ngọ. Bà Loan mất sớm, ông Vũ Sơn lấy bà Trần Thị Thịnh để có người nuôi dậy 2 con. Bà Thịnh sau sinh ra Vũ Uy. Ba anh em được cha mẹ cho ăn học chu đáo. Sau khi ba mẹ qua đời ba anh em ra đầu quân,được vua Hùng Duệ Vương yêu quý phong cho làm tướng. Quân Thục sang xâm chiếm, ba ông đã về làng Kim Âu mộ thêm binh lính để đi chiến đấu. Sau khi thắng trận, ba trở về quê hương chia Kim Âu thành ba làng là Võ Lao, Thượng Lao và Nam Hà và chia nhau mỗi người một làng; chuyên dân chăm lo việc nông tang, lấy cấy lúa làm đầu dựng nhà dậy học cho con em trong làng. Sau khi mất dân làng lập đền thờ các ông. Đền đá xã Tân Thịnh là một kiến trúc độc đáo thời Hậu Lê trên đất Nam Định…”(http://www.namdinh.gov.vn/Home/Canhquandulich/2006/71/Dinh-den-tho-cac-nhan-vat-thoi-Hung-Vuong.aspx) Về thông tin Đền Đá:Đình, đền thờ các nhân vật thời Hùng Vương8:54' 30/8/2006(Địa chí Nam Định) Đình Sùng Văn: xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc, thờ Linh Lang đại vương, một vị tướng thời Hùng Vương. Thần tích kể, Linh Lang con ông Triệu Hỏa làm quan dưới thời Hùng Duệ Vương tại đất Sơn Nam, lấy bà Phạm Thị Tư người làng Đồng Thời, nay là thôn Sùng Văn, xã Mỹ Thuận4 likes
-
Thế Trung và anh chị em thân mến. Truyền thuyết và lịch sử của một dân tộc chính là những yếu tố rất quan trọng cấu thành nên những giá trị văn hóa (Ở Việt tộc là văn hiến) của từng dân tộc. Sự phá hoại văn hóa dưới mọi hình thức là điều kinh tởm nhất trong lịch sử văn minh nhân loại. Những giá trị của văn minh nhân loại hiện nay chính là sự tổng hợp những thành tựu của quá khứ. Trong thế chiến thứ II, khi quân Đức tấn công thành Paris, người Pháp rút lui bỏ ngỏ thủ đô cho quân Đức chiếm đóng. Tôi nghĩ họ đúng trong hoàn cảnh của họ. Vì như vậy những giá trị văn hóa Pháp từ hàng trăm năm trước sẽ không bị tàn phá bởi chiến tranh khốc liệt. Người Pháp với sự hỗ trợ của Đồng Minh đã chiến thắng. Di sản lịch sử của họ còn nguyên. Hítlle khi gần tới giai đoạn cuối của chế độ Phát xít đã phát toàn những bản nhạc của Beethoven. Điều này có ý nghĩa gì? Ông ta muốn chứng tỏ với dân tộc Đức rằng: Ông ta đang bảo vệ những giá trị văn hóa Đức và qua đó ông ta mong muốn những người dân Đức tiếp tục chiến đấu để bảo vệ chế độ của ông ta. Chính phủ Trung Hoa lục địa bỏ ra ba triệu Dol để mua một cái mũ của ông quan đời Đường, cũng cghỉ muốn chứng tỏ sự kế tục truyền thống và đang bảo vệ văn hóa dân tộc.Đủ hiểu những giá trị văn hóa sử quan trọng như thế nào. Nhưng những giá trị văn hóa của Việt tộc trải hơn 1000 năm Bắc thuộc đã bị Hán hóa - Một ngàn năm không phải con số đọc trong một giây - Bởi vậy, văn hóa Việt gần như bị xóa sổ. Những gì còn lại sau vài trăm năm hưng quốc vào thế kỷ thứ X lại bị hủy diệt một lần nữa vào thời Minh Tuyên Đức với đội quân xâm lược của Trương Phụ. Bởi vậy, việc bảo vệ những giá trị văn hóa còn lại là điều rất quan trong với một dân tộc như dân tộc Việt chúng ta.. Văn hóa các dân tộc quan trọng như thế nào thì đối với dân tộc Việt cũng quan trọng như thế ấy. Nhưng với một dân tộc duy nhất trên thế giới xưng danh văn hiến, ắt phải có ý nghĩa của nó. Văn hiến Việt đang cất giữ những bí ẩn lớn nhất của một nền văn minh toàn cầu một thời hoàng kim trên trái Đất này, tôi khẳng định như vậy và chịu trách nhiệm với lời nói của mình. Do đó, việc bảo vệ những giá trị văn hiến Việt rất quan trọng , không chỉ với Việt Nam , mà còn của cả thế giới trong tương lai. Bởi vậy, hy vọng anh chị em cùng chúng tôi cố gắng, chụp ảnh, ghi chép, lưu giữ tất cả những giá trị văn hóa Việt. Kể cả những phong tục tập quán cổ để tiếp tục làm tài liệu nghiên cứu cho thế hệ sau, trong hoàn cảnh những di sản văn hóa ngày càng bị lụi tàn theo thời gian và nhân tai. ============================== PS: Khi sưu tầm văn bản truyền thuyết, huyền thoại, mong các bạn sẽ không xa đà vào nội dung văn ngôn mà hiểu nhầm lịch sử. Thí dụ cụ thể trong câu chuyện trên, có đoạn viết như sau: Như vậy với đoạn văn này xác định không gian thời Hùng Vương ở ngay Thôn Sùng Văn, xã Mỹ Thuận. Nhưng thực ra, đây chỉ là do ông cha ta lấy địa danh hiện tại phục cổ mà thôi.Tóm lại, khi giống nòi Việt tộc rút lui xuống phương Nam, nên những thần tích, thần phả ngày xưa lấy ngay tên đất cũ đặt cho vùng đất mới làm kỷ niệm. Cũng giống như trên đường Trường Sơn ngày nay, có rất nhiều tên đường lấy tên: Yên Bái, Lam Sơn, Hồng Hà....vv....Nhưng không có nghĩa là đường Trường Sơn nổi tiếng trong lịch sử, chính là đường Trường Sơn ở sân bay Tân Sơn Nhất bây giờ. Bởi vậy, nếu trong nghiên cứu mà sa dà vào nội dung văn ngôn trong truyền thuyết huyền thoại thì chính là phương pháp phi khoa học. Bởi vì: Nếu xác định văn ngôn là chính xác với lịch sử - thì đồng đẳng với phương pháp ấy phải xác định những huyền thoại là có thật. Điều này vô lý. Tóm lại cội nguồn Việt sử một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Trường Sa và Hoàng Sa đương nhiên là của Việt Nam. Vì sau khi hưng quốc , người Việt tiếp tục cai quản đất này.2 likes
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
1 like
-
7. PHÉP BÍ MẬT DẠY CÁCH XEM GIÓ TÁM HƯỚNG * Thứ nhứt: Gió dữ sắc đỏ : Nếu trong nưởc có hiền thần bị tù-tội, thì người ấy thình-lình thấy sắc đỏ hiện lên khắp mặt. Bỗng dưng trời đất biến ra hồng Hiền-sĩ bất ngờ vuớng ngục gông Kỳ-hạn không ngoài trăm ngày tới Nước chia hai xứ quyết tranh hùng * Thứ hai: Gió bắc sắc vàng : nhìn không thấy người, ắt có trung-thần bị tội chết : gió từ hướng bắc thình-lình thổi tới làm cát bụi sắc vàng tung bay là đó vậy : Bỗng dưng trời đất biến ra vàng, Tất có trung thần phải chết oan, Hạn tới không ngoài ba tuần nhật, Bốn phương yêu quái khởi làm càn. * Thứ ba: Gió sắc đen : Hoặc ban đêm hoặc ban ngày, trời quang tạnh mà mặt trời, mặt trăng và các sao vẫn không sáng, gió ấy bỗng thổi đến làm cho trời đất u ám ; trong vòng 300 ngày (10 tháng) sẽ có mọi-rợ miền nam và miền đông xâm-lấn biên giới. Gió đen bỗng thổi giũa trời quang Trời đất sao trăng phải tối-tăm Trăm ngày chưa tới là kỳ-hạn Man ải ắt khởi cuộc xâm lăng ! * Thứ tư: Gió giết giặc : (sát tặc phong) : Hoặc tại bản-dinh hoặc ở giữa trận, gió làm cho nhành reo, cây gãy, chốc chốc lại thổi, phầng kè ngày đêm, mỗi ngày đi được ba mươi dặm. Giữa trận tùy thời ta hay theo Nhành rung cây gãy, gió kêu gào Ba quân gấp tiến theo chiều gió, Gặp thời giao-chiến, lập công nhiều ! * Thứ năm: Gió dữ thừa lệnh quỷ-thần (thần lệnh ác-phong) : Bỗng thấy gió ẩy uyển~chuyển thồi tới luôn cả ngày đêm. Giữa ngày bỗng nổi gió thần-phong, Nhổ trại, cầm thương tất gặp hung, Trước đường khòng quá muời dặm đất, Phải phòng bên địch phục binh-hùng ! * Thứ sáu: Gió làm bại binh : (Bại binh-phong) : Hoặc mau hoặc chậm, thồi ngược tới trước mặt ta, chốc chốc lại thổi, trận này kbó định : Dàn binh bỗng thay gió bại binh, Rát mặt bụi mù gió lớn kinh. Ba quân truyền lệnh lui binh-mã Giao-chiến thời này ắt hại mình ! * Thứ bảy: Gió nóng ác hại (ác-noãn-phong) : Gió nóng như lửa xuyên qua người, đang yên-ồn bỗng nổi lên, về mùa đông cũng chảy mồ-hôi, trong bụng hơi nóng trong vòng trăm ngày thiên-hạ sẽ đổ máu. Bỗng trận cuồng-phong thổi nướng người Nóng ran sĩ tốt đẫm mồ hôi Trăm ngày chưa tói, phòng đánh lớn Máu đổ xương rơi ắt loạn rồi ! * Thứ tám: Gió mưa ác hại (Thủy-ác-phong) : Gió phá-hoại tới ruột xương người đang yên-lặng bỗng gió thổi tới vùn vụt, lạnh buốt như sương tuyết, sĩ-tốt không mở mắt ra được Binh-mã phải giải-tán, chắc-chắn sẽ thua. Lạnh thấu ruột xương, ấy thủy-phong, Thuyền, cầu thủy trận cũng toi công, Ba quân truyện lệnh không nhìn rõ Binh phục bên đường. phải khá phòng . 8. PHÉP XEM GIÓ LÀNH : Khi có gió lành (báo điềm lành) thì ngày trong sáng, hơi gió hòa-nhã ; theo phần ngày nào, phần tháng nào, phần giờ nào, hoặc theo phương sinh-khí nào mà tới thì lòng người vui đẹp, nước được điều tốt lành. Về ngày, âm đương là điều bí-yếu: các ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc về hướng phần dương ; các ngày ất, binh, kỷ tân, quí thuộc về hướng phần âm. Hướng quí là hướng dương. 9. PHÉP XEM GIÓ DỮ : Khi có gió báo nạn dữ thổi tới, thì ngày đó nặng nề u-ám, khí trời tối-tăm, bế-tắc, tiếng gió gào thét như là giận-dữ, cát bay lá rụng, gió theo phương dữ mà thổi đến. Nên gấp lo việc binh-bị để giữ kỹ, thế nào cũng có giặc tới. 10. PHÉP BÍ MẬT XEM CHÍN THỨC MÂY: * Thứ nhất: Trời có sắc xanh biển : Trời mờ-mit, hỗn-độn, xanh thẩm, thấy mặt người cũng có màu xanh ắt là giặc tây nhung xâm-phạm biên-giới, nước trung-ương chẳng được yên-ổn : Thứ nhút, trời xanh thẩm lạ-lùng Đế Vương lên điện hỏi Chu-Công, Hiện ra điềm ấy chừngh nủa tháng, Biên-cương ắt phạm giặc Tây-Nhung. * Thứ nhì: Trời có sắc hồng : Điềm này chủ về việc đại-tướng, hiền-than bị tù hãm, đang yên-ổn mà bỗng đựng sinh ra như vậy Khi sắc hồng ấy hiện ra thì trung-thần bi chết oan. Tự-nhiên trời đất biến ra hồng, Hiền-sĩ không ngờ vướng ngục gông, Ví bằng chẳng có cuồng-phong khởi Trăm ngày hai nước cũng giao-phong * Thứ ba: Trời có sắc vàng : Trung-thần, mưu-sĩ bị chết oan. Nếu dùng chín người để xem-xét sắc trời ấy thì mọi người đều nhận ngay là màu vàng. Đang yên, tròi đất biến ra vàng, Ắt có trung-thần phải chết oan, Máu lan đầy đất trong muời tháng, Yên, Tần, yêu-quái khởi làm càn. * Thứ tư : Trời có sắc đen : Điềm này chủ về việc trong vòng ba trăm ngày sắp tới sẽ có kẻ . âm-mưu làm loạn. Bấy giờ sắc trời u-ám. Đang yên, trời đất biến đen sì Ắt có kẻ nao mưu loạn chi Một tháng mà thôi, cơn loạn lạc Tự -nhiên dập tắt chớ hồ nghi . * Thứ năm : Trời làm sợ hãi vô cớ (sợ hụt) : Trời phát ra tiếng nổ như sấm, bay ra vang dội tới ngàn dặm. Tự-nhiên trời đang quang-đãng mà sinh ra như vậy. Cây có điều hòa lặng-lẽ bao Tiếng vang như sấm tự trời cao Kinh-hoảng không quá ba tuần nhựt Bốn phương cùng khởì việc binh-đao. * Thứ sáu : Trời mở cửa : Nghe tiếng động lan ra giống như tiếng trời mở cửa. Bậc đế-vương đăng đàn bái tướng, trong một trăm ngày lệnh chúa hưng vượng, bèn trước hết dấy binh dẹp luạn. Nếu trong một tuần nhật, cửa trời mở về phương Ngọc-nữ thì có tiếng nổ như sấm nhưng không phải sấm. Một tuần vang dội tiếng nghiêm thanh, Ngọc-nữ phương trời cửa mở nhanh Tiếng vọng xuống trần nghe ngỡ sấm. Trăm ngày chưa tới ắt ra binh, Bỗng dưng phá giặc ngoài biên-cảnh, Hưng lệnh trời ban xuống nước mình, . Để khiến ba quân tùy tướng lệnh, Vua bèn bái tướng mới xuất-chinh. * Thứ bảy : Trời thòng binh khí : Khí mây thòng xuống ở chân trời, như là dao cưa. Nên gấp tiến binh, đánh thì thắng lớn. Mây trời hình:dạng giống cưa dao, Thòng xuống chân trời, giặc bại mau Hướng ấy tuớng binh cùng quyết chiến, Bốn phuơng tám sớ tất hàng đầu. * Thứ tám : Khí trời không điều hòa : Bốn mùa đều trái thời-tiết : Hè làm tiết đông, bắc-phiên phản, Đông làm tiết hè, ắt chinh nam, Thu làm tiết xuân, giặc đông dậy, Xuân làm tiết rhu, giặc tây tràn. * Thứ chín : Trời sinh biến ở hướng càn : Chủ về việc hiền-thần khó trách luận để nhà Vua nghe theo. Mặt trời và mặt trăng khi sắp lặn còn cao một trượng thì có sắc đỏ. Nhật nguyệt máu hườm, biến sắc đây Âm dương có biến, chủ không hay Tư-thiên rõ việc, bàn sai quấy, Ngoài cuộc nói vào xét chẳng sai. 11. PHÉP XEM HAI MẶT TRỜI MỌC KỀ NHAU. Hai mặt trời cùng mọc thì thiên-hạ sẽ động binh, kẻ vô-đạo bị tiêu diệt, hai quân đánh nhau có sức mạnh ngang nhau. Hai mặt trời cùng mọc thì sẽ có đánh lớn, thành-trì bị phá-hoại, đồng nội chia ra nhiều phần mà đánh nhau. Hai mặt trời mọc kề nhau ở nước nào thì nước ấy gặp loạn lớn, nạn dữ . Chất tinh trắng của mặt trời rơi xuống đất xứ nào thì ở xứ ấy bên chủ (quốc-vương, chánh-phủ) phải thất-bại. Dưới mặt trời có ánh-sáng giống như chân chim thì xứ bên phe chủ bị tai-ương, việc binh thất-bại, quân-đội tiêu-diệt. Trong mặt trời có vết đen thì vua tôi chống đối nhau, trăm họ gặp việc xấu. 12. PHÉP XEM CÁC LOẠI NHẬT-THỰC: Dùng phép Hà-Đồ mà xem mặt trời. Các trường hợp nhật thực đều do ở ngày hối (cuối tháng) và ngày sóc (đầu tháng) mà sinh ra nhật thực ; âm dương xâm lấn nhau, đi lạc đường tới ôm nhau, đô gọi là nhật-thực. Nếu ở nơi có nhật-thực, có quan đại-thần âm-mưu làm hại nhà Vua, ắt là mặt trăng đi ngược án trước mặt trời : thiên-hạ sẽ dấy loạn. Mặt trời mới mọc hai sào rồi bỗng dưng không sáng nữa đó gọi là mặt trời bệnh. Mặt trời sắp lặn ở phương tây, còn cao hai sào, bỗng dưng không sáng nữa, đó gọi là mặt trời chết.Trong địa phận nước ấy, bậc vương hầu gặp nạn lớn, các gian-thần đều nổi lên khuấy rối. Nếu mặt trờí đỏ như máu thì tbiên-hạ sẽ có loạn lớn. Mặt trời mới mọc mà bị ăn thì sẽ thua binh, mất thành. Từ giờ ngọ trở về sau mà mặt trời bị ăn thì binh-gia nghỉ việc giao chiến. Vào tháng tám mùa thu mà có nhật thực thì. có việc đao-binh xảy ra và phe khách được thắng. Vào tháng mười hai mà có nhật-thực, điều ấy chủ về việc có binh dấy loạn. Khi nhật-thực mà mặt trời bị ăn hết thì rợ man (phía nam) và rợ di (phía đông) nổii loạn, nên gấp lo việc binh-bị Nguyệt thực xảy ra vào những ngày giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ thì sẽ có việc đao-binh. Nguyệt-thực xảy ra vào những ngày canh, tân, nhâm, quí thì không nên tính tới việc binh. 13. BÀI THƠ MẶT TRĂNG LẠC ĐƯỜNG : Trăng lạc giữa trời, chúa chẳng hay Hậu-cung say đắm may nàng phi, Ba tuần chưa tới binh liền dấy Âm dương sai lạc khiến vong nguy. 14. PHÉP BÍ-MẬT XEM TRĂNG : Mặt trăng mới mọc ma đi về hưởng bắc đó gọi là “cung giương” thì có kẻ âm-mưu vào thành khuấy rối. Nếu mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen chắn ngang như chữ nhất thì trong ngày ấy có mưa. Mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen ở giữa có dạng như cầm thú thì: - nếu vào ngầy giáp ất sẽ có hại về hướng đông; - nếu vào ngày bính đinh, sẽ có hại về hướng nam; - nếu vào ngày mậu kỷ sẽ có hại về nước trung-uơng; - nếu vào ngày canh tân, sẽ có hại về hướng tây ; - nếu vào ngày nhâm quí sẽ có hại về hướng bắc. Trong mặt trăng có sao lọt vào sẽ thua quân, chết tướng. Có mây trắng như rắn rít xuyên qua mặt trăng thì sẽ có tướng chết, quân thua. 15. PHÉP BÍ-MÂT XEM TRĂNG TRÒN KHUYẾT : Mặt trăng giống như tròn nhưng chẳng phải tròn, giống như khuyết nhưng chẳng phải khuyết, lặn mà chẳng lặn, ắt có gian-thần mưu phản. Mặt trăng giống như tròn mà chẳng phải tròn, bờ trên và bờ dưới đều bị khuyết, mọc tại Phù-tang, lặn tại Phù-tang, đó là điềm loạn-thần làm cho nước nhà bại-vong. 16. PHÉP XEM CÁC LOẠI NGUYỆT-THỰC : Binh chưa đánh mà đã gặp nguyệt-thực thì đến khi đánh, binh ấy sẽ được thắng lớn. Binh đang ở trong mà đã gặp nguyệt thực, điều ấy chủ về việc có tai ương. Mặt trăng đang tròn đầy mà bi ăn, điều ấy chủ về việc binh sẽ bị chết ở đồng nội. Mặt trăng bị ăn một bên thì tướng súy và bề tôi không còn giữ đạo. Mặt trăng bị ăn ở phía dưới thì công việc cửa tướng-quân mất phép-tắc, lề-lối. Nguyệt-thực mà có màu xanh thì ngũ-cốc trở nên quí-báu, híếm-hoi, thiên~hạ đói kém. Nguyệt-thực mà có mầu đỏ thì lúc khởi đầu lợi cho pbe khách. Nguyệt-thực mà có màu vàng thì có việc lập chư-hầu thành vương-quốc. Mặt trăng bị ăn hết thì sẽ có quân thua tướng chết. Hai mặt trăng cùng mọc thì thiên-hạ có loạn lớn. Mùa xuân bi ăn về phía đông, mùa hè bị ăn về phía nam,mùa thu bị ăn về phía tây, mùa đông bị ăn về phía bắc thì xứ gặp nguyệt-thực sẽ có điều lo buồn về việc binh. Mặt trăng đang bị ăn mà mọc lên thì chỗ đóng quân bi tổn hại, lại thêm nữa có sự mất mát đồ-đạc, tướng chết, binh tan. 17. PHÉP XEM MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG ĂN NHAU : Nguyệt-thực xảy ra vào ngày dần, ngày mão, thì lúa rẻ, nhândân chiu thiệt-hại, nên khởi binh trước, lợi chủ mà hại khách. Nguyệt-thực xảy ra vào ngày ngọ, ngày mùi, điều ấy chủ về việc có trâu ngựa chết, binh dấy loạn tại phía tây đánh về phía đông. Nguyệt-thực xảy ra vào ngày thân, ngày dậu, trong năm này có khí độc gây ra nhiều bệnh. Nguyệt-thực xảy ra trong ngày hợi, điều ấy chủ về việc thiếu-thốn ngũ-cốc. Nguyệt-thực xảy ra vào ngày tý, ngày sửu, điều ấy chủ về việc đói-kém, loạn-lạc. 18. PHÉP BÍ MẬT XEM ÂM DƯƠNG XÂM PHẠM NHAU : Đường mặt trăng mọc lên và đi theo là: - thanh-đạo về mùa xuân; - bạch-đạo về mùa thu; - xích-đạo về mùa hạ; - hắc-đạo về mùa đông ; - huỳnh-đạo trong bốn tháng 3, 6, 9, 12. Nếu đế-vưong trái đạo thì mặt trời và mặt trăng chạy trái đường, lấn âm, ôm dương, nên gọi là âm dương lấn nhau, thiên-hạ sẽ có loạn lớn. Nếu mặt trăng và mặt trời cùng đi ngang nhau, tbì có quan đại-thần âm-mưu nổi loạn. Nếu hai mặt trăng chọi nhau, điều ấy chủ về việc có hai vua tranh thiên hạ. Nếu mặt trời và mặt trăng chọi nhau điều ấy chủ về việc trong nước có đổ máu, thiên-hạ có loạn lớn. 19. PHÉP BÍ-MẬT XEM ÂM DUƠNG BỐN MÙA : Mặt trời có sắc trắng thì trong vòng chín ngày có rợ tây nhung xâm-phạm biên-giới. Mặt trăng có sắc trắng thì hiền-thần bi lao tù. Mặt trời có sắc đỏ thì có âm-mưu dấy loạn trong. nước. Mặt trăng có sắc đỏ thì loạn âm. Đây là cách xem nhật nguyệt, âm-dương chậy loạn : Mặt trời hè không theo nam-đạo, mặt trời đông không theo bắc-đạo thì trong vòng trăm ngày rợ man. (phía nam), rợ di (phía đông) sẽ xâm-phạm biên-giới. Mặt trăng đi về hướng bắc gọi là mặt trăng trương cung, thì có kẻ âm-mưu vào thành dấy loạn, bên ngoài giặc phiên. sẽ dấy binh xâm-đoạt nước trung-ương. 20. PHÉP BÍ-MẬT XEM SAO THÁI-BẠCH, THẦN-TINH : Sao mai gọi là Thần-tinh, sao hôm gọi là Thái-Bạch đều là một sao. Sao Thái-Bạch bi vầng sáng mặt trăng che khuất, điều ấy chủ về việc tướng súy phải chết. Sao Thái Bạch được mặt trăng chở ở trên, thì trong năm ngày sẽ có dấy binh. Tháng tám ngày mồng ba, sao Thái.Bạch đi sai đường về phía bắc thì sẽ có binh đánh nhau. Sao Thái-Bạch đi về phía bắc thì nước nhỏ rối loạn. Sao Thái-Bạch đi về phía nam thl nước lớn rối loạn. Sao Thái Bạch ở trong mặt trăng cũng được gọi là nguyệt-thực. Sao Thái Bạch là điềm xấu của nhà Vua. Sao Thái-Bạch mọc bên trái mặt trăng thì nước âm rối loạn, mọc bên phải mặt trăng thì nước dương rối loạn. Sao Thái-Bạch dính liền với mặt trăng thì trong ba năm có việc đao-binh, mất đất. Sao Thái-Bạch chạy vào mặt trăng thì tướng – quân phải chết. Sao Thái-Bạch bảy ngày không mọc thí sẽ có nạn đao-binh dữ-dội.. Nếu sao Thái-Bạch lên giữa trời mà sáng ra thl ba quân tan-vỡ, loạn-lạc. Nếu trên có một đế-tinh và dưới có một cá-tinh thẳng hàng với nhau thì các quan phản Vua. Nếu sao Thái-Bạch xuất hiện không đúng lúc thì Vua Tôi cùng khởi binh. Sao Thái-Bạch mờ tối thì chủ-tướng gặp việc xấu. Sách Cấm-Thư chép rằng : Thái-Bạch Thần-Tinh cùng một ngày mọc lên ở hướng đông, ắt có dấy binh ở hướng đông ; nếu cùng mọc lên ở hướng tây, ắt có binh dấy lên ở hướng tây. Nếu cùng mọc ở hướng đông mà không gần nhau, từ hai mươi tới ba mươi ngày không lặn vào hướng đông-nam thì có điều binh nhưng không đánh ; đến mùa xuân, mùa hạ sẽ có dấy binh. Thần-Tinh và Thái-bạch mọc ở hướng đông, gần nhau trong khoảng ba bốn thước thì từ bai mươi tới ba mươi ngày có binh đánh lớn. Thần-Tinh đi theo Thái-Bạch ở hướng đông thì có dấy binh ở khắp nơi, từ đó đến sáu mươi ngày sẽ có dấy binh ồ-ạt. Thái-Bạch từ Thần-Tinh đi ra thì lợi chủ. Nếu mọc ở hướng đông thì lợi cho việc đánh hướng tây,binh ở phía đông được thắng lớn ; nếu mọc ở hướng tây thì lợi cho việc đánh hướng đông, binh ở phía tây được thắng lớn. Thái-Bạch và Thần-Tinb cùng mọc ở hướng đông; Thái-Bạch mọc trước, Thần-Tinb theo sau rồi vượt qua Thái-Bạch mà đi trước thì xứ ở dưới có binh làm phản, không tới một năm sẽ thấy ứng-nghiệm. Thần-tinh mọc ra như tờ giấy mà Thái-Bạch chưa mọc thì tướng-quân phải chết; thấy mọc ở nơi nào thì ở nơi ẩy có quân tan, tướng chết. Thái-Bạch mọc ở hướng đông, Thần-Tinh ở phía trước mà không mọc thì trong vòng năm mươi ngày có âm-binh dấy loạn trong nước. Thái-Bạcb có vầng sáng thì trong thiên-hạ có ân-xá cho kẻ phạm tội. Thần-Tinh có vầng sáng thì sẽ có dấy binh và mưa lụt. Vầng sáng của Thái Bạch và Thần-Tinh mà có ánh sáng màu vàng che khuất. thì sẽ có quân tan, tướng chết. 22. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO LÀNH : Sao Cảnh Tinh là sao đức-tinh. Sao ấy lớn có hình-đạng như nửa mặt trăng hiện ra vào ngày ba mươi, mồng một. Nước nào thấy được sao ấy thì gặp nhiều điều tốt lành. Sao Chu Tinh có sắc vàng, ánh sáng rực rỡ, nước nào thấy được thì gặp điều tốt lành, ai thấy được thì người ẩy gặp điều tốt lành. Sao Hàm-Dự sáng như sao Tuệ, nước nào thấy được thì gặp điều vui mừng, rợ man phía nam vào cống-hiến. 23. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO BẮC-ĐẨU : Bắc-đẩu có sao nhỏ thì thiên-hạ không yên, mọi việc chiến tranh cùng dấy lên. Bắc đẩu có khí đỏ xâm- nhập, điều ấy chủ về việc quân phải thua lớn, nếu cử binb g~p thì có hại. Nếu có mây trắng xâm-nhập, điều ấy chỉ về việc đổ máu nhiều. Nếu có mây như xà-mâu ăn vào, điều ấy chủ về việc có loạn lớn, nên ra ngoài. Nếu có mây hình-dạmg giống như con heo, điều ấy chủ về việc binh sợ-sệt vô cớ. Nếu có khí vàng tản-mác ở đông, tây thì không nên dấy binh động chúng. Nếu có vết đỏ, đầu lợt, đuôi đậm, điều thấy chủ về việc quân được thắng lớn. Nếu có màu đỏ lạt thì đại thần làm loạn. Nếu có mây ở phía đông và tây thì phe chủ cử đại-binh, phe khách nên lui về mà giữ. Nếu có mây đỏ xây thành bốn phía, điều ấy chủ về việc dấy binh lớn. Nếu hiện ra ban ngày thì xã-tắc không yên, bậc vương*giả gặp tai-biến. Nếu đang xoay trận mà đêm sau xem lại, thấy sao Bắc-đẩu có mây xuyên vào thì ba mươi ngày sau lại bị một lần lữa. Nếu đêm mồng một đầu năm có sắc hồng bọc quanh sao Bắc-đẩu, thì hai mươi ngày sau sẽ có tướng chết quân bại.1 like
-
Bài viết rất hay!1 like
-
1 like
-
Quán vắng!
thaochau liked a post in a topic by Thiên Sứ
Libya sụp đổ đẩy thế giới 'sát' bờ vực 'Thế chiến' thứ 3? BAODATVIET.VN Cập nhật lúc :6:42 AM, 11/09/2011 Sự sụp đổ của chế độ Gaddafi đặt ra một câu hỏi rằng, liệu khối quân sự có thể dội bom đất nước Bắc Phi này nếu nhà lãnh đạo Gaddafi trước đây không chấp nhận từ bỏ chương trình hạt nhân của mình. >> 'Đại gia' Gaddafi bán 29 tấn vàng Quyết định từ bỏ sai lầm? Chưa đầy một tuần sau ngày quân đội Mỹ bắt giữ Tổng thống Iraq Saddam Hussein hồi cuối năm 2003, Libya tuyên bố từ bỏ nghiên cứu vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí sát thương hàng loạt khác, tiếp nhận thanh sát quốc tế, ký Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân và cấm vũ khí hoá học. Quyết định này của Tổng thống Gaddafi được phương Tây đón nhận rất nồng nhiệt. "Cam kết của đại tá Gaddafi sẽ khiến cho đất nước chúng ta an toàn hơn và thế giới của chúng ta hoà bình hơn. Những nhà lãnh đạo nào từ bỏ việc theo đuổi các loại vũ khí hạt nhân, sinh học và hóa học sẽ tìm được một con đường dẫn tới mối quan hệ tốt đẹp hơn với Mỹ và các nước khác", ông chủ Nhà Trắng George Bush khi đó tuyên bố. Trong khi đó, Thủ tướng Anh Tony Blair khẳng định: “Quyết định này cho phép Libya quay trở lại với cộng đồng quốc tế. Nó cũng cho thấy các quốc gia có thể từ bỏ chương trình vũ khí bí mật của mình một cách tự nguyện và hoà bình”. Theo sau những lời tung hô là việc dỡ bỏ hàng loạt biện pháp trừng phạt quốc tế đối với Libya, khiến quốc gia Bắc Phi cũng hoan hỉ không kém. Tổng thống Libya (trái) chấp nhận cúi đầu chịu từ bỏ chương trình hạt nhân để có được quan hệ với Mỹ và phương Tây. Ảnh minh họa. Tuy nhiên, bốn năm sau, ông Gaddafi tức giận tuyên bố, nước ông không hề nhận được sự đền bù tương xứng cho quyết định từ bỏ vũ khí hạt nhân năm 2003. Theo nhà lãnh đạo Libya, phương Tây không giữ lời hứa chuyển đổi chương trình vũ khí hạt nhân của Libya thành chương trình năng lượng dân sự. Không chỉ có vậy, 8 năm sau khi Tổng thống Libya tuyên bố từ bỏ chương trình hạt nhân, phương Tây còn tiến hành chiến dịch can thiệp quân sự, lật đổ chế độ của nhà lãnh đạo này. Một số nguồn tin thậm chí cho rằng, thời điểm chính quyền Gaddafi chấp nhận từ bỏ vũ khí hạt nhân để lại gần hơn với các nước phương Tây cũng chính là thời điểm mà các nước này không ngần ngại lên kế hoạch lật đổ Gaddafi. Hồi chuông cảnh báo Dù chưa thể khẳng định đây là một bài học sáng giá cho các quốc gia trên thế giới nhưng một điều chắc chắn rằng, sự ra đi của ông Gaddafi khiến những nước đang sống trong bất an càng khát khao sở hữu vũ khí hạt nhân để đảm bảo an ninh quốc gia. Điều đó có nghĩa là tham vọng không phổ biến vũ khí hạt nhân của Tổng thống Mỹ Obama đang thực sự bị thách thức. Ông Obama tuyên bố về mục tiêu xây dựng một thế giới không có vũ khí hạt nhân của mình với lý do rằng, quan điểm đảm bảo an ninh quốc gia bằng vũ khí hạt nhân giờ đã quá lỗi thời bởi tư tưởng đó chỉ có thể tồn tại dưới thời chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, trên thực tế, lý do theo đuổi chương trình hạt nhân của các nước ngày nay vẫn không khác gì so với thời chiến tranh Lạnh, đó là tạo dựng một tấm lá chắn cho chủ quyền quốc gia. Từ năm 1945 đến năm 1991, bom hạt nhân luôn là thứ vũ khí đảm bảo an ninh số 1 trên thế giới. Những quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân như Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp và Trung Quốc ngăn chặn thành công các cuộc tấn công quân sự nhằm vào lãnh thổ của mình. Thực tế này khiến cho các quốc gia không có thứ vũ khí hủy diệt hàng loạt này rút ra một kết luận rằng, vũ khí hạt nhân mang lại sự an toàn cho những quốc gia sở hữu nó. Điều đó đồng nghĩa với việc không có vũ khí hạt nhân sẽ rất nguy hiểm. Từ thời chiến tranh Lạnh đến nay, vũ khí hạt nhân vẫn được xem là tấm lá chắn đảm bảo an ninh quốc gia. Ảnh minh họa. Do đó, thế giới hình thành nên hai luồng tư tưởng trái ngược nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, giải pháp duy nhất nhằm đảm bảo an ninh quốc gia là tìm mọi cách để có được công nghệ sản xuất bom hạt nhân trong khi những nước có trong tay thứ vũ khí này lại muốn ngăn chặn sự phổ biến của nó. Để "dung hòa" hai luồng tư tưởng này, Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) ra đời năm 1970, theo đó, khuyến khích những quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân chuyển giao công nghệ hạt nhân hòa bình cho những nước chưa được biết đếm thứ vũ khí này. Mục tiêu chính của hiệp ước này là nhằm có được sự cam kết giải giáp vũ khí của tất cả các bên. Tuy nhiên, những nước có trong tay vũ khí nguyên tử lại không muốn vậy. Một số nước như Israel, Ấn Độ và Pakistan vẫn thờ ơ với hiệp ước này để có thể thỏa sức theo đuổi chương trình hạt nhân của riêng mình. Trong khi đó, một số quốc gia khác lại ngấm ngầm nghiên cứu tiếp cận công nghệ sản xuất vũ khí nguyên tử. Sau khi Liên Xô tan rã, việc giải giáp vũ khí hạt nhân bắt đầu có triển vọng. Ukraine, Kazakhstan và Nam Phi chính thức tuyên bố vứt bỏ vũ khí hạt nhân. Sau đó, nhiều quốc gia sở hữu và không sở hữu vũ khí nguyên tử khác cùng đưa ra những cam kết đầy tham vọng nhưng có vẻ mơ hồ về mục tiêu giải giáp vũ khí của NPT. Tham vọng giải giáp vũ khí này sau đó được tiếp thêm sức mạnh bằng sự ra đời của khu vực phi hạt nhân tại Nam Mỹ và châu Phi, cũng như thỏa thuận cắt giảm vũ khí giữa Nga và Mỹ. Những cuộc tấn công quân sự thôi thúc nhiều nước nghiên cứu nhằm sở hữu vũ khí hạt nhân. Ảnh minh họa. Tuy nhiên, mục tiêu không phổ biến vũ khí hạt nhân này đến nay tiếp tục bị đe dọa bởi hành động đầy mâu thuẫn của những nước lớn. Vì nhiều lý do khác nhau, những nước này tấn công một số quốc gia không có vũ khí nguyên tử như Nam Tư, Iraq và Libya. Trong khi đó, các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân như Triều Tiên và Pakistan lại không bị tấn công. Không chỉ vậy, nhờ thứ vũ khí hủy diệt hàng loạt có trong tay mà họ thu được nhiều lợi ích từ cộng đồng quốc tế. Lợi thế của vũ khí nguyên tử còn có thể thấy rõ khi so sánh giữa Libya và Pakistan. Năm 2003, Tripoli chấp thuận từ bỏ chương trình hạt nhân cùng rất nhiều vũ khí sinh học và hóa học của mình; đồng thời cam kết chấm dứt ủng hộ khủng bố. Đổi lại, quốc gia Bắc Phi này được gia nhập hệ thống kinh tế chính trị toàn cầu. Vậy mà, cuối cùng họ cũng vẫn bị tấn công với lý do đàn áp người biểu tình. Trong khi đó, quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân Pakistan lại có thể che giấu trùm khủng bố bị truy nã gắt gao trên thế giới suốt 10 năm. Không chỉ vậy, quốc gia này còn ủng hộ nhiều nhóm chiến binh khác nhau trong khu vực và viện trợ tài chính cho Taliban. Thế nhưng, Pakistan lại không phải gánh chịu bất cứ hậu quả ngoài mong muốn nào từ các nước lớn. Thậm chí họ còn nhận được viện trợ kinh tế và quân sự từ cường quốc số 1 thế giới là Mỹ. Do đó, bất chấp những viễn cảnh tươi đẹp mà phương Tây đưa ra về việc không phổ biến vũ khí hạt nhân, những quốc gia luôn cảm thấy bị đe dọa vẫn muốn theo đuổi chương trình hạt nhân để không bị thôn tính. Mỹ và các đồng minh nên hiểu rằng, chính những cuộc tấn công quân sự vào các nước không sở hữu vũ khí hạt nhân đang làm suy yếu nỗ lực triển khai hiệp ước NPT của họ bởi nếu cứ để nỗi sợ hãi vây quanh những nước nhỏ bé thì chắc chắn họ phải tìm mọi cách để kìm chế nếu sợ hãi đó, theo đó có thể đưa cả thế giới lao vào một cuộc chạy đua vũ trang mới. Và điều gì sẽ xảy ra nếu có thêm nhiều nước có vũ khí hạt nhân? Liệu kết cục cuối cùng có phải là chiến tranh thế giới thứ 3? Trà My (tổng hợp) ==================================== Trong Lời tiên tri 2011 (Hoặc ở topic này), khi có thông tin ông Gaddafi đề nghị Hoa Kỳ làm trung gian hòa giải , tôi nghĩ Hoa Kỳ sẽ nhận lời với tư cách siêu cường, Nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Nếu vào thời điểm đó có thể Hoa Kỳ còn ngại thế lực của ông Gaddafi, cho nên nếu hòa giải sẽ không áp đảo được ông ta. Nhưng bây giờ ông Gaddafi vẫn còn sống và thất thế. Đây là thời điểm Hoa Kỳ có thể làm trung gian hòa giải. Không giết hàng tướng - đó là nguyên tắc của Lý học. Âm Dương tương tranh. Hàng tướng tức thuận theo Dương (Hoặc Âm). Giết họ - dưới hình thức nào đó - tức là cô Dương (Hoặc Âm). Đều bất lợi.1 like -
Theo đề nghị của cô qua PM, tôi thấy rằng: Cung Nô toàn người tài giỏi và hơn hẳn cô. Nên cô cảm thấy bị áp lực từ trong vô thức và vì vậy họ hay làm theo ý riêng của mình , ít tuân theo lời cô. Nhưng nếu cô biết cách sử dụng con người và bỏ mặc cảm thì chính họ sẽ giúp cô thành công sau này. Trong lịch sử văn minh nhân loại thì nổi tiếng nhất chính là Khổng Minh, người dám mơ ước bắt tướng giặc là Khương Duy về làm truyền nhân của mình. Đủ hiểu bản lĩnh của ông ta phải vào bậc thầy về dùng người. Còn phọt phẹt thì thấy người tài sợ lắm. Nhưng cô có lợi thế là chủ của họ và thuộc loại có bản lĩnh, năng động. Lá số này có thể dùng tình cảm (Ko nên lẫn lộn với tình yêu) để giữ họ lại. Lá số này thì cho thấy cô có tin vào thày bói, phong thủy lẩm cẩm. Nhưng làm sao mà thành nhà bói toán tên tuổi được. Chăm chú làm ăn đi, cô sẽ thành công. Trước đây cũng có người hỏi tôi có thể theo nghề bói toán được ko? Tôi khuyên họ hãy làm ăn đi , rảnh thì cứ nghiên cứu, về già hẵng hay. Hiện họ khá thành công! Tôi xem Tử Vi cũng không giỏi lắm. Vài lời chia sẻ.1 like
-
Năm tới không thấy có hỹ tín về con cái ,năm nay cả 2 vợ chồng gặp nhiều trỡ ngại khó khăn buôn bán thua lỗ , tiền tài hao hụt rất nhiều .Số người vợ năm nay không thể tiến hành việc học hành thi cử được năm tới mới có hy vọng ,nhưng có rất nhiều khó khăn trỡ ngại ,không bền chí có thể gảy đỗ 1/2 chừng .Số ông chồng năm tới sự nghiệp lẫn tiền tài đều đi vào chỗ bế tắc có thể mắc nợ nần hay bị thưa kiện ,phải 3 năm nữa thì mới ổn định .1 like
-
Chúc mừng Trung tâm và bác Thiên Sứ! Chúc trung tâm và những giá trị đích thực của nền văn hóa Việt sẽ ngày càng được quảng bá trên đất nước ta và trên thế giới!1 like
-
Cháu có chắc mình sanh giờ nầy không ? học hành thi cháu có thuân lợi thi đâu đậu đó ? không phải ôm hết trọn gói của lời giải trên ,nếu hồi nhỏ sanh ra dễ nuôi không bệnh tật đau yếu thì sau nầy rất đáng ngại đến việc chồng con ,trăm sự đổ dồn vào đó ,có thể là khó có con hay hiếm con ., tử vi không có cách giải nạn ,chỉ có cách cho thấy trước sự sắp diễn ra trong cuộc đời , làm sao thay đổi được ngày giờ mình đã sinh ra ?1 like
-
Chúc mừng trung tâm mình. Hèn chi chiều nay thầy đi HN mất tiu. . Cuối tuần này mấy anh em định offline đó thầy.1 like
-
Chúc mừng TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG, chúc mừng chú Thiên Sứ đã được Unesco ghi nhận về những đóng góp cho nền lý học Đông Phương!1 like
-
Cõi Vô Hình
vanmenh liked a post in a topic by wildlavender
Cõi Vô hình (phần ll) Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau. Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dụcvọng hành hạ mà không thể thoa? mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không so thoa? mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu. Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thoa? mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v…v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên vu vơ nhằm thoa? mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm. Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ, v…v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v…v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện diện của những “hình tư tưởng”. Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngaỵ Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông tạ Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến. Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán. Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưỏong lẫn nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay quốc gia. Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ nhàng. Tại đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảmđục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại. Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ nhị không còn dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nhigệm, phát triển ccác đức tính riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn. - Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao nhiêu lâu ? - Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng. Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học. Hamud mỉm cười tiếp tục : - Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ. Khi còn sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thoa? mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh. Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ? Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm. Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị Ở cõi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn. - Nhưng còn các ma quỷ thì sao ? - Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng…Khoan đã, các ông hãy xem kìa, người bạn của tôi đã làm xong việc. Hamud chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình từ lúc nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích : - Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông thì còn ai nữa ? Qủa thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng , rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ, so với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai muạ Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng. Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc : - Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao? - Tôi không phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn. Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có thật, vì một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả. Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết. Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi. Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngaỵ Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ dàng. Giáo sư Allen ngập ngừng : - Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ? Hamud lắc đầu : - Đó là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột ngột được. Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển. Một người tu thân là một người biết mình, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không còn được thoa? mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được. - Như ông đã nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thoa? mãn không ? - Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thoa? mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thoa? mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm. - Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ? - Sự hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách đang tan rã, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần. Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử 'dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. Vì đang tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không hiểu thì gọi đó là mạ Theo sự hiểu biết của tôi, thì việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều. - Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xã hội ? - Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng, “Chính cáidục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.” - Số phận của những người quân nhân tử trận thì ra sao ? - Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, vì cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã quên mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những kẻ giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn. - Như ông nói thì người chết vẫn thấy người sống ? - Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì các giác quan thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm liên hệ; mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng tạ Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả. - Như vậy thì họ Ở gần hay ở xa chúng ta ? - Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ. - Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ? - Điều này không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát. Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định cõi giới nào vong linh sẽ đến. - Ông du hành sang cõi âm thế nào ? - Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cõi âm. Quan niệm về không gian cũng khác vì đây là cõi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể xác. - Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ? - Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm, dục vọng mà họ hành động. Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý đến ông. Họ tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết. Tôi đã gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp. Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những người bén mảng đến gần nơi chốn dấu. Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa; họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm gì được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức đau khổ. Hãy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y không tin mình đã chết, nên cứ ở trong tình trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn mê, nên y không nhìn thấy cõi âm, mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao trở về được. Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi, và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc mình đã chết và siêu thoát… - Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ? - Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi , vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một hình thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”. - Như ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ? - Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm. - Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không ? - Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như được một vé phi cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc thì sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ? Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp, thì tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đình nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước khi lìa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử . Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi thì sự hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến việc này. - Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ gì ? - Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một vòng tròn mà sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm, dương, giữa thế giới hữu hình và vô hình. Trên con đường tiến hoá, còn hằng ha sa số các chu ký, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi thượng giới cũng phải qua cõi trung giới. Phần ở cõi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến sâu vào cõi trần và bắt đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có ý hướng về tâm linh. Các cổ thư đã vạch ra một đời sống ở cõi trần như sau : 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đình, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người Á châu thì 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ hưởng . Do đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt. Theo ý tôi, chính vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con người gây nhiều tai hại ở cõi trần. Chính vì không nhìn rõ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi trần đối với toàn kiếp người, thì không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lãng các cõi trên. Nếu con người hiểu rằng quãng đời ở cõi trần rất ngắn ngủi, đối với trọn kiếp người và đời sống các cõi khác còn gần với chân lý, sự thật hơn thì có thể họ đã hành động khác đi chăng ? Có lẽ vì quá tin tưởng vào giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cõi khác là không có… - Nhưng nếu ông cho rằng các cõi kia còn gần với sự thật hơn, thì tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cõi trần làm gì ? Tại sao không rũ nhau đi sang cõi khác có tốt hơn không ? Hamud mỉm cười : - Tuy cõi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì con người chỉ có thể tìm hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động ở cõi trên.__._,_.___ Telegraph news1 like -
Cõi Vô Hình
vanmenh liked a post in a topic by wildlavender
Cõi vô hình. Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi. Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thờ...i gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập. Giáo sư Evans-Wentz vào đề : - Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí… Pháp sư thản nhiên : Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình. - Như thế ông tin rằng có ma… Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết : - Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi. - Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ? - Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng ? - Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên … - Được lắm, các ông hãy nhìn đây. Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả : - Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy. Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư Mortimer nóng nảy : - Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ? Vị pháp sư nghiêm giọng : - Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi này. - Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thoa? mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ? Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người : - Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford … Giáo sư Harding giật mình kêu lên : - Oxford ư ? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ? Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này. (Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lý). - Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ? - Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều. Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng : - Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ? - Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao… Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không ? - Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng….. - Như thế có nguy hiểm không? - Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa…. - Ông có thể làm như vậy không ? Vị pháp sư nghiêm mặt : - Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh. - Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm. - Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự. (còn tiếp)1 like