-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 09/09/2011 in Bài viết
-
Ối giời! Kỹ sư việc gì phải khóc chứ!!!Cười lên nào: :lol: :lol: :lol: :lol: Mộc là chân, tay, là gan .... KIm là phổi, là xương, là đầu Hỏa là bệnh về đường máu, là tim, huyết áp ... Thủy là tài, là miệng, là thận, bàng quang ... Thổ là dạ dày, lá lách .... Đại loại vậy! Ví dụ: Đỗ Tiểu cát thì có thể đoán là bệnh gan khiến cho nổi mụn nhọt ở bên ngoài Đại loại vậy Thân mến3 likes
-
2 likes
-
Bài 21: Điểm hạn và khả năng của Thiên Khắc Địa Xung (TKĐX) Y8 - Điểm hạn và khả năng của TKĐX A - Điểm hạn của TKĐX hoàn toàn phụ thuộc vào can chủ khắc của nó như sau : 156a/ - 1 trụ TKĐK (có can và chi của nó đều là chủ khắc) với 1 trụ khác: Nếu can chủ khắc của nó vượng ở lưu niên thì nó có 1đh. Nếu can chủ khắc của nó chỉ vượng ở đại vận thì nó chỉ có 0,75đh. Nếu can chủ khắc của nó ở tuế vận mà nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,5đh. Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận thì nó có 0,5đh. Nếu can chủ khắc của nó ở trong tứ trụ mà thất lệnh và nhược ở tuế vận thì nó chỉ có 0,25đh. 156b/(42;53a;70) - Điểm hạn của TKĐX bị giảm 2/3 nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 1 lực có 1đh (vd 42 ;157c) và TKĐX là vô dụng nếu can chủ khắc của nó bị khắc bởi ít nhất 2 lực cùng có 1đh (vd 70). Ðiểm hạn của TKĐX bị giảm 1/4 nếu can chủ khắc của nó bị khắc it nhất bởi 2 lực cùng có 0,7đh (vd 53a). 157/ – Nếu 1 trụ TKĐX (có can của nó là chủ khắc nhưng chi của nó chỉ là chủ xung hay các chi của nó là Thổ (hành của nó là Thổ)) với 1 trụ khác thì điểm hạn của nó hoàn toàn tương tự như các trường hợp TKĐK nhưng nó bị giảm ½ . 158/(68;161) – TKĐX* (có chi là Thìn và Tý) chỉ có khi các chi của nó ở gần nhau và các chi này không cùng ở trong tam hợp, khi đó điểm hạn của TKĐX* chỉ bằng 2/3 điểm hạn của TKĐX. 159/(12...) - Giữa tứ trụ với tuế vận và tiểu vận nếu có các TKĐX (kể cả TKĐX*) thì ngoài điểm hạn chính của chúng, chúng còn được thêm điểm hạn phụ như sau: Nếu chúng có 2 trụ TKĐX với nhau thì chúng có thêm 0,05đh. Nếu .............. 3 ................. .............................................0,1đh. Nếu................4 .............................................................. 0,3đh. Nếu................5 .............................................................. 0,3.2đh. Nếu................6 .............................................................. 0,3.5đh Nếu ...............7 ...............................................................0,3.8đh ? B - Các tính chất của TKĐX 159a/ Một trụ TKĐX (là nói chung cho cả TKĐK, TKĐX* và TKĐK*) với tam hợp hay tam hội có X chi, nghĩa là tổ hợp này có tổng cộng X chi, còn với lục hợp hay bán hợp có X chi thì có nghĩa là chỉ có X-1 chi trong tổ hợp hợp với chi này. 160/(12) - Nếu đại vận hay lưu niên TKĐX với tiểu vận thì điểm hạn của nó bị giảm ¾. 160a/27 - Nếu tiểu vận TKĐX với đại vận hay lưu niên thì điểm hạn của nó được tính như bình thường. 160b/7 – 1 trụ có khả năng TKĐX với các bán hợp và ngũ hợp (ví dụ 125) hay các tam hợp và tam hội không hóa có từ 3 chi trở lên (ví dụ 53a) nhưng nó không có khả năng TKĐX với tam hợp cục hay tam hội cục có ít nhất 4 chi. (Chú ý : TKĐX với bán hợp hay tam hợp là chỉ tính chi của trụ TKĐX với các chi hợp với nó, còn TKĐX với tam hợp hay tam hội là tính tất cả các chi có trong tổ hợp đó). 161/55 – Nếu có it nhất 2 trụ giống nhau mà chúng chỉ TKĐX với 1 trụ khác thì điểm hạn của mỗi TKĐX được tăng ¼ . 162/(55;113;157a) – Một trụ (hay nhiều trụ giống nhau) TKĐX với ít nhất 2 trụ giống nhau thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm ¼ và nếu can chủ khắc khắc được 2 can của 2 trụ giống nhau này có điểm hạn thì điểm hạn của mỗi TKĐX bị giảm thêm ít nhất ¼ đh.. 163/62 - Nếu tuế vận cùng gặp hay 2 trụ giống nhau ở trong tứ trụ TKĐK với các trụ khác giống nhau thì điểm hạn chính của mỗi TKĐK này được tăng gấp đôi, khi đó các trụ khác giống với hai trụ này TKĐK với các trụ đó điểm hạn cũng được tăng gấp đôi (hay 25% , 50% ?). 164/ - Các điểm kỵ vượng tại các can chi của một hóa cục vẫn còn khi điểm hạn của hóa cục này bị can khắc mất hết và dĩ nhiên điểm vượng của các can chi của hóa cục này không bị giảm. 165/55 – Nếu 1 trụ TKĐX với các trụ có các chi giống nhau của một tam hợp hay tam hội thì chúng chỉ được coi là TKĐX với 1 trụ của tam hợp hay tam hội đó. 166/(55;60;115) - Nếu lưu niên và trụ trong tứ trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực xung hay khắc tới trụ này đều được tăng gấp đôi (riêng với lực của TKĐX được tính cả 2 chiều), nhưng nếu can của lưu niên là chủ khắc mà nhược ở tuế vận thì điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này không được tăng gấp đôi (trừ khi có thêm ít nhất 1 trụ giống với lưu niên TKĐX với trụ đang mang vận hạn (?)). 167/ - (bỏ vì sai). 168/ – Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX* với nhau thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ này được tăng gấp đôi ? (chưa có ví dụ để chứng minh). 169/128 - Tại năm sinh nếu trụ năm và lưu niên TKĐX với 1 trụ thì điểm hạn của các TKĐX này không được tăng ¼ (nhưng 1 trụ TKĐX với trụ năm và lưu niên vẫn bị giảm ¼ ?) 170/129 – Nếu tại năm sinh có một trụ trong tứ trụ và trụ năm (là trụ đang mang vận hạn) TKĐX với nhau thì tất cả các điểm hạn của các lực tác động vào trụ năm được tăng gấp đôi (kể cả các lực hình, tự hình và hại) 171/134 - Dưới 12 tháng tuổi nhưng khác năm sinh nếu trụ năm bị 1 trụ trong tu tru TKĐX thì các điểm hạn của các lực xung hay khắc vào trụ năm chỉ được tăng ½. 172/59 - TKĐX là vô dụng khi nó có ít nhất 1 can của nó là tranh hợp thật hay can chủ khắc của nó hóa cục. C – Các chi của TKĐX hóa cục 173/(74;157b) - Nếu 4 trụ tạo thành hai cặp TKĐX khác nhau mà 4 chi của chúng hợp với nhau hóa thành 2 cục cùng một lúc và khắc nhau thì các TKĐX này chỉ phá được các hóa cục (trừ tam hội cục) nhưng vẫn còn các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn, trừ trường hợp 2 cặp TKĐX này có ít nhất 1 chi của chúng là Thổ thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hội cục) và các TKĐX vẫn có các điểm hạn như bình thường (riêng tam hợp cục vẫn còn tổ hợp nếu nó chỉ bị TKĐX bởi 2 cặp TKĐX này). 174/146 - 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục có hành giống hành của chi của chúng, nếu TKĐX và 2 hóa cục này cùng xuất hiện một lúc thì các cục bị phá (trừ tam hợp cục và tam hội cục) nhưng còn lại các tổ hợp của chúng và các TKĐX này không có điểm hạn. 175/57 - Nếu 2 chi của TKĐX không phải Thổ đều hóa cục nhưng ít nhất có một hóa cục có hành không giống hành của chi của nó thì các hóa cục này vẫn bị phá (trừ tam hợp và tam hội) và điểm hạn của TKĐX vẫn có như bình thường. 176/61 - Nếu hai chi của TKĐK không là Thổ hóa thành 2 cục có hành giống hành của các chi của chúng thì TKĐX thành vô dụng khi trong chúng có ít nhất 1 hóa cục có trước TKĐX này. 177/89 – Nếu 2 chi của TKĐK không phải Thổ hóa cục có hành giống hành của các chi của chúng thì các hóa cục này không bị phá mà điểm hạn TKĐX được tăng gấp đôi chỉ khi TKĐX xuất hiện trước 2 hóa cục này hay cùng với một hóa cục nhưng trước hóa cục kia. D - Khả năng phá hợp của TKĐX 177a/ - Nếu các tổ hợp và các thiên khắc địa xung cùng xuất hiện thì các tổ hợp luôn luôn được tạo thành trước, sau đó chúng mới bị thiên khắc địa xung bởi các trụ. 178/(37;42) – 1 trụ TKĐX với bán hợp cục hay lục hợp cục có thể phá được cục nhưng vẫn còn tổ hợp của nó và phá được tổ hợp nếu nó không hóa cục nhưng nó không thể phá được các hóa cục trong tứ trụ từ khi mới sinh nếu 2 chi của TKĐX này là Thổ. 179/60 – 2 trụ thiên khắc địa xung giữa tuế vận với Tứ trụ hay giữa tuế vận (kể cả tiểu vận) với nhau chỉ có thể phá được tam hợp không hóa có 3 chi giữa Tứ trụ với tuế vận nếu 2 chi của thiên khắc địa xung này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu còn nếu 2 chi này là Dần với Thân hay Tị với Hợi hoặc 2 chi này là Tý với Ngọ hay Mão với Dậu xung cách ngôi trong Tứ Trụ thì lực xung này phải không nhỏ hơn lực hợp. 180/(64;125) - Nếu 1 trụ TKĐK với 1 trụ mà chi của nó hợp với 3 chi giống nhau hóa cục thì TKĐX phá được cục này nhưng vẫn còn hợp và TKĐX phá được tổ hợp nếu chi này hợp với ít nhất 4 chi giống nhau không hóa. 181/136 - Nếu can của ngũ hợp ở tuế vận là chủ khắc hợp với can ở tuế vận và can trong tứ trụ thì liên kết của can chủ khắc với can ở tuế vận bị phá khi trụ của can bị khắc ở tuế vận TKĐX với trụ khác 182/ - (bỏ vì sai) 183/66 - Tam hợp cục bị phá cả cục lẫn hợp của nó khi có ít nhất 3 trụ TKĐX với nó. 184/55 – Nếu 2 trụ TKĐX với 1 trụ của tam hợp cục có 3 hay 4 chi (còn 5, 6...chi ?) thì chúng chỉ phá được cục nhưng vẫn còn hợp của nó và phá được hợp nếu nó không hóa cục. 185/157 - 2 trụ TKĐX với 2 trụ của tam hợp cục phá được cả cục và tổ hợp của nó. 186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó. 187/146– Từ 3 trụ trở lên TKĐX với ít nhất 2 trụ của tam hội cục trong tứ trụ mới có thể phá được cả cục và hợp của nó. 188/(69;113) - Chỉ có 2 trụ TKĐX* với nhau không phá được bán hợp của Tý với Thìn tại các chi của TKĐX* và TKĐX* này không có điểm hạn nếu 2 chi của nó hóa Thủy nhưng nếu có 2 trụ TKĐX* (hoặc 1 trụ TKĐX và 1 trụ TKĐX*) với 1 trụ của bán hợp này thì chúng phá được cả cục và hợp tại chi của trụ đó. Ví dụ minh họa Ví dụ 49 (Giải Mã Tứ Trụ): Đây là Tứ Trụ của cụ Thiệu Ung (Thiệu Khang Tiết) một đại sư lừng danh của Trung Quốc (mà cụ Thiệu Vĩ Hoa là cháu nội đời thứ 29) do nick LingLingLing đã đưa ra thách đố tôi dự đoán trong chủ đề “Uyên Hải Tử Bình - Thiệu Vĩ Hoa” tại mục Tử Bình bên trang web tuvilso.com (nay là tuvilyso.org) vào khoảng đầu năm 2007. Xét hạn năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu tức tuế vận gặp nhau. Sơ đồ mô tả các điểm hạn như sau: Năm cụ Thiệu Ung 46 tuổi là năm Đinh Dậu thuộc đại vận Đinh Dậu, tiểu vận Đinh Hợi và Bính Tuất. Ta xét tiểu vận Bính Tuất. 1 - Mệnh này Thân vượng mà kiêu ấn đủ, quan sát cũng đủ nên dụng thần đầu tiên phải là thực thương Đinh tàng trong Tuất ở trụ giờ. 2 – Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. 3 – Năm Đinh Dậu và đại vận Đinh Dậu tức tuế vận cùng gặp có 1đh (vì đinh vượng ở lưu niên). 4 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 5 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh. 6 – Đinh đại vận và Đinh lưu niên đều vượng ở lưu niên có -1đh và khắc 2 Tân, vì vậy mỗi lực có 0,7đh. 2 Tân thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên, vì vậy mỗi Tân có -0,5đh nhưng bị 2 Đinh khắc còn -0,5.0,3.0,3đh = .0,05đh. Dậu thái tuế và Dậu đại vận, mỗi Dậu có 1 hung thần có 0,25đh. Tuất tiểu vận có 1 hung thần có 0,13đh. 7 - Dậu đại vận tự hình Dậu thái tuế có 1đh, hại Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì nó là lực thứ 3). Dậu thái tuế bị hình nên vẫn hại được Tuất trụ giờ có 1đh và hại Tuất tiểu vận có 0,25đh (vì là lực thứ 3 bởi Dậu thái tuế và Dậu đại vận tự hình với nhau). 8 - Nạp âm Lửa dưới núi ở tuế vận có can Đinh vượng ở lưu niên nên khắc kim trang sức trụ năm, đất trên tường trụ tháng và đất mái nhà tiểu vận, vì vậy mỗi lực khắc có 1.1/3đh = 0,33đh (vì Đinh đã sử dụng 1,5đk), riêng lực khắc nạp âm tiểu vận chỉ có 0,33.1/4đh = 0,08đh (khắc nạp âm tiểu vận bị giảm 3/4 đh). Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên khắc đất trên tường và kim trang sức, vì vậy mỗi lực chỉ có 0,5đh . 9 – 2 Đinh ở tuế vận là Thương quan gặp Quan là Tân trụ năm nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). Tổng số là 9,81đh. Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) : “270/49 - Nếu 3 chi của tam hội trong Tứ Trụ liền nhau thì tổng điểm hạn được giảm ½ chỉ khi có ít nhất 2 trụ của nó động”. Nếu sử dụng giả thiết này thì ở đây trụ năm và trụ tháng động (vì có 2 can Tân hay 2 nạp âm của nó bị khắc, còn trụ ngày tĩnh vì can, chi và nạp âm của nó không tác động với bên ngoài), do vậy tổng điểm hạn được giảm ½ còn 9,81.1/2dp = 4,91đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Cụ Thiệu Ung là một nhà dịch học nổi tiếng nên biết cách giải cứu. Thực tế gia phả của nhà cụ có viết “Mặc dù được vua mời ra làm quan trong triều đình nhưng cụ đã khước từ. Mãi đến khi qua năm Đinh Dậu cụ mới nhận lời và ra làm quan“. Qua đây chúng ta thấy đại vận Đinh Dậu là đại vận Thương quan (Đinh) gặp Quan (Tân ở trụ năm và tháng) và lại là đại vận có hình và hại (bởi vì có Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ và tự hình Dậu thái tuế). Do vậy cụ biết đến năm Đinh Dậu tuế vận cùng gặp là năm hạn rất nặng, nên cụ vẫn chưa ra làm quan mà ở nhà để giải hạn (có thể cụ đã vào chùa hay sống ẩn dật trên núi cao hay rừng sâu để giải hạn). Ta xét năm Đinh Tị Cụ Thiệu Ung mất khi 66 tuổi, đó là năm Đinh Tị thuộc đại vận Ất Mùi, tiểu vận Mậu Thìn và Đinh Mão. 1 - Trong tứ trụ có tam hội Hợi Tý Sửu không hóa. Vào đại vận Ất Mùi và năm Đinh Tị có Tị thái tuế xung hợi trụ năm và thêm Mùi đại vận xung Sửu trụ tháng cũng như giả sử đại vận Ất Mùi TKĐX với trụ tháng Tân Sửu và lưu niên ĐinhTị TKĐX với trụ năm Tân Hợi cũng không thể phá được tam hội này. 2 – Ta đã biết từ 65 tuổi đến 85 tuổi trụ mang vận hạn lại trở về trụ năm, nên tất cả các lực xung hay khắc vào trụ năm đều được tăng gấp đôi. Do vậy Lưu niên Đinh Tị TKĐK trụ năm Tân Hợi có 2.0,5đh (vì Đinh vượng ở lưu). Trụ tháng Tân Sửu TKĐX với đại vận Ất Mùi có 0,13đh (vì can Tân thất lệnh lại còn nhược ở tuế vận). Có 4 trụ TKĐX với nhau nên có thêm 0,3đh. 3 - Dụng thần Đinh mộ ở lệnh tháng nên có 0,5đh và vượng ở lưu niên có -1đh. 4 - Nhật can Giáp nhược ở lưu niên có 0đh. 5 – Đinh lưu niên vượng ở lưu nên có -1đh can động và khắc 2 Tân nên mỗi lực có 0,7đh, nhưng lực khắc Tân trụ năm được tăng gấp đôi thành 1,4đh. Ất đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh can động và khắc Mậu tiểu vận có 1.1/2.1/2 đh = 0,25đh (vì khắc trái dấu và khắc vào can tiểu vận). Ất còn có 1 cát thần có -0,25đh. 6 – Mùi đại vận hình Tuất trụ giờ có 1đh. 7 - Lửa đỉnh núi trụ giờ có can Giáp được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên chỉ khắc được đất trên tường trụ tháng và kim trang sức trụ năm có 1đh, vì vậy mỗi lực có 0,5đh, riêng lực khắc kim trang sức của trụ năm được tăng gấp đôi thành 1đh. Cát trong đất lưu niên có Đinh vượng ở lưu nên khắc được kim trong cát của đại vận có 1đh. 8 – Đinh lưu niên là Thương quan gặp Quan là Tân ở trụ năm và trụ tháng nên mỗi Thương quan có 1đh (vì Đinh vượng ở lưu niên). Tổng số có 6,91.1/2đh = 3,96đh (vì tam hội trong tứ trụ có 2 trụ của nó động). Số điểm này không thể chấp nhận được. Để phù hợp với thực tế của ví dị này chúng ta phải đưa ra giả thiết (nay đã thành quy tắc chính thức) : "186/(28;49) - Tam hội trong tứ trụ không hóa bị phá khi có ít nhất 2 trụ TKĐX với 2 trụ của nó còn tam hội hóa cục ngoài tứ trụ có 3 chi bị phá cả cục và hợp của nó". Nếu sử dụng giả thiết này thì tam hội Hợi Tý Sửu trong tứ trụ bị phá. Tổng số là 8,61đh (số điểm hạn được mô tả ở sơ đồ trên) và nó không được giảm ½ (vì tam hội cục đã bị phá). Vì số điểm hạn quá cao nên cách đây vài trăm năm nhà mệnh học Thiệu Ung đã không tự giải cứu được.2 likes
-
Thưa Câu lạc bộ, phamhung chưa sắm được máy ảnh, nhưng thấy tài liệu này hay hay, post lên đây, mong hầu được bà con đam mê máy ảnh!!! Một ví dụ về độ sâu trường ảnh Theo Cambridgeincolour, DOF phụ thuộc nhiều vào loại máy ảnh (kích cỡ phim hay cảm quang) và cách thiết lập ống kính (khẩu độ, khoảng lấy nét). Khoảng lấy nét ở đây chính là khoảng cách từ mặt phẳng chứa điểm cần lấy nét tới ống kính. DOF và vùng trung gian chứa các chấm mờ (circle of confusion). Ảnh: Cambridgeincolour. Sự thực, mỗi ống kính chỉ có khả năng cho ảnh nét nhất tại một khoảng cách nhất định, sau đó, độ nét giảm dần về 2 biên. Tuy nhiên, hiện tượng mờ dần này khá nhỏ và có thể coi như "sắc nét" trong mắt người quan sát. Độ sâu trường ảnh cũng không thay đổi đột ngột từ rất nét đến mờ mà luôn có một vùng trung gian chuyển đổi. Các điểm thuộc vùng chuyển đổi này xuất hiện trên ảnh dưới dạng chấm tròn mà mắt người có thể nhận ra gọi là "Circle of confusion". Một điểm thuộc vật không còn được coi là nét trên ảnh nếu ta nhận ra đó là một chấm tròn có kích thước lớn hơn 0,01 inch ở khoảng cách 30,5 cm khi nhìn bản in cỡ 20 x 25 cm. Chấm tròn có kích thước nhỏ hơn 0,01 inch thường được coi là điểm tương đối nét. Một ví dụ về bokeh trên ống kính Canon 85 mm f/1.8. Ảnh: Wiki. Lưu ý rằng, độ sâu trường ảnh chỉ tác động đến kích thước tối đa của vòng tròn mờ mà không diễn tả được hiện tượng gì sẽ xảy ra với những vùng thuộc vật nằm ngoài khoảng lấy nét. Khu vực mờ này lần đầu tiên có tên gọi chính thức là "bokeh" vào năm 1997 trên tạp chí Kỹ Thuật Nhiếp Ảnh số tháng 3, 4. Nguồn gốc của từ xuất phát từ phiên âm "bo-ke" trong tiếng Nhật nghĩa là mơ hồ, mù mịt. Hai bức ảnh chụp cùng một vùng không gian với độ sâu giống hệt nhau có thể cho bokeh khác hẳn nhau do hình dạng các lá khẩu ống kính quyết định. Trên thực tế, các chấm mờ "Circle of confusion" không thực sự là một hình tròn hoàn hảo mà là một đa giác đều có từ 5 đến 8 cạnh hoặc thậm chí lớn hơn, tương ứng với số lá thép đặt chéo lên nhau trong lòng ống kính. Số cạnh càng nhiều, chấm mờ càng đạt trạng thái gần tròn. Khi khẩu độ ống kính mở hết cỡ, các lá thép xoay hết ra phía rìa ống kính và các chấm đạt trạng thái tròn hoàn hảo. Kiểm soát độ sâu trường ảnh Độ sâu trường ảnh (DOF) trong các trường hợp chỉnh khẩu độ của cùng một ống kính. Ảnh: Nikonians. Độ mở và khoảng lấy nét là hai yếu tố quyết định độ mờ của hậu cảnh, tức là kích thước của chấm mờ ngoài vùng lấy nét xuất hiện trên cảm biến máy ảnh. Độ mở càng lớn (chỉ số F-stop càng nhỏ) và khoảng lấy nét càng gần thì vùng ảnh nét (DOF) càng ngắn hay càng nông. Khi DOF nông đến mức khoảng cách từ điểm nét gần nhất và xa nhất chỉ còn khoảng vài milimet, rất hay xảy ra hiện tượng mờ ảnh (hay out nét) do sự thay đổi vị trí tương quan giữa máy ảnh và đối tượng cần lấy nét, dù là nhỏ nhất. Bạn có thể bắt gặp điều này khi chụp ảnh macro trong điều kiện thiếu sáng, bắt buộc phải mở khẩu lớn để tránh nhòe do rung lắc. Chẳng hạn, khi sử dụng ống Nikon 105mm f/2.8 AF Micro lắp lên thân máy crop như D300, tại khoảng cách lấy nét 0,4m thiết lập khẩu độ f/4, DOF chỉ mỏng không quá 2mm - bất kỳ sự dịch chuyển nào của thân máy trong quá trình chụp cũng khiến bức ảnh thu được bị mờ. Bạn có thể hạn chế nhược điểm này bằng cách tăng khoảng cách lấy nét hoặc khép khẩu độ sâu thêm vài stop. Ống kính góc rộng và tele Trong đa số trường hợp, hậu cảnh có xu hướng mờ đi khi tiêu cự của ống kính tăng lên. Ảnh: Flickr. Nếu vật thể chiếm cùng một diện tích trên kính ngắm máy ảnh, nghĩa là hệ số phóng đại là như nhau đối với các ống kính góc rộng và tele thì độ sâu trường ảnh đối với các ống kính này là tương đồng. Nhìn chung, trong đa số trường hợp, hậu cảnh có xu hướng mờ đi khi tiêu cự của ống kính tăng lên. Bảng sau sẽ cho thấy độ sâu trường ảnh tại thiết lập f/4,0 trên thân máy Canon EOS 30D (crop 1.6X). Ngay cả khi tổng độ sâu trường ảnh là cố định thì sự phân phối vùng ảnh tương đối nét phía trước và sau khoảng lấy nét chính vẫn thay đổi theo độ dài tiêu cự. Ví dụ: ung Chính sự phân bố độ nét không đều làm tăng thêm sự phức tạp của khái niệm DOF, vốn chỉ giúp người ta mường tượng ra tổng độ sâu vùng nét trong một bức ảnh. Bạn không cần quan tâm nhiều đến các số liệu trong bảng, tuy nhiên, cần nhớ trong đầu một quy tắc tương đối đơn giản: với cùng một giá trị khẩu độ, khi càng tăng tiêu cự lên cao, vùng ảnh nét càng thu hẹp. Ngoài ra, cũng cần lưu ý, các ống kính có tiêu cự càng nhỏ (tức góc càng rộng) thì vùng ảnh tương đối nét phía sau điểm cần lấy nét càng sâu, rất thích hợp trong nhiếp ảnh đời thường và phong cảnh. Với ống kính tele thì điều này ngược lại, vùng hậu cảnh phía sau đối tượng lấy nét trở nên cực kỳ mờ do sự phân bố nét tại đây giảm đi. Độ sâu trường ảnh và độ sâu tiêu cự Độ sâu tiêu cự khi chỉnh khẩu độ ống kính. Ảnh: Cambridgeincolour Độ sâu tiêu cự (Depth of focus hay Focus spread) là một khái niệm có liên quan đến kích thước các chấm mờ. Khi vật thể đã được lấy nét, cảm biến hay phim vẫn có thể di chuyển trong một khoảng nhỏ cỡ millimet mà ảnh thu được của vật vẫn nét. Khoảng cách này được gọi là độ sâu tiêu cự. Khi khẩu càng khép chặt, các chùm sáng đến từ điểm và đi qua ống kính càng có xu hướng bị thu hẹp. Kết quả là kích thước các chấm mờ nhỏ lại và cảm biến có thể di chuyển một khoảng khá dài mà ảnh vẫn tạm coi là sắc nét. Khi đó, độ sâu tiêu cự rộng hơn. Trường hợp ngược lại, khẩu mở to sẽ khiến độ sâu tiêu cự hẹp đi. Cần phân biệt khái niệm này với khái niệm độ sâu trường ảnh để tránh nhầm lẫn khi đọc các tài liệu sử dụng ống kính và thiết bị nhiếp ảnh. Một số chú ý khác Phần lớn ống kính đều nét nhất ở đoạn giữa độ mở của nó, thường trong khoảng f/8 hoặc f/11. Việc giảm khẩu độ tới tối đa có thể khiến ảnh đạt độ sâu lý tưởng nhưng đòi hỏi thời gian phơi sáng và ISO cao. Ngoài ra, khẩu độ khép quá hẹp có thể làm ảnh hơi mờ do hiện tượng nhiễu xạ. Điều này cũng lý giải tại sao kích thước lỗ sáng trong máy ảnh pinhole không thể chế tạo nhỏ hơn cỡ milimet. Các tác phẩm macro và chân dung thường đòi hỏi sự hoàn hảo trong bố cục hậu cảnh. Hậu cảnh quá lộn xộn làm giảm độ tập trung của ảnh vào đối tượng chính và gây mất hiệu quả "xóa phông" trên ống kính. Cần kiểm soát tốt độ sâu trường ảnh để tránh bị out nét hay thu được một mớ lổn nhổn đằng sau như trên các máy compact cảm biến nhỏ.1 like
-
Nghiệp Lực (Luân Hồi) …Thơ xin luận Chữ tình và tội Thuở xa xưa có hội mây rồng Thôn trang có cặp Vợ Chồng Chồng lo đốn củi Vợ bồng con thơ Đời đắp đổi, sống nhờ… đạm bạc Trong cảnh nghèo mộc mạc muối dưa Thức khuya dậy sớm đỏng đưa Ngày lo đốn củi nắng mưa rã ròng Củi thành bó gánh gồng ra chợ Đổi lấy Cơm hụ hợ tháng ngày Hội mây Rồng chọn Anh tài Anh Chàng đốn củi lên đài phô trương Nhờ sức lực cang cường chiến đấu Hạ hết đài tai thấu đến Quan Công danh từ đó mở màng Làm Cận vệ tướng ngồi ngang Quan Thầy Sự sung sướng quên ngày khổ cực Bỏ Vợ Con rộn rực duyên tình Vợ Con van khóc không nhìn Con thơ khóc Mẹ đậm tình lệ rơi! Người Vợ trẻ lệ mờ đôi má Bồng Con thơ từ giã phu quân Trở về thôn dã núi rừng Nàng lâm bịnh nặng hồn lưng cuộc đời… Chàng đốn củi hiện giờ Cận tướng Ỷ có danh ngang bướng hiếp dân Nịnh Vợ Quan lớn ổn thân Bạc dư vàng ký chẳng cần sắc son Thấy Cô Gái là con Chúa Phủ Duyên mặn mà ấp ủ nụ trinh Anh Chàng đốn củi lén nhìn Ngày mơ đêm tưởng, tim in hình nàng Cậy mai mối bạc vàng dạm hỏi Tung bạc vàng… bảo bối kết hôn Khắp nơi vang dậy tiếng đồn Con Quan Chúa Phủ kết hôn Cận thần… Đây câu chuyện làm thân Con Gái Nàng tiểu thơ thứ bảy của Quan Tuổi vừa ướm nhụy xuân sang Phải lòng yêu Cậu Trai làng nghèo thưa Đã yêu nhau Trai vừa Gái lứa Cuộc tình duyên hai đứa âm thầm Bỗng tin như sét nát tâm Bị Quan Chúa Phủ… giam cầm Cậu kia… Nàng Con Gái đầm đìa lệ đổ Kế Bà mai dụ dỗ lấy chồng Chúa Phủ Quan quyết nhứt lòng Ép nàng Con Gái ngược dòng …nợ duyên Tiếp câu chuyện… đảo điên sanh chúng Hai Cha con thao túng gió mưa Anh Chàng đốn củi khi xưa Nay là Cận tướng chẳng chừa một ai Thêm vi cánh ra tài phá lệ Chúa Phủ quan ỷ Rể làm to Tiền gian bạc lận đếm no Thuế cao phạt vạ khổ cho Dân nghèo Mở tửu điếm trổ lèo trụy lạc Nuôi điếm đàng bài bạc suốt thâu Cha Con một huyện cầm đầu Lương Dân lê thán lo âu đêm ngày… Thấy Gái đẹp thẳng tay bứt ép Hối lộ Quan khỏi phép khỏi thưa Sẵn quyền hạn tạo gió mưa Một hôm chàng lại đỏng đưa một Nàng Tuôn tất cả bạc vàng tội ác Cung phụng cho canh bạc của nàng Hất hủi Con Vợ lầu vàng Con Quan Chúa Phủ có mang kề ngày Tánh mê gái đổi thay tâm ác Đem thuốc độc giết thác Vợ mình Hai câu chuyện của cuộc tình Trời cao có mắt kiểm nhìn Thế Gian Cho lâm bịnh nguy nàn cơ cực Anh Chàng kia hồn rức xác lìa Sang qua Thế Giới bên kia Diêm Vương phân xử đầm đìa lệ rơi! Luân Hồi chuyển muôn dời… kiếp kiếp Xin kể câu chuyện tiếp… đầu thai Cuộc đời mưa gió nào phai Đứa Con thuở nhỏ hôm nay lại giàu Không Cha Mẹ không bào huynh đệ Nhờ Tâm hiền nay rể Đại gia Vợ chồng hòa thuận đậm đà Đại gia lâm bịnh thác qua cuộc đời Cậu bé kia số Trời đã định Sống hiền lương cung kỉnh Thánh Thần Chữ rằng trữ phước được phần Vợ chồng lần lần tu tập ngày qua Bởi cây đắng sanh ra trái ngọt Cha dữ hung Con mót Đức lành Nghiệp vay Nghiệp trả sẵn dành Có Con Chó Cái quẩn quanh trong nhà Đêm giữ của sáng quà Cơm nguội Ngày đi săn bờ bụi tìm mồi Lại thêm bụng chửa khó ngồi Dần dà ngày lại tháng trôi bể bầu Nhìn bầy Con lệ sầu chan chứa Không có Cha lệ ứa đầy vơi Thời gian ngày tháng không chờ Chó Già mỏi mệt mắt mờ răng long… Con Chó đó trả công, trả nợ Trước gây khổ nhiều Vợ nhiều Con Kiếp trước tội chứa bằng Non Đầu thai kiếp Chó nhà Con của mình Kiếp Chó Cái được nhìn thấy Nghiệp Quyết phen này mau kiếp lo tu… Một hôm hồn mộng ngao du Gặp Phật thuyết Pháp Tâm ưu dạ hiền Nay Ta đến mi vừa hết Nghiệp Hãy trở về cho kiệp xử phân Đặng kiệp mà trả nợ Trần Nhãn tiền nhanh lắm chẳng cần kiếp sau Con Chó Cái lệ trào lã chã Nghiệp ta tạo thì dạ ôm rinh Ý cầu Đức Phật rộng tình Phật kiểm hiểu nhìn rằng: khá ráng tu Chó lạy Phật, Chó tru thảm thiết… Liếm chân Con luyến tiếc nỗi tình Mong Con tha thứ tội mình Cúi xin lạy Phật quang minh chứng lòng Phật rằng tội Con hòng giải cứu Này, là Con, là chủ, biết không! Lời Phật thốt nghĩa đã thông Cuộc đời Chó Cái thẳng dòng Diêm Vương Nhãn tiền đó rất thường hiện tại Luật trả vay không phải đâu xa Đây là câu chuyện Chó Già Còn bao hiện Vật kể ra kinh hồn Có những Vật hiện tồn Căn tại Hoặc đôi khi Nội Ngoại không chừng Nếu ai Tâm ác không dừng Luân Hồi luôn chuyển không ngừng niên thu Tu là sửa có tu được thưởng Chỉ có tu mới hưởng lạc an Nhãn tiền luân chuyển Thế gian Có khi mới chết được hoàn Súc sinh Niệm Nam Mô Tâm in Lục Tự Hiện thế Trần cuộc thử chấm thi Từ Bi xin nhắc cố trì Soi Tâm sửa Tánh Chữ Y mình tròn Ráng đừng để hao mòn Đức hạnh Hãy tấn tu tấn mạnh tấn hành Ráng Tâm Phật thiện trữ dành Trăm năm Hồn tại… mỏng manh Ta bà Vàng đổi Phật lắm mà người tiếc Hiểu Phật rồi chẳng thiết vàng thau Tâm thuần đức hạnh dồi trau Câu Kinh Sáu Chữ trước sau vãn hồi Tiền Đức đổi mồ hôi mới có Tiền tham gian ác ló lộ ra Nếu ai bỏ ác bỏ tà Ở ăn hiền thiện chắc là kiếp Tu Tu không phải ngồi thu Đức cúng Càng không phải thao túng Chùa vàng Bạc gian đúc lấy chuông gian Thế Gian giả giả hiện đang hạ kỳ Giàu mà khá bởi vì kiếp trước Phúc Đức nhiều nay được hiển vinh Nay mà nếu biết niệm Kinh Trì chay Tâm hạnh dọn mình Giác Tha Khi chuyển kiếp khổ ta không vướng Dư công phu Phật thưởng Niết Bàn Đó là hiền hạnh giàu sang Có kẻ giàu ác Tâm gian hại Người Giàu ác đó bạc dư vô kể Ác càng nhiều bạc để càng đầy Hạnh thiện không có kiếp này Mưu gian kế độc để gây làm giàu Cuối cùng sẽ Nghiệp cao bằng Núi Tội bằng Non khi đuối hơi tàn Luân Hồi sẽ chuyển kiếp sang Diêm Vương luận án lệ tràn bờ mi! Kiếp này chẳng kiệp ghi hiền hạnh Chầy kiếp sau đâu rảnh làm Người Tại sao tiền của bạc dư? Thường yêu bố thí cho người cùng mo! Là vàng bạc gửi kho Phúc Đức Trữ kiếp sau mặc sức mà Tu Luân Hồi biến chuyển muôn thu Muốn tránh cảnh đó chỉ Tu …thái hòa Giàu làm ác thiệt là ngược đãi Lại được giàu của cải giàu thêm Trừ khi trăng khuất màn đêm Xác Hồn ngơi nghỉ đi tìm Diêm Vương Còn giàu Phúc Đức nương tu thiện Phật dành cho nhiều chuyện khổ sầu Tại sao câu chuyện lộn đầu? Câu chuyện giải thích khó âu …Diệu Huyền!1 like
-
Những ngày lang thang xứ người. Trời xanh mây xám! Cầu không phải Thệ Húc, đền cũng chẳng phải Ngọc Sơn. Nước Thánh. Cửa hậu Cửa chính Thuyền Trời xanh mây xám Không dám lại gần Trên không bến 30-4 -2011. Lang thang một mình ở xứ lắm mỏ nhiều dầu. Họ thế nào? Họ giầu ư. Không! Đến đi sẽ thấy. Họ cũng đang mặc áo choàng đây thôi. Những ngày Tháng Tư lang thang một mình ở Bandar Seri Begawan - Brunei Darussalam. Nhớ nhà da diết! BĐG1 like
-
Quán vắng!
thaochau liked a post in a topic by Thiên Sứ
'Người Việt đặc biệt quan tâm đến giáo dục' Thứ tư, 6/4/2011, 21:26 GMT+7 Thứ trưởng Thương mại Mỹ (chuyên trách thương mại quốc tế), Francisco Sanchez giải thích lý do lần đầu tiên dẫn đầu chuyến công du về giáo dục đến Việt Nam vì người Việt chú trọng đến giáo dục, các phụ huynh có sự đầu tư lớn cho con em học hành. 'Trở thành Tổng lãnh sự Mỹ là một đặc ân' / Người gốc Việt làm tổng lãnh sự Mỹ ở TP HCM Thứ trưởng Thương mại Mỹ Francisco Sanchez gặp gỡ báo chí TP HCM chiều 6/4. Ảnh: Vũ Lê. Tại buổi gặp gỡ báo chí TP HCM chiều 6/4, nhân dịp khai mạc Hội chợ giáo dục với 56 trường đại học và cao đẳng Mỹ, Thứ trưởng Bộ Thương mại Mỹ, cho hay: "Người Việt đặc biệt quan tâm đến giáo dục. Thông qua hội chợ, ông hy vọng sẽ có nhiều sinh viên Việt Nam sang Mỹ học tập và ngược lại". Ông tiết lộ, ngành giáo dục Mỹ đã thu hút nhiều sinh viên từ khắp nơi trên thế giới đến đây để học tập, đóng góp khoảng 20 tỷ USD cho nền kinh tế nước này. Hội chợ giáo dục Mỹ hút khách TP HCM Đây là lần đầu tiên Bộ Thương mại Mỹ dẫn đầu chuyến công du về giáo dục với các nước trên thế giới. Thứ trưởng Thương mại Mỹ Francisco Sanchez là trưởng phái đoàn này. Ông Sanchez cho biết, trong năm 2010, thương mại hai chiều giữa Mỹ và Việt Nam đạt gần 19 tỷ USD, tăng hơn 20% kể từ năm 2009. Ông nhận xét, với tốc độ tăng trưởng hiện nay, Việt Nam đang thể hiện là nền kinh tế năng động và phát triển nhanh. "Tôi kỳ vọng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Mỹ sẽ tăng gấp đôi trong năm 2011", ông Sanchez nhấn mạnh. Ông Sanchez cũng cho hay, theo đánh giá của các doanh nghiệp Mỹ, họ nhìn thấy rất nhiều cơ hội ở Việt Nam. Họ cũng đánh giá rằng, trong vòng 16 năm qua, môi trường kinh doanh tại Việt Nam đã thay đổi tích cực và thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài. "Các công ty Mỹ ở nhiều lĩnh vực: giao thông vận tải, viễn thông, y tế và đặc biệt là giáo dục sẽ có rất nhiều cơ hội hỗ trợ cho sự phát triển của Việt Nam", ông nhận xét. Ngoài ra, Thứ trưởng Sanchez cũng khuyến khích các công ty Việt Nam tham gia vào các cuộc họp cấp bộ trưởng của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) về doanh nghiệp vừa và nhỏ tổ chức tại Big Sky, Montana từ ngày 13 đến ngày 21/5. Vũ Lê ======================= Ông Sânchezã có một nhận xét chính xác: "Người Việt rất quan tâm đến giáo dục". Trong mọi hoàn cảnh, gần như tuyệt đại đa số những gia đình Việt Nam đều cố gắng cho con em minh học được đến cấp cao nhất có thể. Không phải bây giờ mà từ ngàn xưa....Nền giáo dục Việt đã có dấu ấn trong truyền thuyết từ thời Hùng Vương thứ III. Trong đó có hai anh em đi học và cùng yêu con gái của thầy. Câu chuyện tình ngang trái đó đã làm nên sự tích trầu cau, giải thích một phong tục phổ biến một thời bao trùm miền nam sông Dương Tử và vẫn còn dấu ấn ngày nay ở Việt Nam và Đài Loan - có vĩ tuyến ngang với Động Đình Hồ, vốn là biên giới phía Bắc của nước Văn Lang xưa - cội nguồn của Việt sử 5000 năm văn hiến. Không biết ông có bao giờ nghĩ đến một "Triết lý giáo dục Việt Nam" thể hiện ở hiện tượng mà ông đã nhận xét:"Người Việt rất quan tâm đến giáo dục"?1 like -
Nếu máy móc này thì có lẻ nó là máy dởm hoặc giao hàng đồ seconhand.1 like
-
2012 mạng Hỏa bị mẹ mạng Thủy khắc, xấu nhất trong tương quan mẹ con, theo sách Việt nhé, đừng hỏi tôi là tại sao Hỏa Thủy lung tung. Nếu sinh 2012 thì chỉ được sinh gái, sau đó 2015 sinh trai bù lại. Chỉ có 2015 là tốt nhất để sinh con út, quyết đinh cuộc sống gia đình về sau. Còn về Phong Thủy phải xem tận nơi hoặc có hình ảnh từ google, ảnh chụp..., mô tả chung chung thì vô chừng lắm, không tư vấn được bạn à! Thân mến,1 like
-
Nếu xem theo cung phi thì 87 -88 là tốn chấn được phước đức là rất tốt chứ bạn, sao lại tuyệt mệnh được?1 like
-
Tuổi vợ chồng hợp nhau, chồng hơi bị cưng vợ,con đầu lòng không hợp tuổi, nhưng là con gái nên không sao cả. Nên sinh con út, ưu tiên con trai, năm 2013 Quý Tỵ thì rất tốt, sinh trong 6 tháng đầu năm thì hợp mùa hơn. Thân mến.1 like
-
1 like
-
Con sinh ra hợp tuổi mẹ, mạng khắc cha nhưng khắc này tốt, cha sẽ kiếm tiền tốt hơn. Nên sinh con út năm Quý Tỵ 2013 hoặc 2017 Đinh Dậu. Thân mến.1 like
-
Lật mở bí ẩn hầm mộ người Aztec Những mẫu vật mới được khai quật này hé lộ thêm những chi tiết thú vị về cuộc sống của nền văn minh một thời huy hoàng. Các nhà khảo cổ học đã khai quật thêm được hàng nghìn mẫu vật về nền văn minh Aztec đã biến mất cách đây vài trăm năm. Đây sẽ là những căn cứ quan trọng giúp các nhà khoa học giải mã được lí do về những điều còn là bí ẩn của nền văn mình rực rỡ này. Trước đó các cuộc khai quật trong những kim tự tháp thần thánh đã vén màn bí mật về một chế độ với những nghi lễ đẫm máu trong đó các loài vật, phụ nữ và trẻ em trở thành vật hiến tế. Các nhà khảo cổ học đã sử dụng các loại tia laser định hướng để có thể dựng lại một không gian 3 chiều về ngôi mộ này. Kết quả là họ đã khám phá ra được rất nhiều hiện vật được chôn cùng ngôi mộ. Vào tháng 5, một nhóm gồm 30 chuyên viên kĩ thuật và hai cần trục đã mất đến 15 tiếng đồng hồ để di chuyển tảng đá nặng 12 tấn che lấp tượng Nữ thần đất mẹ Tlaltecuhtli nhưng đáng tiếc nó đã bị vỡ thành 4 mảng. Một quá trình phục hồi kéo dài 2 năm rưỡi đã được tiến hành cho thấy dấu vết của hoàng thổ ban đầu, các loại chất nhuộm có màu đỏ, xanh, trắng và đen là của khoáng andexit Bộ xương được trưng bày tại bảo tàng của loài động vật nổi tiếng có tên gọi Aristo-Canine Những chiếc chuông vàng nhỏ xíu Nhóm các nhà khảo cổ học trong đó có Ángel González, đã phục hồi khoảng 10.000 mẫu vật khác nhau để giải mã những bí mật về nền văn minh Aztec với cả thế giới. Việc tìm kiếm một ngôi mộ hoàng gia đã dẫn họ đến gần với Templo Mayor, một phần tàn tích cổ Tenochtitlan nằm ở trung tâm thủ đô Mexico. Những ánh sảng đỏ, trắng, xanh thắp sáng khu di tích Templo Mayor vào ban đêm. Kết quả khai quật chỉ ra rằng nó đã trải qua 13 thời kì xây dựng khác nhau từ năm 1375 đến 1519 trong đó có những cầu thang đôi của kim tự tháp. (còn tiếp) Những mẫu vật khai quật được vô cùng phong phú trong đó có những cây san hô, một chiếc mặt nạ nhỏ, 8.500 mẫu xương động vật, bình đựng các loại hạt, một vương trượng và tượng điêu khắc thần lửa. Chiếc mặt nạ nhỏ được khai quật Người ta còn tìm thấy một vật trang trí bằng vàng với màu sắc còn nguyên vẹn Họ cũng tìm thấy chuỗi vòng cổ được kết bằng những loạt hạt với nhiều hình dáng, kích thước và màu sắc khác nhau Một viên đá lửa và một con dao cũng được tìm thấy Một mảnh ghép còn thiếu nằm đúng phần chính giữa của bức tượng Nữ thần đất mẹ không bao giờ được tìm thấy Hình ảnh của thần mặt trăng Coyolxauhqui ở dưới chân của ngôi đền Templo Mayor. Bước điêu khắc đá này được khai quật năm 1987 nhớ lại truyền thuyết về vụ mưu sát bởi chính người anh của mình – thần bảo trợ của người Aztec - Huitzilopochtli. Một vương trượng, những quả chuông nhỏ và một vỏ quả bầu đựng đầy những viên thuốc. Bên cạnh đó là một con dao bằng đá đại diện cho thần Techalotl. Những quả chuông nhỏ bằng vàng – biểu tượng của sự cao thượng cũng được tìm thấy và nó là một trong những vật trang trí trên quần áo của giới quý tộc Một bức tượng đá của thần lửa Xiuhtecuhtli (Turquoise Lord) nguồn: http://hcm.24h.com.vn1 like
-
Tình cờ biết được hôm nay là ngày sinh nhật của sư phụ qua facebook. Con kính chúc sư phụ mọi điều tốt lành nhất! Chúc sư phụ sống lâu muôn tuổi!1 like
-
1 like
-
Vừa qua tôi mới biết tới lịch vạn niên tính tới trước đây mấy trăm năm trên Intenet. Do vậy lúc trước vì chỉ có lịch vạn niên tính đến năm 1889 nên tôi đã phải tính 2 hạn lớm này ở cả 2 đại vận thì thấy đại vận khởi từ 7 tuổi mới phù hợp với thực tế của ví dụ này. Bây giờ tôi sẽ tìm lại trang web tính ngày giao tiết nếu sai tôi sẽ nghiên cứu lại. Thân chào.1 like
-
Giải Mã Tứ Trụ
ducnhan liked a post in a topic by VULONG
Sau đây là lời giải chi tiết tai họa này. Điểm hạn và điểm vượng vùng tâm : …….. Điểm hạn của cát / hung thần : -1……...-0,5…....0,5……...1……....-0,5………. -0,25: Bính,bính,đinh,quý,mậu, Hỏa…....Thổ…....Kim…...Thủy…....Mộ c...................bính. Mão,tị,mão,mão,tị,mão. #4,2…...3,0….....#8…...12,25…....9,5…… ….+0,25: Dần,mão,thân,thân,dần, ………………................................ ..........................thân,thìn,tuất,thìn ,tị. Các đại vận và thời gian của chúng: Quý Hợi.......Giáp Tý.......Ất Sửu........Bính Dần.......Đinh Mão ......2..............12.............22............ ...32.................42 5/1975.........5/85..........5/95............5/05.............5/15 Năm Canh Dần thuộc đại vận Bính Dần, tiểu vận Nhâm Thìn và Quý Tị. 1 - Tứ Trụ này có Thân vượng mà Thực Thương nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài Đinh tàng trong Tuất trụ tháng (vì Thực Thương nhiều thì Quan Sát coi như vô dụng còn Thực Thương nhiều thì không cần phải thêm). 2 - Trong Tứ Trụ có Mão trụ ngày hợp với Tuất trụ tháng không hóa. Vào đại vận Bính Dần lục hợp của Mão với Tuất hóa Hỏa cục nhưng không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. 3 - Dụng thần Đinh tử tuyệt ở lưu niên (Dần) nên có 1 đh (điểm hạn). 4 - Nhật can Quý vượng ở lưu niên nên có -1 đh. 5 - Quý trụ năm và Quý trụ ngày thất lệnh nhưng vượng ở lưu niên nên mỗi Can có 1 đh (do can động) và khắc Bính đại vận nên mỗi lực có 0,5 đh. Nhâm trụ tháng được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có -1 đh (do can động) và khắc Bính có 0,25 đh. Bính đại vận vượng ở lưu niên nên có -1 đh nhưng nó bị khắc bởi 2 Quý và 1 Nhâm chỉ còn lại -1.0,5.0,5.0,75 đh = -0,19 đh. Bính còn có 3 cát thần có -3.0,25 đh nhưng nó cũng bị giảm bởi 2 Quý và 1 Nhâm khắc còn lại -3.0,25.0,5.0,5.0,75 đh = -0,14 đh. Dần tuế vận mỗi chi có 2 hung thần có 2.0,25 đh. Thìn tiểu vận có 2 hung thần có 2.0,13 đh. 6 - Nước biển trụ tháng có Nhâm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên khắc gỗ tùng lưu niên có 0,25 đh. Lửa trong lò đại vận có Bính vượng ở lưu niên nên khắc gỗ tùng lưu niên có 1 đh. Tổng điểm hạn là 3,93. Số điểm này chứng tỏ đương số không thể chết ở tiểu vận Nhâm Thìn (trước ngày 3/11/2010). Ở tiểu vận Quý Tị (từ 3/11/2010) mặc dù không có 2.0,13 đh của 2 hung thần ở Thìn tiểu vận và mỗi can chi tiểu vận Quý Tị có 1 cát thần có -0,13 đh nhưng có thêm 2 đh do 2 Dần tuế vận hình và hại Tị tiểu vận (Dần đại vận hại Tị tiểu vận nên Tị tiểu vận không thể hại Dần lưu niên nên Dần lưu niên mới có thể hình và hại Tị tiểu vận - các điểm hình và hại được mô tả trên sơ đồ). Tổng điểm hạn là 5,41. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Qua ví dụ này cho ta thấy Thân vượng mà có nhiều Tỷ Kiếp nên vào vận Tài dễ có Tỷ Kiếp tranh đoạt tài với Thân. Tai họa dễ xẩy ra vào ngày Kỷ Mùi (5/11) vì nó thiên khắc địa xung với trụ năm Quý Sửu. Các nguyên nhân chủ yếu gây ra tai họa này bởi các điểm hạn của Thủy khắc Hỏa, Hình Hại và nạp âm. Trong đó chỉ có điểm hạn về Hình và Hại là dễ giải cứu nhất (như sống ẩn dật trong rừng sâu hay núi cao....không tiếp xúc với con người trong xã hội…) Nếu theo "Manh Phái" của những người mù mà Đoàn Viết Hoạt đề xướng thì chỉ cần trừ đi các điểm hạn có liên quan tới dụng thần và các can động thì tổng số điểm hạn ở tiểu vận Quý Tị chỉ là 4,5. Số điểm này không thể chấp nhận được bởi vì nó không thể gây ra tử vong. Nếu theo trường phái Tử Bình truyền thống thì hình như chỉ nói tới các can khắc nhau mà không thấy nói tới điểm hạn của các can động, vì vậy điểm hạn cao nhất cũng chỉ là 4,5. __________________1 like